Thứ Ba, 21 tháng 5, 2024

 

Phía trước là dòng sông

5 Tháng Ba, 2021

Qua ô cửa kính, nắng chói. Kim tháo cặp kính râm gài trước ngực áo ra, mang vào. Nắng dịu đi. Đám cỏ lau mọc lơ thơ theo rìa sân bay cũng bớt vẻ tàn úa. Máy bay chuyển bánh rồi cất cánh. Kim đẩy cặp kính xước lên đầu. Nắng lấp lóa, mây trắng cuồn cuộn lướt qua. Không chờ nghe thông báo của phi hành đoàn, cô vẫn biết thời tiết tốt. Tuy vậy, Kim vẫn thấy bất an.

Sự bất an đến từ cảm xúc. Thứ cảm xúc như những mũi tên trái chiều. Chúng găm vào nhau. Nhiều lúc Kim thấy mình kiệt sức. Mấy lần Kim định nói toạc ra lý do khiến cô thấy đảo quốc sư tử không còn là điểm du lịch hấp dẫn khi Quang, em trai cô, qua những bức e-mail vừa dài, vừa rối rắm, cuối cùng hé lộ cho chị biết mình đang đắm đuối trong một mối tình đồng tính.

Nhưng rồi bí mật đó, Kim giữ kín. Cô có thể bịa ra một lý do nào đó để ở lại cho dù cô là người hăng hái đề xướng và góp phần tổ chức chuyến đi, nhưng cô không thể lừa dối chính mình. Hơn nữa, Quang đã nằn nì: “Chị bỏ chuyến đi sẽ làm em càng thấy có lỗi. Em hy vọng, biết đâu chị có thể thay đổi cách nhìn khi đến nơi mà chúng em vừa có một tuần hạnh phúc…”.

Khi những dòng chữ ấy hiện lên, tim Kim thắt lại. Cô tắt laptop. Màn hình xóa hết các dấu tích nhưng dòng chữ, ký ức, xúc cảm của Quang về chàng trai mà nó yêu vẫn cứa vào Kim. Nhói, buốt. Cô thấy mình mất thăng bằng. Nếu thộp được Quang, Kim sẽ bắt nó úp mặt xuống sàn nhà, quất cho nó một trận tả tơi, dù cô chưa một lần làm cho em trai đau.

Nhưng khi nói những điều đó, Quang đang ở cách Kim nửa vòng trái đất. Nó đang ngồi bên khung cửa kính mờ hơi nước từ đám bông tuyết đang tan. Còn khung cửa sổ trước mắt Kim thì vẫn chìm trong bóng đêm. Không gian vời vợi khiến Kim chỉ còn cách là phải tự mình thoát khỏi cơn giận.

Kim uống một lúc hai ly nước mát, lau mặt bằng khăn ướt chườm đá, đi lần quần trong nhà, đưa mắt lục lạo, tìm những công việc như rửa chén, lau chùi bếp hay phơi mớ đồ đã giặt. Nhưng mọi thứ trong ngôi nhà của người đàn bà đơn thân nhìn đâu cũng sạch sẽ, tinh tươm, kiểu tinh tươm vô bổ trong một không gian thiếu vắng hơi hướm lứa đôi.

Nghiêng ngó thêm một hồi, cô cũng chẳng thể tìm thấy thứ gì xộc xệch để sắp đặt lại, Kim đành lục lọi trong ký ức. Cô tìm về những năm tháng tuổi thơ, với thằng em mặt mũi hiền khô, chưa một lần gây gổ với bạn bè, chỉ nhẫn nhịn, cắm cúi học, lúc nào cũng là học sinh đứng thứ hạng cao nhất lớp. Kim ngần ngừ nhìn cuốn album dày cộm của gia đình trong tủ sách, muốn mở ra xem lại những tấm ảnh của Quang, nhìn lại dáng dấp, điệu bộ của nó, xem có biểu hiện khác biệt nào đó, nhưng rồi cô đổi ý. Kim biết cô sẽ chẳng tìm thấy gì ngoài ánh mắt trong trẻo của Quang.

Cô bước ra ban-công. Chút lành lạnh của sương, của gió, và thứ ánh sáng lạnh lẽo của những vì sao rải rác trên nền trời dường như giúp Kim bớt căng thẳng. Lúc ngồi vào trước bàn phím, Kim gõ được những dòng chữ với lời lẽ dịu dàng mà chính cô cũng ngạc nhiên. Kim tỏ ra bao dung, kiên nhẫn, thủ thỉ với thằng em đang trong cơn sốt yêu đương, rằng cô rất muốn được nghe, được hiểu, thậm chí sẵn sàng nhảy vào vòng xoáy cuồng điên, để kéo Quang thoát ra.

Trong khi chờ trả lời của Quang, Kim hình dung em trai sẽ tự nhìn lại mình trước tấm lòng độ lượng của chị. Kim còn mong sẽ được đón nhận từ Quang tâm trạng hoang mang, thậm chí tuyệt vọng của kẻ bị đẩy xuống dòng nước chảy xiết, đang đuối sức chờ chiếc phao cứu sinh từ chị gái.

Nhưng khi những dòng chữ hiện ra, Kim mới biết em trai không giãi bày để tìm sự đồng cảm hay thương cảm. Lời lẽ của nó chảy tràn. Dòng thác ngôn từ như muốn cuốn phăng tất cả, nhấn chìm tất cả. Nó bảo, em biết chị – người gần gũi, yêu thương em và cha mẹ – người luôn đặt lên em những kỳ vọng ngày một nặng hơn, và tất cả người thân, họ hàng đều phản đối, đều muốn tách hai đứa em ra. Em biết em có lỗi, em đã làm tổn thương những người yêu thương em…”. Rồi mấy giây sau nó lại viết tiếp và bôi đậm dòng chữ “Nhưng chị ơi, làm sao em có thể tự mình chặt đi một cánh tay, cắt đi nửa lá phổi, làm sao em có thể xé đôi trái tim mình!”.

Kim lùi lại, rồi tiến tới. Rồi lại lùi… Trong cuộc đọ trí đấu lý với Quang, dường như Kim không phải là đối thủ tương xứng. Không hẳn vì Quang học giỏi hơn, liều lĩnh hơn hay trải nghiệm hơn. Sự giỏi giang của nó khi giành được học bổng du học tiến sĩ của một đại học danh tiếng đã làm cho gia đình hãnh diện và chị gái nể phục, nhưng Kim chợt nhận ra, sự vượt trội của Quang không phải từ đống kiến thức, từ ý chí muốn khẳng định mình, muốn vinh danh dòng tộc, mà từ thái độ sống rất chân thành.

Sự chân thành của Quang đã khiến Kim phải do dự, lùi lại. Khi lùi lại một quãng cần thiết, Kim nhận rõ hơn sự chân thành của Quang. Chân thành tuyệt đối với cảm giác da thịt và với mọi cung bậc của tâm hồn.

Trong sự chân thành vô điều kiện đó, Quang thoát khỏi sự dối trá của kẻ mang nhiều bộ mặt.

*

Kim kéo cặp kính xuống. Cô muốn ngủ một lát để bớt đờ đẫn vì cả đêm qua gần như thức trắng. Kim chợp mắt chừng mươi phút thì mùi thức ăn xộc vào mũi. Trong khoảng không nhỏ hẹp ở khoang máy bay, mùi thức ăn nhiều gia vị khiến Kim buồn nôn. Cô lấy cái túi giấy nhét ở lưng chiếc ghế trước mặt, cúi mặt vào đó. Chẳng nôn ra được thứ gì ngoài mớ nước bọt.

Cô xin một ly nước. Cô tiếp viên rót cho cô đúng nửa ly. Bưng ly nước uống cạn, Kim chợt nhớ đến viên thuốc chống nôn vẫn còn trong bóp. Cô lấy viên thuốc và lại hỏi xin thêm ly nước. Cô tiếp viên cầm vỏ chai không đưa lên, rối rít “sorry”. Kim đành bỏ viên thuốc vào miệng, nhai và nuốt khan. Miệng lưỡi cô đăng đắng nhưng có thể chịu được. Thậm chí, cô còn thấy đỡ ngột ngạt với ý nghĩ, cuối cùng rồi sự bất thường như uống thuốc không có nước xem ra cũng chẳng có gì ghê gớm cả. Chút bột thuốc cuối cùng cũng theo thực quản vào đến dạ dày. Cô mở hộp mì lạnh tanh, đặt trước bàn ăn, nhai hết mớ mì bã bợt và nuốt thêm cái bánh ngọt, cốt để có đủ năng lượng. Khi nạp đủ năng lượng cần thiết, Kim tin mình sẽ có thêm ít nhiều khả năng chịu đựng.

Tuy vậy, Kim vẫn không giữ được bình tĩnh khi cả đoàn bước vào một khách sạn trên đường Orchard, một trong những con đường sầm uất của Singapore, đúng cái khách sạn mà trước đó mấy ngày Quang và người tình của nó từng sống bên nhau.

Nhận phòng rồi ngả người ra giường, Kim vẫn nghe tim đập thình thịch. Đông, cô bạn đồng nghiệp mắt buồn, tóc ngắn ở cùng phòng, sau khi đã mở va-li, lấy áo quần treo vào tủ, thấy Kim vẫn chưa rời giường, liền hỏi: “Bà mệt hả?”. Kim nhìn tấm ra giường thẳng thớm, uể oải: “Ừa, chắc tới cữ… cà phê”. Trả lời xong, Kim mới thấy thực sự thèm cà phê. Cô ngồi dậy, mở túi xách, lấy mấy gói cà phê hòa tan đặt lên bàn. Đông lẹ làng cắm dây ấm điện vào ổ cắm, bảo: “Bà chờ nước sôi pha cà phê, tui tắm trước”.

Trong lúc chờ nước sôi, Kim ngắm căn phòng lần nữa. Bài trí đơn điệu. Hai chiếc giường đôi đặt song song. Ra giường, tấm đắp, gối và rèm cửa cùng một loại vải, màu nâu trầm với hoa văn mộc mạc. Kim bước đến bên cửa sổ, kéo rèm. Cô không khỏi ngạc nhiên trước một thảm xanh ánh vàng hiện ra trong chênh chếch nắng chiều. Chắc đây là mảng cây mà Quang đã nói khá kỹ, là loại cây nhiệt đới tươi tốt quanh năm được gọi là rainy tree – “cây mưa”. Những tàng cây mở rộng như tán dù, vừa đón nắng vừa có thể che mưa. Chúng cao dềnh dàng vượt quá tầng ba, nơi cô đang ở. Tuy vậy, những tán lá dù xanh mượt vẫn không làm phân tán tâm trạng bối rối của Kim. Cô không sao thoát ra được ý nghĩ, biết đâu Quang và người tình của nó đã ở đúng căn phòng cô đang ở.

Đông bước ra từ phòng tắm khi Kim mới uống được nửa tách cà phê. Chị vừa lau tóc vừa nói: “Tui xả nước ấm vô bồn rồi, bà vô ngâm người cho khỏe”. Đông thường có những chăm sóc thân tình dành cho bạn. Kim cũng có những kỷ niệm đáng nhớ đối với Đông. Tuy vậy, dù nhiều năm làm việc cùng công ty nhưng cả hai chưa coi nhau là bạn thân. Mỗi người vẫn còn che giấu những nỗi niềm.

Kim mang thứ sữa tắm quen dùng vào phòng tắm. Cô khóa vòi nước, cởi bỏ áo quần. Khi định bước vào bồn tắm, đầu óc Kim vẫn bị ám ảnh bởi ý nghĩ Quang và người tình của nó có thể cũng đã ngâm người trong bồn tắm này. Cô vội rụt lại, đưa mắt nhìn quanh, lục lọi.

Trên tấm gương mờ hơi nước, cô nhận ra gương mặt nhợt nhạt âu lo và một bộ ngực trần đang ngơ ngác, phập phồng. Kim lấy tay lau bớt hơi nước trên mặt gương. Gương mặt hiện trong gương vẫn bợt bạt, thiếu sinh khí và hằn rõ vẻ bất an.

Không đánh hơi được mùi mồ hôi hay mùi hương lạ nào, ngoài mùi sữa tắm, Kim vẫn không muốn ngâm người trong cái bồn tắm mà cô mường tượng từng có hai gã mày râu trần truồng kỳ cọ cho nhau.

*

Hôm sau, hôm sau, rồi hôm sau nữa, lúc cả đoàn, sau những buổi đi thăm thú mỏi nhừ, ai cũng thả mình vào làn nước trong xanh của hồ bơi ở cuối hành lang tầng ba, thì Kim vẫn một mình tắm dưới vòi sen trong phòng, bởi cô tin chắc Quang và người tình của nó từng ngụp lặn âu yếm nhau ở chính cái hồ bơi đó.

Kim cũng không ngờ nỗi ám ảnh lại chi phối cô mạnh đến vậy. Nhiều hình ảnh mơ hồ bỗng trở nên sắc nét như bức ảnh chụp ở cự ly gần khi bất chợt có một tia ký ức lia vào.

Lúc cùng mọi người đi thang máy lên sân thượng tháp Merlion – tượng con vật lưỡng tính đầu sư tử mình cá bằng bê-tông, trời còn nắng gay gắt. Không nón đội, không dù che, không chịu nổi cái nắng rát da, Kim chỉ đưa tay ngang trán, nhìn qua một lượt hòn đảo Sentosa tràn nắng, san sát tàu thuyền, rồi trở xuống ngay.

Không chờ thang máy, cô một mình đi bộ. Lối đi dẫn Kim ra đúng cái khoang hàm của con ngư sư ngạo nghễ. Trong khoang hàm to lớn mờ mờ sáng, Kim nhận ra đôi tình nhân trẻ líu ríu dắt nhau chạy bộ xuống, cười tít, rồi ôm eo nhau đứng dưới mấy chiếc răng lởm chởm, đưa máy ảnh nhờ Kim bấm hộ. Nắng chói lóa từ ngoài khiến gương mặt cả hai đều mờ tối, chỉ thấy những chiếc răng to lớn, dị thường. Quang và người tình có lẽ cũng như đôi tình nhân kia, cũng đứng bên nhau như thế.

Quang đã kể: “Khoảnh khắc đó, không biết sao, em lại mong ngư sư là con quái vật có thật và mong nó ngoặm lấy hai đứa em cho rồi…”. Thì ra, cái hàm răng sắc nhọn vô hình vẫn chờn vờn đe dọa niềm hạnh phúc khác thường của em trai Kim. Và có lẽ, cả người tình của nó cũng không thoát khỏi nỗi ám ảnh đó.

*

Chiều hôm sau, được tự do đi mua sắm, Kim tách ra một mình. Cô muốn gặp người tình của Quang, dù đó là một quyết định không dễ dàng và nằm ngoài tầm kiểm soát của lý trí.

Bước xuống sảnh khách sạn, nhìn đồng hồ thấy còn sớm để đến ký túc xá, nơi người tình của Quang đang ở, Kim định trở lên phòng nhưng ngại chạm phải những câu hỏi của Đông, Kim ngồi xuống ghế, đợi thời gian trôi.

Trong gần cả tiếng đồng hồ chờ đợi, Kim ráp nối, xâu chuỗi những gì liên quan đến cuộc gặp gỡ vừa tình cờ vừa định mệnh giữa Quang và người tình của nó. Cô nhìn ra khá rõ lộ trình khúc khuỷu mà họ trải qua. Họ gặp nhau ở một hội nghị dành cho các nhà khoa học trẻ, và nhanh chóng nhận ra nhiều điểm tương đồng. Cả hai cùng thừa hoài bão phía trước nhưng lại thiếu cái gì đó thật lớn lao trong cuộc sống thường nhật.

Cho đến khi gặp nhau, họ khám phá ra sự thiếu vắng triền miên chính là nỗi cô đơn cùng cực của kẻ dốc sức tìm kiếm những điểm đến. Khi leo hết đỉnh dốc này, họ lại muốn leo tiếp đỉnh dốc khác. Họ bị quyến rũ bởi những đỉnh cao. Họ lầm lũi leo lên mà sợi dây bảo hiểm duy nhất, chẳng có gì khác ngoài trí tuệ và ý chí. Cho đến khi họ gặp nhau. Rồi sự đồng cảm, quan tâm chăm sóc cho nhau và cả nỗi đam mê bùng lên mãnh liệt khiến Quang và người bạn của nó cảm thấy thật gần nhau dù rất cách xa về khoảng cách địa lý. Họ chỉ hướng về nhau và vì vậy, khước từ những xúc cảm đến từ phái nữ. Trong mắt Quang và người thanh niên mà Kim đang muốn biết, đều có định kiến cực đoan là, phàm là đàn bà thì luôn thừa ham muốn nhưng lại thiếu chân thành.

Lúc ngồi trên taxi, Kim mới hình dung rõ tình huống khó xử cho người tình của Quang và cho cả cô trước cuộc gặp gỡ bất ngờ.

Khi Quang cho địa chỉ của cậu ta với mong muốn “gặp người em yêu chị sẽ hiểu thằng em chị hơn”, Kim đã không hứa hẹn gì. Cô cảm thấy khó chịu, thậm chí bất bình trước đòi hỏi của Quang. Bởi thâm tâm, cô không hề có ý cảm thông như cô từng viết cho Quang. Trong tâm trạng lo em trai bị cuốn trôi, bị nhấn chìm, Kim đã cố gắng giữ sự tỉnh táo cần thiết để quăng ra một tấm lưới, và Quang đã quẫy đạp đến kiệt sức trong sự chân thành của mình.

Kim chưa biết khi gặp cậu thanh niên, cô sẽ mang bộ mặt nào cho thích hợp thì chiếc taxi dừng lại trước một khuôn viên nhiều cây, nhiều hoa. Một hàng “cây mưa” chạy dài, cách đều nhau, giương rộng những tán dù xanh mượt. “Em ở tận bên này mà vẫn hình dung rõ mồn một con đường, hàng cây, vệ cỏ mỗi ngày cậu ấy đi qua…”.

Cuối hàng cây, Kim thấy một tòa nhà cao tầng không có gì đặc biệt, dễ lẫn với những tòa nhà hình hộp sừng sững với vô số ô cửa. Tuy nhiên, nó sẽ trở nên đặc biệt khi Kim bước vào một ô cửa và tự giới thiệu: “Tôi là chị ruột của Quang…”.

Kim hình dung, có lẽ người tình của Quang sẽ túng túng trong giây lát rồi sau đó sẽ vồn vã đón tiếp. Giá cậu ta sập cửa ngay khi thấy người khách không mời, hoặc tiếp đón miễn cưỡng có lẽ lại hay hơn. Sự nồng nhiệt chân tình sẽ khiến cô thêm bối rối và bất an trước cuộc tiếp xúc quá ư suôn sẻ. Như thế, dù muốn hay không cô sẽ phải tỏ ra lịch lãm trước chàng trai trí thức, đòi hỏi Kim phải biết che đậy ngay cả ý nghĩ và sự bất lực của mình. Không chỉ thân thiện, cô còn phải chứng tỏ sự hiểu đời của một người không thuộc vào số đông hời hợt giả dối mà cậu ta và Quang luôn tránh xa.

Mà như thế là thua cuộc. Là sẽ phải thay đổi cách nhìn đúng như Quang mong muốn. Là phải đồng ý với Quang rằng khi yêu thật sự, sẽ không còn chỗ cho sự săm soi, mặc cả; mà biết chấp nhận cái hay cái dở, cả sự bất thường, và đón nhận búa rìu dư luận. Là phải chấp nhận mối quan hệ luyến ái không bình thường của Quang. Là phải cắn răng nhìn cha mẹ đau khổ trước đứa con trai độc nhất đã không làm tròn chữ hiếu. Là đành nhìn Quang khước từ khả năng duy trì giống nòi của một dòng họ vốn đặt danh dự cao hơn tất cả.

Và với Kim,  điều đó có nghĩa là tiếp tục buông xuôi, tiếp tục để em trai mình lạc lối. “Em sẽ lao động cật lực, sáng tạo cật lực, cống hiến cật lực, cố gắng làm sao để chúng em sớm được đoàn tụ, được yêu thương và cùng chăm sóc cho nhau…”.

Bước vào ô cửa nhà cậu ấy, có nghĩa là Kim đưa tay ra, nắm lấy sợi dây đồng cảm giữa họ, siết chặt hơn.

Không, không thể được!

Kim không muốn chạm vào sợi dây nghiệt ngã đó và không muốn vướng vào tấm lưới chằng chịt mà Quang đang mắc kẹt. Cô chợt mong một sự cố bất thường nào đó ập tới, chẳng hạn trời đổ mưa, những cơn mưa tối đất tối trời. Nhưng trời chiều vẫn khô và trong. Những cụm mây ngũ sắc nhùng nhằng trôi. Hoàng hôn thong dong nhuộm thắm cả bầu trời. Trên những “cành mưa” đã thấy chấp chới những cánh chim ríu ran tiếng gọi đàn.

Kim quyết định không xuống xe.

Cô bảo tài xế đi tiếp.

*

“Đi đâu?”. Kim giật mình nghe người lái xe hỏi. “Đến chỗ nào đó không ồn ào, có thể ngồi một mình, dễ chịu…”.

Qua cửa kính, dù không hề bị kẹt xe, ùn tắc ngột ngạt như thường gặp ở thành phố Kim sống nhưng dòng người xuôi ngược vẫn tất bật, hối hả. Tất cả như nhoài về phía trước, như chạy đua với từng khoảnh khắc, tóm bằng được cơ may không đến lần thứ hai trong đời.

Có lẽ, Quang cũng đang nắm chặt cơ may mà nó có được, dù người thân và đám đông có ra sức ngáng đường. Mặc, nó vẫn đang nhoài về phía trước.

Trên con đường chênh vênh phía trước, có lẽ em trai của Kim sẽ nhận rõ hơn những giới hạn. Giới hạn của lề thói, định kiến. Giới hạn của hoài bão, ước mơ. Giới hạn của hạt bụi trong vũ trụ vô cùng. Và… giới hạn của trái tim.

Với chỉ 270 gam, cái khối đỏ mềm mại ấy có thể hàn gắn hoặc tàn phá cả thế giới.

*

Kim thấy ngực mình nhoi nhói. Cô chợt nghĩ đến Đông. Giá như cả hai đừng dựng lên những vách ngăn vô hình, cô đã có thể về ngay khách sạn, leo lên nằm cạnh Đông và san bớt cho bạn cái khối nặng đang đè trên lồng ngực. Giá như có thể gửi ngay cho Quang bức e-mail nói hết những điều cô đang trải qua, cả những dự cảm đang cuộn lên như sóng…

Giá như… giá như…  con người ta luôn được sống thật lòng.

*

Không khí trong xe như không còn đủ cho Kim. Cô quay kính xe xuống, bảo tài xế cho cô xuống chỗ nào đó dễ thở.

Gió quất vào mặt vào cổ Kim, ràn rạt.

Mấy phút sau, bác tài dừng xe trước một công viên cạnh bờ sông, nơi có tượng sư tử đang phun nước.

Cô trả tiền, xuống xe, lững thững bước về phía bờ sông.

Nước đang trôi.

Bích Ngân

Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

 

Nhà thơ Nga Evgueni Evtushenko: Đa chiều của một hồn thơ

6 Tháng Ba, 2021

“Thi sĩ ở nước Nga còn hơn là thi sĩ” – câu thơ này của Evgueni Evtushenko thường được diễn giải theo hai cách. Những ai yêu ông thì ca ngợi sự tự xác định rõ ràng về thiên chức to lớn của người làm thơ ở xứ sở hay tự gánh cho mình sứ mệnh cứu nhân độ thế như nước Nga. Ai không thích ông thì lại coi đó là tham vọng của một kẻ cầm bút vì được chế độ quá ưu ái nên cứ tự nhận cho mình những trách nhiệm theo kiểu “ôm rơm rặm bụng”.

Cả hai cách hiểu trên đều không hẳn đã đánh giá được đúng E. Evtushenko. Là một người có tư chất sáng tạo đích thực, ông phức tạp hơn mọi cách nhìn nhận một chiều. Nhìn từ một góc độ, đó là biểu tượng của tinh thần đổi mới trí tuệ trong xã hội Xôviết từ những năm 60 của thế kỷ trước, dám phát biểu chính kiến lắm khi không giống ai của mình, tác giả của những tập thơ in tới hàng triệu bản, bạn thân của hầu hết các danh nhân thế giới, từ đạo diễn điện ảnh Italia lừng danh Federico Felini đến nhà thơ Chilê thiên tả Pablo Neruda… Nhìn từ khía cạnh khác, đó lại là người viết nên không chỉ một tác phẩm ngụy tạo đạo đức, nói vậy nhưng không phải vậy, làm chính trị một cách không thực lòng mà chỉ cầu lợi, gió chiều nào che chiều ấy, đôi lúc háo danh vọng phù hoa tới mức tức cười…

Trong hai cách đánh giá tự loại trừ lẫn nhau này đối với E. Evtushenko có một điều không thể phủ nhận được: Ông là người cuối cùng trong số các nghệ sĩ Xôviết thực hiện được khát vọng to lớn của nhiều thời khi xây dựng mình thành một huyền thoại về một nhà thơ thiên phú đủ tài năng để chinh phục thiên nhiên và mê hoặc lòng người bất luận sang hèn trong một thời đại đầy bất trắc và mâu thuẫn như nửa cuối thế kỷ XX. Những nhà thơ khác cùng thế hệ với ông như Andrey Voznhesensky hay Bella Akhmadulina… đã không làm được như ông. A. Voznhesensky chẳng hạn, sau thành công của Trái lê hình tam giác đã bị “chết đuối” trong vô số những hành vi ngụy nghệ thuật, tự làm phức tạp tới mức không ai – kể cả tác giả lẫn độc giả – hiểu nổi,  đến mức nhà thơ Mỹ gốc Nga được giải thưởng Nobel Văn học Yosif Brodsky đã phải kêu lên than trách. Còn B. Akhmadulina đã biến giọng thơ thánh thiện của mình thành những  hình tượng quá ư xa lạ với nhân gian và vì thế cũng tự tách mình ra khỏi đất nước… Công chúng của hai người này luôn luôn ít ỏi nhưng họ cũng không chinh phục được giới thượng lưu trí tuệ một cách xác đáng. Họ mờ dần trong sự chú ý của xã hội. Riêng E. Evtushenko thì khác – ông đi được xa hơn và sâu hơn, dù có lẽ không lâu hơn là mấy.

Câu chữ đốt trái tim người

Huyền thoại căn bản về nhà thơ – đó là ý tưởng về một quyền năng tuyệt đối. Quyền năng trước thiên hà. Quyền năng trước con người. E. Evtushenko đã tận dụng được huyền thoại này theo hướng có lợi nhất cho mình nhờ bản chất nồng nhiệt của ông và nhờ không khí xã hội Xôviết những năm 60 của thế kỷ trước. Không có ai trong số các nhà thơ đồng thời với ông lại hài hòa với vai trò nhà hùng biện thi ca trên diễn đàn, trước đám đông cuồng nhiệt như thế. Ông đã viết lên được những câu thơ ấm lòng toàn dân tộc, từ những người công nhân suốt ngày phả hơi men tới những chính trị gia hàng đầu đất nước. Gặp ở ngoài đường, ngay cả những kẻ lêu lổng cũng tỏ ra hâm mộ ông. Tiếp ông trong Điện Kremli, đồng chí lãnh đạo nào cũng tỏ ra thích thú thơ ông, nhất là những bài thơ đã được phổ thành ca khúc. Đến mức có nhà phê bình văn học cho rằng chính ông đã lặp lại được kỳ tích của tác giả tráng ca Hy Lạp nổi tiếng Pindar, từng sang sảng cất lời trên sân vận động Ôlimpơ một thuở.

Cho tới hôm nay, E. Evtushenko vẫn thích kể lại một câu chuyện từng xảy ra với ông. Trong trường ca Nhà máy thủy điện Anh em có một chương nhan đề “Nhiusha” (tên phụ nữ), nói về những người mẹ độc thân vốn nảy nở rất nhiều trên “công trường thế kỷ”. Khi ông đọc xong chương này trước những người công nhân trên công trường thuỷ điện thì ngay lập tức những người phụ nữ công nhân có mặt trong tối hôm đó đã nhất loạt đứng dậy và  trìu mến, thiết tha dâng lên ông những đứa con của họ. “Chuyện cực kỳ hay, đúng không nào? Giải Nobel có là gì so với một tình cảm như thế?”- ông đã tự hào khoe. Thực sự đó là chuyện cực kỳ hay, những câu thơ thấm đẫm nhân tình trong khoảnh khắc đã biến một nhà thơ lạ thành người cha của vô số những đứa con thiếu bố. Những tình huống như thế chắc chắn càng làm cho E. Evtushenko, vốn bản tính cũng hay khuếch trương, tin vào sứ mệnh thiên khải của mình. Và ông đã lao vào những cơn truy đuổi thành công tức thời, ngay tại chỗ, bằng đủ mọi cách. Nhưng một khi quá say mê ý tưởng “Thi sĩ ở nước Nga còn hơn là thi sĩ” thì ngay cả một tài năng dù lớn đến đâu cũng dần dà đánh mất cảm quan thực tế sáng suốt và tính chừng mực, nhất là với những người không được thiên nhiên phú cho nhiều những đức tính này.

Và cuối cùng một nhà thơ như E. Evtushenko đã có lúc vì quá chóng mặt trước những thành công ầm ĩ và nhiều phần dễ dãi để mình rơi vào những trạng thái kệch cỡm trước bàn dân thiên hạ khi tưởng rằng mình với những dòng thơ sang sảng có thể đóng vai trò của Đấng cứu thế. Hoặc tự tưởng tượng rằng mình trong chế độ Xôviết giống như một chú bé Do Thái bị những kẻ tà tâm hành hạ… Lầm hết!

Dễ viết, dễ… ngã

Những người từng ở gần E. Evtushenko đều phải công nhận rằng ông là người thực sự có khả năng xuất khẩu thành thi, lắm khi không cần phải đi đủ bảy bước đã viết nên được một bài thơ. Thí dụ như trong đám tang một nhà thơ cựu chiến binh đàn anh, Yuri Levitansky, chỉ trong vòng vài phút E. Evtushenko đã ngồi viết ngay được một bài thơ tưởng niệm rất không tồi và đọc cho mọi người nghe đầy xúc động. Tình huống này cũng là một cảnh mà E. Evtushenko muốn bổ sung chi tiết cho huyền thoại về một nhà thơ vĩ đại. Một thi sĩ chân chính luôn là người thiên phú, chứ không phải do cần cù lao động mà nên.  E. Evtushenko không bao giờ biết thế nào là khủng hoảng sáng tác – ông viết trong mọi tình huống, theo mọi cách, miễn là chứng minh được sự tồn tại của mình một cách oai oách nhất. Với bản tính sôi động tới mức ngùn ngụt, E. Evtushenko quả thực có khả năng viết thơ dễ như chơi. Đấy cũng là trò lợi bất cập hại đối với ông: dòng thơ tuôn chảy quá ào ạt thường vàng thau lẫn lộn, những câu thơ “hạng nhất” (luôn luôn là ít ỏi) bị đắm chìm một cách vô vọng trong bể thơ “hạng thứ bốn mốt”.

Với sự tự ý thức thái quá về tài hoa lỗi lạc của mình, trong những thời điểm cực thịnh, E. Evtushenko đã bộc lộ mình là một đứa trẻ háo danh, đỏng đảnh. Trong lúc được chính thức công nhận là “đệ nhất thi nhân” của quốc gia Xôviết, hưởng đủ mọi bổng lộc của chính quyền nhưng ông vẫn thường xuyên phàn nàn rằng mình chưa được mắt xanh soi xét nên đã bị mất giải thưởng này hay vinh hạnh khác. Và có lúc ông cảm thấy mình gần như là một kẻ bị hắt hủi (?!) Mãi gần đây, ông vẫn còn kể đi kể lại chuyện ông đã từ chối không chịu cộng tác với Cơ quan An ninh KGB. Trong khi đó thì Y. Brodsky cho tới khi chết vẫn tha thứ cho ông về việc ông đã nhờ những nguồn tin an ninh của mình biết trước chuyện Y.  Brodsky sẽ bị bắt mà không báo cho bạn mình hay. Sự thực là đâu?

Nhìn chung, E. Evtushenko luôn là người được chiều chuộng: dưới thời Xôviết, ông là nhà thơ được đi nước ngoài nhiều nhất với vai trò người bảo vệ chế độ trung thành. Khi vật đổi sao dời và chế độ Xôviết bị xoá bỏ thì ông lại nhanh chân sang Mỹ làm giáo sư giảng dậy ở bậc đại học về thơ. Tuy nhiên, thói đời, tính háo danh như con thú vô độ, càng được ăn thì càng cảm thấy đói. Đây là chuyện có thực đã xảy ra với nhà thơ: E. Evtushneko rất muốn nhận Huân chương Lênin nhưng ông chỉ được trao  Huân chương Hữu nghị. Để an ủi nhà thơ đang rầu rĩ, ai đó trong số người quen đã tặng cho ông một kỷ vật gia đình – bộ Huân chương Lênin mà ông nội mình đã được nhận. Cứ tưởng E. Evtushenko sẽ không muốn mình bị lỡm nhưng ông đã nhận ngay quà tặng này và treo lên tường rất trân trọng – phần thưởng không phải dành cho mình nhưng cũng loè được khối người thiên hạ! Một nhà thơ thực sự có lương tri không bao giờ làm như thế.

Số đông không chắc đã là chân lý

Thực ra, cuộc sống của mỗi một nhà thơ lớn đều có những phần mang tính huyền thoại. E. Evtushenko là một nhà thơ lớn, điều này không còn nghi ngờ gì nữa. Thế nhưng, tính huyền thoại trong cuộc đời thơ của ông, dù nó chưa kết thúc, xem ra lại bị thiên lệch so với mục tiêu đích thực của thơ ca. Dù rất cần những thành công hiện hữu nhưng đã là một thi sĩ chân chính thì không thể đặt mục tiêu chỉ sống đồng tuổi với sáng tạo. Trong thơ E. Evtushenko, tỉ lệ giữa tính nhất thời và tính muôn đời lại quá nghiêng về cái thứ nhất. Ông thuộc về thời ông đã sống hơn là tương lai. Thời cuộc thay đổi, thế là giọng thơ hùng hậu của ông đã không còn trở nên cần thiết nữa. Khi Bulat Okudzhava viết: “Evtushenko là cả một thời đại” thì câu này có thể hiểu theo hai nghĩa: hoặc tốt (nếu thời đại ấy trường tồn), hoặc không tốt (nếu thời đại ấy yểu mệnh).

Tới tuổi “tri thiên mệnh”, hơn ai hết, E. Evtushenko đã hiểu ra chân lý đó khi ông từ Mỹ quay trở về nước Nga tổ chức những đêm thơ tác giả. Các sân vận động mà ngày xưa ông từng ngự trị nay đã trở thành nơi làm ăn quen thuộc của các ngôi sao rock-pop bạo phát bạo tàn. Và những công trình thuỷ điện mới thì lại không cần tới những bản trường ca cũng như nhà thơ có khả năng viết nên những bản trường ca đó. Ai cũng vậy, không thể tuần chay nào cũng có nước mắt. Vậy nên các nhà thơ, đừng bao giờ quá mải mê chạy theo số đông một cách mù mờ và vị kỷ!.

Minh Huyền/Vanvn.vn

Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

 

Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn

6 Tháng Ba, 2021

Từ những tìm tòi mang tính truyền thống, Mai Văn Phấn bước thẳng sang khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa và cả hậu hiện đại chủ nghĩa, nhưng dường như vẫn chưa dừng lại trong những say sưa kiếm tìm, lật trở. Thế giới nghệ thuật thơ ông là một cấu trúc phức tạp, đa diện, liên tục biến đổi. Nó gây ấn tượng bởi sự nhất quán trong quan niệm sáng tạo, tính toàn khối và khả năng “bắt sóng” với nhiều chiều không gian thơ khác nhau…

1. Tôi muốn bắt đầu về Mai Văn Phấn bằng một hình ảnh trong chính thơ ông: Anh là con cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động (Ngậm em trong miệng)… Ở đây, điều tôi muốn nhấn mạnh không phải vẻ đẹp siêu thực của hình ảnh con – cá – thơ, dù đấy là kiểu tạo hình rất ấn tượng, mà là cái hành động quyết liệt “rời bỏ bầy đàn” của nó. Thực chất đấy là một tuyên ngôn về hành vi sáng tạo, nơi đòi hỏi tính cá nhân luôn phải được đẩy lên thành phẩm chất hàng đầu. Viết, do đó, chính là hành động rời bỏ đám đông, đồng thời cũng là hành động rời bỏ chính mình. Đó là một quá trình liên tục “vong thân” với những bước ngoặt trong quan niệm, tư tưởng nhằm hướng đến bản chất thơ. Với quan niệm “sáng tạo đồng nghĩa với việc khai sinh một thế giới riêng biệt”, hành trình phủ định/ tự phủ định ấy ở Mai Văn Phấn diễn ra liên tục và ráo riết, vừa như một vẫy gọi, vừa như một thách đố. Điều này đương nhiên đem lại cho tác phẩm những bất lợi mà rõ ràng nhất là khó (thậm chí là không) tạo nên sự “đồng cảm, đồng điệu” của đám đông người đọc, vẫn là một trong những tiêu chí đánh giá phổ biến về thơ hiện nay. Nhưng bù lại, nói như một nhà phê bình, tác giả có được sự cô đơn cần thiết để tự tin và tự do kiến tạo thế giới tinh thần riêng của mình. Do đó, đọc thơ Mai Văn Phấn là “đọc” một thế giới nghệ thuật khá đặc thù, được kiến tạo theo những nguyên tắc và phương tiện thể hiện không quen thuộc, gay gắt đòi hỏi người đọc một ý thức, một quan niệm tiếp cận mới.

2. Trước hết, hãy thửquan sát các chặng đường thơ Mai Văn Phấn theo sự vận động lịch sử của nó. Bằng cách này, ta sẽ thấy thơ ông là một sự chuyển động liên tục với những tìm tòi thi pháp đa dạng. Một khi quan niệm sáng tạo là nhằm hướng đến “sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định giá”, tác giả không ngại tìm kiếm và dung nạp những cách nghĩ, cách viết mới, hiện đại, tạo nên sự giãn nở liên tục và khá rộng rãi trong biên độ sáng tạo.

Trên thực tế, hoàn toàn có thể chia sáng tác của tác giả này thành nhiều chặng, như chính ông đã thực hiện trong tuyển thơ của mình, bởi những khác biệt tương đối rõ về mặt thi pháp. Trong các sáng tác trước 1995, quả thực Mai Văn Phấn đã có ý thức khác đi – so với chính ông và với người khác. Tính truyền cảm của thơ được xây dựng chủ yếu trên cơ sở lạ hóa các ẩn dụ, đem lại mĩ cảm khá mới mẻ so với thời điểm của chúng, chẳng hạn: Tàn mùa chiếc lá lia qua/ Cho cô đơn ấy xẻ ra mấy phần… Không ít bài thơ giai đoạn này đạt đến vẻ đẹp chuẩn mực cổ điển, chẳng hạn Thuốc đắng, Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc, Em gái đi lấy chồng…,  Song, nhìn chung những nỗ lực tìm tòi của ông vẫn chưa đi xa hơn hệ hình thi pháp truyền thống.

Từ 1995 đến 2000, thơ Mai Văn Phấn cách tân thi pháp mạnh mẽ (dù trong một số tác phẩm, vẫn thấy khá rõ tính chất “giao thời”, chẳng hạn trường ca Người cùng thời). Khát khao nhận thức hiện thực ở “bề sâu, bề sau, bề xa” buộc ông phải đổi mới cách nhìn, cách lí giải về hiện thực. Mang đậm dấu ấn hiện đại chủ nghĩa, thơ Mai Văn Phấn giờ đây có khi chỉ là những “Dàn ý” hay “Bài tập mùa xuân”, hoặc những ý tưởng bất chợt “đến trong ý nghĩ”. Những câu chữ bề bộn, chảy tràn trang, phá vỡ ranh giới thơ và văn xuôi, không hề có dấu câu, miên man như “những ý nghĩa không sắp đặt”, “không quán tính”, “đảo lộn mọi quy ước phổ thông”. Trong những tổ chức ngôn từ chừng như phi logic, nhà thơ đang đến gần hơn với tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh.

Trong những sáng tác từ sau 2000 đến nay, thi pháp thơ Mai Văn Phấn, “cập nhật” những khuynh hướng sáng tạo mới mẻ của thế giới, tiếp tục biến đổi sâu sắc. Thay cho cái nhìn mang tính “nhất phiến” trước đây là một cái nhìn “phân mảnh” đầy hoang mang và bất an, “sản phẩm” của một thời đại cũng đầy bất an và biến động. Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Không thể tin, Quay theo mái nhà, Anh tôi, Đúng vậy, Chỉ là giấc mơ, Còn cậu hãy đứng đằng kia… phản chiếu một cái nhìn nghịch dị, hài hước, không kém phần tỉnh táo về một thế giới bị xô lệch, con người bị biến dạng, trở nên méo mó, không khác gì những sản phẩm “chế tác từ đồ phế thải”. Những thủ pháp viết theo lối hậu hiện đại được áp dụng khá hiệu quả, dù một số tác phẩm vẫn còn dáng dấp thử nghiệm.

Song, bên cạnh việc tích cực dung nạp những bút pháp, kĩ thuật viết mới, phức tạp, càng ngày nhà thơ càng ý thức hướng đến một lối viết “tự nhiên/ như đi trên đất”, giản dị, “thuần Việt”, vượt lên sự gò ép của áp lực lí thuyết và kĩ thuật. Trong những sáng tác như Những bông hoa mùa thu, Cửa mẫu, Hình đám cỏ…, và gần đây nhất là tập Vừa sinh ra ở đó, cho thấy khá rõ tư tưởng thẩm mĩ đó.

Có thể thấy thơ Mai Văn Phấn là một hành trình liên tục cách tân, tìm tòi. Vượt lên những hạn chế nhất định, mỗi giai đoạn sáng tác của ông đều ghi dấu bằng những tác phẩm đáng chú ý. Ý thức học hỏi nghiêm túc hướng về những nền thơ lớn trên thế giới, đặc biệt là thơ Âu – Mỹ hiện đại, cộng với “tham vọng” hướng tới xây dựng một tiếng thơ Việt “thuần khiết” là động lực thúc đẩy ông không ngừng hăng hái tìm kiếm và thử nghiệm. Dĩ nhiên, song song với việc tiếp thu có chọn lọc là ý thức xây dựng một thẩm mĩ quan cá nhân độc lập. Bởi vậy, thế giới thơ ông dù biến đổi hết sức đa dạng song vẫn rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về cái mới, không hoàn tất, khép kín mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn dịch đa chiều.

3. Bên cạnh tính động và mở, thế giới thơ Mai Văn Phấn còn bị/ được chi phối bởi một nhãn quan nhân sinh – thẩm mĩ khá đặc biệt. Trong một tư duy mang tính phổ quát, ông muốn tái hiện thế giới trong những quy luật sinh hóa vĩnh cửu, trong sức mạnh bất tận và vẻ đẹp bí ẩn khôn cùng của sự sống, trong sự gắn kết dục tính sôi nổi và lạ lùng của vạn vật. “Nhãn quan phồn sinh” này đã biến thơ Mai Văn Phấn thành một thế giới tràn đầy nhục cảm, tình yêu và năng lượng nẩy nở.

Hãy chú ý những hình tượng như mùa màng, đất đai, cánh đồng, sự gieo trồng, sinh nở… – chúng có một sức hút lạ thường với nhà thơ, cho dù ông hoàn toàn không phải kiểu tác giả “chân quê” thường thấy. Không đơn thuần là biểu trưng của nền văn minh lúa nước hay những giá trị văn hóa cổ truyền, với Mai Văn Phấn, chúng tượng trưng cho sự sống phồn thực, bất tận, vĩnh hằng của thế giới. Cho nên cái khát khao “nhân danh đất đai” đã biến thơ ông thành một “bài hát mùa màng” bất tận. Ở đó, đất mỡ màu quyện rạng đông dâng lên khuôn mặt/ dâng lên cỏ cây phồn thực bời bời/ Những mùa tái sinh trổ đòng chín rục/ Sấm nổ vang trong lòng tay mầm hạt/ Vòng phù sa tươi ròng ấp ôm thớ đất… Ở đó, hình ảnh hạt giống, mầm cây và hành động ươm mầm, gieo trồng, nảy nở… trở thành những tượng trưng nổi bật: Gieo mình xuống phù sa/ bàng hoàng nghe tách vỏ/ Ủ chân thật vào giữa/ Chờ mùa xuân nảy mầm; Nhắm mắt ngọn đồi gió/ Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi; Vờn trên đất/ Chớp sáng nứt vỏ/ Mùa xuân trào miệng hạt v.v. Từ góc nhìn này, đời sống thế nhân cũng được hình dung như một cánh đồng phồn sinh màu mỡ, tươi tốt. Thậm chí những tin nhắn điện tử cũng được hình dung như những “vụ mùa bội thu” nối kết tâm hồn người, làm nảy nở sự giao hòa, giao cảm  “trong veo, ấm áp”. Và giọng nói của “em” qua điện thoại, một phương tiện thông tin hiện đại, “rất trong và nhẹ” có thể “mở những vỉa tầng linh thiêng trong đất ấm, con sông chảy vào quang gánh, làng mạc phồn sinh tháp dựng, cánh đồng tươi tốt trên xe cộ” (Nghe em qua điện thoại)…

Trong cảm hứng về mùa màng và sự sinh nở, hình ảnh Em được tô đậm  như hiện thân của đất đai, mùa màng, sự tươi tốt: Em chợt hiện/ Từ hương thơm trái chín/ Trong dập dờn bãi ngô mùa thụ phấn/ Lá giật mình/ Cá lặn xuống chân/ Hút mãi về em/ Từng hơi thở đất/ Anh hạn hán/ Cơn mưa chiều tất bật (Nỗi nhớ mùa thu)... Với Mai Văn Phấn, Em vừa là người vợ, người mẹ, vừa là người bạn tình. Và Em cũng là hóa thân của Mẫu, người mẹ thiên nhiên cao cả, vô lượng: Mẫu nâng niu con ánh trăng/ Tiếng chuyền cành, tiếng hú/ Da thịt con yêu trải sâu đêm tối/ Dựng tầng mây mưa nguồn… Từng chồi chân tay bé xíu/ Bật nhẹ trong cơ thể Người/ Con tỉnh giấc (Cửa Mẫu)… Một điều đáng lưu ý là, dẫu mang đậm tính “tụng ca”, cái nhìn về giới nữ ở đây vẫn khá… tỉnh táo. Thậm chí đôi khi mang sắc thái hài hước (điều hơi hiếm gặp trong thơ lãng mạn chủ nghĩa), chẳng hạn: Anh là con sam bơi quanh bàn ăn xếp đầy thực phẩm. Theo nghi lễ loài sam, trước khi ăn anh luôn đưa thức ăn lên cao. Luôn nhớ em trên lưng, con sam cái khổng lồ bao trùm mặt đất…Có lúc quên lời em dặn. Nhưng đã thành bản năng, anh lại bơi đi và đưa thức ăn lên cao (Những bông hoa mùa thu)… Nhãn quan thẩm mĩ này khiến cho hình ảnh người nữ của ông thoát ra khỏi những mô hình khuôn sáo, trở nên hiện đại, mới mẻ và… thú vị.

Nhìn thế giới qua lăng kính phồn sinh, tất yếu tình yêu của con người, của vạn vật trở thành một biểu tượng đẹp nhất, mãnh liệt nhất. Quan niệm này cũng khá gần gũi với Xuân Diệu, người được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình” trong thơ Việt hiện đại. Tuy nhiên, sự nồng nàn nhục cảm của Xuân Diệu chủ yếu bộc lộ trong những hành động thụ hưởng trực tiếp, cụ thể như ôm, riết, thâu, say… Và tình yêu Xuân Diệu, dù say đắm bao nhiêu, chủ yếu là trong mơ mộng, tưởng tượng, hoặc nói cách khác, chủ yếu là… “mời yêu”. Thơ Mai Văn Phấn cũng đậm màu sắc nhục cảm, thậm chí hơn thế, là tính dục. Nhưng dục tính nồng nàn trong thơ ông đã được đẩy tới những hình ảnh mang tính tượng trưng phổ quát: Cuộn chảy/ trong tiếng gào những dải phù du/ đáy sông quặn thắt chưa hết sáng/ Hoàng hôn ngậm chặt ánh ngày/ lửa co giật / sục sôi mầm nụ/ đỉnh cây ngùn ngụt bốc cao (Đất mở); Ngựa thở dốc/ bời ngợp cảm giác cỏ/ chùm lưỡi dìu nhau đứt cuống/ xuyên qua tim lăn vào đât tơi/ nở những bàn tay sau lưng tươi tốt (Được quyền nghĩ những điều đã ước) v.v. Đặc biệt trong thế giới đó, người đàn ông không chỉ nồng nàn yêu mà còn sẵn sàng hóa thân thành đất đai xứ sở để đón nhận sự gieo trồng từ người đàn bà: Anh mơ được em gieo trồng trên ngực/ bàn tay dịu dàng vun vào da thịt/ Hôn lên tai anh lời chăm bón thì thào/ Anh cựa mình nồng nàn tơi xốp (Bài ca buổi sớm)… Điều này quả hiếm lạ bởi trong nhiều nền văn hóa và truyền thống thơ ca, hình tượng đàn bà, chứ không phải ngược lại, mới thường được đồng nhất với đất đai, mùa màng, sự sinh nở. Song đấy là một sự lạ cần thiết. Nó phơi lộ cái góc khác thường trong bản thể tinh thần cái tôi Mai Văn Phấn –“Người đàn ông mang linh hồn mẹ Đất” (thơ Nguyễn Lương Ngọc).

Với Mai Văn Phấn, dục tính là biểu hiện của sự sống tự nhiên nguyên thủy lành mạnh và thuần khiết. Đó là hiện thân của sự hòa hợp tột cùng giữa Âm và Dương, Trời và Đất, Ánh sáng và Bóng tối, Nước và Lửa… – khởi thủy sinh thành thế giới. Nó mang quyền năng của sự thật, và vì nó là cái Thật nên nó cũng là cái Đẹp. Nhà thơ xem hành động tính giao trong tình yêu như một nghi lễ xiết bao kì vĩ và thiêng liêng: Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa. Từ lửa làm ra Thổ, ra Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung (Anh anh em em)…  Nhìn từ quan niệm này, ta sẽ hiểu vì sao thơ ông xuất hiện rất tự nhiên hình ảnh “con cá động dục lóe sáng mặt nước” hay “đàn sẻ nâu vội vàng giao hoan chớp mắt”. Cũng sẽ hiểu vì sao thơ ông “hiện diện” cả những cơn “ức chế thèm khát”, “lay giật tả tơi cho đã cơn hưng phấn điên cuồng” như từng bị phê phán. Thực chất, đó là hệ quả của cái nhìn thế giới trong mối quan hệ giao tình, khởi nguồn thiêng liêng của sự sống, sự sinh sôi, nảy nở. Xem những cuộc hôn phối của vạn vật chính là hóa thân sống động của quy luật mùa – màng – vũ – trụ, nhà thơ tin:

Bó gối những gốc cây

Nhắm mắt ngọn đồi gió

Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi

Ngày mai mặt đất này

Và thế giới sẽ đổi khác

(Mùa trăng)

4. Tích cực tiếp thu kinh nghiệm sáng tác của những trường phái thơ hiện đại chủ nghĩa, Mai Văn Phấn đặc biệt chú ý đến tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh trong sáng tạo. Người nghệ sĩ khát khao lí giải về thế giới trong chiều sâu bản chất của nó, đằng sau cái hiện thực bề mặt được nhìn thấy; mối liên hệ “âm u và sâu xa” giữa những hiện tượng tưởng chừng rời rạc, xa lạ; cái logic của đời sống trong những biểu hiện dị thường tăm tối, thậm chí phi lí, nghịch dị… Tất nhiên, điều này đòi hỏi người viết một cách nhìn khác về thế giới và cùng với điều đó, là một cách viết khác. Tồn tại trong thơ Mai Văn Phấn, do đó, là một thế giới đậm tính siêu thực.

Mơ, mộng, tưởng tượng – như là biểu hiện cụ thể nhất của thế giới siêu thực ấy, xuất hiện khá dày trong thơ Mai Văn Phấn. Từ những cảm giác, trạng thái cá thể của cái tôi nhà thơ, chúng đã được đẩy tới thành một trạng thái tồn tại phổ quát của thế giới, trong đó, như một câu thơ ông viết – con cá nghiền nát lưỡi câu đảo lộn trật tự thời gian – mọi trật tự thông thường đều bị đảo lộn. Dĩ nhiên, sự “đảo lộn” trật tự bề mặt này nhằm đạt tới một trật tự khác, ở bề sâu của nó, nơi tồn tại những cảm giác siêu nghiệm không thể kiểm chứng bằng kinh nghiệm nhưng lại được “chứng ngộ” bởi trực giác, tâm linh. Chiều sâu tri giác này giúp con người nhận ra những vẻ đẹp đầy quyến rũ, ma mị, bí ẩn của thế giới mà một cái nhìn lí tính thông thường khó lòng đạt tới. Nó giúp con người lặn sâu xuống đáy bản thể để nhận ra sự tồn tại đích thực của mình giữa thế giới, như một bông hoa: Tóc và vai tôi màu trắng/ Chiếc cuống/ Bắt đầu ngả vàng… một cái cây: Không cần nước/ Tôi mọc cây non trên sa mạc…  một quả trứng: Rũ lớp vỏ ánh sáng/ Tôi mở mắt đứng lên… Và khi biết dứt bỏ tạp niệm, trở nên trong suốt, khi ấy, vũ trụ và Tôi là một: Không khô cứng/ Không còn sắc nhọn/ Tôi bình đẳng/ Hòa trong thế giới… Hướng tới những cảm giác siêu nghiệm, ngòi bút Mai Văn Phấn đặc biệt chú ý tới những trạng thái dịch chuyển mơ hồ, những phức hợp cảm giác mong manh, sự tương giao lạ lùng giữa hình ảnh, âm thanh, đường nét, sắc màu… Càng ngày, ý niệm màu sắc, âm thanh trong thơ ông càng tinh, đạm và đơn. Tinh thần hướng tới sự thuần khiết ấy đặc biệt rõ trong tập thơ vừa xuất bản – Vừa sinh ra ở đó. Phải chăng đấy là những phương tiện hữu hiệu để khơi gợi nên cảm giác về một đời sống khác, một hiện thực khác, huyền hoặc, thiêng liêng, vẫn tồn tại song song với cái hiện thực bề mặt, dù không hiển lộ?

Rất khó để nhận ra dấu ấn “hiện thực xã hội” cụ thể trong thơ Mai Văn Phấn. Không phải vì ông thiếu tinh thần công dân hay thờ ơ với thế sự mà vấn đề nằm trong quan niệm tác giả. Những nhận thức mới về hiện thực và sự sáng tạo khiến ông “chán ngán” những lối mòn nệ thực, thúc đẩy ông tìm cách viết khác, đa nghĩa hơn, ám ảnh hơn. Có thể thấy rõ điều này trong Biến tấu con quạ, một tác phẩm được viết bằng nhiều thủ pháp hiện đại. Con quạ – kẻ báo hiệu cái chết đen tối trong thơ E. Poe – qua sự “biến tấu” của Mai Văn Phấn, trở thành một biểu tượng trùng phức với sự song hành của nhiều ý nghĩa đối nghịch: sự chết chóc/ sự khai sinh, tái sinh; sự kết thúc/ sự bắt đầu; Kẻ phá hoại/ Đấng tái tạo; cái ác/ cái thiện; sự hủy diệt/ khởi đầu mới… Bài thơ là một “cái nhìn nghiêng” về hiện thực, trong đó lịch sử, chính trị, văn hóa, nghệ thuật và cả đời sống con người dồn tụ lại trong một độ nén dị thường. Được nhìn nhận trong sự bất thường, đầy mâu thuẫn, đối lập, đời sống hiện lên có lúc xa lạ đến kì quái: Khai sinh/ khi quả chuông rơi xuống bất ngờ/ chụp lên đầu người bõ già/ con cá nhảy vào đám mây tự vẫn/ buông ngang trời ngàn vạn lưỡi câu/ Khai sinh/ Mực đổ dưới chân và máu/ vón cục ở yết hầu, phế quản/ viết một nét lên trang đầu/ thấm suốt cả ngàn trang sách/… Nhà thơ trú trong bóng râm/ từng con chữ bị khoét mất mắt… Những hình ảnh nghịch dị làm bật lên nhận thức về cái phi lí như một tồn tại tất yếu của đời sống: Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc vào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ… Rõ ràng, vượt lên kiểu tư duy “nệ thực”, nhà thơ muốn hướng đến một cách diễn tả khác, giàu tính tượng trưng, siêu thực, nhằm nhận thức hiện thực trong chiều sâu bản chất của nó, một bản chất đầy đối nghịch, mâu thuẫn, bất toàn. Trong nhiều bài thơ khác, chẳng hạn Không thể tin, Quay theo mái nhà, Hắn, Dạy trẻ con, Hội chứng từ một tin đồn, Chỉ là giấc mơ, Ở những đỉnh cột, Nếu, Cái miệng bất tử,… cũng cho thấy một thế giới “lộn ngược” dị hình, méo mó. Hệt như trong tranh của Salvado Dali hay Max Ernst, thế giới ấy “đem ghép lại chẳng có gì đồng điệu”. Vẫn là hiện thực, nhưng là một hiện thực lộn xộn, nham nhở, phản chiếu sự xô lệch, biến dạng của chính đời sống nhân sinh hiện đại. Đấy là hiện thực được diễn tả qua một tâm thức đầy bất an và lo âu của nghệ sĩ.

5. Trên đây, tôi đã miêu tả một số đặc điểm nổi bật của thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn. Bây giờ là lúc nói tới một vấn đề khác – cách tổ chức thế giới nghệ thuật ấy. Dĩ nhiên, đi cùng thế giới hình tượng mang tính đặc thù nói trên là một hệ thống phương thức, biện pháp thể hiện tương ứng. Trong giới hạn bài viết này, tôi sẽ chỉ phác qua một số nét cơ bản nhất và đậm chất Mai Văn Phấn nhất, theo góc nhìn cá nhân.

Trước hết, tương ứng với một thế giới động, đậm tính siêu thực, thơ Mai Văn Phấn đặc biệt chú trọng kiểu kết cấu mở. Đấy là một kiểu kết cấu hiện đại, ở đó bài thơ được tổ chức như một cấu trúc vận động, không mang tính hoàn tất, khép kín về nghĩa như trong kiểu kết cấu cổ điển.

Có thể thấy những tìm tòi kết cấu này ngay trong những tác phẩm ở giai đoạn đầu như Em xa, Dấu hiệu mùa xuân, Khúc phóng túng…và càng dày đặc hơn trong những sáng tác về sau. Thay cho cách tổ chức văn bản lớp lang, chặt chẽ, nhằm tạo áp lực quy tụ sự diễn dịch tác phẩm về một đáp số thống nhất, thơ Mai Văn Phấn thường có hình thức tổ chức thoạt nhìn khá lỏng lẻo với những liên tưởng hết sức mạnh mẽ và phóng túng. Ngay cả giữa tiêu đề và nội dung, giữa các phần, đoạn trong văn bản, chừng như cũng không có gì ăn nhập, tựa như một sự lắp ghép tình cờ, rất khó tìm thấy mối liên hệ logic bề mặt giữa chúng. Xin lấy ngẫu nhiên một tác phẩm của ông –  Mùa xuân, để làm rõ điều này. Thoạt nhìn bài thơ dường như chỉ là sự ghép nối của một vài sự kiện rời rạc: Tôi (tác giả) chỉ dẫn cho con các dấu hiệu mùa xuân. Các con tranh luận. Những câu hỏi (được in nghiêng, nhằm gây một ấn tượng thị giác). Rõ ràng, nội dung cũng như cách thể hiện của bài thơ khác xa với những gì người ta thường hình dung về “thơ xuân”. Song cách tổ chức văn bản này có ý nghĩa riêng của nó. Sự hoán đổi điểm nhìn khiến ta có thể quan sát toàn cảnh từ điểm nhìn của Tôi – nhân vật trữ tình, đồng thời vừa có thể “nhập thân” để nhìn thế giới từ một con mắt khác – con mắt của những đứa trẻ. Ở đây, tiêu đề bài thơ chính là một “luận đề” ngỏ. Nó cho thấy sự tương phản giữa những tư tưởng giáo điều cằn cỗi và sức sống vô cùng của thực tế đời sống, của trí tưởng tượng… Như vậy, sự “phi logic” này chỉ là bề mặt, nó nhằm để hướng tới cái logic bề sâu của sự vật, hiện tượng. Dĩ nhiên, kiểu tổ chức văn bản này luôn gây ra những hiệu ứng ngược chiều. Một mặt nó “gây nhiễu”, khiến người đọc không khỏi hoang mang khi muốn tìm ra cái đáp án quy tụ mọi hình ảnh, câu chữ chừng như tứ tán, hỗn loạn trên vào một ý nghĩa đơn nhất. Nhưng mặt khác, nó giải phóng trí liên tưởng, tưởng tượng, “vẫy gọi” những cách lí giải khác nhau về tác phẩm. Rất nhiều bài thơ xuất sắc của Mai Văn Phấn được tổ chức theo hình thức này, chẳng hạn Mùa trăng, Đỉnh gió, Những bông hoa mùa thu, Biến tấu con quạ, Ghi ở Vạn Lý Trường Thành, Anhanhemem, Cửa Mẫu…

Xa hơn, nỗ lực tìm kiếm, nắm bắt tiếng nói vô thức, tâm linh, vốn “bất tuân” mọi khuôn khổ, trật tự hữu lí, cũng làm xuất hiện trong thơ Mai Văn Phấn những đặc điểm văn bản khác lạ. Chẳng hạn trong Mười bài tập mùa xuân, câu chữ không hề bị/ được phân chia bởi những dấu hiệu cú pháp thông thường, chúng đổ tràn sang nhau, xóa mờ những ranh giới hình thức định mệnh. Hình thức trình bày này tự nó ám gợi cái mạch ngầm sự sống lưu chuyển miên viễn, bất tận, không ngừng nghỉ. Nhưng ngược lại, nó có thể (mà thực tế là đã) gây phản ứng gay gắt về sự “tối tăm”, “vô nghĩa”… Thật ra, đây là những vận dụng theo lối viết tự động của chủ nghĩa siêu thực (mà trước đó, Hoàng Hưng cũng từng thử nghiệm trong loạt Thơ vụt hiện). Hình thức văn bản này đã trao cho độc giả quyền tự do tối đa trong việc lựa chọn cách đọc, mà thực chất là lựa chọn cách diễn dịch tác phẩm.

Nhu cầu đào sâu, mở rộng, làm đa dạng hóa tiếng nói tinh thần cá nhân hiện đại trong thơ cũng tạo nên xung lực mạnh mẽ làm “rạn vỡ” đường biên ranh giới thể loại thơ – văn xuôi trong sáng tác của Mai Văn Phấn. Chỉ cần nhìn trên hình thức tổ chức văn bản của các tác phẩm cũng dễ dàng nhận ra điều này, chẳng hạn Viết cho cây sáo, Bừng tỉnh trên tàu, Kí sự mùa thu, Giải pháp, Bến cuối, Di chứng, Vòng cung thời gian, Những ý nghĩ không sắp đặt, Niệm khúc số 18, Dấu vết, Quay theo mái nhà, Nghe tin bạn bị mất trộm, Nghe em qua điện thoại, Nhắm mắt, Anh tôi, Dạy trẻ con, Hắn… Nhiều bài thơ của ông sử dụng hình thức cốt truyện đơn giản, tuy nhiên, tính chất của chúng rất khác so với những bài thơ mang tính truyện của chủ nghĩa lãng mạn. Thứ nhất, chúng không được “trưng dụng” cho mục đích trữ tình nồng nàn như trong Hai sắc hoa ti gôn (TTKH) hay Mưa xuân (Nguyễn Bính), ở đây chủ yếu là những tình huống nhận thức, chúng được xây dựng nhằm đem lại một cảm giác mới, một thức nhận mới về đời sống. Thứ hai, nếu như trong các bài thơ lãng mạn vừa nêu, thường những “câu chuyện” được kể lại theo một trình tự khá rành mạch thì trong những bài thơ của Mai Văn Phấn, tính chất đứt đoạn, đứt mạch là khá rõ. Đi cùng đặc điểm này là hiện tượng song hành, xen kẽ những “tiếng nói” chừng như đối nghịch, lạc điệu trong cùng một văn bản, tạo nên tính chất “đa thanh” khá đặc biệt (chẳng hạn trong Anh tôi…). Thứ ba, tính nghịch dị, giễu nhại trong các tác phẩm của Mai Văn Phấn khá đậm nét, chúng đem lại một kiểu chất thơ hậu hiện đại thú vị, kích thích mạnh mẽ những suy ngẫm, liên tưởng đa chiều, đa cực… Có thể nói sự xóa mờ tối đa đường biên ranh giới thể loại thơ – văn xuôi khiến thơ Mai Văn Phấn có khả năng diễn tả khá đa dạng và linh hoạt, sinh động nhiều vấn đề của đời sống nhân sinh hiện đại. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhà thơ cũng cân bằng được chất thơ/ chất văn xuôi trong tác phẩm. Cách thuật sự lớp lang, cụ thể trong Bừng tỉnh trên tàu, Kể lại giấc mơ hay sự tỉ mỉ của chi tiết trong Dạy trẻ con chẳng hạn, có thể đem lại những ấn tượng thông tin xác thực, song chính chúng lại làm mất đi những khoảng trống và độ mờ thẩm mĩ, vốn là yếu tố quan trọng để tạo nên chất thơ của tác phẩm.

Cùng với xu hướng “văn xuôi hóa”, trong thơ Mai Văn Phấn đồng thời xuất hiện xu hướng ngược lại – giảm thiểu triệt để số lượng từ ngữ trong văn bản. Sự tối giản này được thể hiện tập trung trong hoa giấu mặt, tập thơ mang đậm tinh thần tượng trưng, trong đó mỗi sinh thể dù bé nhỏ nhất đều có mối liên hệ “tương giao” sâu sắc với toàn thể vũ trụ rộng lớn. Được viết theo thể haiku với mỗi bài chỉ có ba dòng, điều này buộc các ý tưởng thơ phải được cô đặc, dồn nén cao độ. Không có điều kiện đi sâu hơn, tôi chỉ muốn nói thêm rằng, trên phương diện hình thức, những xu hướng trái ngược này cũng cho thấy khá rõ nhu cầu nhận thức hiện thực một cách đa chiều của người viết.

Một yếu tố quan trọng tạo nên vẻ đẹp siêu thực của thế giới thơ Mai Văn Phấn là các hình ảnh – biểu tượng. Thoạt nhìn, chúng khá đơn giản, như được “cắt” ra từ đời thực, quen thuộc và gần gũi. Tuy nhiên, được tạo hình theo nguyên tắc “ảo hóa”, chúng luôn đem lại những ấn tượng thẩm mĩ khác thường. Quan niệm thế giới trong tính đa chiều và sự biến ảo bất tận chính là cội nguồn khơi mở mạch liên tưởng, tưởng tượng mạnh mẽ  của tác giả. Trên thực tế trong thơ Mai Văn Phấn tồn tại hai tuyến hình ảnh – biểu tượng đối lập. Trước hết là tuyến hình ảnh tượng trưng cho cái Đẹp cao cả, thuần khiết, cụ thể là thiên nhiên (thể hiện ở đất đai, cây cỏ, gió, trăng…); và con người, tập trung ở hình tượng Em (cái nhìn “tôn vinh” nữ giới này, thật ra, cũng khá quen thuộc trong thơ hiện đại). Tương ứng với tuyến hình ảnh này là những biện pháp tạo hình theo hướng siêu thực – lãng mạn. Hãy thử đọc lại Ngậm em trong miệng – đó là một biểu tượng tình yêu đầy thi vị và hư ảo: Bình yên trong miệng anh/ Em thúc nhẹ bờ vai/ Vòm ngực ngón chân vào má/ Huyên thuyên và hát thầm/ Hồn nhiên cho lưỡi và răng anh chạm vào cơ thể… Những hình ảnh siêu thực này gợi liên tưởng đến Tình nhân của Paul Eluard: Em đứng trên mi mắt anh/ Tóc em nằm trong tóc anh/ Em có dáng hình giống như hai bàn tay anh/ Em có sắc màu của đôi mắt anh/ Em chìm ngập trong bóng anh/ Như một phiến đá ở trên trời… Đối lập lại là tuyến hình ảnh kì quái, nghịch dị, thể hiện phần thế giới bị tha hóa, biến chất. Đó là hình ảnh cái miệng đang trôi “không phát ra tiếng động/ chỉ hiện lên một đoạn phim câm”, cái lưỡi “bị thắt/ treo lên đỉnh cột/ mỗi lần nói/ chiếc lưỡi phải rút/ kéo thân thể béo ị lên cao” (gợi nhớ đến bức tranh Tiếng thét của Munch), những đứa trẻ “nghẹn ngào nước mắt chảy vào trong”, giấc mơ của con chó, con gián “kiếp trước từng là người đàng hoàng” (mang âm hưởng Biến dạng của F. Kafka rất rõ)… Đó là kết quả của một cái nhìn nghiệm sinh bi đát nhưng không kém phần chua chát và hài hước về trạng thái tha hóa của nhân sinh. Tương ứng với tuyến hình ảnh này là những biện pháp tạo hình theo lối siêu thực – nghịch dị. Các hình ảnh – biểu tượng thường được “chạm khắc” bằng nhiều chi tiết tỉ mỉ, cụ thể, rậm rạp (thậm chí nhiều khi quá rậm rạp), liên tục biến hóa. Có những hình ảnh được xâu chuỗi qua nhiều tác phẩm, chẳng hạn hình ảnh “hắn” trong Hắn, Đến trong ý nghĩ…  – một hình nhân ma mãnh, kì dị, âm bản của một cái tôi “tỉnh táo tột cùng”… Sức mạnh, độ bền và độ dồi dào của mạch liên tưởng, tưởng tượng – ấy là thế mạnh của Mai Văn Phấn, dẫu trong một số trường hợp, nó cũng gây “phản ứng phụ” là tình trạng “rậm lời”, rắm rối.

6. Từ những tìm tòi mang tính truyền thống, Mai Văn Phấn bước thẳng sang khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa và cả hậu hiện đại chủ nghĩa, nhưng dường như vẫn chưa dừng lại trong những say sưa kiếm tìm, lật trở. Thế giới nghệ thuật thơ ông là một cấu trúc phức tạp, đa diện, liên tục biến đổi. Nó gây ấn tượng bởi sự nhất quán trong quan niệm sáng tạo, tính toàn khối và khả năng “bắt sóng” với nhiều chiều không gian thơ khác nhau. Nói đến thơ Mai Văn Phấn là nói đến cái nội lực chi phối tổng thể, cái “từ trường thẩm mĩ” được tạo ra hơn là các câu chữ riêng lẻ. Bởi vậy, thật không dễ cho người đọc – trong đó có tác giả bài viết này – khi tiếp cận, lí giải. Nhưng một khi vượt qua định kiến của thói quen thẩm mĩ, chấp nhận những quy ước mới của “luật chơi” sáng tạo vốn vô cùng đa dạng, có lẽ ta sẽ được đền bù xứng đáng. Ít nhất, trải nghiệm đọc ấy cũng giúp ta nhận ra sự rộng rãi không cùng của không gian sáng tạo và vẻ đẹp của sự phong phú trên những hành trình tinh thần của con người. Dứt khoát không “quay vái lạy chiếc áo vừa treo trên giá”là một thái độ sáng tạo tích cực, thể hiện một tư duy lí tính tỉnh táo, rất cần thiết cho người viết hiện đại. Nó giúp tác giả mạnh mẽ vượt qua sức ỳ của quán tính cầm bút, liên tục làm mới cách nhìn, cách viết. Tuy nhiên, điều này cũng tiềm ẩn những nguy cơ nhất định. Sự đa dạng của những hướng tìm tòi có thể khiến tác giả có thể khó đẩy tới “tận bờ sát góc” hướng bứt phá trọng tâm. Mặt khác, niềm say mê cao độ trong việc tìm kiếm và vận dụng những phương thức, thủ pháp tân kì cũng có thể gây ra tình trạng kĩ thuật áp chế tiếng nói tự nhiên của xúc cảm. Khát khao “gọi tên sự tù mù lẫn sự sáng” không phải lúc nào cũng có thể thực hiện, nhất là bằng chiếc “công tắc” lí trí.

Không ngừng quyết liệt làm mới mình, để mỗi lần xuất hiện là một lần phải khác, Mai Văn Phấn đang đầy năng lượng và tự tin trên hành trình “quẫy vào biển động” của mình. Và thách thức là phẩm chất đầu tiên và không thể thiếu của cái Đẹp mà ông kiếm tìm… 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn (cùng tiểu luận và trả lời phóng vấn), Nxb Hội nhà văn.

2. Mai Văn Phấn (2012), hoa giấu mặt, Nxb Hội nhà văn.

3. Mai Văn Phấn (2013), Vừa sinh ra ở đó, Nxb Hội nhà văn Việt Nam.

4. Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công (2011), Đình Kính tuyển chọn, Nxb Hội nhà văn.

Vinh, 13/12/2013

Lê Hồ Quang 

Vanvn.vn

Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

 

Có phải nhà văn Hemingway chết vì hoang tưởng?

6 Tháng Ba, 2021

Khi đại văn hào Mỹ Ernest Hemingway quyên sinh vào năm 1961, cả thế giới “sốc nặng”! Suốt hàng thập kỷ đã có khá nhiều giả thuyết xoay quanh những lý do thực sự phía sau việc này.

Một số người cho rằng nhà văn lâm vào túng bấn tiền bạc, số người khác lại nói rằng ông gặp trắc trở về hôn nhân, và cũng có những ý kiến bóng gió cho rằng ông có thể đã mắc bệnh ung thư.

Vào năm 2011, ông Aaron Edward Hotchner, người viết tiểu sử của nhà văn và cũng là bạn tri kỷ của Hemingway đã đưa ra lời giải thích nghe có vẻ khả thi nhất cho đến thời điểm này.

Theo ông Hotchner, văn hào Hemingway đã đối mặt với 2 thử thách lớn lúc cuối đời. Đầu tiên là có lời bàn ra tán vào rằng những năm tháng huy hoàng trong sự nghiệp văn chương của Hemingway đang sắp biến mất, và văn hào sẽ khó mà có thể “sản sinh” ra những tác phẩm văn học lừng lẫy như “Chuông nguyện hồn ai” (“For Whom The Bell Tolls”) hoặc “Mặt trời vẫn mọc” (“The Sun Also Rises”).

Hemingway từng có lúc thừa nhận với ông Hotchner rằng “tôi không thể hoàn thành sứ mạng cuối cùng với tư cách một nhà văn”, Hemingway cũng không quan tâm đến khái niệm “hưu trí”, văn hào cho rằng hưu trí là “vô bổ” đối với một nhà văn.

Thử thách thứ hai đã khiến Hemingway đi đến quyết định tước đoạt mạng sống mình, chính là ông luôn lo sợ bị FBI truy đuổi. Ông Hotchner nhớ lại có những lần do hoang tưởng bị FBI mò đến, nên Hemingway đã xách súng bắn vu vơ trong những năm cuối đời lúc ông sống ở khu resort biệt lập ở Ketchum (tiểu bang Idaho, Mỹ).

Ngay từ đầu năm 1959, dường như Hemingway luôn sống trong tâm trạng phập phồng lo lắng bởi ám ảnh rằng ông bị Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) bám đuôi dựa trên căn cứ có ai đó đã làm hỏng ngôi nhà và xe hơi của nhà văn.

Trong lần trả lời phỏng vấn trên tờ The New York Times, ông Hotchner nhớ lại tình huống oái oăm khi ông đến thăm Hemingway ở Idaho cùng với Forrest “Duke” MacMullen (người bạn đi săn cũ của Hemingway). Đó là tháng 11 năm 1959, và ba người lên kế hoạch đi săn gà lôi. Lúc 2 người đến nhà Hemingway, họ thấy bộ dạng của “một lão già động rồ” kiểu như “bị ma ám” ở đó.

“Lão già điên” (Hemingway) có vẻ tức khí chửi đổng: “Chúng (ám chỉ FBI) nghe lén mọi thứ. Chưa hết, trong bữa ăn tối chung với hai vợ chồng nhà văn Hemingway, khi gần ăn xong thì văn hào nháy mắt bảo hai người bạn nhanh chóng đi sớm vì theo ông có 2 gã lạ hoắc đang ngồi ở bàn gần đó, họ là điệp viên liên bang”.

Tình hình khi đó rất căng thẳng và ảm đạm. Một tháng sau đó, văn hào Hemingway phải đi điều trị tâm thần tại Bệnh viện St.Mary’s ở Rochester (thuộc tiểu bang Minnesota), nhà văn phải dùng tên giả để tránh sự chú ý của công luận. Ở St.Mary’s, Hemingway đã trải qua 11 lần áp dụng liệu pháp điều trị sốc điện, thời đó nền y học tin rằng liệu pháp sốc điện có thể giúp chữa lành các bệnh nhân tâm thần. Dĩ nhiên điều trị như thế chỉ khiến cho bệnh tình trở nặng thêm.

Không đầy 2 năm sau đó, Hemingway đã kê khẩu súng vào đầu để kết thúc cuộc đời tươi đẹp nhưng bên trong lại chứa đầy sự hỗn loạn. Nhưng sau rốt đó có phải trọn vẹn mọi lý thuyết âm mưu phát xuất từ trí tưởng tượng của một nhà văn cao tuổi không? Liệu FBI có từng theo dõi Hemingway?

Hồi tháng Giêng năm 1983, một giáo sư tiếng Anh tại Đại học Colorado, ông Jeffrey Meyers, đã sử dụng Đạo luật tự do thông tin (FIA) để lấy được một tệp tài liệu dày 124 trang do FBI lưu giữ. GS Jeffrey Meyers đã khám phá một số điều về quá khứ của văn hào Hemingway rằng nhà văn đã giữ kín những bí mật ngay cả đối với các bạn bè thân thiết của mình. Là một người chống phát xít, trong thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ II Hemingway đã thành lập một đơn vị tình báo nghiệp dư mà nhà văn gọi nó là “Nhà máy The Crook” với một mạng lưới các điệp viên trung thành với Hemingway, họ làm việc suốt ngày đêm, che giấu hành tung và mục tiêu và ngăn ngừa những kiều dân Tây Ban Nha thực hiện những ý đồ xa hơn.

Tham gia vào tổ chức tình báo này và đổi lại văn hào Hemingway nhận được mức lương hàng tháng là 1.000 USD và một số lượng lớn xăng (xăng dầu là mặt hàng khá khan hiếm vào thời chiến). Tuy nhiên, trong khi đại sứ quán Mỹ ở Cuba đang ủng hộ mạnh mẽ cho Hemingway vì những đóng góp của ông cho cuộc đấu tranh; thì một số nhân vật cốt cán trong FBI lại xem Hemingway là một thành phần thân cộng sản và vì thế đã bí mật lấy các báo cáo của nhà văn.

Vả lại, trong khoảng thời gian đó, Hemingway cũng bắt đầu phát triển chứng ác cảm đối với giới chức FBI (họ được giao nhiệm vụ giám sát các hoạt động của ông) khi văn hào gọi FBI là “Lực lượng kỵ binh sắt của Franco” và “hạng Đức Quốc xã tầm thường”. Sau khi Hemingway báo cáo về việc đã nhìn thấy tàu ngầm kẻ địch ở vùng biển Cuba, thì thông tin này lại không thể được xác nhận bởi các kênh chính thức, hoạt động tình báo của nhà văn bị đình chỉ, còn FBI tăng cường theo dõi Hemingway cùng những liên lạc của nhà văn với các cựu thành viên đảng Cộng hòa Tây Ban Nha.

Ngay cả J. Edgar Hoover (ông trùm FBI khi đó) cũng rất quan tâm đến nơi ở của Hemingway và tìm cách nhận diện nơi nào nhà văn hay ở trong suốt thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ II. Vì thế, các tập tài liệu về Hemingway đã được FBI giữ kín lúc nhà văn còn sống, và công bố ngày hôm nay cho công chúng xem. Có sự làm chứng cho rằng điện thoại của Hemingway bị nghe lén, còn các thông tin trong điện thoại đã bị giám sát. Bằng chứng chỉ ra rằng ngay cả điện thoại tại bệnh viện St. Mary’s cũng bị FBI giám sát nốt.

Nguyễn Thanh Hải/Vanvn.vn

Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Đà Lạt trong truyện ngắn Khuê Việt Trường

Đà Lạt trong truyện ngắn
Khuê Việt Trường

Đọc Đà Lạt anh yêu em
Ai cũng có một thời tuổi trẻ để nhớ về, đó là tất cả ước mơ, là hoài bão về tương lai và cả tình yêu ban đầu của thời chập chững bước vào đời. Có một thời rất nhiều chàng trai cô gái Nha Trang tuổi hai mươi đã chọn Đà Lạt làm nơi bắt đầu cho cuộc hành trình mới. Đến thành phố cao nguyên ở độ cao 1500m ấy với thông, với cỏ, ban đầu chỉ là vì chọn những ngôi trường tốt để học hành nhưng cũng từ đó đã trở thành những kí ức đẹp đẽ trong cuộc đời của họ. Để rồi nhiều năm tháng qua đi, Đà Lạt trở thành nơi chốn để quay về mỗi khi lòng thấy nhớ.
Tác phẩm Đà Lạt anh yêu em của Khuê Việt Trường
Đà Lạt anh yêu em của nhà văn Khuê Việt Trường đã viết về những năm tháng đẹp đẽ ấy. Những nhân vật trong truyện của ông bước ra từ những hoài niệm về thời thanh xuân của nhiều người. 25 truyện ngắn trong Đà Lạt anh yêu em là những chàng Huy, những cô Yến có trái tim tinh khôi với những mối tình đầu. Những mối tình nhẹ nhàng nhưng lộng lẫy với đồi thông của Đà Lạt và rực rỡ như những vạt hoa dã quì lung linh đầy nắng. Tình yêu trong Tập truyện Đà Lạt anh yêu em đôi lúc cũng lắng đọng về một sự tan vỡ nhưng chỉ để lại nỗi tiếc nhớ mà chỉ một góc đường, một căn nhà gỗ cũ cũng làm cho người ta xao xuyến. 25 truyện ngắn trong Đà Lạt anh yêu em không có gai góc của đời thường cũng không có triết lý cao siêu chỉ có những lời nhẹ nhàng như tâm sự về những rung động đầu đời của những người tuổi trẻ. Đọc Đà Lạt anh yêu em còn để biết Đà Lạt có núi Lang Biang với mối tình của một đôi trai gái, Đà Lạt còn có mây mù, có những ngày mưa và có những ngày lạnh buốt làm cho người ta biết nhớ nhung.
Văn của Khuê Việt Trường không cầu kì nhưng giàu cảm xúc, đầy nhạc điệu, ông viết giống như đang kể chuyện mình nhưng ai đọc những câu chuyện trong Đà Lạt anh yêu em lại thấy chính mình trong đó.
Đà Lạt anh yêu em như tình yêu và kỉ niệm của một thời thanh xuân nên được nhà văn chăm chút từ bản thảo đến khâu in ấn. Bìa sách là tác phẩm đầu tay của đứa cháu ngoại 10 tuổi, mọi thứ về giấy về chữ in thì bạn thân lo liệu, tâp truyện vì vậy đẹp thêm nhờ tình thương yêu.
Đây là tác phẩm thứ 13 của nhà văn Khuê Việt Trường gom lại những truyện ngắn ông đã viết về Đà Lạt, có mình, có bạn, có cả những người chỉ gặp thoáng qua trong dọc đường viết văn của mình và có khi chỉ là những điều mới nghĩ đến từ những chuyến đi phượt từ Nha Trang về thành phố sương mù ấy. Điều này làm cho 25 truyện ngắn mới trong Đà Lạt anh yêu em trở nên gần gũi và thân quen với người đọc, nhiều hơn bất kì những truyện mà chúng ta đã đọc qua.
Mở đầu tập truyện từ cảm xúc một độc giả mà ông chưa hề gặp mặt: “Tôi cầm trên tay tập truyện ngắn của Khuê Việt Trường, lật đúng trang truyện Hoa Hồng trắng rụng, một mình đi bộ lên con dốc Duy Tân. Tác giả viết rằng: “Một con đường tận cùng là ngôi nhà gỗ sậm, trước ngôi nhà ấy có một khóm hồng dại cứ lặng lẽ mỗi ngày rải xuống nền đất những cánh trắng mỏng manh. Trong ngôi nhà ấy có một cô bé”. Tôi muốn một lần được nhìn thấy ngôi nhà và khóm hồng dại ấy. Tác giả yêu Đà Lạt vì nơi đây bắt đầu cho mối tình thơ dại đẹp đẽ nhưng chẳng đi đến đâu của ông. Còn tôi yêu Đà Lạt qua những trang sách đầy nỗi niềm ông viết. Chúng tôi có khoảng cách rất xa về thế hệ và câu chuyện sống, nhưng lại gặp gỡ nhau ở ngôi nhà gỗ sậm này trong tư tưởng, có vẻ hơi kỳ lạ phải không?” (Tâm Storm).
Đà Lat Anh Yêu em do Văn Tuyển phát hành năm 2021, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, gồm 25 truyện ngắn viết về tất cả các nơi chốn ở Đà Lạt với giọng văn như thủ thỉ, như tâm sự của Khuê Việt Trường với các truyện: Mây chiều Phương Bối, Phải Qua Đơn Dương mới thấy hoa dã quỳ, Trên nóc nhà thờ có một con gà, Đợi em lớn có được không…
11/3/2021
Lưu Cẩm Vân
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

 

Nhà văn Tạ Duy Anh: Tác giả tạo ra nhân vật, giống như Chúa trời tạo ra con người!

11 Tháng Ba, 2021

Tạ Duy Anh là một trong những nhà văn đương đại tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Ông đã làm nhiều nghề trước khi bước vào văn chương chuyên nghiệp và làm việc lâu nhất với vai trò biên tập viên ở Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, tản văn… Riêng về tiểu thuyết có thể kể tên các cuốn: “Đi tìm nhân vật”, “Lão khổ”, “Thiên thần sám hối” và gần đây nhất là “Đất mồ côi”. Tạ Duy Anh là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào, cá tính mạnh mẽ, các tác phẩm của ông thường đào sâu vào hiện thực xã hội đương thời với giọng văn có phần thô ráp, đi trực diện vào vấn đề và tạo được ấn tượng mạnh với độc giả. Nhân dịp cuốn tiểu thuyết “Đất mồ côi” của ông với bút danh Cổ Viên vừa đến tay độc giả, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với nhà văn.

– Thưa nhà văn Tạ Duy Anh, tiểu thuyết “Đất mồ côi” của ông đang trở thành một sự kiện “nóng”, được trao đổi khá sôi nổi trên các diễn đàn, trong đó có một sự quan tâm không nhỏ dành cho các nhân vật trong tiểu thuyết. Vậy xin hỏi ông câu đầu tiên, nhân vật được tác giả yêu thích nhất trong “Đất mồ côi” là ai? Vì sao?

Câu hỏi của ông rất hay, bởi nó gián tiếp thừa nhận có mối quan hệ khách quan giữa tác giả và nhân vật. Tác giả tạo ra nhân vật, giống như Chúa trời tạo ra con người. Khi chưa thổi hồn, nó là đất sét. Nhưng khi thổi hồn, thì nó là một thế giới, có đời sống tự do riêng và đôi khi tác giả phải đối thoại bình đẳng với nó. Sự sáng tạo thú vị và bí ẩn chính là ở chỗ đó. Đây cũng là vấn đề lớn của ngành lý luận, phê bình.

Có một chút tế nhị trong câu hỏi của ông: Một vài bạn đọc đồng nghiệp cho rằng “Đất mồ côi” không có ngôn ngữ nhân vật. Tức là không có nhân vật, theo cách họ quan niệm? Tôi có thói quen tôn trọng tuyệt đối ý kiến của bạn đọc, dù họ là ai, vì họ có quyền tối cao, bất khả xâm phạm và còn vì họ rất có giá trị với người viết. Mặc dù số bạn đọc có ý kiến như vậy không nhiều, nhưng vẫn đáng để tác giả coi là một bộ phận và cần chân thành lắng nghe. Tôi không muốn làm bất cứ việc gì khiến họ nghĩ rằng họ đã làm tôi phật ý. Nếu có thể, mong ông miễn thứ cho phải trả lời rõ ràng câu hỏi này.

– Và đã có yêu thích nhất thì cũng có ghét nhất, nếu không cần phải bí mật, liệu ông có thể tiết lộ cho độc giả và nguyên do?

Thực ra tôi vừa trả lời cả cho câu hỏi này rồi. Nhưng tôi được kích thích trí tò mò bởi sự gợi ý của ông, vì thế tôi xin nói thế này: Nhân vật, với nhà văn, là những đứa con bị bắt gánh theo sứ mệnh truyền thông điệp, giống như các vai diễn. Mỗi đứa một nhiệm vụ theo yêu cầu của tổng đạo diễn là tác giả, cũng là cha của chúng. Những đứa phải thủ vai xấu nhất, chưa chắc đã đáng bị ghét nhất, thậm chí có thể phải thương yêu nó nhiều nhất ông ạ. Tôi yêu tất cả những đứa con của mình. Câu này có vẻ hơi cũ, nhưng nó không có cách nói nào khác hay hơn thì cứ phải dùng lại thôi.

– Liệu những câu chuyện, nhân vật trong “Đất mồ côi” có phần nào là những kí ức hoặc kỉ niệm của chính tác giả, gia đình tác giả hay phảng phất một câu chuyện gần gũi với người viết?

Không chỉ trong “Đất mồ côi”, mà trong bất cứ cuốn sách nào, của bất cứ ai, đều có kỉ niệm, kí ức của tác giả, gia đình hay những chuyện mà tác giả trải qua. Ông cứ thử đặt ra một giả định thế này: Mình sẽ viết một cuốn sách mà mọi chuyện trong đó không dính dáng tí ti gì đến mình, hoàn toàn là chuyện nằm ngoài các sự kiện liên quan đến bản thân mình, không liên quan đến những kỉ niệm, kí ức của mình hay gia đình, người thân…Nghĩa là nhà văn kiên quyết tách ra tuyệt đối như một kẻ bên ngoài, hoàn toàn khách quan, thì ngay cả ý định ấy đã dính dáng đến bản thân rồi.

Tôi nghiệm ra rằng, nhà văn chỉ kể về cuộc đời mình. Mỗi cuốn sách, anh ta lại hóa thân thành một “bản thân” khác phù hợp với nội dung mà anh ta định viết.

“Đất mồ côi” – tiểu thuyết của Cổ Viên (Tạ Duy Anh).

– Nhiều người đã có ý kiến rằng có vẻ các nhà văn Việt đang đứng ngoài các vấn đề nóng của xã hội, họ thích trú ngụ trong các tháp ngà hoặc ở trên tít trời xanh! Riêng tôi quan sát thì thấy ông rất quan tâm, bám sát các vấn đề xã hội và có thái độ rõ ràng. Những sự kiện trong quá khứ, kể cả những sai lầm, theo ông có cần mổ xẻ, phân tích thấu đáo để có cái nhìn khách quan về lịch sử và rút ra những bài học kinh nghiệm cho các thế hệ sau?

Mỗi nhà văn có lý do cá nhân để lựa chọn cách tiếp cận các vấn đề xã hội, vấn đề lịch sử bằng cách gián tiếp hay trực tiếp, đứng ngoài, hay nhập cuộc. Chuyện này hầu như không thể bàn luận gì được. Bởi chỉ bản thân anh ta mới đủ thẩm quyền quyết định anh ta là ai và. Nhưng sau khi khẳng định điều đó, thì không thể không thừa nhận một thực tế thứ hai: Mỗi nhà văn chỉ có giá trị bản thân, khi anh ta dám dấn thân vì cuộc sống và phẩm giá của những người xung quanh anh ta. Ở đâu thì tôi không biết, chứ trong lĩnh vực sáng tác, sự công bằng luôn là tuyệt đối. Nói như dân gian, lựa chọn nào cũng có giá của nó.

Tôi không lựa chọn tháp ngà, thứ nhất vì tôi là nhà văn coi tự do là giá trị lớn nhất và còn vì tháp ngà không phải là nơi tôi tìm thấy cuộc sống như tôi muốn và với cá tính của mình, tôi cũng sẽ chẳng thể có được sự bình an. Chỉ có sự bình an, sự thanh thản của của tâm hồn con người, đôi khi trùng khớp với sự nhọc nhằn, khổ ải, mạo hiểm mà con người ấy phải trải qua, mới đáng để tôi mong ước.

Giờ ta bàn vào việc chính. Tôi đã từng nói và xin nhắc lại: Ngoài kinh nghiệm, giá trị lớn nhất mà lịch sử để lại là những bài học và chủ yếu là bài học về sự cay đắng, đau khổ, mất mát. Con người làm ra lịch sử, là chủ nhân của lịch sử, vì thế bài học này hậu thế nhất định phải ôn hàng ngày.

Có một sự thật là con người nói chung, do mải kiếm ăn, mải tranh đấu thắng thua hơn kém, mải hưởng hạnh phúc và luôn mất cảnh giác, cho nên họ rất chóng quên, rất hay lãng quên những bài học lịch sử, nếu không được thường xuyên nhắc để họ nhớ. Ai sẽ làm việc này? Chắc chắn đây là bổn phận của giới trí thức và nhiều người có thể làm được. Nhưng qua kinh nghiệm, thì nhà văn là những người làm tốt nhất, bởi chính cách thức đặc biệt mà họ thực hiện: Tạo ra sự hấp dẫn cho bài học, bằng các hình tượng nghệ thuật, thông qua câu chuyện kể một cách nghệ thuật, tức là tác phẩm văn học. Nhiều sự kiện lịch sử, nếu đọc qua các sách lịch sử có thể trôi tuột đi mất. Nhưng khi nó được tái hiện dưới dạng tác phẩm nghệ thuật (trong đó có văn học và quan trọng nhất là văn học), thì muốn quên cũng khó. Văn học sẽ tạo ra cho con người thứ kí ức thứ hai mà tôi gọi là kí ức về những kí ức lịch sử.

– Tôi biết ông đã viết nhiều tiểu thuyết và hầu như cuốn nào cũng có tiếng vang nhưng chắc hẳn khi đứng trước một trang sách mới, người viết vẫn gặp phải những khó khăn nhất định. Và với riêng “Đất mồ côi”, khó khăn nhất trong việc viết nó là gì?

Khó khăn nhất của tôi khi ngồi xuống bàn viết, là tôi luôn đối mặt với câu hỏi: Liệu việc mình sắp làm có vô bổ, vô dụng? Với “Đất mồ côi”, lời cật vấn đó càng khốc liệt gấp bội. Và nó phải mất nhiều năm để cuối cùng tôi tự trả lời: Nó là công việc chắc chắn tôi phải làm.

– Cuốn sách mới nhất của ông bán khá chạy. Ông đã nói rằng ông đã kí khoảng một nghìn cuốn sách để tặng bạn đọc và không giấu tham vọng muốn kí thêm mười nghìn cuốn nữa. Nhiều người đánh giá đây là cuốn tiểu thuyết nặng kí nhất của ông và nếu tôi nhớ không nhầm thì ông cũng công nhận điều ấy. Vậy, điều gì làm cho “Đất mồ côi” khác với những tiểu thuyết của ông và vì sao nó là cuốn tâm đắc nhất của người viết?

Tôi tiện thể dịp này xin có vài tâm sự ngoài lề.

Sách của mình bán chạy là điều mà nhà văn nào cũng mong muốn và chắc chắn nó chứa đựng một giá trị nào đó. Nhưng nó không phải là chỉ số quan trọng (còn lâu mới quan trọng nhất) quyết định tầm vóc một cuốn sách! Tôi hiểu điều này và chưa khi nào mất cảnh giác. Nhưng tôi nhớ và thích thú với lời của một nhà phê bình lớn: Mỗi cuốn sách chỉ thực sự là sách, khi nó có bạn đọc. Một số người vẫn hay nói: Chỉ cần viết ra, còn mọi chuyện không quan trọng, ý rằng không quan trọng việc có ai đọc nó hay không. Điều đó có vẻ khí khái và nó đúng phần nào khi nhằm nói lên bản lĩnh nhà văn. Nhưng nó cũng ẩn chứa trong đó những cao ngạo, tự phụ gần với sự yếu đuối! Nếu một cuốn sách mà không cần ai đọc, thì người viết nó ra phải tự hỏi xem mình có điên không?

Tôi dành sự ngưỡng mộ cho những nhà văn tự tin tuyên bố một trăm năm sau độc giả của anh ta mới ra đời! Nhưng tôi cũng rất thích phát biểu của nhà văn Milan Kundera, một nhà văn mà tôi biết là ông khá ngưỡng mộ, khi ông ấy bảo những nhà văn nói như vậy là “những kẻ xu nịnh, ve vuốt tương lai”.

Tôi muốn sách của mình đến tay bạn đọc ngay, khi đã đủ tự tin khép lại bản thảo. Làm được như vậy hay không lại là chuyện khác, bởi trong hoàn cảnh hiện tại, đa phần mình không tự quyết định được. Nhưng ý muốn thì rất rõ ràng, chả có gì phải giấu diếm. Tôi cảm thấy cuộc sống của mình được nhân lên sự thú vị cùng với số người đọc sách của mình. Vì thế, tôi luôn làm mọi cách để sao cho khi sách của mình ra đời, bạn đọc tiếp cận thuận lợi nhất.

Giờ xin trả lời điều ông quan tâm: Tôi có cảm giác, trong cuộc truy đuổi Ác tính mà mình dấn thân, “Đất mồ côi” là cú nốc ao mà tôi chờ đợi để tung ra và cuối cùng đã tung ra. Nó có mạnh mẽ như tôi kì vọng hay không, tôi không biết. Cái ác mà tôi hình dung có bị nốc ao hay không (chắc chắn là chưa, còn lâu) cũng lại là chuyện khác. Nhưng tôi đã viết nó với tinh thần ấy. Tôi thường dựa vào cảm giác, để đo hiệu quả cuốn sách của mình. Khi “Đất mồ côi” lên kệ sách, tôi có được sự thanh thản lạ thường, một cảm giác an nhiên tuyệt vời không dễ diễn tả. Chưa cuốn sách nào trước đó của tôi làm được điều tương tự.

– Nếu như cuốn sách của ông nhận được những sự khen chê trái chiều và chính tôi đã nhìn thấy điều đó thì ông có phản ứng thế nào? Sự khen ngợi tất nhiên là tích cực với người viết nhưng sự không hài lòng và có thể xuất hiện những thái độ khác nữa liệu có khiến ông chùn tay. Một người viết nên có thái độ thế nào khi tác phẩm của mình trở thành tâm điểm của dư luận và hình như không phải lần đầu ông gặp phải trường hợp này?

Nếu nói nhà văn miễn nhiễm hoàn toàn với sự khen chê, là nói dối. Thánh thần thế nào tôi không biết, chứ con người thì không ai đạt được điều đó. Tôi rất thích thái độ trung thực của Bảo Ninh trong chuyện này. Ý ông ấy nói không ai vui vẻ, bình thản được trước những lời chê. Nhưng phải chấp nhận lời chê, dù nhiều khi nó khiến tác giả đỏ mặt!

Một cuốn sách chỉ có đời sống thật, một đời sống xứng đáng dành cho nó khi nó được tiếp nhận ở chỗ này và bị từ chối ở chỗ khác. Mọi lời khen chê đều chứa trong đó một phần sự thật, không chỉ của cuốn sách, mà còn của cái cuộc đời mà chúng ta đang thuộc về nó. Với người viết, bản lĩnh văn hóa thể hiện ở thái độ tiếp nhận khen chê. Tôi chưa thấy nhà văn nào chỉ nghiện lời khen lại có thể lớn vọt lên được. Chỉ thích khen, miễn góp ý, tức là đã tự mãn nguyện. Một nhà văn không viết nữa, là cách anh ta chuyển trạng thái sống. Còn một nhà văn (người làm công việc sáng tạo nói chung) tự mãn, thì coi như anh ta đã chết. Anh ta sống thêm bao nhiêu cũng thế! Tôi không nói chung chung, mà đang nói về những nhà văn có tài.

Uông Triều/Vanvn.vn

 

Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

  Phía trước là dòng sông 5 Tháng Ba, 2021 Qua ô cửa kính, nắng chói. Kim tháo cặp kính râm gài trước ngực áo ra, mang vào. Nắng dịu đi....