Thứ Ba, 28 tháng 2, 2023

Hữu Loan - Cây gỗ vuông màu tím

Hữu Loan - Cây gỗ vuông màu tím

Nhà thơ Hữu Loan đã qua đời ở tuổi 95. Thơ Hữu Loan ở lại với người đời. Thơ đó “có niềm khát khao cháy bỏng cho một đất nước được tự do, cho dân tộc được giải phóng khỏi ách đô hộ. Cái sức sống mạnh mẽ trong mỗi tác phẩm thi ca là ở chỗ phải ghi được dấu ấn trong một thời khắc đặc biệt”, như ông đã nói và đã làm được. Từ thơ, có thêm một màu là màu tím Hữu Loan. Cây gỗ vuông màu tím – đó chính là chân dung Hữu Loan đời và thơ.
Chân dung cố nhà thơ Hữu Loan
Với ông, tôi cũng như những người cùng thế hệ, chỉ được biết rất muộn, cả về thơ và đời. Gặp ông ngoài đời còn muộn hơn nữa. Mãi tới năm 2008 tôi mới có dịp lần đầu về nhà ông ở thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, khi ông đã tuổi cao sức yếu. Nhưng từ đó cho đến khi ông qua đời tôi lại có mấy dịp đưa các bạn bè Hà Nội và Sài Gòn về thăm ông.
Ông mất ngày 18/3/2010 tại quê nhà. Tôi được tin ông mất khi đang ở TPHCM dự một hội thảo khoa học quốc tế tại Khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn. Đó là vào trưa 19/3/2010. Báo Tuổi Trẻ đặt tôi viết bài ngay về ông. Thế là trưa đó, sau phiên họp sáng của hội thảo, trong khi các bạn bè đồng nghiệp vui vẻ bữa trưa, tôi rút vào phòng khách sạn ngồi viết. Ngồi mãi một lúc tôi vẫn chưa biết mình sẽ viết gì. Hai bài thơ nổi tiếng nhất của ông “Màu tím hoa sim” và “Đèo Cả” thì hẳn nhiên là phải nói đến. Nhưng viết thế nào cho ra cái chất người và chất thơ Hữu Loan trong khuôn khổ một bài viết ngắn cho báo? May sao, khi nhớ lại bài thơ “Cây gỗ vuông” thì tôi đã có được cái tứ cho bài viết của mình: “Hữu Loan – cây gỗ vuông màu tím”. Bài viết đã lên báo Tuổi Trẻ ngày 20/3/2010. Sau này khi đưa nó vào tập sách của mình “Nhà văn như Thị Nở” tôi đã bổ sung thêm hai bài thơ mới của ông được sưu tầm về sau.)
Cố nhà thơ Hữu Loan cùng nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên
1. Ông là một nhà thơ đích thực của nền thơ hiện đại Việt Nam. Đích thực bởi thơ. Chỉ bằng hai bài “Màu tím hoa sim” và “Đèo Cả”, Hữu Loan đã ghi danh mình cho thơ Việt ở sự riêng tư và mới mẻ. “Màu tím hoa sim” là tiếng khóc của một người chồng cho người vợ xấu số, là một tiếng kêu cho tình yêu trong thời đạn lửa, là lời phẫn uất trước số mệnh phũ phàng của con người. “Nhưng không chết/ người trai khói lửa/ Mà chết/ Người gái nhỏ hậu phương/ Tôi về /không gặp nàng/ Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối/ Chiếc bình hoa ngày cưới/ thành bình hương/ tàn lạnh vây quanh.” Tiếng thơ ấy đã lập tức đồng vọng và lan xa trong lòng bao người, dẫu ở một thời chiến tranh bắt con người phải nén nỗi đau riêng, vùi chôn tâm trạng cá nhân để ra trận và cầm súng, bởi vì đó là tiếng thổn thức thắt nghẹn của con tim. “Đèo Cả” hào hùng, hào sảng tinh thần của một thế hệ dấn thân cho vận nước trong hình ảnh những chiến binh như trượng phu ngang tàng giữa núi rừng, chấp mọi hiểm nguy, đùa cùng gian nan.
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối đánh cờ
Người hái cam rừng
ăn nheo mắt
Người vá áo
thiếu kim
mài sắt
Người đập mảnh chai
vểnh cằm
cạo râu
Suối mang bóng người
soi
những
về đâu?
Hai bài thơ khắc ghi dấu ấn rất riêng của Hữu Loan vào một thời thơ. Thơ, chứ không phải cái gì khác, đã làm nên Hữu Loan, đã vinh danh ông. Và ông xứng đáng được vinh danh bằng thơ đó. Những nhát thơ Hữu Loan đục vào thời gian, đục vào tâm khảm, để lại dấu tích không phai.
Cố nhà thơ Hữu Loan cùng người vợ gắn bó cả đời với ông
2. Ông đã sống một cuộc đời dài, thật dài, mà những khổ nạn, thử thách chỉ càng làm bền thêm trong ông những lựa chọn ban đầu khi làm cách mạng và làm thơ. Bỏ phố thị thủ đô về lại quê hương, tự tay vỡ đất vỡ đá lầm lụi tháng ngày nuôi vợ con nuôi mình chống chọi với cuộc sống thiếu thốn vất vả và nhiều chướng ngại, nhưng ông không nề hà, nản chí. Hữu Loan là một con người cương cường. Ai đã một lần gặp ông, nhìn ngắm khuôn mặt ông, nhất là đôi mắt, và nghe giọng ông nói, đều có thể cảm nhận đây là một con người không chịu gục ngã trước thử thách. Trời đã cho ông sức khỏe và ý chí để thọ cao đến vậy sau bao khổ nhọc chồng chất. Nhưng tôi tin trời đã thương ông nên đã ban Thơ cho ông để ông sống được là mình như vậy. Ông tự gọi mình là cây gỗ vuông: “Tôi, cây gỗ vuông chành chạnh suốt đời/ Đã làm thất bại âm mưu/ đẽo tròn/ để muốn tùy tiện/ lăn long lóc/ thế nào/ thì lăn lóc. Chân lý đấy/ hỡi/ rìu/ bào/ phó mộc”. Nhà ông, trên bàn thờ chỉ để một chữ Tâm.
3. Tôi đã thấy chữ Tâm đó mỗi lần bước vào nhà ông ở một vùng quê xứ Thanh. Lần gần đây nhất là trước tết dương lịch 2010 mấy ngày. Khi ấy ông đã yếu nhiều, giọng đã thều thào, nhưng cũng như bao lần có khách đến thăm yêu cầu, ông vẫn cất giọng đọc thơ. Đọc hai bài “Màu tím hoa sim” và “Hoa lúa”. Một bài cho người vợ đầu xấu số mất sớm khiến ông đau xót khôn nguôi hơn sáu mươi năm qua. Một bài cho người vợ sau gắn bó hơn nửa đời người cùng ông trải bao hoạn nạn đắng cay, sinh cho ông mười người con, giữ cho ông tinh thần phải sống. Giọng ông lúc khỏe nghe rõ ràng, khúc triết, sai một chữ một từ là ông sửa lại ngay. Lúc yếu, giọng nghe không rõ, nhưng vẫn thấy tỏa ra trong giọng đọc đó tình cảm sâu nặng sắt son của ông dành cho hai người phụ nữ đã làm nên đời ông – đời một con người và đời một nhà thơ. Nói đến thơ, nhắc lại những năm tháng làm văn nghệ, ông vẫn cương trực với mình trong cách nhìn nhận sự việc, vẫn trung thành với một quan niệm thơ, quan niệm sống đã có từ đầu và từ lâu. Ông như không bận tâm đến việc ra một tập thơ riêng của mình khi mà tập thơ đó nếu ra không đầy đủ, không vẹn con người ông. Nhưng thơ ông đã nằm lòng bao nhiêu độc giả hàng chục năm qua. Không chỉ là một, hai bài đã nổi tiếng, mà còn những bài khác được truyền tụng. Như bài “Tình thủ đô”, mới được nhà thơ Dương Tường và nhà văn Mạc Lân khôi phục lại mấy năm trước. Như bài “Hữu Loan khóc Nguyễn Sơn” năm 1956: “Một đám tang đã diễu hành/ Một đám tang cờ đỏ liệm quan tài/ Nấc lên mầu huyết/ Một đám tang đi/ Không/ bao/ giờ/ tới/ huyệt”.
Chữ Tâm trên bàn thờ trong nhà của cố nhà thơ
4. Nhà thơ Hữu Loan đã qua đời ở tuổi 95. Thơ Hữu Loan ở lại với người đời. Thơ đó “có niềm khát khao cháy bỏng cho một đất nước được tự do, cho dân tộc được giải phóng khỏi ách đô hộ. Cái sức sống mạnh mẽ trong mỗi tác phẩm thi ca là ở chỗ phải ghi được dấu ấn trong một thời khắc đặc biệt”, như ông đã nói và đã làm được. Từ thơ, có thêm một màu là màu tím Hữu Loan. Cây gỗ vuông màu tím – đó chính là chân dung Hữu Loan đời và thơ.
Sài Gòn 19.3.2010
Hai bài thơ của Hữu Loan
Thánh mẫu hài đồng
Nhà thơ Hữu Loan suốt đời mình luôn khắc ghi hình bóng người vợ đầu. Sau bài thơ Màu tím hoa sim bốn mươi hai năm, ông lại làm bài thơ này hồi tưởng lại đêm tân hôn đầu tiên của mình. Bài thơ vẫn đúng chất hồn và giọng điệu Hữu Loan, đầy ắp cảm giác cảm xúc đôi lứa tình yêu. Đây còn được gọi là bài Tục Màu tím hoa sim.
Em ngả cánh tay còn nhiều
ngấn sữa
Cho ta làm gối gối đầu
đêm tân hôn
Sao lại không chính là tay ta
đỡ trước lấy vai nàng
Ta râu ria như râu thép gai
như xương chổi
Gân guốc sù xì phong sương
như một gốc cây rừng
Ta lo lắng sợ tay nàng gãy
Tay nàng mảnh mai như một
nhánh huệ trong bình!
Nhưng lạ thay
nàng ghì đầu ta như
chẳng hề hấn chuyện gì!
Chỉ có chuyện là
ta thấy ta càng lúc
càng thêm nhỏ bé trong
vào ngực măng tơ
Chà dụi
Rúc tìm
Tham lam
Cuống quýt
Ngẩn ngơ
như một hài nhi
khát
mẹ
Nàng càng riết chặt
ta càng thấy bé
Vòng tay nàng đánh đai
Nàng thì thào thổn thức
bên tai
– Anh của em!
– Anh vô cùng lớn của em!
Nhưng trái lại
Anh đang rất bé.
Nàng:
– Anh ơi anh!
Ta:
– Mẹ ơi mẹ!
Bằng một giọng học nói
Hài nhi bập bẹ
(trong hơi thở trộn nhau
bốc men)
– Tôi đối thoại hay là
vô thức nói.
Sau đêm ấy là
em đi
đi
mãi!
Em đi tím đất chiều hoang
Ta như mất mẹ khóc
tang
hai
lần!
Xin kính cẩn hôn chân
Tất cả những đấng gái Việt Nam
Đã sớm mang chất
mẹ
loài
người.
Em trong mẹ
Mẹ trong em
em
ngôi
thánh mẫu
hài đồng
1991
 
Tòng quân
(Nhà thơ Dương Tường nhớ và ghi lại bài này)
Nếu anh ra đi
Mẹ già anh khóc
Trai thời loạn ly
Thương con khó nhọc
Nếu anh ra đi
Người vị hôn thê
Những giọt nước mắt
Đọng trên hàng mi
Nhưng
Nếu anh không đi
Mẹ già anh khóc
Trai thời loạn ly
Mà con không đi
Mẹ thà thương con tóc trắng
Ngày mai cờ về chiến thắng
Mà con không về
Mẹ thà như lá rụng chiều quê
Đến khi con về
Cỏ vàng nấm đất
Nhưng khi nước mất
Vì vị hôn thê
Mà con không đi
Nếu anh không đi
Người vị hôn thê
Mặt nghiêng tay che
Đêm thương lời thề
Thà đợi người đi
Già trên lời thề
Nhưng khi nước mất
Mà anh không đi…
(Khoảng 1947)
 
20/3/2020
Phạm Xuân Nguyên
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
 

Có một câu chuyện dài về Covid-19

Có một câu chuyện dài về Covid-19!

Câu chuyện dài về dịch cúm có vẻ như hoàn toàn ngẫu nhiên, không sớm hơn hay muộn hơn mà xuất hiện ngay Tết Nguyên Đán Canh Tý. 
Nhà thơ Bình Địa Mộc
Người phụ nữ trước khi làm mẹ phải làm vợ; trước khi làm vợ phải làm người yêu; trước khi làm người yêu phải làm cô gái xinh đẹp, dịu dàng, nết na với quỹ thời gian tính bằng đời người. Đó là câu chuyện dài! Nhưng với đại dịch Covid – 19 thì câu chuyện ngắn hơn. Chỉ cần sơ ý hắt hơi một cái hay một cái bắt tay; một cái ôm của người mang mầm bệnh có thể lây lan cho hằng trăm người khác trong tích tắc vài giây, với phạm vi bán kính 1m². Khoảnh khắc lây lan nhanh chóng đó diễn ra trong không gian một toa tàu; một hàng ghế máy bay hay xe khách; một bữa tiệc… Có thể đặt dấu chấm hết cho một niềm hy vọng lớn lao, được gieo hạt từ cánh đồng lao động cần cù của mấy ngàn người ở một thị trấn; mấy triệu người ở một tỉnh lỵ; mấy tỷ người ở một quần thể kiến trúc nhân sinh tồn tại vài ngàn năm sẽ bị hủy diệt trong chốc lát. Đó là câu chuyện đau lòng!
Câu chuyện dài về dịch cúm có vẻ như hoàn toàn ngẫu nhiên, không sớm hơn hay muộn hơn mà xuất hiện ngay Tết Nguyên đán Canh Tý. Thậm chí các nước châu Á còn đang kỳ nghỉ Tết; chưa đi làm, công nhân chưa trở lại công ty; học sinh chưa đi học. Thời khắc này dư âm mùa Xuân nồng nàn còn phảng phất đó đây! Mùa dịch lại bắt đầu ngay Năm Tài chính 2020, tức vào khoảng giữa tháng 1, đến đầu tháng 2 dương lịch kéo dài cho đến hôm nay. Hậu quả gần 240.000 người trên toàn thế giới nhiễm bệnh, gần 9000 ca đã tử vong. Số liệu này sòng phẳng chia đôi, một nửa cho Trung Quốc Đại lục – Quốc gia đông dân nhất thế giới. Quốc gia được cho là tâm dịch, ổ dịch; nơi phát tán con virus corona đầu tiên gây chết người. Một nửa thiệt hại còn lại chia cho các quốc gia bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc, mà phần lớn tập trung tại châu Âu. Câu chuyện đến đây không phải dài nữa, đau lòng nữa mà là rất lan man!
Nói gì thì nói thế giới cũng đã mắc dịch rồi, nhân loại cũng đã có vài ngàn người chết, vài chục ngàn người đang điều trị, người cách li theo dõi. Thậm chí có người tháo chạy khỏi nơi cư trú, người kiên trì bám trụ nước sở tại, người hồi hương về quê. Tuy nhiên nếu ai đó trở về đất mẹ Việt Nam xin hãy tuân thủ khai báo y tế tại sân bay, đầy đủ và rõ ràng. Nếu có cách li xin hãy nghiêm túc chấp hành nội quy, quy chế cách li. Nếu ngột ngạt, khó chịu đôi chút xin hãy thông cảm, đừng đòi hỏi thái quá. Miễn phí mà! Đừng manh động hành xử cá nhân theo kiểu hoang dã, vô tình phương hại đến cộng đồng. Bởi thời gian cách li 14 ngày so với “Ba vạn sáu ngàn ngày” thì bõ bèn gì mà hốt hoảng, nhảy nhót? Xin hãy chậm mà chắc các bạn ạ! Như PTT Vũ Đức Đam – Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng chống nCoV trăn trở “Hãy ngồi yên khi đất nước cần bạn ngồi yên”.
Đồng thời cũng nên hiểu rằng qua đại dịch lần này, chúng ta thấy rõ các quốc gia, vùng lãnh thổ thuộc khu vực, châu lục khác nhau nhưng bộc lộ những ưu điểm, khuyết điểm giống nhau về các lãnh vực như kinh tế, chính trị, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế… Vô hình chung tạo nên một bức tranh toàn cầu gồm các gam màu sáng tối, nhợt nhạt, lung linh kể cả ảm đạm được nét cọ virus Covid – 19 khắc họa mỗi lúc, mỗi nơi một rõ nét, lổn nhổn cung bậc cảm xúc. Bình tĩnh chủ động; lo lắng, sợ sệt kể cả vụng về, lúng túng trong khâu cách li, khoanh vùng, dập dịch. Đó là câu chuyện dài của các vị Nguyên thủ Quốc gia hùng mạnh và chưa hùng mạnh; phát triển và chưa phát triển xoay quanh sự cố khủng hoảng chiếc khẩu trang y tế, mặc dầu giá trị xuất xưởng của nó chỉ vài trăm đồng tiền Việt!
Trước sau gì dịch cúm Covid – 19 cũng sẽ chấm dứt. Bởi hàng trăm, hàng ngàn giáo sư, y bác sĩ, tiến sĩ khoa học khắp nơi trên thế giới về lãnh vực dịch tễ; y tế đang khẩn trương nghiên cứu chế tạo vaccine đặc trị virus corona chủng mới này. Các quốc gia có điều kiện kinh tế cũng đã sẵn sàng chi hằng triệu USD nhằm phục vụ cho dự án thử nghiệm, sản xuất; kể cả bù lỗ cho doanh nghiệp, chi tiền hỗ trợ cho nhân dân thất nghiệp, hạ lãi suất tiền vay ngân hàng. Tuy còn sớm nhưng chúng ta có quyền lạc quan, tin tưởng các trường học sẽ mở cửa trở lại đón học sinh, sinh viên vào học; các công ty tái hoạt động hiệu quả; các cửa hàng, cửa hiệu mở cửa kinh doanh. Đêm xuống ánh đèn sẽ lung linh huyễn hoặc trên khắp phố phường. Hy vọng con người sẽ chung tay tiêu diệt con virus bé nhỏ này, kết thúc chuỗi ngày sống trong hoang mang sợ hãi!
Đó là câu chuyện ở thì tương lai không dài, không ngắn; cứ lấp ló, thập thò trước mắt chúng ta. Song theo anh, cái mất thì đã mất rồi, không riêng gì Việt Nam em ạ, mà ngay cả thế giới nói chung, các quốc gia có nền kinh tế ổn định như Mỹ, Pháp, Anh, Italya nói riêng… Cũng chới với, chênh vênh hà huống gì mình! Đây thật sự là một đợt Tổng diễn tập Phòng chống Thiên tai Dịch bệnh trên bình diện quốc tế. Biểu hiện sức nước nào mạnh, sức nước nào yếu, sức nước nào chưa dâng lên thì thuyền đã úp. Riêng đối với Việt Nam cái được nhiều nhất theo anh là tính nhân văn; tình đồng loại, tình người vốn đã ngủ quên trên vòng tay cuộc sống ấm áp mấy thập kỷ qua; nay mới có dịp hong hơ trở lại. Và sự sống bắt đầu ấm dần lên ngay trên mảnh đất hình chữ S thân yêu của chúng ta. Hiện nay số ca dương tính là 85. Trong có có 16 ca chữa khỏi, đã xuất viện; số ca nghi nhiễm 122. Gần 42.000 ca đang cách li theo dõi; trong đó gần 35.000 ca cách li tại nhà. May mắn nước ta chưa có ca tử vong. Một câu chuyện dài những mong các nhà khoa học, chính trị gia thế giới phải ngồi lại suy nghĩ và tìm ra một phương án phòng tránh tối ưu cho nhân loại sau này, khi mà môi trường tự nhiên, môi trường sống bị hủy hoại nghiêm trọng.
Câu chuyện một chai nước diệt khuẩn, một vài trăm cái khẩu trang y tế may thủ công cấp miễn phí cho bà con. Ổ bánh mì vài ngàn, đến hộp cơm bụi mấy chục ngàn đồng cho người bị cách li kể cả người kiều bào hồi hương cũng hoàn toàn miễn phí. Chưa kể hàng trăm y bác sĩ ngày đêm tác nghiệp trong phòng thí nghiệm; bệnh viện, khu dã chiến nhằm cứu chữa bệnh nhân trong điều kiện tốt nhất có thể. Hằng trăm chiến sĩ công an, quân đội ra quân, cắm trại 24/24 ở các khu cách li, biên giới, đường mòn, lối mở chưa đến mức phải “nằm gai nếm mật” nhưng thực sự cuộc sống, ăn ở, sinh hoạt, đi lại, canh gác… Của anh em ở những nơi này còn rất khiêm tốn, thiếu thốn mọi thứ, nhưng họ vẫn vui vẻ ở đây làm nhiệm vụ hạn chế số người nhập cư trái phép để phòng ngừa lây nhiễm, có khi cả tháng chưa về thăm nhà. Mà khi về đến nhà còn phải tự cách li với vợ con, người thân trong gia đình thêm 14 ngày nữa.
Ngoài ra Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng phát động phong trào hưởng ứng, ủng hộ tinh thần lẫn vật chất cho công cuộc phòng chống dịch cúm ngày càng diễn biến phứt tạp. Từ thùng mì tôm đến một triệu đồng; từ một triệu đồng đến một tỷ… Lan tỏa khắp cộng động người Việt ở trong nước và nước ngoài. Từ các doanh nghiệp, văn nghệ sĩ, mạnh thường quân; đến các em học sinh và nhân dân sẵn sàng chung tay quyên góp. Phong trào này đã kịp thời phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc; lá lành đùm bọc lá rách te tua. Đã khơi dậy lòng tự hào dân tộc, thái độ sống có ý nghĩa của người dân và trách nhiệm của chính quyền các cấp, từ địa phương đến trung ương. Đặc biệt là sự chỉ đạo sâu sắc, toàn diện của cả hệ thống chính trị; sự tham mưu và cung cấp thông tin kịp thời của các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài. Đó câu chuyện lịch sử sáng ngời trong thập niên hai mươi. Mà mỗi người chúng ta là một ngoài bút phản biện sắc sảo chống tin giả trên mạng xã hội, lợi dụng dịch cúm tung tin đồn thất thiệt; một chiến sĩ dũng cảm trên pháo đài chống virus; một ngọn đuốc soi đường trên mặt trận y tế, văn hóa, giáo dục với ý chí quyết tâm cao nhất. Chống dịch như chống giặc!
Sài Gòn, 20. 3.2020
B.Đ.M
 
20/3/2020
Bình Địa Mộc
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
 

Họa sĩ Levitan - Vị đắng của thiên tài

Họa sĩ Levitan
Vị đắng của thiên tài

Levitan (1860-1900) tên đầy đủ là Isaac Ilyich Levitan, người Nga, là họa sĩ không chỉ của nước Nga mà cả thế giới vào nửa sau thế kỷ thứ 19. Vốn là học sinh năng khiếu rất giỏi mỹ thuật, ông tốt nghiệp trường Hội họa, Điêu khắc và Kiến trúc Moskva (1885) và được xem là họa sĩ thiên tài về vẽ tranh phong cảnh.
Họa sĩ Levitan.
Những tuyệt tác để đời của Levitan như Mùa thu vàng (1895), Rừng bạch dương (1885-1889), Đường Vladimir (1892)… mang dấu ấn rõ nét của trường phái hiện thực (realism) sở hữu những nét độc đáo về kỹ thuật và tinh tế về phong cách, sắc màu, khiến người xem tranh không thể nhầm lẫn với bất cứ tranh phong cảnh của họa sĩ nào khác cùng khuynh hướng. Ông được bầu vào Hàn Lâm viện Nghệ thuật Nga (1897) và là bạn của nhà văn Nga A. P. Chekhov (1860-1904).
Levitan mở mắt chào đời ngày 18 tháng 8 năm 1860 trong một gia đình trung lưu trí thức ở thị trấn Kibarty, tỉnh Kovno (nay là Kaunasa, Litva) của nước Nga lạnh giá mênh mông với rừng bạch dương sương trắng nắng tràn. Năm cậu con út Levitan trong gia đình lên 10, người cha giáo viên quyết định chuyển cả gia đình về sống tại Moskva nhằm tạo điều kiện học tập để con cái có được tương lai về sau. Gia đình không dư dả lại không có quan hệ thân thiết hay bà con quen thuộc tại thành phố lớn, cả nhà phải chật vật nương náu trong một căn hộ nhỏ hẹp nằm của một tòa nhà to lớn với những bữa ăn đạm bạc và những bộ quần áo sờn cũ chắp vá. Nhưng bù lại những thiếu thốn của gia đình là niềm vui trông thấy thành tích rạng rỡ của con cái trong học tập và cơ hội thuận tiện được trau dồi thêm kiến thức.
Mỗi sáng sớm, khi cha đi làm, các anh chị đến trường, ở nhà chỉ còn mẹ và cậu con út Levitan. Cậu bé trèo lên bậc cửa sổ, ngồi chăm chú mải mê ngắm nhìn không biết chán những mái nhà san sát nhau, chập chùng đây đó bên những ống khói phủ đầy tuyết lạnh, với ánh bình minh rực rỡ từ chân trời xa tít tắp cùng ánh sáng của ngày tàn bàng bạc tím dần trước khi chìm vào biển đêm mịt mùng. Không gian thủ đô Moskva hoa lệ trở nên huyền ảo và đầy vẻ kỳ bí như những lâu đài trong truyện cổ mà Levitan thường nghe mẹ kể. Chính từ khung cửa sổ nhỏ bé của căn hộ chật hẹp kia, cậu bé Levitan đã đến và gắn kết với thiên nhiên suốt cả cuộc đời mình.
Mới mười ba tuổi, năm 1873, Levitan thi đỗ vào trường Hội họa, Điêu khắc và Kiến trúc Moskva, nơi người anh ruột Adolf của cậu bé cũng đã theo học trước hai năm. Ở trường học, Levitan may mắn được các họa sĩ phong cảnh nổi tiếng Nga lúc bấy giờ là Savrasov, Perov và Polenov hướng dẫn. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nhưng học giỏi, Levitan bắt đầu nhận được học bổng của nhà trường. Thành tích học tập của hai anh em vẫn luôn là niềm tự hào cho gia đình nhưng nổi trội hơn vẫn là cậu em. Sang năm học 1874-1875, Levitan tiếp tục được hội đồng nhà trường thưởng một hộp màu, cùng bút cọ vẽ do năng khiếu đặc biệt về hội họa. Niềm vui rạng rỡ của cha mẹ và các anh chị làm ấm áp gia đình chưa được bao lâu thì cuối năm học, mẹ Levitan qua đời do bệnh suy nhược cơ thể. Mất đi nguồn an ủi tinh thần ở người mẹ hiền, cha lại kiệt sức không còn đi dạy học cộng thêm tuổi cao sức yếu, bị bệnh thương hàn mất đi hai năm sau đó khiến cho đứa con ngoan, hiếu thảo và học giỏi Levitan đôi lúc trở nên ngớ ngẩn vô hồn.
Gia đình hai chị sống chật vật, người anh trai lại ngày càng xa lánh Levitan vì những thành tích học tập xuất sắc của đứa em trai. Không còn nơi nương tựa, Levitan buồn cho thân phận, âm thầm bỏ nhà ra đi, chịu sống trong cảnh nghèo túng. Thường khi Levitan phải nhịn đói hoặc xin ngủ lại ở nhà để xe, có khi trong xưởng họa nhà trường để tiếp tục việc học. Do cuộc sống quá cơ cực thiếu thốn và học tập vất vả, sức khỏe và tinh thần bắt đầu giảm sút. Tuy nhiên, thời gian mong đợi cũng đã đến.
Mùa xuân năm 1977, trong một cuộc triển lãm lưu động tại Moskva có kèm theo cuộc triển lãm của học sinh trong đó có Levitan. Hai bức tranh “Mùa thu” và “Cái sân bỏ hoang” của Levitan, được giới thưởng ngoạn nghệ thuật đánh giá cao và các nhà phê bình nồng nhiệt viết bài khen ngợi tác giả trên tạp chí mỹ thuật. Khi ấy Levitan mới 17 tuổi.
Bức họa “Thu vàng” của Levitan.
Ở hai bức tranh phong cảnh này, với một năng khiếu mỹ thuật sẵn có, chàng họa sĩ trẻ Levitan đã mô tả bằng cảm xúc cực kỳ tinh tế những đường nét và sắc màu từ ánh sáng, những căn nhà gỗ đến rừng cây, phiến lá thật tuyệt vời. Nét bình dị, hồn hậu của thiên nhiên tác giả thể hiện trong tranh đã âm thầm nói lên vẻ đẹp của cuộc sống con người mà những ai không có tình yêu thiên nhiên sâu đậm ắt không chút nào dễ dàng nhận ra.
Ngưỡng mộ tài năng, công chúng mỹ thuật đã gọi chàng họa sĩ tài hoa này là “Ngài Levitan”. Phấn khởi với thành quả đạt được, tiếp tục vươn lên bằng ý chí và nghị lực phi thường, cuối năm 1877, Levitan được cấp học bổng của nhà trường.
Dù cuộc sống khổ cực, đói kém khiến Levitan xa lánh với mọi người chung quanh nhưng càng làm cho chàng gần gũi với thiên nhiên và làng quê nước Nga. Levitan thường ẩn mình trong những cánh rừng thưa hay ngồi vẽ một mình trên thuyền. Trong nỗi cô đơn của thân phận và không gian mênh mông bát ngát của đại ngàn, Levitan có cơ hội cảm nhận sâu sắc được hoàn cảnh khắc nghiệt những con người cùng khổ đè nặng lên từng nóc nhà nhỏ ở làng quê Nga dưới chế độ chuyên chế trong cảnh mùa đông giá buốt. Bức tranh “Làng quê mùa đông” (1877-1878) đã thể hiện rõ nét trong nội dung những nỗi niềm đó.
Trong lần trưng bày tác phẩm hội họa lần 2 do nhà trường tổ chức, Levitan tham gia với bức tranh lụa “Một ngày mùa thu”. Họa phẩm đưa ta đến một công viên hiu quạnh một ngày mùa thu với rừng lá phong ngả vàng, tô điểm  và làm nổi bật lên con đường nhỏ vắng vẻ, đơn độc đi trên con đường ấy là một người vẻ mặt buồn rười rượi, xộc xệch mang bộ váy dài đen cũ bạc màu. Nhà sưu tầm tranh nổi tiếng Châu Âu Tretyakov để vào mắt xanh, đã mua bức tranh ấy với giá 100 rúp, làm cho Levitan vô cùng sung sướng. Không chỉ trong trường mà cả giới nghệ thuật trong phạm vi nước Nga đã bắt đầu chú ý đến người học sinh họa sĩ trẻ tuổi tài hoa Levitan. Có được uy tín, Levitan dễ tìm ra chỗ dạy vẽ cho con cái những gia đình khá giả  khiến cuộc đời anh đỡ phần đói rét. Nhưng sau vụ Nga hoàng Aleksandr II (1818 – 1881) bị mưu sát vào thán 05 năm 1879, hàng loạt người Do Thái bị trục xuất ra khỏi các thành phố lớn của đế quốc Nga, gia đình Levitan bị buộc phải chuyển đến vùng ngoại ô Saltykovka. Nhưng nhờ vào tài năng nhiều người biết đến, Levitan được chính quyền cho phép quay trở lại Moskva dưới áp lực của những người hâm mộ nghệ thuật.
Bức họa “Sắc thu”.
Trong những năm từ thập niên 1880, Levitan vẽ hàng loạt bức tranh về phong cảnh làng quê nước Nga từ vùng ngoại ô Moskva: “Làng quê”, “Liễu rủ quanh nhà”, “Bờ sông”, “Hoa anh đào”, “Làng ven sông”… Dù không hề có bóng dáng người,nhưng tất cả những bức tranh đó ngụ ý mô tả cuộc sống, tâm trạng của con người sống trong những làng quê ấy. Riêng bức tranh “Ngày thu  Sokolniki” của Levitan cũng được nhà sưu tập tranh nổi tiếng của nước Nga là P.M. Tretyakov mua lại. Cũng như danh họa Picasso mới ở lứa tuổi 19 – 20, vượt lên trên mọi nghiệt ngã của cuộc sống.
Levitan bằng cảm xúc cực kỳ nhạy bén và nghệ thuật tinh tế đã bắt đầu thể hiện một độ chín thực sự, đầy trải nghiệm ở sự lột tả cuộc sống đời thường trong lao động và tình cảm con người qua những bức tranh phong cảnh thiên nhiên trữ tình đáng được coi là tuyệt tác.
Trong cuộc triển lãm Mỹ thuật công nghiệp hoành tráng năm 1882 tại nước Nga, cả đoàn người triền miên nối đuôi nhau vào xem. Họ đã trầm ngâm rất lâu trước họa phẩm  “Những người kéo thuyền trên sông Volga” của họa sĩ Rêpin, một bức tranh mà chủ đề như gắn liền hơi thở của tác giả với cuộc sống của nhân dân lao động. Chính tác phẩm của họa sĩ Repin đã tác động và thôi thúc chàng thanh niên Levitan hãy đến với sông Volga để ngộ ra cho được vẻ đẹp một con sông hùng vĩ, có sức sống mãnh liệt và ngập tràn hứa hẹn. Mùa xuân năm 1884, Levitan tham gia cuộc triển lãm của nhóm họa sĩ lưu động và về sau đã trở thành viên chính thức của nhóm này cùng với nhiều họa sĩ nổi tiếng khác. Năm gần cuối khóa học sắp kết thúc, học sinh của xưởng dạy vẽ phong cảnh gấp rút hoàn thành tác phẩm tốt nghiệp để chuẩn bị ra trường. Chủ đề bức tranh tốt nghiệp của Levitan mô tả một cánh đồng mênh mông trong mùa gặt dưới bầu trời âm u dày đặc những đám mây đen như tiềm ẩn một dấu hiệu báo trước điều không tốt lành.
Quả thực điều không hay đã đến với Levitan. Trong thời điểm thẩm định bức tranh tốt nghiệp của anh đã thiếu vắng đi những người thầy thân tín. Người thầy ân cần tận tụy Perov của anh đã mất trước đó 2 năm. Còn thầy Savrasov, người đánh giá cao bức tranh tốt nghiệp của anh xứng đáng với “Huy chương bạc lớn” thì đang tiều tụy chìm dần trong căn bệnh nghiện ngập. Hội đồng nhà trường không thể công nhận ý kiến của một người bị sa thải như Savrasov. Tình huống thật đắng cay, một học sinh năng khiếu giỏi giang như Levitan đành chấp nhận ra trường với một bằng tốt nghiệp loại thường !
Do vậy, dù tốt nghiệp đàng hoàng vào năm 1885, nhưng sống giữa thành phố lớn Moskva với cảnh nhà phố tráng lệ ấm áp, lấp lánh ánh đèn điện ngày đêm, Levitan vẫn là người cô đơn bữa no bữa đói trong bộ quần áo cũ bạc màu không lành lặn. Nhưng mỗi lần đứng trước chiếc giá vẽ như người bạn đường thân thiết, khi nhận ra mùi thơm ngây ngây quen thuộc tỏa ra từ những tuýp màu xinh xắn, Levitan lại cảm thấy yêu đời, không ngừng say mê sáng tác, và khám phá thêm. Những sắc màu sáng tạo, đường nét mới lạ cho từng phiến mây mắt lá, đến trảng cỏ triền sông trong những bức tranh phong cảnh sở trường của mình.
Trong thời gian còn theo học ở trường hội họa, Levitan kết bạn với nhiều nghệ sĩ tạo hình, kiến trúc sư. Họa sĩ N.P. Chekhov, bào huynh của nhà văn nổi tiếng A. P. Chekhov – nhà văn sau này đã trở thành người bạn thân thiết, an ủi, sẻ chia với Levitan trong thời gian anh bị khủng hoảng tinh thần. Cuối năm 1885, đang ở tại gia đình nhà văn Chekhov, không khí bạn bè làm vơi đi bớt phần nào nỗi buồn về người chị ruột kém may có người chồng nghiện ngập và những đứa con khổ sở của họ. Nhưng căn bệnh trầm cảm mắc phải từ ngày mẹ mất có lúc làm Levitan cảm thấy lạc lõng bơ vơ trong cuộc đời. Khi tinh thần hồi phục, thường ngày Levitan hay cùng Chekhov vào rừng hái nấm. Maria, em gái nhà văn Chekhov đôi khi cũng xin tham dự vào những buổi đi này.
Điều làm cô gái Maria nhí nhảnh rất thích thú là được đi vẽ cùng với Levitan. Cô có năng khiếu hội họa, có dịp được ngồi hàng giờ bên Levitan để xem anh xây dựng bố cục, phối màu, xem cách anh cầm bút và hoa tay ký họa bằng mực như phượng múa rồng bay. Xem ra, chàng họa sĩ có cảm tình với người em gái yêu nghệ thuật của bạn mình. Sau một lần vẽ chân dung cho Chekhov, Levitan đánh bạo, sôi nổi tỏ tình với Maria. Nhưng Levitan thất vọng, lòng thêm nặng mối u hoài vì mối tình chân thành của anh không được Maria đáp lại. Bởi lẽ một lẽ không ngờ, từ trước tới nay, cô gái xinh đẹp hồn nhiên chỉ coi Levitan như một người anh. Thêm nữa Chekhov cũng nhận thấy cô em gái bé bỏng ngây thơ của mình không hợp với tính cách phức tạp như Levitan.
Dù rất thương mến bạn, trân trọng tài năng của bạn, Chekhov vẫn muốn tránh cho em gái mình những đau khổ có thể gặp phải sau này trong cuộc sống lứa đôi với Levitan. Thật đau buồn cho nhà nghệ sĩ tài hoa vì đây là lần tỏ tình đầu tiên mà cũng là lần sau cùng với Levitan. Từ làng quê trở lại Moskva để nguôi ngoai chuyện tình buồn nhưng Levitan lại bị sốt viêm niêm mạc, phải nằm liệt giường, mặt mày hốc hác, cũng không còn sức để đọc thư và viết thư cho bạn bè.
Cuối năm 1885, quên đi tấm thân bệnh hoạn yếu ớt và cái giá lạnh ghê người của mùa đông Moskva, ánh nắng long lanh và màu xanh cây cỏ trở nên quyến rũ, thôi thúc anh cầm cọ. Biển Crưm viền quanh những vách đá chông chênh, trên đó những chiếc thuyền đang lướt sóng, không xa lắm là lớp lớp mái ngói đỏ tươi thắm nằm dọc theo bờ biển, dưới bầu trời xanh thẳm… Tất cả cảnh trí hữu tình thi vị đã được Levitan thể hiện trong 50 bức phác thảo của mình.
Chekhov vội vã báo tin vui cho một người bạn: “tài năng của anh ấy phát triển không phải qua từng ngày mà là từng giờ!”.
Người ta còn nhớ lại, khi vừa ra trường một năm, Levitan được chọn vào làm việc ngay tại xưởng vẽ của họa sĩ Savrasop – một giáo sư họa sĩ giàu kinh nghiệm và óc sáng tạo, luôn yêu thương học trò, đặc biệt có lòng yêu thiên nhiên mãnh liệt. Nhờ cơ hội thuận lợi, Levitan cảm thấy vơi bớt đi mặc cảm phiền muộn cho thân phận và ngày càng nỗ lực phát huy năng khiếu theo hơi nóng ngọn lửa đam mê nghệ thuật đang cháy bỏng trong lòng. Ta cũng nên nhớ lại, đây là thời kỳ sáng tạo phong phú nhất của các họa sĩ lưu động mà Levitan là một thành viên. Những bức tranh của Levitan trong giai đoạn này, anh đã vẽ bằng những nhát cọ, màu sắc trí tuệ và tất cả năng lượng của một trái tim thông cảm với một đất nước Nga thống khổ lúc bấy giờ.
Trong cuộc triển lãm tranh lưu động lần thứ 12, Levitan đã hăng hái góp mặt 4 họa phẩm, nổi trội nhất là bức tranh “Buổi chiều trên cánh đồng đã cày”. Với hình ảnh của người nông dân dáng dấp bé nhỏ, đang cúi gập người một cách khốn khổ để điều khiển chiếc lưỡi cày nặng nề vô tri giác trước một không gian rộng lớn là trời và đất. Người xem tranh không khó nhận ra ý nghĩa tố cáo sự ngược đãi toát lên từ họa phẩm qua sự cảm thông của tác giả dù vẫn giữ được sự dè dặt trong bút pháp. Với bức “Chiếc cầu nhỏ”, tác giả, với lòng nhân ái bao la, cho thấy sau chiếc cầu nhỏ bé kia là những căn nhà gỗ không mấy khang trang vốn là nơi trú ngụ của những cuộc đời lầm than đói khổ, bế tắc đáng thương hại vô cùng. Bức tranh “Hồ đầy cỏ 1887” vẽ ra trước mắt ta cảnh trên mặt hồ phẳng lặng, yên ả là một lớp bèo dày đặc. Levitan mô tả ánh nắng mặt trời màu xanh trong, vàng ối, vạch lên lớp bèo hoang dại khiến hồ như sâu hơn, trên mặt hồ nước lung linh nổi bật bóng những cây tùng, cây bách. “Ngày nắng – 1884” là bức tranh mà họa sĩ đã khéo cho ta cái ấn tượng về một khu rừng như hun hút sâu thẳm hơn và cũng mênh mông hùng vĩ hơn.
“Mùa thu vàng nước Nga”.
Mùa xuân năm 1887, dòng sông Volga vốn đã in đậm trong tâm trí Levitan trong những năm tháng tuổi thơ cùng với những bức tranh của các thầy Savrasov và Repin đã giục giã Levitan đến với sông Volga. Anh trở lại đây vào mùa nước lũ chưa rút. Nước mênh mông tràn ngập các cánh rừng ven sông. Một mùa xuân ảm đạm đã hòa với tâm trạng cô đơn, nặng nề của họa sĩ. Nhưng ngày ngày, Levitan lại mang bản phác thảo ra bờ sông ngồi vẽ, vẽ miệt mài, đến khi sắp mưa hoặc chiều muộn mới về nhà. Anh nỗ lực chọn từng đường nét, gam màu để đưa hình ảnh của sông Volga vào mùa xuân hiện ra trên bản vẽ của mình. Nhưng “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’. Người ta thấy, sau những sắc màu rực rỡ trong tranh vẽ màu tro xám xịt tràn ngập lên các phác thảo vẽ vào mùa xuân đầu tiên ở Volga. Họa sĩ đã xây dựng bức tranh “Hoàng hôn trên sông Volga – 1888”. Một hoàng hôn đầy suy ngẫm và chan chứa u hoài với những tia nắng yếu ớt cuối cùng của một ngày đang chìm dần vào những đám mây đen dầy đặc.
Rồi ta lại bắt gặp một “Sông Volga 1887-1888” với gam màu sáng hơn, nhưng hình ảnh trong bố cục vẫn gợi lên một tâm trạng buồn man mác. Bên cạnh những con thuyền chờ đợi trên dòng nước in rõ cảnh vật bên kia bờ, là một con thuyền nhỏ đơn độc giữa dòng, một sông Volga trầm tư sau những giờ phút sôi động. Bức tranh “Sau cơn mưa – 1889” minh họa phong cảnh một thị trấn bên bờ sông Volga có thuyền và xà-lan đậu bên cạnh những ngôi nhà, xa xa cắt nét lên không gian xanh thẳm là những gác chuông nhà thờ. Cảnh vật chủ đạo bằng sự kết hợp giữa nước sông trong vắt với bầu trời quang đảng biêng biếc, không khí mát rượi trong lành sau một cơn mưa nặng hạt.
Đến những tuyệt tác được coi là những họa phẩm để đời của Levitan làm cho tên tuổi họa sĩ càng thêm rạng rỡ. Phải kể đến: “Rừng bạch dương –  1885-1889”. Ở bức tranh nổi tiếng này, qua sự mô tả cảnh rừng bạch dương mênh mông chan hoà ánh nắng thủy tinh, Levitan đã thể hiện một kiến thức vững vàng về hình khối và bản lĩnh chủ động đường nét rất trí tuệ. Kèm theo nữa là nghệ thuật sử dụng màu sắc tinh tế trong sự diễn tả ánh sáng rất nên thơ và biểu cảm không khác gì những danh họa trong nhóm ấn tượng: Claude Monet (1840-1926), Auguste Renoir (1841-1919), Édouard Manet (1832-1883)  Camille Pissaro (1830-1903)… Các nhà phê bình mỹ thuật tại Moskva đặc biệt chú ý đến những bức tranh vẽ sông Volga của Levitan. Chính màu sắc đặc thù, cảm xúc tinh tế như tiềm ẩn nỗi trắc trở, đắng cay thể hiện trong tranh đã mang lại vinh quang cho Levitan.
Năm 1897, Levitan được bầu vào Viện Hàn lâm Nghệ thuật Nga và ngay năm sau, họa sĩ trở thành người phụ trách xưởng tranh phong cảnh tại trường học cũ của mình. Từ ngày sức khỏe trở nên bệ rạc và tinh thần suy sụp, Levitan thường dưỡng bệnh tại nhà Chekhov và có lần không tự chủ được đã dùng súng tự tử nhưng không chết.
Từ cuối năm 1889, Levitan có cơ hội đi Pháp và Italia. Sau khi đi tham quan một vài địa điểm văn hóa nổi tiếng ở Paris – kinh đô nghệ thuật thế giới, anh quay sang nghỉ ngơi tại Italia vào mùa xuân. Tại đây, sự hấp dẫn của những ngôi nhà cổ kính đầy dấu ấn Levitan cảm hứng khai sinh ra nhiều phác thảo “Mùa xuân ở Italia”, thể hiện một sự thanh bình tĩnh tại vô ưu. Khoảnh khắc dừng chân tại đây làm chàng họa sĩ quên đi sự buồn chán bệnh tật, nỗi bất hạnh và bao sự đố kỵ của những kẻ bất tài vô tướng.
Nhưng với lòng đam mê hội họa và niềm tin bất biến, Levitan vẫn bỏ ngoài tai mọi lời ong tiếng nhặng để tiếp tục sáng tác. Bức tranh “Tu viện yên tĩnh” được tán thưởng trong một cuộc triển lãm lớn. Tiếp đến, họa phẩm “Phong cảnh mùa thu với nhà thờ-1890” , rồi “Tiếng chuông chiều -1892”… Bức tranh phong cảnh nào cũng điêu luyện nghệ thuật và bút pháp, đã chuyển tải đến người thưởng ngoạn cảm giác thư thái trong lòng từ một cảnh trí tĩnh mịch yên bình từ xa văng vẳng tiếng chuông ngân. Riêng họa phẩm “Tiếng chuông chiều” được trưng bày ở phòng tranh Nga trong cuộc triển lãm quốc tế ở Chicago (Mỹ). Bức “Đường Vladimir” có nội dung hiện thực, tố cáo chế độc chuyên quyền; Bức “Mặt nước phẳng lặng -1892” thể hiện một sự nhẫn nhục, chịu đựng gần như là thái độ phản kháng bị tắc nghẹn.
Nhưng chính họa phẩm “Mùa thu vàng -1895” trưng bày trong cuộc triển lãm tranh lưu động năm 1896 đã làm cho tên tuổi Levitan trở nên bất tử trong danh sách họa sĩ vẽ phong cảnh lỗi lạc trên thế giới. Ở bức tranh mô tả một mùa thu buồn rất Nga độc đáo này, họa sĩ sử dụng sắc vàng chủ đạo, vẽ ra trước mắt ta hình ảnh cành lá những cây bạch dương, cây phong, cây hoàng diệp liễu rực rỡ tươi sáng chan hòa màu sắc buổi hoàng hôn. Màu lam dìu dịu của dòng sông uốn khúc dường như muốn xoa bớt đi nỗi buồn của mùa thu mà vẫn như đọng mãi một nỗi lưu luyến nơi lòng người trước cảnh rực rỡ cuối cùng trong năm của thiên nhiên, để sau đó nhường lại cho mùa đông lạnh giá, tối tăm và ảm đạm.
Phải chăng ở đây phong cảnh cũng chỉ là một trạng thái của tâm hồn (le paysage n’est qu’un état d’âme. Tác phẩm nào của Levitan cũng có thể đem đến cho sinh viên, học sinh mỹ thuật những điều hay đáng được khám phá và học hỏi về nghệ thuật vẽ tranh phong cảnh. Dù sức lực ngày một kiệt dần, Levitan hằng ngày vẫn tận tụy với học trò ở trường dạy vẽ và không ngừng sáng tác. Những bức tranh phong cảnh vẽ lúc gần cuối cuộc đời ngắn ngủi của họa sĩ: “Làng quê trăng sáng- 1897”, “Đồng cỏ ở bìa rừng – 1898”, “Đồng cỏ khô”, “Giông tố và mưa”, “Hồ – 1890” (còn gọi là “Nước Nga hay “Tổ quốc”), “Tia nắng cuối cùng”, … Đặc biệt trong bức tranh “Tia nắng cuối cùng”, vẫn với phong cách trữ tình trong bút pháp, Levitan đã như muốn mượn cảnh làng quê nhập nhoạng trong ánh chiều tà đang chìm dần vào bóng đêm, để gợi lên một sự lắng đọng tâm tư và lòng bồi hồi xao xuyến ở con người trước cảnh hoàng hôn của thiên nhiên.
Phải chăng là “Tài mệnh ghét nhau” như lời một thi hào đã nói mà cuộc đời như một trái đắng. Ở nước ta cũng không hiếm những minh chứng định đề này trong lịch sử văn học nghê thuật: Bích Khê (1916-1946), Hàn Mặc Tử (1912-1940),Thạch Lam (1910-1942), Vũ Trọng Phụng (1912-1939)… Trong khi tài năng nghệ thuật của Levitan đang tiếp nối bay cao thì căn bệnh tim trong người anh lặng lẽ tàn phá đến mức nguy kịch: họa sĩ bị giản động mạch chủ và có băng trên ngực. Có những cơn đau tim đột ngột làm vật ngã Levitan trước cầu thang của viện Bảo tàng, người ta phải vội đỡ họa sĩ dậy để đưa về nhà. Ngày 26 tháng 09 năm 1897, giáo sư hội họa Savrasov, người thầy tận tụy đáng kính của Levitan qua đời. Khi nghe tin, anh vẫn cố gượng dậy viết một bức thư thăm hỏi bạn bè và cho đăng bức thư ấy trên báo như một vòng hoa dâng lên mộ người thầy học đáng kính trong đời mình.
Dù sớm được biết tới về tài vẽ tranh phong cảnh, họa sĩ Levitan đã phải sống nghiệt ngã suốt cuộc đời ngắn ngủi trong cảnh đói nghèo, bệnh tật cũng như nỗi đau buồn về chuyện tình ái lứa đôi nên anh mất khi mới 40 tuổi. Mộ phần Levitan đặt tại Dorogomilovo, sau được cải táng về nghĩa trang Novodevichy (Moskva), nằm cạnh bên mộ người bạn thân là nhà văn Chekhov.
Họa sĩ tài hoa Levitan đã để lại một sự nghiệp phong phú và giá trị đặc biệt về tranh phong cảnh trữ tình ấn tượng của bậc thầy trong di sản nghệ thuật thế giới!
Đan Thanh
 
20/3/2020
Trần Hoài Anh
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
 

Cảm thức lịch sử trong Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên

Cảm thức lịch sử trong Việt Nam
diễn nghĩa của Cao Văn Liên

Đọc Việt Nam diễn nghĩa, Cao Văn Liên,  Nxb. Hồng Đức, 2019
Cảm thức lịch sử trong Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên chính là những trăn trở, những suy tư, dằn vặt của một nhà nghiên cứu lịch sử mang cảm quan của một nhà văn trước vận mệnh dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước. Bộ tiểu thuyết này, vì thế không chỉ luận bàn chuyện quá khứ của lịch sử mà Cao Văn Liên muốn dùng lịch sử đã qua như một gương soi những vấn đề hiện tại của đất nước mà một trí thức, một nhà nghiên cứu lịch sử như ông không thể không thao thức, nghĩ suy.
Tác phẩm Việt Nam diễn nghĩa của tác giả Cao Văn Liên
Dẫn nhập
Có thể nói, lịch sử Việt Nam là lịch sử của những tháng năm chiến đấu, bảo vệ độc lập tự do, chủ quyền tổ quốc. Thế nên, cảm thức lịch sử trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong văn học, rõ nhất là các tiểu thuyết về đề tài lịch sử.
Những năm gần đây, từ nhiều điểm nhìn và phương thức thể hiện khác nhau, các nhà văn đã tập trung khai thác nhiều vấn đề về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhất là thời kỳ phong kiến. Song, nếu những tiểu thuyết lịch sử phần lớn tìm hiểu các sự kiện lịch sử để luận giải về một nhân vật, một triều đại, một giai đoạn nhìn từ một lát cắt lịch sử và mang tính hư cấu của thể tài tiểu thuyết như: Thăng Long nổi giận của Hoàng Quốc Hải, (Nxb.Phụ nữ,1993); Danh tướng Trần Hưng Đạo của Hoàng Công Khanh (Nxb. Văn học, H, 1995); Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, (Nxb.Phụ nữ, H, 2000); Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác (Nxb. Văn học, H, 2003); Hội thề của Nguyễn Quang Thân (Nxb.Phụ nữ, H, 2009); Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh (Nxb. Hội Nhà văn, H, 2018)… thì, ở Việt Nam diễn nghĩa (3 tập, Nxb. Hồng Đức, 2019), Cao Văn Liên tập trung tìm hiểu lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam từ thời Hùng Vương dựng nước và kết thúc ở thời kỳ Quang Trung đại phá quân Thanh. Nghĩa là, cảm thức lịch sử của nhà văn chỉ dừng lại ở giai đoạn chống xâm lược phương Bắc, giữ độc lập, chủ quyền của tổ quốc như một sự nhất quán trong chủ đề, tư tưởng mà người viết muốn thể hiện, nên không đề cập về thời kỳ nhà Nguyễn, vì lúc này, dân tộc đã trải qua một thời kỳ khác của lịch sử chống ngoại xâm mà có thể, tác giả sẽ giành cảm hứng sáng tạo cho một công trình khác chăng!? Phương thức thể hiện trong bộ tiểu thuyết lịch sử này là luận giải vấn đề lịch sử theo cách diễn nghĩa, phi hư cấu, (hoặc nếu có hư cấu thì tính chất hư cấu cũng rất mờ nhạt). Và từ phương thức diễn nghĩa, phi hư cấu này, tác giả thể hiện cảm thức lịch sử của mình với tư cách là một nhà nghiên cứu lịch sử viết văn, không phải là nhà văn viết lịch sử. Đây là điểm khác biệt nếu không nói là sự mới/ lạ, thể hiện một hướng đi riêng về cách tiếp cận lịch sử của của Cao Văn Liên trong Việt Nam diễn nghĩa so với các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử khác trong đời sống văn học hiện đại nước nhà. Vì thế, cảm thức lịch sử này cũng là những thông điệp mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn về lịch sử dân tộc, tác giả gửi đến người đọc qua những diễn ngôn mang tính giao thoa giữa hai thể văn và sử, vốn khá quen thuộc trong tiến trình văn học dân tộc.
2. Cảm thức lịch sử nhìn từ niềm tự hào nòi giống và văn hóa dân tộc
      Có thể nói, căn tố để khẳng định sự tồn sinh của một dân tộc trong cộng đồng thế giới không phải là hệ ý thức, là thể chế chính trị mà chính là cội nguồn nòi giống, là giòng sinh mệnh văn hóa dân tộc định hình trong quá trình lịch sử. Vì vậy, dân tộc nào  cũng tạo ra huyền thoại thiêng liêng, cao đẹp về nguồn gốc giống nòi và những phẩm tính riêng cho giòng sinh mệnh văn hóa của mình. Và đây là một cảm thức lịch sử luôn tiềm ẩn trong tâm thức mỗi người, trong đó, có nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử. Đọc bộ tiểu thuyết lịch sử Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên, ấn tượng đầu tiên thức nhận trong tâm cảm người đọc đó là Cảm thức lịch sử nhìn từ niềm tự hào nòi giống và văn hóa dân tộc, mà với một cái nhìn khoa học và quá trình nghiệm sinh của một nhà nghiên cứu lịch sử dân tộc và thế giới, trong cảm quan một nhà văn, tác giả đã luận giải sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, không chỉ qua những cuộc chiến chống ngoại xâm mà còn qua hệ hình văn hóa ngàn đời của nền văn minh nông nghiệp, khi ông xác quyết: “Khác với những nơi khác trên thế giới, chiến tranh góp phần thúc đẩy, làm bà đỡ cho sự ra đời nhà nước thì người Lạc Việt có những nhu cầu bức thiết hơn. Đó là nhu cầu trị thủy các con sông lớn: Sông Hồng, sông Mã, sông Lam, sông La… nhu cầu chống lại các cuộc xâm lược của các triều đại Thương – Chu – Tần ở phía Bắc, nhu cầu trao đổi kinh tế văn hóa giữa các Bộ lạc”.[1] Nghĩa là: “Cư dân Văn Lang đã xây dựng và phát triển một nền văn hóa tinh thần, vật chất phong phú, đặt nền tảng lâu dài cho một nền văn hóa Lạc Việt”.[2] Đây là một cái nhìn có chiều sâu văn hóa, thể hiện sự đổi mới tư duy khi lý giải về lịch sử dân tộc !? Trong cảm thức Cao Văn Liên, vấn đề xây dựng niềm tự hào về nòi giống và văn hóa dân tộc là một sứ mệnh lịch sử đã được các thế hệ cha ông ý thức, đắp bồi như: “Đức Thế Tổ Kinh Dương Vương, Đức Thái Tổ Lạc Long Quân, Đức Mẹ Âu Cơ đã trải qua bao gian lao khó nhọc mở mang giữ gìn bờ cõi, dựng nên Quốc gia đất nước”. (…) Và “Dòng họ Hồng Lạc của ta không chỉ có công dựng nước mà còn dạy cho cư dân biết cày cấy, trồng trọt đánh cá, săn bắn, chăn nuôi, khai phá ruộng nương, làm nhà làm cửa, sản xuất vật dụng và vũ khí, trồng dâu nuôi tằm dệt vải. Dạy cho dân biết thuần phong mỹ tục, tôn kính trời đất, tổ tiên, hiếu thảo với gia đình, thương yêu nhau… Vì thế, cơ nghiệp của họ Hùng Lạc ta bền vững đến nay đã gần 1000 năm với 17 đời Tiên đế”.[3] Đây là cội nguồn tạo sức mạnh diệu kỳ để dân tộc ta đứng vững suốt trường kỳ lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Trong cảm quan của mình, Cao Văn Liên không chỉ nhìn thấy sức mạnh mà còn nhìn thấy sứ mệnh của văn hóa đối với sự hưng vong của đất nước, khi ông khẳng định: “Văn hóa là nguồn sức mạnh, là linh hồn  của dân tộc. Một dân tộc khi bị ngoại bang thống trị, nếu vẫn giữ được nền văn hóa thì còn linh hồn, còn sức sống. Khi kẻ thù yếu thì còn có thời cơ quật khởi đứng dậy lật đổ chúng mà giành độc lập dân tộc”.[4] Chính vì vậy, tác giả đã vạch trần thủ đoạn và âm mưu đồng hóa văn hóa của nhà Hán như một “diệu kế” đầy “ngụy tín” gọi là “khai hóa” mà bọn xâm lược phương Bắc “rêu rao” nhằm thực hiện chủ trương tiêu diệt đến tận gốc rễ cội nguồn văn hóa dân tộc ta. Vì thế, Tô Định đã ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền bằng mọi cách: “Phải tiêu diệt nền văn hóa Việt, buộc chúng phải theo văn hóa Hán”. Và “Bên cạnh chính sách bóc lột, nhà Hán còn tiến hành chính sách đồng hóa văn hóa, tiêu diệt văn hóa Việt, buộc dân Việt phải theo văn hóa Hán (…) Chúng du nhập chữ Hán, du nhập phong tục tập quán Hán vào Âu Lạc và buộc cư dân Việt phải học và phải theo phong tục tập quan Hán. (…) Dã man hơn, chúng giết hại đàn ông Việt, buộc phụ nữ Việt phải lấy đàn ông Hán, con người Việt sinh ra phải khai họ Hán. (…) Chúng đập phá văn bia, đền miếu của người Việt”.[5] Nhưng mặc dù tiến hành rất nhiều thủ đoạn gian xảo thì “Người Hoa không đồng hóa được người Việt, ngược lại bị người Việt đồng hóa”.[6] Bởi, không như những dân tộc khác dễ dàng bị đồng hóa, sức mạnh nội sinh trong văn hóa Việt luôn là một ẩn số mà những kẻ xâm lược dù giàu mạnh và nham hiểm đến đâu cũng không thể giải mã được sự nhiệm màu của giòng sinh mệnh văn hóa Việt mà những việc làm sau đây của dân tộc ta qua lời “tự thú” của quan lại nhà Hán là một xác chứng “Công việc bắt những đứa bé mới sinh của người Việt khai theo họ Hán bị người Việt kịch liệt chống lại, dù chết không theo (…) Việc bắt phụ nữ Việt lấy chồng người Hán cũng bị dân Việt phản đối kịch liệt, dù chết không làm (…)  Còn việc đập phá đền chùa miếu mạo của người Việt cũng không kết quả. Đập phá đền chùa miếu mạo nhưng trên đống gạch đổ nát ấy dân Việt vẫn ra cúng tế và lễ bái. Việc bắt dân Việt cưới hỏi theo phong tục tập quán Hán cũng rất khó khăn. Dân Việt vẫn cưới hỏi theo phong tục của họ đã có từ thời Hùng Vương”[7]. Niềm tự hào về giống nòi và lịch sử dân tộc như một sức mạnh tinh thần kỳ diệu cũng được thể hiện vô cùng cảm động qua lời khấn vái đậm sắc màu văn hóa tâm linh của Nữ tướng Trưng Trắc trước khi xuất quân tiêu diệt Tô Định để trả thù nhà, đền nợ nước: “Kính thưa thiên thần, địa thần, long thần Văn Lang, Âu Lạc, kính thưa liệt tổ tông, Kinh Dương Vương, Lạc long Quân và Mẹ Âu Cơ, 18 vua Hùng Vương, đã hơn 200 nay đất nước Văn Lang Âu Lạc mất vào tay bọn giặc phương Bắc. Dân tình điêu linh và sớm muộn cũng diệt vong trong bàn tay độc ác của quân thù. Nay chúng con không ngại hy sinh để cứu giống nòi. Kính mong quí thần nước Nam phù hộ cho chúng con chiến thắng quân thù để cứu nguy dân tộc, bảo vệ giống nòi Lạc Việt, Âu Việt tránh được họa diệt vong”.[8] Và sau khi chiến thắng quân xâm lược nhà Hán, ý thức về cội nguồn nòi giống và văn hóa dân tộc còn được Trưng Nữ Vương thể hiện ở việc lấy “Quốc hiệu Hùng Lạc”, chủ trương khôi phục nền văn hóa dân tộc bằng cách:“Phát huy tất cả những phong tục, tập quán trang phục, lễ nghĩa trong quốc gia và trong gia đình của giòng giống Lạc Việt, Âu Việt và Bách Việt tại quốc gia Hùng Lạc, xóa bỏ những phong tục tập quán, trang phục lễ phục, lễ nghi, trang phục của Hán mà bọn thống trị Hán buộc ta phải theo suốt trong 200 năm nay”.[9] Không chỉ có Trưng Nữ Vương mà cảm thức lịch sử, ý thức về cội nguồn và văn hóa dân tộc trong Việt Nam diễn nghĩa còn được Cao Văn Liên thể hiện ở lời tuyên thệ của Nhụy Kiều tướng quân, Triệu Thị Trinh ở cuộc khởi nghĩa chống giặc Ngô như sự tiếp nối về ý thức dân tộc của những con dân nước Việt: “Ta sẽ cố gắng hết sức cùng các Huynh và tướng sĩ ra sức giết giặc Ngô, thỏa lòng mơ ước và hoài bảo của chúng ta, đáp ứng lòng mong mỏi của bách tính Lạc Hồng”.[10]
Cảm thức lịch sử về sức mạnh nguồn cội và giòng sinh mệnh văn hóa dân tộc trong Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên không chỉ thể hiện ở việc khẳng định vai trò của văn hóa đối với sự tồn sinh của đất nước mà còn nhận thức được mối quan hệ biện chứng, sự tác động giữa kinh tế và văn hóa qua lời Khúc Hạo: “Cải cách chính trị, kinh tế sẽ tác động đến văn hóa và tinh thần của bách tính, tăng cường ý thức dân tộc, độc lập tự chủ, bảo vệ và xây dựng nền văn hóa mang màu sắc Việt của tổ tiên để lại”.[11] Phải chăng, chính niềm tự hào về giống nòi và ý thức giữ gìn “giòng sinh mệnh văn hóa” mà dân tộc ta đã đứng vững và không chỉ đứng vững mà còn chiến đấu và chiến tháng mọi kẻ thù xâm lược để bảo vệ độc lập tự do và chủ quyền dân tộc, điều mà đến hôm nay vẫn là một sứ mệnh, một thách thức to lớn và thiêng liêng đặt trên vai mỗi cư dân Con Lạc Cháu Hồng. Cảm thức lịch sử nhìn từ niềm tự hào nòi giống và giòng sinh mệnh văn hóa dân tộc trong Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên, vì thế, là một thông điệp có giá trị thức nhận đối với chúng ta trong ý thức bảo vệ chủ quyền và bảo vệ nền văn hóa dân tộc không chỉ hôm nay mà cho cả mai sau.
Cảm thức lịch sử nhìn từ quan hệ giữa dân tộc và người lãnh đạo đất nước
       Kịch tác gia Tào Mạc khi viết lời đề từ cho vở chèo Lý Thánh Tông chọn người tài có chia sẻ: “Biết kén chọn người hiền tài ở giữa chốn trần ai/ Thì mới là ông Vua thông minh sáng láng”.[12] Như thế, trong suy niệm của Tào Mạc, khi viết Bài ca giữ nước, thì việc chọn người hiền tài cũng là một nhân tố không chỉ liên quan đến sự tồn vong của một vị Vua, một triều đại, mà còn liên quan đến sự tồn vong của một quốc gia, một dân tộc. Tuy, “một con én không làm nên mùa xuân”, nhưng để có mùa xuân  không thể không có chim én, nhất là những con chim én có sức mạnh gọi đàn. Vai trò người lãnh đạo đất nước dù ở bất cứ thời kỳ lịch sử nào, cũng quan hệ mật thiết với dân tộc, vì những quyết định của họ luôn liên quan đến vận mệnh tổ quốc, nhân dân.
Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử dân tộc, bên cạnh niềm tự hào về nòi giống và bản sắc văn hóa dân tộc, một điều không thể không bàn đến đó là mối quan hệ giữa dân tộc và người lãnh đạo đối với sự tồn sinh của tổ quốc. Đây cũng là một bình diện thể hiện cảm thức lịch sử trong Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên, không thể không quan tâm mà biểu hiện trước tiên là việc giải quyết mối quan hệ giữa lợi quyền dân tộc với lợi quyền của cá nhân, của dòng tộc, của triều đại. Bởi lẽ, nhìn vào sự hưng vong của các triều đại trong lịch sử dân tộc, ta thấy một vấn đề mang tính qui luật phổ quát, đó là triều đại nào biết đặt quyền lợi của tổ quốc, nhân dân trên quyền lợi của triều đại, của gia tộc, và tìm được người lãnh đạo anh minh, tận hiến vì nước, vì dân, thì đất nước hưng vong, thịnh trị, vững bền, và ngược lại!?. Đây là điều được lịch sử dân tộc xác chứng mà với tư duy của một nhà nghiên cứu lịch sử cùng cảm quan của một nhà văn, Cao Văn Liên đã luận giải qua tâm ý của Vua Hùng Vương thứ 18: “Làm vua một nước là công việc rất nặng nề, phải lo cho nước, cho dân”.[13] Và, việc “chọn vua một nước là vô cùng trọng đại, nó quyết định sự sống còn của đất nước, phồn vinh hay bại vong, hưng thịnh hay suy tàn. Cho nên truyền ngôi phải chọn người tài đức, không nhất thiết phải truyền cho con trưởng nếu như người đó không có tài đức”.[14]
Tính quyết định của vai trò người lãnh đạo trong suy niệm của Cao Văn Liên là vô cùng quan trọng, bởi dù: “Thần dân cần cù thông minh sáng tạo có nền tảng văn hóa lâu đời, có truyền thống đánh giặc tài giỏi. Nhưng tất cả nguồn lực đó cũng chỉ là thế khả năng. Muốn biến khả năng thành hiện thực làm cho đất nước hùng mạnh, thần dân no ấm, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược thì phải có những vị vua tài đức”.[15] Chính từ ý thức này, Trưng Nữ Vương, sau khi đánh đuổi nhà Hán, tiến hành xây dựng đất nước đã rất chú trọng đến vai trò người lãnh đạo qua việc “Bổ nhiệm quan lại đã căn cứ vào học thức và công lao trong cuộc khởi nghĩa giành độc lập nhưng phải có tài, năng lực trình độ, có lòng thương dân, sự trung thành với triều đình Mê Linh, với đất nước Hùng Lạc”.[16]
Một vấn đề chi phối sâu sắc cảm thức lịch sử của Cao Văn Liên về mối quan hệ giữa dân tộc và vai trò người lãnh đạo đất nước trong Việt Nam diễn nghĩa đó là việc đề cao tư tưởng thân dân trong quốc sách xây dựng đất nước. Minh chứng cho vấn đề này là hành động Tướng Trương Hát can ngăn Triệu Việt Vương không nên chia đất cho Lý Phật Tử vì hắn là kẻ gian xảo, bất tài nhưng ham mê quyền lực: “Trả ơn cho Lý Nam Đế, Bệ hạ phong cho hắn quan cao chức trọng là được, còn nước là của dân, không thể mang cái của dân đi tặng được, vả lại nước là phải thống nhất, một nước không thể có hai vua. Bệ hạ không thể đem vận mệnh quốc gia mà trao cho môt kẻ gian tham như vậy”.[17] Hay lời khẳng định của Khúc Thừa Dụ trước Tướng sĩ sau khi đã chiến thắng người Hán giành lại độc lập tự do cho dân tộc: “Nay chúng ta đã giành được chính quyền về tay người Việt, việc cốt tử nhất là phải bảo vệ củng cố vững chắc nền độc lập, tự chủ, muốn làm được như vậy phải cải cách, củng cố chính quyền để cho chính quyền thực sự là của người Việt, thực hiện một nền chính trị thân dân”.[18] Vì thế, trong cai trị đất nước Khúc Thừa Dụ yêu cầu cử các “hào trưởng người Việt” thay thế cho quan chức Hán “Nhưng dù là người Việt nếu là quan tham nhũng cường hào, ác bá bóc lột bách tính thì cũng bãi miễn. Quan lại người Việt phải có đức có tài, tuyệt đối vì bách tính vì nước và trung thành với Tiết độ sứ”.[19] Và khi Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo lên thay cũng duy trì tư tưởng thân dân trong chính sách cai trị, ông yêu cầu “khi cai trị, quan lại các cấp phải khoan dung, giản dị để nhân dân được yên vui. Khoan dung là không bắt buộc khắt khe quá đối với nhân dân. Kiên quyết chống tham quan ô lại, giản dị là nền hành chính không quan liêu, không nhũng nhiễu, phiền hà nhân dân, tạo cho nhân dân yên vui, an cư lạc nghiệp. Đó là lý tưởng ước mơ nơi làng xã. Đó là nền chính trị thân dân”.[20]
Xuất phát từ tư tưởng thân dân, Cao Văn Liên cũng chỉ ra những hạn chế trong việc lãnh đạo đất nước của Triệu Việt Vương khi xây dựng nhà nước Vạn Xuân. Trong cái nhìn của Cao Văn Liên: “Nước Vạn xuân đang đứng trước tai họa mà trước tiên là Hoàng gia họ Triệu và Triệu Việt Vương, một con người nhân từ, tín nghĩa nhưng nhân từ tín nghĩa đã đặt nhầm chỗ” khi chia một phần lãnh thổ quốc gia cho Lý Phật Tử, “một kẻ bất tài hèn nhát nhưng tham lam danh vọng, địa vị, quyền lực, tiền tài, khi kháng chiến gian khổ thì bỏ trốn, khi đất nước phục hưng thì giở đủ trò gian manh để được vinh thân phì da… không quan tâm gì đến sự tồn vong của dân, của nước”.[21] Sai lầm của Triệu Việt Vương, không chỉ thể hiện ở hành động cụ thể đó, mà nguy hiểm hơn là ở tư tưởng: “Đặt quyền lợi gia đình trên lợi ích quốc gia, không nhận rõ bạn thù, không nghe lời những trung thần, những người trí thức biết nhận rõ thời cuộc”[22] nên phải nhận sự thất bại trong xây dựng đất nước và chống ngoại xâm là tất yếu. Đây là bài học thiết thực trong hành trình dựng nước, giữ nước đã được lịch sử xác chứng mà những người có vai trò lãnh đạo đất nước ở mọi thời kỳ lịch sử không thể không lưu tâm, nếu có tấm lòng với đất nước, với dân tộc, với nhân dân…
Và để có nhà nước thân dân, một vấn đề được các triều đại phong kiến quan tâm sau khi đánh thắng ngoại xâm, tiến hành xây dựng đất nước là việc chọn người lãnh đạo, không chỉ đủ tài thao lược mà còn phải có tư tưởng vì dân. Thế nên, sau khi thắng quân Nam Hán, Đinh Công Tráng đã đề nghị Đương Đình Nghệ nhận chức Tiết độ sứ để lãnh đạo đất nước vì: “Công việc đứng đầu quốc gia là một trọng trách nặng nề, khó nhọc phải đủ tài đức, nhiều kinh nghiệm, lại phải được anh hùng hào kiệt quan chức các cấp và bách tính tín nhiệm, uy đức vang xa bốn biển, vua chúa phương Bắc  phải khâm phục, nể sợ. Nay chúa công là người tài đức, uy vũ vang bốn phương, bách tính đều mong muốn, xin chúa công đừng từ chối”.[23] Là người lãnh đạo chính trực, có tư tưởng thân dân, được tướng sĩ kính trọng,  nên khi bố trí cán bộ, Dương Đình Nghệ luôn đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi gia tộc xóm làng, địa phương, vì theo ông: “Xưa nay kẻ làm quan ở quê nhà sẽ trở nên hư hỏng vì họ hàng anh em nhờ cậy, Nhờ cậy quan không được thì họ nhờ vợ con quan. Nể tình anh em họ hàng, vợ con quan vi phạm và cuối cùng quan vì vợ con cũng vi phạm phép nước”.[24] Đây không chỉ là chuyện của lịch sử xa xưa mà là chuyện của muôn đời, là bài học cấp thiết cho hôm nay về việc đào tạo và bố trí cán bộ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nếu chúng ta không muốn đi ngược lại những vấn đề có tính qui luật phổ quát mà tiền nhân đã giáo huấn.
Tư tưởng xây dựng người cán bộ có đức tài, có tư tưởng thân dân trong cảm quan của Cao Văn Liên ở Việt Nam diễn nghĩa còn được minh chứng qua là lời Kiều Công Chuẩn, con trai Kiều Công Tiễn cảnh tỉnh cha mình, khi Kiều Công Tiễn cho biết âm mưu lật đổ Dương Đình Nghệ, giành chức Tiết độ sứ để thỏa mãn tham vọng muốn đứng đầu thiên hạ: “Cha và thúc thúc nói sai rồi, chúng ta nghèo khó, tài năng có hạn nên về với Dương Đình Nghệ để lập thân. Thực ra trong 14 năm qua anh em ta đóng góp cho sự nghiệp của Tiết độ sứ chúa công, cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước không đáng kể, nhưng vẫn được cất nhắc (…) Nay chúng ta giết Dương Đình Nghệ là phụ nghĩa, là bất hiếu, giết người nâng đỡ mình là bất nghĩa, giết người cầm đầu đất nước là bất trung, giết người chính nghĩa là bất đạo. Bất hiếu, bất trung, bất đạo, bất nghĩa thì giàu sang quyền lực làm gì cũng không xứng đáng đứng trên cõi đời này nữa. Xin cha và thúc thúc đừng đưa chúng ta vào con đường phản bội”.[25] Và không chỉ có lời cảnh báo của Kiều Công Chuẩn mà Lưu Định, gia tướng của Kiều Công Tiễn cũng mạnh dạn chỉ trích, vạch trần những việc làm sai trái của Kiều Công Tiễn, khi làm Thứ sử Phong Châu, chẳng những Kiều Công Tiễn không thực hiện đúng chủ trương khoan sức dân của Dương Đình Nghệ mà còn ra sức vơ vét tiền, của, nhân dân “Đẩy bách tính Phong Châu vào cuộc sống khổ cực, oan trái mà không biết kêu vào đâu được. Chúng ta thủ tiêu tất cả những cư dân nào dám kiêu ca phàn nàn, tỏ sự căm thù oán hận. Chúng ta đã hoành hành bá đạo, không coi quốc pháp là gì. Chúng ta đã dung túng cho các huyện trưởng, giáp trưởng, xã trưởng, thôn trưởng hoành hành ngang ngược với bách tính. Họ không sợ gì vì có chúng ta dung túng. Chúng ta đã bá đạo thì cũng không thể ngăn cấm, trừng phạt được họ khi họ bá đạo. Nhà dột từ nóc, thượng bất chính, hạ tất loạn. Nay chúa công lại muốn mưu đồ phản nghịch đó là bất trung, bất hiếu, bất đạo, phản quốc và phản bách tính. Cúi xin Chúa công từ bỏ tham vọng thì họ Kiều chúng ta mới tồn tại lâu dài được”.[26] Hay khi Kiều Công Tiễn bàn với Kiều Công Thuận mưu toan rước nhà Hán đem quân tiêu diệt Ngô Quyền đã bị Kiều Công Thuận phản đối, cho rằng đó là “hành động bán nước, là phản quốc (…) Với dân Việt tội gì họ cũng có thể tha thứ, nhưng tội phản quốc thì họ không tha, lại còn bị muôn đời nguyền rủa, hàng nghìn năm, con cháu không ngóc đầu lên được”.[27] Tư tưởng thân dân trong cảm thức lịch sử của Cao Văn Liên về mối quan hệ giữa dân tộc với người lãnh đạo đất nước còn thể hiện rõ trong lời truyền ngôi của Ngô Quyền cho con là Ngô Xương khi ông căn dặn: “Con phải làm một ông vua tốt với dân, trung với nước, đặc biệt phải giữ được cơ nghiệp độc lập mà cha ông gian khó, bách tính hy sinh to lớn mới giành lại được”.[28] Hoặc lời xác quyết của Dương Thái Hậu khi trao áo Long Bào cho Lê Hoàn: “Áo long bào và Quốc Ấn là quyền lực của Hoàng đế, là quyền lực của quốc gia. Quyền lực quốc gia thì không phải là của riêng một dòng họ nào”.[29] Đây là những mỹ ý không phải dễ nói ra, nhất là khi đất nước còn trong vòng kiềm tỏa của chế độ phong kiến, một thể chế mà Vua được xem là “Thiên tử” thay trời cai trị muôn dân. Vì vậy, trong cảm thức lịch sử của Cao Văn Liên ở Việt Nam diễn nghĩa, tư tưởng thân dân là một hệ giá trị, một phẩm tính đạo đức mang tính nhân văn cần có nơi người lãnh đạo trong vấn đề trị quốc. Và hôm nay lời xác quyết ấy của Dương Thái Hậu, không phải, không còn tính thời sự, khi vận mệnh của đất nước, của dân tộc không phải lúc nào cũng “ca khúc thái bình muôn thuở” như khát vọng ông cha hằng mong ước. Vì vậy, cảm thức về mối quan hệ giữa dân tộc và vai trò của người lãnh đạo đối với sự tồn sinh của đất nước còn được Cao Văn Liên thể hiện ở tâm ý của Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan khi trả lời Lý Thánh Tông trong giấc mơ về tâm kế trị nước: “Muốn nước giàu dân mạnh, điều quan trọng là phải biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm, thuốc đắng khó uống nhưng lại chữa được bệnh. Phải xem quyền hành là thứ đáng sợ. Quyền lực và danh vọng thường làm thay đổi con người. Tự mình lấy đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì sâu hơn pháp luật. Muốn nước mạnh thì Hoàng đế phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ phương diện ấy, nước đại Việt sẽ vô địch”.[30] Và sự thức nhận về mối quan hệ giữa dân tộc và vai trò lãnh đạo đối với vận mệnh đất nước, dân tộc, được kết tinh sâu sắc trong Trần Thái Tông khi ông ý thức rằng: “Vua chỉ là một cá nhân nhưng đôi khi vua có thể quyết định số phận của hàng chục triệu con người, số phận của một quốc gia, của đất nước, nhất là trong giờ phút nghiêm trọng của dân tộc. Vua phải sáng suốt, quyết tâm, phải hiểu ra rằng còn dân tộc mới còn triều đình, còn quí tộc, mất dân tộc thì mất cả triều đình, mất cả quý tộc. Không thể bán dân tộc để bảo vệ quyền lợi cho một tầng lớp”.[31] Tư tưởng thân dân mà Cao Văn Liên ngợi ca trong Việt Nam diễn nghĩa không phải là điều gì mới, đó chính là sự kết tinh truyền thống đạo đức đã hiện hữu trong lịch sử dân tộc. Nhưng với tinh thần “ôn cố tri tân”, Cao Văn Liên muốn làm mới một vấn đề tưởng như xa xưa nhưng không bao giờ cũ, và vẫn còn nguyên giá trị, bởi tính thời sự của nó đối với cuộc sống hiện tại, để thức nhận chúng ta, những thế hệ người Việt Nam đang tiếp bước cha ông bảo vệ và xây dựng đất nước. Bởi, khi con người còn bị “hấp dẫn” trước những chủ thuyết mơ hồ, với các làn sóng văn minh hiện đại gắn nhãn hiệu những dấu chấm không rồi quay lưng lại với những giá trị nền tảng đạo đức của dân tộc, trong đó có tư tưởng thân dân, yêu dân, kính dân, vốn là một phẩm tính mà người lãnh đạo đất nước cần phải có như Nguyễn Trãi đã từng xác quyết trong Bình Ngô đại cáo: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” thì tư tưởng thân dân thể hiện trong cảm thức lịch sử của Cao Văn Liên ở Việt Nam diễn nghĩa vẫn rất quan thiết và cần được trân quí.
Thay lời kết
       Lịch sử của một dân tộc không đơn thuần là những sự kiện, những con số, những trận đánh gắn với những địa danh như lâu nay người ta vẫn nghĩ mà lịch sử dân tộc còn là tâm hồn, là tinh anh, là tâm thức của dân tộc. Người viết lịch sử, kể cả viết lịch sử bằng tiểu thuyết phải là người tái hiện tâm hồn dân tộc mình. Thế nên, phẩm tính cần thiết của người viết lịch sử không chỉ có khối óc mà còn phải có trái tim, biết đau nỗi đau của phận số dân tộc, của phận số mỗi con người, biết suy tư, biết xa xót, trăn trở trước lẽ hưng vong của vận nước qua từng trang sử. Có như vậy, lịch sử mới chạm được tâm thức, tâm cảm người tiếp nhận. Cảm thức lịch sử trong Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên chính là những trăn trở, những suy tư, dằn vặt của một nhà nghiên cứu lịch sử mang cảm quan của một nhà văn trước vận mệnh dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước. Bộ tiểu thuyết này, vì thế không chỉ luận bàn chuyện quá khứ của lịch sử mà Cao Văn Liên muốn dùng lịch sử đã qua như một gương soi những vấn đề hiện tại của đất nước mà một trí thức, một nhà nghiên cứu lịch sử như ông không thể không thao thức, nghĩ suy. Tìm về với cảm thức lịch sử trong Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên là tìm về với những ưu tư của một công dân trước vận mệnh đất nước, vì thế ta dễ bắt gặp sự đồng cảm, sự sẻ chia vì những trăn trở của tác giả cũng chính là trăn trở của những người con dân nước Việt luôn chất chứa trong tâm mình tình yêu tổ quốc và nỗi ưu lo trước sự tồn vong, thịnh suy của dân tộc, một tình yêu mà nhạc sĩ Phạm Duy đã chia sẻ trong nhạc phẩm Tình ca nổi tiếng: “Tôi yêu biết bao người/ Lý, Lê, Trần… và còn ai nữa/ Những anh hùng của thời xa xưa/ Những anh hùng của một ngày mai”. Phải chăng, Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên cũng là khối tình về đất nước, về dân tộc mà ông gửi lại cho đời…
                 Xóm Đình An Nhơn, Gò Vấp, 7/3/2020
T.H.A

[1]Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa, tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.6
[2] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.5
[3] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.20 -21
[4] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.92
[5]Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.93
[6] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.99
[7] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.99 -100
[8] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức,2019, tr.119
[9] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.154-155
[10]Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.239
[11]Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1,Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.435
[12] Tào Mạc, Bài ca giữ nước, Bộ ba chèo lịch sử, Nxb. Sân khấu, Hà Nội 1986, tr.19
[13] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.12
[14] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.14
[15] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019. tr.16
[16] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.115
[17]Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.310
[18] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.423
[19] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.423
[20] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.434
[21] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019,  tr.315
[22] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019,  tr.316
[23] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.467
[24] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.469
[25] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.475
[26] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.476
[27] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.499
[28] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 2, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.8
[29] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa tập 2, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.229
[30] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 3, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.12
[31] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn nghĩa  tập 3, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.91 – 92
 
20/3/2020
Trần Hoài Anh
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
 
 

Nhà văn Nguyễn Quốc Trung trên hành trình đất không đổi màu

Nhà văn Nguyễn Quốc Trung trên hành trình đất không đổi màu Nhà văn Nguyễn Quốc Trung qua đời cách đây 2 năm vì Covid-19, được Hội Nhà văn...