Thứ Ba, 31 tháng 12, 2019

Sức mạnh của âm nhạc, hình ảnh và ngôn từ

Sức mạnh của âm nhạc, 
hình ảnh và ngôn từ 
1. Nước - tấm gương của sự sống
Từ những bản nhạc giao hưởng của Beethoven, Schubert, Mozart… đến nhạc Rock của Heavy Metal, Led Zeppelin, Guns N’ Roses; từ những bức tranh thời Phục Hưng của Raphael, Leonardo Da Vinci, Titian… đến những bức ảnh khỏa thân thời hiện đại; từ bức tượng David trứ danh của Michael Langelo đến con búp bê ma Anabelle của phim kinh dị Hollywood; từ những kiệt tác văn chương của Ngô Thừa Ân, Tào Tuyết Cần, William Shakespear, Victor Hugo… đến những tác phẩm văn học theo trường phái hiện đại và hậu hiện đại, những ngôn tình, đam mỹ… nhân loại chúng ta vẫn đang vô tư thụ hưởng những sản phẩm tinh thần mà chưa có mấy ai thực sự quan tâm xem ảnh hưởng của thông tin mà những tác phẩm âm nhạc, hội họa, hình ảnh và ngôn từ ấy lên sức khỏe tâm thần và thể xác của chúng ta như thế nào.
Bài viết dài kỳ này thử giải đáp những câu hỏi ấy theo một góc nhìn khác, trên cơ sở tổng hợp cả những khám phá gần đây của khoa học và những kinh nghiệm cổ xưa.
Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu về nước - một điều mới nghe có vẻ không mấy liên quan đến vấn đề đang đề cập, qua những thí nghiệm thú vị và đáng kinh ngạc của tiến sĩ Masaru Emoto.
Nước, khởi nguồn của sự sống
Nước có mặt khắp nơi trên hành tinh xinh đẹp này, từ những đỉnh núi quanh năm tuyết phủ của dãy Hy Mã Lạp Sơn đến những dòng Trường Giang, Hoàng Hà hay Hằng Hà hùng vĩ, từ những dòng sông băng ở hai cực Trái Đất đến những dòng sông ngầm trong lòng đất, từ thác nước Hồ Khẩu ở Giang Tây đến thác Victoria ở Zimbabwe… Nước chiếm đến 70% diện tích bề mặt Trái Đất.
Trong các vật chất hữu cơ ta biết, nước chiếm phần lớn trọng lượng và thể tích. Ví dụ, một chiếc lá khi ta vò nát, thì nó chảy ra nước. Vò đi vò lại cuối cùng chẳng còn gì. Như vậy nước cấu thành phần lớn vật chất hữu cơ. Hiểu được nước, là ta hiểu được vô vàn hiện tượng của thế giới sinh vật.
Nước là nguồn gốc của sự sống. (Ảnh: pixabay.com)
Nước quan trọng đến mức ngay lập tức, nó ảnh hưởng đến kinh tế bang California khi chính quyền bang này yêu cầu cắt giảm 25% lượng nước tiêu dùng của toàn bang do tình trạng khô hạn và nguồn nước tự nhiên từ tuyết trên núi đã bị khai thác gần hết. California là bang có sản lượng nông nghiệp lớn nhất nước Mỹ, là nguồn cung cấp 1/3 sản lượng rau và 2/3 sản lượng trái cây cho cả nước Mỹ, đồng thời là nơi xuất khẩu nông sản lớn nhất trên toàn nước Mỹ. Năm 2015 khi chính sách tiết kiệm nước lần đầu tiên được ban hành, vô số đất nông nghiệp bị bỏ hoang, nông dân thất nghiệp và nông sản sụt giảm nghiêm trọng. Người ta thấy đi bán nước còn có lợi nhuận hơn trồng cây.
Tất nhiên, trong buổi toàn thế giới trở thành một ngôi làng gồm các hộ dân ảnh hưởng lẫn nhau nên khi ngô California thất thu, thì đàn bò và lợn đông nhung nhúc của Trung Quốc cũng bị đói, và người Trung Quốc sẽ thiếu thốn thực phẩm. Tai họa bắt đầu từ nước.
Ai cũng hiểu rằng trong thức ăn, nước uống chúng ta dùng hàng ngày đều là nước có nguồn gốc từ những dòng nước ngọt quý giá ấy của thiên nhiên. Không có nước thì không có sự sống của sinh vật.
Nước là tấm gương phản chiếu tâm thức của vạn vật
Tuy nhiên, một người Nhật Bản đã đi xa hơn thế. Sau nhiều năm nghiên cứu về nước, tiến sĩ Masaru Emoto, cũng là một bác sĩ theo phương pháp Y học thay thế, đã công bố những kết quả thí nghiệm của mình với nước. Ông quan sát sự tạo thành tinh thể nước với các loại nước khác nhau và phản ứng của nước dưới những tác động khác nhau của âm thanh, hình ảnh và ngôn từ. Nước sạch trong thiên nhiên dù ở bất kể nguồn nào: Sông băng, sông ngầm, nước suối tự nhiên… đều có thể hình thành những tinh thể lục giác rất cân đối và đẹp đẽ. Ngược lại, nước bị nhiễm chất hóa học nhân tạo như nước máy chứa clo (một loại chất tẩy) ở Tokyo thì không thể hình thành tinh thể nào.
Nước qua xử lý. (Ảnh: dkn.tv)
Ngược lại, nước tự nhiên không ô nhiễm lại hình thành những tinh thể lục giác rất đẹp.
Nước tự nhiên. (Ảnh: dkn.tv)
Trong những thí nghiệm tiếp theo, nước được tiếp xúc với những ngôn từ. Kết quả là ngôn từ đẹp cho kết quả là những tinh thể rất đẹp và cân đối, bất kể những ngôn từ đó được thể hiện bằng ngôn ngữ nào trên thế giới.
Tình yêu và lòng biết ơn cho hình dạng tinh thể nước tinh tế nhất, đẹp nhất.
Và ngôn từ xấu thì kết quả cũng tương tự như khi nước bị ô nhiễm, nó không thể tạo thành tinh thể hoặc tạo thành hình ảnh méo mó rất đáng sợ.
Ảnh tinh thể nước khi tiếp xúc 
với các ngôn từ. (Ảnh: pinterest.com)
Thậm chí câu nói: “Mày làm tao bực đấy, tao sẽ giết mày” còn tạo ra hình một người đàn ông cầm súng. Và từ “quỷ dữ” thì trông thật tối đen ghê rợn.
Ảnh tinh thể nước khi tiếp xúc với câu nói: “Mày làm tao 
bực đấy, tao sẽ giết mày”, và từ “quỷ dữ” (Ảnh: dkn.tv)
Còn với âm nhạc thì sao?
Đây là kết quả khi cho nước nghe nhạc của Beethven, Mozart. Đặc biệt với bản Hồ Thiên Nga nổi tiếng của Tchaikovsky, tinh thể nước mô tả đúng nội dung của bản nhạc. Thế nhưng khi được nghe những âm thanh chát chúa và lời ca tục tĩu của một số bản nhạc Rock thì sao? Kết quả giống như khi nước tiếp xúc với từ “Đồ ngốc”.
Tinh thể nước biến đổi khi nghe 
các bản nhạc khác nhau. (Ảnh: dkn.tv)
Vậy nước sẽ phản ứng ra sao với các hình ảnh? Không chỉ là các tinh thể đẹp, mà nó còn mô tả đúng tinh thần và nội dung của bức ảnh ấy.
Hình dạng tinh thể nước khi 
ngắm nhìn ảnh Trái Đất. (Ảnh: dkn.tv)
Tinh thể nước khi được ngắm hình ảnh Trái Đất rất đẹp, tuy nhiên có chút biến dạng. Và đấy là tình trạng của Trái Đất hiện nay.
Còn đây là hình ảnh tinh thể nước khi nhìn thấy bức ảnh mặt trời, rặng san hô, một hồ nước tại công viên quốc gia Yellow Stone (Mỹ) và hình ảnh tinh thể nước khi nhìn thấy bức ảnh thác Victoria.
Tinh thể nước biến đổi kỳ diệu khi nhìn 
các bức ảnh khác nhau. (Ảnh: dkn.tv)
Với hình ảnh rặng san hô, là cả cụm tinh thể nhỏ. Còn hình ảnh một hồ nước tại công viên quốc gia Yellow Stone (Mỹ), tinh thể nước còn thể hiện cả màu sắc như một viên đá quý, rất tương đồng với màu sắc của hồ nước. Và hình ảnh tinh thể nước khi nhìn thấy bức ảnh thác Victoria đã đề cập ở trên, tinh thể hình thành những cột rộng như dòng thác hùng vĩ đang đổ xuống.
Còn có một thí nghiệm đã được 100 nhà khoa học chứng kiến. Một ly nước được đặt trước hình ảnh của nhà độc tài Hitler và một ly nước khác được đặt trước hình ảnh của nữ tu sĩ nổi tiếng với lòng từ bi là mẹ Teresa.
Hai ly nước đều được đông đặc ở -20ºC và rọi lớn đến 300 lần độ phóng đại. Kết quả ly nước được đặt cho xem hình ảnh mẹ Teresa thì tinh thể rất thanh nhã và đẹp đẽ – bông hoa sáu cánh. Ngược lại ly nước được đặt trước hình ảnh Hitler, tinh thể rất xấu xí và ghê sợ. Khi toàn thể chứng viên xem thấy những hình ảnh kết tinh này, mọi người đều cảm động vô cùng.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng: Tinh thể nước không chỉ thể hiện hình ảnh mà cả nội dung trong những thông điệp của ngôn từ, âm thanh, hình ảnh mà nước được nhìn thấy, nghe thấy. Những thông điệp tốt như những hình ảnh từ thiên nhiên, vũ trụ; những lời nói yêu thương và biết ơn, những từ ngữ trí tuệ; những âm thanh tuyệt diệu có tính hướng thượng giúp tâm hồn thăng hoa… thì tinh thể nước có hình lục giác rất đẹp, có màu sắc và hình thức giống như những thông điệp mà nước được tiếp xúc. Ngược lại, với nước bị ô nhiễm hoặc phải tiếp xúc với những ngôn từ xấu, miệt thị, đe dọa, chửi bới hoặc hình ảnh xấu thì nước không hình thành được tinh thể hoặc có những hình ảnh màu sắc rất đáng sợ.
Từ trước đến nay chúng ta vẫn hiểu rằng, nước là một tấm gương phản chiếu hình ảnh của vật thể soi bóng trên nó, như những câu thơ của Tế Hanh trong bài thơ “Nhớ con sông quê hương”: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc, nước gương trong soi tóc những hàng tre”. Nước còn phản ánh đúng hình dạng của vật chứa nó: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Tuy nhiên, bây giờ ta biết thêm rằng, nước còn phản chiếu tâm hồn, suy nghĩ, tín tức của mọi vật mà nước được nhìn thấy. Ấy cũng như là: “Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè, tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng”.
Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Thủy vi tâm chi kính”, tức là nước là tấm kính phản chiếu tâm chúng ta.
Nước chính là một ổ cứng vĩ đại của vũ trụ ban cho Trái Đất, nơi lưu trữ mọi thông tin mà nước tiếp xúc. Tuy nhiên, vì sao chỉ có những lời yêu thương, những ngôn từ trí tuệ, những âm thanh đẹp nâng tâm hồn con người cao thượng hơn, những hình ảnh trong sáng, từ bi, thuần khiết… mới khiến nước tạo được những tinh thể tuyệt đẹp?
Ngược lại, những ngôn từ thô lỗ, mang tính bạo lực, hận thù, đe dọa, đố kỵ, nhục mạ… những hình ảnh xấu xa chết chóc, những âm thanh hỗn độn, chát chúa và tục tĩu lại không thể khiến nước tạo thành tinh thể, có chăng chỉ là những hình ảnh đáng sợ. Bởi vì tiến sĩ Masaru Emoto giải thích rằng: Những ý thức đó không phải từ tự nhiên, vũ trụ không tạo ra những thứ như thế. Nó là sản phẩm biến dị của xã hội nhân loại. Vũ trụ được cấu thành bởi những ý thức từ bi, cái đẹp và trí huệ, chứ không phải cái xấu và sự tà ác; từ ý thức xây dựng chứ không phải năng lực phá hủy.
Tự nhiên khi chưa có tác động nhân tạo thì luôn cân bằng vì từ bi là đặc tính của vũ trụ. Cây thân gỗ là nơi bám cho dây leo. Cây tầng cao không làm chết cây tầng thấp. Động vật ăn thực vật nhưng chúng không phá phách thảm thực vật và dùng quá nhu cầu của chúng. Sư tử, hổ báo cũng không lấy việc đi săn động vật ăn cỏ làm niềm vui giết chóc và chúng cũng chỉ săn mồi khi đói. Chỉ có con người thiếu sáng suốt với lòng tham không cùng để thỏa mãn ham muốn vật dục mới tác động vào tự nhiên bất chấp hậu quả để phá vỡ sự cân bằng ấy.
Theo người viết, điều này tương đồng với triết lý của Đức Lão Tử: “Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên”. Tự nhiên ấy chính là vũ trụ. Những việc hợp với Đạo chính là việc thuận theo tự nhiên và quy luật của vũ trụ. Trái với tự nhiên, là xấu.
Ngài cũng viết: “Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh. Xử chúng nhân chi sở ố. Cố cơ ư Đạo”. Nghĩa là: Nước là thuần thiện và trong sáng nhất. Nước làm lợi cho vạn vật mà không tranh. Nước chịu ở chỗ mà người người đều ghét, là chỗ thấp nhất. Nên gần với Đạo.
Nước có thể nhận biết mọi vật, không sai khi nói rằng: 
Nước mang trong mình đặc tính của vũ trụ và là 
nguồn gốc của sự sống. (Ảnh: pinterest.com)
Rõ ràng là, ý thức của một vật như thế nào thì nước sẽ phản ánh nó như thế. Một bản nhạc sẽ mang thông điệp ý thức của người nhạc sĩ trong âm thanh, giai điệu, tiết tấu… của nó. Một hình ảnh mang ý thức của nó trong màu sắc, hình dáng và ý nghĩa của hình ảnh ấy. Một lời nói, một văn tự cũng mang ý thức, tư tưởng, tình cảm của chủ nhân sáng tạo ra nó.
Đó cũng chính là tần số rung của vạn vật mà nước cảm nhận được, một nội dung ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn ở các bài viết tiếp theo.
Nhưng nước không chỉ tồn tại ở các dòng sông, suối, ao hồ… mà có trong tất cả các vật chất hữu cơ nên cách mà ta đối xử với nước chính là cách ta đối xử với vạn vật, với thiên nhiên.
Chắc hẳn nhiều người chúng ta đã nghe nói đến những thí nghiệm của các nhà khoa học từ thế kỷ trước đối với thực vật. Kết luận của họ là thực vật cũng có tư duy, cảm xúc, khả năng học hỏi, ghi nhớ… 
Thí nghiệm: Thực vật có tồn tại ý thức, trí thông minh, thậm chí khả năng siêu cảm?
Nhưng chúng ta đừng quên rằng, thực vật cũng chính là nước. Cho nên, những cây táo của ông Kimura mới cho chất lượng thần kỳ đến thế vì hàng ngày chúng được ông chăm bón cho không phải bằng nông dược, mà bằng những lời yêu mến và lòng biết ơn. Như vậy thì một mặt cây táo cảm nhận được cảm xúc tích cực của Kimura, mặt khác nước ở trong cây táo, quả táo đã được tịnh hóa nhờ tình yêu và lòng biết ơn của ông và khiến chúng trở nên tuyệt hảo như vậy. 
Vậy còn con người chúng ta thì sao? 70% trọng lượng cơ thể chúng ta cũng là nước. Từ khi chưa ra đời, cơ thể chúng ta đã nằm trong một bầu nước nơi bụng mẹ. Cho nên, có thể nói chúng ta cũng là nước, một bình nước di động. Vậy trong cái bình nước – cơ thể này của chúng ta, thì sức khỏe của nó, sự toàn vẹn của nó là hoàn toàn phụ thuộc vào việc nước ấy chứa những gì: Lòng biết ơn, tình yêu, trí tuệ, lòng tốt, sự trung thực, bao dung… hay bạo lực, sự xuẩn động, sự hận thù, tâm dối trá, đố kỵ, hẹp hòi… Nghĩa là, nước ấy có kết tinh thành những tinh thể đẹp hay là những hình ảnh tán loạn và méo mó.
70% trọng lượng cơ thể chúng ta cũng là nước. Vậy trong cái 
bình nước - cơ thể này của chúng ta, thì sức khỏe của nó, 
sự toàn vẹn của nó là hoàn toàn phụ thuộc vào việc nước ấy 
chứa những gì: Lòng biết ơn, tình yêu, trí tuệ hay bạo lực, 
sự hận thù… (Ảnh: pinterest.com)
Ấy là lựa chọn của chúng ta trong việc tự xây dựng một nội tâm trong sạch, sáng suốt và mạnh mẽ. Nhưng nó cũng phụ thuộc việc ta lựa chọn những gì để nghe, để nhìn, để cảm nhận… Một mặt chúng ta chủ động hoàn thiện nội tâm, một mặt chúng ta loại bỏ những tác động ngoại cảnh mang những thông tin bất lợi. Cả hai việc ấy đều có tác dụng tịnh hóa nước trong cơ thể chúng ta.
Rồi chính chúng ta lại có trách nhiệm để mang đến lòng từ bi, sự chân thật và lòng bao dung tới một thế giới của nước để tịnh hóa thế giới ấy.
2. Vì sao âm nhạc ẩn chứa sức mạnh vĩ đại vô hình?
Trước khi vào nội dung chính của bài, xin mời các bạn cùng tham gia một cuộc dạo chơi ngắn qua các miền không gian của âm nhạc.
Khi nghe Dancing Queen, Mama Mia, Chiquitita… của ABBA bạn thấy gì? Cảm xúc chủ đạo là sự rộn rã, yêu đời, những giai điệu sôi nổi của tuổi trẻ. Mời bạn chuyển qua bản Rock “Homage for Satan” của nhóm Decide, thật cứ như âm thanh của lũ quỷ sứ điên loạn mới được phóng thích từ địa ngục. Rồi bạn dời gót qua miền Dạ Cổ Hoài Lang của nhạc sĩ Cao Văn Lầu, thật là sao mà dài lê thê, buồn như trấu cắn, nó chậm như nhịp sống của miền Tây Nam Bộ đầu thế kỷ trước. Chỉ một cái click chuột trên Youtube, bạn chuyển qua nước Nga êm đềm thời cận đại với “Khúc chèo thuyền tháng 6” của Tchaikovsky, một nhạc phẩm nằm trong tổ khúc bốn mùa sẽ đưa bạn lênh đênh trên sóng nước của những dòng sông ở Peterburg, với tâm hồn bồng bềnh theo những nhịp chèo lúc khoan lúc nhặt. Chặng dừng chân cuối mời bạn vượt hẳn mấy nghìn năm lịch sử về với Trung Hoa cổ đại thời Chiến Quốc, ngồi trên non cao mà nghe tiếng nước chảy lúc sầm sập như thiên binh vạn mã, lúc tí tách thánh thót như giọt gianh của bản “Cao Sơn Lưu Thủy” trong tiếng dao cầm u trầm cao nhã, dày dặn thâm sâu như lịch sử 5000 năm văn minh Hoa Hạ…
Rõ ràng, thân và tâm chúng ta sẽ trải qua những cung bậc cảm xúc khác nhau khi nghe các loại nhạc. Vì sao lại thế?
Hai con đường tiếp cận của âm nhạc với tâm và thân
Trong cuốn “Bí mật của nước”, Tiến sĩ Masaru Emoto có làm một thí nghiệm với âm nhạc của Alan Roubik, một nghệ sĩ dương cầm bậc thầy người Mỹ. Nhiều thính giả nói rằng họ cảm thấy cơ thể mình trở nên trong suốt khi nghe nhạc của Alan. Tiến sĩ Emoto đề nghị Alan sáng tác một bản nhạc có tác dụng chữa lành. Sau đó họ cho nước nghe bản nhạc đó. Đúng như mong đợi, các tinh thể nước được hình thành vô cùng đẹp và tinh tế.
Nhưng điều kỳ lạ hơn là khi Alan được xem các tấm ảnh tinh thể nước nghe nhạc của mình, ông kinh ngạc nói rằng đó chính là những hình ảnh ông thấy trong tâm trí khi sáng tác bài hát này. Như vậy, tư tưởng của Alan đã mang thông tin, tín tức vào trong bản nhạc và nó đã được nước ghi nhận và lưu giữ.
Tinh thể nước hình thành khi nghe bản 
“Keys to my heart” của Alan Roubik. (Ảnh: dkn.tv)
Âm nhạc phương Tây có cái gốc là từ nhà thờ Thiên Chúa Giáo, để ngợi ca Thiên Chúa. Người ta cho rằng những nhạc sĩ như Handel đã nhận được mặc khải của Thiên Chúa trong bản Oratorio nổi tiếng của ông là Trường ca Messiah. Đây là bản opera được ông viết nhạc nhanh với tốc độ kỷ lục: 24 ngày. Nội dung bản nhạc ca ngợi Đấng Sáng Thế. Handel đã thuật lại trải nghiệm của mình khi viết bản hợp xướng “Hallelujah” trong Messiah, “tôi đã nhìn thấy thiên đàng ngay trước mắt”.
Và Handel không phải là trường hợp duy nhất nhận được sự mặc khải từ cõi trên. Haydn, cha đẻ của nhạc giao hưởng, cũng sáng tác một bản Oratorio khác tên là “Đấng Sáng Tạo”. Nội dung bản nhạc nói về sự Sáng Thế của Thiên Chúa. Ông nói: “Trong cuộc đời tôi, chưa có lúc nào khiến tôi tiến gần đến Thiên Chúa như khi tôi viết ‘Đấng sáng tạo’, tôi cảm nhận Thiên Chúa vĩnh viễn tồn tại trong tôi”. Khi “Đấng sáng tạo” được biểu diễn thành công hoàn hảo trong chương trình năm 1802, khán giả đã đứng dậy vỗ tay khen ngợi, Haydn vui mừng đứng lên và chỉ tay lên trời, nói: “Bản nhạc này là đến từ nơi đó!”.
Thời hiện đại cũng có một nhạc sĩ có được ý tưởng sáng tác từ một không gian khác. Paul McCartney của The Beatles đã sáng tác bản Yesterday nổi tiếng sau một giấc mộng. Cho nên có thể nói rằng nhiều tư tưởng sáng tác của các nhạc sĩ đến từ một không gian khác mà nhiều khi ngôn ngữ nhân loại không thể diễn giải nổi. Do vậy mới nói: “Khi ngôn ngữ bất lực thì âm nhạc lên tiếng”. Nước chiếm 70% khối lượng trong cơ thể chúng ta sẽ cảm nhận được những giai điệu thiên thần này và nó sẽ triển hiện những tinh thể tuyệt đẹp, thánh khiết. Đấy là tác dụng tích cực của âm nhạc đối với nước trong cơ thể.
Tinh thể nước khi nghe 
bài hát “Yesterday”. (Ảnh: dkn.tv)
Nhưng âm nhạc còn có một con đường tương tác khác. Âm thanh như ta biết chính là tần số rung và âm nhạc chính là âm thanh có giai điệu. Nhưng đâu chỉ có âm thanh là tần số rung. Mọi vật chất của vũ trụ này đều có tần số rung. Chiếc bàn kia ta nhìn thấy nó bất động nhưng nó lại được tạo ra bởi những vi lạp (những hạt cực nhỏ như phân tử, nguyên tử, quark…) và những vi lạp này chuyển động với tốc độ cực cao. Ví như phân tử gồm nhiều nguyên tử liên kết với nhau. Mỗi nguyên tử lại bao gồm hạt nhân đứng giữa và điện tử quay quanh hạt nhân với tốc độ cực nhanh. Trong hạt nhân nguyên tử đứng im lại có những vi lạp chuyển động cực cao khác và cái mô hình đó cứ thế lặp lại đến nhỏ nữa, nhỏ mãi. Hiện nay vi lạp nhỏ nhất con người biết được là neutrino, nhưng nó chưa phải nhỏ nhất. Như vậy tất cả những chuyển động của các vi lạp đó cấu tạo nên một vật đứng yên như cái bàn đó sẽ khiến cái bàn có một tần số tổng hợp. Cơ thể người cũng có tần số riêng của nó. Năm 1989, trong một bài báo trên tạp chí khoa học của Mỹ có tên “21st Century Science and Technology”, nhà khoa học Warren J. Hamerman đã viết rằng tần số của các chất hữu cơ của cơ thể người là 42 quãng tám, khoảng 570 tỷ Hz.
“Các chất hữu cơ cấu tạo nên con người” mà Hamerman nói đến chỉ bao gồm các phân tử tạo nên các tế bào của cơ thể xác thịt của chúng ta. Nhưng phân tử lại cấu tạo bởi nguyên tử, nguyên tử cấu tạo bởi hạt nhân và điện tử, cứ thế mãi… vậy cái cơ thể cấu tạo bởi nguyên tử là một cơ thể riêng và nó không chết đi theo thân thể xác thịt. Mắt chúng ta không nhìn thấy được thân thể này nhưng nó tồn tại. Tương tự còn có các thân thể khác cấu tạo từ những vi lạp nhỏ hơn cấp nguyên tử và nhỏ nữa mắt ta cũng không thấy được. Ta tạm gọi đó là các lớp thân thể. Trong thí nghiệm Kirlian của các nhà khoa học Xô Viết thì nó chính là các lớp hào quang bao quanh thân thể người, nó cũng tương đồng với những hiểu biết của Thông Thiên Học về thể xác, thể vía, thể trí… của con người.
Các lớp hào quang này có màu sắc khác nhau 
vì chúng được cấu tạo bởi những dạng vi lạp 
ngày càng nhỏ (Ảnh: Könyvelés Center)
Các lớp hào quang này có màu sắc khác nhau vì chúng được cấu tạo bởi những dạng vi lạp ngày càng nhỏ. Vi lạp càng nhỏ thì tần số rung động càng lớn. Lấy quang phổ ánh sáng làm ví dụ, ta biết dải màu sắc quang phổ ánh sáng mà mắt người nhìn thấy được là đi từ đỏ đến tím, tương ứng với các dải tần số khác nhau. Những tần số ánh sáng quá lớn thì mắt người không thể thấy được quang phổ của nó. Tương tự như vậy, có những hào quang mà các thiết bị đo không thể thấy được vì tần số của nó quá lớn.
Và âm nhạc với tần số rung phù hợp sẽ tác động vào lớp thân thể xác thịt làm từ phân tử này và các lớp thân thể khác làm từ các vi lạp nhỏ hơn. Âm nhạc có tần số cộng hưởng với tần số rung của lớp thân thể nào sẽ có tác động đến lớp thân thể đó. Những âm nhạc có tần số rung cao sẽ cộng hưởng và tác động đến những lớp thân thể vi tế hơn nhục thân có rung động cao, thanh nhẹ và khiến người ta thăng hoa tới những cảm xúc tư tưởng thánh thiện, gần như thần thánh. Đồng thời nó cũng tác động đến nước trong cơ thể để tạo nên những tinh thể đẹp. Ngược lại có những âm nhạc có tần số rung động thấp tác động đến thể xác thô kệch và đầy dục vọng. Từ đó chúng ta giải thích được tại sao bản Messiah của Handel có thể khiến người ta gần với Thiên Chúa, còn bản Rock “Homage for Satan” lại khiến con người gần với quỷ dữ.
Điều này giải thích vì sao âm nhạc có tác động to lớn lên tâm và thân mà không chờ sự cho phép của ý thức chúng ta. Nghe nhạc vui ta sẽ vui, nghe nhạc buồn ta sinh ra buồn rầu. Nghe nhạc ủy mị, ta sinh ra sến sẩm. Nghe nhạc êm đềm ta thư giãn, tâm bình thản thanh tịnh. Nghe nhạc lãng mạn ta đâm ra mơ mộng. Nghe nhiều nhạc thánh thiện ta cũng trở nên thánh thiện. Hay nghe nhạc điên loạn ta cũng trở nên điên loạn. Nghe nhạc cổ động đấu tranh, chém giết thì ta cũng sẽ bị kích động tâm tranh đấu. Dù bạn chủ động hay bị cưỡng chế nghe đi nghe lại một bản nhạc, thì nó sẽ ám ảnh bạn. Trong đầu bạn sẽ văng vẳng bản nhạc đó, và tùy theo cảm xúc nó mang lại, nó sẽ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến bạn bất chấp bạn có muốn hay không.
Rõ ràng là, âm nhạc có thể xây dựng, có thể chữa lành, nhưng cũng có thể phá hủy con người. Âm nhạc là lợi khí quá lớn trong truyền thông, trong tâm lý học…
Bởi vậy, kinh Vệ Đà nói rằng: “Vũ trụ tạo lập bởi các âm thanh”. Thánh Kinh thì viết: “Huyền âm xuất hiện trước nhất và huyền âm ở với Thượng Đế, huyền âm là Thượng Đế”.
Sức mạnh của âm nhạc trong chiến tranh từ thời cổ đại
Một trong những người đầu tiên biết lợi dụng sức mạnh của âm nhạc thời Trung Hoa cổ đại là Quản Trọng sống vào thời Xuân Thu cách đây khoảng hơn 2700 năm. Khi công tử Tiểu Bạch nước Tề lên ngôi lấy hiệu là Tề Hoàn Công, Bão Thúc Nha tiến cử Quản Trọng. Ông ta hiến kế cho Tề Hoàn Công gửi thư cho Lỗ Trang Công yêu cầu bắt Quản Trọng giải về nước Tề để xét xử cái tội bắn tên hành thích ngày trước. Quản Trọng biết mưu này là để cứu mình, nhưng lại e ngại Lỗ Trang Công nửa chừng đổi ý. Nên trên xe tù, Quản Trọng sáng tác bài ca Hoàng Hộc để dạy quân áp giải hát. 
Quân lính ca hát vui vẻ quên cả mệt nhọc, đẩy cỗ tù xa băng băng, một ngày đi bằng hai ngày đường. Lỗ Trang Công tỉnh ra cho người đuổi theo thì không còn kịp nữa.
Quản Trọng sáng tác bài ca 
Hoàng Hộc trên xe tù. (Ảnh: dkn.tv)
Người thứ hai biết khéo léo lợi dụng âm nhạc để giành chiến thắng là Trương Lương, quân sư số một của Lưu Bang. Hạng Vũ bị quân đội nhà Hán của Hàn Tín bao vây ở Cửu Lý Sơn, phía bắc thành Từ Châu. Tuy nhiên ông ta còn có 8000 quân tử đệ sẵn sàng liều chết. Nên Trương Lương mới nghĩ ra một kế, ông sáng tác ra một điệu nhạc tiêu, tiếng tiêu kèm một ca khúc bi lụy tên gọi là “Bi ca tán Sở”. Tiếng tiêu nỉ non kèm với giọng ca réo rắt thê lương nẫu ruột khiến cho kẻ địch lòng dạ sắt đá nhất cũng phải mềm yếu suy sụp nhớ nhà nhớ quê, chán ngán chiến đấu. Họ từ quân đến tướng rủ nhau bỏ trốn gần hết chỉ còn lại Hạng Vũ trơ trọi. Từ đó mới dẫn đến thất bại của Hạng Vũ ở trận Cai Hạ và Hạng Vũ phải tự tử bên bờ Ô Giang, kết thúc cuộc Hán Sở tranh hùng.
Trong thế chiến thứ Nhất, quân đội Pháp và Anh đang đụng độ với quân Đức trong một trận đánh. Vào đêm Giáng sinh, quân đội Đức mời một nhạc sĩ và một ca sĩ để hát mừng Giáng Sinh. Những ca sĩ hồn nhiên ra khỏi giao thông hào hát những bài ca Giáng Sinh. Quân lính từ mọi phía cũng hồn nhiên đổ ra nghe nhạc. Không ngờ, quân lính hai bên nghe nhạc đều xúc động và cuối cùng họ chơi trò đổi quà Giáng sinh. Sau đó, họ cũng lắng nghe lời cầu nguyện của một tu sĩ. Trong nhiều tuần sau đó, cả mặt trận đều im tiếng súng. Đó là âm nhạc đã phát huy tác dụng.
Sức mạnh của âm nhạc được mô tả trong phim ảnh, văn học
Trong bộ phim “Dương Cầm” đạt giải Oscar năm 2003, một nghệ sĩ dương cầm trốn chạy quân đội Đức quốc xã trong một ngôi nhà đổ nát. Một sĩ quan Đức bắt được ông ta và yêu cầu ông ta chơi nhạc. Nhưng chính bản nhạc tuyệt vời đó đã lay động được lòng trắc ẩn của viên sĩ quan. Cuối cùng viên sĩ quan đã giúp nghệ sĩ dương cầm thoát chết.
Một bộ phim nổi tiếng khác của Đức đạt giải Oscar dành cho phim nước ngoài hay nhất năm 2006 là phim “Cuộc sống những người khác”. Viên trung úy Wiesler thuộc Bộ An ninh quốc gia của Đông Đức (Stasi) nhận nhiệm vụ theo dõi tư tưởng của giới văn nghệ sĩ. Người ông ta được phân công theo dõi là kịch tác gia nổi tiếng Georg Dreyman. Wiesler đặt máy nghe trộm trong nhà Dreyman. Hàng ngày ông ta đều mang tai nghe để nghe hết nội dung trao đổi của Dreyman với Sieland, bạn đời của ông, và với các bạn văn nghệ sĩ cùng chí hướng cải cách. Tất nhiên, Dreyman không hề biết mình đang bị nghe trộm.
Nhưng từ việc nghe trộm đời sống của Dreyman, viên trung úy lạnh lùng mới nhận ra điều không bình thường trong cuộc sống và công việc của mình và ông ta dần thay đổi. Cao trào của bộ phim là khi Dreyman đàn cho Sieland nghe bản “Sonate vom Guten Menschen” (Khúc ca từ những người lương thiện). Ông nói với Sieland đại ý rằng, anh không thể tưởng tượng được có những người nghe bản nhạc này mà lại có thể tiếp tục làm người xấu. Bộ phim chiếu sang hình ảnh của Wiesler đang đeo tai nghe, trên mặt đầm đìa nước mắt. Kể từ đó ông ngấm ngầm giúp đỡ Dreyman và Sieland. Wiesler chấp nhận bị thuyên chuyển sang công việc kiểm thư.
Nhưng từ việc nghe trộm đời sống của Dreyman, viên trung úy 
lạnh lùng mới nhận ra điều không bình thường trong cuộc sống và công việc của mình và ông ta dần thay đổi… (Ảnh: wxwenku.com)
Độc giả hâm mộ truyện kiếm hiệp của Kim Dung chắc không thể quên cuộc đấu âm nhạc long trời lở đất giữa ba đại cao thủ của võ lâm là Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong và Hồng Thất Công trên đảo Đào Hoa. Họ đấu âm nhạc nhưng là đấu nội công, ai nội công yếu hơn sẽ không chịu nổi âm thanh của đối phương. Hoàng Dược Sư sử dụng một cây sáo, Âu Dương Phong đánh thiết tranh, còn Hồng Thất Công thì sử dụng tiếng hú. Ta hãy xem Kim Dung miêu tả cuộc đấu như thế nào: “Chỉ nghe tiếng đàn tranh mau dần, tới đoạn cuối thì như chuông trống cùng khua, muôn ngựa cùng phi, chợt có tiếng êm ái chen vào, một tràng tiếng tiêu dìu dặt chen vào giữa tiếng đàn tranh… Tiếng thiết tranh tuy vang dội nhưng thủy chung vẫn không át được tiếng tiêu, hai âm thanh chen lẫn vào nhau, âm điệu vô cùng quái dị”. Cuộc đấu chưa phân thắng bại thì bất ngờ bị xen ngang bởi tiếng hú như “rồng ngâm cọp rống” của Hồng Thất Công.
Nhạc làm sao, người hao hao làm vậy
Trong giới Rocker có một lời nguyền, gọi là “Lời nguyện hội 27”. Những ca sĩ nhạc Rock trong cái hội bất đắc dĩ này đều chết trẻ ở tuổi 27. Trong đó có Brians Jones của ban nhạc Rock huyền thoại The Rolling Stones, ca nhạc sĩ Jimi Hendrix, ca nhạc sĩ Jim Morrison của ban nhạc Rock The Doors, trưởng nhóm Rock Nirvana là Kurt Cobain.
Khó có thể cắt nghĩa cái chết kỳ lạ của những ngôi sao nhạc Rock này. Nhưng người ta có thể liên hệ lối sống dị thường, lắm lúc quái đản của các Rocker với thứ âm nhạc mà họ đang chơi. Đối với các Rocker, những người luôn tìm kiếm cảm giác lạ, “phê”, nổi loạn và để luôn luôn giữ được độ “bốc” thì việc tìm đến ma túy các loại là lẽ thường. Làm sao tâm tính họ có thể trầm tĩnh sáng suốt được khi họ chơi một thứ âm nhạc điên loạn như thế. Điên loạn và ma quỷ. Cho nên mới có những những chuyện điên rồ như Ozzy Osbourne hít đàn kiến lửa, David Bowie và Mick Jagger chung chăn gối, Keith Richards hít tro bụi hỏa táng của cha, Nikki Sixx chơi heroin trong phòng khách sạn và bị sốc thuốc tưởng chết, Freddie Mercury chết trẻ vì AIDS do chơi bời phóng đãng, v.v. còn rất nhiều những ví dụ khác tương tự cho độc giả quan tâm tự tìm hiểu. Rock là một thứ văn hóa biến dị, xa lạ với những âm thanh đẹp đẽ, từ bi của vũ trụ mà âm nhạc cảm nhận được. Hẳn độc giả chúng ta còn nhớ trong Kỳ 1, nước không thể tạo được tinh thể, mà chỉ có những hình thù tán loạn khi nghe nhạc Rock.
Nhạc Rock làm cho người ta điên loạn. (Ảnh: ytapi.club)
Đến những bản nhạc tuyên truyền sắt máu
Cách mạng Văn hóa là một vết nhơ không bao giờ phai trong lịch sử đẫm máu của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Đây là thời kỳ mà mọi giá trị đạo đức xã hội đã bị lật nhào, luân thường đạo lý bị đảo lộn. Con giết cha, trò hại thầy… rất nhiều tội ác đã được phép diễn ra với mục đích là đạp đổ văn hóa truyền thống vốn coi trọng đạo đức, coi trọng lòng nhân ái và các giá trị của Nho học như Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín. Thay vào đó là một hệ giá trị rùng mình không hề có nhân tính. Trong làn sóng tai họa đó thì những tác phẩm âm nhạc cổ súy thù hận và giết chóc, thúc giục ác tính của con người đóng một vai trò như ma xui quỷ khiến. Những ca từ như là: “Hãy gặm nhấm lòng thù hận, hãy nhai và nuốt nó. Hãy gieo lòng căm thù trong tim để nó nảy mầm” (1) khiến con người mù quáng vì thù hận và sẵn sàng làm việc ác.
Bạn đọc thân mến, vậy là chúng ta đã hiểu được phần nào ảnh hưởng của âm nhạc đối với tâm và thân của chúng ta từ cái nhìn của khoa học hiện đại và dựa trên những bằng chứng của cả lịch sử và văn hóa. Tác giả hy vọng bạn đọc cùng chia sẻ quan điểm của bài viết, từ đó thấy rằng, việc nghe nhạc gì là một vấn đề cực kỳ quan trọng. Như đã trình bày ở Kỳ 1, cơ thể chúng ta là một bình nước, âm nhạc sẽ khiến bình nước đó là trong lành hay độc hại. Âm nhạc vừa là công cụ tuyệt vời để xây dựng vừa là tên hung thần để phá hủy tâm hồn, tùy vào cách mà ta sử dụng nó.
Cuối bài viết, mời bạn đọc thưởng thức nhạc khúc nổi tiếng thời cổ đại: “Cao Sơn Lưu Thủy”. Chúc bạn đọc có những phút thư giãn tuyệt vời.
(1): Từ bài hát của vở nhạc kịch hiện đại “Huyền thoại đèn lồng đỏ”, một “vở kịch mẫu” chính thức phổ biến được phát triển trong thời Đại Cách mạng Văn hóa (1966-1976).
(Bài viết có sử dụng những hình ảnh và kết quả nghiên cứu được trình bày trong cuốn sách “Thông điệp của nước” và “Bí mật của nước” của Tiến sĩ Masaru Emoto).
 Bình Nguyên
Theo https://www.dkn.tv/


Âm nhạc W.A.Mozart trong đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp Việt Nam

Âm nhạc W.A.Mozart trong đào tạo 
thanh nhạc chuyên nghiệp Việt Nam
MỞ ĐẦU
Sự nghiệp đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp của Việt Nam đã có một lịch sử gần 60 năm, từ khi thành lập Trường Âm nhạc Việt Nam. Nhưng những thành tựu đạt được đã trở thành niềm tự hào to lớn góp phần tích cực xây dựng nền âm nhạc Cách mạng nói chung và sự nghiệp thanh nhạc chuyên nghiệp Việt Nam nói riêng.
Sự đổi mới được thể hiện trong nhiều mặt chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, biên soạn các chương trình, giáo trình cho thanh nhạc các cấp học (trung cấp và đại học).
Việc thực hiện từng bước tiếp cận với những phương pháp, những mô hình đào tạo thanh nhạc hiện đại thế giới, nhằm đưa vào giảng dạy cũng được tiến hành từng bước chắc chắn.
Do những yêu cầu ngày càng cao, ngày càng đa dạng của đời sống âm nhạc, đã thúc đẩy các giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ của Học viện phấn đấu vươn lên không ngừng trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy.
Với niềm khát khao học tập, nghiên cứu để vươn lên tôi đã chọn “Âm nhạc W.A.Mozart trong đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp Việt Nam” để làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Lịch sử đề tài
Trong những nghiên cứu về đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp ở Việt Nam có thể kể đến một số công trình nghiên cứu rất có giá trị như:
- PGS. NSND Mai Khanh đã viết cuốn Sách học thanh nhạc vào cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
- Cuốn sách Phương pháp sư phạm thanh nhạc (2001) của GS. NSND Nguyễn Trung Kiên
- Cuốn Lịch sử nghệ thuật thanh nhạc phương Tây (2005) của NGƯT Hồ Mộ La
- Cuốn Phương pháp dạy thanh nhạc (2008) của NGƯT Hồ Mộ La
- Cuốn Nâng cao chất lượng hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát mới (2010) của PGS.TS.NSƯT Trần Ngọc Lan
- Cuốn Lược sử opera (2011) được GS. NSND Nguyễn Trung Kiên
Thời gian gần đây, các tác phẩm của Mozart đã được sử dụng nhiều hơn trong giáo trình thanh nhạc ở bậc đại học. Tuy nhiên về tỷ lệ so với các tác giả khác, theo chúng tôi là còn khá khiêm tốn, một số giảng viên vẫn còn ham thích những tác phẩm ở thời kỳ cuối thế kỷ XIX như những tác phẩm đầy kịch tính của Puccini... Những tác phẩm này chủ yếu dành cho các giọng hát đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành biểu diễn thanh nhạc. Do chưa có công trình nghiên cứu nào tìm hiểu một cách có hệ thống, chi tiết từng thể loại tác phẩm của Mozart nên chúng ta chưa thấy hết được ý nghĩa xã hội, tính khoa học cũng như những giá trị to lớn mà các tác phẩm đó mang lại trong quy trình đào tạo thanh nhạc.
Chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn luận án hoàn thành tốt sẽ có thể đóng góp thêm cho quá trình hoàn thiện giáo trình thanh nhạc của khoa Thanh nhạc HVANQGVN.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu một số vấn đề quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác các tác phẩm thanh nhạc của Mozart.
Các tác phẩm này đã và sẽ được áp dụng trong đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp tại Việt Nam.
- Nghiên cứu về những ảnh hưởng của Hội Tam Điểm và Chủ nghĩa Khai sáng đối với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Mozart.
- Nghiên cứu để làm rõ những giá trị trong các sáng tác cho thanh nhạc của Mozart bao gồm: các ca khúc, các concert aria và các aria trích trong các opera của ông.
- Nghiên cứu các chương trình, giáo trình thanh nhạc cho các loại giọng hát. Phân tích và đánh giá vị trí quan trọng của các tác phẩm thanh nhạc của Mozart trong giáo trình thanh nhạc bậc đại học và cao học.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật cũng như ảnh hưởng của Chủ nghĩa Khai sáng và Hội Tam Điểm đến các sáng tác cho thanh nhạc của Mozart .
- Những tiêu chí thẩm mỹ, nghệ thuật và các nguyên tắc về kỹ thuật trong phương pháp bel canto mà Mozart đã ứng dụng trong các tác phẩm thanh nhạc của ông.
- Tìm hiểu và phân tích các tác phẩm của Mozart để đưa vào chương trình giảng dạy thanh nhạc tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu các tác phẩm thanh nhạc của Mozart. Đặc trưng phương pháp bel canto ở thế kỷ XVIII và giáo trình giảng dạy thanh nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án được thực hiện dựa trên quan điểm và phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Trong luận án này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm:
+ Nghiên cứu tư liệu
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh.
+ Tổng kết những kinh nghiệm thực tế của thế giới và Việt Nam qua các giáo trình thanh nhạc.
+ Đúc kết kinh nghiệm của bản thân thông qua hoạt động biểu diễn và giảng dạy.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận án này là công trình nghiên cứu chuyên sâu về các tác phẩm thanh nhạc của Mozart, vị trí quan trọng của nó trong giáo trình thanh nhạc bậc đại học và một phần của bậc cao học.
Phân tích những tiêu chí về nghệ thuật và kĩ thuật trong các tác phẩm thanh nhạc của Mozart, qua đó thấy được tác dụng quan trọng tạo nên phẩm chất cho các ca sĩ được đào tạo chính quy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
Với luận án này, lần đầu tiên việc nghiên cứu về các tác phẩm thanh nhạc của Mozart được phân tích dưới góc độ sư phạm âm nhạc. Qua đó để tìm ra những hướng phát triển trong đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp, phù hợp với con người Việt Nam. Đây là một đóng góp mới mà chưa có công trình nào được thực hiện trước đây.
7. Bố cục luận án
Ngoài phẩn Mở đầu, Kết luận, Khuyến nghị, Tài tiệu tham khảo và Phụ lục, luận án được trình bày trong ba chương:
Chương 1: W.A.Mozart với ảnh hưởng văn hóa thời đại và khái quát những giai đoạn sáng tác của ông.
Chương 2: Đặc điểm chung trong các tác phẩm thanh nhạc của W.A.Mozart. 
Chương 3: Giải pháp kỹ thuật sử dụng các tác phẩm W.A. Mozart trong đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp Việt Nam.
CHƯƠNG 1
W.A.MOZART VỚI ẢNH HƯỞNG VĂN HÓA THỜI ĐẠI VÀ KHÁI QUÁT NHỮNG GIAI ĐOẠN SÁNG TÁC CỦA ÔNG
1.1 Cơ sở lý luận
Khi nghiên cứu về Mozart, một nhiệm vụ quan trọng mà chúng ta không thể bỏ qua đó là nghiên cứu về thời đại mà ông sống, nghiên cứu những ảnh hưởng sâu sắc của thời đại đó đối với tác phẩm của ông, đó là thời gian cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII. Thời đại này còn được gọi là Thời đại Khai sáng (có người còn gọi là Thời đại Ánh sáng) theo cách gọi của các nhà tư tưởng và văn hóa châu Âu.
1. 2 Ảnh hưởng của Chủ nghĩa Khai sáng và opera Lòng từ bi của Tito
1.2.1 Ảnh hưởng của Chủ nghĩa Khai sáng
Thế kỷ XVII được gọi là thế kỷ Ánh sáng hay thế kỷ Khai sáng, thời kỳ này các nhà triết học, các nhà văn hóa không ngừng truyền bá tư tưởng Tự do - Bình đẳng - Bác ái của xã hội, của nhân loại. Những tư tưởng này đã có tác động rất mạnh đến các nghệ sĩ, các nhạc sĩ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Chủ nghĩa Khai sáng lúc đầu chỉ phát triển tại: Đức, Pháp, Anh và Tây Ban Nha, nhưng tầm ảnh hưởng của nó thì lại lan xa hơn. Nước Áo, nơi nhạc sĩ thiên tài Mozart đã sống và làm việc
1.2.2 Sự ra đời của opera Lòng từ bi của Tito
Vở opera Lòng từ bi của Tito được Mozart sáng tác theo đơn đặt hàng dành cho Lễ đăng quang của vị vua nổi tiếng Léopold II ở Prague (Tiệp Khắc). Vào thời gian này Mozart đang ốm nặng, và ông cũng rất bận vì đang sáng tác vở opera Cây sáo thần và Khúc cầu hồn (Requiem). Tuy nhiên ông đã không từ chối lời đề nghị này.
1.3 Ảnh hưởng của Hội Tam Điểm và sự ra đời của opera Cây sáo thần 
1.3.1 Ảnh hưởng của Hội Tam Điểm
Bất cứ một con người nào, dù là một thiên tài vẫn chịu sự chi phối của xã hội xung quanh. Mozart cũng vậy, ông không phải là một ngoại lệ. Trong thời đại của ông, để ra đời những tác phẩm bất hủ của mình, ông đã chịu tác động, chịu sự hấp dẫn của Hội Tam Điểm ở Áo và châu Âu lúc bấy giờ. Hay nói một cách khác Hội Tam Điểm đã góp phần xây lên những lâu đài âm nhạc của Mozart.
1.3.2 Sự ra đời opera Cây sáo thần
Những chủ đề súc tích của Hội Tam Điểm, đã được Mozart sáng tạo và thể hiện một cách đầy đủ trong vở opera Cây sáo thần. Điều này đã được nhà nghiên cứu về Mozart người Đức Paul Nhetd gọi là: Bài hát về thiên nga của Hội Tam Điểm. Cũng vì lẽ đó mà sau đó ba năm tác phẩm này đã bị cấm biểu diễn ở Áo. Phản ứng của xã hội về opera Cây sáo thần sau khi Mozart qua đời là rất khác nhau, đôi khi mâu thuẫn, trái ngược nhau và đầy bất ngờ. Vở opera được nhìn nhận, lúc thì như cách nói bóng gió tới cuộc Cách mạng Tư sản Pháp vĩ đại, lúc thì như ca ngợi danh tiếng của Hội Tam Điểm, rồi cả những lời nói bóng gió mang hàm ý chính trị, trong đó có cả những hình mẫu nhân vật lịch sửcụ thể.
1.4 Khái quát những giai đoạn sáng tác của Mozart
1.4.1 Giai đoạn đầu (1762 - 1773)
1.4.2 Giai đoạn giữa (1773 - 1777 )
1.4.3 Giai đoạn cuối (1777 - 1791 )
Tiểu kết chương 1
W. A. Mozart một nhạc sĩ thiên tài người Áo, một đại biểu xuất sắc của trường phái Cổ điển Viên. Ông sinh ra và trưởng thành trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động ở châu Âu. Mặc dù cuộc đời của ông rất ngắn ngủi nhưng ông đã để lại một gia tài tác phẩm rất đồ sộ. Bên cạnh những tác phẩm viết cho khí nhạc gồm các bản giao hưởng, concerto, các sonata...là rất nhiều tác phẩm viết cho thanh nhạc. Đó là các ca khúc, các concert aria và đặc biệt là các opera. Mozart được coi là một trong những nhà soạn nhạc hiện thực vĩ đại nhất của lịch sử opera.
Nghệ thuật của ông đã phản ánh đầy đủ và rõ ràng nhất những xung đột về quan điểm xã hội của thời đại Khai Sáng, những tư tưởng nhân đạo của nhân loại.
Cũng như cuộc đời nghệ thuật của nhiều nghệ sĩ khác, Mozart chịu ảnh hưởng sâu sắc của các trào lưu tư tưởng và văn hóa của thời đại. Những trào lưu tư tưởng này đồng thời cũng có một ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn tới các lĩnh vực triết học, văn học và văn hóa - nghệ thuật đương thời trong đó có âm nhạc. Những nội dung tư tưởng này phản ánh một cách đầy đủ trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông dù là lĩnh vực thanh nhạc hay khí nhạc. Mozart trở nên vĩ đại bởi hàm chứa trong các tác phẩm của ông những tư tưởng triết học của Chủ nghĩa Khai sáng” và Hội Tam Điểm, là những trào lưu tư tưởng tiến bộ đương thời.
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM CHUNG TRONG CÁC TÁC PHẨM THANH NHẠC CỦA W.A. MOZART
2.1 Cơ sở lý luận
Trong chương 2 này, chúng tôi muốn trình bày về những đặc điểm âm nhạc trong các tác phẩm sáng tác cho thanh nhạc của Mozart. Các tác phẩm viết cho thanh nhạc của Mozart có rất nhiều, tuy nhiên trong luận án này chúng tôi chỉ đi sâu phân tích 36 ca khúc, 21 concert aria và một số aria trích trong các opera của ông.
2.2 Phương pháp bel canto của một số bậc thầy nổi tiếng.
Sự nghiệp đào tạo thanh nhạc, phương pháp bel canto được chia làm hai giai đoạn ở thế kỷ XVII và XVIII. Trong giai đoạn khởi đầu và giai đoạn hình thành của phương pháp bel canto, chúng ta không thể bỏ qua các nhà sư phạm nổi tiếng thời kỳ đó như Caccini, Tosi Pistocchi, Bernachi, Porpra, Mancini.
2.2.1 Giulio Caccini (1551 - 1618)
2.2.2 Pietro Francesco Tosi (1647 - 1727)
2.2.3 Antonio Mamiliang Pistocchi (1659 - 1726) 
2.2.4 Antonio Bernacchi (1685 - 1756)
2.2.5 Giambattista Mancini (1716 - 1800)

2.3 Các ca khúc của W.A.Mozart

2.3.1 Khái quát về 36 ca khúc của Mozart
Cho đến nay các nhà sưu tầm và nghiên cứu tư liệu về tác giả và tác phẩm trong lịch sử âm nhạc chưa sưu tầm được trọn vẹn toàn bộ những ca khúc của Mozart.
Chúng tôi đã có may mắn được tiếp cận tuyển tập ca khúc của Mozart thông qua sự giúp đỡ của GS. NSND. Nguyễn Trung Kiên. Từ sự giúp đỡ quý báu này, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và giới thiệu những vấn đề có liên quan như:
- Thời điểm sáng tác từng ca khúc, 

- Những nét đặc trưng về âm nhạc, về thơ ca, 

- Sự liên quan, gắn kết những ca khúc này với những thể 
loại lớn như những opera của ông. 

2.3.2 Đặc điểm âm nhạc trong các ca khúc 

Đặc điểm quan trọng về âm nhạc trong các ca khúc của Mozart đó là sự đơn giản, sáng sủa và cân bằng, mang phong cách Galant, đặc trưng ở cuối thế kỷ XVIII 
Tuy nhiên, âm nhạc đơn giản nhưng lại đòi hỏi sự điêu luyện và tinh tế trong cả kỹ thuật và biểu hiện cảm xúc. 

2.4 Khái quát về 21 concert aria với dàn nhạc cho giọng nữ cao
2.4.1 Giới thiệu về 21 concert aria
Có thể nói rằng, trong 21 bản concert aria của Mozart hầu hết là những tác phẩm có trình độ học thuật rất cao, ít được các học viện và nhạc viện nổi tiếng thế giới sử dụng trong đào tạo thanh nhạc ở bậc đại học, hầu như chỉ được sử dụng chủ yếu để giảng dạy ở chương trình cao học.
2.4.2 Phân tích một số concert aria tiêu biểu
Chúng tôi xin lựa chọn để phân tích cụ thể một số aria tiêu biểu trong 21 concertaria với dàn nhạc cho giọng nữ cao của Mozart.
Dưới đây xin được giới thiệu phần phân tích một trong số các aria tiêu biểu:
Ví dụ: Phần giai điệu trong bài Lạy trời!, giá như tôi có thể nói với người... (Tp5, pl2, trang 84)
Để có thể hát tốt được tác phẩm âm nhạc này, học viên phải chuẩn bị sức khỏe tốt, phải có sự rèn luyện thường xuyên, khi hát phải hết sức tập trung tinh thần thể hiện đúng tâm trạng của nhân vật, phải mở thật rộng khẩu hình phía trong từ nốt thấp rồi giữ nguyên khẩu hình đó khi lên nốt cao nhất của tác phẩm.
2.5 Đặc điểm âm nhạc các aria trích trong opera của W.A.Mozart
Đặc điểm nổi bật trong âm nhạc của Mozart đó là sự tinh tế, giàu chất giai điệu và sức thể hiện, tràn đầy sức sống, dễ cảm nhận cả về âm nhạc và nội dung. Âm nhạc của ông luôn tràn đầy tinh thần lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống. Hình tượng âm nhạc tươi tắn, độc đáo. Với ngôn ngữ âm nhạc chân thật, giản dị, tứ nhạc mới mẻ, giàu biếm hoạ, thủ pháp tinh tế. Âm nhạc trong các tác phẩm thanh nhạc của Mozart mang phong cách Galant đặc trưng cuối thế kỷ XVIII.

Tiểu kết chương 2
Trong chương này, chúng tôi muốn giới thiệu về một số đặc điểm âm nhạc trong các tác phẩm thanh nhạc của Mozart. Chúng tôi đã đề cập đến bối cảnh ra đời, tính chất âm nhạc và những đặc điểm trong 36 ca khúc của Mozart cũng như 21 “Concert Aria với dàn nhạc” cho giọng nữ cao và một số aria trích trong các opera của ông.
Những ca khúc của Mozart sẽ là những bài học quý báu để rèn luyện phương pháp bel canto, rèn luyện những tư duy sáng tạo trong nghệ thuật hát thính phòng. Hơn thế nữa, chính những ca khúc này sẽ bổ khuyết cho các em những hiểu biết về phong cách Cổ điển Viên và sẽ là cầu nối quan trọng đến với nghệ thuật thính phòng của trường phái lãng mạn thế kỷ XIX.
21 Concert aria với dàn nhạc cho giọng nữ cao của Mozart đứng về mặt kỹ thuật là những thử thách lớn đối với các sinh viên thanh nhạc. Chính vì vậy, đa số bài được sắp xếp vào cuối chương trình đại học hoặc trên bậc cao học biểu diễn thanh nhạc. Chúng ta có thể thấy những tác phẩm thanh nhạc này của Mozart hàm chứa đủ loại kỹ thuật thanh nhạc cần thiết nhằm phát triển cho sinh viên năng lực biểu diễn. Đồng thời, những tác phẩm này cũng 
thể hiện những đặc tính âm nhạc nổi trội của Mozart cùng với những giá trị thẩm mỹ cao trong toàn bộ tiến trình phát triển nền thanh nhạc thế giới.
Chúng tôi hy vọng rằng trong chương 2, những phân tích của luận án về các đặc điểm âm nhạc trong các tác phẩm thanh nhạc của W.A. Mozart thông qua 36 ca khúc, 21 concert aria cũng như các aria trích trong các vở opera sẽ làm sáng tỏ những yêu cầu hiểu biết và thể hiện tác phẩm của sinh viên thanh nhạc. Cũng từ những phân tích chung về đặc điểm âm nhạc trong ngôn ngữ âm nhạc, trong thể hiện âm nhạc sẽ giúp ích rất nhiều trong việc tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học các tác phẩm của W.A. Mozart tại Khoa Thanh nhạc - Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP KỸ THUẬT SỬ DỤNG CÁC TÁC PHẨM CỦA W.A. MOZART TRONG ĐÀO TẠO THANH NHẠC CHUYÊN NGHIỆP VIỆT NAM
Chúng tôi đưa một số giải pháp trong việc sử dụng các tác phẩm thanh nhạc của Mozart vào giảng dạy ở Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Nội dung của các giải pháp này được thể hiện:
- Giải pháp về việc giảng dạy các ca khúc của Mozart trong đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp.
- Giải pháp nâng cao nhận thức về 21 Concert aria với dàn nhạc của Mozart.

- Giải pháp nâng cao chất lượng bằng việc bổ sung các aria trích trong các opera của Mozart vào giảng dạy.
3.1 Một số nguyên tắc cần quan tâm khi giảng dạy và học tập những ca khúc của Mozart.
3.1.1 Tiêu chí lựa chọn ca khúc đưa vào giáo trình giảng dạy.
Lựa chọn những ca khúc giản dị, có thế giới hòa thanh phong phú, nội dung, cảm xúc âm nhạc nhẹ nhàng, dễ cảm nhận và dễ biểu hiện.
3.1.2 Dự kiến bổ sung một số ca khúc vào giáo trình theo từng năm học.

3.2 Sử dụng các aria của Mozart trong đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp
3.2.1 Các aria của Mozart dành cho giọng nữ cao, nam cao: 
Các aria của Mozart dành cho giọng nữ cao (Soprano)
 + Đại học năm thứ 1: 4 tác phẩm
+ Đại học năm thứ 2: 5 tác phẩm
+ Đại học năm thứ 3: 9 tác phẩm
+ Đại học năm thứ 4: 4 tác phẩm
Các aria của Mozart dành cho giọng nam cao (Tenor)
+ Đại học năm thứ 1: 3 tác phẩm
+ Đại học năm thứ 2: 3 tác phẩm
+ Đại học năm thứ 3 : 3 tác phẩm
+ Đại học năm thứ 4: 3 tác phẩm
3.2.2 Các aria của Mozart dành cho giọng nữ trung trầm, nam trung trầm
Các aria của Mozart dành cho giọng nữ trung trầm (Mezzo soprano, alto)
+ Đại học năm thứ 1: 1 tác phẩm
+ Đại học năm thứ 2: 1 tác phẩm + Đại học năm thứ 3: 1 tác phẩm + Đại học năm thứ 4: 1 tác phẩm
Các aria của Mozart dành cho giọng nam trung trầm (Bass Bariton)
+ Đại học năm thứ 1: 5 tác phẩm
+ Đại học năm thứ 2: 10 tác phẩm
 + Đại học năm thứ 3: 3 tác phẩm
+ Đại học năm thứ 4: 1 tác phẩm
3.3 Phân tích một số aria điển hình cho các loại giọng
3.3.1 Một số aria cho giọng nữ cao và nữ cao màu sắc (Soprano Coloratura).
3.3.2 Một số aria cho giọng nam cao (Tenor)
3.3.3 Một số aria cho giọng nữ trung trầm (Mezzo soprano, Alto)
3.3.4 Một số aria cho giọng nam trung trầm (Bass bariton)
3.4 Một số kỹ thuật thanh nhạc đặc trưng nhằm thực hiện có kết quả các yêu cầu trong tác phẩm của W.A.Mozart.
3.4.1 Sự gắn kết giữa kỹ thuật và nghệ thuật trong các tác phẩm của Mozart
Có thể diễn tả một cách ngắn gọn: nghệ thuật và kỹ thuật trong các tác phẩm thanh nhạc của Mozart được gắn kết chặt chẽ thành một tổng thể, không thể tách rời, không thể dùng kỹ thuật để diễn tả, để phản ánh nội dung của tác phẩm. Nói một cách khác, kỹ thuật chính là nội dung của nghệ thuật.
3.4.2 Hơi thở, khẩu hình, hàm ếch mềm
3.4.3 Những kỹ thuật hát cơ bản trong các tác phẩm thanh nhạc : Cantilena, passage, staccato.
Kỹ thuật hát cantilena. Kỹ thuật hát passage. Kỹ thuật hát staccato Tiểu kết chương 3
Âm nhạc của Mozart mang những yếu tố tự nhiên, tinh tế. Ông bày tỏ những thái cực của cuộc sống bằng sự tương phản giữa âm nhạc hay nhân vật như: sự khẳng định, tuyệt vọng, niềm vui, sự trống vắng, ảm đạm hay giận dữ yêu thương, hài kịch hay bi kịch bằng những cảm xúc rất tự nhiên.
Đã từ lâu, một số tác phẩm của Mozart đã được dùng trong giáo trình đào tạo thanh nhạc ở HVANQGVN cũng như các ở sở đào tạo âm nhạc khác.
Tuy nhiên, để có thể góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu, phân tích và chọn lựa các tác phẩm của Mozart để đưa vào giáo trình giảng dạy trong từng năm của trình độ đại học ở các loại giọng và trình độ cao học, một cách chi tiết, đầy đủ và khoa học.
Chúng tôi mong muốn làm nổi bật tầm quan trọng của việc sử dụng các tác phẩm thanh nhạc của Mozart trong đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp ở Việt Nam, đặc biệt là đào tạo giọng nữ cao.
Việc sử dụng các tác phẩm thanh nhạc của Mozart trong chương trình đào tạo giọng nữ cao và nữ cao màu sắc ở Việt Nam là cực kỳ phù hợp. Các tác phẩm của Mozart rất phù hợp với thể trạng sức khoẻ, tính cách cũng như văn hoá sống của phụ nữ Việt Nam.
Có thể nói, âm nhạc của Mozart là kết hợp giữa sự mô tả tính kịch trong giọng hát và nhạc cụ cùng hoà tấu. Học các tác phẩm của Mozart, học sinh có thể qua đó nắm vững các kỹ thuật xử lý tinh tế như kỹ thuật hát cantilena, passage, staccato và cách vận dụng linh hoạt hơi thở, khẩu hình, hoạt động của hàm ếch mềm...Nắm vững các kỹ thuật cơ bản thông qua phương pháp bel canto cùng kỹ thuật chạy lướt nhiều nốt hoa mỹ, sinh viên thanh nhạc sẽ trưởng thành lên nhiều khi học tập các tác phẩm thanh nhạc của Mozart.
Hoàn thiện được các kỹ thuật đó sinh viên sẽ không gặp khó khăn khi áp dụng cách xử lý tinh tế, linh hoạt và uyển chuyển từ âm nhạc Cổ điển sang âm nhạc Lãng mạn. Bên cạnh đó, sinh viên thanh nhạc cũng có thể hát tốt các tác phẩm của các tác giả ở các giai đoạn sau này.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
W.A.Mozart nhạc sĩ thiên tài người Áo, một đại diện xuất sắc của trường phái âm nhạc Cổ điển Vienne. Ông là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại của thế giới. Âm nhạc của ông đã phản ánh một cách đầy đủ và rõ ràng nhất những xung đột trong xã hội của thời đại Ánh sáng, những tư tưởng lạc quan, những quan điểm đạo đức, chủ nghĩa nhân đạo và niềm tin vào chiến thắng... Trong cuộc đời tuy ngắn ngủi, chỉ 35 mùa xuân (1756 - 1791) với đầy rẫy những khó khăn, vất vả... Nhưng với ý chí và nghị lực phấn đấu đáng khâm phục, ông đã vượt qua tất cả để luôn sống với tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống. Khát khao sống để vươn lên sáng tạo nghệ thuật luôn cháy bỏng trong con người Mozart. Tất cả những điều đó đã được thể hiện trong hơn 600 tác phẩm của ông ở các thể loại. Đặc biệt, ở lĩnh vực thanh nhạc là 23 opera, 21 concert aria cho giọng nữ cao và 36 ca khúc ...
Những trào lưu tư tưởng triết học của Chủ nghĩa Khai sáng và Hội Tam Điểm - những tư tưởng triết học tiến bộ đương thời đã có ảnh hưởng trực tiếp đến sức sống và sức sáng tạo nghệ thuật của Mozart.
Trong luận án chúng tôi đã giới thiệu và phân tích 36 ca khúc của Mozart, từ đó lựa chọn 10 ca khúc phù hợp để bổ sung vào giáo trình giảng dạy thanh nhạc. Cung cấp thêm cho các giảng viên, học viên, sinh viên những vấn đề có liên quan như: thời điểm sáng tác của từng ca khúc, những nét đặc trưng về âm nhạc, về thơ ca, sự liên quan gắn kết những ca khúc này với những sáng tác lớn như những opera của Mozart.
Cùng với các ca khúc, chúng tôi giới thiệu 21 concert aria với dàn nhạc cho giọng nữ cao của ông. Chúng tôi đi sâu phân tích một số aria tiêu biểu có một độ khó về kỹ thuật thanh nhạc rất cao, giúp trang bị thêm kiến thức cho học viên, sinh viên để nâng cao chất lượng đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp.
Chúng tôi thấy rằng, việc phân tích những đặc điểm âm nhạc trong các aria trích trong opera của Mozart là việc làm vừa có tính khoa học vừa có tính thực tiễn đối với khoa Thanh nhạc - HVANQGVN. Có thể nói rằng, tại các cơ sở đào tạo thanh nhạc trên phạm vi toàn quốc ngày nay, việc giảng dạy các aria trích từ các opera là điều bắt buộc kể cả đó là dòng opera, hay thính phòng. Ta có thể thấy được giá trị đích thực của các tác phẩm thanh nhạc của Mozart trong đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp các cấp học. Coi nhẹ hoặc sử dụng các tác phẩm của Mozart một cách thiếu hệ thống sẽ là một sai lầm của phương pháp sư phạm thanh nhạc.
Luận án của chúng tôi đã nêu bật tầm quan trọng của việc sử dụng các tác phẩm thanh nhạc của Mozart trong đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp Việt Nam, đặc biệt là đào tạo giọng nữ cao. Trong việc tìm ra một số giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng giảng dạy thanh nhạc nói chung và giảng dạy cho giọng nữ cao nói riêng, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp trong việc đưa các tác phẩm thanh nhạc của Mozart vào giảng dạy ở bậc đại học.
Chúng tôi đã tổng kết để đưa ra một số nguyên tắc cần quan tâm khi giảng dạy và học tập những ca khúc của Mozart. Giảng viên, học viên và sinh viên cần phải tìm hiểu kỹ bối cảnh, thời gian, xuất sứ của những ca khúc được đưa vào giáo trình giảng dạy. Hiểu biết một cách sâu sắc về nội dung của từng tác phẩm sẽ giúp sinh viên nắm vững về hình tượng âm nhạc, ngôn ngữ và thủ pháp sáng tác của Mozart để từ đó việc thể hiện tốt nhất nội dung tác phẩm.
Bên cạnh đó, trong luận án chúng tôi đã giới thiệu một số kỹ thuật thanh nhạc đặc trưng nhằm thực hiện có kết quả các yêu cầu trong tác phẩm của Mozart. Khi đặt vấn đề giải trình các kỹ thuật thanh nhạc đặc trưng để thực hiện có hiệu quả những yêu cầu gắn kết chặt chẽ giữa kỹ thuật và nghệ thuật trong các tác phẩm thanh nhạc của Mozart, trước hết chúng ta phải quán triệt một cách thấu đáo mối quan hệ giữa kỹ thuật và nghệ thuật trong các tác phẩm thanh nhạc của ông, nếu không trong quá trình luyện tập chúng ta sẽ rất khó có thể đạt được những kết quả mong muốn. Ví dụ như các vấn đề về: hơi thở, khẩu hình, hàm ếch mềm...
Luận án cũng giới thiệu rất chi tiết ba vấn đề quan trọng có liên quan trực tiếp đến những kỹ thuật cơ bản như: cantilena, passage, staccato.
Các sáng tác thanh nhạc của Mozart dù là ca khúc hay các trích đoạn aria trong các opera, đều đã phát triển đến mức cao độ, đa dạng và phong phú nghệ thuật hát cantilena, passage và staccato.
Có thể nói, âm nhạc của Mozart là kết hợp giữa sự mô tả tính kịch trong giọng hát và nhạc cụ cùng hòa tấu. Học các tác phẩm của Mozart, học sinh có thể qua đó nắm vững các kỹ thuật xử lý tinh tế, cách vận dụng linh hoạt hơi thở... Nắm vững các kỹ thuật cơ bản thông qua phương pháp bel canto cùng với các kỹ thuật chạy lướt nhiều nốt hoa mỹ, sinh viên thanh nhạc sẽ trưởng thành lên nhiều khi học tập các tác phẩm thanh nhạc của Mozart. Qua việc nắm vững phương pháp bel canto, sinh viên sẽ không gặp khó khăn khi áp dụng cách xử lý tinh tế, linh hoạt và uyển chuyển từ âm nhạc cổ điển sang âm nhạc lãng mạn. Bên cạnh đó, sinh viên thanh nhạc cũng có thể hát tốt các tác phẩm của các tác giả Lãng mạn sau này.
Sau khi phân tích và tìm hiểu kỹ 36 ca khúc, 21 concert aria và các aria tiêu biểu trong các opera của Mozart, chúng tôi mạnh dạn chọn lựa và sắp xếp các tác phẩm của Mozart vào chương trình giảng dạy thanh nhạc ở trình độ đại học và cao học tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Với việc làm này, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp ở Việt Nam.
KHUYẾN NGHỊ
Chúng tôi mong muốn Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam cần tổ chức Hội thảo về việc bổ sung các tác phẩm thời kỳ Tiền cổ điển và Cổ điển trong đó có các ca khúc, các aria của Mozart vào chương trình giảng dạy thanh nhạc.
Một trong những khó khăn hiện nay trong việc học tập những tác phẩm của Mozart và của các tác giả Áo, Đức đó là vấn đề ngôn ngữ. Chúng ta cần phải tiếp tục tổ chức một cách nghiêm túc các đợt học chính khóa và ngoại khóa một số ngôn ngữ cho sinh viên thanh nhạc, trong đó có tiếng Đức.
Đưa môn kỹ năng diễn xuất opera vào giảng dạy.
Mở rộng các mối quan hệ liên kết, mời các nghệ sĩ, giáo sư thanh nhạc quốc tế tới Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam biểu diễn và giảng dạy.
Từng bước xây dựng Studio cho việc luyện tập diễn các vở opera trong đó có các opera của Mozart.
Cần tăng cường và mở rộng công tác nghiên cứu về Mozart trong các giảng viên và sinh viên của Khoa Thanh nhạc - Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
2/10/2017
Nguyễn Thị Phương Nga
Theo http://www.vnam.edu.vn/

Cung bậc - Chùm thơ Hữu Dũng

Cung bậc - Chùm thơ Hữu Dũng Cũng là/ cung bậc ấy thôi/ Mà sao/ cảm xúc/ xa xôi ùa về… Cung bậc Cũng là cung bậc ấy thôi Mà sao cảm xúc xa...