Tự
bao giờ Nguyễn Nho Khiêm “và thơ sống với nhau như duyên trời, như số phận.
Có lúc hạnh phúc vô bờ, có lúc khổ đau cùng tận”(Nguyễn Nho Khiêm). Cứ thế, anh
bồng bềnh trong “Thơ như sương khói” rồi cất bước “Lãng du bên ngoài cánh
đồng” và bây giờ đứng lặng để “Bâng khuâng theo chút nắng trên đồi” cỏ non.
“Em vẽ hoàng hôn cánh đồng
chiều gốc rạ lúa sinh khôn
Con cá rô quẫy dấu bàn chân
trên cánh đồng tháng ba thơm cỏ
Giọt
mồ hôi mẹ bay lên thành những đám mây chở ước mơ của anh
bay qua bầu trời xanh biếc cơn mưa
Mưa thấm vào câu ca dao đồng
cạn, đồng sâu, bến sông bồi lở.
Em vẽ bầy chuồn chuồn bay về
từ tuổi ấu thơ
Cánh đồng tràn ra khỏi khung
tranh rạt rào gió, làn
gió nâu thổi dọc lũy tre; cánh
diều căng hun hút khát khao bầu trời trong ánh mắt”.
(Trước
bức tranh đồng chiều)
Có thể khẳng định rằng Nguyễn
Nho Khiêm không ham kiếm tìm ngôn ngữ mới, không kiến tạo những hình ảnh lạ mà
đi sâu vào thế giới nội tâm bằng tất cả những gì gần gũi, thân thương để khai
thác tận cùng nguồn cảm xúc luôn trào dâng, tạo ra thứ thơ tự do đến mức “phóng
túng hình hài”. Các câu thơ được đẩy theo trục dọc và trượt dài cùng dòng cảm
xúc, hình thành thế lệch chuẩn với những câu thơ cách luật cổ điển… Nhà thơ đem
họa hòa quện vào thơ tạo cho người đọc chút bâng khuâng, chút tò mò và phấn
khích để có thể cùng Nguyễn Nho Khiêm phiêu bồng trong thế giới thơ anh. Theo từng
nét “vẽ hoàng hôn cánh đồng chiều gốc rạ lúa sinh khôn”, “vẽ bầy chuồn chuồn
bay về từ tuổi ấu thơ” mà hồn người cùng “Cánh đồng tràn ra khỏi khung tranh rạt
rào gió, làn gió nâu thổi dọc lũy tre; cánh diều căng hun hút khát khao bầu trời
trong ánh mắt” để trở về thủa lên năm lên ba sau một chuyến phiêu bạt hơn hai
mươi năm trên phố lạ nhà cao, thiếu vắng tiếng ru hời…
“Ô, ta tuổi năm mười rồi ư,
sống ở thành phố 20 năm mà đám mây trên
cánh đồng nụ cười mẹ cứ bay về quấn quýt thịt da
Sao lồng ngực như ống sáo dưới
cánh diều ngân vang trong hơi thở của
em, trên hơi sương bình minh triền dâu, bãi bắp ven sông”.
(Trước
bức tranh đồng chiều)
Thế mới biết quê hương giản
dị với “Con cá rô quẫy dấu bàn chân trên cánh đồng tháng ba thơm cỏ/ Giọt mồ
hôi mẹ bay lên thành những đám mây chở ước mơ của anh bay qua bầu trời xanh biếc
cơn mưa” mà có sức hồi sinh mạnh mẽ. Ta phiêu bạt giữa đời, bị đời xô đẩy đến
nhàu nát, già nua và chỉ còn cách quay trở về tựa lưng vào quê hương nghe tim
mình hồi sinh trở lại. Với xu hướng duy cảm và hướng nội, thơ Nguyễn Nho Khiêm
phá vỡ đại tự sự mở ra một lối đi riêng vào thế giới đời sống cá nhân với những
lo toan đời thường.
Ngày nào cũng tíu tít
Chân đi không bén gót
Anh vừa lau nhà xong
Gió bụi lại thổi về
Hai mươi năm anh lau mãi căn
nhà không sạch.
Với
sự bừng tỉnh ý thức cá nhân và cảm thức về sự hủy diệt của thời gian, Nguyễn
Nho Khiêm nhận ra rằng cuộc sống “Ngày nào cũng tíu tít/ Chân đi không bén gót”
nhưng vẫn không có cách nào thoát khỏi bước đi thâm độc của bụi thời gian. Thời
gian lạnh lùng đi qua và nhẫn tâm lấy đi tất cả... Nguyễn Nho Khiêm chống lại
bước chân hủy diệt của thời gian bằng cách tìm về với tình yêu, mong tình yêu
là cứu cánh duy nhất của con người trong cuộc chiến chống lại thời gian.
“Anh muốn cùng em đi dọc bờ
biển
mặc sóng xóa những dấu
chân qua
để thấy cuộc sống thật ngắn
ngủi và tình yêu vô cùng
để quên đi những điều vặt
vãnh”.
Quên đi thời gian, xem thời
gia là một yếu tố vô can với đời sống con người để “cùng em đi dọc bờ biển”,
“để thấy cuộc sống thật ngắn ngủi và tình yêu vô cùng”. Nhà thơ cứ nghĩ chỉ có
tình yêu là vĩnh cửu còn mọi thứ “đều vặt vãng” nhưng cũng chính nhà thơ phát
hiện ra cuộc sống con người “thật ngắn ngủi” vậy tình yêu có còn tồn tại khi
con người đã mất? Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này, Nguyễn Nho Khiêm hốt hoảng
nhận ra rằng tình yêu chưa bao giờ và không bao giờ là giải pháp cho cuộc chiến
chống lại bước đi thâm độc của thời gian.
“Bây giờ tuổi tám mươi ba
Cha tôi ngồi ngắm tuổi già
thương con
Không gian sắc, thời gian
mòn
Bước đi dò dẫm biết còn bao
lâu”?
(Nhìn
cha)
Dẫu không quan tâm, không để
ý đến thời gian nhưng nó vẫn âm thầm hủy diệt, âm thầm cướp đi tuổi xuân của
con người. Khi nhìn tuổi già ập đến, Khiêm mới sững sờ vì thời gian đã đẩy cha
mình về phía già nua và cái chết không được báo trước “Bước đi dò dẫm biết còn
bao lâu”. Biết giới hạn và kết cục thê thảm của con người trước thời gian
nhưng anh vẫn không cúi đầu khuất phục mà tiếp tục nỗ lực để rồi lại thêm một lần
nữa đau đớn trước sự phủ phàng của thời gian.
“Đêm rộng quá và ngày dài
quá
Bốn phía đời sa mạc bủa vây
Trời đất hỡi tôi chẳng là tượng
đá
Tình mỏng manh xơ xác rụng đầy
tay.
Vết thương lòng lại tấy lên
lần nữa
Khi em vội vàng quên hết
ngày xưa
Ngày ta đốt thời gian nhóm lửa
Sưởi tình yêu đi suốt rừng
mưa”.
Thơ Nguyễn Nho Khiêm tràn ngập
biểu tượng nhưng nhiều nhất là những biểu tượng có khả năng chống cự lại bước
đi của thời gian như: sa mạc, đá, lửa, sông, đồi… Nhà thơ không mô tả
khách quan hay trình bày cảm xúc một cách trực tiếp mà biểu hiện nó thông qua hệ
thống biểu tượng. Biểu tượng trong thơ anh mang ý nghĩa phổ quát cao, chúng bắt
đầu từ chủ thể bằng những cảm nhận rất riêng của anh nên nó không còn điểm tựa ở
thế giới hiện thực mà hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm và trí tưởng tượng của
chính Nguyễn Nho Khiêm. “Đêm” và “ngày” trở thành hiện thân cụ thể
cho không gian và thời gian - hai chiều cơ bản của thế giới 3D rợn ngợp. Đây là
những khúc đoạn ngắn ngủi được phân chia theo tâm thức của một tâm hồn bị ám ảnh
dai dẳng bởi thời gian. Tất cả bị nhấn chìm trong mỗi cô đơn, hang vắng “Bốn
phía đời sa mạc bủa vây”. Khiêm đớn đau, Khiêm nuối tiếc, Khiêm vô vọng “Trời đất
hỡi tôi chẳng là tượng đá” để “Vết thương lòng lại tấy lên lần nữa” khiến nỗi
đau ào ạt ùa đến .
“Người đàn ông hai tay ôm mặt
nấc lên
biển không còn sóng
bầu trời thẫm đen
gió xuân chìm trong lá”.
(Người
đàn ông khóc)
Sống trên đời này, có người
may mắn được nếm chút hương vị hạnh phúc, có người trải chút ngọt ngào yêu
thương, có người thưởng chút đắm say ân ái… Nhà thơ họ Nguyễn này thì khác, bắt
đầu bằng sự trong sáng tinh khôi đến chút bâng khuân theo nắng, gió, mây, trời…
và bây giờ là nỗi đớn đau quặn lòng. Đất trời như sụp đổ, mọi lẽ sống tiêu tan,
tất cả chỉ còn lại một “bầu trời thẫm đen”. Đây là bi kịch đau đớn và tuyệt vọng
nhất trong đời người thơ. Tưởng rằng trước mắt chỉ còn một lựa chọn cuối cùng
và duy nhất là cái chết nhưng không, anh đã mạnh mẽ đấu tranh để chiến thắng và
tìm ra giải pháp hữu hiệu…
“Những hòn đá nô đùa cùng biển
xanh ngoài kia
là
bạn tôi
là bạn nghìn năn trước
mãi là bạn ngàn sau
lúc buồn đến với
đá
lúc vui đến với đá
chúng tôi chơi với nhau
không ai nói gì
mà hiểu từng ngọn gió, giọt
sương”.
(Viết
dưới chân núi Sơn Trà)
Kết bạn với đá là cách làm
thông minh nhất, hiệu quả nhất để chống lại mọi giới hạn về thời gian và không
gian của con người. Tìm đến với đá là phương thức duy nhất có thể từ bỏ cái hữu
hạn để tìm đến với cái vô hạn và tồn tại vĩnh viễn với tạo hóa. Bằng thủ pháp
tiểu đối mà mọi giới hạn không-thời gian và cả cái chết bị phá bỏ: “ngàn năm
trước”><”ngàn năm sau”, “lúc buồn”><“lúc vui”, “không nói
gì”>< “hiểu từng ngọn gió, giọt sương” tác giả tạo cho thơ những nét
duyên dáng, mềm mại và e ấp… Đồng thời, biểu hiện hiệu quả mối tình thiên thu
giữa Khiêm và đá.
“Nắng gieo hạt nẩy mầm tươi
Cỏ xanh theo gót chân người
nắng mai
Đầu trần nắng trải hai vai
Gió đồng quấn quýt một ngày
nhẹ tênh.
Này chim dồng dộc bay lên
Lá xanh đan võng ru trên
nhánh cành
Hỡi chim, này, cỏ rất xanh
Tha lên làm tổ hót quanh vòm
trời.
Hơi thơ nồng nàn, giọng thơ
say đắm, nhịp thơ đều đặn, nhạc thơ du dương, các hình ảnh thơ tươi trẻ, tràn đầy
sức sống và phơi phới niềm tin. Nguyễn Nho Khiêm náo nức, khoe khoang với người
đọc những món quà thiên nhiên ban tặng và những vẻ đẹp trần thế. Dưới con mắt
trẻ thơ của thi sĩ thiên nhiên hiện ra lấp lóa vẻ đẹp ba tầng. Tầng một, ống
kính thơ hạ xuống thấp đưa ta về với những vạt nắng lung linh trên đầu lá cỏ. Nắng
có vai trò làm bật dậy một sức sống mới cho đời, cho thiên nhiên và cho thơ “Nắng
gieo hạt nẩy mầm tươi/ Cỏ xanh theo gót chân người nắng mai”. Nắng thắp những hạt
sương ban mai đậu trên đầu lá cỏ phát sáng lung linh, mỗi giọt sương là một tiểu
hành tinh quyến rũ. Sự sống và màu xanh tràn ra vô tận theo bước chân người đi,
bước chân hồi sinh sau khi đi qua “bầu trời thẫm đen”. Tầng hai, ống kính thơ
nâng lên độ cao trung bình để chụp lấy hình ảnh của con người trong mối tương
giao hài hòa với thiên nhiên đồng nội “Đầu trần nắng trải hai vai/ Gió đồng quấn
quýt một ngày nhẹ tênh”. Tầng ba, ống kính thơ tiếp tục nâng lên cao theo phía
cánh chim bay vút lên trời xanh “Này chim dồng dộc bay lên/ Lá xanh đan võng ru
trên nhánh cành/ Hỡi chim, này, cỏ rất xanh/ Tha lên làm tổ hót quanh vòm trời.”
Sự sống có mặt và sinh sôi ở mọi nơi. Trạng thái thăng bằng này là kết quả mà
nhà thơ đã tìm lại được sau khi kết bạn với đá núi Sơn Trà.
“Chiều mình anh trên đồi Ái
Ân
Ngọn gió vàng thơm dập dìu
lá cỏ
Một vạt nắng xanh hàng thông
nghiêng nhớ
Bàn chân ai qua dốc đá vẹt
mòn”.
(Trên
đồi Ái Ân)
Nguyễn Nho Khiêm tự tin viễn
du giữa đời và phát hiện ra: thiên đường không phải ở nơi xa thẳm như quan niệm
của Phật giáo và Nho giáo... Thiên đường tồn tại ngay trên mặt đất này, ngay
bên ta mà nay ta mới biết. Mọi angten thơ được bật lên để thu nhận tất cả những
tín hiệu từ cuộc sống. Thiên nhiên được cảm nhận bằng sự tương hợp nhiều giác
quan. “Ngọn gió vàng thơm dập dìu lá cỏ”, thị giác được mở ra, khứu giác nhô
lên để lần đầu tiên phát hiện màu và mùi của gió - màu vàng, mùi thơm. Một vạt
nắng xanh hàng thông nghiêng nhớ/ Bàn chân ai qua dốc đá vẹt mòn” đây là sự
tương giao giữa thị giác, xúc giác và linh giác. Nắng không vàng mà dịu dàng sắc
xanh liêu xiêu giữa hàng thông nghiêng nhớ. Biết bao bàn chân đã, đang và sẽ
còn tiếp tục bước qua làm dốc đá vẹt mòn…
Thơ Nguyễn Nho Khiêm không
chinh phục người đọc bằng những cảm giác lạ, những hình ảnh ấn tượng mà từ từ
thấm sâu vào lòng người bằng chất trữ tình đằm thắm, bằng thế giới hình ảnh
thân thương, một lối tư duy sâu sắc, đậm đà văn hóa phương Đông. Khi đọc hai tập
thơ đã xuất bản của anh, Tiến sĩ Nguyễn Đình Vĩnh khẳng định: “Nguyễn Nho Khiêm
vẫn đang trên hành trình sáng tạo. Từ Khói toả về trời đến Bên
ngoài cánh đồng đã là một khoảng cách. Khoảng cách của sự tiệm cận về với
những giá trị nghệ thuật và ý hướng đổi mới. Những sáng tác đăng tải gần đây của
anh như đậm nét hơn ở những cung đường ấy. Có phải vì thế mà chúng ta có quyền
hy vọng, đón đợi ở tập thơ thứ ba của anh”. Hôm nay, đọc “Nắng trên đồi” chúng ta nhận ra ngay rằng
những dự cảm nghệ thuật của tiến sĩ Nguyễn Đình Vĩnh là hoàn toàn chính xác.
NGUYỄN THANH TUẤN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét