Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024
Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI – Những tìm tòi và thử nghiệm
Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI
Đặt vấn đề thơ trẻ trong 20 năm đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn nhắc đến đội ngũ những người cầm bút đa số sinh sau 1975, họ có tuổi đời trên dưới 40, có sáng tác và thành danh từ những năm 2000 tới nay như Lê Thiếu Nhơn, Vi Thùy Linh, Phùng Hiệu, Bình Nguyên Trang, Ly Hoàng Ly, Trần Lê Nguyên Vũ, Trần Võ Thành Văn, Trang Thanh, Nguyễn Quang Hưng, Đoàn Văn Mật, Nguyễn Phong Việt, Ngô Thanh Vân, Ngô Thúy Nga, Lê Hưng Tiến,Nguyễn Phong Việt, Hoàng Anh Tuấn, Lữ Mai, Đồng Chuông Tử, Trần Đức Tín, Phạm Vân Anh, Trương Trọng Nghĩa, Ngô Thị Hạnh, Trần Lê Sơn Ý…
Người thơ rượu núi đã mây bay
Người thơ rượu núi đã mây bay
Tôi biết đến nhà thơ Lò Cao
Nhum khi ở cùng anh hai mươi ngày tại trại viết Văn nghệ quân đội Đồ Sơn – Hải
Phòng năm 1995. Lò Cao Nhum được bầu là người hiền nhất trại. Anh suốt ngày cứ
im im như đá núi. Chính ở trại viết này, Rượu núi đã ra đời và đoạt giải Cuộc
thi thơ Văn nghệ quân đội để mọi người, nhất là giới nhà thơ biết tới Lò Cao
Nhum với thương hiệu Rượu núi.
Bạn đến
Mời ngồi xếp bằng tròn giữa chiếu
Chiếu đan bằng tia mặt trời
Bát rượu trăng rằm
Mong hồn vía bạn đừng thất lạc
Cầu cụ ông, cụ bà, cây si, cây đa
Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến
Ngửa bàn tay cũng da
Úp bàn tay cũng thịt
Rượu nhà tôi
Ủ từ lá sắc rừng gai
Chắt từ củ mài hốc đá
Vợ tôi nấu thơm từ lửa đêm dài
Trong các cuộc tôi đi Hòa Bình hoặc Lò Cao Nhum xuống Hà Nội
đều dành thời gian gặp gỡ, thơ ca và nhất là khoản rượu. Luôn thêm các anh Nguyễn
Anh Nông, Nguyễn Tấn Việt, Nguyễn Thành, Nguyễn Thành Tuấn, Đào Bá Đoàn… thâu
đêm suốt sáng chuyện thi ca. Toàn chúng tôi nói là chính còn Lò Cao Nhum vẫn vậy,
chỉ mủm mỉm cười trước ba hoa của cánh bạn văn nghệ. Mà ngày ấy, tôi còn ở tận
Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên xa xôi mà các anh toàn xe máy đường trường tới
thăm cậu em út.
Một ngày, Lò Cao Nhum chỉ nói chừng bảy tám câu không đầu
cuối. Vậy mà, trên các diễn đàn trang nghiêm hàng trăm người, Lò Cao Nhum đọc
diễn văn hoặc phát biểu rất mạch lạc khang trang. Cái nết đón bạn của anh mới cực
kỳ trọng thị. Chúng tôi còn vài ngày mới tới lịch đi Hòa Bình mà anh đã rục rịch
tổ chức đón, dự kiến các địa điểm, thông báo cho toàn thể bạn hữu còn đích thân
từ Mai Châu lên thành phố đợi người. Khi ấy tôi còn là phóng viên truyền hình,
công việc quay phim bận rộn, song Lò Cao Nhum đều sẵn sàng đi theo đoàn phục vụ.
Một lần tôi đã rất xúc động khi anh “canh gác” cho tôi cẩn thận đến mức khó
tin.
Thơ Lò Cao Nhum tưởng chừng chất phác nôm na kỳ thực đọc kỹ đều
là kim giấu trong bông, ngọc ẩn trong đá, cứ mưa dầm thấm lâu khiến người đời
ám ảnh: Một phần ba mới giầu nửa chừng/ Vừa ăn vừa dụm sinh dè sẻn/ Vừa
làm vừa nghĩ ngày mai đến/ Khách đi khỏi, vợ ngồi cạo niêu (Người trên
núi); Ngày ấy ai dại khờ/ Nghe trăng xui. Bẽn lẽn/ Chọc sàn trăng. Trăng
mơ (Sàn trăng); Cột tre mùa xuân/ Vòng mặt trời mùa xuân/ Dải còn chấp
chới (Tung còn); Soi cây lim già/ Hiện diện ở lòng mình/ Ngôi đình
bão tố (Soi gương núi); Cao ốc khoe đủ mọi dáng màu/ Ban công biếc bồ
câu hội tụ/ Đàn chim bay lướt trên ghế đôi/ Người bãi biển lấy cớ tình tự (Bồ
câu bay xanh trời thành phố); Nhận ra anh em/ Nhận ra họ hàng/ Nhận ra đồng
tộc/ Khi nóc nhà có hoa khau cút/ Đấy là tín hiệu vui/ Tín hiệu máu mủ/ Anh có
thể cởi dép/ Rửa chân lên thang/ Tìm chỗ ngồi của mình nơi góc chiếu... Rồi
anh đi/ Ngoái nhìn ngọn hoa mưa nắng/ Thơm thảo nơi mái lá nhà sàn/ Văng vẳng
níu chân lời hát/ Người ta chỉ muốn gần nhau thôi. (Nóc nhà ta có
hoa khau cút); Vòng xoè/ Gương mặt bừng ánh trăng/ Nụ cười hồng ngọn lửa/
Trẻ, già, trai, gái kết hoa/ Vòng nguyệt quế bản mường/ Vòng nguyệt quế trao
người hùng của bản/ Tặng người gan của mường/ Người hùng, người gan/ Cột lim, cột
nghiến/ Kết đan phên rào, phên giậu/ Chắn bão, ngăn giông/ Xua mây, đuổi nắng (Vòng
xòe)…
Lò Cao Nhum không chỉ bền gan bền chí với thơ ca mà cách anh
chăm chút cho anh em văn nghệ trẻ mới thực là đáng quý. Anh cùng các nhà văn
nhà thơ Lê Va, Nguyễn Tấn Việt, Bùi Minh Chức, Nguyễn Anh Nông là những trụ cột
văn chương Hòa Bình luôn vừa kính trọng hỏi han các bậc tiền bối, đàn anh; vừa
giao lưu bè bạn khắp các tỉnh thành; vừa chăm chút các hạt nhân văn nghệ trẻ
trong tỉnh khiến ai cũng rưng rưng cảm động. Nhà thơ Bùi Tuyết Mai là như vậy.
Khi được tin nhà thơ Lò Cao Nhum mất (14/6/2023) đã nghẹn ngào điện báo tin cho
tôi trong nước mắt. Thân quý nhau đến tận cùng. Thuộc thơ của bạn hơn thơ của
mình chính là Lò Cao Nhum và Bùi Tuyết Mai. Cánh văn nghệ cả nước mỗi khi tới
Hòa Bình đều ghé thăm bản Lác – Mai Châu, nơi có vợ chồng con cháu nhà thơ Lò
Cao Nhum ở đó.
Không hiểu sao, các ông anh văn nghệ rất quý tôi. Có khi gặp
gỡ liên tục có khi vài năm mới gặp nhau song điện thoại vẫn thường xuyên khi thấy
nhau trên báo đài, truyền thông hoặc liên thông ông nọ dắt díu điện thoại ông
kia trong các cuộc rượu. Hôm tôi hẹn với nhà thơ Lê Va đi tặng sách ở một bản
xa xôi tỉnh Hòa Bình quê của nhà thơ Bùi Tuyết Mai không thể nào ngờ được bà
con nhân dân đón tiếp rất nồng nhiệt. Rượu vào lời ra, đến khoản thi đọc thơ bạn,
Lê Va và Bùi Tuyết Mai đã rất kinh ngạc khi tôi gần như thuộc sạch thơ của Lò
Cao Nhum và Nguyễn Anh Nông. Chỉ có điều trong men rượu, các anh chị kia đã
không nhận ra, hoặc nhận ra thì cũng bỏ qua là tôi đã trà trộn cả thơ của mình
khi đọc. Ăn gian như thế, các anh chị kia cầm chắc phần thua, nhưng ai cũng
rưng rưng vì bè bạn, vì văn chương nghệ thuật. Ở đời có ba loại bạn khăng khít
đến lúc nhắm mắt tắt hơi. Đó là bạn lính chiến từng vào sinh ra tử. Đó là bạn
tù kẻ trước người sau được tự do vô cùng gắn kết. Loại thứ ba chính là bè bạn
văn nghệ bất kể Đông, Đoài, Nam, Bắc… nhiều khi chỉ mới đọc tác phẩm của nhau
đã như thân quý tự kiếp nào, rồi hẹn hò dụ khị đón rước cứ như đúng rồi, cãi cọ
đấy rồi lại ôm nhau ngủ trong hơi men, trong thơ ca tâng bốc nhau đến tận mây
xanh. Đối với tôi, còn có những ca vô cùng đặc biệt. Đó là trường hợp
nhà thơ Văn Thùy. Khi tôi còn ở Như Quỳnh, có khi nửa đêm, Văn Thùy tằng tằng
xe máy đến không buồn gõ cửa cứ thế lăn ra ngoài hiên đánh giấc nồng, đến sáng
cháu bé bảy tuổi mở cửa đi học đã phải chết khiếp thấy một cụ lão râu ria tóc
tai như người rừng nằm gối đầu trên khúc gỗ ngoài hiên ngáy ò ò nồng nặc hơi
men.
Nhà thơ Lò Cao Nhum cũng không ít bận phải chịu cái rét căm
căm trên nền nhà tôi lạnh cóng gió thông thốc thổi. Khi đó tôi vừa xây được
nhà, nhưng chưa có tiền đóng cửa, cứ thế các anh đến thơ rượu, rồi đêm khuya lấp
vào một góc cho tới sáng. Thế là cứ nguyên giày, tất, mũ, bông, có ông còn đội
cả mũ xe máy kềnh xuống manh chiếu đã sờn. Tờ mờ sáng hôm sau đã dắt nhau ra
quán đầu làng tiếp tục rượu – thơ vô thiên lủng. Ôi chao ngày ấy cũng đã xa rồi!
Quay trở lại ngày trại viết ở Đồ Sơn với các anh chị Sương
Nguyệt Minh, Nguyễn Hữu Quý, Mạnh Lê, Phùng Kim Trọng, Như Bình, Trần Thanh Hà…
thì xem chừng chỉ có Lò Cao Nhum là hiền nhất. Các anh chị kia thơ văn tới tấp,
ăn mặc xanh đỏ tím vàng, lướt ra biển đến sóng cũng xôn xao, chỉ riêng Lò Cao
Nhum củ mỉ cù mì im im như đá núi. Vậy mà, chùm thơ đoạt giải trong đó có Rượu
núi đã như bức tượng đội núi nhô lên. Rồi từ đó, Lò Cao Nhum viết tới tấp
như rượu trong chum sành vò vại cứ thế chảy thảo thơm miên man không dứt với
các tập thơ: Giọt sao trở về; Rượu núi; Sàn trăng; Theo lời hát về nguồn;
Gốc trời… đã làm lên thương hiệu Lò Cao Nhum. Và nhất là, khi anh đảm
đương cương vị Phó Tổng biên tập báo Văn nghệ Hòa Bình, chúng tôi lại
được thấy một Lò Cao Nhum khác: chững chạc, trọng thị khách văn chương, tâm huyết
với văn hóa các dân tộc Hòa Bình và quy tụ được đội ngũ anh chị em làm văn
chương nghệ thuật.
Lò Cao Nhum sinh năm 1954, tại Bản Lác, Mai Châu, Hoà Bình,
người dân tộc Thái. Anh đã trọn một đời sáng tác và công tác với những đóng góp
cho văn chương nghệ thuật. Ở mảng khảo cứu sưu tầm văn học dân gian, Lò Cao
Nhum cũng có những đóng góp đáng ghi nhận. Lò Cao Nhum đã nhận nhiều giải thưởng
Trung ương và địa phương cho các sáng tác của mình. Với người cầm bút đồng thời,
anh luôn đáng quý trong sự chân thành tin cậy đúng như những sáng tác thơ ca của
anh. Anh em văn nghệ sĩ tỉnh Hòa Bình và bạn bè văn nghệ các vùng đất rất nhiều
người yêu quý Lò Cao Nhum và vẫn nghĩ anh sẽ còn cống hiến nhiều cho văn chương
nghệ thuật. Song con người chân tình và hiền hậu ấy đã đột nhiên gió núi mây
ngàn ở tuổi bảy mươi.
Nhà thơ Lò Cao Nhum, người thơ rượu núi đã mây bay, nhưng các
tác phẩm và nhất là tấm lòng anh luôn còn đọng mãi trong lòng bè bạn. Bài viết
này xin được làm nén hương thơm của anh em bè bạn văn nghệ tiễn đưa anh.
31/7/2023
Phùng Văn Khai
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Niềm vui vì được cùng tên
Niềm vui vì được cùng tên…
Một. Có bao giờ bạn thấy tên mình,
mà thực tế đó là tên của người khác, trên sách vở, và nói rộng hơn, trên một
phương tiện truyền thông, một nhật báo online chẳng hạn? Và nếu có, lúc ấy, bạn
cảm thấy vui!? Nếu thế, thì tôi đã được khá nhiều niềm vui như vậy. Nói là vui,
nhưng thật ra, lòng tôi còn hơn thế nhiều…
Cách đây khoảng hơn bảy năm rưỡi, tôi đã viết ngắn “Một hình ảnh
quê nhà” để ghi lại niềm vui vô bờ của tôi khi tôi tình cờ đọc thấy tên đệm và
tên của tôi là tên của một xã của huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, quê ngoại của
tôi: xã Duy Thành trên VnExpress. Khỏi phải nói, lúc ấy không những tôi vui mà
còn yêu mến thêm quê mẹ của tôi…
Hai. Cách đây hơn bốn năm, một niềm vui gần giống như vậy đã
lay động tâm trí tôi khiến tôi đã viết “Chuyện tình cờ” vì tình cờ, khi ghé vào
một quán café trong một chung cư trước kia tôi từng ở và bắt gặp ở đó một cuốn
sách có cái tên rất hay: “Đừng Vì Cô Đơn Mà Yêu Một Ai Đó”. Đó là một tuyển tập
gồm 16 truyện ngắn của những tác giả còn khá trẻ ở độ tuổi 8X, 9X… do nhà xuất
bản Văn Học phát hành trước đó hai năm. Nhìn chung, đó là những truyện ngắn khá
hay và nhiều chỗ khiến cho độc giả phải suy ngẫm. Thế nhưng, điều duy nhất tôi
muốn nhắc lại là trong số 16 truyện ngắn đó, có truyện “Yêu Một Bình Minh Mới”
của một tác giả có bút danh khiến tôi phải… chú ý: Hamlet Duy Thành. Đó là câu
chuyện về một chuyện tình tay ba gồm nhân vật Tôi, H. và V. có thể tóm tắt:
Trong khi sống với H., nhân vật Tôi lại luôn nghĩ về… V. Câu chuyện tưởng chừng
như đơn giản nhưng, theo tôi nghĩ, tác giả của nó muốn người đọc thấy được sự
khác biệt giữa hai khái niệm tình cảm mà xưa nay người ta hay… lẫn lộn, đó là
“thương” và “yêu”. Nhân vật Tôi yêu V. và thương H. Thế nhưng, khi cuối cùng để
quên V, cô đã “chuyển” H từ người cô thương thành người cô yêu. Câu chuyện còn ẩn
chứa tấm lòng bao dung của H: anh vẫn yêu thương nhân vật chính khi biết rằng
tuy sống với anh, trong trái tim nàng vẫn ẩn hiện hình ảnh của V. Tuy nhiên, sự
chân tình của anh đã thắng cuộc khi tin rằng, một ngày nào đó, họ sẽ cùng nhau
“yêu một bình minh mới”.
Lúc đọc xong truyện, trong tôi cũng có “một bình minh mới”
khi biết tên khai sinh của tác giả cũng giống với tên đầy đủ của tôi…
Ba. Hôm nay, tôi cố ý đọc báo Phụ nữ để tìm kiếm một điều gì
đó, một đề tài nào đó khả dĩ có thể khiến tôi viết cho Ngày Phụ nữ của chúng
ta. Và tôi một lần nữa lại có một niềm vui rất… khó tả khi tôi đọc một bài viết
của một tác giả mà tôi có thể nghĩ rằng anh (chị) ấy đã chia sẻ tên họ với
mình: Trần Duy Thành.
Bài tản văn viết về một cuốn sách có tựa đề “Có một ngày bố mẹ
cũng già đi”, một tuyển tập của nhiều tác giả do Nhà xuất bản Thế Giới ấn hành.
Tôi chưa có dịp đọc cuốn sách, nhưng phải nói là tôi đã hết sức đồng ý với hai
chuỗi ý tưởng của nó:
Một, từ sách: “Năm tháng vẫn mãi trôi, thời gian không trở lại.
Bạn chẳng bận rộn như bạn nghĩ, năm tháng cũng không dài như bạn tưởng. “Có một
ngày, bố mẹ cũng già đi ” và “Người già là hạt nhân của gia đình, người già
còn, trong lòng mọi người đều nhớ, vì thế sẽ không đi quá xa. Người già không
còn, ai lo việc nấy, tình cảm cũng dần nhạt phai”.
Hai, nhiều hơn, từ bài viết: “Luật tử sinh vốn bất tuân ý
nguyện con người. Dù ta có thương cha mẹ, người thân nhiều đến đâu thì rồi cũng
đến lúc họ rời đi. Nghiệm ra điều này sớm, ta sẽ trân quý hơn những phút giây
còn được kề bên, xem đó như may mắn trong đời.”, “Con người, trong mọi hoàn cảnh,
rồi cũng phải sống tiếp nhưng ký ức sẽ nuôi dưỡng hoặc bào mòn ta, tùy cách ta
trải qua. Nếu sống hiếu-lễ-nghĩa với người thân thương, ta sẽ không phải ân hận
về sau. Việc chứng kiến sự già đi hay phải “sinh ly tử biệt” dẫu buồn nhưng sẽ
không làm ta đau khổ vì day dứt, hối tiếc.”
Tôi không còn cha mẹ già vì song thân của tôi đã khuất bóng.
Mẹ tôi mất cách đây gần 10 năm, còn cha tôi thì gần 3 năm. Thế nhưng, tôi vẫn
thường nhớ tới hình ảnh của hai người tôi vẫn thương yêu nhất. Tuy không phải
ân hận hay hối tiếc vì điều gì sai trái, nhưng tôi biết rằng những gì tôi đã
làm cho cha mẹ tôi, chỉ như những thìa muối mà tôi đã hòa vào đại dương bao la.
Tình nghĩa của cha mẹ tôi dành cho tôi vô bờ bến, tôi đã không thể nào bù đắp nổi.
Giờ đây, nhớ đến công lao sinh thành, dưỡng dục của song thân, tôi chỉ còn biết
nhang khói mỗi ngày…
Trở lại với những cảm xúc của mình, tôi chân thành cám ơn những
ai đã có tên giống tôi với những sáng tác dù đã khiến tôi phải nghĩ suy về việc
này, việc nọ; thậm chí, phải “tự kiểm” bản thân về phương diện này, phương diện
khác, tôi vẫn cảm thấy vui như được chia sẻ tâm tư, tình cảm của những tác giả
đó.
Và, tôi cũng muốn chia sẻ niềm vui này với tất cả mọi người.
Biết đâu, còn sống còn hy vọng, niềm vui này không phải chuyện “tày gang”…
1/8/2023
Trần Danh Thùy
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Mưa tháng bảy - Thơ Tịnh Bình
Mưa tháng bảy - Thơ Tịnh Bình
Phong sương luống nỗi ngậm
ngùi/ Chiều in dáng núi không vui không buồn/ Lệ trời hay nỗi mây
buông/ Đồng khô ruộng cạn đất cằn hồi sinh…
Mưa tháng bảy
Chắt chiu tháng Bảy giọt ngâu
Dùng dằng nắng hạ đôi câu tạ từ
Nặng lòng mây xám hình như
Sợ cơn mưa ướt mùa thu chưa về
Tiếng gà quạnh quẽ trời quê
Cánh đồng thơ bé mải mê cánh chuồn
Quen rồi nắng táp mưa tuôn
Quen rồi nửa mảnh trăng suông đêm thầm
Thương ngâu tháng Bảy trầm ngâm
Nhặt hương hò hẹn gió cầm về đâu
Lòng ai chưa bắc nhịp cầu
Trông vời con nước nghìn sầu trôi xuôi
Phong sương luống nỗi ngậm ngùi
Chiều in dáng núi không vui không buồn
Lệ trời hay nỗi mây buông
Đồng khô ruộng cạn đất cằn hồi sinh…
Tiếng vọng kinh chiều
Chiều ơi cá nhỏ lội đâu?
Sông quê nước ròng nước lớn
Thương nhánh lục bình mắc cạn
Hoàng hôn tím cả dỗi hờn
Phác họa cánh diều thơ ấu
Ngỡ như ngày cũ vọng về
Gió chiều phất phơ áo lá
Đâu rồi đám trẻ triền đê
Thèm nghe câu chuyện mùa màng
Quê mình hai mùa mưa nắng
Tảo tần nương khoai rẫy sắn
Nhọc nhằn lúa trải đầy sân
Cánh cò bay vào ráng đỏ
Nao nao tiếng vọng kinh chiều
Lòng ơi nỗi niềm quê xứ
Thuyền trăng gối bãi cô liêu…
Kiếp bụi
Cô đơn chỉ một mình tôi
Ba đường sáu nẻo mồ côi luân hồi
Hợp tan ly biệt rồi thôi
Trùng trùng sinh tử chia phôi hỡi người
Cũng đành gió rụng hoa rơi
Nửa đời say mộng nửa đời tịch nhiên
Tiễn mây về chốn non thiêng
Tiếng chuông chầm chậm cửa thiền đợi ta
Trăng xanh thoáng chốc trăng già
Trăm năm hạt bụi đâu nhà hư không
Chuyện đời chẳng có lúc xong
Nhân gieo quả gặt xoay vòng mà thôi
Ngược dòng Người thả bát trôi
Bồ đề tĩnh tọa chỗ ngồi an nhiên
Chợt ta kiếp bụi hữu duyên
Nghìn năm bắt chước tọa thiền cội cây…
1/8/2023
Tịnh Bình
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Những khúc cảm - Chùm thơ Lê Đỗ Lan Anh
Những khúc cảm
Chùm thơ Lê Đỗ Lan Anh
Người đàn bà con vẽ bằng ký ức
hôm qua/ Trốn tìm giữa hai tường vôi trắng/ Như thể lời nguyền rạn nứt/ Đổ
sầm những bước chân/ Mẹ ở đâu?/ Con ở đâu?
Những khúc cảm
IV.
Mẹ ơi!
Trên khung toan con vẽ con
Rã rời manh áo
Đường kỷ hà dòng kẻ đen
Không dấu chân trời
Một gam màu nuốt bóng
Con chuột con đỏ lên vì lạnh
Mặt đất với đường biên không giới tính
Ủ dụ đám mây rơi xuống từ mặt người cười khóc
Như kẻ không nhà
Con trườn khỏi bóng con đường
Vết sẹo nứt thân thể mờ đục
Ánh sáng nuốt mất con
V.
Mẹ ơi! Giá như có thể tìm nhau
Trên cánh đồng mất dấu
Vệt bùn khét nắng
Con giun chết khô phận người dìm trong cỏ
Con nghe tiếng đất vỡ
Loài châu chấu ngủ lại trên cánh đồng sinh ra
Có người hỏi về chúng ta
Những di chứng không tên
Như thể ánh lên
Đêm xuyên vào mạch nước những vết sẹo
Con cá tròi lên vũng bùn nghiến ánh sáng quên thân mình
VI.
Mẹ ơi! Con không thể kể mẹ nghe
Về chiếc đồng hồ treo trên đỉnh tháp
Những con người nắn trái tim thành quả lắc
Những khuôn mặt đung đưa
Cái chết dị tật
Hàng số dãy hình lập phương lơ lửng
Cây lúa tróc rễ cánh đồng rụng xuống
Con không thể kể cho mẹ nghe
Về người đàn bà khỏa thân đi trong đêm
Hát bài hát của chúng ta
Người đàn bà con vẽ bằng kí ức hôm qua
Trốn tìm giữa hai tường vôi trắng
Như thể lời nguyền rạn nứt
Đổ sầm những bước chân
Mẹ ở đâu?
Con ở đâu?
2/8/2023
Lê Đỗ Lan Anh
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Thú vị bảy nổi ba chìm kiểu Nguyễn Bắc Sơn
Thú vị bảy nổi ba chìm
kiểu Nguyễn Bắc Sơn
Nguyễn Bắc Sơn là một hiện tượng văn chương độc đáo. Nói thế
có quá không? Thưa không. Bởi vì mãi đến năm 1998, khi đã 57 tuổi, anh mới
trình làng tập truyện ngắn đầu tiên. Khi được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam
là khi anh đã về hưu được hơn một năm, vì đã 61 tuổi. Chỉ 4 năm sau khi in tập
sách đầu đã được vào Hội.
Chưa hết. Từ khi in tập đầu đến khi in hồi kí, nhà văn đã kịp
sản xuất và công bố 24 cuốn truyện ngắn, tùy bút, bút kí, tiểu thuyết và cuốn
thứ 25 Bảy nổi ba chìm 496 trang khổ to 15 x23 cm chữ cỡ vừa. Chưa hết,
nhà giáo, nhà quản lí (chức bé thôi – Trưởng phòng) lĩnh 9 giải thưởng to đùng,
đặc biệt là giải tiểu thuyết danh giá của Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyên những
chuyện đó đã hứa hẹn hồi kí của Nguyễn Bắc Sơn chắc chắn sẽ thú vị.
Tôi đã đọc một số hồi kí của nhà văn, nhà chính trị. Sức hấp
dẫn của loại văn này trước hết là độ tin cậy, tính trung thực. Bạn đọc muốn biết
hoàn cảnh lịch sử, sự kiện xảy ra với những ai, kết quả thế nào? Người viết hồi
kí đã suy nghĩ thế nào, xử lí ra sao, kết cục? Một vài người viết khi tuổi đã
cao, trí nhớ giảm sút; lại có người đưa sự kiện, nhưng người trong cuộc thì đã
mất, bạn đọc không thể kiểm chứng được. Chính việc thiếu chính xác do trí nhớ,
việc không kiểm chứng được đã làm giảm tính thuyết phục của tác phẩm.
Với nhà văn Nguyễn Bắc Sơn, đây không chỉ là dạng hồi kí thuần
túy. Tôi cho rằng đây là TỰ TRUYỆN của tác giả viết khi tuổi đã cao, nhưng trí
nhớ vẫn hoàn toàn minh mẫn. Mặt khác tất cả các chuyện được kể đều là chuyện của
nhà văn với các thành viên gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, học sinh cũ… Không có
“sự kiện” gì to tát, lớn lao. Tôi có biết một số nhân vật như con gái chị Vĩnh
Nga, anh Kim Hệ nhà ở 5 Quang Trung (cùng cơ quan Vụ Giáo dục trung học), anh
Đinh Văn Định ở Thái Nguyên, em trai anh Đinh Quang Ấn… Tôi thấy tác giả Bắc
Sơn kể chuyện về họ rất trung thực và sinh động. Đấy là cái duyên trời phú cho
anh.
Vấn đề không phải là Hồi kí thuần túy, mà là tự truyện. Vì vậy
truyện có sự hấp dẫn riêng của nó. Và độc đáo của hồi kí này chính là nó gồm
hàng loạt những truyện trong đời sống thường nhật, đời sống giáo dục, đời sống
văn hóa và đời sống văn chương… Cũng là độc đáo khi người viết hồi kí thường
xưng tôi, hoặc kể lại ở ngôi thứ ba “biết tuốt”. Còn nhà văn Bắc Sơn thì xưng
“chú”. Vì anh vốn là thành viên út ít của Đoàn thiếu nhi nghệ thuật Lưu Hữu Phước
từ thời kháng chiến chống Pháp mà khi tham gia mới 9 tuổi (năm 1950, phải khai
tăng 1 tuổi). Nay anh làm Trưởng ban liên lạc gồm 11 người và đã viết cuốn Đoàn
thiếu niên nghệ thuật do Bác Hồ đặt tên (NXB Quân Đội Nhân Dân, 2019).
Nhà văn có vẻ hơi phàn nàn về tiểu thuyết Gã Tép riu: “16
báo in, một báo hình (chuyên mục mỗi ngày một cuốn sách VTV1), không kể báo điện
tử không theo dõi được, tịnh không nhắc đến tính tự chuyện của Gã tép riu”
(tr.424). Nhưng không thể trách các tác giả. Vì dù các truyện có thật 100%
nhưng đã được tiểu thuyết hóa rồi. Gã tép riu đó nếu có những gì liên
quan thì chỉ là “yếu tố” có tính tự truyện, chứ không phải là TỰ TRUYỆN. Chính
vì lý do đó mà mới còn đất cho hồi kí TỰ TRUYỆN này. Tôi cũng không đồng tình
khi ai đó cho rằng “hồi kí là tập văn để tác giả nói thêm cho rõ về
mình…”. Với ai đó thì đúng. Còn với Nguyễn Bắc Sơn thì không. Đây là một tác phẩm
độc lập, có giá trị như mọi tác phẩm khác của nhà văn, thậm chí còn hơn nữa…
Tác phẩm này cho biết Nguyễn Bắc Sơn thế nào và tại sao Nguyễn
Bắc Sơn?
Nguyễn Bắc Sơn tự nhận “Không có chí làm quan, không có gan
làm giàu”. Bởi thế mà chức vụ cao nhất bên Giáo dục là Phó hiệu trưởng cấp 3 mà
giờ là Trung học phổ thông (Dân gian cười rằng phó có như không). Bên văn
hóa là Trưởng phòng của Sở. Có thể gọi là quan đấy, nhưng tác giả tự nhận là “đầu
binh cuối cán” thôi!
Nhưng Nguyễn Bắc Sơn vừa có gan, vừa có chí làm nhà báo, nhà
văn. Anh tự đánh giá “Chỉ miệt mài chữ nghĩa, lại hay quan sát tỉ mỉ chi tiết,
thích tò mò khám phá, không ngờ đó lại là phẩm tính cần thiết của một nghề –
không, hai nghề: viết báo, sau đó là viết văn” (tr.48).
Một con người bình thường, tự nhận là tép riu, nhưng là người
sống nghiêm túc, kỷ luật, không ai có thể chê trách. Tạt về nhà đêm 30 Tết, giữa
thời buổi chiến tranh, nhưng vẫn dứt áo ra đi vì tôn trọng kỉ luật quân đội. Vì
thể thủ trưởng cũng tôn trọng người lính mang một ba lô tiền cho đơn vị có mặt
sáng mùng Một Tết… Không hiếm những đoạn vui khi tác giả khá hài hước. Ví dụ vừa
khoe, lại vừa tự diễu mình về chuyện “nghiện”:
“Hơn sáu mươi năm rồi như vẫn còn dư vị trên đầu lưỡi (ăn xu
hào thái chỉ xào với trứng – VN chú) Bởi nó là chỉ dấu khi lần đầu tiên nhìn thấy
em – mối tình đầu cũng là mối tình cuối để bây giờ 80 tuổi vẫn không nghiện rượu,
bia, thuốc lá, chè, cà phê. Không xổ số, không lô đề, cờ bạc. Chỉ nghiện em – vợ
chú bây giờ. Việc này hơn nửa thế kỉ nay, em là nhân chứng” (tr.184). Vâng,
nghiện thì có cai lắm. Ấy vậy mà anh chàng nghiện Bắc Sơn vẫn đủ lí
trí, nghị lực để cai, để vợ đi chuyên gia nước ngoài cứu nhà… Dù sau này anh tự
đánh giá là một sai lầm không sửa chữa được…
Cái anh giáo cấp 3 tưởng hiền lành nhưng cũng rất đáo để. Gặp
lại người cũ (một anh bánh mì bình phương) giờ làm Hiệu trưởng, chào hỏi, có
Quyết định nhưng không chìa ra. Rồi không bắt tay, đi thẳng. Gặp Trưởng phòng Tổ
chức anh phân bua: “Tôi không xin về gần với bất kì giá nào… Về đấy để làm việc
dưới quyền một Hiệu trưởng như thế thì thà không về còn hơn […] Anh có biết tôi
với ông ấy từng cùng một phòng ở Trường Sư phạm Trung cấp không? Và tôi từng dạy
ông ấy học đấy ạ!” (tr.210)… Cái chi tiết này không có gì lớn, nhưng tôi rất
chú ý, vì nó liên quan đến tính cách, đến nhân cách của Nguyễn Bắc Sơn. Ấy là
khi Giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội về hưu. “Tân quyền Giám đốc bảo: “Bác Bắc Sơn gặp
tôi có việc!”. Không đợi mọi người ra khỏi phòng, mặt đối mặt, nói ngay:
– Tôi biết bác là người của bác Vĩnh Cát. Tôi cũng biết bác
có ý định xin đi…
Cũng trả lời ngay, không chậm một giây:
– Anh Vĩnh Cát xin tôi về đây. Nhưng tôi không phải là người
của anh ấy mà là người của công việc. Tôi có ý định xin đi, nhưng chưa có chỗ
phù hợp. Khi nào thích, tôi sẽ đi!” (tr.357)
Thật tự tin và đường hoàng. Nhà văn là người của công việc.
Chính vì làm tốt công việc và chức trách của mình, đặc biệt là giải quyết vấn đề
“xin họp báo” một cách có lý có tình, đúng luật. Với một quan chức cỡ Phó thủ
tướng và con trai cụ Trịnh Văn Bô thì khá đơn giản. Gay cấn và thú vị nhất là
trả lời đơn xin họp báo của ông P.Q.D, người đại diện cho làng Tử Dương, tục gọi
làng Tía (tr.343-344). Nhân chuyện chuyên môn, phải đọc kỹ Hiến Pháp để xem
công dân có quyền biểu tình không, thì lại phát hiện sách Hiến Pháp nhà in đóng
lầm tay sách. Thế là lại thu hồi tất cả các bản in sai…
Không phải ngẫu nhiên mà ông Lê Xuân Tùng, Bí thư thành ủy Hà
Nội đưa Nguyễn Bắc Sơn vào tổ “Biên tập văn kiện Đại hội Đảng thành phố lần thứ
XII” (tr.347-350).
Cuốn sách chỉ có một chương ngắn vỏn vẹn 42 trang nói về những
người bạn văn chương. Nhưng ở đây cho thấy tấm lòng của Nguyễn Bắc Sơn với bạn
và bạn với Nguyễn Bắc Sơn. Mức độ đậm nhạt khác nhau, nhưng những cái tên trong
phần này đều được nhà văn nhắc đến với tất cả sự trân trọng, mến yêu của những
người cùng làm công việc chữ nghĩa.
Có thể nói cuốn tự truyện hồi ký của Nguyễn Bắc Sơn là một cuốn
sách thú vị, hấp dẫn. Cuốn sách cung cấp nhiều tư liệu quý để chúng ta hiểu một
nhà văn đã sống, đã tích lũy, đã mơ ước, đã viết như thế nào, đã “lên bờ xuống
ruộng” ra sao. Nó sẽ có ích cho các nhà nghiên cứu, cho bạn đọc. Đặc biệt là nếu
có thời gian, ta hãy đọc cuốn sách này như lời khuyên của nhà văn đàn anh Ma
Văn Kháng “cần phải đọc nhẩn nha, đọc không vội vàng, vừa đọc vừa thưởng thức,
vừa ngẫm ngợi suy xét” (tr. 417). Chắc chắn là sẽ tìm thấy thêm nhiều điều hấp dẫn
và thú vị.
3/8/2023
Vũ Nho
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Về Huế mùa này
Về Huế mùa này
Mình sẽ được ăn món chi rứa em?
Là câu chị hỏi trong điện thoại hôm qua. Em kể một hơi làm
răng hết. Gần hai ngàn món ăn của Huế người ta đã liệt kê. Từ dân giã cho tới
sơn hào hải vị, từ bình dân cho tới quý tộc thượng lưu, cung đình. Ẩm thực Huế
đã là một đẳng cấp vượt trội. Em mời chị một vòng xe với mấy món nhỏ nhỏ thương
thương nếm trải hương vị ẩm thực mùa hè xứ kinh kỳ chị nhé.
Bình minh từ phía bên tê sông Hương. Ngọn gió mát lành buổi sớm
đưa chân xuôi về Đập Đá. Phía bờ Nam như còn ngái ngủ vì những con phố đi bộ nhộn
nhịp khuya hôm qua thì nắng đã cài lược mấy nhịp Trường Tiền đổ qua chợ Đông Ba
người mua kẻ bán. Đây đó những gánh bún bò cơm hến bánh canh từ miệt Thủy
Dương, Chợ Mai chợ Nọ lúc thúc hối hả toả ra khắp các con hẻm nhỏ. Chạy xe qua
Cồn Hến đi chị. Mình hít hà mấy nồi bắp mới luộc khói lên nghi ngút rồi sà vô
quán bên đường kêu mấy tô cơm hến. Thương ai gà gáy đến đứng trưa tay cào tay
xách bãi bồi bến sông gánh về ngâm kĩ luộc chín tách vỏ.Thịt hến được xào nhỏ lửa
với mỡ, hành, măng khô và thịt ba chỉ thái sợi. Vài lát gừng thơm cho vị nước dậy
mùi. Và vũ hội của các loại rau thơm, rau răm, bạc hà, rau chuối, khế chua xoài
xanh trên tô cơm trắng săn hạt với ruốc, đậu phộng, mè rang, tóp mỡ và cả bánh
tráng nướng… Còn thiếu vị chi nữa hè, chua cay mặn ngọt âm dương đủ cả. Mùi vị
này là thương nhớ bao năm cho người xa xứ đó em. Chị xuýt xoa chảy nước mắt vừa
cười nói. Ăn món Huế ri xa Huế sao đành!
Mới biết Huế mình dễ thương chi lạ. Có những món ăn mới kêu
tên dù trưa nắng 38- 40 độ cũng dựng dậy mà đi.
Khó tả hết được hương vị thiệt Huế mà bước chân vô quán đã nức
mùi thơm. Từng bày đặt bún, nuốc chân, rau thơm, dưa leo bánh tráng tôm
thịt nạc chả quế… đôi lần, nhưng vị ở đây thật lạ. Cũng đủ mặn ngọt chua cay
thanh đậm mới chịu. Nói rứa thôi, làm răng tả hết. Chị phải tay đũa tay bưng trộn
đều lên, hít hà một chút cho tứa nước miếng rồi mới gắp vô miệng. Cái thơm tho
của rau vườn Huế, cái sần sật của nuốc chân trong veo, mùi chả quế thịt tôm kho
đánh… Huế đó chi nữa! Làm biếng không vô bếp chứ mạ nấu món ni đã mấy chục năm.
Chỉ Huế mình mới có rổ rau thơm ngon như này vì nguồn nước ngọt của sông Hương.
Con sứa giòn sật đậm vị nước mặn mòi xứ Tam Giang ra biển. Và chỉ trong những
con hẻm Huế vườn Huế, tô bún giấm nuốt thay bữa trưa mới đậm đà như ri.
Ui chao, thêm ly nước me đá sữa dừa thanh ngọt, mắt chị
ngơ ngác ngắm khu vườn có nạp chè tàu xanh mướt không muốn bước lui.
Chiều chiều ngọn nắng hiu hiu cùng gió. Con đường hai bên bờ
sông Hương rợp bóng cây xanh và hoa. Xứ mình gắt gao nắng gió, để trở thành ”
thành phố bốn mùa hoa” cũng là công sức của những người tha thiết với mảnh đất
này. Hoa nở sáng công viên, dọc lối đi bộ, đan xen với những gốc cổ thụ trên
các tuyến phố. Phượng đỏ nghiêng nghiêng đổ bóng dòng nước trong veo. Bánh bèo
nậm lọc và hàng chục món cho bữa lỡ có khắp nơi trong phố. Từ Kim Long về những
khu vườn Vĩ Dạ, bánh bày trong các tiệm ăn nườm nượp khách du lịch hay
theo gánh bánh canh Nam Phổ về các con hẻm đầy gió và tiếng con nít vòi quà. Những
dĩa bánh bèo xếp trong mẹt tre trong veo màu nước mắm tóp mỡ giòn rụm bột tôm
chấy hấp dẫn; bánh cuốn rau thơm thịt nướng nức mũi theo làn gió; thêm ly nước
chanh đá, mà là chanh Huế mới có vị chua thơm vừa quyện. Chị tủm tỉm cười ngắm
mặt sông đổ xuôi từ bến chùa Thiên Mụ. Dòng nước màu ngọc in bóng vài vệt mây từ
núi Phụng trôi về. Ôi Huế!
Mình về Thuận An đón trăng rằm trên biển, ngang phá Tam
Giang Cồn Tộc Cồn Tè dùng bữa chiều với tôm mực gỏi rong gỏi sứa hay em nấu tô
canh tôm rau tập tàng mới hái sau vườn, dĩa thịt heo kèm dưa giá tôm chua và
đĩa cá bống thệ kho rim nước mắm đường tiêu xay sệt sệt. Ừ về cơm nhà đi thay
vì ra quán cơm niêu cũng y chang mùi vị mạ nấu ngày xưa. Phố mình chừ thèm món
mỳ Ý, bánh mỳ sốt kem nấm hay tô bún mắm nêm, đọi bánh canh cua đều dễ kiếm.
Nhà hàng món Tây dọc ngang đôi hàng phố lớn nhưng món Huế vẫn cuốn hút thực
khách và cả dân bản địa bởi sự phong phú và riêng biệt “không nơi nào có được”.
Chị xuýt xoa sau bữa cơm chiều và nhắc đến những con phố bán chè mà bấy lâu cả
trong mơ người ta vẫn khó quên mùi vị.
Hơn năm chục món chè, chị nhớ không? Chúng mình ghé quán mợ
Tôn Đích thử món chè thịt quay hay vô chè Hẻm ăn chè thập cẩm?
Chúng tôi cầm trên tay mùi hương Huế trong ly chè sen. Từ Bến
Thương Bạc ngó phía trăng lên lấp loáng mấy nhịp Tràng Tiền. Cây cỏ uống nước
sông Hương như thấm đẫm vị ngọt lành thơm tho đêm hạ. Về Huế mùa nào thức đó,
những món ăn mang hồn cốt quê hương mãi là thương nhớ của người đi xa.
Huế, 3/8/2023
Bạch Diệp
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI – Những tìm tòi và thử nghiệm
Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI Những tìm tòi và thử nghiệm Đặt vấn đề thơ trẻ trong 20 năm đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn nhắc đến đội ngũ n...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...