‘‘Chưa lên cao nguyên Đồng Văn- Mèo Vạc thì coi như chưa đến
Hà Giang''. Câu nói như thách thức của những người bạn tại bảo tàng tỉnh Hà
Giang đã thúc giục chúng tôi lên đường đến cao nguyên đá.
Từ Hà Nội chúng tôi vượt hơn 300km tới trung tâm thị xã Hà
Giang, buổi tối dạo quanh thị xã nhỏ xinh nơi có dòng Lô chia đôi phố núi, thưởng
thức món cháo ấu tẩu thơm ngon, bổ dưỡng thật là thú vị. Hôm sau, đoàn lên đường
đi Đồng Văn- Mèo Vạc.
Công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo:
Dinh thự nhà họ
Vương.
Đường lên Cao nguyên đá nhọc nhằn lắm, các khúc cua đan xen
nhau như các nếp gấp trên tay áo. Trên suốt cung đường một bên toàn là vách núi
đá dựng đứng, bên kia là vực sâu hun hút, đến dốc Bắc Sum, ngược lên cổng trời
Quản Bạ, đèo Cán Tỷ, qua Yên Minh, Mậu Duệ, ghé thăm dinh thự nhà họ Vương (vua
Mèo)- một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo đã được Bộ Văn hóa xếp hạng
năm 1993. Ngắm nhìn các thửa ruộng bậc thang ôm vòng quanh mỗi quả núi, những
ngôi nhà bằng gỗ óng lên màu thời gian... Các thiếu nữ người Mông, người Dao,
người Lô Lô... mắt ướt sóng sánh trong sương núi, leng keng vòng bạc trong những
bộ trang phục nhiều màu sắc xuống núi đi chợ phiên, tôi lại nhớ câu thơ:
"Em là con gái cao nguyên đá, gùi đất leo mây với đỉnh trời" mà tôi
đã được đọc ở đâu đó.
Mùa này trên cao nguyên càng nổi bật hơn trong sắc màu của
hoa mận, hoa lê, hoa bạc hà, hoa tam giác mạch đang thời nở rộ. Lắng nghe tiếng
khèn, tiếng sáo gọi bạn tình của các tràng trai cô gái người Mông từ các ngả
núi vang lên réo rắt và tha thiết quá.
Độc đáo phố cổ Đồng Văn
Phố cổ Đồng Văn là một quần thể các công trình kiến trúc mang
phong cách kiến trúc cổ Việt Nam - Trung Quốc rất độc đáo với hơn 40 nếp nhà của
đồng bào các dân tộc: Tày, Nùng, Hoa, Mông, Dao sinh sống từ lâu đời tại đây.
Trung tâm khu phố cổ là một khu chợ hình chữ U thuộc thôn Đồng Tâm, theo các
tài liệu còn lưu giữ được tại Bảo tàng tỉnh Hà Giang thì chợ đã có từ trước khi
người Pháp đến Đồng Văn, vào năm 1923 trong một trận hoả hoạn, chợ và những
ngôi nhà gần đó bị thiêu cháy toàn bộ. Sau đợt hoả hoạn, người dân Đồng Văn
sang Trung Quốc thuê những người thợ ở Tứ Xuyên về dựng lại nhà. Vì vậy, kiến
trúc đặc trưng của phố cổ Đồng Văn mang đậm phong cách Trung Hoa kết hợp với kiến
trúc của các dân tộc thiểu số trong vùng. Các ngôi nhà cổ được xây dựng theo lối
kiến trúc hai tầng. Vật liệu gồm các cột và sàn nhà bằng gỗ nghiến và gỗ lim,
tường trình đất dày 40-50cm đảm bảo vào mùa đông thì ấm mùa hè mát, mái gồm hai
phần (trước-sau) lợp ngói âm dương, nền đất. Khuôn viên nhà được bố cục hài hoà
từ cổng ra vào, nhà chính, bếp ăn, nhà kho, công trình phụ... đều tuân thủ theo
phong thuỷ truyền thống rất chặt chẽ.
Sắc màu phiên chợ Đồng Văn
Sắc màu phiên chợ Đồng Văn
Vào ngày chợ phiên, khu Phố cổ vốn nhỏ bé tĩnh lặng trở nên
náo nhiệt đông vui như ngày hội với đủ sắc màu sặc sỡ. Chợ Đồng Văn mỗi tuần họp
một phiên duy nhất vào ngày chủ nhật. Với đủ các sắc màu khác nhau của người
Mông, Dao, Tày, Giáy, Nùng, Lô Lô,... trong những bộ trang phục rực rỡ, họ đổ từ
các ngả núi xuống chợ, sản phẩm mang đi bán là những nông sản, người dắt lợn, dắt
chó, người gùi củi, gùi rau... Có người phải đi từ 3 giờ sáng xuống núi cho kịp
phiên chợ. Khác với những phiên chợ vùng xuôi là người ta đến chợ để mua bán,
chợ phiên Đồng Văn còn là nơi để mọi người giao lưu, gặp gỡ, để uống rượu, thổi
khèn và ăn thắng cố. Đó cũng là nét văn hoá đặc trưng của phiên chợ vùng cao
nguyên này.
Cuộc mưu sinh trên đá.
Cuộc mưu sinh trên đá
Với 3/4 diện tích là núi đá, quanh năm hạn hán và mây mù bao
phủ, ngoài cây ngô ra thì không có loài cây nào có thể sinh trưởng mạnh như thế.
Cây ngô cũng kiên cường và có sức sống mãnh liệt như chính người Mông nơi đây vậy.
Cảnh tưởng những người Mông gùi đất từ vùng thấp để đổ vào từng hốc đá trên cao
nguyên để trồng ngô (chuyện khó tin nhưng có thật), đá tai mèo sắc nhọn như đâm
nát chân người... đã làm tôi thực sự thấy xúc động. Vậy mà, họ đã làm nên những
điều kỳ tích và đáng khâm phục.
Những ruộng bậc thang
Đồng bào nơi đây có câu nói ‘‘sống trên đá, chết vùi trong
đá", cuộc sống trên cao nguyên đá quanh năm khô hạn, vất vả, kiên trì vật
lộn với từng hốc đá tai mèo để gieo những mầm ngô (mầm sống) nơi cao nguyên
này, nhưng lạ thay những nương ngô năm nào cũng xanh tốt và cho năng suất thu
hoạch cao, không ăn hết ngô đồng bào bán đi lấy tiền mua gạo, mua các vật dụng
khác. Quả là đá đã không phụ công người.
Kỳ thú Mã Pì Lèng
Qua một chặng đường dài hiểm trở, chúng tôi đến nơi được mệnh
danh là ‘‘Đệ nhất hùng quan"- Mã Pì Lèng. Đèo Mã Pì Lèng thuộc huyện Mèo Vạc
tỉnh Hà Giang, chiều dài đèo khoảng 7km, chạy men theo sườn núi, một bên là
vách đá cao sừng sững, một bên là vực sâu thăm thẳm. Đứng trên đèo phóng tầm mắt
bao quát toàn bộ một vùng cao nguyên rộng lớn, sông Nho Quế như một sợi chỉ màu
uốn lượn qua các khe núi hẹp, xa xa thấp thoáng các bản làng của người Mông ẩn
hiện trong sương núi, những nương ngô xanh ngát một vùng rộng lớn như làm xua
đi cảm giác nặng nề, khô cằn và khắc nghiệt của miền cao nguyên nhiều đá này.
Thật ngạc nhiên! từ độ cao 1000m ngước mắt lên nhìn thấy một
tháp đá vững chãi, cao sừng sững đứng bên bờ vực Nho Quế tưởng như trạm tới trời,
các bức tường đá khổng lồ đua nhau vươn cao thật tráng lệ, hùng vĩ, một cảnh
quan đẹp, kỳ thú mà tôi chưa từng thấy ở nơi đâu khác.
Những người bạn Hà Giang kể rằng: trước kia đây là vùng đất
‘‘rừng thiêng nước độc" núi non trập trùng, hiểm trở, điều kiện tự nhiên
vô cùng khắc nghiệt. Từ thị xã Hà Giang muốn đi lên đây chỉ còn cách duy nhất
là đi bộ hoặc đi ngựa men theo các lối mòn quanh chiền núi.
Cuộc sống của đồng bào chỉ thực sự đổi thay khi Trung ương Đảng
quýêt định cho mở tuyến đường Hà Giang- Đồng Văn- Mèo Vạc, mà đồng bào vẫn gọi
là ‘‘Đường hạnh phúc" với mục đích ‘‘Đưa nhân dân vùng núi tiến kịp miền
xuôi". Tổng chiều dài của tuyến đường là 165km, để có được con đường như
ngày hôm nay, chúng ta đã trải qua 5 năm liền phá đá mở đường, từ năm 1959 đến
1965 với 2.246.321 ngày công lao động.
Tham gia mở tuyến đường này gồm thanh niên xung phong 6 tỉnh
thuộc khu tự trị Việt Bắc cũ (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên
Quang và Hà Giang), bằng sức người cùng những dụng cụ như: búa, xà benh, cuốc,
xẻng, kíp mìn, hầu như không có máy móc trợ giúp. Cứ thế trong suốt 5 năm ròng,
họ đã thực sự mang ‘‘hạnh phúc" về với đồng bào nơi cực Bắc này.
Đoạn đường đi qua Mã Pì Lèng là khu vực hiểm trở nhất của cao
nguyên đá này với rất nhiều núi cao, dốc đứng, vực sâu. Việc phá đá mở đường
qua đoạn này cũng mất nhiều công sức, toàn tuyến đường dài 165km được làm trong
5 năm nhưng chỉ riêng đoạn đường này với 24 km phải mất tới 2 năm. Trong đó hơn
1000 thanh niên xung phong phải tốn 11 tháng treo mình trên vách đá để đục lỗ
mìn phá đá. Tại nơi này giờ còn một đài tượng niệm ghi danh những thanh niên
xung phong ấy.
Chia tay Đồng Văn, Mèo Vạc, xa Mã Pì Lèng trở về Hà Nội tôi tự
hỏi mình: Vì sao sức mạnh của con người lại phi thường đến vậy? phải chăng đó
là sức mạnh của niềm tin, niềm hy vọng về ‘‘hạnh phúc" trên cao nguyên cực
Bắc này? Ngắm nhìn những nụ cười trên khuôn mặt rạng ngời của đồng bào nơi đây,
những bãi lúa, nương ngô xanh mướt trong sương mờ. Tôi cảm nhận được rằng: mùa
xuân đang thực sự về đến nơi đây, sức sống của miền cao nguyên đá đang từng
ngày trỗi dậy, cuộc sống đang đổi thay từng ngày.
.Nguyễn Văn Hưởng
Nguồn VietNamNet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét