Dưới bóng quê hương chợt lòng mưa nắng – Bút ký của Lệ Hằng
24 Tháng Năm, 2023
“Thấu Huế rồi.”
Tôi háo hức suốt cả quãng đèo xanh bạt mênh mông chỉ để hét lên như thế khi con Honda Blade của mình điềm nhiên lướt qua khúc cua cuối cùng dưới chân Hải Vân Quan. Vậy là thấu Huế. Thấu Huế thật rồi.
Bên ni đèo với bên tê đèo chỉ cách một bước chân trong không
gian địa lý nhưng với tôi là cả một sải dài tâm tư. Tôi nhớ những lần về Huế dịp
tết, ngồi trên xe hoặc tàu hỏa qua hầm, vừa chạm đến Lăng Cô là phải khoác thêm
áo, quàng thêm khăn, cái lạnh như một cú sốc hoặc là một lời nhắc nhở, vừa sâu
vừa ngọt, “Huế đây rồi và Huế đang mưa”. Mưa tháng Chạp miên miên thâm thâm cứa
vào lòng kẻ xa quê, vịnh nhỏ im im, núi đồi lặng lẽ chỉ có lũ chúng tôi cõi
lòng vốn dĩ đã mênh mang như nước giờ gặp phải một cú sốc nhiệt bỗng chòng
chành, bỗng trào dâng, bỗng hồn nhiên thác lũ. An, một người chị phương xa của
tôi thỉnh thoảng có về Huế thăm quê ngoại, bảo rằng chị đã trải qua nhiều cái lạnh
ở nơi này nơi kia nhưng không nơi đâu như Huế, lạnh cắt da cắt thịt, lạnh dấm dứt
dai dẳng, lạnh thê thiết nhớ nhung, lạnh như u hoài của ngàn năm trước rỏ xuống
ngàn năm sau. Cái lạnh không làm con người ta lơ đễnh hay lãng quên sự tồn tại
của mình, mà ngược lại, nó khiến con người ta bật dậy như chồi cây, một chồi
cây lặng lẽ trong thế giới chừng như thu hẹp dưới một chái hiên, một vết nứt từ
bức tường cũ hay biết đâu là một kẽ hở thời gian, giữa các niên đại. Tôi đã bổ
sung thêm với An rằng cái lạnh ở Lăng Cô là “đay nghiến” nhất. Phần nhiều khí lạnh
không vượt đỉnh Hải Vân mà quần tụ dưới chân đèo khiến giá buốt ken đặc không
trung và mưa, vừa dày vừa nhọn châm chích vào nỗi nhớ.
Bây giờ đang là đầu tháng tám, chẳng có cái lạnh nào cứa vào
da thịt chỉ có một khoảng trời cam vàng lộng lẫy và chỉ có một buổi chiều lộng
lẫy sau khi gió biển thổi bay hết mọi xót xáy trên đường. Bụng đã đói meo vì cả
ngày chưa ăn uống gì, tôi đành phải làm đầy đôi mắt để quên đi cảm giác trống
trải trong dạ dày. Tôi ngắm hết, ngắm ngấu nghiến những ngôi nhà lấp ló sau
hàng tre, hàng dừa, hàng chè tàu, hàng bông bụt… Mỗi ngôi nhà ươm vào lòng tôi
một câu chuyện. Tôi chợt cười khi lướt qua một khoảng sân vuông có bức bình
phong phía trước và ở một góc sân có cái am nhỏ với mái che. Về Huế, đi đâu
cũng thấy những am thờ như thế. Am thờ cô, thờ cậu thường có mái che kèm thêm
hình chạm trổ mà tôi vì quan sát và bận tâm chưa đủ nhiều nên chưa thể hiểu hết
ý nghĩa của từng thứ một. Am thờ trời đất thường là một trang thờ nhỏ không có
mái che. Bây giờ ngẫm lại thấy tuổi thơ mình “ngủng ngẳng” vô cùng, chiếc am
vuông vức dựng giữa trời, lù lù như cái ti vi thuở còn màn hình đen trắng rồi đứa
nọ truyền tai đứa kia đi “sửa ti vi”. Đứa nào trong đầu cũng có một kho chuyện
ma, và đứa nào cũng tin cũng sợ cũng khiếp vía khi bị dọa ma vậy mà cũng có lúc
thò tay vào am xin nải chuối hay chùm nho chùm nhãn.
*
Tôi về đến nhà lúc đã hơn tám giờ tối. Mạ mở cổng, vừa mở vừa
mắng “ui cha, ra chi mà lạ ri bây…”. Với mạ tám giờ là khuya khoắt lắm rồi. Tôi
cười, biết mạ đang vui. Đẩy xe vào sân xong, tôi lướt nhìn khoảng sân quen thuộc
của mình vài giây. Một mảnh đất chẹo chẹo hình thang, cuối góc sân hai cái am
đã có từ mười mấy năm trước lặng lẽ nép bên bụi đinh lăng ba mới trồng mà lá đã
sum sê lấn lướt. Trong am, bóng đèn quả ớt hắt ra một thứ ánh sáng dịu nhẹ, ảo
mờ, thanh tịnh, và ấm cúng. Tôi nhìn ra xa, đèn đường đổ lên bụi tre hóp thứ
ánh sáng màu trắng, bàng bạc dưới sương. Ba hỏi tôi “lạ lắm đúng không con?”
Hai năm rồi vì dịch giã nên tôi chẳng về Huế lần nào. Trong những lần chuyện
trò vội vã qua điện thoại, ba đã phong thanh kể cho tôi nghe thôn xóm mình bữa
nay khác lắm nhưng tôi đâu ngờ cái xóm nhà cách nhà gọi hết hơi không tới, cái
xóm đêm rớt xuống là tối bưng bưng, đứng trong nhà nhìn ra, ngoài ánh điện từ mấy
ngôi nhà hắt ra le lói thì chẳng thấy gì ngoài một màu đêm hun hút. Và, cái xóm
của những mùa trăng rộn ràng khi trẻ con đổ ra đường đi lạo xạo từ nhà này sang
nhà khác, đá banh, bẻ bắp, trộm mía, “sửa ti vi” bây giờ không còn nữa, ít nhất
là dưới góc nhìn của một đứa xa quê như tôi. Cảnh “sửa ti vi” vất vả ấy có lẽ
đã thành chuyện của ngày xưa và chỉ còn trên trang viết thơm tho kỷ niệm. Bây
giờ, đường đã bê tông rộng rãi cho xe tải đi, điện cũng đã chạy miên man lên tới
núi, thanh niên không phải chờ những mùa trăng để hẹn hò, trẻ con không phải chờ
những mùa trăng để í ới, làng tôi, xóm tôi sớm thôi sẽ rộn ràng sầm uất. Ba kể
người ta mở rộng khu công nghiệp Phú Bài, cả một vùng nương đồi rộng mênh mông
giờ đã thuộc về dự án. Nhiều người trúng đất dự án khấm khá đổi đời nhanh còn
hơn trúng số. Ngày trước, nương đồi bạt ngàn như thế, ai có sức thì khai thì khẩn
nhưng sức người có hạn thiên nhiên lại vô chừng, từ gieo trồng cho đến gặt hái
là cả một quãng dài cười khóc. Sau này, nhiều người đầu tư cho chăn nuôi nhưng
chẳng ăn thua mấy, lại còn thêm khoản nợ nần làm sao bì được với việc trúng đất
dự án. Bây giờ, Internet phủ sóng, các dịch vụ mua hàng chuyển phát tận nhà
cũng nở rộ, ở đây có khác phố là bao, ba nói. Tôi nghĩ về những ngôi nhà mới mọc
kín cổng cao tường như biệt phủ, rồi thì những chiếc ô tô bóng lộn hay những buổi
tiệc tùng. Ôi, một góc Huế của tôi đang thay đổi. Tôi có mừng, lẽ dĩ nhiên,
nhưng cũng ngậm ngùi. Rồi đây những con người vốn quen việc tay chân đơn sơ và
trầm lặng sẽ xoay xở thế nào để thích nghi trong một nhịp sống mới? Như mạ chẳng
hạn, không biết đến khi nào thì tám giờ tối mới thôi khuya khoắt. Quê hương còn
những trầm và ấm cho tôi. Trầm và ấm như hương gỗ bạch đàn. Một loài hương an ủi.
Cả giấc mơ tôi. Cả cuộc đời tôi. Cả trang viết tôi.
“Rồi ôn nằm ở mô, ba?”
Tôi sốt sắng khi trong đầu hiện lên hình ảnh của nội. Tôi có
ôn nội và mệ nội nhưng tôi chỉ thích dùng một từ “nội” cho cả ôn và mệ và ngôi
từ đường trên mảnh đất hương hỏa tổ tiên. Về thăm nội là về ngôi nhà ấy, cũng
là về thăm mệ, thăm ôn. Bây giờ thì tôi chỉ nghĩ về ôn. Nội đội cái nón lá đã
cũ, hơi móp và rách, tua rua xòa ra đây đó dọc theo vành nón. Cái nón đội đi
nương khác với nón đội đi làng đi họ. Nội có cái nón xịn và cả cái dù nữa, dù rất
táy máy nhưng có vài thứ nội dùng dè xẻn và trân trọng đến nỗi tôi không dám đụng
vào. Áo quần cũng thế, những bộ tươm tất thường treo riêng cùng khăn đóng, áo
dài. Áo dài đi họ ban đầu là áo dài đen, sau này là áo dài xanh chữ thọ khi nội
đã làm ông Cả họ Lê làng Phù Bài. Bộ đồ đi nương là bộ đồ hạng bét, từ màu trắng
nó đã chuyển sang màu ươm vàng và sờn rách. Trong đầu tôi, nội còn khỏe lắm. Nội
cầm cái rựa đi phăng phăng trên giường ruộng chặt lạt dưới tán bạch đàn. Trong
đầu tôi có một khoảng trời thu hẹp và đóng khung nơi vạt nương xanh bên khe Chứa.
Phía trên là hàng mít và chỗ trồng khoai sắn, đậu mè, bình tinh, phía dưới là
thửa ruộng ngăn cách với khe bằng hàng tre hóp rậm rì. Thửa ruộng hình chữ nhật,
bốn cạnh đều trồng bạch đàn, ruộng chỉ canh tác một vụ và thường chỉ được một
chút lúa lép, có lẽ ba trồng để nuôi tụi gà thôi. Mùa mưa ruộng đầy nước, nước
trong vắt nhìn thấy từng chiếc lá, từng cọng bạch đàn, từng con rô, con lia
thia nhỏ, tụi cá từ khe lạc vào. Trong đầu tôi, khoảng trời ấy bao giờ cũng có
nội. Nội ngậm điếu thuốc do tự tay nội vấn bằng loại giấy chuyên dùng hút thuốc,
mỗi lần hết giấy thì vấn tạm bằng tờ lịch mỏng. Có năm, nội trồng cây thuốc lá
trong nương, lá phơi đủ nắng rồi đem quấn thành điếu to nhìn rất thích. Tôi
cũng tập tành hút thuốc như nội, tôi vấn thuốc, châm lửa y chang nội. Người lớn
ai cũng bảo “chơi dại, sứt môi lọng chừng”. Vậy là thôi, tôi chỉ ngồi bên phụ nội
cắt thuốc, vấn thuốc, tìm bật lửa… Ngày tháng ấy sao mà cổ tích!
Lần này tôi về thì đã không còn nội. Nội mất khi đại dịch
đang căng thẳng nên chẳng đứa cháu nào ở xa về được. Hôm đưa nội đi, tôi chỉ ngồi
cầu nguyện. Tôi chưa từng hỏi ba mộ của nội ở đâu bởi tôi biết nội luôn có dự
tính cho mình trong những chuyện này và tôi nghĩ dự tính của nội sẽ không đi xa
mấy khoảng nương tôi đã thuộc làu: Trạng Mè, Nương Gần, Cồn Ông Cải…
“Ôn ưa nằm ở Trạng Mè nhưng không được.”
Ba nói khi mắt dõi xa xăm. Dù đất ở Trạng Mè hiện không nằm
trong dự án nhưng đã có công văn không được chôn cất hay xây lăng đắp mộ gì ở
đó nữa. Vậy là di nguyện không thành, nội phải đi xa. Chẳng ai biết chắc bên
kia cái chết có gì nhưng tôi tin không mối bận tâm nào trong thế giới vật chất
này trở thành quan trọng nơi thế giới của linh hồn, ngay cả mối bận tâm về mộ
phần sau cái chết. Đã nghĩ vậy, sao lòng vẫn bùi ngùi?
Tôi muốn được thắp nén nhang trên mộ nội nhưng ba xua tay.
“Nơi ấy toàn chim kêu vượn hú, cảnh buồn và hoang vu lắm. Ba
đi loạng quạng còn lạc huống chi con…”.
Nội nằm xa lắm tuốt trong rú lận, một mình tôi không lên đó
được mà ba thì đang mệt trong người không thể dắt tôi đi.
*
Nhà văn Lệ Hằng
Khuya. Gió núi thổi ra dìu dịu. Ba đã lên giường nằm nghỉ.
Đây là khoảng thời gian dễ chịu nhất trong ngày khi ngôi nhà chìm vào tĩnh vắng,
lặng lẽ giải phóng hết bao nhiêu cái nóng nảy, oi bức, lào xào, bực dọc trong
ngày. Lâu quá mới lại về nhà khiến tôi thao thức. Tôi nằm đây mà thấy tôi của
nhiều năm trước, cúi lom khom ngậm cây đèn pin chỉ lớn hơn ngón tay cái một
chút trùm chăn viết nhật ký, dù là giữa mùa hè. Tôi giấu đèn pin và cuốn sổ
trong gối, tối nào cũng lôi sổ ra tâm sự, có khi còn viết cả “thơ” nữa. Giường
của chị em tôi sát bên cửa sổ, mùa hè cửa chẳng đóng bao giờ để đón gió núi về
khuya. Thi thoảng, tôi tỉnh giấc giữa khuya, mở mắt ra thấy mảnh trăng bạc treo
bên cửa sổ chênh chếch sau đọt bạch đàn ngoài xa, trăng đẹp quá, có lần tôi ngồi
dậy nhòm ra cửa sổ thấy tàu lá chuối loang loáng dưới trăng, sương sõng sượt phủ
lên mặt lá, có con chàng hương nép vào bẹ chuối cánh bụng hóp vào hóp ra. Tôi
tưởng mình đã đi xa, không còn ở trong không gian ấy nữa nhưng không hẳn, bằng
cách này hay cách khác, tôi vẫn âm thầm tìm về đó, tái tạo lại thế giới của
mình qua những lần đắm chìm vào trang viết, như Khu Vườn Ươm Ánh
Sáng của tôi chẳng hạn. Thời gian thật kỳ lạ, vừa bôi xóa vừa khiến thứ bị
mình bôi xóa được hiển hiện, tái sinh. Nếu tôi không lớn lên, tôi làm sao biết
được mình đã có một tuổi thơ, và làm sao biết được tôi sẽ còn trở về sẽ còn tái
hiện nó thêm nhiều lần nữa.
Tuổi thơ tôi con đường nào cũng đầy dáng nội. Đều đặn, tuần
nào nội cũng đạp xe ra chùa Phù Bài rồi đi làng đi họ, thăm người này người
kia. Dáng nội lom khom, đầu hơi chúi về trước, cái nón nhiều khi không đội mà
úp trước giỏ xe. Nhiều lần tôi đứng bên này sông Phù Bài nhìn sang phía trường
Đình và nhận ra ngay là nội đang đạp xe băng qua Đình, nội sẽ đạp lên thôn Bảy,
qua cầu Ông Rồng và về nhà. Sau này, khi tôi đã rời quê, mỗi lần về thăm nếu
chưa gặp nội thì chỉ cần hỏi ba đúng một câu “ôn còn hay đạp xe đi họ không ba”
là biết ngay nội còn mạnh hay không. Nếu xem cuộc đời mỗi người là một chuyến
hành hương về bên kia sự sống thì nội đã hành hương ngót nghét một thế kỷ nay.
Và ngót nghét thế kỷ buồn vui của một người gói trọn nơi ruộng đồng, nương rẫy,
làng họ, đặc biệt là từ đường. Nội sinh ra, lớn lên trên mảnh đất hương hỏa tổ
tiên, sống và thác trên mảnh đất hương hỏa tổ tiên, mọi niềm vui và mọi nỗi bận
tâm đều xoay quanh nơi ấy. Cái tráp gia phả, cái tủ thờ, những bát nhang, kỵ giỗ,
chạp mộ, nhang đèn, trầm hương, những rằm, mùng một… năm năm tháng tháng chật vật
lo toan trong bấy nhiêu công việc, bấy nhiêu nỗi niềm. Một người bạn từng nói với
tôi đại ý rằng người Huế sống cho người chết nhiều hơn cho mình, lo cho phần âm
nhiều hơn phần dương. Tôi không đồng ý khi bạn tôi khái quát hóa về “người Huế”
như thế, nghe rất cực đoan, nhưng có lẽ bạn tôi đang muốn nói đến những điển
hình như nội. Và bây giờ là ba, dù ba chưa ở hẳn bên từ đường. Sứ mệnh của cuộc
đời nội là chăm lo cho từ đường. Kho lẫm của nội cũng nằm ở đó. Cả hy vọng. Cả
tương lai nữa. Vì bạn tôi là người ngoài đứng trông vô nên không hiểu được những
người như nội lo cho “người sống” cho “phần dương” đến thế nào, chỉ là mọi thứ
luôn phải được đặt trong mối tương quan kín đáo mà mãnh liệt với tổ tiên.
Và những người như nội không chỉ lo cho người đã khuất mà còn
lo cho phần mình khi khuất núi. Tôi không nhớ rõ tự khi nào, nhưng lâu lắm rồi
khi tôi còn long nhong trên nương dưới ruộng, tôi đã biết nội lo cho hậu sự của
mình. Ở làng tôi, chuyện một người đang sống nhắm trước và thậm chí dọn sẵn cho
mình một vạt đất để nằm xuống không có gì là lạ. Nhiều người còn xây sẵn lăng,
đắp sẵn mộ rồi đến ngày con cháu sẽ đặt quan tài xuống. Vài gia đình khi xây
lăng đắp mộ cho cha ông mình thì cũng làm luôn một ngôi y chang ngay bên cạnh
cho mẹ cho bà dù người vẫn đang vui vẻ bên con cháu. Tôi lớn lên trong không
gian ấy, nơi những câu chuyện về xây lăng đắp mộ luôn là phần sinh động nhất của
những buổi chuyện trò từ lớn đến nhỏ, từ cuộc tâm tình chỉ có hai người là ba
và chú cho đến những cuộc họp dòng họ mà tôi lén núp sau hè nghe lỏm. Rồi tôi
đi xa, học hành, giao tiếp, đón nhận những tư tưởng mới, nếp sống, nếp nghĩ mới,
đã có lúc tôi nghĩ sao người quê mình khổ thế, sống không lo phần sống mà suốt
ngày lo cho phần chết. Phần chết của người đã chết và phần chết của người đang
sống, là mình. Nhưng giờ đây khi đã trải qua vài nốt thăng trầm trong cuộc sống,
khi những ý niệm đầu tiên về sự hữu hạn của trăm năm bắt đầu nhen nhóm trong
tôi, tôi khám phá ra một lối nhìn mới mẻ cho những sự “khổ” thường tình ấy. Tôi
hình dung trong những bước chân xao xác của nội trên nương, giữa vồng khoai vồng
sắn, giữa vồng đậu vồng mè hay dưới tán bạch đàn, bên bờ tre hóp… là những buồn
vui như mưa nắng của một kiếp người. Và, trong những lúc nghỉ tay hay trong những
giờ khom lưng cuốc đất nội đã chọn cho mình một góc nhỏ bình yên, một nơi mà nội
tin tưởng rằng sự an nghỉ của mình sẽ mang lại tốt lành và hy vọng cho con
cháu. Như thế, mỗi ngày trôi qua, nội đi dần về bên kia sự sống với tâm thế an
nhiên, khoảng cách giữa hai bờ sinh – tử không còn là mênh mông sợ hãi. Cuộc đời
quá đỗi vô thường, con người có thể làm gì hơn nếu không phải là chọn cho mình
một cách đối mặt nhẹ nhàng và vui sống. Tôi thấy lòng mình nhẹ bẫng đi khi nghĩ
rằng trong niềm tin của nội, cố tôi, sơ tôi, tổ tiên tôi vẫn luôn bên cạnh để
dìu dắt nội bước qua bên kia đường đời.
*
Chiều nay, vừa làm xong vài công việc quan trọng và chọn ngày
rời Huế, tôi lại về từ đường thắp hương. Huế mưa. Mưa rả rích mặt đường. Mưa
châm chích dưới ruộng. Mưa tí tách trên lá. Mưa trầm ngâm mái ngói. Mưa rỉ rách
bên hiên. Mưa tỉ tê hàng trầu. Mưa ngậm ngùi vòm bưởi. Mưa miên man vườn chè,
bông trang, bông chuối, thanh long, vạn tuế… Mưa nhòe nhoẹt khung trời xanh thẫm
lá. Khung trời ấy là khu vườn của nội, trên mảnh đất hương hỏa tổ tiên này. Tôi
đã từng tự bạch trong một trang viết của mình rằng “nếu bạn nhìn sâu vào tuổi
thơ tôi, bạn sẽ chỉ thấy màu xanh”, đó là lời tự bạch chân thành. Màu xanh của
khu vườn này là nỗi ám ảnh đối với tôi, ai đó có thể nói vậy, và nó là nỗi ám ảnh
có tính chữa lành, tái sinh và tha thứ. Tôi nhìn khu vườn mướt mát dưới mưa
lòng dấy lên một thứ cảm xúc dìu dịu, long lanh và ấm áp. Chẳng có gì thay đổi
so với trước đây ngoài việc cây bưởi già oằn mình hơn vì sây trái, tán rậm rì
như một mái nhà con. Chẳng có gì thay đổi, kể cả sự vắng mặt của nội bởi tôi
không thấy cô đơn trống trải chút nào mà ngược lại, tôi thấy lòng mình như nắng
hửng sau mưa khi nhìn lên di ảnh nội. Trăm năm có là dài hay chỉ như một cánh
chim xanh thoắt ẩn giữa trời xanh? Ý niệm về thời gian lúc này đối với tôi thật
mơ hồ, tôi chỉ thấy mình vẫn gần nội, như ngày xưa.
Tôi vòng quanh từ đường thắp hương. Sự ấm cúng ngày nào còn
đây sao nguyên vẹn. Tôi đã có thói quen thắp hương ở từ đường từ khi còn rất nhỏ,
tôi nhớ là vào cuối năm lớp một. Khi ấy, tôi được chọn làm một trong bốn học
sinh giỏi của lớp tham dự một kỳ thi đặc biệt để chọn ra người xuất sắc nhất khối.
Đó là một phần thưởng danh dự mà Ủy ban xã và hội khuyến học của làng phát động
để khích lệ chúng tôi, giúp chúng tôi ý thức hơn tầm quan trọng của sự học khi
mà nhiều thầy cô chủ nhiệm phải về tận nhà học sinh dỗ dành học sinh đừng bỏ học.
Cả nhà tôi ngạc nhiên khi tôi được công nhận là học sinh giỏi và đại diện cho lớp
đi thi. Tôi nhớ, hồi ấy, mạ mải bán buôn dưới chợ tối mịt mới về tới nhà. Ba mải
lo nương vườn ruộng trưa, lâu lâu mới nhòm đến bài vở của tôi, tôi thường học
“thuội” theo chị gái, năm ấy chị học lớp năm. Buổi trưa, tôi trịnh trọng thông
báo tin quan trọng với cả nhà là chiều nay tôi đi thi học sinh giỏi, chị cho
tôi mấy cặp giấy trắng để làm bài, ba dặn tôi kiểm tra cây bút và bơm mực cho đầy,
mạ dặn ba chở tôi về từ đường thắp hương trước khi đi. Từ đó, tôi hình thành
thói quen thưa trình với tổ tiên. Bất cứ việc gì tôi cho là quan trọng, dù chỉ
là một bài kiểm tra, tôi cũng đều về từ đường thắp hương trước khi lên đường. Từ
đường có rất nhiều bát nhang, tôi không dám trỏ tay đếm nhưng khi tôi đã có thể
tự mình bật lửa đốt nhang thắp thì tôi đã có một cảm giác gần như chuẩn xác mỗi
khi rút nhang ra. Tôi thường đi vòng quanh từ bên này sang bên kia, các bát
nhang được xếp cao thấp theo đời, nhiều bát nhang cao tôi phải kê hai cái đòn
chồng lên nhau mới vói tới. Những cây nhang tôi cắm từ xiêu vẹo dần dà dựng đứng
theo thời gian, đến ngày tôi rời Huế đi học xa thì cây nhang đã cắm đúng tâm,
nghiêm túc, thẳng thớm. Tôi thường dừng lại rất lâu trước một di ảnh trong từ
đường, một bức đen trắng to vào khoảng trang giấy vở học sinh, di ảnh của ôn
sơ. Cố tôi, nội tôi, ba tôi, ai cũng kể nhiều về ôn, về sự hiếu học và ân tình
mà người làng đã dành cho ôn lúc sinh thời và về một đám tang làm chay đông hiếm
thấy trong làng. Tôi thường nhìn sơ rất lâu, ai cũng nói tôi giống ba nhất nhà,
giống ở cái kiểu nhăm nhắm đôi mắt khi nói chuyện để lộ ra đuôi mắt và giống ở
nụ cười với hai cái răng cửa như hai cái “cuốc tượng” hơi chìa ra trước. Thật
ra, tôi không chỉ giống ba mà còn giống nội, giống cố, giống sơ tôi nữa. Chỉ vậy
thôi mà tôi thích ngắm hoài.
Tôi đã thắp nhang xong trong từ đường, còn hai cái am ngoài
sân và cuối cùng là vòng ra bếp thắp cho ấm bếp. Tôi chợt cười khi nhớ lại câu
mà lúc nào tôi cũng khấn mỗi khi thắp hương trước các kỳ thi. Tôi khấn thế này:
“Thưa cố, thưa sơ, thưa ôn mệ tổ tiên, hôm nay con đi thi, xin phù hộ cho con
làm bài tốt, cho con tỉnh táo không quên mấy cái con đã học…”. Đó là câu tôi đã
khấn từ kỳ thi học sinh giỏi năm lớp một ấy cho đến mãi sau này, thi đại học.
Ngẫm lại, tôi có chút tự hào nho nhỏ vì mình không đến nỗi nào, không khấn xin
những điều không tưởng, cũng không xin ông bà tổ tiên nhắc bài cho hay làm bất
cứ điều gì gian lận dù là trong lời cầu nguyện âm thầm. Tôi hình dung tổ tiên
có linh thiêng chắc sẽ mỉm cười với đứa cháu khờ này.
Niềm tự hào lớn nhất của tôi với tổ tiên mình đến vào năm tôi
học lớp bốn. Nhờ kỳ thi khởi đầu cho sự học của tôi năm lớp một ấy mà những năm
sau ba để ý đến việc học của tôi nhiều hơn. Năm lớp hai, tôi giành được giải
danh dự nhất khối và ba năm liên tiếp duy trì ngôi quán quân nên năm lớp bốn
tôi được công nhận là nhất toàn trường – vinh dự lớn nhất của tôi lúc ấy và phần
thưởng cũng lớn nhất, đủ để mua một chiếc xe đạp ngon ơ. Tôi sung sướng mang tất
cả giấy khen và phần thưởng về “méc” với tổ tiên. Cả mùa hè tôi không treo giấy
khen lên cũng không động đến bất kỳ phần thưởng nào, tôi trân trọng mở ra xem
các thứ rồi cẩn thận gói lại để vào một góc trong từ đường, kể cả những bì thư
tôi được nhận ở làng và họ mình. Niềm vui đơn sơ đến thế. Niềm tự hào cũng đơn
sơ đến thế. Ý nghĩa của từ đường, của tổ tiên, của thờ cúng cũng đơn sơ đến thế.
Tôi ra chái sau nhìn ra phía đìa và cây thị. Bao lâu rồi, phải
hơn cả chục năm, tôi chưa lượm trái thị nào. Mưa đã vơi một phần, nước từ đuôi
lá rớt xuống thảm mục bên dưới chầm chầm, chầm chậm như những giọt thời gian.
Chợt tôi thương nội quá, cái khuôn viên này là cuộc đời của nội, nội hằng kỳ vọng
ba tôi sẽ có một đứa con trai, nghĩa là nội có đích tôn và cái đứa đích tôn ấy
sẽ tiếp nối nội và ba, năm năm tháng tháng sớm sớm chiều chiều gắn bó với từ đường
như nội đã từng nhưng nội chỉ có đứa cháu nữ tôn là chị gái tôi và chị đang sống
tại Hà Lan. Cuộc sống vận hành theo lộ trình riêng của nó, đấng tạo hóa có lý lẽ
riêng của mình mà con người thường không thấu được. Tôi cũng đã không còn buồn
vì mình mang thân phận nữ nhi. Nhiều khi, tôi nghĩ nếu đong đếm buồn vui của mỗi
kiếp người thì có lẽ là có một hằng số tương đối cho cuộc đời của nội, của ba,
của chị, và của tôi nữa.
Tôi nhìn lên, năm nay thị sum sê quá. Cây thị làm tôi nhớ những
ngày rằm tháng bảy khi bàn thờ tươm tất, ba và nội đặt những trái thị vừa mới
trảy sắp trên nải chuối vừa chín hườm ngả màu thiên lý, vàng vàng xanh xanh đượm
đà thơm thảo cả gian thờ. Tôi nhớ một người thường giữ những quả thị bên mình,
để trên giường ngủ gần chỗ kê đầu nằm. Mệ cố của tôi. Với tôi, quả thị lúc nào
cũng hao hao cổ tích nhưng không phải vì cô Tấm mà vì mệ cố, trong đầu tôi hình
ảnh đẹp nhất về cố là khi cố tỏm tẻm nhai trầu và đưa cho tôi trái thị, cố già,
già lắm, già hơn hết thảy người già trong các truyện cổ tích. Kỷ niệm chợt về,
gợn vào lòng mấy nỗi xôn xao.
Mệ cố mất khi tôi đang thi cuối kỳ lớp hai. Lần đầu tiên
trong đời tôi ý thức về sự biến mất của người thân khỏi thế giới này. Tôi ngơ
ngác đội lên đầu mình chiếc mũ của nỗi mất mát đầu tiên, nỗi buồn thứ nhất. Tôi
thích được quấn khăn tang như chị tôi hoặc mặc áo tang trắng như mạ hay các o
tôi nhưng tang phục cũng chia theo tuổi và thứ bậc, tôi chỉ được nhận một chiếc
mũ thôi. Tôi đi học về thì cố đã an vị trong quan tài, tôi đưa tay lên đầu, sửa
lại chiếc mũ, biết từ đây mình không còn được mân mê hai trái tai to và dài của
cố nữa. Ai cũng bảo, trái tai dài và dày như cố là sống thọ lắm, tôi không biết
sống thọ liệu có phải là điều gì đó hay ho nhưng tôi muốn giống cố nên thường
xuyên kéo tai của mình cho nó được dài ra. Tôi cũng thích mân mê lớp da ram ráp
của cố, tôi có thể kéo nó ra bên này bên kia rồi chạy những ngón tay như cù léc
nhưng cố không nhột chút nào. Tôi chợt nghĩ đến vỏ chay ăn trầu, da của cố sần
và ấm y chang vậy. Phát tang xong thì từ sáng đến tối ngôi từ đường vang tiếng
kèn đám, tiếng trống và tiếng khóc. Người và xe đông từ trong nhà ra tới đường
cái, lần đầu tiên trong đời tôi biết mình có nhiều họ hàng đến vậy. Dù chỉ đang
học lớp hai, nhưng tôi cũng có bạn đến thăm đám. Tôi được gọi vào, được người lớn
chỉ bảo rồi đứng bên quan tài lạy tạ. Ôi, tôi không thể quên được cái cảm giác
của mình lúc ấy, cảm giác về sự trưởng thành với chiếc mũ ngay ngắn trên đầu,
tưởng như mình có thể lớn lên ngay lập tức. Suốt cả đám tang, tôi cùng mấy đứa
khác, cũng đội mũ như tôi, lăng xăng từ vườn sau ra sân trước ngày không biết
bao nhiêu bận, cảm giác mất mát dường như vẫn chưa kịp hình thành trong những bộ
óc non nớt chỉ biết ăn và ngủ và thò thò theo mấy người thổi kèn đám. Đến khi
người ta khiêng quan tài đi tôi mới bật khóc tức tưởi chạy theo. Người ta
khiêng cố của tôi lên Cồn Ông Cải nhưng tôi không được đi theo, tôi phải thi cuối
kỳ môn toán. Lúc ấy, tôi không biết đường lên Cồn Ông Cải bao xa nhưng tôi biết
mình xa cố, xa thật rồi, có thứ gì đó nhoi nhói trong lồng ngực tôi, lần đầu
tiên…
Nỗi buồn thứ nhất ấy nó khiến tôi xao xuyến hơn cả bùi ngùi
hơn cả là khi tôi cầm trên tay những dải tang trắng nhỏ đi quanh vườn cột vào từng
cây, mỗi cây một dải trên nhánh lá. Người lớn bảo cho cây để tang kẻo cây buồn
cây chết. Tôi đi giữa những hàng tiêu rồi ra dãy trầu, vạt ổi, cây đào, cây thị,
cây khế, cây mít, cây mai… Có những cây như mạch sống của vườn, tuổi cây không
chừng cũng bằng tuổi cố. Một thế kỷ là bao xa? Chiều nay, tôi đứng dưới màn mưa
trắng mỏng thấy một dải khăn trắng vừa bay qua đời mình.
*
Mai tôi rời Huế, còn một đêm nhỏ để gói ghém lòng mình. Mưa vẫn
lâm thâm thổn thức suốt mấy ngày chưa dứt. Giường tôi nằm sát chái hiên sau,
nghe rõ tiếng nước mưa rớt xuống nền gạch cũ, từng hồi từng hồi… Mưa mỏng như tấm
voan trắng phủ lên chái hiên, nước mưa tụ lại rồi xuôi theo mái chảy đến đuôi tấm
ngói và rỏ xuống nền từng giọt một như đang rỏ xuống lòng tôi. Lần này tôi về,
quê hương như ưu ái cho tôi được sống cả hai mùa mưa nắng. Tôi nằm nghe mưa,
xem lại những tấm ảnh mình chụp trong điện thoại từ hôm về đến nay. Có tấm tôi
chụp vào buổi sáng khi nắng vàng lúng liếng bên hiên. Có tấm tôi chụp vào buổi
trưa khi trời hầm hập nóng. Có tấm tôi chụp trên cánh đồng mùi nắng khét quyện
trong tóc. Có tấm tôi đi săn hoàng hôn, bắt được một ráng chiều mọng đỏ. Có tấm
tôi chụp ở từ đường, chiều ướt mi, mưa kể chuyện thì thầm trên lá. Hôm nay có
người nói với tôi ai cũng nói Huế mưa buồn như đứt ruột đứt gan nhưng không phải
cái mưa nào cũng buồn. Mưa sầm sập trắng đồng tháng chín chỉ có lo mà không có
buồn. Mưa lớt phớt bụi bay đêm giáp tết chỉ có trông có ngóng mà không có buồn.
Mưa cuống quýt vội vàng chiều tháng sáu chỉ có nhớ mà không có buồn. Mưa như
hôm nay, ngay lúc này mới thật là mưa buồn. Tôi đồng ý. Và tôi nói thêm rằng nỗi
buồn này đẹp đến nỗi đay nghiến tim tôi.
Ngoài kia, ếch nhái oàm oạp, dế giun rỉ rả thâu đêm. Tôi nghĩ
rồi sẽ có một ngày tôi về quê mà không còn được nghe ếch nhái kêu đêm nữa, khi ấy
chỉ mong lòng không không ngậm ngùi cô quạnh.
Thật, không có gì da diết như quê hương.
Theo Lệ Hằng/ Tạp chí Sông Hương
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/