Thứ Bảy, 31 tháng 7, 2021

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương, một thiên tài nhưng bất hạnh

 Nữ sĩ Hồ Xuân Hương,
một thiên tài nhưng bất hạnh

Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương
Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai..
Giấc mộng con của Tản Đà
Dân tộc Việt Nam luôn chiến đấu dành độc lập, tự do, mở đầu cuộc khởi nghiã của chị em Hai Bà Trưng (40-30 trước công Nguyên) và Bà Triệu (năm 248) để lại những chiến tích oai hùng. Những người không cầm gươm, đao xông pha nơi chiến trận, thì cầm bút đóng góp cho nền văn hoá dân tộc những nhà thơ nữ nổi tiếng như: Đoàn Thị Điểm dịch giả Chinh Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Ngọc Hân công Chúa với Ai tư vãn... Ngô Chi Lan Ỷ Lan Phu nhân, Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh. Nữ sĩ nổi tiếng một thời được gọi là Bà Chúa Thơ Nôm (1) Hồ Xuân Hương xuất hiện vào thế kỷ thứ 18. Giai đoạn đất nước chia đôi hai miền Nam Bắc. Trịnh - Nguyễn phân tranh gọi là Đàng trong Đàng ngoài, lấy sông Linh Giang làm biên giới từ những năm 1627 đến 1772.
Hồ xuân Hương sinh năm (1772-1822) (2) con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An. Theo một số tài liệu dẫn chứng: Hồ Sĩ Anh đời nhà Lê sinh bốn người con trai : Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Quyền, Hồ Phi Cơ, Hồ Phi Tích (1665-1734 đậu Hoàng giáp năm 1700). Hồ Thế Viên là ông Tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang Nguyễn, còn Hồ Phi Cơ là ông tổ bốn đời cuả Hồ phi Mai tức nữ sĩ Xuân Hương. Như vậy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương là anh em cùng họ ông tổ năm đời (3)
Hồ Xuân Hương và thân phận
Ông Hồ Phi Diễn thi đỗ Tống Sinh làm quan cuối thời đại vua Lê. Ông đã lập gia đình nhưng cưới thêm vợ thứ quê Hải Dương, sinh ra Xuân Hương. Lúc Xuân Hương 13 tuổi thân phụ mất, Xuân Hương rời làng Khán Xuân theo mẹ về làng Thọ Xương gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học một thời gian phải ở nhà giúp mẹ lo sinh sống gia đình. Xuân Hương tự học thêm, thông minh làm thơ hay, tiếng tăm lừng lẫy. Có Tổng Kình tên tự Nguyễn Công Hoà tục gọi là Tổng Cóc ở làng Tứ Xã (nay thuộc huyện Phong châu - Vĩnh Phú). Cai Tổng mến tài của Xuân Hương, nhờ người mai mối cưới Xuân Hương làm thứ thiếp. Theo tục truyền chiều 30 tết, Tổng Cóc đem biếu quà tết cụ Đồ Xứ bị Hồ Xuân Hương ra câu đố.
“Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới“
Sáng hôm sau, Tổng Cóc đến làm xong thủ tục xông nhà đọc lại câu đối
“Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào“
Có thể Xuân Hương mến mộ chàng trai nầy có khiếu văn chương? nên nhận lời kết hôn với Tổng Cóc. Theo tài liệu của Giáo sư Lê trí Viễn (4), Tổng Cóc không phải là một anh trọc phú, mà là một nho sĩ từng có phen lều chõng như ai và trong sự gặp gỡ Xuân Hương có chuyện chữ nghiã chứ chẳng phải chỉ có đồng tiền...“ Tổng Cóc yêu thương Xuân Hương và từng bảo nàng làm thơ viết vào gỗ để người ta sơn then giữ cho bền, hiện nay tại nhà thờ của ông Kiều Phú, thôn Đại Đình, xã Sơn Dương huyện Phong Châu, Vĩnh Phú còn tấm ván mít ghi những nét thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Bút tích còn 4 câu thơ:
Thảo lai băng ngọc kính
Xuân tận hóa công hương
Độc bằng đan quế thượng
Hào phóng bích hoa hương
Tạm dịch:
Nói đến tấm gương bằng ngọc
Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân
Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ
Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm (5)
Tình yêu giữa hai người không được bao lâu trong hoàn cảnh gia đình mà người chồng yếu đuối, Xuân Hương bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng.. không tránh được va chạm hằng ngày trong xã hội phong kiến "Đau đớn thay phận đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu“. Xuân Hương bị gia đình bên chồng đè nén với thân phận làm lẽ. Nên đã phản kháng quyết bỏ nhà ra đi. Thân phận của Xuân Hương cũng như hoàn cảnh cua kiếp đàn bà làm lẽ mọn:
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong
Ca dao cũng có bài:
Tối tối chị giữ mất buồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn…
Từ giã gia đình Tổng Cóc đi tìm phương trời thơ mộng tự do hơn, vốn người yêu thơ văn lãng mạn muốn vượt qua bức tường nho giáo khắc nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình duyên ngang trái. Xuân Hương lấy ông phủ Vĩnh Tường, tình yêu được trân quý hơn, nên Xuân Hương làm bài thơ giã từ “khóc Tổng Cóc“.
Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
Bài "khóc Tổng Cóc“ gây nhiều dư luận trong văn học, những người ở Làng Mương, làng Giáp nói bài thơ đó là khóc cho mối tình của Xuân Hương, không phải khóc người chồng đã mất, bởi vì Xuân Hương từng khổ đau với hoàn cảnh làm vợ lẽ trong gia đình Tổng Cóc nên dùng những từ ngữ chỉ họ hàng nhà Tổng Cóc nào là nòng nọc đứt đuôi..để giễu lúc Tổng Cóc còn sống, Xuân Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh Tường cũng trong cảnh lẽ mọn không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như Hoạn thư:
Rằng tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai
Kiều của Nguyễn Du
Thời gian chung sống tri ngộ ông phủ Vĩnh Tường (ở Thổ Tang, Vĩnh Phú bây giờ) tuy làm vợ lẽ nhưng ông Phủ coi nàng là bạn văn chương tình duyên không đến nỗi bẽ bàng. Nhưng tình nghiã vợ chồng chỉ trong 27 tháng ông Phủ mất, Xuân Hương đã khóc chồng. Cuộc đời Xuân Hương về tình duyên bất hạnh.
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Thiếp bén duyên nàng có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất;
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!
Cuộc đời Xuân Hương có thể “bảy nổi ba chìm” qua hai đời chồng hy sinh cả đời chịu thân phận làm lẽ mọn, nỗi khổ đau cũng là niềm dang dở cái mối duyên thiên, duyên trời nào có phải là hậu qủa oan nghiệt của con nguời như "chữ tài liền với chữ tai một vần“!
Thơ và bạn đời
Tập thơ Lưu Hương Ký chú dẫn: Hoan Trung Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương nữ sĩ sử tập Lưu Hương Ký viết xong năm Giáp Tuất (1814) mãi đến năm 1964 được phát hiện (?). Tên di cảo có nghiã là ghi mùi hương thơm của ngọc lưu, chữ Lưu này nhắc nơi Xuân Hương sinh ở huyện Quỳnh Lưu. Trong tập thơ có 30 đầu đề; 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm, phần xướng hoạ có lẫn thơ của văn nhân thời bấy giờ để lại số đề tài khúc chiết, nồng nàn yêu đương mong đợi. Ở Cổ Nguyệt Đường do Xuân Hương dựng lên ở phường Khán Xuân gần Hồ Tây khu vực vườn Bách Thảo, trường Bưởi đường Cổ Ngư làng Yên Phụ. Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương rất nhiều bài gợi cảm, lãng mạn với những văn nhân thi sĩ như (trích dẫn mỗi người một tựa đề):
Thi hào Nguyễn Du (1765-1820) bài: Cảm cựu Kiêm Trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu:
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không?
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sưong đeo mái
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng treo…
Xuân Hương với Tốn Phong hai bài: Ngụ ý đến Tốn Phong Thi“ v.v...
Đường hoa dìu dặt bước đông phong
Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công
Lạ mặt dám quen, cùng gió nước
Nặng lòng nên nhẹ đến non sông
Da trời nắng nhuộm tươi màu biếc
Phòng gấm trăng in dải thức hồng
Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ!
Trước trăm năm hẳn nợ chi không?
Xuân Hương với Hiệp trấn Sơn Nam Thượng  họ Trần Ngọc Quán…
Vác cắm đàn tao một ngọn cờ
Ấy người thân đấy, phải hay chưa?
Lắc đầy phong nguyệt lưng bầu rượu
Giắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
Đình nguyệt góp người chung đỉnh lại
Trời Hoan mỏ mặt nước non xưa
Bấy nay tài tử bao nhiêu tá?
Thèo đảnh khen ai khéo đạt cho!
Xuân Hương với Mai Sơn Phủ "Hoạ thơ Sơn Phủ“ bài thơ bằng Hán văn gởi bạn tỏ lòng quyến luyến nhớ thương. khoảng thời gian (1799- 1801)
Này đoạn chung tình biết với nhau
Tiễn đưa ba bước cũng nên câu
Trên tay khép mở tanh chiều nhạn,
Trước mặt đi về gấp bóng câu
Nước mắt trên hoa là lối cũ,
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu
Vắng nhau mới biết tình nhau lắm
Này bạn chung tình biết với nhau..
Xướng họa với Chiêu Hổ tức Phạm đình Hổ (1768-1839) đối thủ với Hồ Xuân Hương
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay..
Xuân Hương trải qua nhiều kinh nghiệm nhân sinh, nhất là về ái tình để rồi „quang cảnh trong đời chiếc gối mơ!” đời sống phóng túng của Xuân Hương để nhận lấy lời phê bình “tự thán“
Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn
Một đời riêng mấy tiếng chua cay
Sau khi viết xong tập Lưu Hương Ký (1814), bảy năm sau (1822) Xuân Hương mất, nhưng mộ bà được táng ở đâu? ngày nay vẫn chưa tìm được tung tích, chắc chắn cũng ở quanh Hà Nội ? năm 1842 Tùng Thiện Vương ra thăm cảnh Hồ Tây có làm bài thơ viếng mộ Xuân Hương „Long Biên trúc chi từ“ bản dịch ra Việt ngữ của học giả Hoàng Xuân Hãn
Đây hồ rực rỡ hoa sen
Sai người xuống hái để lên cúng đàn
Chớ trèo qua mộ Xuân Hương
Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng
Sen tàn, phấn rữa mồ hoang
Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh
U hồn say tít làm thinh
Gío xuân mấy độ thế tình không hay!!
Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến “nhất nam viết tử thập nữ viết vô”.  Đàn bà ít được đi học ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài 
 Hồ Xuân Hương thông minh, có tài, khá tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là “lẳng lơ“! Nhưng hãy đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi đi ngang qua miếu Sầm Nghi Đống, bị vua Quang Trung giết ở Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đã đề mấy câu thơ : 
Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ? 
Dưới xã hội thời phong kiến người ta quan niệm „trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên chỉ một chồng“ Xã hội bất công ! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo). Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng.. Nhưng Xuân Hương đã muốn phá cái phong tục thời đó. Nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người goá phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay :
Phó cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai ?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già . 
Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế qua tập Lưu Hương Ký. Biệt tài thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điễn tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu được nghiã đen và nghiã bóng. Đọc thơ Hồ Xuân Hương với tâm hồn nghệ sĩ thực sự phát hiện được những khía cạnh miêu tả rất thẩm mỹ.
Đọc bài „Ngủ quên„ như xem bức tranh trưa hè người thiếu nữ đang ngủ, độc giả có thể liên tưởng đến bức tượng khỏa thân với những đường nét tuyệt vời sống động… cảm thấy rung động nghệ thuật trước hình ảnh đẹp lành mạnh. 
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.
Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục ai thấy hoa đẹp không muốn nhìn? Từ xưa và nay nhiều phê bình bàn cãi tranh luận, thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục ..Những người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng xem những sáng tác cuả Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác âm điệu kỳ tài.. Nhóm khác phê bình thơ mang chất tục sinh lý đè nén „Libido“ ..Bài thơ đầu đề không được thanh “Dương vật“ Hồ Xuân Hương tả rất hay
Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen
Để có thể thẩm định thế đứng của nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng?.. Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu tại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh .. những tác phẩm đó thể hiện linh động văn hóa, sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau, Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (dương vật) tình dục được nói đến trong sinh hoạt của con người. Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian.
Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
(Ca dao)
Đời sống qua thi ca bình dân, diễn tả trào lộng, vui tươi vốn có trong thực tế không nói xa gần, cái điếu cày hút thuốc người bình dân .
Lòng em cay đắng quanh năm
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê
(ca dao)
Nổi tiếng như Truyện Kiều diễn tả lại chuyện tình dục trong khuê phòng,
Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ
hoặc
Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Khi khóe hạnh khi nét ngài
Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
Điều là nghề nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nếp mới là người soi
Hay Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh
Đương cơn nắng cực đói lòng thay
Thết đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay
Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh họat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái „tục“ trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ sau để so sánh bài đèo Ngang và đèo Ba Đội cuả hai nữ sĩ
Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(Huyện Thanh Quan)
Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy hay nhẹ nhàng trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán
Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc
Nhật văn cô điểu khiếu gia gia
Nghiã là
Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia
Hồ Xuân Hương vịnh đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân đơn sơ
Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm lum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đià lá liễu giọt sương rơi
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mõi gối chồn chân cũng muốn trèo
Bài thơ nầy đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, „một đèo, một đèo lại một đèo“  từ màu sắc “cửa son đỏ lóet; tùm lum, xanh rì; lún phún; lắt lẻo“.. Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động thành hợp tấu kỳ thú, từ âm thanh, màu sắc, nếu đi qua đèo thi độc giả chia sẻ với thi nhân  Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc sắc, thông thường ít nghe diệp âm „hõm hòm hom, toen hoẻn ..„ trong bài vịnh hang Cắc Cớ
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hõm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt, xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Ngày nay nhờ phương tiện lưu thông thuận lợi, nếu ghé hang Thánh Hoá ở làng Thuỵ Khê, huyện Sài Sơn tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) hang ở hòn núi có Chùa Thầy. Hàng năm có hội chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết chùa Thầy. Đến đó sẽ nhớ ngay nữ sĩ Xuân Hương ! là một thiên tài cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động cảnh trời mây non nước..vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên phải gọi là trèo các bậc thì đúng hơn là đi, chen chân trong động hương khói pha mờ mù sương.
Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm…
Bài „đánh đu“ bức tranh quê sống động hơn, diễn tả cảnh vui xuân náo nhiệt
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá ?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không  !
Có thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập
Bốn cột lang nha ngắm để trồng
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng châu ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Nhổ cột đem về để lỗ không .
Ngày nay ở miền Bắc hội xuân vẫn còn giữ trò chơi đánh đu, thường những trai gái thích đánh đu như cuộc thi lòng dũng cảm. Khi chàng trai nhấn đu, cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, chờ đón độ cao bay bổng. Khi độ cao đã giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón..tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài ..gối hạc, lưng ong, ngưả ngửa lòng, phất phới, song song. Xuân Hương đã khéo tài tình dùng điệp khúc
Qua ca dao Việt nam cũng có nhiều bài truyền tụng rất là „tục“ như cái vịnh cái quạt
Rành rành ba góc rành rành
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì..
Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan được bồi bằng giấy với hình dáng xòe ra để quạt cho mát, bất cứ ở đâu, khi mưa có thể che đầu, khi xếp lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa.
Một lỗ sâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa …
Ngành tiểu công nghệ dệt vải thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm ươm tơ làm luạ tự dệt may sắm áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải với dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc con suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Xuân Hương tả đêm cô gái dệt vải; mà phẩm chất vải tốt không phai màu phải ngâm lâu
Thắp đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu
 Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17 nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội; Phật giáo vào thời Xuân Hương suy thoái, thời nào cũng có người núp dưới chiếc áo cà sa.. Xuân Hương đã nghi ngờ về chùa Quán Sứ trong cảnh vắng teo
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình, tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo
Hay qua bài
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà
Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau .. trong đó khối tình của Xuân Hương nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung động sâu thẳm cõi lòng người
Gan nghiã giãi ra cùng nhật nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
(Đá ông chồng, đá bà chồng)
hoặc qua bài tình tự
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con.
Xuân Hương vịnh bánh trôi nước quen thuộc của người bình dân. Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm lận đận? nhưng tấm lòng được tôn trọng
Thân em trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
            Hồ Xuân Hương có phong cách riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và trích giải hết được..Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam…
Chú thích:
1/ Chữ Nôm có vai trò nổi bật trong sáng tác văn chương. Mặc dù văn nhân, thi sĩ mọi thời đều đã dùng chữ Hán làm thơ, viết truyện, nhưng chỉ có với chữ Nôm, người Việt mới tạo nên những tác phẩm bất hủ. Tập thơ Nôm có niên đại sớm nhất còn lưu truyền là Quốc âm Thi tập của Nguyễn Trãi (1380 – 1420), sau đó là Bạch vân Am quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585).
Văn học Việt nam qua các thời đại, chữ Hán các tiền nhân viết những tập truyện ngắn và tiểu thuyết văn xuôi, còn với chữ Nôm gần như các cụ chỉ làm thơ. Sở trường và thành công bằng hai thể thơ giàu dân tộc tính này, vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX Văn học cổ điển Việt Nam có những tác phẩm xuất sắc khiến thế giới phải biết đến là Chinh phụ Ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748); Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du (1766 -1820). Chúng ta còn các tên tuổi sáng giá khác nữa từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX như: Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, đặc biệt thơ cuả Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương v.v. ..Chính nhờ ở những tác giả này, tiếng Việt hấp thụ hai nguồn văn tự là chữ Hán và văn tự văn hóa dân gian, chữ Nôm để trở thành một ngôn ngữ văn học sáng chói và giàu sức diễn đạt
2/ Được dẫn chứng trong Hồ Quỳnh Gia Phả  gia phả họ Hồ ở Quỳnh Lưu. Nhưng  tác giả Lê Xuân Sơn viết trong tập „ Hồ Xuân Hương thơ và đời viết “HXH con ông Hồ sĩ Danh (1706-1783) em cùng cha khác mẹ với Hồ Sĩ Đống (1738-1786) là một vị quan đầu triều thời chuá Trịnh ?
3/ Những kỳ Án trong việt sử, tác giả Trần Gia Phụng
4/ Hồ Xuân Hương thơ và cuộc đời,  trang 206, nhà xuất bản văn học.
5/ Theo phóng sự Hồ X Hương và Tổng Cóc ( Nguyễn Hữu Thanh)Tài liệu đọc thêm: Hồ Xuân Hương toàn tập của Gs Ngô lăng Vân; nghĩ về thơ HXH.cuả Gs Lê Trí Viẽn, Ng Đức Quỳnh…
Nguyễn Quý Đại
Theo https://doanthuan.wordpress.com/

Thơ Nôm Hồ Xuân Hương - Từ góc nhìn văn bản học

 Thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Từ góc nhìn văn bản học

“Những kết luận thu được do kết quả nghiên cứu văn bản nhiều khi đã lật nhào những lập luận thông minh nhất của các nhà nghiên cứu văn học” (Đ.X. Likhatsôp).
Quả có như vậy, bởi trong thực tiễn thì công tác nghiên cứu văn bản bao giờ cũng phải là tiền đề của công tác nghiên cứu văn học. Lấy ngay việc nghiên cứu văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương mà nói; nếu người nghiên cứu không đọc được chữ Nôm, không am tường lý thuyết văn bản học (textologie), thì làm sao có thể tuyển chọn được những bài thơ khả dĩ coi là thơ Nôm Hồ Xuân Hương, trong bộn bề những bản viết tay (manuscrit) hoặc những bản sao (facsimile) đang nằm tản mát trong kho sách Hán Nôm. Mà đâu chỉ giỏi chữ Nôm, chỉ nắm vững lý thuyết văn bản học là đủ làm nghề nghiên cứu thơ văn Hán-Nôm. Với một bài thơ Nôm Hồ Xuân Hương chẳng hạn, nếu không hiểu từ Việt cổ, không nắm vững điển cố văn học Hán, không có tri thức văn hóa-lịch sử dân tộc sâu rộng… thì làm sao có thể chú thích, chú giải chính xác. Mà đã không phiên âm đúng, không chú giải đúng thì nói gì đến việc bình giảng văn học đúng với cái hay cái đẹp của bài thơ…
         Gần đây, xuất hiện công trình Hồ Xuân Hương, con người – tư tưởng – tác phẩm của Hoàng Bích Ngọc (Nxb Văn hóa – Thông tin, H, 2003, 748 trang); được đánh giá “là công trình nghiên cứu đồ sộ công phu… trước Hoàng Bích Ngọc chưa ai làm được đầy đủ, nghiêm túc như thế” (Hồ Sĩ Giàng). Vậy người viết xin lấy ngay công trình hoành tráng này như một lệ chứng để tiện trao đổi về lĩnh vực văn bản học thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
        Trước hết, xin nói ngay, trong bài viết này người viết chỉ bàn về vấn đề văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương, mà không bàn về các vấn đề khác như thơ chữ Hán, tiểu sử, v.v… Trong công trình của mình, Hoàng Bích Ngọc có nêu các tài liệu trích dẫn để tuyển chọn thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương như sau:
 1- Hồ Xuân Hương thi tập. Nhà in Xuân Lan 1913 và 1914 (gọi tắt Xuân Lan 1913, Xuân Lan 1914).
        Theo đánh giá của Hoàng Bích Ngọc thì đây là những bản Quốc ngữ đầu tiên về thơ Hồ Xuân Hương và là tài liệu có độ “trung thực” cao nhất trong các bản thơ Nôm truyền tụng mà chúng ta có được (Sđd, tr.246). Sau đó, tác giả Hoàng Bích Ngọc còn cho rằng 3 tập Xuân Lan hiện còn trong Thư viện Khoa học trung ương là “một tài liệu có giá trị về văn bản học” (Sđd, tr.247).
        Lạ thật! Thơ Hồ Xuân Hương là thơ chữ Nôm, không rõ Hoàng Bích Ngọc căn cứ vào đâu mà đánh giá bản Quốc ngữ Xuân Lan là “tài liệu có độ trung thực cao nhất trong các bản Thơ Nôm truyền tụng mà chúng ta có được” và theo nguyên lý văn bản học nào mà coi là “một tài liệu có giá trị về văn bản học”.
2- Xuân Hương thi tập. Bản khắc ván năm 1921 (gọi tắt: Xuân Hương thi tập 1921, hoặc Khắc ván 1921). Hoàng Bích Ngọc cho biết bản này được ấn hành bởi Phúc Văn Đường. Ở Bản khắc ván 1921 có những bài trùng với Bản khắc ván 1914, nhưng chữ nghĩa chính xác hơn (có ý nghĩa và logic hơn), và cho biết nội dung có các bài sau: 1. Thơ hỏi nguyệt, 2. Thơ gửi cho ông Chiêu Hổ, 3. Thơ ông Chiêu Hổ họa lại…, tổng cộng 73 bài.
         Người đọc thấy tác giả công trình so sánh bản 1921 với bản 1914, lại có nhận xét này nọ, những tưởng tác giả hẳn phải đối chiếu tỉ mỉ giữa hai văn bản. Ai dè, thực tế “nói vậy mà không phải vậy”. Bức ảnh chụp bản Xuân Hương thi tập (Phúc Văn Đường tàng bản)  tr.249, không phải là bản 1921, tức Bản khắc năm Khải Định 6, mà là Bản khắc năm Canh Ngọ, Bảo Đại 6 (1930). Thực ra, cùng là ván gỗ của Phúc Văn Đường, nhưng Bản khắc năm Bảo Đại 6 (1930) với Bản khắc năm Khải Định 6 (1921) có số lượng và thứ tự các bài thơ không hoàn toàn như nhau. Bản khắc 1921 mở đầu là bài Thơ tự tình, rồi đến bài Đề nhị mĩ nhân đồ… Tổng cộng cả thơ Nôm Hồ Xuân Hương và thơ Nôm của các tác gia khác là 42 bài. Bản này hiện có ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, số ký hiệu: VNb 21a. Xin mời Hoàng Bích Ngọc đến tra cứu lại.
        Nếu chúng tôi không lầm, thì Hoàng Bích Ngọc chưa từng tiếp xúc trực tiếp với Bản khắc 1921, mà chỉ lấy theo tư liệu của GS. Nhan Bảo (Những phát hiện mới về Hồ Xuân Hương, NXB. KHXH, H, 2000). Khi photo, Hoàng Bích Ngọc đã che hoặc xóa chữ B ở dưới cột chữ Hán Xuân Hương thi tập, nhưng với con mắt nhà nghề thì vẫn thấy được đó là bản mà ông Nhan Bảo đem từ Pháp về, bởi ở Việt Nam hiện không có bản này. Lý do đơn giản nữa là chỉ cần nhìn tự dạng là thấy khác nhau hẳn. Hơn nữa bản của sách Nhan Bảo, lật tờ bìa trong có ghi rõ: Bảo Đại Canh Ngọ niên tân san. Còn bản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chữ “Xuân Hương thi tập” ở cột giữa, bên tả có cột chữ Phúc Văn Đường tàng bản, bên hữu có cột chữ Phụ: Danh gia ca vịnh, và trên cùng trang giấy có dòng chữ in ngang: Long phi Tân dậu Xuân tân san. Đó là những yếu tố văn bản mà người nghiên cứu văn bản học không thể bỏ qua khi xem xét một văn bản cụ thể.
 3- Quốc âm thi tuyển. Bản khắc ván năm 1914 (và 1909) (gọi tắt: Khắc ván 1914 và Khắc ván 1909).
      Theo giới thiệu của tác giả Hoàng Bích Ngọc thì bản này hiện có ở Thư viện Hán Nôm, bản khắc có kèm theo phiên âm ra chữ Quốc ngữ, gồm 39 bài. Hoàng Bích Ngọc còn cho biết ông Hoàng Xuân Hãn cũng có bản này, nhưng số trang ít hơn, gồm 27 bài… Sau khi miêu tả tờ bìa Bản khắc ván 1914, theo miêu tả của Hoàng Xuân Hãn, tác giả Hoàng Bích Ngọc kết luận: “Như vậy, trang đầu của cuốn in khắc ván mà Hoàng Xuân Hãn có, giống như trang đầu của Bản khắc ván 1914 có trong Thư viện Hán Nôm (bản chụp hình ở trên); nội dung 29 bài đầu cũng giống hệt nhau (và giống Bản khắc ván 1909), và số lượng bài của bản khắc ván mà Hoàng Xuân Hãn có ít hơn so với bản khắc ván trong Thư viện Hán Nôm là 10 bài (10 bài cuối)” (Sđd, tr.249).
        Đọc qua đoạn văn giới thiệu văn bản Bản khắc ván 1914 hiện đang được lưu trữ ở Thư viện Hán Nôm, cùng với những thông tin về nội dung văn bản như: có kèm theo phiên âm ra chữ Quốc ngữ gồm 39 bài, rồi cả bản chụp hình trang bìa,… người đọc nói chung chắc sẽ vô cùng tin tưởng vào sự nghiêm túc của quy trình khảo sát văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương của Hoàng Bích Ngọc. Tuy nhiên, với chúng tôi thì lại không khỏi có những nghi vấn cần trao đổi với tác giả. Trước hết, nếu đã biết Bản khắc ván 1909, thì tại sao tác giả không giới thiệu bản này mà lại giới thiệu một bản có niên đại muộn hơn – tức bản 1914. Xem bức ảnh chụp trang bìa Quốc âm thi tuyển thì cột bên trái ghi là Phụ: Danh gia ca vịnh, trong khi tác giả lại dẫn giải là Phụ: Danh gia thi ca (Thi ca nhà có tiếng). Như thế rõ ràng là hai bìa không khớp nhau. Đến số lượng bài, Hoàng Bích Ngọc cho biết bản của Thư viện Hán Nôm gồm 39 bài và có liệt kê cụ thể từ bài 1: Vịnh chơi chùa (Thực ra nguyên văn là Du cổ tự) cho đến bài 39: Người khất cái (Thực ra nguyên văn là Vịnh khất cái). Nhưng thực tế, bản của Thư viện Hán Nôm, mang số ký hiệu VNb 77, lại gồm 44 bài, tức là sau bài Vịnh khất cái, còn có 5 bài nữa chưa được Hoàng Bích Ngọc để mắt tới. Khảo cứu văn bản như vậy rõ ràng là thiếu cẩn trọng, và khó tránh khỏi người ta có thể quy kết tác giả chỉ là “ăn theo nói theo” chứ không sờ mó văn bản thực sự.
 4- Di cảo A. Landes 1893 (gọi tắt Landes 1893).
     Tác giả Hoàng Bích Ngọc căn cứ theo Hoàng Xuân Hãn trong phần phụ của bài viết Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long (Tập san Khoa học xã hội, Paris, số 10-11, tháng 12-1984) để giới thiệu nội dung các bài thơ Nôm Hồ Xuân Hương, mà theo Hoàng Xuân Hãn, là do Antony Landes, một người Pháp làm giám đốc Trường thông ngôn ở Sài Gòn, thuê chép vào năm 1892. Tác giả có dẫn lời bình giải, phân tích nội dung các bài thơ Nôm này của Hoàng Xuân Hãn, và liệt kê danh mục các bài thơ ấy, gồm tất cả 57 bài, được ông Hoàng Xuân Hãn gọi là “Di cảo Landes”.
        Chúng tôi thì không lạ gì cái tên Antony Landes (1850-1893), bởi đây chính là người đã dịch truyện thơ Nhị độ mai ra tiếng Pháp (Les pruniers refleuris; poème Tonkinois traduit par Antony Landes, Saigon, 1883). A. Landes cũng là người đã sưu tầm, biên soạn bằng tiếng Pháp nhiều truyện dân gian Việt Nam, chẳng hạn:
– Contes et légendes annamites (NXB. Thuộc địa, Saigon, 1886), trong đó có truyện Tấm Cám sưu tầm ở Nghệ An.
– Contes Tjames (Truyện cổ tích Chăm) in tại Saigon, 1887…
        Nhưng việc Landes thuê chép thơ Nôm Hồ Xuân Hương thì chưa thấy có tài liệu nào cho biết. Thiết nghĩ đây là việc của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (École Française d’Extrême – Orient) đâu phải việc của A. Landes. Không rõ ông Hoàng Xuân Hãn căn cứ vào tài liệu nào mà cho biết như vậy? Bởi giả dụ A. Landes nếu có làm việc đó thực, thì Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) cũng không thể được chứng kiến, vì A. Landes đã chết đuối ở sông Sài Gòn từ ngày 23/2/1893. Vậy thông tin của ông Hoàng Xuân Hãn về cái gọi là “Di cảo Landes” thật khó tin. Mà đọc kỹ lại ý kiến của ông về Di cảo này thì toàn là ngôn từ giả định: “Chắc là trong thời kỳ này y – tức Landes – thuê một người Việt tên Lê Quý góp thi văn Nôm, rồi chép vào giấy lệnh…” (Sách của Hoàng Bích Ngọc, tr.251). Hoặc “Cũng có thể, khi Landes chưa ra Bắc, y đã tổ chức sự sao chép này rồi” (Sđd, tr.251). Rõ ràng đó chỉ là những lời phỏng đoán của Hoàng Xuân Hãn, làm sao có đủ chứng lý để tin được cái gọi là “Di cảo Landes” như một nguồn văn bản được chép sớm nhất về thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
        Ấy vậy mà tác giả Hoàng Bích Ngọc, vốn là một nhà khoa học tự nhiên, thích bàn về tính khoa học, tính logic trong thơ Hồ Xuân Hương, lại có thể nhắm mắt tin theo không hề băn khoăn gì về cái gọi là “Di cảo Landes”. Kể cũng lạ!
 5- Giai nhân di mặc của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, 1916.
       Theo Hoàng Bích Ngọc, đây là cuốn sách Quốc ngữ ra đời sau cuốn Xuân Lan 1913. Nội dung đã dẫn giải, tiểu thuyết hóa và tuyển chọn được 47 bài thơ Hồ Xuân Hương. Cũng theo tác giả thì đây là cuốn sách đã chi phối rất cơ bản việc nghiên cứu, tuyển chọn thơ Hồ Xuân Hương trong suốt thế kỷ XX.
 6- Văn đàn bảo giám 1932 (in lần thứ ba) kèm theo danh mục 51 bài… Không thấy Hoàng Bích Ngọc bình luận gì về tài liệu này.
 7- Đại Nam đối thi giống bản Landes 1893 – phần C có tên đề Hồ Xuân Hương thi tập. Sau đó là phần liệt kê tên các bài thơ, gồm tất cả 49 bài… Không thấy tác giả bình luận gì, cũng không cho biết xuất xứ của tài liệu.
8- Nam âm thi tập giống bản Landes 1893 – phần A có tên đề là “Phụ lục tạp ký Quốc âm thi tập”. Sau đó là phần ghi tên 16 bài thơ. Không thấy tác giả phân tích, dẫn giải gì. Cũng không cho biết xuất xứ tài liệu.
 9- Đại Nam đối liễn thi tập giống như bản Landes 1893 – phần B có tên đề Đại Nam đối liên thi tập. Tác giả dẫn theo nhận xét của Hoàng Xuân Hãn, đánh giá đây là một tài liệu tạp nham những chuyện văn thơ liên hệ đến các danh nhân, trong đó có một số liên hệ đến Xuân Hương. Tiếp đó tác giả liệt kê một danh mục gồm 36 bài thơ. Không có thêm lời dẫn giải, phân tích. Cũng không cho biết xuất xứ tài liệu.
 10- Các cuốn nghiên cứu tuyển thơ Hồ Xuân Hương từ đầu thế kỷ đến năm 2000, có kê trong phần Tài liệu tham khảo.
       Như vậy, trong 10 nguồn tài liệu mà tác giả Hoàng Bích Ngọc dùng làm cơ sở cho việc tuyển chọn thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, thì có 4 tài liệu là chữ Quốc ngữ, một tài liệu không rõ lai lịch, diện mạo được gọi là bản Landes, còn 5 tài liệu mặc dầu có tên gọi Hán Nôm, song đều chưa đạt yêu cầu về văn bản học như chúng tôi đã nêu nhận xét cụ thể. Với các tài liệu số 7, số 8, số 9, Hoàng Bích Ngọc đều nói giống bản Landes, nhưng giống như thế nào thì không thấy nêu cụ thể. Hơn nữa, với tài liệu số 9, tác giả lại dẫn lời của Hoàng Xuân Hãn đánh giá đây là “một tài liệu tạp nham”. Như vậy giống bản Landes cũng có nghĩa là giống một loại tài liệu tạp nham. Một nguồn tài liệu tạp nham như thế sao còn dùng để làm cơ sở tuyển chọn thơ Nôm Hồ Xuân Hương? Nhân đây chúng tôi cũng xin nói thêm về cái gọi là bản Landes. Hoàng Bích Ngọc dẫn lời Hoàng Xuân Hãn cho biết, bản Landes cũng có ở Thư viện Viện Viễn Đông bác cổ Pháp. Vậy tại sao Maurice Durand, một học giả Pháp làm việc tại Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (1947-57), mà trong công trình L’œuvre de la poétesse Vietnamienne Hồ Xuân Hương (Paris, 1968) – Tác phẩm của nữ thi sĩ Việt Nam Hồ Xuân Hương, lại không hề biết gì đến “Di cảo Landes”. M. Durand đọc chữ Nôm khá tốt (cũng có những chữ đọc chưa chuẩn), ông đã dịch thơ Nôm Hồ Xuân Hương ra tiếng Pháp, có khảo dị, chú thích nghiêm túc, nhưng chỉ lấy bản Lĩnh Nam quần hiền văn thi diễn âm  tập (AB.398) làm bản nền (texte de base), và tham chiếu thêm các dị bản (variantes) của các bản Quốc văn tùng ký (AB.383), Liệt truyện thi ngâm (AB.147)… theo đúng phương pháp biên khảo văn bản học. Qua đây, chúng tôi càng thấy cái gọi là “Di cảo Landes” chỉ là sự phỏng đoán thiếu chứng tích lịch sử, và do đó không đáng tin cậy. Chúng tôi cũng đã thấy tài liệu Nam âm thi tập (trong đó chép thơ Nôm Hồ Xuân Hương), trang bìa có ghi “Lê Quý phụng tả” (Lê Quý vâng mệnh chép), nhưng không ghi rõ là vâng mệnh ai, và cũng không ghi năm tháng sao chép. Đây là tài liệu do GS. Nhan Bảo sao chụp từ Thư viện Viện Viễn Đông bác cổ Pháp tại Paris (Sđd). Và cái tên Lê Quý cũng chính là tên người Việt được ông Hoàng Xuân Hãn đoán là người đã chép thuê tài liệu cho A. Landes. Chỉ đáng tiếc là ông Hoàng Xuân Hãn khi nói về chuyện sao chép này lại không sao chụp văn bản Nôm kèm theo, nên rốt cuộc cái gọi là “Di cảo Landes” do ông đặt ra vẫn hoàn toàn mơ hồ, không có cơ sở gì để chứng tỏ đó là tài liệu chép thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã có từ năm 1892.
        Tóm lại, cách tuyển chọn thơ Nôm Hồ Xuân Hương của Hoàng Bích Ngọc là cách làm nửa vời. Thực tế, không khác gì cách làm của những tác giả đi trước, nghĩa là vẫn lấy những văn bản chữ Quốc ngữ để tuyển chọn thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Có lẽ sức hấp dẫn của Bà Chúa thơ Nôm đã làm lu mờ cái tư duy lý tính của nhiều người, nên họ đã quên mất một điều sơ đẳng nhất, đó là Hồ Xuân Hương làm thơ bằng chữ Nôm được ghi lại bằng văn bản Nôm chứ không phải làm thơ bằng chữ Quốc ngữ. Và như thế, người thưởng thức, người nghiên cứu văn học có thể đọc qua bản “chuyển ngữ”, bản “phiên âm”; nhưng người tuyển chọn văn bản thì nhất thiết phải biết chữ Nôm và phải khảo sát, tìm tòi từ nguyên bản chữ Nôm.
        Sau đây, chúng tôi xin dẫn chứng ngay một số thí dụ trong công trình của Hoàng Bích Ngọc, để thấy rằng tuyển chọn văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương mà không biết Hán-Nôm hoặc biết đại khái, sẽ dẫn đến những sự hiểu lầm rất tai hại cho việc cảm thụ văn học.
        Về bài Tức cảnh vũ hậu (Tức cảnh sau mưa). Bài thơ được ghi trong cuốn Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam của Hồ Sĩ Giàng, với lời dẫn kể chuyện Hồ Xuân Hương thời trẻ về quê, có hôm ra giếng gánh nước bị trượt ngã, vỡ cả đôi nồi đình
gánh nước, nước đổ tung tóe; đám trai làng cười giễu, Hồ Xuân Hương ứng khẩu bài Tức cảnh vũ hậu như sau:
Vén bức màn mây thấy mặt trời
Xanh xanh từng đám trắng từng nơi
Núi non cũng muốn nhô đầu dậy
Cây cỏ trăm hoa mỉm miệng cười
Hoàng Bích Ngọc đã bình giảng cả hai trang sách (tr.258-259), cho rằng nhà thơ có tấm lòng hiền hậu độ lượng, rằng Hồ Xuân Hương là một tuyệt thế giai nhân với vẻ đẹp tự nhiên khuê các… Hai câu mở đầu được giảng là: “Hiện lên hình ảnh một thiếu nữ bị ngã đến tối sầm mặt mũi lại, rồi nàng vén được mảng tóc mây lên và thấy trời sáng lại – bầu trời xanh cao nắng đẹp” (tr.258). Rồi cuối cùng, tác giả tỏ ý trách mọi người: “Thế nhưng, bài thơ này đã không được các cuốn tuyển chọn thơ Hồ Xuân Hương đưa vào, bởi nó có phong cách khác với dòng thơ Nôm truyền tụng quen biết mà người ta đã gán cho Hồ Xuân Hương” (tr.259).
        Đúng là trong các sách tuyển thơ Nôm Hồ Xuân Hương xưa nay chưa ai tuyển bài này, bởi có ai bỏ công sức tìm tòi trong kho sách Hán Nôm đâu mà biết có bài này. Tuy nhiên, ông Trần Thanh Mại và người viết bài này thì có biết. Vào đầu năm 1962, bấy giờ ông Trần Thanh Mại là Tổ trưởng Tổ văn học Việt Nam cổ- cận đại, còn tôi là tổ viên phụ trách tư liệu dịch Hán Nôm của tổ, đồng thời cũng thường giúp Tổ trưởng tìm tư liệu Hán Nôm khi cần thiết; nhân dịp ông Trần Thanh Mại chuẩn bị chuyên đề về Hồ Xuân Hương để báo cáo trước Viện Văn học, chính tôi đã cung cấp cho ông bài thơ Nôm này. Nguyên trong sách Đăng khoa lục sưu giảng của Trần Tiến (ký hiệu A.224), chép lại vào niên hiệu Tự Đức 14, Tân Dậu (1861), ở phần Phụ lục có ghi bài thơ Nôm cùng lời dẫn chữ Hán như sau: “Hà Nội tỉnh, nữ tử Xuân Hương hành lộ thất túc, thường lộ, tự vịnh” (Cô Xuân Hương ở tỉnh Hà Nội, đi đường sẩy chân ngã tốc váy, tự vịnh thơ).
Vén đám mây lên tỏ mặt trời
Lác coi từng đám rõ từng nơi
Giang sơn đâu đó nhô đầu dậy
Hoa cỏ quen hơi mỉm miệng cười
        Ông Trần Thanh Mại rất thích thú bài này và nhận xét: “Bài thơ sinh động thật, ma quái thật, Hồ Xuân Hương thật!” (Trần Thanh Mại: Tình hình nghiên cứu Hồ Xuân Hương và vài ý kiến về việc đánh giá những thơ lâu nay được coi là của Bà – Báo cáo chuyên đề trình bày tháng 9 năm 1961, tài liệu in ronéo của Viện Văn học). Tuy cùng là thơ chữa thẹn khi bị ngã, nhưng bài Tức cảnh vũ hậu chỉ là cái bóng méo mó của bài chép trong Đăng khoa lục sưu giảng. Một bài sang trọng và một bài quê mùa khác nhau hẳn. Có lẽ chúng tôi khỏi phải bình luận gì thêm. Vả lại khuôn khổ bài viết cũng không cho phép nói dài dòng.
           Về bài Vịnh chơi chùa. Đây là bài thơ trong Bản khắc ván 1914. Đặc điểm chung của loại văn bản này là ở trên in chữ Nôm, ở dưới in phần phiên âm Quốc ngữ. Nhưng do trình độ của người phiên âm, nên thường có những chữ đọc sai, chưa kể nhiều chữ sai cả chính tả, nên với những người không biết Hán Nôm thì khó tránh khỏi rơi vào những cái bẫy ngôn ngữ nếu chỉ đọc phần Quốc ngữ. Với bài này, Hoàng Bích Ngọc cũng bình giảng dài cả hai trang sách (tr.270-271). Chúng tôi miễn bàn luận với tác giả, mà chỉ muốn nói về một chữ do phiên âm sai, lại không có chú giải, nên đã khiến Hoàng Bích Ngọc bị sập bẫy ngôn từ. Đó là chữ tử trong câu cuối: “Nhà sư ướm hỏi nhà sư tử”. Chữ tử nghĩa là con, nhưng âm Hán cũng đọc là tí (trong tí, sửu, dần, mão…). Ở đây, nhà thơ đã dụng ý chơi chữ theo lối song quan ngữ (mot équivoque): “Nhà sư ướm hỏi nhà sư tí” – nghĩa là hỏi một tí thôi, nhưng cũng còn hàm ý hỏi về con cái của nhà sư (theo nghĩa của chữ tử). Hoàng Bích Ngọc do không hiểu chỗ lắt léo này, nên đã “tán” rằng: Những “nhà sư tử” này là những kẻ lợi dụng chùa làm nơi sinh sống và làm những việc khác nữa (tr.271). Chắc hiểu nghĩa là con sư tử theo từ đồng âm; nhưng văn học Hán chỉ dùng hình tượng sư tử để ví với nữ giới – nói về người vợ cả hung dữ, hay ghen, chứ không ví với đàn ông. Vả lại, đọc nhà sư tử thì vừa bị “khổ độc” vừa mất hết vẻ sinh động sắc sảo và đầy vẻ trịch thượng Hồ Xuân Hương. Người viết rất muốn kiệm lời, nhưng đừng chẳng được phải nói thêm. Do không biết Hán-Nôm, nên văn bản đã bị đọc sai hai trường hợp: Cầm thư đọc thành cầm thi (đàn và thơ). “Cầm thư” (đàn và sách) mới là biểu tượng của trí thức Nho học, và là thành ngữ quen dùng:
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang
(Truyện Kiều)
        Câu kết “Phúc đức nhà ngươi được mấy bồ” đã đọc sai thành nhà đây làm mất hết cả khí thế của người hỏi. Tự dạng chữ Nôm giữa ngươi và đây khác nhau lắm, chỉ có người không sành Nôm thì mới đọc chữ tác thành chữ tộ.
      Về bài Đùa nhà sư. Bài thơ là một sai lầm điển hình về thao tác văn bản học, một sự lệch lạc nghiêm trọng về phiên âm Nôm, và một sự thiếu hiểu biết cơ bản về văn học trung đại Việt Nam… Hoàng Bích Ngọc cho biết bài này được dẫn theo Xuân Lan và Xuân Hương thi tập (1921). Xuân Lan là bản Quốc ngữ, chúng tôi miễn bàn. Còn Bản khắc 1921 mà Bích Ngọc ghi ở đây, là một nhầm lẫn tai hại của người không am hiểu về các văn bản Nôm Hồ Xuân Hương mà ở phần đầu chúng tôi đã nói. Là “một con mọt sách” trong kho Hán Nôm, chúng tôi khẳng định Bản khắc 1921 (tức bản in ván năm Khải Định 6, Tân Dậu) không làm gì có bài Đùa nhà sư này. Mà đây chính là bài Thơ ghẹo ông sư, có ở trong bản Xuân Hương thi tập, cũng do Phúc Văn Đường khắc in, nhưng là bản in năm Bảo Đại Canh Ngọ (1930). Còn về phiên âm Nôm cũng đọc sai nhiều. Chúng tôi chỉ nêu một trường hợp, đó là câu: “Trong đội lệ đàm ngươi thỏa thích”. Hai chữ lệ đàm vốn được viết là Cồ Đàm, Cồ Đàm là phiên âm Hán của chữ Phạn (sanscrit) Gautama, tức là họ của Thích Ca/ Phật. Do văn bản viết chữ thảo, mà người đọc lại thiếu kiến thức Phật học nên đã đọc bừa là lệ đàm. Nếu không tra lại nguyên văn thì làm sao hiểu được nội dung ngữ nghĩa của câu thơ. Hai điển Hàn Dũ, Thủy Hoàng cũng không được chú giải, khiến người bình văn bản đã hiểu sai sang chuyện nỗi đau của người dân khi tổ quốc bị xâm lăng, và chủ đề bài thơ là đả kích quan lại, v.v… và v.v…, nghe thật viển vông, kỳ cục. Cuối cùng, không thể không nói, đó là xuất xứ của bài thơ. Đây vốn là một giai thoại lịch sử-văn học, được chép trong sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề, soạn năm Cảnh Hưng 16 (1755), nói về cậu học trò Lương Hữu Khánh thời Lê Trung Hưng, nhân khi qua đò gặp đám sư đi cúng chay về, Khánh đói muốn ăn oản, có nhà sư già bảo họa thơ “Nho tăng đồng chu” (Học trò và sư cùng qua đò) thì sẽ cho oản, Khánh bèn làm luôn bài thơ bằng chữ Hán: Nang trung kinh sử kiệp Kim Cương/ Ngã nhĩ kim đồng phiếm nhất hàng… Văn đàn bảo giám có in bài thơ này, song chỉ có lời dịch thơ Quốc ngữ, không dẫn xuất xứ, nhan đề Cùng sang chuyến đò, có lời dẫn về Lương Hữu Khánh. Khi soạn cuốn Giai thoại văn học Việt Nam (NXB. Văn học, 1965) chúng tôi cũng có kể chuyện về bài thơ này. Bộ Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (NXB. Thế giới, 1997) cũng có in bài thơ này cùng với câu chuyện về Lương Hữu Khánh… Như vậy, khi khảo sát lịch sử văn bản thì phải đọc rộng, không thể chỉ đọc một số văn bản có ghi tên Hồ Xuân Hương. Và đương nhiên, nếu có tri thức về văn học trung đại như vừa dẫn thì sẽ biết ngay bản Xuân Lan đã lấy bừa một bản dịch thơ chữ Hán của Lương Hữu Khánh để mạo nhận là thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Đồng thời cũng sẽ hiểu rõ thực chất của bản Phúc Văn Đường 1930 so với bản Phúc Văn Đường 1921.
         Sau đây chúng tôi muốn bàn thêm về một số lỗi văn bản học thể hiện ở hai mặt, hoặc là đọc sai âm Nôm, hoặc là hiểu sai ngữ nghĩa văn bản.
       Trường hợp bài Đề núi Lã Vọng II (tr.294-296). Câu 2 được ghi: Biếng đường danh lợi chẳng bòn xu (Theo Xuân Lan 1914). Người viết bài này sẽ không bàn về lời tán dông dài nào Xuân Hương là người có chí lớn, lấy lợi ích của non sông đất nước làm mục đích sống (tr.295), nào Xuân Hương là người có kiến thức uyên bác… (tr.296). Ở đây, chúng tôi chỉ nói về một lỗi đọc sai của bản Xuân Lan, đó là hai chữ “bòn xu”. Đối chiếu với nguyên văn Nôm ở bản Phúc Văn Đường 1930, thì hóa ra đó là hai chữ “bôn xu”, nghĩa cũng như “bôn tẩu” mà nay ta thường nói: chạy đôn chạy đáo.
        Trường hợp bài Thăng Long hoài cổ, cũng dẫn theo bản Xuân Lan 1913, có câu: Kinh thành ngày trước tiếng bây giờ. Chúng tôi cũng không bàn về lời bình tán của Hoàng Bích Ngọc, mà chỉ muốn nói về một chữ do lỗi đọc âm Nôm sai của bản Xuân Lan đã dẫn tới cách hiểu sai ngữ nghĩa của văn bản. Đối chiếu với nguyên bản Nôm của bản Xuân Hương thi sao ký hiệu Hán Nôm AB.620, hóa ra chữ tiếng là do chữ tỉnh bị đọc sai. Đây là câu thơ cảm khái của Hồ Xuân Hương: “Kinh thành ngày trước tỉnh bây giờ”. Từ niên hiệu Minh Mệnh 12 (1831) kinh thành Thăng Long trước đó đã đổi thành tỉnh thành Hà Nội. Chúng ta hãy đọc lời tán của Hoàng Bích Ngọc: “Những gì đặc trưng nhất cho kinh thành Thăng Long mà tiếng còn để lại đến bây giờ…” (tr.308).
        Trường hợp bài Trấn Bắc hoài cổ dẫn theo bản Quốc ngữ của Quách Tấn (Nét bút giai nhân, 1997). Hoàng Bích Ngọc đã phân tích, bình giảng tới 5 trang sách (tr.310-314). Tác giả có khá nhiều ý kiến phân tích về văn bản, chúng tôi miễn bàn ở đây, bởi tác giả chưa nắm được các văn bản chữ Nôm có giá trị như bản Quan Văn Đường, khắc in năm Khải Định 7 (1922), bản Xuân Hương thi sao, bản Xuân Hương thi vịnh… Điều chúng tôi muốn nói ở trường hợp này lại là cách hiểu sai ngữ nghĩa của văn bản, do thiếu tri thức Hán Nôm. Qua các văn bản Nôm thì đây là bài thơ có khá nhiều dị bản. Tuy nhiên, chúng tôi tạm dẫn theo bạn Hoàng Bích Ngọc: “Chín tầng sen rớt hơi hương ngự/ Năm thức mây phong nếp áo chầu”. Tác giả đã bình giải hai câu thơ này như sau: “Hai câu thơ cũng nói đến sen, mây và hương. Nhưng sen không phải là sen tự nhiên trong hồ khoe sắc trong ánh trăng. Hương không phải là hương sen và hương của nhà chùa mà là hương chuối ngự của người đến khấn vái” (tr.313). Ôi, nếu mà đúng thế thì quả là một khám phá tuyệt vời của Hoàng Bích Ngọc! Thực ra, các bản Nôm đều ghi chữ ngự có nghĩa là từ chỉ Vua, như nói: ngự y, ngự bút, ngự tọa, ngự tửu, ngự phê… Vì chùa Trấn Bắc (tên gọi thời Thiệu Trị) nguyên là chùa Trấn Quốc, vốn xưa được xây dựng trên nền cũ của cung điện, hành cung thời Lý-Trần, do đó mới có câu mở đầu: Trấn Bắc hành cung cảnh dãi dầu. Chính vì nói đến hành cung cũ, nên tác giả bài thơ mới dùng chữ “ngự” là có ý cảm khái về các triều đại cũ, các vị vua cũ… Nếu hiểu được điều này, chúng tôi tin là Hoàng Bích Ngọc sẽ không tán một cách quá thô thiển cho rằng hương ngự là hương chuối ngự…
        Chúng tôi còn có thể dẫn thêm những lỗi tương tự. Song như đã nói, mục đích của chúng tôi là bàn về vấn đề văn bản học chứ không nhằm phê bình cuốn sách của tác giả Hoàng Bích Ngọc – công trình này do đó chỉ là cái cớ để chúng tôi bày tỏ quan điểm của mình mà thôi.
         Qua phần tuyển chọn thơ Nôm truyền tụng của công trình cho thấy, Hoàng Bích Ngọc cũng vẫn chưa có gì vượt khỏi quỹ đạo của các tác giả đi trước về tuyển chọn thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Chúng ta đều biết, Hồ Xuân Hương là nhà thơ sáng tác bằng chữ Nôm, do đó, không thể lấy thơ Quốc ngữ – những bản phiên âm không rõ xuất xứ, chưa kể đến lỗi phiên âm sai, rồi không khảo dị, không chú thích… như các bản Xuân Lan, Giai nhân di mặc, Văn đàn bảo giám, v.v… để tuyển chọn văn bản. Mà tuyển chọn rồi thì cũng không khảo dị, không nghiên cứu lịch sử văn bản, không chú thích từ cổ, điển cố… là những khâu hết sức thiết yếu của công tác văn bản học. Theo Đào Thái Tôn trong Hồ Xuân Hương, tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa (NXB. Hội Nhà văn, 1999) cùng với sự tra cứu riêng của chúng tôi, thì cho đến hiện tại, dù đã mất mát ít nhiều, văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương trong kho sách Hán Nôm cũng còn được 3 bản khắc ván in và nhiều bản chép tay, tổng cộng khoảng trên dưới 20 văn bản Nôm có thể làm cơ sở tư liệu cho việc tuyển chọn thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Nếu xét về niên đại thì chúng ta vẫn còn bản 1909, thậm chí có khả năng đang còn cả bản Minh Mệnh (1820-1840). Như vậy, so với bản Quốc ngữ Xuân Lan 1913 thì các văn bản Nôm vẫn là những tài liệu gốc có giá trị để chúng ta khảo cứu lịch sử văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
        Công trình của Hoàng Bích Ngọc không làm được việc tuyển chọn thơ Nôm Hồ Xuân Hương từ các văn bản Nôm gốc do hạn chế về trình độ Hán-Nôm. Công trình của Đào Thái Tôn cũng chưa làm được việc này, bởi thực chất sách của tác giả vốn chỉ là một luận án PTS được chuyển hóa thành sách để xuất bản. Hơn nữa, trọng tâm của bản luận án ấy là nhằm biện giải về “tiến trình huyền thoại dân gian hóa tiểu sử và thơ ca Hồ Xuân Hương” (Sđd, tr.10) chứ không đặt trọng tâm vào việc khảo cứu văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Chính vì vậy mà phần tuyển chọn “Thơ Nôm truyền tụng” của tác giả cũng để lộ những hạn chế nhất định về mặt văn bản học.
       Thơ Nôm Hồ Xuân Hương sau khi đã phiên âm, chú thích thì ai cũng có thể thưởng thức được. (Cũng như những tác phẩm văn học nước ngoài sau khi đã chuyển ngữ sang tiếng Việt thì chúng ta đều có thể đọc được, tiếp nhận được). Nhưng sưu tập, tuyển chọn văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương từ nguyên bản chữ Nôm thì không phải ai cũng làm được. Đây là công việc có điều kiện mà là điều kiện khá khắc nghiệt. Bởi chữ Nôm là văn tự ghi âm, trong đó có những âm cổ và những chữ cấu tạo đặc thù rất khó đọc. Vả lại chữ Hán còn có các loại tự điển để tra cứu, chữ Nôm thì không hẳn như vậy. Ngay một nho sĩ như Phạm Đình Hổ trong lời “Tự thuật” ở đầu sách Vũ trung tùy bút cũng đã tâm sự: “Ta từ khi đã học thiệp liệp được ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không thể hiểu hết được” (Bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, NXB. Văn hóa, 1960, tr.12).
      Cuối cùng, người viết muốn nói thêm chút ít về vai trò của văn bản học trong việc lý giải ngữ nghĩa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Có thể nói từ trước đến nay tất cả những người đã bàn về thơ Nôm Hồ Xuân Hương đều không quan tâm đến văn bản gốc, xem từ ấy, chữ ấy được ghi bằng chữ Nôm như thế nào. Chính vì vậy mà có những lời bình hoặc rơi vào chủ nghĩa duy mĩ hoặc rơi vào quan điểm xã hội học dung tục. Chẳng hạn như bài Đền Sầm Nghi Đống, chúng tôi chỉ thấy có ở văn bản Nôm Quan Văn Đường, khắc in năm Khải Định Nhâm Tuất (1922), chữ Nôm in rành rành là chữ lên (trong câu: Ghé mắt trông lên thấy bảng treo). Ấy vậy mà nhà thơ Xuân Diệu cứ tán lấy được: “Chỉ đáng trông ngang bằng nửa con mắt thôi”, bởi theo ông “trông lên thì chiêm ngưỡng” (Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB. Văn học, 1987). Và, không ít người đã bình tán theo quan điểm “phi văn bản học” này của Xuân Diệu, mà không nghĩ rằng, ngôi đền vốn nằm trên gò Đống Đa thì làm sao có thể trông ngang được. Còn nhiều bài khác cũng tương tự như thế, mọi người cứ mặc sức phán xét theo các bản sưu tập của Xuân Lan, Văn đàn bảo giám… mà không truy cập đến những bản Nôm gốc, do đó đã dẫn tới những hiểu lầm về Bà chúa thơ Nôm. Trường hợp bài Tát nước, bài Đánh cờ người chẳng hạn là như vậy…
        Tóm lại, đã đến lúc không thể nghiên cứu thơ Nôm Hồ Xuân Hương từ góc nhìn văn học mà bỏ qua góc nhìn văn bản học. Chúng tôi cho rằng, một công trình sưu tập thơ Nôm Hồ Xuân Hương theo đúng quy trình văn bản học chắc chắn sẽ giúp chúng ta nhận thức chính xác hơn về cá tính sáng tạo của Bà Chúa thơ Nôm.
KIỀU THU HOẠCH.
Chú thích:
 (1) Đ.X. Likhatsốp: Văn bản học giản lược, Nxb. Khoa học, Matxcơva – Lêningrad, 1964, Lê Xuân Vĩnh dịch, Tư liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(2) Nhàn Vân Đình biên tập: Hồ Xuân Hương khảo tài liệu, ký hiệu VHb.320, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(3) Một số văn bản Nôm khắc in và chép tay về thơ Nôm Hồ Xuân Hương, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. (Xem Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu, Nxb. KHXH, H, 1993).
(4) Trần Thanh Mại: Tình hình nghiên cứu Hồ Xuân Hương và vài ý kiến về việc đánh giá những thơ lâu nay được coi là của Bà. Tài liệu in ronéo, tháng 9-1962, Viện Văn học.
.
tranh của Alexander Smirnov
.
.
về
HỒ XUÂN HƯƠNG
.
.
@TIỂU SỬ
[theo Wikipedia]
Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi; thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:
* Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn – thân sinh của bà – thì dòng họ này đã suy tàn.’
* Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương
như Nguyễn Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An (*). Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc, để kiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ – Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình duyên đó.[1]
* Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức 1772-1822. Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
* Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
* Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo, vậy tại sao lại có chuyện “cổ nguyệt đình”?. Bà không dùng chữ nho cũng đâu thể cho rằng bà ít chịu ảnh hưởng của nho giáo, mà phải xem lại xã hội thời đó, bà là một nhà thơ nên cũng là một minh chứng cho xã hội thời đó về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương.
* Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
* Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, quan Tri phủ Vĩnh Tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển).
Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
@TÁC PHẨM
Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.
* Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương trên báo Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long.
* Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này (bao gồm: Độ Hoa Phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san Khoa học xã hội, tại Paris vào năm 1984. Ngoài ra, Hồ xuân Hương còn viết bài “Bánh trôi nước” rất nổi tiếng.
* Năm 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ nữa tên là Lưu hương ký 琉香記, theo những nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trong đó là của Hồ Xuân Hương. Lưu Hương Ký là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó không thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng của bà.
Kiều Thu Hoạch
Theo https://doanthuan.wordpress.com/

Cung bậc - Chùm thơ Hữu Dũng

Cung bậc - Chùm thơ Hữu Dũng Cũng là/ cung bậc ấy thôi/ Mà sao/ cảm xúc/ xa xôi ùa về… Cung bậc Cũng là cung bậc ấy thôi Mà sao cảm xúc xa...