Biển và chim bói cá 1
Một cuốn sách
làm cho ta tốt hơn
Festival Sách và Biển (Livre et Mer) là một festival quốc tế
hằng năm của Pháp nhằm tôn vinh những tác phẩm viết về biển... Giải thưởng mang
tên nhà văn Henri Queffélec, người được xem là một trong những tác giả vĩ đại
nhất viết về biển bằng tiếng Pháp trong thế kỷ 20.
Năm 2012 có 6 tác phẩm vào chung khảo của các tác giả từ các
nước Pháp, Bỉ, Canada và ở Việt Nam là Bùi Ngọc Tấn với tiểu thuyết Biển
và chim bói cá. Tất cả đều là các nhà văn chuyên nghiệp, có người là Thủy
sư Đô đốc, có người là Giám đốc nhật báo Le Monde.
Vượt qua 5 tác phẩm khác, Biển và chim bói cá (tên
tiếng Pháp là La mer et le martin-pêcheur) đã đoạt Giải thưởng Lớn (chỉ
có một giải thưởng duy nhất).
Dưới đây là bản tuyên dương Biển và chim bói cá của
ông François Bourgeon, chủ tịch danh dự Festival:
Với Salon năm 2012 này, Concerneau muốn là một thành phố mở
ra tất cả các biển.
Về giải Henri Queffélec, ban tổ chức đã tuyển chọn sáu tác phẩm
có một điểm chung: tất cả đều đưa chúng ta đến một nơi nào khác... ít nhiều
trong thời gian... ít nhiều trong không gian.
Năm này sang năm khác, mỗi ban giám khảo, qua tranh cãi và
nghị luận, đề cập đến tính đặc thù của mình, tổng hòa những khác biệt của chúng
tôi.
Trước hết, chúng tôi lựa chọn tâm thái trong đó chúng tôi muốn
cùng nhau làm việc.
Mỗi tác giả đều mang tính cách rất riêng và mỗi tác phẩm đều
độc đáo. Chúng tôi không muốn đưa các tác phẩm được tuyển chọn vào một cuộc thi
đấu để phê chuẩn bằng việc xếp hạng. Hoặc đi đến một thỏa hiệp có thể để lại những
điều đáng tiếc.
Để cùng nhau tìm ra một tác phẩm mà mỗi người đều tâm thành bảo
vệ, chúng tôi đã xác định một số tiêu chuẩn được tất cả đồng thuận.
Khẳng định sự lựa chọn của Liên hoan này là hướng mở về Nơi
Khác.
Trong năm kỷ niệm này, tôn vinh Henri Queffélec...
Bằng cách tôn vinh Biển trong cuộc mặt đối mặt giữa Biển và
Con Người.
Và, nếu có thể, đánh dấu sự chuyển động của thời gian bằng
cách chào mừng Biển trong tính đương thời của nó.
Chúng ta đang ở Concarneau. Concarneau là một hải cảng đánh
cá. 1
Nay là năm 2012, bình minh của một thế kỷ bản lề, khi mà con
người đang chậm rãi, rất chậm rãi ý thức ra rằng không một tài nguyên nào của
hành tinh xanh này là mãi mãi không cạn kiệt.
Về nhiều điểm, các tác phẩm được tuyển chọn nằm trong một
niên biểu dễ gây bối rối mà có lẽ chúng ta sẽ có thể nhắc tới trong khuôn khổ của
Liên hoan này.
Về Con Người đối mặt với Biển, được đặt vào đúng chỗ và thế kỷ
của mình và đồng thời thay đổi theo tuổi tác, mỗi tác phẩm đều có điều lý thú để
nói.
Về mong muốn hướng mở về Nơi Khác, đánh dấu những năm tháng
đã trôi qua từ khi sáng lập Salon và Henri Queffélec ra đi, từ khi lập ra giải
này, cuốn sách của Bùi Ngọc Tấn đã hoàn toàn làm chúng tôi thỏa mãn.
Tác giả là người Việt Nam.
Ông kể về đất nước mình và về thế giới đánh cá mà đích thân
ông từng biết.
Ông đem đến cho chúng ta một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn về lịch
sử một hải cảng... về một xí nghiệp đánh cá quốc doanh.
Và về một cộng đồng người đánh cá, can đảm và ranh mãnh vật lộn
để nuôi sống gia đình, vét biển đến cạn kiệt. Trước khi bị cuốn vào những quanh
co khúc khuỷu của toàn cầu hóa.
Chan chứa thương yêu và ngộ nghĩnh... Đầy chất thơ...
Bùi Ngọc Tấn tặng cho chúng ta một cuốn tiểu thuyết nhân
văn... Cấu trúc rất đặc sắc...
Không chút áp đặt, đầy hài hước và ý tứ, ông dẫn chúng ta đến
một vĩ thanh để cho chúng ta tự do suy ngẫm... Bùi Ngọc Tấn biết cái giá của tự
do.
Tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là một cuốn sách không thể quên.
Thậm chí có lẽ là... một cuốn sách làm cho ta tốt hơn.
Bụng màu da cam... Lưng xanh biếc.
Quả trái phá óng ánh ấy là con chim bói cá.
Đó không phải là một loài chim biển, mà là chim của sông của
suối.
Nhưng khi con nó đói, nó liều mình giáp đấu với sóng cả. Mũi
tên thép xanh biếc ấy làm ta nhói lên xúc động...
Và chạm thẳng vào tim.
Dương Tường dịch
Một suy tưởng đẹp đẽ
và nhạy cảm về phận người
Năm 2012, tiểu thuyết Biển và chim bói cá được
giải thưởng Sách Hay do độc giả bình chọn trong hạng mục sách sáng tác (chỉ có
một giải cho mỗi hạng mục). Dưới đây là trích đoạn lời tuyên dương Biển và
chim bói cá do nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đọc trong lễ trao giải
tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 22-9-2013 vừa qua:
(...) Biển và chim bói cá là cuốn sách thứ năm và
là cuốn tiểu thuyết thứ hai của nhà văn Bùi Ngọc Tấn sau một thời gian dài ông
bị lâm nạn và lặng tiếng. (Cuốn tiểu thuyết thứ nhất thời kỳ "viết lại"
này của ông là Chuyện kể năm 2000 đã được dịch ra tiếng Anh và tiếng
Pháp). Tác phẩm có bối cảnh là một xí nghiệp đánh cá cuối thời bao cấp với cả một
tập thể nhân vật đủ hạng người phải vật lộn giữa biển khơi và biển đời để sống,
để tồn tại. Những con người trên bờ dưới nước giăng lưới đánh bắt cá và cả đánh
bắt nhau, họ vùng vẫy tìm cách thoát thân trong một tấm lưới vây bọc mình của
cơ chế, của xã hội. Biển mênh mông mà chật hẹp. Biển dữ dội mà êm đềm. Biển
nuôi sống con người và dạy con người biết sống làm người tự do. Con chim bói cá
đã giúp cậu bé lần đầu tiên được cha cho lên tàu ra biển hiểu điều đó. Nhưng rồi
cuộc sống đã làm thay đổi cậu, biến cậu thành một con người khác, mất đi sự
trong trẻo của tâm hồn buổi đầu đời. Văn của Bùi Ngọc Tấn trong tiểu thuyết này
có sự kỹ lưỡng, chi tiết của ký sự, sự hài hước mỉa mai nhẹ nhàng, và chất thơ
của cái nhìn xót thương con người, tất cả được thể hiện trong một lối viết hiện
thực nghiêm nhặt. "Cuốn tiểu thuyết cũng là một sự suy tưởng đẹp đẽ và nhạy
cảm về phận người" ("Le roman de Bui Ngoc Tan est aussi une belle et
sensible méditation sur l'humanité") như nhận xét của nhà báo Pháp
Jean-Luc Cochennec khi Biển và chim bói cá trong bản dịch tiếng Pháp
của dịch giả Tây Hà ("La Mer et le martin-pêcheur", Editions de
l'Aube, 2011) được trao Giải thưởng Lớn (Grand Prix) tại Liên hoan Sách và Biển
(4-2012) mang tên nhà văn Pháp chuyên viết về biển Henri Queffélec (1910-1992).
Có thể đọc Biển và chim bói cá như một thiên sử thi. Sử thi về sự tan
rã. Đây là lời nhà văn tâm sự: "Sử thi không chỉ là để nói về chuyện thành
lập cái này, cái kia. Trong cái tan rã, có những cái rất bi hùng. Tan rã ở đây
là về ý thức hệ, từ chỗ tuyệt đối tin tưởng, rồi đến hoang mang dao động rồi mất
lòng tin; tan rã từ chỗ đoàn kết gắn bó với nhau trở nên rời rạc, phân rã, mỗi
người một kiểu; tan rã trong tình bè bạn, tan rã trong tình đồng chí, tan rã
trong một tổ chức, một lý thuyết tổ chức chỉ đạo sản xuất. Tôi nghĩ rằng, tôi cố
gắng phản ánh thực tế của sự tan rã ấy bằng những chi tiết cụ thể, chi tiết
sinh động, mà không ai có thể chối cãi được" Giải thưởng Sách Hay 2013
trao cho tác phẩm này thêm một lần khẳng định giá trị nhân văn sâu sắc của một
cuốn sách rất hiện thực mở ra cho người đọc một cách nhìn thẳng vào sự thật, hiểu
về một thời đã qua, xót xa cho phẩm cách con người trong cuộc vật lộn chống lại
sự tha hóa và tan rã của con người. Để con người lại được hồi sinh cùng biển đời
theo từng lớp sóng nhân sinh của các thế hệ kế tiếp nhau. (...)
Phần thứ nhất
I
Trần Bôn thuyền trưởng tàu Hạ Long 414 có cách cặp cầu thật
êm ả nhẹ nhàng. Trên khoảng trống cầu tàu chiều dài chỉ vừa một con tàu đỗ, lựa
theo dòng nước chảy, anh cho tàu chạy tới chạy lui, đến khi quăng được một đoạn
dây mồi lên cho một anh cảng vụ để anh ta kéo vào đoạn dây cáp to tướng ướt
sũng nước rồi buộc nó vào cột bích là coi như công việc đã xong một nửa. Chỉ
còn cho tơi quay cô dây cáp, kéo mũi tàu sát cầu ép cái lốp xe cũ vào
dầm gỗ ốp bọc ngoài dầm bê tông, làm xùn ra những giọt nước trong veo. Rồi đánh
tay lái, điều khiển phía đuôi tàu cho cả thân tàu sát vào gần cầu cảng. Rồi
cũng lại một sợi cáp được quăng lên, cột vào một trụ bích khác. Tơi cuộn rút ngắn
cáp, kéo đuôi tàu áp sát cầu. Mạn tàu dập dềnh cũng lại được những cái đệm chống
va đan toàn bằng mây như một quả bom hình bầu dục treo thõng trên cầu tàu rúm lại
đón đỡ. Thế là con tàu của anh đỗ vừa khuýp khoảng cầu trống người ta dành cho
anh, sát các tàu khác như ta xếp một cái xe đạp. Với chiếc cầu thang bắc chênh
chếch từ mạn xuống mặt bê tông cầu cảng, nó như đã đỗ ở đấy tự bao giờ.
Nếu cặp cầu nhẹ nhàng êm ả nhất là Bôn thì cặp cầu ầm ĩ nhất là
Chơn. Bao giờ Chơn cũng oang oang những mệnh lệnh cặp cầu qua micro, náo động cầu
cảng, náo động cả một khúc sông và những xí nghiệp bạn liền bên:
- Lên nữa! Lên nữa!
- Quay lái ra để tàu lai kèm đổi mạn!
- Quăng dây! Quăng dây!
- Tàu lai! Tàu lai! Đề nghị tàu lai áp mạn! Đề nghị tàu lai
áp mạn!
- Tàu lai! Đưa 412 về gần Biển Đông! Đừng để trôi! Đừng để
trôi!
- Đề nghị đưa 412 về gần Biển Đông!
Những mệnh lệnh mỗi lúc một gắt gỏng cau có:
- Vứt dây!
- Buộc lên bích trên! Buộc lên bích trên!
- Đứng ra! Gãy chân bây giờ!
- Cho trục tơi cuốn cáp lái vào đi!
- Không được để chạm vào dây cáp Biển Đông! Không được để chạm
vào dây cáp Biển Đông!
Cứ như vậy cho đến khi tất cả lặng đi. Và bỗng nhiên vang
trong khoảng trời xanh êm đềm cầu cảng, thay cho những mệnh lệnh, những tiếng gắt
gỏng càu nhàu được phóng đại oang oang là một giọng đơn ca nữ trong trẻo vút
cao trên nền đệm của dàn nhạc dây: Đi mô chừ cũng nhớ về Hà Tịnh. Nhớ núi
Hồng Lịnh, nhớ dòng sông La nhớ biển rộng quê ta ớ ơ... thì cả xí nghiệp
biết ông Chơn đã cập cầu xong rồi. Lần nào cũng chỉ một bài ấy. Nếu không
thì Nghệ Tĩnh mình ơi bao năm đợi tháng chờ. Một vùng nước bạc đồi núi lô
nhô... Những bài hát thật hay mà những lúc rỗi rãi chính Chơn thường nghêu
ngao xuyên tạc: Nghệ Tĩnh mình ơi Trung ương gọi lấy mì, hay Đi
mô rồi cũng nhớ về Hà Tiện. Với Chơn, bấy giờ mới thật sự kết thúc một
chuyến biển dài mệt nhọc vất vả (cho dù anh đã hạ lệnh kéo mẻ lưới cuối cùng và
làm tổng vệ sinh tàu trước đó cả một ngày rồi hành trình từ ngư trường về bến),
bấy giờ mới là lúc anh dành cho mình những phút giây thanh thản. Chơn người miền
trong, Khu Trớ, theo cách gọi của cánh văn phòng. Nhưng là một Khu
Trớ tuyệt vời. Lạ thế. Khu Trớ đã keo thì thật keo, nhưng đã rộng
rãi, dân Bắc đầu hàng đã hẳn, cánh Nam Bộ cũng phải chào thua. Đấy cũng lại là
nhận xét của cánh văn phòng. Nhận xét này được tất cả các phòng ban công nhận.
Hội văn thư đánh máy có lần nào xuống tàu mà không được những gói cá tươi ngon.
Dân kỹ thuật thì khỏi nói. Những chiến hữu cánh hẩu. Những buổi nhậu dưới tàu
và những buổi nhậu trên phố quên đời. Chánh văn phòng Điều không thể quên một tối
đi nhậu với Chơn. Chỉ có hai người. Hai người hai xe đạp, lên phố Ga. Uống từ tan
tầm chiều. Tới tắt đài. Một chai Giôn đen. Hai thùng Heineken chỉ còn lại bốn
lon. Uống xong cứ bảo ngủ lại. Đây là nhà dì nó mà. Nguyệt! Nguyệt! Mình thu xếp
cho sếp của anh chỗ ngủ ở đâu nào. Còn anh, mình không lo. Mình ngủ đâu anh ngủ
đó. Hay là thôi cứ để sếp ngủ luôn với vợ chồng mình. Em yên tâm, con này con ấy
chết rồi, có ngủ cùng giường cũng chết rồi, chẳng việc gì mà sợ... Chánh văn
phòng không quên được trận nhậu đó. Trận nhậu cũng sưa như nhiều trận
nhậu khác nhưng nhớ là nhớ cái đận sau khi nhậu xong. Điều gọi xích lô. Gửi hai
xe đạp lại nhà hàng. Dìu Chơn lên xích lô rồi ôm Chơn ngồi trên xe về cầu cảng.
Thằng cha ấy uống mới tởm chứ. Rượu chia đôi. Bia mình chỉ uống gần chục lon.
Còn bao nhiêu vào lão ấy cả. Đến lúc xuống tàu thật hú hồn. Nước xuống. Tàu đỗ
hàng ba, mà cái 412 lại đỗ ngoài cùng, chỉ sợ bố ấy rơi xuống sông. Mãi không vắt
được chân qua lan can. Vắt được chân rồi cha ấy cũng không lật được sang bên
kia. Cứ nằm úp người trên hai lan can hai tàu. Mà nào tàu có đứng yên cho đâu.
Một con tàu đi mãi giữa luồng cũng làm cho hai lan can dập dềnh tách ra, chụm
vào, nhô lên tụt xuống. Mình phải nhảy vội sang tàu ngoài bế xốc bố ấy lên. Cứ
thế qua được hai tàu. Đến khi về được 412 mình móc các túi của cha ấy tìm chìa
khóa không thấy, không mở được cửa, thế là dìu cha ấy quành ra hành lang, đẩy
cha ấy chui qua cửa sổ cabin vào giường. Buồng thuyền trưởng tàu bốn trăm (400
mã lực) ông biết rồi đấy. Giường liền ngay cửa sổ. Sáng hôm sau đi làm, lên
xích lô đến phố Ga lấy xe đạp, đạp đến xí nghiệp, việc đầu tiên là xuống tàu
xem cha ấy có việc gì không, thấy cha ấy vẫn ngủ. Vẫn nằm sấp, một chân trong
giường, một chân thò ra cửa sổ. Đút vào thế nào nằm i xì thế ấy. Không nhóc
nhách. Suốt đêm một tư thế. Như người chết rồi. Hôm ấy lão ta làm sao mình chỉ
có toi.
Chơn đánh cá, tính nết phổi bò. Vợ ở quê có mang với một anh
giáo viên trường cấp hai về sau làm xã đội.
Biết tin, Chơn xin nghỉ phép về nhà. Nhưng vợ đã bị bố đuổi về
nhà bố mẹ đẻ. Chưa gặp vợ nhưng nhìn bố, lòng anh đau. Anh không ngờ bố lại suy
sụp đến vậy. Anh hiểu tất cả do vợ anh. Bố anh là người được cả làng, không những
thế, cả xã tín nhiệm. Gia đình anh là một gia đình được cả huyện nhìn vào. Thời
chống Pháp, bố anh đã làm chủ tịch xã, rồi trong Ban chấp hành Mặt trận Liên Việt
huyện. Anh cả Chơn vào bộ đội ngay khi tiếng súng kháng chiến toàn quốc bùng nổ
và hy sinh trong chiến dịch Biên giới. Mấy anh em Chơn đều được bố mẹ cố gắng
nuôi ăn học, người đỗ trung cấp, người tốt nghiệp đại học. Vết nhục này quá sức
chịu đựng với ông cụ.
- Khốn nạn quá. Bố không dám vác mặt đi đâu nữa. Gia phong
nhà ta không cho phép chứa chấp loại người như thế. Vợ chứ không phải con điếm
trong nhà. Ý anh thế nào là tùy, nhưng bố không thể ở với nó một nhà. Bố không
thể có một đứa con dâu như thế.
Anh đến nhà bố mẹ vợ, xuống bếp gặp vợ, nhìn cái bụng lùm lùm
của vợ:
- Bao lâu rồi?
Vợ anh khóc:
- Bảy tháng rồi.
- Bây giờ tính sao?
Nước mắt ướt đẫm gò má, người vợ gục mặt xuống đầu gối, vai
rung lên. Một lúc sau ngước cặp mắt sưng mọng nhìn anh:
- Em là con đàn bà hư hỏng. Em là đứa bỏ đi. Em không xứng
đáng với anh, với bố mẹ. Em đã không giữ được. Sa chân bước xuống ruộng dưa.
Bây giờ còn biết nói sao.
Anh vẫn nhẹ nhàng:
- Với ai?
Chị vợ im lặng. Anh gầm lên:
- Với thằng nào?
Người vợ sợ hãi mặt cắt không còn giọt máu:
- Anh... Tính.
Anh quát như một cái máy:
- Tính nào?
- Tính con ông Đội Tâm.
- Nó có vợ chưa?
- Rồi. Giọng chị lí nhí.
Đến lúc ấy anh mới hiểu hết ý nghĩa những lời chị trả lời
anh. Đến lúc ấy anh mới qua khỏi cảm giác tức giận, căm thù sôi sục trong lòng,
nỗi uất hận từ khi nghe cái tin nhức nhối nhục nhã ấy và bình tĩnh trở lại. Chị
đã nói thật với anh tên con người ấy. Cho đến giờ phút này chưa ai biết được
cái người đã tàn phá hạnh phúc của anh. Đó là một người chẳng xa lạ gì. Một thằng
bạn học cùng lớp trường làng, cho đến cấp hai, và khi anh học lên cấp ba thì hắn
thi vào mười cộng ba. Tao không ngờ lại là mày Tính ạ!
- Chỉ xin anh thông cảm với em. Anh cứ đi biền biệt. Đã bao
ngày đêm em mong có anh ở bên dù chỉ một lúc thôi...
Chơn đau nhói. Lỗi đâu chỉ một mình vợ. Còn lỗi của anh. Tại
anh học nghề khai thác. Giá anh nghe bố học nghề nuôi cá thì đâu đến nỗi. Học
nghề nuôi, sau khi tốt nghiệp, anh có thể xin việc ngay tại địa phương, xa lắm
là ty thủy sản tỉnh, hàng tuần cùng lắm hàng tháng, anh có thể về nhà. Thi vào
đại học thủy sản, anh ghi tên vào ngành khai thác và nói dối bố học nghề nuôi
cá. Thư bố, thư các anh em viết cho anh đều gửi Trần Nhân Chơn khoa nuôi. Các bạn
gái bên khoa nuôi nhận thư và chuyển thư cho anh. Bố anh vẫn tưởng anh nghe
theo lời khuyên của mình, học nuôi cá mà không học đánh cá "cái nghề gái
ba chồng, một cơn gió là mất một đời chồng rồi". Càng ngày anh càng thấy
mình học nghề khai thác là một sai lầm, nhưng ngày ấy học xong phổ thông mới mười
bảy tuổi, lòng anh còn hướng về biển cả.
Anh viết đơn ly dị đem đến nhà vợ. Vợ anh lặng lẽ cầm bút ký,
không nói nửa lời. Ký xong chị im lặng nhìn anh, rồi chạy vào trong buồng, nằm
không một tiếng động. Trước khi ra về, anh bước vào vĩnh biệt chị, thấy chị
đang úp mặt xuống gối, gọi thế nào cũng không ngẩng lên. Sao lúc ấy anh thương
vợ đến thế. Thương vợ và xót xa nhục nhã cho mình. "Thôi, tôi về".
Anh nói vậy và bước nhanh ra khỏi buồng, lấy xe đạp một mạch về nhà, không chào
hỏi một người nào gặp trên đường.
Tưởng thế là xong nhưng nửa năm sau bố Chơn ốm chết. Bố chết
khi Chơn đang trên biển. Chơn về, đã mai táng bố rồi. Cái đau nhất của Chơn là
không được nhìn bố trước khi bố chết, là anh luôn nghĩ rằng trong cái chết của
bố có nguyên nhân sự hư hỏng của vợ, có cái sai lầm của anh đã học nghề khai
thác. Càng đau thêm vì bố chỉ được liệm bằng vải trắng, mà phong tục quê Chơn
các cụ già mất phải liệm bằng vải đỏ. Chưa bao giờ anh thấy mình là một thằng
con khốn nạn như những ngày ấy. Anh nhìn mẹ, hiểu rằng một ngày nào đó không
xa, mẹ cũng lại ra đi. Trở về xí nghiệp, anh đạp xe lùng mua vải đỏ nhưng không
đâu có bán. Ngày ấy muốn mua vải đỏ phải có giấy của ngành văn hóa thông tin, vải
đỏ chỉ để phục vụ cho việc may cờ, làm biểu ngữ. Ngày ấy thật khó khăn, chỉ mới
lo được cho người sống, chưa thể nghĩ đến người chết. Anh ra chợ mua chui mười
thước vải trắng rồi đem đi nhuộm màu đỏ cờ. Tấm vải ấy anh gấp cho vào túi ni
lông để trong ngăn kéo bàn tác nghiệp hải đồ, thỉnh thoảng lại giở ra phơi. Anh
sợ mẹ cũng ra đi vội vã như bố nên lo ngay ngáy. Khi Lê Thanh Ý cùng học một
khóa khai thác với anh, nhà ở làng bên về nghỉ phép, anh đã nhờ cầm mười mét vải
đỏ về đừng đưa cho bà, đưa cho thằng em tao, thằng Thinh ấy nhé. Chỉ
đến lúc ấy Chơn mới yên tâm.
Cuộc sống vất vả khó khăn nhưng Chơn vẫn giữ nguyên tâm hồn
yêu văn nghệ từ những ngày đi học. Đợt phát động thi sáng tác quốc ca mới, anh
bập bùng cây đàn ghi ta, miệng khe khẽ: Đất nước Việt Nam tươi đẹp anh
hùng. Chủ nghĩa Mác Lê-nin tất thắng. Chúng ta tiến lên cùng thế giới năm châu.
Đại đổng là tương lai. Đại đổng điều chúng ta mơ ước... Anh em người cười
bảo là hâm, người khen hay. Đến khi bài hát của Chơn được phát trên đài (chắc
có công sức của ông anh họ Chơn làm trưởng phòng gì đó ở Đài truyền hình thành
phố) mọi người đều thấy hay, không như khi nghe Chơn ê a bập bùng cây đàn ghi
ta dưới tàu. Có phối âm phối khí nó khác chứ. Chơn bảo vậy. Lúc ấy Chơn muốn
kéo mọi người đi uống rượu. Trong một bữa rượu dưới tàu do Chơn chiêu đãi khi
trú gió ở Vụng Ngọc, nhiều thuyền viên nhắc tới bài hát của Chơn. Họ không bảo
nhau nhưng cùng tung hứng về bài hát coi như một món đưa cay trong cuộc nhậu,
người bảo bài hát tuyệt hay có thể được chọn làm quốc ca, nhất là tác giả lại
thuộc giai cấp công nhân, người bảo thôi đừng nịnh thối thuyền trưởng, quốc ca
phải là những nhạc sĩ chuyên nghiệp cơ. Ông Văn Cao còn đang bị loại kia kìa.
Thủy thủ trưởng Diêu, tợp một chén rượu gọn như nuốt một viên thuốc bổ, nói:
Không có đâu. Dù thuyền trưởng sáng tác hay hơn mười mươi họ cũng không chọn
đâu. Cái suất ấy không phải của... Giọng Diêu đã bèn bẹt đờn đợt. Diêu đã say lắm
và càng say càng đờ đẫn lắc lư cái đầu và càng rót khỏe:
- Thủ trưởng ơi. Đếch cần làm tác giả quốc ca thủ trưởng ạ.
Cái thủ trưởng cần bây giờ là vê ơ vơ nặng.
Chơn cười:
- Tao sắp lấy vợ rồi. Không phải để chúng mày phải lo.
Thế là tất cả nhao nhao:
- Cô Hồng nhà đài hôm nọ xuống lấy tin tàu mình á?
- Không phải mới hôm nọ đâu. Lâu rồi.
- Thế thì gay lắm thủ trưởng ơi. Em thấy cô ấy hay cặp kè với
chánh văn phòng Điều lắm. Xuống tàu nào cũng sóng đôi với chánh văn phòng. Được
con cá nào cũng chánh văn phòng đưa ra tận cổng bảo vệ.
- Không phải một mình chánh văn phòng đâu. Còn đi với thi đua
Tín nữa đấy.
- Thi đua Tìu á? Giò Tìu thì không lo! Giò Tìu mắc bệnh tiểu
đường. Coi khinh.
Anh em đang hăng rượu, hăng nói. Mấy con mực một nắng nướng bếp
điện thật tuyệt. Lại giọng Diêu đờn đợt, dèn dẹt:
- Các cậu có biết vì sao thủ trưởng mất hai cái răng cửa hàm
dưới không? Vì cô Hồng đấy.
Cả bọn cười vang: "Cô Hồng yêu thế nào mà thủ trưởng rụng
mất cả răng thì khủng khiếp thật". "Hoan hô cô Hồng..."
Vẫn giọng Diêu kéo dài bèn bẹt:
- Tại hôôn đấy. Cô Hoòng hôôn thủ trưởng lâu quá đaáy...
Vốn là người xuề xòa với anh em, nhưng Chơn cũng thấy cần phải
kết thúc đề tài này, và kết thúc luôn cuộc nhậu, anh nghiêm mặt bảo Diêu:
- Chùng dây cu roa rồi. Méo tiếng rồi. Về cabin đi. Thôi. Tất
cả giải tán.
Khi mọi người ai về buồng người ấy, cái đề tài anh em vừa nêu
ra cứ vấn vương mãi. Chơn nằm nghĩ đến vợ.
Rồi nghĩ đến những phụ nữ anh đã gặp đã biết. Nhiều. Nhưng chỉ
có hai người làm anh thực sự xúc động. Huyền và Hòa. Cả hai cùng có tên bắt đầu
bằng chữ H, cùng ở Hải Triều và đều là người anh quen trước khi lấy vợ. Bắt đầu
là Huyền. Rồi đến Hòa, hàng xóm của Huyền. Hạng, anh Huyền đi bộ đội vào đóng ở
nhà anh thời anh còn đi học. Cả làng, nhà nào cũng có bộ đội. Toàn dân Bắc.
Thái Nguyên, Vĩnh Phú, Hà Tây... Đó là thời gian sắp tết. Dân làng đã chuẩn bị
lợn gà, cá thu, gạo nếp cho bộ đội một cái tết vừa thật tình cảm vừa thật tưng
bừng để bù cho cái tết phải xa nhà của những chàng trai mặt bấm ra sữa như con
cái mình này. Bởi ai cũng biết, cũng nghĩ đây là thời gian ngắn ngủi những
chàng tân binh trẻ măng từ những nơi nào đến nhưng thân thiết như con em trong
nhà còn được nghỉ ngơi, còn được hưởng hòa bình dù phải xa gia đình, cái tết
hòa bình cuối cùng trước khi vào Nam xông pha mũi tên hòn đạn. Nhưng đúng vào
lúc gạo nếp gói bánh chưng đã ngâm, chả cá thu đã rán, những con lợn trong chuồng
đã được ước lượng số cân trước khi mổ thịt, khi không khí tết tưng bừng xóm
làng cùng với bữa liên hoan cuối năm đang được gấp rút chuẩn bị thì bộ đội được
lệnh hành quân. Bộ đội không khóc, nhưng dân làng khóc. Khóc như mưa như gió. Cả
những mẹ trong hội mẹ chiến sĩ. Cả những cô gái mới bắt đầu quen những chàng
trai tứ xứ đổ về làng. Dù đã biết rằng tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến
thắng, phải tranh thủ mấy ngày ngừng bắn trong dịp tết, hành quân cấp tốc vào
Nam, nhưng làm sao không thương những con em mình không được nghỉ ngơi, không
được đón tết với gia đình đã hẳn, lại còn không có tết, không được bình yên đón
xuân sang, đón một tuổi mới ở miền Bắc hòa bình, phải vào Nam, dấn thân bom đạn.
Chơn cũng khóc. Anh vào buồng lấy mấy gói mứt, mẹ anh dồn hết số chả cá thu của
nhà vào túi ni lông đưa cho anh Hạng. Lẽ tất nhiên là Chơn đã biết địa chỉ nhà
anh tân binh đóng ở nhà mình, và khi tốt nghiệp đại học, về Hải Triều công tác,
anh đến nhà Hạng như đến nhà một người thân. Hạng đã được ra quân với tấm huân
chương chiến công, rất yêu quý Chơn. Không chỉ Hạng mà cả nhà. Bà Kỳ mẹ Hạng,
cô Huyền em gái Hạng. Anh đến nhà Hạng thường là với những tiêu chuẩn hàng
tháng của xí nghiệp dành cho người đi biển. Cặp mực nang, con cá chim, cân mực
khô... Cả nhà muốn gả Huyền cho Chơn không phải vì số thực phẩm quý giá ấy mà
vì nhận thấy ở Chơn một chàng rể tuyệt vời. Chơn cũng có cảm tình với Huyền.
Còn Huyền công khai bộc lộ tình yêu bằng những cử chỉ thật lộ liễu nhiều khi
làm Chơn đỏ mặt lên. Chính là Huyền chủ động nắm tay anh trước. Huyền cũng hôn
anh trước. Anh đáp lại cái hôn ấy cuồng nhiệt không kém mà cứ nhớn nhác nhìn
quanh, sợ có người nào đó bước vào hay mẹ Huyền từ bếp đi ra. Sẽ hạnh phúc biết
bao nếu anh lấy Huyền, có một gia đình ở ngay Hải Triều và mỗi khi tàu cập cảng,
anh có thể về đó nghỉ ngơi hưởng không khí gia đình, sự chăm sóc của vợ, nô đùa
với các con, chấm dứt cảnh quanh năm suốt tháng ở trên tàu, bữa cơm xuống phòng
ăn, lấy "xẻn" xúc cơm từ vạc trong bếp... Ai cũng tưởng anh sẽ lấy
Huyền. Cả mấy nhà hàng xóm cũng nghĩ rằng đám cưới giữa hai người sẽ được tổ chức
không lâu nữa. Thế nhưng sự việc không thành. Vì Hạng. Không phải Hạng phản đối
Chơn. Chơn khi ấy đã được coi là một thành viên của gia đình. Mà vì Hạng nhất định
lấy một phụ nữ đã qua ly dị và đã có hai con. Cả nhà phản đối. Ông già bà già
khuyên can, khóc lóc. Hạng vẫn lì lợm, không trả lời câu hỏi "vì sao"
của mọi người trong gia đình kể cả của Chơn. Thế rồi Huyền bước nhanh tới chỗ Hạng,
giang thẳng cánh tát vào mặt anh trai. Bốp! Hạng ngẩng lên ngơ ngác. Một cái
tát nữa vào má bên kia. Hạng đứng lên. Huyền cúi xuống rút chiếc guốc giơ cao
ngang đầu. Hạng gần như chạy xuống bếp. Huyền ném theo chiếc guốc. Chơn mở to mắt
nhìn Huyền. Anh không thể quên được dáng người, nét mặt Huyền lúc đó. Một Huyền
khác hẳn, anh chưa hề biết. Một Huyền làm anh ngạc nhiên, dữ dằn, quyết đoán,
buộc anh phải nghĩ nếu lấy Huyền làm vợ, cuộc sống vợ chồng có thể sẽ là như thế.
Từ đấy anh thưa đến nhà Huyền. Rồi cuối cùng phải nói dối Huyền là anh chưa muốn
yêu, chưa muốn lấy vợ vào lúc này. Một lần đến nhà Huyền nhưng cả nhà đi vắng,
bà hàng xóm nhà Huyền, một người bạn buôn chuyến cùng với mẹ Huyền kéo anh vào
nhà bà "anh vào chơi, mời anh vào chơi, cô Huyền sắp cưới rồi, chắc anh
cũng biết chứ". Bà dẫn anh vào một lối đi hẹp, qua một buồng tắm để mở,
Hòa, cô con gái bà mới mười bốn tuổi mà anh vẫn gặp gỡ chuyện trò những khi đến
nhà Huyền, đang tắm ở trong đó. Anh đã cố không liếc nhìn vào nhưng không thể.
Nhất là bà mẹ khi bước qua cửa buồng tắm bỗng dừng lại cúi xuống như là sửa cái
quai dép, để anh ở phía sau có đủ thời giờ nhìn ngắm con gái mình. Dù chỉ một
cái liếc rất nhanh thôi, anh cũng thấy một thân thể trắng ngần thon nhỏ nõn nà
và hẳn là rất thơm tho vừa là đứa trẻ vừa là người lớn đang khom người lấy tay
che chỗ kín, hai bên ngực phồng lên hai cái bánh dày nằng nặng hơi trĩu xuống.
Chỉ thoáng nhìn thôi cũng biết rằng mỗi tế bào trong người cô đang bừng nở để
thành thiếu nữ. Bà mẹ đưa anh vào nhà và rất vui vẻ thẳng thắn hỏi anh có bằng
lòng con gái bà không? Con bé trong buồng tắm anh vừa đi qua ấy. Anh cám ơn bà,
nói với bà rằng cô bé còn chưa đến tuổi. Suốt đời anh không thể nào quên được lối
đi hẹp tối tối trong nhà bà, cái ô buồng tắm để mở và cảm giác bàng hoàng, lần
đầu tiên trông thấy một người con gái đang tuổi dậy thì hoàn toàn khỏa thân, lần
đầu tiên trông thấy một măng nụ trắng trong đến thế, thật đến thế, gần đến thế
mà cũng lại xa vời đến thế. Sau này Huyền cũng đã khỏa thân với anh. Nhưng
không phải là cảm giác nâng niu chiêm ngưỡng như Hòa mỗi khi nghĩ đến mà đơn
thuần gợi lòng ham muốn. Khi ấy Huyền đã lấy chồng, đã có con, còn anh cũng đã
ly dị vợ. Huyền đã là chủ một cửa hàng vàng. Vừa thấy anh bước vào, chồng Huyền
đang ngồi ăn xôi ở bàn, liền đứng dậy cầm gói xôi đi vào nhà trong. Huyền bảo
anh: Nó không chào anh à? Không được. Để em bắt nó ra chào anh. Chơn phải can
ngăn mãi, Huyền mới chịu ngồi yên. Huyền mời anh trưa hôm sau lại ăn cơm. Tàu
anh còn đỗ bến chờ xuống đá, anh vui vẻ nhận lời. Cái buổi trưa hôm sau ấy, cả
nhà chỉ có một mình Huyền. Huyền cho đóng cửa hàng và anh hiểu cái gì sẽ đến.
Huyền dắt anh lên phòng ngủ của hai vợ chồng Huyền trên gác, thong thả cởi quần
áo trên người rồi ôm lấy anh thì thầm:
- Chẳng còn gì nữa đâu nhưng anh cũng phải yêu em một lần.
Rồi nằm xuống giường chờ đợi. Anh bỗng nhớ tới cô gái mười bốn
tuổi trong buồng tắm bối rối nhìn anh mà anh chỉ dám liếc nhanh. Giờ thì không
phải liếc nhìn vội vàng. Giờ có đủ thời gian. Anh biết chồng Huyền lên Hà Nội
thanh toán tiền hàng. Anh biết đứa con trai Huyền đã về ông bà nội. Nhưng khi mảnh
vải cuối cùng trên người được Huyền khẽ cong người lên gỡ bỏ, anh giật mình tưởng
như vợ anh đang nằm trước mặt. Sao lại có thể giống nhau đến thế. Cũng mịn màng
căng mọng, cũng lớp lông dày đen mịn sóng nhau như ép vào da thịt phân thành ba
nhánh, một nhánh thẳng lên bụng và hai nhánh xòe ra hai bên làm thành một hình
chữ thập. Hệt như của vợ anh. Anh nghĩ đến vợ. Rồi ngay sau đó nghĩ đến Tính,
cái thằng học mười cộng ba, bỏ dạy làm xã đội. Vợ anh cũng đã nằm trên giường
như thế này và cái thằng xã đội đáng nguyền rủa ấy hẳn cũng đã nhìn vợ anh nằm
chờ đợi trên giường thế này như anh đang nhìn Huyền. Một nỗi chua xót làm anh
nghẹn nơi cổ. Huyền ngơ ngác khi thấy anh đang cởi áo sơ mi bỗng cài khuy trở lại:
- Anh làm sao thế?
Lúc bấy giờ anh mới biết mình đang cài khuy áo, anh nói như
người có lỗi:
- Anh hôm nay làm sao ấy. Bị hỏng. Em xem đây này. Huyền nhổm
dậy, vít cổ anh, kéo anh đổ sập xuống người Huyền.
° ° °
Thế là tôi sắp đi ra biển. Tôi sắp được gặp biển. Biển tôi chỉ
nghe nói đến, chỉ được nhìn thấy trên tivi, trên màn ảnh. Tối hôm qua tôi ngủ
dưới tàu. Cầu tàu êm ả. Những con tàu nối sát nhau chạy dọc cầu. Những ngọn đèn
im lặng tỏa sáng. Suốt đêm, hai con lợn tàu nuôi cứ ụt ịt tha thẩn quanh boong.
Chúng rất béo, mỗi con phải non một tạ. Gấp đôi con lợn mẹ tôi nuôi ở nhà. Con
lợn mẹ tôi bảo để cân, lấy tiền mua cho tôi chiếc xe đạp nhưng bố tôi gạt đi:
Xe đạp của thằng Phong để tôi lo. Rồi bố bảo tôi: Bố sẽ mua cho mày chiếc mini
Nhật. Thế là cái Ngàn em tôi reo lên:
- Thế thì mẹ bán lợn lấy tiền mua xe cho con.
Bố tôi vuốt tóc nó:
- Con cứ học giỏi như anh Phong, bao giờ đi được xe đạp bố
mua cho một chiếc. Cũng mini Nhật. Đỏ. Được không?
Chiếc xe mini và chuyến đi biển hôm nay là phần thưởng của bố
tôi cho tôi. Bố đã hứa nếu tôi được vào cấp ba sẽ thưởng cho tôi một chiếc xe đạp
và cho đi một chuyến biển cùng với bố. Chiếc xe mini Nhật hai dóng là mơ ước của
tôi. Chắc chắn tôi sẽ có. Bởi trường cấp ba ở mãi tận Si, cách nhà tôi tới bốn
cây số. Là học sinh giỏi được vào thẳng cấp ba, phần thưởng cho tôi còn là chuyến
về Hải Triều đi theo bố tôi chuyến biển hôm nay.
Từ Khê Thượng chúng tôi đi bộ ra ga Bắc Giang, lên tàu về Hà
Nội rồi lại lấy vé đi tàu tới Hải Triều. Chúng tôi nghĩa là tôi, bố tôi và bác
Nguyễn Văn Sĩ thủy thủ trưởng của bố tôi. Tôi quên chưa nói bố tôi là thuyền
trưởng dưới tàu. Bác Sĩ quê ở một làng ngoại thành Hải Triều lên chơi với bố
tôi và cùng về với chúng tôi. Chuyến đi đối với tôi là một chuyến đi kỳ diệu.
Con tàu lao trên đường sắt kỳ diệu. Hà Nội kỳ diệu. Thành phố Hải Triều kỳ diệu.
Nhìn qua cửa sổ toa tàu, một khoảng không gian mênh mông luôn thay đổi trước mắt
tôi. Và gió. Gió như muốn dứt tóc tôi ném về phía sau. Chưa bao giờ tôi đi xa
như vậy.
Từ ga, chúng tôi ngồi xích lô đi thẳng xuống xí nghiệp, ra cầu
cảng, xuống tàu. Xí nghiệp không người. Các cửa đóng im ỉm. Sân rộng vắng tanh.
Đã tan tầm chiều. Cầu cảng vắng người nhưng có rất nhiều tàu đỗ. Cái to hơn tàu
bố tôi. Cái nhỏ hơn. Cái sơn xanh. Cái sơn xám như tàu bố. Cái sơn đỏ có cần cẩu
giống cổng chào. Riêng tàu bố vẫn còn nhiều người. Tôi đã quen một số, những
người đã lên Bắc Giang, về nhà tôi cùng với bố: Chú Hùng lùn thuyền phó, bác Suất
máy trưởng, chú Hồng trưởng ca... Bố trừng mắt nghiêm nghị bảo tôi: Không được
leo trèo nghịch ngợm chết người như bỡn. Bảo không nghe là cho lên bờ luôn đấy.
Rồi bố gọi mấy người vào phòng bố bàn bạc công việc để ngày mai tách bến. Sau
đó ba chúng tôi ăn cơm. Các chú các bác dướí tàu đều đã ăn rồi. Phòng ăn cũng
là bếp. Chật chội, trần thấp. Trông thẳng ra một cái cửa sắt, ngưỡng cửa cao gần
tới đầu gối. Ngoài boong là tơi, trục tơi nằm ngang quấn đầy ắp những vòng dây
cáp đã bôi mỡ. Cơm trong vạc. Một xoong canh sườn ninh khoai sọ. Một bát men
rau sống. Tôi chưa ăn bữa cơm nào ngon như vậy. Trong khi chúng tôi ăn, các chú
thủy thủ phóng xe về, phóng xe đi. Dưới tàu chỉ còn mấy chúng tôi.
Tôi ngủ chập chờn. Trên giường chú Hùng lùn. Chú Hùng về nhà
ngủ. Nhà chú ở gần ngã ba (mà sau này tôi mới biết còn gọi là Ngã Ba Đông
Dương), lối đi vào xí nghiệp. Tôi đã thám hiểm mấy phòng. Phòng thuyền trưởng rộng
nhất, tuy vậy cũng vẫn là rất hẹp. Một chiếc giường ghép vào vách cabin, cao
lưng lửng, thành giường nhô cao để khi ngủ, khi nằm, sóng xô có bị lăn cũng
không rơi xuống sàn. Ngay dưới chỗ nằm (như gầm giường) là một thứ tủ có cánh mở
ra mở vào chạy dọc suốt giường. Giữa buồng là một cái bàn nhỏ. Cạnh bàn ở phía
tường cabin bên kia là ghế gỗ, một chiếc ghế lượn cong theo góc của hai cạnh tường
gặp nhau như đi văng có thể ngồi được bốn năm người. Chân tường là một cái giá
khoét lỗ tròn để vừa phích nước, sao cho sóng to tàu chao đảo phích cũng không
bị đổ. Ngoài ra còn có một cái bàn làm việc liền ngay cửa sổ trông ra phía mũi
tàu và một cái ghế dựa. Tất cả (trừ chiếc ghế dựa) đều được bắt chặt vào sàn
tàu, vào vách tàu làm bằng gỗ bọc mi ca có vân bóng loáng. Phòng chú Hùng cũng
như vậy nhưng nhỏ hơn, chỉ có bàn làm việc, không có bàn tiếp khách. Tôi nằm mà
nhớ đến mẹ tôi. Đến cái Ngàn em tôi. Chắc bây giờ cái Ngàn đã ngủ ngon rồi.
Còn mẹ tôi ngủ chưa hay đang nhớ đến tôi. Đêm ngủ xa nhà đầu tiên của tôi. Ngày
mai tôi còn đi xa nữa. Ngày mai tôi đi ra biển. Tôi thức thức ngủ ngủ trong tiếng
những con lợn tìm ăn ụt ịt ngoài hành lang vọng vào và tiếng xe mảy trên cầu cảng.
Sảng hôm sau, dậy sớm, tôi leo lên đỉnh nóc cabin nơi cao nhất
của con tàu rồi trèo lên cái trụ đèn như một nòngphảo chĩa thẳng đứng lên trời.
Cái trụ đèn có sảu bậc thang, sảu cái đèn xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp: Đỏ,
xanh, trắng. Đỏ, xanh, trắng. Bóng đèn như cái cốc úp xuống, bên ngoài là những
vòng thép cuốn bảo vệ. Nhìn. Nhìn ra bốn chung quanh. Nhìn ra phía biển. Chẳng
thấy biển đâu. Chỉ thấy dòng sông chảy xuôi và khuất sau rặng sú xanh um. Nhưng
tôi biết cứ thẳng dòng sông này là ra tới biển.
° ° °
Giờ phút về bờ đầu tiên sau một chuyến biển nào cũng bồn chồn.
Không có việc gì cũng phải nhảy xuống cầu tàu đứng một tí rồi lại trở về tàu.
Không có ai quen cũng vậy. Nhưng giá có một người quen đứng đó. Để nắm chặt
tay, để nhìn vào mặt nhau cười nói, để hỏi một câu, trả lời một câu, trò chuyện
với một người ở đất liền, một người vẫn ở đất liền trong khi mình lênh đênh
trên biển. Nhưng không có ai quen thì lại trở về tàu, đứng trên boong vịn lan
can nhìn xuống bè bạn đang tay bắt mặt mừng với những người thân dưới cầu cảng.
Ngay khi tàu còn ở giữa sông chờ cập cảng, tất cả đã đứng
trên boong, cùng hướng vào bờ, thấy người đi lại, xe đạp, xe máy, nhất là thấy
những mái tóc dài hoặc xõa vai, những dáng đi uyển chuyển..., bỗng hiểu ra một
điều: Đấy mới thực là cuộc sống. Muốn trìu mến lắng nghe, siết chặt lấy người
đang đi trên cầu mà hít một hơi dài mái tóc xõa kia. Nếu được thì ghì chặt lấy
cái thân hình mềm mại ấy. Và nếu được nữa... chẳng biết việc gì sẽ xảy ra.
Nhưng nếu tàu còn phải buông neo mà chưa có lệnh cập cầu. Thì cứ ở ngoài sông
mà cố quên thời gian bằng cờ tướng, bằng tiễn lên, bằng bài ù, bằng
tán gẫu. Và chửi cái thằng điều độ xếp cầu. Bịa ra đủ thứ xấu xa về mấy thằng
điều độ mà mình cũng thấy là vô lý, bất công. Càng điên nếu phải nằm mãi ngoài
cửa sông, mãi ngoài phao zero nhìn vào chỉ thấy bãi sú, chờ đợi không
biết đến bao giờ. Lúc đó chửi tuốt. Cả giám đốc, cả bộ, cả bộ trưởng, cả một lũ
ăn hại sống phè phỡn, mị dân, thời nào cũng chết thằng lao động. Lúc ấy ai cũng
trở thành hấp tỉ độ. Chỉ nguyên một điều cứ tưởng được đọc thư gia
đình ngay cũng đã muốn tung hê tất cả rồi. Lúc ấy có chầu rìa ván cờ nào cũng
phải nhòm mặt, cũng phải mách mỗi bên một nước. Đánh tiến lên cũng phải cẩn thận.
Có thắng thông vài ván cũng chỉ tủm tỉm cười thôi. Đừng cười thành tiếng, càng
không được nói một câu khuếch trương thắng lợi làm gì. Lúc ấy dễ vặc nhau lắm.
Không chỉ anh em thuyền viên mà cả cán bộ nữa. Thuyền phó Phê vừa xếp lại quân
cờ để chơi ván khác với máy trưởng Xuân, vừa nói: "Mình đang thắng, tiếc
quá..." Lưới trưởng Giai đi qua cười: "Tức là cuối cùng thua chứ
gì?" Chỉ có thế thôi mà suýt bùng lên thành một cuộc xô xát.
Sớm nay, HL 414 được cập bến ngay. Trên cầu tàu, khoảng non
chục người đứng đón. Con tàu đi ngược lại chiều hành trình một chiếc tàu đang
nhoai ra quạt sóng đẩy một đoàn xà lan than rằm mạn. Nó cắt một gợn nước chênh
chếch phía mũi chiếc sà lan đi đầu và chạy quá lên phía cảng. Trên tàu, trừ những
người đi ca theo đúng chức danh, tất cả tập trung ở boong mũi nhìn về phía bờ.
Mặt trời tỏa ánh sáng rực rỡ và vào đúng lúc con tàu quay mũi, toàn bộ cửa kính
trên tàu, những cửa kính vuông trên cabin các sĩ quan, các cửa tròn nơi buồng
thủy thủ bên dưới gần sát với mặt sông đạt đúng góc độ phản chiếu, nhất loạt
loáng lên một ánh chớp trắng chói mắt rồi cũng nhanh như việc loé sáng đó, các
kính cửa lại xam xám nhàn nhạt một màu của bóng tối những căn buồng hẹp.
Với người thủy thủ, mỗi chuyến về bờ một khác. Bôn cũng không
là ngoại lệ. Lúc còn ở ngoài sông, Bôn đã dặn dò đại phó Cương rất kỹ những
công việc phải làm lúc anh đi khỏi tàu và khi hai sợi cáp, một ở mũi tàu, một ở
phía lái đã được cô chặt vào hai trụ bích như hai cái đe trên cầu,
khi chiếc cầu thang trên tàu đã được bắc xuống chênh chếch với mặt cầu, Bôn
toan cùng anh em ùa xuống mặt cầu thì một người từ cầu tàu đã nhanh nhẹn bước
lên xộc thẳng vào phòng thuyền trưởng. Đó là Thám, anh thợ điện kiêm thêm việc
chạy công văn của xí nghiệp. Chào thủ trưởng. Thủ trưởng ký cho em vào đây. Mời
thủ trưởng lên hội trường mới họp ngay bây giờ. Bôn ký vào quyển sổ rồi đứng
lên, bảo Thám: Trưa chờ lúc văng vắng xuống nhé. Gặp Cương lấy mấy con cá về
cho cháu. Thám chỉ chờ có vậy. Anh nháy với đại phó Cương như ký một cái giao
kèo và cầm sổ nhanh nhẹn xuống cầu. Bôn nhắc Cương một lần nữa về công việc rồi
bảo:
- Các ông ấy có hỏi thì bảo mình lên trạm xá một chút rồi về
ngay. Đấy. Bây giờ lại đau. Có lẽ dạ dày giở chứng thật rồi.
Cương gật gật:
- Thủ trưởng cứ đi. Có gì em lo.
Cương mỉm nụ cười nửa tin nửa ngờ gần như giễu cợt, nhìn theo
dáng thấp đậm của người thuyền trưởng khuất trên cầu tàu rẽ vào cổng cảng.
Cương tự thấy chuyến biển đi với tàu HL 414 vừa kết thúc là hay. Anh học ở thuyền
trưởng Bôn được nhiều điều. Dù rằng vừa học vừa cười một mình chua chát: Học thì
cứ học nhưng sớm muộn cũng phải phới khỏi nghề đánh dậm này, chí ít cũng chuồn
khỏi Quốc doanh đảnh dậm này. Cách gọi mỉa mai ngành nghề như vậy
không phải riêng Cương mà của cả xí nghiệp. Quốc doanh đảnh dậm, nghề đảnh
dậm thay cho nghề đảnh cả, Quốc doanh đảnh cả. Câu cửa miệng,
thông thường, chẳng bao hàm một ý xấu nào, ngược lại còn như muốn nhấn mạnh đến
cái vất vả của nghề, đến việc cá biển Đông ngày càng ít dần. Trong câu chuyện
giữa lãnh đạo xí nghiệp với công nhân, những tiếng ấy vẫn thường xuất hiện như
một sự cảm thông, sâu sát và cởi mở giữa đôi bên. Thậm chí trong một công văn gửi
lên Bộ, tiêu đề "Bộ Thủy sản - Quốc doanh đánh cá Biển Đông" còn đánh
máy là "Bộ Thủy sản - Quốc doanh đánh dậm Biển Đông" mà giám đốc cũng
không biết, cứ ký tên đóng dấu gửi lên Bộ. Thì ai đi soát xét cái tiêu đề trên
góc trang làm gì. Khi chánh văn phòng phát hiện ra, giám đốc chỉ cười, nguy hiểm
thế đấy, từ nay cấm không được nói quốc doanh đánh dậm, nghề đánh dậm nữa, nói
mồm rồi nó vào văn bản lúc nào không biết. Từ ấy việc sử dụng hai tiếng đánh dậm
ít hẳn đi, gần như không còn trong khối trên bờ nhưng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện
trong anh em thuyền viên, những người thuộc "khối dưới nước".
Tuy luôn xác định mục tiêu là rời khỏi ngành nghề, chí ít
cũng rời khỏi xí nghiệp, nhưng mỗi khi được điều đi một chuyến biển nào đấy,
cách đánh cá, cách lãnh đạo con tàu của đơn vị Cương đánh thuê cứ đi vào sự
quan sát của anh, kèm theo sự so sánh, phân tích, đánh giá. Hoàn toàn tự nhiên,
không tự giác, không chủ bụng. Từ cách đánh bắt, phán đoán luồng cá, cách tính
độ giạt và nhất là cách lãnh đạo con tàu, cách đối nội đối ngoại, những việc vô
cùng quan trọng đối với một thuyền trưởng. Đừng cậy mình có tài đánh được nhiều
cá mà coi thường mọi người. Nhất là cánh phòng ban, kể cả cô văn thư đánh máy.
Lê Uy đã bị một vố. Chỉ vì quên bẵng lời hẹn xuống tàu xin cá của cô đánh máy
mà kỳ thi nâng cấp nâng bậc của anh em thuyền viên năm ấy trục trặc:
Cô đánh máy đã cố tình để sót một dòng trong danh sách những
tàu được tổ chức thi nâng bậc.
Đối ngoại đã vậy. Việc đối nội càng quan trọng. Điều này anh
học được nhiều trong chuyến đánh thuê cho tàu VT 114 với chức danh thuyền phó
hai. Ban chỉ huy tàu mâu thuẫn nặng. Thứ nhất hừng đông thứ nhì tắt quán, thuyền
trưởng Phạm Thăng quyết định tách bến ra Vụng Ngọc trưa hôm trước để sớm hôm
sau có mặt ở ngư trường, đón mẻ lưới hừng đông. Đỗ trong vụng, Thăng
cho anh em đi mua hai con dê ra quân sau mấy tháng nằm bờ sửa chữa. Nhưng đại
phó Chiểu trừng mắt: "Đã đánh được cá đâu mà đổi dê". Thăng nghiêm mặt:
"Dê là của hợp tác xã. Hợp tác người ta bán lấy tiền. Người ta có lấy cá
đâu mà đổi cá". Thăng mới chân ướt chân ráo xuống tàu khi tàu đang lên đà,
cũng mới đi chuyến đầu tiên với Trăm mười bốn. Còn Chiểu là phó một mấy
năm nay, trưởng thành từ thủy thủ mà lên. Thăng tốt nghiệp đại học khoa khai
thác, là thuyền trưởng nhưng chưa phải đảng viên, còn Chiểu chỉ sơ cấp nhưng là
bí thư chi bộ. Thăng cử bốn người đi mua dê. Chiểu đánh bài với máy trưởng và
hai người nữa cùng cánh để tỏ ý phản đối, bất hợp tác.
--------------------------------
Concarneau là một hải cảng nằm trong bộ phận
Finistère thuộc vùng Bretange phía Tây ở Pháp. |
II
Đến chiều đội mua dê về cùng hai thanh niên đảo, những người
được hợp tác xã phái đến giúp tàu giết dê, nấu nướng. Tiếng dê be be và sự có mặt
của hai thanh niên trên đảo với những bó rơm, những túi rau thơm làm nức lòng
anh em trên tàu. Hội bài bạc của đại phó và máy trưởng vẫn như không nghe thấy
gì, vẫn chăm chú vào ván bài trên tay. Trời tối rất nhanh. Thăng hạ lệnh cho thợ
máy nổ máy, bật pha lên để anh em làm thịt dê. Tiếng máy chạy ầm ầm. Đèn pha
sáng rực chiếu trên boong lái. Tiếng nói tiếng cười vang trong vụng. Những người
đánh chắn cũng chẳng còn bụng dạ nào. Hết hội, ba người chạy ra boong. Còn một
mình đại phó. Chiểu nằm trên giường quay mặt vào vách tàu nói vọng ra:
- Mổ xong, quăng xuống hầm đá, mai ăn.
Không ai nói gì. Mọi người trả lời Chiểu bằng hành động. Thủy
thủ trưởng Bảo cùng anh em cả boong cả máy, người đốt rơm, người quạt, thui dê.
Lửa bập bùng sáng vụng, sáng các tàu gần tàu xa. Chuyện trò râm ran, trêu nhau
trong lúc pha thịt dê, nấu nướng. Mùi thịt dê lan tỏa gọi thuyền viên các tàu bạn
ra đứng trên boong nhìn sang. Tất nhiên bữa rượu buổi tối vui nổ trời.
Chỉ với chuyện giết dê ra quân, Thăng đã thắng trong việc nắm
lấy cương vị thuyền trưởng của mình. Và chuyến biển sau, chỉ nhìn đám thủy thủ
VT 114 hò reo khiêng chiếc neo lên tàu, đầy khí thế, các tàu bạn đều biết Thăng
đã xốc được con tàu vốn mất đoàn kết triền miên...
Ớ tuổi ba lăm, Cương xác định đời mình còn làm thuyền phó dự
bị dài dài. Anh không đủ đạn bắn để được định biên ở một con tàu. Bộ
khung tàu đã được cố định từ lâu. Mà ai cũng biết nằm trong một bộ khung quan
trọng như thế nào. Trước tiên là đồng lương, là các khoản chia chác dưới tàu,
là sự ổn định về nghề nghiệp, là sự tự thể hiện mình, sự vững chắc trong việc
thăng tiến, đề bạt. Là cái bàn đạp tạo điều kiện để mình từ đấy đi lên. Và từ
hai năm nay, được biên chế vào một ban chỉ huy tàu còn có nghĩa là con đường đi
vận tải nước ngoài rộng mở. Đấy mới là điều căn bản. Xuống Hạ Long 01, Hạ Long
02 là đổi đời. Lại còn thằng Hạ Long 19 mới thật siêu hạng. Bọn Vosco mạnh thế
nhưng đứng trước thằng 19 cũng chỉ là con tép. Một trăm thằng Vosco không
bằng cái xô Hạ Long 19. Đã biến thành câu ca rồi. Ghê gớm thế. Mà cái xô của
thằng Hạ Long 19 thì kinh thật. Một xô đồng hồ Seiko 5 chẳng hạn. Hay
một xô thuốc con nhộng. Bao nhiêu tiền?!
Cương không bao giờ mơ tưởng tới số độc đắc ấy. Từ lâu anh đã
học được cách xác định vị trí của mình như xác định vị trí tàu khi mục tiêu nằm
ngoài hải đồ. Anh cũng là một mục tiêu nằm ngoài hải đồ. Chẳng ai để ý đến anh.
Lúc anh tự động viên rằng đời mình còn đang trong giai đoạn chuẩn bị. Lúc lại
nghĩ cố kiếm cho được cái bằng thuyền trưởng rồi phới khỏi nơi này. Lúc chẳng
nghĩ ngợi gì, thôi thì nước chảy bè trôi, được đến đâu hay đến đó. Lang bang
tàu này tàu khác rồi lại trở về cái quan tài sắt. Là thuyền phó dự bị, ở đâu
thiếu người đột xuất, người ta điều anh xuống. Một thuyền phó nghỉ để cưới vợ.
Một thuyền phó sốt xuất huyết. Một thuyền phó vừa nhận điện: Bố chết. Về
ngay. Tổ chức điều anh đến lấp lỗ hổng. Đi một chuyến. Đi hai chuyến. Khi
vị thuyền phó vắng mặt kia hết phép hay đã từ bệnh viện trở về, trình diện
phòng tổ chức, Cương biết mình lại sắp quay lại tàu 307, con tàu bẹp, nằm tít
cuối cảng, gần đà nổi, tiếp giáp với xưởng đóng tàu, một chiếc quan tài sắt,
chuột nhiều gấp mấy lần toàn bộ số cán bộ thuyền viên khối dưới nước, đói rách
thiếu thốn trăm bề. Ớ đó anh là thủ trưởng.
Cùng trông nom con tàu bẹp với anh có ba người nữa. Thuyền, một
thủy thủ to béo, nặng có dễ đến 80 ki lô, đi Hong Kong cả chục năm về trước,
khi con tàu Hạ Long 02 mới nhận về, còn đang trong thời hạn rốt đa, được vài
chuyến thì bị bắt, tòa xử tù ba năm vì tội buôn lậu bốn ki lô đá lửa. Thời ấy
căng lắm. Chỉ bốn ki lô đá lửa thôi mà bị tù ba gậy, chứ không như bây giờ, chẳng
ai đi Hong Kong lại chỉ buôn mấy ki lô đá lửa! Thuyền là người đầu tiên Cương gặp
khi nhận nhiệm vụ thuyền trưởng cái quan tài sắt này, một con tàu mà người ta
nói là chờ đi đại tu ở nước ngoài. Thuyền cũng đã mấy lần đánh thuê cùng anh ở
các tàu khác. Thấy anh xuống tàu, Thuyền reo to:
- Chào thủ trưởng.
- Chào ông bạn.
- Thủ trưởng vẫn ăn chơi đấy chứ?
- Không. Nhận tàu rồi.
- Tàu nào?
- Chính cái 307 này.
Thuyền vỗ hai tay:
- Hoan hô! Thủ trưởng đây rồi! Nhưng như thế tôi bị mất chức
à? Tôi đang là thủ trưởng ở đây.
Cả hai cùng cười. Thuyền kéo anh vào cabin. Con tàu thật thảm
hại. Những bộ phận máy móc nào còn dùng được người ta đã tháo, lắp cho các tàu
khác, thực hiện nghiêm chỉnh chủ nghĩa giết thịt như anh chàng Khoa kỹ
sư máy phòng kỹ thuật đã nói. Nắp gang cửa sổ bong hết sơn. Mấy chiếc chiếu chất
đống ngay dưới chân hộp lái. Một cái thùng gỗ có nắp cẩn thận đặt ngay cửa lối
đi vào phòng thuyền trưởng.
- Thế này đấy thuyền trưởng ạ.
Thuyền nói như khoe cơ ngơi và lại đứng nhìn anh cười khơ khớ.
- Thủ trưởng đừng buồn. Sông có khúc, người có lúc.
Thuyền biến đi đâu mất rồi trở về với chai rượu cam đỏ sóng
sánh đặt trên hộp lái. Rồi lại biến mất.
Việc đầu tiên là đi thám hiểm con tàu cái đã. Hoang vắng. Tối
tăm. Gỉ sét. Bụi bặm. Ẩm mốc. Chuột chạy loạn xạ. Có con đâm cả vào chân anh. Một
chiếc xe cuốc Liên Xô nhãn hiệu Sputnik (của Thuyền) bóng loáng đặt giữa hành
lang - lối đi thẳng xuống bếp và ra boong lái - là dấu hiệu có sự sống của con
người trên con tàu này. Anh đứng nhìn cái tơi han gỉ, cái ru lô quấn cáp với những
vết siết lõm sâu vào trục thép, dấu vết còn lại của một thời cày cuốc bền bỉ, cần
cù, vất vả, các bánh xe răng cưa đều một màu nâu của sắt gỉ và không thấy dấu vết
một giọt mỡ. Anh trở vào câu lạc bộ. Bàn ăn, cơm rải rác khô cong. Chiếc gương
treo trên bô rửa mặt bụi bám đầy. Chợt Thuyền hiện ra, tay xách một túi nặng.
- Gì đấy?
- Xin bên linh chín đây.
Thuyền dốc túi ra ngoài boong. Mấy khúc cá kẽm. Vài con mực.
Thuyền đứng nhìn đống thức ăn và nhìn Cương. Lại cười thưởng thức chiến công của
mình. Khơ khớ.
- Nào, món gì đây? Thủ trưởng cho thực đơn.
- Đế vương quá nhỉ. Ông trông tàu này béo trắng ra.
- Thủ trưởng nói oan quá. Hôm nay có thủ trưởng về gọi là
chiêu đãi tí chút đấy thôi. Còn mọi hôm cứ là đi lang thang. Tàu chén vài bữa.
Tàu chén vài ngày. Tôi với thằng Nhược mỗi thằng một phương, tùy nghi di tản.
Cơm niêu nước lọ làm gì. Suất gạo còn nguyên, đèo về cho mẹ đĩ. Tốt. Khớ khớ.
Thuyền bóp vai Cương. Thuyền có bàn tay cứng như sắt làm
Cương lệch một bên vai nhăn nhó.
Với cái nhanh nhẹn tháo vát vốn có của người thủy thủ, Thuyền
thoăn thoắt lôi trong gầm ghế ra con dao và cái chậu men, vớ lấy cái cần máy
bơm tay, kéo bên nọ, ấn bên kia. Hụp. Hụp. Nước từ vòi chảy vào chậu.
- Vẫn có nước kia à?
- Nước nhiều. Điện thì câu từ bờ xuống.
Thuyền rửa cá, làm mực và bê vào bếp đặt lên bàn ăn, ngả thớt
thái.
- Bếp dầu trong buồng anh nuôi, chìa khóa trong túi đây. Tay
tôi bẩn, anh lấy hộ. Đem lên cabin mà nấu anh ạ.
Vừa nói Thuyền vừa nghiêng người chìa miệng túi quần về phía
Cương. Chỉ một lúc sau mùi xào nấu đã thơm lừng.
Cương ở lì dưới tàu mấy ngày không lên đến cầu cảng. Thuyền mỗi
ngày vài lần lấy xe cuốc đạp đi rồi đem về nào chè nào thuốc lá, rượu bia, rau
sống, chanh ớt tỏi... Tối tối hai anh em trải chiếu dưới cái trụ đèn hàng hải nằm
tâm sự. Thuyền lúc nào cũng cười khơ khớ. Ngay cả khi nói về thời gian đi tù của
mình, về những gian nan của Cương.
- Thủ trưởng cứ ở đây. Rồi sẽ lại có lúc tung hoành. Bây giờ
có buồn cũng vậy, có sốt ruột cũng vậy. Thủ trưởng tính tôi không đau à. Chỉ bốn
ki lô đá lửa. Đúng một hộp. Mà chơi ba niên. Bây giờ chúng nó buôn hàng vạn đô
la. Ông Phiến một chuyến đánh hai trăm cái Seiko, năm thùng thuốc con nhộng.
Công an, hải quan bảo lĩnh. Nghĩ thôi cái số mình nó thế. Cùng khóa với tôi, thằng
Thiết thuyền phó một rồi. Lính của tôi đều là thủy thủ trưởng, mèng ra cũng bậc
ba. Tôi vẫn bậc hai. Lên hỏi tổ chức các ông ấy trả lời: Lương của cậu đúng là
bất hợp lý rồi. Nhưng dưới tàu phải có văn bản đề nghị. Lên bậc của thủy thủ do
xí nghiệp quyết định, không phải đưa lên trên. Dễ thôi. Cứ có chữ ký của thuyền
trưởng là chúng mình giải quyết. Nhưng anh tính mò đâu ra thuyền trưởng ở cái
tàu bẹp này mà lấy chữ ký hở anh? Thế là cứ bậc hai tràn thôi. Kỳ này thuyền
trưởng về đây, xin thuyền trưởng một chữ ký đấy khớ khớ...
Trước đây Cương chỉ biết Thuyền qua loa. Hai người cùng được
điều xuống đánh thuê ở một tàu, anh với chức danh phó một, còn Thuyền với chức
danh thủy thủ. Quan hệ giữa hai người không có gì đặc biệt. Mãi giờ đây anh mới
hiểu Thuyền. Thuyền sống như thế này mà chịu được. Bao nhiêu lâu rồi. Cứ cười.
Cứ tươi. Chả bao giờ rên rỉ. Anh nói vui:
- Trước đây tôi là thuyền phó không tàu. Bây giờ có tàu rồi.
Một con tàu thật tuyệt vời!
- Thế. Thì thế mà lại. Khớ khớ. Tôi cũng có tàu. Khớ khớ.
Nhưng anh tính con tàu này không lừng lẫy một thời à? Trước đây ai được xuống
cái linh bảy này là phải thế nào chứ? Mấy năm liền lá cờ đầu. Rồi chụp
ảnh. Đăng báo. Bây giờ thì thế đấy.
Ngừng một lát, không thấy Cương nói gì, Thuyền tiếp tục dòng
hồi ức:
- Nó bị bắn ở Hạ Mai. Ngày ấy tôi đang là thủy thủ thực tập.
Đêm, tàu tôi đi trước, linh bảy đi sau. Ông Bửu đang nói phôn với
ông Long bên này: Nhiều máy bay lắm. Tôi đang ở Hạ thì im bặt, không
nói tiếp được chữ Mai nữa.
Thuyền bật cười:
- Nhưng mà công nhận đi chuyến đầu tiên sợ thật. Tôi vừa cầm
giấy giới thiệu của trường đến, các ông ấy điều xuống chính cái linh bảy này.
Ông Phiến còn đang làm thuyền trưởng. Chập tối tách bến đi. Thủy lôi nổ đằng
trước, thủy lôi nổ đằng sau. Ông Phiến rên lên: Khéo chết mất Thuyền ơi. Mà sợ
thật anh ạ. Thủy lôi sáng lòa trước mặt. Tàu dựng lên. Có cái gì đánh rất mạnh
vào ngực. Tôi đứng mà ngã ngửa ra. Sờ tay lên ngực thấy nhun nhũn ươn ướt tưởng
mình trúng bom chết đến nơi, bèn hô to "Hồ Chủ tịch muôn năm!" nhưng
chờ mãi không chết, cũng không thấy đau, hóa ra là một con mực bị hất từ dưới
biển lên. Đi đến phao zéro rồi ông Phiến còn lắc đầu: Nguy hiểm quá mày ạ. Chết
mất thôi. Lần sau xí nghiệp điều chở vũ khí cho quân khu Bốn ông ấy nhất định
không đi nữa. Ông Liễn đi. Ông Liễn gan thật. Mà cũng tài. Mấy chục chuyến chẳng
việc gì.
Khi những chuyện ấy xảy ra, Cương còn đang ở trong B. Còn
chưa học hết phổ thông, còn là lính mới. Có đợt tuyển quân, Cương bàn với bố mẹ
xung phong đi. Đó là lối thoát duy nhất của Cương để sau này còn có thể có tương
lai. Là con địa chủ, không được đi học, lên mười Cương mới được vào trường. Ớ lớp
nào, năm học nào, Cương cũng là cậu học sinh lớn nhất lớp, được các bạn gọi bằng
biệt hiệu "phụ huynh". Nó xuất xứ từ cái lần một giáo viên chủ nhiệm
lớp dưới họp phụ huynh thấy Cương một mình đi lang thang ở hành lang, đã hỏi
Cương:
- Anh họp phụ huynh lớp nào ạ?
Khó khăn nhất trong việc nhập ngũ của Cương là anh chưa phải
đoàn viên thanh niên lao động. Rất may, người em họ mẹ Cương, cậu Kế bí thư
đoàn xã, đã lo được cho Cương cái lễ kết nạp đoàn cấp tập và giấy giới thiệu
chuyển sinh hoạt, căn cước chính trị chỉ những người như Cương mới thấy quan trọng
như thế nào. Cậu Kế chắc cũng chẳng gặp khó khăn gì lắm vì Cương đi bộ đội
nghĩa là đảm bảo cho việc thực hiện khẩu hiệu "gạo không thiếu một cân,
quân không thiếu một người" của xã, và cũng có nghĩa con ông chủ tịch cùng
lứa tuổi với Cương đàng hoàng lên đường đi học công nhân kỹ thuật bên Cộng hòa
dân chủ Đức mà không ai có thể nói năng gì. Anh bỗng nhớ đến đồng chí chính ủy
Trần Dương. Không có đồng chí Dương, anh sẽ ra sao? Chắc chắn không như thế
này. Cuộc đời có rất nhiều yếu tố chi phối, cái tốt cái xấu, đan dệt nhau với
bao ngẫu nhiên tạo nên số phận một con người. Chẳng hạn nếu buổi chiều hôm ấy,
về đơn vị an dưỡng, anh không ngồi một mình ở bờ suối và không gặp chính ủy ở đấy
để hai người trò chuyện rồi sáng hôm sau chính ủy cho gọi anh lên, bảo anh chép
lại cái báo cáo, và sau đó kéo anh về làm công vụ...
- Ông Liễn là người tôi rất phục.
- Ông ấy vừa bị khai trừ về tội lấy vợ hai. Sau kỳ ấy được kết
nạp lại ngay.
Phan Đình Liễn, người thuyền trưởng bình thường như trăm
nghìn người khác, nói ít người nghe, đánh cá không giỏi, vừa bị án kỷ luật bỗng
sáng ngời lên vì những chuyến đưa tàu vượt thủy lôi chở vũ khí vào khu Bốn, giờ
đã nghỉ hưu, đi thuyền đánh cá thủ công, chẳng ai còn nhớ đến. Người ta chỉ nói
đến Phiến. Ngô Đình Phiến. Thuyền trưởng tàu Hạ Long 10. Con tàu chở tôm cá
đông lạnh đi Hong Kong, Singapore, Nhật Bản. Người ta nói đến số chuyến đi nước
ngoài của Phiến, đến sự giàu có không thể tưởng tượng nổi của Phiến, đến chuyện
nhất định không chở vũ khí vào khu Bốn của Phiến và rút ra kết luận: Trên đời
này phải có ô dù. Không có cây Kơ nia là không sống được.
° ° °
Mãi sau bữa cơm chiều tàu bố tôi mới tách bến. Suốt cả ngày
hôm ấy mấy chú thợ trên bờ vẫn còn sửa tơi. Vặn ra. Lắp vào. Thử. Cái tơi chuyển
động như sấm ầm ầm. Hai con lợn vẫn thản nhiên nằm ngay ở cửa lối vào nhà vệ
sinh, chẳng buổn động đậy. Hình như chúng đã quen rồi. Tàu lấy thêm đá. Những
thoi nước đá nặng trôi trên băng chuyền cao chạy từ nhà máy lạnh, trồi sụt
nghiêng bên này lắc bên kia, lao vào mô tơ. ơ đấy nó bị đập vỡ thành những cục
đá nhỏ trút theo máng xuống hầm tàu. Đá bị đập bắn ra rơi vãi nhiều. Đá vụn rơi
xuống mặt cầu cảng đọng lại thành vầng, tan thành vũng, phí quá. Đứng ở đó mát
lạnh cả người vì hơi nước đá xông lên dù đang giữa mùa hè. Tôi giơ tay hấng một
nắm đá vụn cho vào mồm. Mát không chịu được. Giá ở Bắc Giang trưa nào chúng tôi
cũng được một ca đá này mà uống nước. Xe xích lô chở rau tới. Rau được đưa xuống
hầm đá. Thịt cũng được đưa xuống đó. Tôi nhòm xuống hầm. Hầm sâu và rộng. Ngọn
điện làm hầm đá sáng lóa như tuyết. Bác Nhớn cấp dưỡng khệ nệ xách xuống tàu một
can chíu chương, một bọc chanh ớt, tỏi to đùng. Chú Hồng, chú Sơn, cả hai chú đều
còn rất trẻ và đều là thủy thủ đang vục những bàn tay đã bọc trong túi ni lông
vào trong thùng mỡ lấy mỡ vuốt vào những sợi cáp ở boong lái. Trông thấy tôi,
các chú bảo:
- Nghịch đây. Hết việc rồi nghịch đây. Có nghịch với chúng
tao không thằng cu?
Tôi đứng xem các chú làm. Quần áo bảo hộ lao động bẩn thỉu,
đen đúa, dày cộp dầu mỡ. Cái áo của chú Hồng như bị quạc vào đinh, rách một
miẽng ở bả vai, phật phờ, nom rõ làn da rất trắng của chú ấy. Tôi ngạc nhiên:
Sao mặt chú Hồng xạm mà người chú ấy trắng thế. Các chú vuốt mỡ vào đoạn nào đoạn
ấy thẫm đen lại trông như mới. Những đoạn đã vuốt mỡ được khoanh riêng.
- Bố mày khoán chúng tao buổi sáng nay chỗ này đây. Phải năng
suất lắm mới hoàn thành đấy cu ạ.
Bỗng chú Hồng kêu lên bảo chú Sơn:
- Giẫm vào một cục mỡ rồi. Trừ năng suất!
Chú Sơn nhìn xuống chân: Một chiếc giày bảo hộ lao động bê bết
mỡ. Chú Sơn cười:
- Làm sao trừ được năng suất của tớ. Vì đây là mỡ nên nó mới
bẹp, còn nếu là một chất rắn thì nó vẫn còn nguyên dưới chân tớ hoặc bắn ra
ngoài theo đúng định luật vật lý học.
Đang lúi húi làm việc, bỗng chú Hồng ngẩng lên, ngơ ngác:
- Tàu nào to thế nhỉ?
Rồi nhìn ra phía giữa sông: Một con tàu lớn trắng toát tiến
vào, dài, cao, như một dãy phố nổi. Con tàu lừ lừ trôi gần như không một tiếng
động với những hàng cửa sổ tròn, những cần câu, những phao khoanh trắng khoanh
đỏ, những chiếc xuồng đặt trên boong cao ngất. Lố nhố những "ông Tây"
và có cả những "bà đầm" nữa đứng vịn lan can nhìn về phía chúng tôi.
- Tàu Đác-ta-nhan!
Chú Sơn kêu lên. Tôi hỏi chú Hồng:
- Sao chú biết có tàu to vào?
- Sóng. Sóng, mày không thấy à?
Lúc bấy giờ tôi mới để ý thấy tàu chúng tôi bị sóng từ con
tàu vừa đi qua nâng lên hạ xuống. Đác-ta-nhan đi qua rồi nhưng những con sóng vẫn
đổ bờ. Sóng to, tàu chúng tôi bị sóng hút xuống nom rõ cái dầm gỗ ốp cạnh mặt cầu
bảm đầy vảy cả rồi lại dâng lên, thành tàu che khuất mặt cầu. Chú Hồng khen
tôi:
- Thằng con ông Đảng này cứng sóng đấy. Lớn lên đi biển được
đấy.
Đến lúc ấy tôi mới biết tôi là người chịu được sóng, có thể
đi biển được. Điều ấy càng nung nấu quyết tâm trở thành thuyền trưởng của tôi.
Như bố tôi bây giờ. Hay như ông thuyền trưởng Đác ta nhan vừa qua đây. Chao ơi!
Còn gì sung sướng hơn làm thuyền trưởng một con tàu như tàu Đác ta nhan vừa qua
đây, cùng nó đi khắp nơi trên trải đất. Hai chú còn bảo bố tôi chịu sóng kém,
chỉ loại hai thôi. Chịu sóng giỏi phải là chú Hùng lùn, ông Suất máy trưởng,
bác Nhớn. Hai chú Hồng, Sơn cũng chỉ như bố tôi, loại hai.
- Mày loại một đấy cu ạ.
Câu nói ấy làm tôi như lớn hẳn lên. Tôi nhớ đến đám bạn học.
Dù chưa học cấp ba, nhưng chúng tôi vẫn thường thảo luận với nhau về ngành nghề
khi thi vào cảc trường đại học. Mỗi đứa nêu một ngành nghề khảc nhau. Bách
khoa. Giao thông. Lũ con gái trong đó có cái Nhã thì thích sư phạm. Chỉ có tôi
thích hàng hải. Cả thằng Toán nữa. Thằng này ngồi cạnh tôi, đã đến nhà tôi chơi
và gặp bố tôi. Cu cậu lúc đầu thích ngoại thương nhưng sau cũng theo tôi nói
thích hàng hải. (Nó cũng nói với tôi rằng nó yêu cái Nhã ngồi bàn trên). Nhưng
không biết mày có chịu sóng được như tao không? Tôi nói thầm với nó và thấy
hãnh diện về mình.
Đến bữa cơm chiều mọi công việc mới xong. Chúng tôi ăn đứng
quanh cái tơi vừa sửa, ngay cửa ra vào bếp. Cũng vì trời nóng quá. Đứng gió.
Chiều mới đỡ một tí. Nhất là khi mặt trời chui vào đám mây thành đằng tây. Mấy
xoong canh được đặt trên nắp hầm cá. Mỗi xoong là một mâm. Ăn mâm nọ rồi sang
mâm kia cũng được. Hết cơm thì vào bếp mà xúc trong vạc. Rau muống khoai sọ nấu
tôm. Cà pháo. Thịt kho. Cơm nước xong tàu tách bến. Tôi tụt vội xuống buồng máy
xem bác Suất khởi động máy, điều tôi vẫn ao ước từ khi đặt chân lên tàu. Bác mở
cái cánh cửa sát cabin mũi, một cầu thang sắt dốc đứng hiện ra, dẫn xuống một
vùng ánh sáng mờ mờ. Bác bật một ngọn đèn ắc quy. Cỗ máy chính đồ sộ nằm dài với
những dãy cò mổ, những ống cong cong đều tăm tắp, những núm tròn... Lại còn hai
cái máy nhỏ đặt giữa những lưới thép bảo hiểm, những hộp hình chữ nhật sơn xanh
đóng kín. Nhằng nhịt đủ các thứ, các kiểu hình dáng toàn bằng sắt thép đặt ở mọi
chỗ, những núm nhựa xanh đỏ, những đồng hồ với những dòng chữ nhỏ li ti. Tôi
nhìn máy móc trong hầm máy và lè lưỡi nhìn bác Suất, vô cùng kính phục. Không
biết bác đã học bao nhiêu năm để hiểu được những máy này, điều khiển được
nó lại còn sửa chữa được nó. Thấy tôi loăng quăng chỗ nọ chỗ kia, bác Suất
quát:
- Cẩn thận không ngã! Trơn lắm đấy!
Tôi đứng lại cạnh bác. Sàn buồng máy là một lớp sắt có những
đường gân chéo nhau hình quả trám, ánh điện từ những chiếc bóng hình bầu dục
màu trắng sữa hắt xuống óng ánh. Hình như có một lớp dầu mỏng phủ trên sàn sắt.
Từ tít trên cao, ánh sáng buổi chiều chiếu xuống yếu ớt qua các cánh cửa sổ
hình chữ nhật. Buồng máy sâu lắm. Buồng máy thấp hơn đường nước bên ngoài. Bác
Suất bảo thế. Bác lấy tay vặn một bộ phận nào đó rồi gạt nhẹ một thanh thép nhỏ.
Từ một cái hộp tròn, một ống thép trắng bóng thoi ra. Nó đẩy cái tay sắt thẳng
đứng sơn nâu. Cái tay sắt đó xô cả một khối thép tròn về phía sau. Một tiếng thở
dài to kinh khủng làm tôi giật mình. Như tiếng thở dài của con quái vật khổng lồ.
Bác Suất bảo tôi:
- Hơi ép đấy. Nó xì qua ống thoát.
Thế rồi tiếng máy tàu ầm ầm, lúc đầu còn như ngập ngừng, nghe
ngóng rồi mỗi lúc một rền lên điếc đặc cả tai. Có tiếng rẹt rẹt. Cái tay chuông
dưới chân bác, giống hệt cái tay chuông trong phòng lái cũng nhãn bóng ánh đồng
thau sáng lên ở một ô. Bác Suất kéo cần điều khiển cho mũi tên đồng nằm vào ô
sáng đó. Tiếng máy tàu vẫn rền rền nhưng nhẹ đi. Tàu rùng rùng làm chiếc xô dầu
đặc đặt trên sàn buồng máy lồi lõm như có những giọt mưa rào bắn vào. Tôi vội nắm
thang sắt trèo lên hành lang nhà bếp rồi vượt nhanh mấy bậc cầu thang sắt xoai xoải
tới buồng lái. Bố tôi đang đứng đó với chú Hồng quay vô lăng, cả hai chăm chú
nhìn về phía trước. Hóa ra tàu đã chạy được một quãng khả xa. Phía bên trái là
những bãi sú xanh um, bên phải là một nhà mảy lớn không biết là nhà mảy gì và
sau đó là những mái nhà tranh nhỏ bé. Còn lại chỉ là bãi sú. Nhiều tàu đi ngược
vào phía trong bờ. Họ biết bố tôi và giơ tay vẫy bố hoặc thét lên một câu gì đó
nghe không rõ khiến tôi rất tự hào. Khi ở buồng mảy, tôi kính phục tài năng của
bảc Suất, đổng thời tự hào về bố tôi. Bố tôi lãnh đạo được cả những người giỏi
như bảc Suất. Giờ đây tôi thêm tự hào về bố. Bố quen biết rất nhiều người tài
giỏi và, quan trọng hơn, những người này đều tỏ ra yêu quý bố.
° ° °
Trông nom con tàu bẹp với Cương còn có Kích, một máy trưởng
tính hâm hâm, làm như trâu nhưng không thích là không nhúc nhích, bực lên chửi
tất cả, chẳng chừa một ai. Và anh chàng Nguyễn Văn Nhược, nguyên thợ lạnh trên
bờ (công nhân của nhà máy nước đá) kiêm thợ điện. Trước khi về 307, Nhược đã là
một người nổi tiếng. Dạo ấy Nhược được điều từ phân xưởng lạnh tới văn phòng,
trông nom điện cho khu cơ quan, một công việc nhàn nhã bao người thèm muốn. Một
buổi trưa, Nhược được giao nhiệm vụ lên nhà ăn bưng hai suất ăn trưa về để giám
đốc tiếp khách. Ngày ấy căng tin chưa thi công xong, còn đang đào móng dở dang.
Mà xí nghiệp lại ở mãi đầu phía đông thành phố, đường đi lối lại còn đầy những ổ
gà, ổ voi to như hố bom lúc nào cũng có nước, nên chỉ ăn tối mới đánh xe ô tô
đưa khách lên phố, còn bữa trưa ăn ở nhà ăn, và sau này khi căng tin đã hoàn
thành thì ăn ở căng tin, cũng đủ các món, đủ các loại rượu, lại ở liền bên thật
tiện. Mười giờ Nhược đã đi lên nhà ăn, cách non kilomet, cái nhà ăn ở kề trạm
xá, giữa trung tâm xí nghiệp bao gồm mênh mông là đất đai, là xưởng lưới, xưởng
lạnh, xưởng cơ khí, nhà máy chế biến hải sản...
Mười một giờ chưa thấy Nhược về, chánh văn phòng Điều vẫn
bình chân như vại. Nhưng đến mười một giờ mười lăm mà chẳng thấy cái bóng cao kều
của Nhược đâu thì đã nghe như có điều gì không ổn rồi. Bà Nga, một nhân viên
chuyên đi mua văn phòng phẩm được chánh văn phòng giao nhiệm vụ "đạp xe
lên nhà ăn cho tôi, gặp thằng Nhược đâu thì bảo nó lên xích lô cùng với bà về
ngay không chết cả bây giờ". Việc đi lấy cơm này lẽ ra là của bà Nga, chứ
không phải của Nhược. Từ Viện nghiên cứu quanh năm đói rách, bà được ưu tiên
chuyển về đây khi sắp đến tuổi hưu là để chạy văn phòng phẩm và làm
những công việc linh tinh khác. Đi lấy cơm đích thị công việc linh tinh rồi.
Nhưng Nhược cũng rỗi. Hai người cùng rỗi tất nhiên Nhược phải đi. Bởi vì bà Nga
là chiến hữu với chánh văn phòng, và dư luận vẫn xầm xì rằng trong việc mua văn
phòng phẩm có nhiều thứ phải mua ngoài, bà Nga đều nâng giá, và được chánh văn
phòng duyệt chi, đó là cửa làm ăn của hai người.
Bà Nga lên xe đạp hối hả và trở về với vẻ mặt ngơ ngác: Nhà
ăn nó bảo thằng Nhược về lâu rồi, từ lúc mười một giờ kém mười lăm cơ. Hai chai
bia Tiger to, một đĩa tôm rán, một đĩa chả mực, một liễn canh sườn ninh khoai sọ
với rau rút... Thôi thôi bà ơi. Đang đói. Bà kể những thứ đó ra làm gì. Bà quay
lại một lần nữa xem, nó có giạt vào hàng vào quán nào nghỉ không. Thấy nó thì bảo
nó lên xe xích lô về ngay. Còn bà cũng đạp ngay về báo cho tôi biết chứ không
giám đốc lại đổ ấm chè cũ pha ấm chè mới rồi. Việc hết, quá trưa bụng đói mà cứ
chè đặc uống có chết người không cơ chứ.
Mười hai giờ, bà Nga hối hả đạp xe vào sân, chưa dừng xe đã hốt
hoảng: Đi các quán rồi, chẳng thấy nó đâu. Về từ sớm, mười một giờ... Chánh văn
phòng xua tay ra hiệu im. Bà Nga còn chưa hiểu ra sao thì giám đốc và vụ trưởng
vụ kế hoạch Bộ đã sóng đôi bước ra chiếc xe ô tô nổ máy chờ sẵn. Bà Nga thở
phào:
- Phải lên phố ăn thôi. Phen này chết với giám đốc. Khi chiếc
Toyota đã lăn bánh ra con đường bê tông dẫn tới cổng bảo vệ, chánh văn phòng
kéo tay bà đến trước cửa phòng dành cho chị em tổ bốc cá lảnh ở một đầu nhà,
giáp với nhà bếp: Trong phòng vắng tanh vì không có tàu về, chị em tổ bốc nghỉ,
một mình Nhược đang ngồi bệt xuống nền đá hoa, duỗi dài hai chân, mặt đỏ chín
và vẫn còn đang ngáp ngủ. Cơn buồn ngủ vì uống nhiều bia làm Nhược cứ díp hai
con mắt lại, không sao giữ được.
Đó là sự kiện có một không hai còn được nhắc đi nhắc lại cả
tháng trời sau đó. Mỗi người thuật lại câu chuyện theo góc độ của mình, có cả một
tí thêm thắt. Và cười. Cười giòn. Ai cũng cười giòn. Nhưng bao giờ tiếng cười của
chánh văn phòng cũng to hơn tất cả. Nhất là khi chính khổ chủ, giám đốc Trần Hữu
Bằng thuật lại cơ đận cứ ngồi chờ bữa ăn trưa. Mấy trưởng phó phòng giúp việc
đã về, chủ đã cho sổ sách tài liệu vào ngăn kéo, khách cũng đã cất kính vào cặp.
Mà không thể nào đứng lên được. Không thể đứng lên mời khách sang phòng bên ăn
trưa được. Lại pha ấm trà mới rồi hỏi sang chuyện trên bộ, hỏi thăm tình hình mấy
tổng công ty trong ngành, hỏi cả sang chuyện gia đình, vẫn chẳng thấy ông Điều
chánh văn phòng vào mời đi ăn cơm. Sốt ruột quá, chạy ra xem sao thì được biết
văn phòng đã cho người đi lấy cơm cả tiếng đồng hồ rồi. Cuối cùng đành phải nói
thật là bữa ăn trưa hơi bị trục trặc kỹ thuật một tí, và mời vụ trưởng lên khách
sạn... Tôi cam đoan vụ trưởng không thể nào hình dung nổi sự cố kiểu như vậy. Sự
cố ấy chỉ ở xí nghiệp mình mới có! Tất cả đứng giữa sân quây quanh nghe giám đốc
kể đến chuyện chủ khách đã cất tài liệu đi rồi mà cứ ngồi uống chè đặc nhìn
nhau không biết nói chuyện gì đều phá lên cười. Cười vì giám đốc không cáu (cơn
cáu kỉnh đã qua đi rồi). Cười như cười một chuyện buồn cười nhất trên đời.
- Nó lại học Trạng Quỳnh, cho thủ trưởng ăn món mầm đá.
Chánh văn phòng nói rồi cất tiếng cười. Ngửa cổ ra đằng sau cười,
cong người lại cười. Dài. Giòn giã. Có cung có bậc. Chờ đến khi chánh văn phòng
đi, giám đốc mới nói:
- Tôi sợ nhất tiếng cười của ông Điều. Bị nhịn bữa trưa tôi
cũng không sợ bằng. Sợ hơn bố chết.
Bà Nga, cháu Nhạn đánh máy, anh chàng Tín thi đua còn có tên
là giò Tìu lại được một trận cười.
Cũng không ai phê bình kiểm điểm gì Nhược trong chuyện ấy.
Hình như đến thế là hết rồi, chẳng còn gì để nói. Rõ ràng Nhược hâm. Mà hâm thì
nói cũng bằng thừa. Chỉ có từ nay đừng bao giờ cho Nhược đi lấy thức ăn thức uống
gì nữa. Nhược bị trả về xưởng lạnh. Phân xưởng lạnh trả Nhược về tổ chức. Nhược
về khối dự bị vì trước đây Nhược là thợ lạnh dưới tàu. Cuối cùng, Nhược được điều
về trông con tàu 307, dưới quyền của đại phó Phạm Cương.
Dưới tàu, những lúc buồn quá, Cương đã hỏi Nhược về chuyện ấy,
chuyện cứ đàng hoàng ngả ra đánh chén suất tiếp khách của giám đốc. Nhược cao
lêu đêu, da trắng môi hồng, trông rất thanh tú và trí thức, khác hẳn với nước
da cháy nắng, kiểu nói oang oang ăn sóng nói gió của các thuyền viên, rất thành
thật:
- Em cũng chẳng hiểu ra làm sao nữa. Mà có phải em đói khát
thèm ăn thèm uống đâu. Tàu nào về chúng nó cũng mời em xuống ăn uống với chúng
nó. Em đội trên đầu bữa ăn trưa, thấy nó thơm thơm. Đội lâu, đầu mỏi, lại nắng
nữa, mới ghé vào quán bà Bảy uống chén nước, nghĩ còn sớm chán. Rồi mở ra nhìn
thấy ngon quá. Lúc ấy lại thấy đói nữa chứ. Thế là quành vào Bãi Cát, hạ xuống.
Mở lồng bàn ra. Nhón miếng chả mực trước. Cũng định làm một miếng thôi. Nhưng
phải công nhận bọn nhà ăn làm chả mực quá ngon, em nghĩ cứ làm thêm miếng nữa.
Lại bốc cộng rau thơm. Thế là thèm bia. Mới mở một chai. Tu. Đang tu thì bố
Quân rỗ, báo vụ tàu 12 từ đâu đi ngang qua. Món gì thế này? Mà sao lại ngồi
ăn ở đây? Vừa nói xong ông Quân rỗ đã ngồi sụp xuống giằng lấy chai bia tu
một hơi. Anh biết ông Quân uống bia như thế nào rồi. Như hũ chìm. Ngon
quá. Đang khát. ơ đâu ra mâm cỗ thế này mày. Tao chịu mày. Ngồi xếp bằng giữa
giời mà nhắm thì vô địch. Bốc một miếng chả mực ăn, vừa nhai vừa nói vừa
nhìn em. Em bảo: Cơm tiếp khách ăn trưa của giám đốc đấy. Ông Quân sững lại: Thật
không? Chết. Thế thì gay. Mày liều thật. Đây. Tao đưa tiền mày chạy ra hàng bà
Bảy mua hai chai Tiger, đội về ngay, không bỏ mẹ. Mày đi ngay đi. Tao ở đây
trông cho. Em mở chai bia thứ hai: Anh em mình uống nốt chai bia này đã rồi em
đi mua sau. Bây giờ vẫn sớm mà. Em san bia sang cái vỏ chai không, đo bằng nhau
cẩn thận. Rồi cụng chai. Mỗi thằng một hơi và dốc ngược chai. Chiêu một con tôm
rán đi ông anh. Đừng lo. Một chủ một khách ăn làm sao hết đĩa tôm này. Đĩa tây
tôm to đùng cơ mà anh. Mỗi chúng em làm một con tôm rán. Rồi em cầm tiền chạy
đi mua bia. Hóa ra được ba chai. Thế là phải hóa kiếp một chai. Lại san ra chai
rỗng. Lại đo hai chai xem có bằng nhau không. Lại cụng chai, uống và nếm sang
món sườn ninh. Thấy được. Hơi men đã bốc. Ngà ngà. Thuận tay em mở một chai bia
nữa.
Ông Rỗ giật mình: Hăng thế. Cẩn thận. Toi mạng đấy. Toi cái
gì mà toi. Ông anh cứ uống đi. Tội vạ gì thằng Nhược này chịu hết. Không đổ
trách nhiệm cho ông anh đâu. Ông Rỗ rất láu, chỉ uống hết chai ấy rồi đứng dậy
đi. Còn một mình em... Lúc ấy chẳng biết giời đâu đất đâu nữa.
Nhược đỏ mặt cười. Nhớ lại, Nhược ngượng. Chiến tích ấy làm
Nhược quá nổi tiếng. Cả xí nghiệp, khối phòng ban phân xưởng trên bờ, anh em khối
dưới nước, không ai không biết chuyện.
Còn Quân. Cũng đã có một thời gian Quân về tàu 307 làm lính dự
bị của Cương. Đúng là Quân uống bia thì vô địch. Một buổi chiều, gần tan tầm,
Cương từ phòng tổ chức bước ra (cũng phải la cà các phòng ban chứ, nằm mãi ở
cái quan tài sắt chịu sao nổi) thì gặp Quân. Đại phó. Đi đâu đấy? Làm một
vại chứ? Quân khoác tay Cương. Đi vài bước, đến đầu hồi nhà, Quân đã rời
Cương ra, đứng úp mặt vào tường. Toa lét. Toa lét lâu. Mấy cô tài vụ
ôm vai nhau ríu rít đi qua. Đám cán bộ phòng khai thác đi qua. Cương đứng chờ
mà ngượng chín. Toa lét xong lại khoác tay Cương đi. Đến Ngã ba
Đông Dương, nghĩa là ra khỏi cổng bảo vệ chỉ khoảng dăm trăm mét thôi, vừa
vào đến quán bia, để Cương ngồi xuống ghế, Quân đã đi thẳng vào phía trong sâu
hút. Khi trở ra, ngồi xuống bàn còn nói:
- Ông có toa lét, cứ thẳng vào trong, rẽ phải.
Vừa toa lét xong đã toa lét nữa rồi. Chắc
Quân vừa rời khỏi một hội bia nào đó. Mặt Quân nom bì bì tai tái
thế kia là đã say lắm. Thế mà vẫn uống sáu vại nữa. Uống xếch.
Không mồi. Không cả thuốc lá, chỉ bắn thuốc lào. Quân uống và bảo Cương rằng
Quân vừa trốn thoát khỏi Túy, báo vụ tàu Hạ Long 21. Thằng cha ấy uống tởm
không chịu được. Cái chuyến tàu từ Hong Kong về Sài Gòn hổi đầu năm, Túy với Tụy,
em ruột Túy làm bên dầu khí, hai người lên khảch sạn, ngổi từ sảng đến chiều, uống
hết ba két bia Heineken, hai chai John đen, Tụy chảy mảu dạ dày phải đi cấp cứu
ở bệnh viện, còn Túy vẫn không việc gì. Tôi đi với Túy từ sảng đến giờ, chịu
không nổi, về nó không cho về, mãi mới trốn được.
Cương nhìn đồng hồ. Lúc hai người ra đây là bốn giờ hơn.
Thoát khỏi tay Túy để khỏi uống rồi lại kéo Cương đi uống. Lại cạn sáu vại. Lạ
thật. Thế thì trốn khỏi Túy làm gì. Cương quá biết Túy. Cái dạo bia hơi còn
khan hiếm, thỉnh thoảng phòng đời sống chở được mấy bom về, cả xí
nghiệp như hội. Cánh tàu kéo lên. Các phòng ban túa ra. Huy động tất cả các loại
cốc, chén, cặp lồng, chậu men, ca, bát, xô. Phòng nào phòng ấy, trong phòng,
ngoài hè, dưới gốc bàng, người ngồi ghế, người ngồi xổm. Uống như chưa bao giờ
được uống. Mùi bia ngòn ngọt nồng nàn. Vỏ lạc rang bay khắp nơi. Túy uống bằng
xô. Nhiều người định uống bia thi với Túy, nhưng đến khi Túy ra điều kiện: Uống
nhưng không được đi đái thì ai cũng chịu. Túy cười: "Uống bia hơi rồi đi
đái, có mà uống cả ngày".
Nhìn mười hai chiếc cốc chỉ còn dính bọt bia và thấy đã chiều
tà, đã tan tầm, Cương bảo Quân:
- Về thôi. Mình uống thế đã rồi đấy.
Hai người vừa bước ra tới ngã ba, thì Dũng, cũng dân báo vụ,
nhưng làm ở trạm thu phát trung tâm hớt hải hỏi Quân:
- Anh Quân có biết anh Túy đâu không? Anh ấy mượn xe đạp của
em từ sáng đến giờ vẫn chẳng thấy tăm hơi đâu.
Quân làm ra vẻ khiếp hãi, lè lưỡi hất hàm về phía một cái
quán bán mái sát với bờ tường Ty bảo đảm hàng hải. Cương nhìn về phía ấy. Túy
người mỏng kẹt, áo sơ mi in toàn hình những con cá bơi, một tay ôm vít ngang bụng,
đang còng người, vươn tay kia ra mổ mổ vào cô chủ quán bán bia, không nói được
thành lời, chỉ khò khè như một con vịt đực. Cô chủ quán hiểu được thứ ngôn ngữ ấy.
Cô rót từ can ra một vại bia hơi nữa cho Túy. Quân nhìn Túy rồi nhìn Cương. Lại
lè lưỡi dài hết cỡ, lắc đầu khiếp hãi. Cương cũng cười. Về khoản uống, Cương
không ngán bất kỳ ai, nhưng anh không uống cho đến chết như vậy. Ớ dưới tàu,
anh cũng bị nhiều trận vãi cả linh hồn, nhưng uống suốt từ sáng cho đến tối thì
không. Anh cũng biết mình đang hỏng dần. Ngày nào cũng phải có một tí men,
không có là không chịu được. Cũng bởi vì nằm dưới tàu bẹp quá buồn, anh hay đi
dạo các tàu bạn. Đến đâu họ cũng rót rượu, rót bia mời anh. Có những lúc anh
không muốn uống, nhưng họ cứ rót, cứ ép. Hình như họ thương anh nghèo, số phận
hẩm hiu. Mà Cương thì kị nhất cái tình thương ấy. Biết rằng chữ nghĩa năm năm đại
học đang rơi vãi đi, của thầy giả lại thầy, Cương tìm đọc các sách về ván lưới,
ôn lại lý thuyết thiên văn, đêm tối leo lên đỉnh cabin thượng làm những bài tập
về xác định vị trí tàu qua các vì sao. Cương nhớ đến thầy giáo dạy thiên văn.
Thầy bảo ở Vịnh Bắc Bộ chỉ có 88 chòm sao làm được thiên văn hàng hải. Còn sao
Polaris tức sao Bắc Đẩu quanh năm không rời khỏi cực một độ. Khi mình đứng đúng
ở Bắc cực thì sao trên đỉnh đầu. Cương chưa lên Bắc cực nhưng anh đã ở xích đạo.
Đúng là khi mình ở xích đạo thì sao Bắc Đẩu nằm dưới đường chân trời, không
nhìn thấy. Lần ấy vượt qua xích đạo trên một con tàu Liên Xô, cả tàu như mở hội.
Thuyền trưởng mời rượu và gắn cho thuyền viên mỗi người một huy hiệu "Vượt
qua xích đạo". Cương nhớ đến thầy dạy luật hàng hải. Rất thú vị. Như luật
Comoro. Nếu tàu hành trình đâm vào tàu neo mà tất cả mọi người trên tàu
hành trình đều giơ tay thề trước Chúa là không có ý định đâm thì không bị kết tội. Cương
đã đi săn cá voi khi thực tập ở Liên Xô. Trên tàu ăn muối. Như người đi săn con
hươu con hoẵng trong rừng chưa bắn được thú nên chưa có thịt ăn. Cương đã nghe
tiếng con cá voi cái ăn no dạo chơi và nằm thở phì phò trên biển Bắc... Cũng
không ngờ anh lại được làm hộ chiếu, được sang Liên Xô, với cái lý lịch
"đen ngòm" của mình. Có lẽ vì tấm huân chương anh đạt được trong những
ngày chiến đấu ở khu Năm. Những ngày ấy đâu dám nghĩ tới ngày về. Chỉ một tháng
đã phải bổ sung quân ba đợt. Cố mà giữ lấy phiên hiệu. Lính cũ chỉ còn dăm người.
Bộ đội xanh xao vàng vọt vì đói, vì bệnh, vì không thuốc men, vì vác nặng. Xác
lính ta lính ngụy chết thối rừng. Những đoàn lính ngụy bị bắt làm tù binh trông
mới tiều tụy làm sao. Quần áo tả tơi. Ông quần cắt cụt, xé toang tới đũng để vừa
đi vừa đái, bởi trong khi đang áp giải trên đường thì không một tù binh nào có
thể dừng lại. Anh bao nhiêu tuổi. Dạ, con năm hai tuổi. Sao già thế còn đi
lính cho nó? Dạ, con trốn nhưng không được. Con đâu có ủng hộ chính phủ Thiệu.
Vừa lúc ấy một chiếc máy bay bay qua, người lính Sài Gòn kêu lên: Máy bay ông
Thiệu đấy! Và biết mình lỡ lời, anh ta hét to: Máy bay thằng Thiệu đấy. Rồi hát
rất đúng điệu, rất hùng hồn: Thề cứu lấy nước nhà thề hy sinh đến cùng, Việt
Nam anh dũng xông tới. Vận nước đã đến rồi... Những ngày ấy về trạm điều
dưỡng, mỗi ngày một trận sốt rét (giờ đây nghĩ lại vẫn thấy rùng mình) Cương
không viết nổi lá thư. Mắt hoa, tay không cầm nổi cái bút. Nhưng vẫn phải đứng
xếp hàng chờ gọi tên để nhận suất ăn, nếu không sẽ bị mất cắp. Những ngày ấy chỉ
nghĩ đến mẹ và nghĩ đến những con đường Trường Sơn đang chờ đợi khi mình lại sức,
lại mang súng hành quân. Nào ngờ đâu được làm công vụ ngồi com măng ca với thủ
trưởng Trần Dương bên bờ Bắc. Một công việc nhàn nhã. Một công việc xa bom đạn
và sốt rét. Thế rồi một hôm đồng chí Dương bảo Cương:
- Anh sắp nhận nhiệm vụ mới, chuyển sang ngoại giao, làm tùy
viên quân sự ở nước ngoài. Trước khi đi anh muốn giúp em, cử em đi học sĩ quan
chuyên nghiệp. Ý em thế nào?
Cương hơi hoang mang. Nghề chinh chiến không hợp với anh. Anh
chẳng thích thú gì làm sĩ quan chuyên nghiệp. Đấy là chưa kể cái lý lịch của
anh rõ ràng không thích hợp với con đường binh nghiệp. Nếu thủ trưởng biết bố
Cương đã bị tòa án nhân dân đặc biệt kết án tử hình, và buổi sáng hôm thi hành
án, bố đã bị bịt mắt trói vào cây chuối hột sau đình, đội hành quyết đã chuẩn bị
sẵn sàng và ngứa ngáy chân tay chỉ muốn bóp cò súng, thì trời đổ mưa rào, không
một ai đến xem, mà không có ai xem thì chẳng còn tí ý nghĩa giáo dục, phát động
nông dân đứng lên nào, nên đội đã quyết định hoãn lại đến hôm sau. Cơn mưa đã cứu
bố anh. Ngay buổi chiều, lệnh sửa sai về xã. Bố anh thoát chết. Bố anh chỉ là địa
chủ thường mà không phải bí thư Quốc Dân đảng như bà con nông dân đã tố nữa.
Cương chỉ muốn ra quân nhưng anh không dám nói thật điều ấy, sợ bị đánh giá tư
tưởng.
- Báo cáo thủ trưởng, lý lịch của em thủ trưởng biết rồi. Em
có được đào tạo sĩ quan cũng khó mà tiến bộ được. Cũng chỉ thiếu úy là kịch trần.
Còn đi học cơ công thì em không muốn. Em xin thủ trưởng cho em tiếp tục đi chiến
đấu.
Chính ủy nhìn anh như mới gặp lần đầu:
- Anh kỳ này sang ngành ngoại giao nên không mang chú đi theo
được. Còn đi chiến đấu thì anh không cho chú đi đâu. Yếu như chú chiến đấu làm
sao được.
Đến lúc ấy Cương mới rụt rè:
- Hay là em đề nghị thủ trưởng cho em ra quân có được không ạ.
Liều mạng nói ra điều ấy, Cương toát hết mồ hôi, sợ bị cho là
sợ chết, cầu an hưởng lạc. Nhưng không. Chính ủy ôn tồn:
- Ra quân về nhà làm gì? Đi cày à?
Cương đã định vâng, nhưng lại nghĩ tốt nhất là nên nói thật:
- Em về đi học tiếp.
- Thật không?
- Báo cáo thủ trưởng thật ạ.
Cương không ngờ sự thành thật của mình lại đáp ứng đúng lòng
mong muốn của chính ủy. Đồng chí chính ủy cho người về tận nhà, gặp bố mẹ
Cương, thấy cả nhà quyết tâm cho Cương đi học tiếp, đã cho anh ra quân. Không
những thế còn chỉ thị cho bộ phận hậu cần ưu tiên giải quyết cho Cương những
nhu cầu cần thiết, nhưng anh chỉ xin hai bộ quần áo Tô Châu, cái mũ cối và bốn
gói mì chính, thứ thực phẩm cực kỳ giá trị ngày ấy về làm quà cho gia đình và
bà con thôn xóm. Anh học tiếp những năm cuối cùng ở phổ thông rồi thi vào đại học.
Rồi đi thực tập ở Nga. Chuyện đi Nga của anh hẳn cũng có một người nào tốt bụng
thông cảm với anh. Như đồng chí Trần Dương, chính ủy đơn vị an dưỡng đã tốt với
anh.
Biết bao nhiêu mộng mơ nhưng rồi phải nằm trông con tàu bẹp.
Những lúc buồn chán, không biết làm gì,
Cương viết một bài về xác định vị trí tàu khi mục tiêu nằm
ngoài hải đồ với những công thức dài suốt một dòng, những phương vị vô tuyẽn
ở cự ly gần có độ chênh giữa đường cong tà hành và đường cong vòng lớn không đảng
kể. Bài viết được đăng trên một chuyên san của ngành. Cũng là để trí não tập
thể dục một chút, và cũng là để cho mọi người nhất là mấy ông lãnh đạo biết
trong đầu thằng Cương có những gì.
Khi viết thì hăm hở thế. Nhưng đến khi in rồi Cương mới biết
mình mắc sai lầm. Trừ một lần bí thư khen mà anh nghĩ sếp cho uống nước đường,
giám đốc và nhất là mấy ông tổ chức cho rằng đây là cách anh phản ứng về việc bố
trí anh trông nom con tàu bẹp. Như một lời trách lãnh đạo không biết dùng người.
Như một cách chơi trội với một số thuyền trưởng trình độ trung cấp, sơ cấp,
đánh cá chỉ dựa vào kinh nghiệm. Vì vậy anh còn bị anh em khối dưới nước khích
bác nữa. Cái biệt danh "phó tiến sĩ" của anh có từ dạo ấy. Đi đến
đâu, cũng râm ran những lời chào phó tiến sĩ. Cương chỉ cười. Bây giờ anh không
viết bài nữa. Nhưng thỉnh thoảng đêm đêm vẫn leo lên đỉnh boong thượng đánh
mooc xơ bằng dàn chớp. Hoặc làm thiên văn. Bởi vì anh em đánh cá còn đêm nằm mơ
những lưới chài, chứ anh thì mơ gì. Gia đình không. Vợ con không. Bố mẹ anh ở
mãi quê. Em út cũng không. Không phải rồi. Em út có đấy nhưng cũng chỉ là kiểu
ăn bánh trả tiền, buồn quá thì đi, chẳng lưu lại một điều gì để mà mơ, mà nghĩ
ngợi. Đã có lần Cương nghĩ mình sẽ lấy vợ. Một nữ kỹ sư chuyên về ván lưới, học
sau anh ba lớp. Cô Mơ, cán bộ phân xưởng lưới, sau chuyển về phòng khai thác,
chuyên theo dõi ngư trường. Thư ký công đoàn, kiêm bí thư chi đoàn khối phòng
ban, Mơ là một người gương mẫu về mọi mặt. Đọc báo đầu giờ, họp chi đoàn phát động
thi đua chào mừng ngày thành lập Đảng, họp sơ kết phong trào thi đua vụ cá Nam,
phát động vụ cá Bắc, tổ chức biểu diễn văn nghệ trong xí nghiệp và tham gia hội
diễn toàn thành, Mơ đều là người chịu trách nhiệm. Rồi học lớp cảm tình Đảng. Rồi
được kết nạp, được công nhận chính thức rất nhanh và vào chi ủy. Cuộc họp nào
Mơ cũng là người phát biểu đầu tiên, nếu không là người điều khiển. Mọi người tới
họp hay nghe đọc báo đầu giờ, thường kẻ trước người sau lại còn lan man chuyện
nọ chuyện kia, con cà con kê, bao giờ Mơ cũng là người lên tiếng chấm dứt tình
trạng ấy: "Các đồng chí ổn định trật tự, ta bắt đầu sinh hoạt". Có lẽ
vì mải mê phấn đấu, Mơ đã quên chuyện yêu đương. Ớ cái nơi con gái được coi là
mì chính cánh này, ngoài ba mươi tuổi Mơ vẫn độc thân. Thoạt đầu người ta ngại
một người có trình độ như Mơ, rồi mỗi năm mỗi tuổi... Đi đánh thuê chuyến nào về
bến, Cương chưa kịp nộp nhật ký khai thác, Mơ đã xuống tàu gặp Cương hỏi han
ghi chép. Vui tính, năng động, Mơ nói với anh về kết quả khai thác của các tàu
bạn, và đánh giá cao khả năng của Cương, chia sẻ với anh những thiệt thòi anh
phải chịu. Mơ đã mời anh về nhà Mơ bên Hổ Lao, gặp bố mẹ Mơ. Thế rồi khi anh trở
về con tàu bẹp, Mơ cũng xuống trò chuyện với anh. Anh đã quen với độ cao của cô
khi ngồi trong cabin nhìn cô đi ngang qua cửa sổ. Anh cũng đã nhận ngay ra chiếc
xe đạp Thống Nhất sơn xanh của cô giữa hàng chục chiếc xe đạp khác mỗi khi anh
lên khu vực cơ quan. Một hôm tan tầm, anh đang đi bộ ra cổng bảo vệ thì Mơ cùng
bao người nữa đạp xe ngang qua. Thấy anh, Mơ dừng lại, hỏi:
- Anh đi đâu, lên đây em đèo.
Thật quá bất ngờ. Anh bám nhẹ eo cô, nhảy lên pooc ba ga trước
bao nhiêu cặp mắt mà thấy lòng mình ngập tràn hạnh phúc. Một hôm khác, cô xuống
tàu anh đi đánh thuê nhận một con cá song anh để dành phần cô. Tàu bốc cá đã ba
ngày, đã trở lại vắng vẻ vì đã hết mùi tanh của cá. Anh vào hầm chế biến, mở tủ
đông lấy ra con cá song để cô gói vào giấy báo. Rồi bưng nước vào tận phòng cho
cô rửa tay. Cô vừa rửa tay vừa kể cho anh một chuyện vui. Chuyện cô Thịnh với
anh chàng Tuyên văn phòng đảng ủy đi xin cá.
- Hôm ấy em cũng xin được cá nên về muộn. Cả khu cơ quan đã về
hết. Thấy cửa văn phòng đảng ủy vẫn mở, em mới đi lên xem còn ai không, sao lại
quên không khóa cửa thế này hay vẫn còn sinh hoạt tổ Đảng tổ công đoàn thì nghe
thấy tiếng anh chàng Tuyên tận tít phòng trong: Nước đây rửa đi. Rồi tiếng cái
Thịnh: Anh rửa đi. Em lau rồi. Anh có biết họ làm gì không? Đố anh đoán được.
Cương cười nhìn thẳng vào mắt Mơ:
- Họ... ấy à?
Mơ long lanh đôi mắt:
- Em cũng tưởng họ làm gì với nhau cơ. Nhưng hóa ra họ vừa
chia cá xong. Mỗi người một gói. Tuyên đem nước vào cho cái Thịnh rửa tay,
nhưng cô nàng lau tay rồi. Khiếp đứng bên ngoài nghe cứ như là họ vừa... sinh
hoạt với nhau xong ấy.
Và Mơ cười ngặt nghẽo:
- Bây giờ thì ngược lại. Em rửa. Anh lau.
Cương đã ôm hôn Mơ ngay lúc đó. Mơ đáp lại cái hôn mới nhiệt
tình sôi nổi làm sao.
Thế rồi một buổi tối đã hẹn trước, Mơ xuống tàu anh, con tàu
307 nằm mãi cuối cảng, lẻ loi đơn độc, cầu tàu không một ngọn đèn. Chỉ một mình
Cương trên tàu. (Buổi tối Nhược, Thuyền, Kích thưòng về nhà ngủ). Hai người ôm
nhau trên boong. Cương dắt Mơ vào buồng mình, rồi giơ tay tắt công tắc, bế thốc
Mơ lên giường. Nhưng Mơ giãy giụa thoát khỏi tay anh, bật đèn lên ngay lúc đó.
Thấy vẻ hoang mang ngơ ngác của Cương, Mơ kéo anh tới bàn tiếp khách:
- Từ từ chứ. Chuyện đã nào.
Hai người ngồi ghế. Chuyện. Chỉ Mơ nói. Cương cố trấn tĩnh, dằn
mình nghe Mơ nói. Toàn chuyện công việc. Chuyện xí nghiệp. Chuyện các phòng
ban. Làm ra vẻ lắng nghe, nhưng Cương cứ nhìn hai bàn tay Mơ đặt trên bàn và
giơ tay nắm lấy. Mơ rút tay ra, bảo anh.
- Chuyện một tí đã. Đâu có đó mà.
Thế nghĩa là Mơ hứa sẽ cho Cương điều anh đang mong, Cương biết
cái gì sẽ đến cùng anh. Vậy hãy bình tĩnh chờ đợi. Đừng tỏ ra mình chỉ chăm
chăm tới chuyện ấy. Mặc dù anh muốn ôm lấy Mơ, hôn vào đôi môi kia, và cùng
nhau ân ái. Có lẽ Mơ sợ, đây là lần đầu tiên đối với Mơ, lần đầu tiên đối với một
đời con gái nên Mơ sợ, anh nghĩ. Lúc này trông Mơ mới đẹp làm sao. Hai hàng
lông mày gọn cong mà anh gọi là lông mày trăng non. Đôi mắt nhìn anh mới tin cậy
làm sao! Anh sẽ lấy Mơ, chúng mình sẽ lấy nhau Mơ ạ. Dù Mơ là bí thư chi bộ còn
anh vẫn là quần chúng. Anh choàng tay lên vai Mơ, nhưng Mơ hất ra, cái hất ra
hơi mạnh và quyết đoán khiến Cương giật thót người, tự trách mình đã không kìm
giữ được. Anh sợ bị Mơ khinh và lại ngồi im ngoan ngoãn.
- Tí nữa nào. Để em kể nốt cho anh nghe. Cái Nghĩa ở đài
trung tâm cũng không tốt với em đâu. Con ấy kèn cựa với em, phấn đấu hăng,
không buổi sinh hoạt nào vắng mặt. Nó muốn vào chi ủy, nhưng vào làm sao được.
Bố nó trước đây làm cho Nhật đấy. Nhà giàu lắm. Được kết nạp là may lắm rồi.
Rồi Mơ nói sang chuyện một anh bảo vệ, chuyển từ xí nghiệp gạch
ngói sang đây, đã sửa lại lương từ 50 đồng thành 56 đồng, dễ lắm, chỉ lồng tờ
quyết định vào máy chữ, đánh số 6 đè lên số 0 là xong thôi, kỷ luật Đảng sáu
tháng, mãi mới được sinh hoạt. Chưa hết. Còn chuyện trưởng phòng Trần Văn Dưỡng
của Mơ. Lẽ ra được kết nạp lâu rồi. Chỉ tại cái mồm. Kế hoạch mười nghìn tấn cá
trên giao xuống là pháp lệnh, làm được đến đâu thì làm. Trách nhiệm thuộc về đảng
ủy giám đốc về toàn xí nghiệp chứ đâu thuộc về mình. Cứ lên tiếng phản đối. Kỳ
này cũng thuộc diện đối tượng rồi đấy. Em bảo: Anh cứ ngậm miệng cho em nhờ.
Làm thế nào thì làm. Đừng để bất kỳ một đảng viên nào trong chi bộ phản đối. Chi
bộ cũng đã đặt chỉ tiêu trong năm nay phát triển từ một đến hai đảng viên...
Tai Cương ù đi. Hoàn toàn không hiểu Mơ nói gì. Có lúc muốn
vùng lên chạy ra boong. Nhưng vẫn ngồi cố làm ra vẻ chú ý lắng nghe để Mơ khỏi
khinh mình là người xác thịt. Cho đến khi Mơ đứng lên tắt điện rồi nhẹ nhàng cởi
bỏ hết áo quần, nằm trên giường, Cương vẫn ngồi trên ghế, thần kinh ê ẩm, chân
tay rã rời như vừa trải qua một thử thách quá sức gần như tra tấn. Đừng vội
vàng, hãy ngồi lại đây một lát để bình tĩnh lại, đã cố được đến bây giờ... anh
tự nhủ. Dưới ánh sao và những ánh điện từ xa chiếu qua cửa sổ để mở, (dù mở
nhưng rất an toàn vì bên dưới là boong lái sâu thăm thẳm không ai có thể trèo
lên nhìn vào được) anh thấy rõ thân hình trắng nõn của cô gái trên suốt chiều
dài chiếc giường của anh, cả đám lông đen đầy khiêu khích và chờ bàn tay Mơ
chìa ra về phía mình mà thấy từ đầu đến chân như tê liệt. Vẫn nằm trên giường,
Mơ gọi anh:
- Nào! Ta sinh hoạt nào anh.
Anh chết lặng. Một câu hoàn toàn không chờ đợi, không ngờ tới.
Còn hơn một gáo nước lạnh! Hơn cả sự thất vọng! Nhất là sau khi anh đã căng hết
thần kinh nghe Mơ nói biết bao nhiêu chuyện. Nào! Ta sinh hoạt nào anh. Sao
đầy tính chất công việc rạch ròi thời gian đến thế. Những công việc phải làm. Cứ
như trước khi đọc báo, trước khi họp công đoàn, họp Đảng. Sức công phá của nó
là ngay tức thì. Toàn thân anh mềm nhũn, xìu đi. Như có một người thứ ba nào đó
vừa có mặt ở đây. Như đang tham gia một cuộc họp mà Mơ là chủ tọa. Cương ngồi
chết gí trên ghế. Anh thở dài, một tiếng thở dài dài nhất trên cuộc đời này. Tiếng
Mơ như giễu cợt:
- Tự ái à? Không sinh hoạt à?
Lại thêm một búa nữa. Anh gục hẳn. Nhưng không thể để Mơ một
mình ở đó. Anh bước tới giường, nằm xuống bên Mơ, nghiêng người quàng tay ôm lấy
Mơ như một nghĩa vụ. Người anh đẫm mồ hôi như bị thoát dương. Anh tự động viên,
cố gắng hết mình một cách tuyệt vọng dù biết hoàn toàn vô ích. Thằng bé con của
anh rũ xuống. Cương thấy nó già hơn anh. Tư cách hơn anh. Triệt để hơn anh. Nó
hoàn toàn độc lập với anh và điều đó làm anh kinh ngạc. Mơ tìm mọi cách khuyến
khích anh, kiên nhẫn chờ đợi rồi cuối cùng ngồi dậy không giấu vẻ thất vọng,
cáu kỉnh và khinh bỉ:
- Trắng thế này, đẹp thế này mà không làm ăn gì được! Sao có
người chán thế?
Và khi đã mặc quần áo bước ra cửa còn ném lại một câu như một
lời nguyền rủa:
- Anh có lấy vợ cũng không có con được đâu.
Cương im lặng không nói một lời. Không thanh minh. Nuốt cái
nhục vào người. Mọi ý định tốt đẹp về Mơ tan biến. Thậm chí anh còn giễu thầm
mình là đồ bất lực, điều Mơ không muốn nói thẳng ra.
Từ bấy chấm dứt niềm vui mới nhen nhúm là chờ độ cao quen thuộc
của Mơ hiện ra qua ô cửa cabin, chấm dứt những buổi trưa lang thang lên phòng
Mơ, cùng Mơ chuyện trò, trêu Mơ về những bãi cá Mơ ghi trên hải đồ, bãi cá nào
cũng một khoanh phấn đỏ hình bầu dục xoai xoai trứng gà trứng vịt. Không những
thế còn tìm mọi cách tránh mặt Mơ. Từ bấy lại lên boong thượng ôn thiên văn bằng
dàn chớp. Lại lang thang quán rượu. Và càng mong được điều đi đánh thuê cho một
tàu nào đấy. Mong đến niên đến hạn để được thi lấy bằng thuyền trưởng rồi chuồn
khỏi ngành đánh dậm...
Dù nghĩ chuồn khỏi nghề đảnh dậm nhưng đi tàu nào
anh cũng cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Do tính của anh. Do nằm mãi trên
con tàu bẹp được thoát cũi sổ lồng, được ra biển, được thay đổi không khí, được
lĩnh đồng lương và các khoản tiền nhiều gầp ba bốn lần lương cơ bản. Được nhìn
thấy chân trời dù biết cái chân trời nhìn thấy ấy không phải là chân trời thật
mà chỉ là chân trời biểu kiến... Các ban chỉ huy tàu đặc biệt thích
Cương ở mục tác nghiệp hải đồ. Nhất là những thuyền trưởng chỉ có trình độ sơ cấp
nhờ kinh nghiệm, nhờ thâm niên mà lên đánh giá rất cao khả năng ấy của anh.
Thuyền trưởng Mây còn bảo anh:
- Giá mày đi với tao, hai thằng bổ sung cho nhau. Một thằng
kinh nghiệm, một thằng lý thuyết...
Cương cười:
- Lý thuyết học nhanh thôi. Nhưng kinh nghiệm của anh phải bạc
đầu mới có được.
Cương tự trách mình đã có thói xấu ấy. Thói xấu do gần như cả
đời làm thuyền phó dự bị, nên không tự tin, cứ dựa theo "thời tiết" của
người đối thoại. Thói xấu nói lấy lòng người khác. Lý thuyết học nhanh
thôi. Phải cày cuốc năm năm. Phải trực chiến nhà trường tuần này sang tuần
khác. Phải ăn đói đến run chân run tay và khi đi qua cổng bảo vệ chớ có
hát "cuộc đời vẫn đẹp sao tình yêu vẫn đẹp sao", bởi vì rất
nguy hiểm, nhà trường cho là mỉa mai châm chọc, có thể dẫn đến bị đuổi học. Phải
có tài cho vào mồm nuốt gọn cái bánh rán bà Miêng căng tin vừa vớt từ chảo ra
rá, mỡ còn sôi xèo xèo mà bà ấy không biết. Hay lấy trộm của nhà bếp cái chân
giò vừa luộc xong cũng nóng như vậy nhét vào cạp quần ung dung thong thả đi về
ký túc xá như chẳng có gì phải vội vàng để mấy anh em cùng buồng lấy manh
xơ lam xẻ ra chấm muối uống rượu thưởng thức chiến công. Phải tính được
tâm của ván, phải làm thế nào cho lưới làm việc, từ hàm chì đến đụt
lưới...
- Tao sẽ xin mày. Làm đơn lên tổ chức đàng hoàng. Cái thằng đại
phó của tao làm ăn dở ẹc. Đại phó là phải lo nhân lực. Cùng với thủy thủ trưởng
lo lưới chài, thế nhưng chuyến này sểnh chuyện này, chuyến khác sểnh chuyện
khác. Ai lại chuyến vừa rồi tao đánh khu 27 lưới xúc bùn. Trở về khu 19 cũng lại
xúc bùn. Rồi về đến Long Châu, tao cho thả mẻ lưới kiếm cá chim ăn. Cũng lại
xúc bùn. Ớ đâu còn nghi ngờ chứ ở Long Châu cũng xúc bùn thì thôi hỏng rồi. Tao
ngã người. Chết mẹ! Chúng nó lấy giềng chì tàu 400 (mã lực) và bảo giềng chì
này cũng như giềng chì tàu 250 (mã lực)! Thôi mày sang với tao. Thằng Nho làm hại
tao. Lưới tao xúc bùn là tại nó. Đấy là chưa kể tàu về còn đang lấy đá phủ mặt
đã cho không biết bao nhiêu là cá. Đại phó là con chó giữ nhà. Làm ăn thế chỉ
có chết.
Lê Mây đã làm đơn xin Cương, nhưng không được. Điều ấy Cương
đã lường trước. Nho là anh em con chú con bác với chủ tịch công đoàn. Không những
Nho không bị bật đi mà Lê Mây suýt phải lên khỏi tàu. Đại phó là con chó giữ
nhà. Nhưng giữ sao nổi. Tàu nào về chẳng mất hàng tấn cá. Từ lúc tàu về bến cho
đến khi bốc cá xong phải đến hàng trăm trường hợp xin cá mà không thể không
cho. Mây nói vậy thôi. Mây chính là người cho cá nhiều nhất. Bản tính thương
người, biết ai cũng gặp khó khăn, những người xuống tàu xin cá là những người
đang gặp khó khăn, cực chẳng đã mới phải làm như vậy. Mây không từ chối một ai.
Chưa kể Mây còn hay bốc, như anh em nói "khi hứng lên ký giấy bán cả Vịnh
Bắc Bộ!"
° ° °
ơ bến nóng thế. Không mộtgợn gió. Thế mà mới ra tới gần cửa
sông đã thấy mát mẻ dễ chịu. Gió hây hẩy. Nước sông trong hơn, không đục ngầu
phù sa. Sóng cũng đã to hơn. Những con sóng từ xa rướn đến đập vào mũi tàu tung
bọt. Cửa sông có nhiều thuyền. Những chiếc thuyền nhỏ có hai cây sào xòe ngang
ra hai bên mạn là là mặt nước. Bố tôi bảo chú Hồng:
- Có tôm đấy. Thuyền tôm nhiều thế này, mình ra đúng lúc
đây.
Thì ra đấy là những chiếc thuyền đánh tôm, những chiếc thuyền
có hai chiếc sào xòe ra hai bên. Tàu của chúng tôi cũng có hai chiếc sào xòe ra
hai bên như vậy. Nhưng to hơn nhiều. Bằng sắt, một ống sắt to, hàn giằng với những
thanh sắt tròn nhỏ trông như hai chiếc cần cẩu nằm ngang. Vài ba người lớn có
thể trèo ra tận ngoài cùng vẫn không việc gì. Các chú gọi là tăng gông. Đã
không nhìn thấy những bãi sú hai bên nữa. Ngoảnh lại: Chỉ còn là những vệt xanh
thấp sát mặt nước mãi xa. Thấy tôi mon men đến cạnh chú Hồng và sờ tay vào cái
tay lái bằng gỗ, bố như đoán được ý tôi. Bố bảo chú Hồng:
- Chú cho thằng cháu lái một tí.
Quá bất ngờ. Tôi chỉ mong như vậy mà không dám nói. Bố muôn
năm! Tôi đứng vào chỗ chú Hồng. Nhoài người ra quay vô lăng. Cũng không nặng lắm.
Khó mà nói được sự sung sướng của tôi, sự tự hào của tôi. Tất cả bọn bạn đã đứa
nào được như tôi chưa. Giá cái Ngàn nhìn thấy anh nó như thế này. Con bé rất
hay chành chọe, kê kích tôi. Thằng Toán nữa. Tao đang lái tàu đây, mày có biết
không. Tôi thèm có máy ảnh quá chừng. Chụp một bức ảnh tôi đang cầm vô lăng, mắt
nhìn về phía cửa sông trải rộng. Bức ảnh ấy mang về lớp khối đứa lác mắt. Con
tàu rẽ sóng đi theo sự điều khiển của tôi, và dưới buổng máy là bác Suất. Tiếng
máy rền rền. Sóng đập vào mạn tàu dào dạt... Nhưng niềm vui của tôi kéo dài
không lâu. Một chiếc tàu hải quân sơn xám cùng một con tàu kéo những sà lan
than rằm mạn tiễn vào. Bố tôi bảo chú Hồng cầm lái. Trước mắt tôi, những đám
mây ẳen kịt bay tới như trời đang lập một cơn dông. Nhưng tôi vẫn nhìn thấy trời
xanh ngăn ngắt phía sau. Gió từ phía mũi tàu ào ào thổi. Trời phía ấy mở rộng.
Chân trời lùi xa mãi. Nhịp đung đưa của con tàu mạnh dần. Chưa bao giờ tôi
trông thấy một khoảng trời rộng như thễ này. Một bầu trời lổng lộng! Bỗng có tiễng
ca cải lương vang lên từ chiễc loa truyền thanh treo trên trụ đèn sân thượng.
Biễt đã tan tầm. Đã năm giờ rưỡi rồi. Tôi nghĩ đễn mẹ tôi. Đễn con đường ra giễng
nước. Cái giễng tròn, miệng giễng chỉ to hơn mặt sàng sâu thăm thẳm. Tôi kéo
cái cần tre vít xuống, cho gầu chạm mặt nước và hất cho gầu nghiêng đi, múc đầy
gầu nước, rồi kéo dây, thanh sắt buộc ở cuối cần giúp tôi đưa gầu nước lên miệnggiễng
xây cao. Cứ như vậy gầu này tới gầu khảc đổ vào hai xô. Rồi hai tay hai xô xảch
vào nhà tắm, đổ cho đễn khi đầy vại. Để cái Ngàn và mẹ tôi tắm. Tôi thì tắm
ngay ở giếng Tôi nhớ đễn tiễng chổi quét sân của cái Ngàn. Nhớ tiễng con lợn hộc
hộc đòi ăn ngoài chuổng. Nhớ đàn chim bay đỗ trên cây nhãn cằn cỗi ngoài vườn.
Nhớ con đường đất núi đỏ Hồng với những mảnh đả dăm đỏ như son dàn dạt ra hai
bên đường mòn, lối đi đễn trường ở sườn đổi... Năm giờ rưỡi. Cái giờ ba mẹ con
tôi bận bịu.
Con tàu vẫn thẳng hướng xé nước ra khơi. Tôi quay lại nhìn về
phía tây. Mặt trời đã xuống thấp. Chân trời rực đỏ. Cửa sông chúng tôi vừa vượt
qua đã xa lắm, thấp lắm, gần như nằm dưới mặt nước. Điệu lắc con tàu mỗi lúc một
mạnh. Tiễng ào ào của những con sóng bị thân tàu đập.
Nước xanh thẫm. Bốn cái ván lưới treo ở hai càng chênh chếch
là là trên sóng như những bàn chân con vịt giời sắp đáp xuống mặt nước. Một sợi
cáp võng từ đầu càng theo nhịp đu đưa của con tàu, lạng cắt những vạt nước mỏng
tung lên trắng xóa như người ném thia lia. Biển đây rồi! Tôi đã đi tới biển!
° ° °
Cuộc họp do giám đốc xí nghiệp triệu tập bàn về chuyển hướng
sản xuất kinh doanh được tiến hành ở hội trường mới, nằm ở tầng hai khu nhà mới
xây hình thước thợ, một cạnh giáp với xưởng lạnh, nơi trước đây vẫn sản xuất đá
cây, giờ đã ngừng hoạt động do thiết bị xuống cấp, do nhà máy lạnh Bungari và
nhà máy đá vảy xây dựng ở khoảng đất trống phía đông đã đi vào sản xuất, chỉ
còn mỗi nhà kho là vẫn hoạt động, cái kho lạnh cao, cánh cửa sắt nặng nề đóng
kín, cái nhà kho giờ đây chứa cá thì ít mà chứa thịt thì nhiều, thịt lợn móc
hàm, thịt lợn sữa, ngỗng, gà... của công ty thực phẩm, công ty xuất nhập khẩu
và của xí nghiệp chuẩn bị xuất đi Hong Kong. Một cạnh khác của dãy nhà mới xây
là gần mười gian quay lưng ra cầu cảng, cách cầu một bãi phù sa xoai xoải, mọc
thưa thớt mấy khóm năn mấy cây sú, nơi sinh sống của rất nhiều cáy và cá lác.
Những con cá lác nhanh nhẹn sung sướng thỏa thích quẫy đuôi trong những vũng nước
hoặc phóng mình trượt trên nền phù sa bóng nhẫy mượt mà. Những con cáy im lặng
chui ra chui vào lỗ, luôn cảnh giác với tất cả. Đó là những khi nước xuống. Còn
lúc triều lên là mênh mông nước, khi ấy những con tàu đỗ dọc cảng nổi dềnh để lộ
thân tàu sơn đỏ, sơn xám, sơn đen, những vệt gỉ han từ những lỗ thoát nước trên
boong cắt ngang thân tàu xòe hình nan quạt. Đám đất phù sa từ cầu cảng tới giáp
bức tường đá van vát bó lấy rẻo đất trồng bạch đàn sát với rãnh nước chảy, bên
trên là tường hành lang mài granite của dãy nhà mới xây; biến thành một hồ nước
nhỏ sóng gợn lăn tăn. Cánh văn phòng hay chiếm lĩnh trận địa hành lang này. Bởi
nó khuất nẻo. Sếp ít khi đi ra đây. Bởi ở đây có thể nhìn thẳng xuống tàu, biết
được người quen của mình có ở dưới tàu không để xuống xin con cá, hay tới tàu vận
tải nước ngoài kiếm bánh xà phòng thơm, cái xích xe đạp Nhật. Bởi ngồi ở đây có
thể đón ngọn gió từ sông thổi vào, nghe tiếng lá bạch đàn lao xao mà nghỉ ngơi
thư giãn, hay nhìn mấy đứa trẻ lội bì bõm dưới bãi câu cá lác. Chúng câu thật
tài. Vung tay một cái, lưỡi câu chùm đã móc ngang thân con cá lác.
Dãy nhà mới xây đã làm thay đổi hẳn bộ mặt xí nghiệp. Không
còn những căn nhà lụp xụp cửa gỗ ốp tôn lá nóng rẫy, mái ngói fibro xi măng, mấy
cái quạt trần quay lờ đờ, càng quay càng hắt hơi nóng vào người. Giờ đây là những
phòng làm việc hiện đại. Là những quạt cần National, Hitachi vàng óng có đèn ngủ
có hẹn giờ, là những tủ lạnh trong buồng các tổng và phó tổng. Rồi tranh treo
tường. Toàn tranh thảm. Những con hổ nằm nghỉ ngơi trong rừng thông. Con đại
bàng xòe cánh trên một mỏm đá giữa biển cả sóng cồn... Tất nhiên trang thiết bị
hội trường cũng đã hoàn toàn khác. Bàn ghế trong hội trường toàn loại sang trọng,
đắt tiền. Ngày trước hội trường là một ngôi nhà được xây từ khi xí nghiệp mới
thành lập, rộng thênh thang, ngồi được hàng trăm người, nay đã dột nát, cánh cửa
bung gãy, những chiếc ghế dài có chỗ tựa lưng mà ta thường thấy ở các hội trường
bất kỳ, vất chỏng chơ, cái nọ chồng lên cái kia, cái mất chân, cái long đinh,
những thanh gỗ dựa lưng rời ra... Hội trường cũ vẫn tồn tại như một phế tích
hoang tàn, nhưng một thời vang bóng. Ớ đó đã diễn ra bao nhiêu buổi lễ, buổi kỷ
niệm long trọng, bao nhiêu cuộc phát động, cuộc tổng kết, đón nhận bằng khen của
chính phủ, huân chương của nhà nước. Và những cuộc hội nghị, hội nghị công nhân
viên chức, đại hội Đảng, đại hội công đoàn. Những cuộc thảo luận về ngư trường
bao giờ cũng là những cuộc bàn thảo sôi nổi nhất. Bởi người thuyền trưởng đánh
cá cũng có những điểm giống như nhà văn vậy. Đưa con tàu rời bến ra biển mênh
mông, thả lưới, công việc của anh ta hoàn toàn đơn độc và chưa thể nói trước điều
gì. Ai cũng đầy lòng tự tin ở bản thân, ở những kinh nghiệm mình tích lũy được,
ở sự phán đoán luồng cá, nhìn dòng nước chảy, căn cứ vào gió vào nước mà trừ độ
giạt, thế nhưng cứ có người đạt sản lượng cao người sản lượng thấp và những kết
luận rút ra thường là tại khách quan. Như Lê Mây đái bãi đái xái chuyến buôn.
Mình cùng về bến với ông Bôn một ngày, cùng điện một ngày, cùng báo bốc cá một
ngày, thế nhưng tàu ông Bôn được bốc trước, tàu mình phải lấy đá phủ mặt. Tàu
ông ấy bốc xong, lấy dầu đi luôn. Tàu mình bốc xong lại phải chờ dầu. Xà lan dầu
đến lúc ấy mới rời bến đi Sở Dầu. Lại chờ hai ngày nữa. Chậm mất ba ngày rồi.
Ba ngày đang vụ, mỗi ngày năm mẻ, mỗi mẻ một tấn thôi là mười lăm tấn rồi. Mình
ra đánh được bốn ngày thì biển động. Ông Bôn đã quất được bảy ngày, đẫy chuyến
rồi, chạy về bến bốc cá. Mình còn dầu còn đá, cứ nằm trú gió thôi.
Hay như bài diễn văn của một thuyền trưởng đánh cá vào loại
trên trung bình khác: Một đặc điểm mà chúng ta ai cũng biết là cả di chuyển
theo đàn. Từ nục, sủ, cá lô, cá hố, sao to, bã trầu, mối, đổng, sơn mỡ, chỉ
vàng, lò tó, tới bạc má, đỏ dạ. Nhưng phán đoán cá di chuyển thế nào? Chúng ta
có nhìn thấy nó đâu? Con cá cũng không như đống thóc, nằm im một chỗ cho mình
xúc. Nó có vây, nó có đuôi, nó bơi, nó di chuyển. Lại còn sóng, còn gió, còn nước
đánh giạt tàu mình đi. Làm thế nào để bám được trung tâm bãi cá. Đó là nhiệm vụ
quan trọng số một... đã được mọi người đón nhận bằng cách hút thuốc lào,
nói chuyện hoặc bỏ ra ngoài đi vệ sinh. Bởi vì ai chả biết đấy là điều quan trọng
số một. Kéo mẻ lưới lên, nhìn chất đáy dính vào lưới, nhìn con cá sống, con cá
chết, biết được đang đánh ở đâu, có trúng đàn cá không. Một cậu thủy thủ bậc một
nếu chịu khó học tập, để ý tới công việc, đi biển một năm là biết. Thuyền trưởng
tàu đánh cá đáy được mệnh danh là người dương gian làm việc âm phủ giống
nhà văn ở chỗ ấy. Ớ chỗ chưa thể nói trước được điều gì khi bắt đầu thả lưới
(cũng như khi bắt đầu viết). Ớ chỗ không ai chịu ai, chỉ có mình là nhất. Thuyền
trưởng tàu đánh cá đáy còn giống nhà văn ở chỗ tính nết ngang tàng và tất nhiên
cũng không thiếu kẻ bợ đỡ, nịnh hót.
III
Nhưng cuộc họp hôm nay không phải bàn về đánh cá chung chung
như những cuộc họp trước mà là một cuộc họp bàn về chuyển hướng đánh cá, đánh
thế nào để có thể tăng nguồn cá xuất khẩu. Các đại biểu ngồi chờ đã lâu. Giám đốc
cùng khách mời, gồm các vị lãnh đạo sở và cả hai đại biểu bộ ở phía trên. Đám
cán bộ chủ chốt của xí nghiệp ngồi tách ra một chỗ, ở những hàng ghế dưới cùng,
chuyện rì rầm, thỉnh thoảng lại cười phá lên vì một chi tiết thú vị nào đó như
những cái vĩ đại trong nhà ông Phục, hay chuyện cô Thiện cung tiêu chồng đi biển
về chổng mông cho chồng bắt giun kim, rồi đến giọng trưởng phòng đời sống đọc
bài thơ mới sưu tầm được trong một cuộc họp trên thành phố làm mọi người cười
lăn cười lộn: Nói có người nghe. Đe có người sợ. Vợ có người chăm. Nằm có
người bóp. Họp có người ghi. Chi có người bù. Tù có người chạy. Cuộc họp
nào cũng vậy, người trước, người sau. Giờ giấc không bao giờ được bảo đảm. Tổng
giám đốc Hoàng Quốc Thắng đã mấy lần xem đồng hồ tỏ vẻ sốt ruột:
- Quá nửa tiếng rồi. Xưởng lạnh chưa tới à? Cái ông Tạp này
không bao giờ đúng giờ. Không cuộc họp nào không đến muộn. Tác phong nông nghiệp.
Tôi đến chết với mấy ông. Lần sau còn thế này nữa văn phòng chịu hoàn toàn
trách nhiệm.
Chánh văn phòng Điều đứng lên:
- Các phòng ban đủ. Kế hoạch, kỹ thuật, hàng hải khai thác,
cung tiêu, đời sống. Các phân xưởng mới có cơ khí, còn thiếu xưởng lạnh. Các
tàu đủ, thiếu 414. Chúng tôi đã cho người báo rồi. Trần Bôn đâu nhỉ? Kinh nghiệm
sốt dẻo. Vừa về bến sáng nay. Ba mươi tấn cá trong đó có mười lăm tấn cá ăn
tươi...
Điều vừa nói vừa nhìn vào dãy ghế trên cùng, nơi đoàn đại biểu
Sở, ông vụ trưởng vụ kế hoạch, vụ phó vụ kỹ thuật trên Bộ ngồi, một cái nhìn đầy
ý nghĩa.
Trần Bôn chưa đến à? Văn phòng đâu. Đã báo họp cho Mười
bốn chưa? Báo cáo giám đốc rồi. Tàu vừa về bến là cho người xuống báo
ngay. Rồi chính tôi trực tiếp báo. Cho người xuống tàu mời lên ngay đi. À đây.
Đại phó đây. Về nói thuyền trưởng lên họp ngay. Chánh văn phòng Điều nhanh nhảu.
Cương đứng ngay cửa hội trường, lắc đầu:
- Báo cáo. Thuyền trưởng cầmy bạ đi khám bệnh rồi ạ.
Cương đã thêm ba tiếng cầm y bạ để tăng thêm tính
thuyết phục. Thật ra lúc rời tàu, Bôn có cầm y bạ đâu.
- Thuyền trưởng về bảo lên họp ngay nhé.
Vẫn chưa thể khai mạc cuộc họp chuyển hướng sản xuất kinh
doanh. Giờ đây chữ kinh doanh đã được dùng một cách trơn tru, không thấy vương
vướng trong tư tưởng, ngường ngượng khi phát âm nữa. Bởi vì từ ngày cách mạng
thành công, tất cả đã được giáo dục rằng kinh doanh nghĩa là không phục
vụ, kinh doanh nghĩa là buôn bán, nghĩa là không sản xuất ra của cải
vật chất cho xã hội mà chỉ mua rẻ bán đắt, kiếm lời, một kiểu làm ăn chỉ có
trong xã hội tư bản. Từ khi ông Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trong buổi đến
chúc tết một gia đình nào đó, chúc gia chủ sang năm mới làm ăn buôn bán một vốn
bốn lời, cả nước rung chuyển bởi sự mới mẻ trong lời chúc ấy và sau đó biết bao
nhiêu cuộc họp, các thuyết trình viên đã nhắc đi nhắc lại câu này cũng như
không quên giơ tay chém chém vào không khí:
- Mới lắm các đồng chí ạ. Ông cha ta ngày trước nói Nhất bản
vạn lợi. Giờ Đảng ta nói Một vốn bốn lời!
Bây giờ đơn vị nào cũng làm kinh doanh. Chẳng riêng ngành
thương nghiệp chuyên buôn bán. Bây giờ sản xuất đồng nghĩa với kinh doanh. Kinh
doanh không còn là một hành động đáng miệt thị, mà ngược lại nó biểu hiện tài
tháo vát năng động của người đứng đầu đơn vị. Khi việc xuất khẩu thủy hải sản
trở thành mũi nhọn của toàn ngành và vào thời điểm ấy còn là mũi nhọn của cả nền
kinh tế, khi những chuyến hàng hải sản đông lạnh đầu tiên của công ty xuất khẩu
thủy sản được tàu HL02 chở sang Hong Kong, ông giám đốc Hoàng Quốc Thắng còn
đang làm trưởng phòng kỹ thuật của một tổng công ty trong ngành. Rất nhanh ông
hiểu cái gì đang chờ đợi ông. Hoặc ông sẽ đổi đời, nên người, hoặc ông mãi mãi
là anh trưởng phòng kỹ thuật, xếp hàng lấy nước ở máy nước công cộng, gánh leo
lên gác ba suốt đêm. Triết lý sống của ông là không thể để những đứa ngu lãnh đạo
mình. Ông giám đốc tổng công ty của ông, theo ông, cũng là một người ngu. Ông
ta ngu bởi vì ông ta không biết chia động từ "ăn". Chia động từ
"ăn" phải là "tôi ăn" "anh ăn" "nó ăn".
Quan trọng nhất không phải là tôi ăn mà là anh ăn. Nó ăn xếp
xuống hàng thứ yếu. Không thể chia động từ ăn một cách công bằng. Anh
ăn là quan trọng nhất rồi đến tôi ăn. Nhưng thực ra anh có ăn cũng
là để tôi ăn được nhiều hơn, bền vững hơn, lâu dài hơn. Với lại
các đại ca đâu có ăn ít hơn tôi. Các đại ca nắm trong tay bao nhiêu đầu
mối. Nguồn thu nhập chẳng ai bì được. Còn nó ăn chỉ là để nó cho mình
ăn nhiều hơn, núp dưới cái câu cửa miệng hài hòa ba lợi ích. Ông tổng
giám đốc của ông chia động từ nặng về tôi ăn nên chỉ đến đấy là kịch
tường rồi. Mà trong tay ông ta có bao lợi thế... Phải biết đầu tư từ xa. Ông Thắng
đã làm được việc ấy. Ngay khi còn đang đi tàu, giữa lúc gạo châu củi quế, từ
thành phố Hồ Chí Minh trở ra đong được tạ gạo, đến nhà Đại Ca chơi (dạo ấy Đại
Ca cũng chỉ giữ một chức vụ quan trọng trong thành phố, chưa oanh liệt như bây
giờ), nghe phu nhân Đại Ca than thở về đàn con ăn không biết no, ông hiểu ngay
mình phải làm gì. Một tạ gạo nàng hương khi ông xe về nhà làm sáng bừng khuôn mặt
vợ con, mấy hôm sau được ông xe đến nhà Đại Ca. Vẻ mặt thất vọng của vợ con ông
đã biến thành những nét tươi rói trên khuôn mặt cả nhà Đại Ca. Qua truyện trò,
biết vợ Đại Ca ao ước chiếc xe mini Nhật hai dóng đỏ để đi làm, ông không chút
ngần ngại biếu không chiếc xe như vậy của vợ ông, quà tặng của một người bạn
thân thiết bên Vosco đi Nhật. Vợ ông hàng ngày đi làm với chiếc xe khung dựng mới
mua cọc cà cọc cạch, nhớ chiếc xe thời thượng đã nâng cao giá trị của mình trước
những người bạn cùng phòng, cùng đơn vị, thỉnh thoảng tỏ vẻ tiếc nuối, đã được
ông tâm tình một buổi mang tính triết học: muốn nhận phải biết cho, muốn được
phải biết mất, muốn thu hoạch phải biết gieo hạt... Vợ ông gắt lên:
- Có cái gì cũng mang đi biếu. Chỉ còn vợ là ông chưa mang đi
thôi. Ông ấy có cùng ngành đâu mà giúp được mình.
Ông đã giảng cho vợ biết về những triển vọng của việc sắp xếp
cán bộ trong năm tới, về tương quan lực lượng và triển vọng thăng tiến gần như
chắc như đinh đóng cột của Đại Ca, Đại Ca sẽ giữ một vị trí quyết định, bởi Đại
Ca của ông có những cái ô cực mạnh và ông thầm nghĩ nếu Đại Ca cần, mình cũng
có thể đưa bà vợ đến như một món quà tặng lắm chứ. Ngẫm cho cùng chỉ cần cô ấy
vẫn yêu mình còn chuyện ấy chẳng qua chỉ là chuyện đụng chạm trong chốc lát mà
thôi. Như ông với những người đàn bà đã qua tay. Tuy vậy ông vẫn cười:
- Bà chỉ nói bậy. Của biếu lúc còn hàn vi mới quý. Chuyện bát
cơm phiếu mẫu, bà nhớ chứ. Với lại cứ cho là Đại Ca không lên được như ý muốn
thì bè bạn Đại Ca cũng ghê gớm lắm, mình không thông qua Đại Ca mà nhờ vả được
hay sao? Bây giờ là phải có ô dù. Không có ô tài mấy cũng không làm ăn gì được.
Điều ông nói bà cũng biết, ai cũng biết, chỉ có điều có làm
được không thôi. Bà nói vậy cũng còn là muốn được nghe ông phân tích để thêm
tin tưởng ở tương lai, và càng thêm phục ông chồng nhìn xa trông rộng.
Có tuần nào ông không đến nhà Đại Ca vài ba lần và được cả
nhà coi như người trong gia đình. Cái việc "đầu tư chiều sâu" đúng chỗ
của ông đã thành công. Đại Ca của ông lúc đạt đến đỉnh cao quyền lực khi cùng
bè bạn ôn nghèo kể khổ thường hay nhắc đến những ngày bao cấp khó khăn đã được
ông xe đến nhà hai bao tải gạo, mua cho bà mấy con lợn giống không lấy tiền,
"còn cái xe đạp thì không ai đi nữa, nhưng cũng không cho, không bán, để
dưới ga ra ô tô làm kỷ niệm..." Cho nên khi những chuyến tàu chở hàng đông
lạnh đầu tiên của Liên hợp Biển Đông đi nước ngoài, ông hiểu ngay mình phải làm
gì. Ông đến nhà Đại Ca và ở đó gần hết buổi sáng. Thế rồi ông Trần Hữu Bằng còn
sáu tháng nữa mới nghỉ hưu đã được điều về Hà Nội để đi nghiên cứu thị trường
thủy hải sản một số nước châu Âu, châu Á. Dĩ nhiên người thay ông Trần Hữu Bằng
là ông Hoàng Quốc Thắng. Cái bước khởi đầu khó khăn vất vả của ông Bằng, từ chỗ
chỉ lo nghiên cứu ngư trường, chạy vật tư, phát động thi đua bước vào vụ cá
Nam, sơ kết vụ cá Bắc, chuyển sang làm quen với thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục
hải quan, lấy hộ chiếu, làm visa, sang bên Vosco học tập cách tổ chức con tàu,
xây dựng các chức danh... được ông Thắng về tiếp quản. Hai năm đầu ông Thắng
làm giám đốc là thời gian các địa phương thi nhau làm thủy sản xuất khẩu. Các tỉnh
thành có biển đều xây dựng các xí nghiệp chế biến thủy sản, các nhà máy đông lạnh.
Rồi đắp đê lấn biển, các rừng đước bị chặt trụi để biến thành những vuông tôm.
Công ty xuất khẩu thủy sản Seaprodex nổi tiếng toàn quốc và được quốc tế tặng
giải thưởng Uy tín và Chất lượng.
Năm con tàu khai thác đông lạnh của xí nghiệp ngừng hẳn việc
sản xuất, chuyển sang vận tải thuê cho công ty xuất khẩu thủy sản, chở thủy hải
sản ra nước ngoài mà trong xí nghiệp gọi là đội tàu vận tải ngoại thương. Công
việc thuận lợi như diều gặp gió. Hàng nhiều, tàu ít, gần như chỉ có tàu của
công ty Seaprodex và của xí nghiệp ông. Chiếc ăn hàng ở thành phố Hồ Chí Minh,
chiếc đang trên đường từ Nhật trở về, chiếc xuống hàng ở Hong Kong. Tiền vận tải
thu được ông xin cấp trên cho nhập dầu, một mặt hàng chiến lược. Định mức dầu
luôn luôn thiếu. Số dầu chỉ tiêu cả năm cho đánh cá chỉ dùng trong bảy tháng hết
veo. Các tàu đánh cá đều đã cũ, phụ tùng thay thế không có, uống dầu chẳng kém
voi uống nước. Ông là người táo bạo trong suy nghĩ. Ông chỉ thị cho hai phòng kế
hoạch, khai thác hàng hải tính toán đổi dầu đổi đá cho những thuyền ngư dân sản
xuất trên biển lấy cá mà không cần phải tự mình thả lưới. Ông rất hãnh diện, tự
hào vì mình đã có những chủ trương táo bạo như vậy. Cũng bởi dạo ấy ngư dân miền
Trung ra Vịnh Bắc Bộ đánh lưới vây nhiều. Cá của họ là cá đi đàn con nào con ấy
bằng nhau, đều tăm tăm, nhưng họ lại không có dầu để đánh cá, không có đá để ướp
cá. Chủ trương này của ông là kế tiếp sự thành công của chủ trương bán đá cây tự
do. Thời gian mới về xí nghiệp, ngày nào ông cũng phải nhận từng xấp đơn của
cán bộ công nhân trình bày khó khăn, xin được mua mấy cây nước đá về cho vợ con
bán hàng nước, cải thiện. Ông thừa biết số nước đá đám công nhân viên dưới quyền
ông mua được, không có cây nào mang về nhà mà bán cho con buôn chầu chực ở cổng
xí nghiệp. Phần lớn họ không mua đi bán lại mà bán ngay tờ giấy có chữ ký phê
duyệt của ông cho cánh buôn, nghĩa là mỗi chữ ký của ông có giá bằng nửa tháng
lương. Sau một tuần ký giấy, mệt phờ người, ông nói chánh văn phòng Điều thảo cho
ông một cái quyết định giao cho quản đốc phân xưởng nước đá căn cứ vào giá nước
đá từng ngày, được quyền bán đá theo giá thị trường, mà không phải qua giám đốc
duyệt. Thế là cái mỏ vàng ấy, cái chữ ký ra tiền ấy, từ ông chuyển về cho ông
quản đốc phân xưởng đá cây. Ông quản đốc cũng hiểu mình phải làm gì, chắc chắn
không thể quên ông Tổng. Ớ ông Tổng, nó không thể thành tiền. Nhưng nằm trong
tay ông quản đốc, nó biến thành tiền cho cả hai ông. Và tất nhiên, nó cũng
thành tiền cho xí nghiệp.
Hai quyết định bán nước đá và thành lập tổ thu gom (không phải
thu mua) cá nổi của ngư dân được mọi người trong xí nghiệp ca ngợi ông là người
táo bạo dám chịu trách nhiệm, dám nghĩ dám làm nhưng cũng bị nhiều lời bàn tán
ra vào, kể cả những sự vu khống xuyên tạc, mà phần lớn là của các bạn đồng cấp,
những sếp trên sở, kể cả những sếp trên bộ. Họ bảo ông bỏ đánh cá. Họ bảo ông
gian lận, ông đã cộng số cá đổi được ấy vào sản lượng của xí nghiệp, như vậy một
con cá được tính sản lượng hai lần! Và tệ hại hơn, họ bảo ông giờ đây tối mắt tối
mũi với những con tàu đi Hong Kong, đi Singapore, đi Nhật, mỗi chuyến thu hàng
chục nghìn đô tiền quà, tiền cống, bỏ bễ cả hai chục con tàu đánh cá,
đánh mất chức năng cơ bản của xí nghiệp: Khai thác hải sản. Người ta nói với vẻ
đầy khoái trá rằng thằng Hoan con trai ông nghiện, cũng như người ta truyền tai
nhau về số tiền ông có, số tiền ông đút lót cấp trên kể cả Đại Ca. Không hiểu
sao quan hệ giữa ông và Đại Ca kín đáo vòng vèo là thế mà họ cũng biết. Chính
vì những dư luận của bọn ghen ăn ghét ở ấy mà ông tổ chức hội nghị hôm nay. Hội
nghị chuyển hướng sản xuất kinh doanh có mời đủ các quan chức trên sở và cả
trên bộ, nhằm đánh tan những dư luận bất lợi cho ông.
Hội nghị khai mạc chậm hơn dự kiến nửa giờ. (Hội nghị nào
cũng bị chậm. Hôi nghị giao ban hàng tuần, hàng tháng còn có thể cho qua, nhưng
một hội nghị quan trọng như hôm nay, mà cũng cứ phải chờ đợi thật không thể tha
thứ được!)
- Ông Điều đâu? Văn phòng chịu trách nhiệm trước giám đốc về
các cuộc họp mà quá nửa tiếng rồi, đại biểu chưa đến đủ, ông cứ ngồi đấy bình
chân như vại.
Chánh văn phòng Điều đứng lên, cầm quyển sổ mời họp, chìa ra
trước khoảng không:
- Văn phòng đã mời từ hôm qua. Tàu ông Bôn sáng nay cập cảng,
cũng mời ngay rồi. Đây. Xưởng lạnh đây. Ông Tạp ký đây. Đi hay không là tùy ở
các ông ấy. Văn phòng làm gì có biên chế để đi giục từng đơn vị.
Giám đốc đã bực lại càng bực với kiểu ăn nói ngang cành bứa của
chánh văn phòng. Thật sự ông không ưa
Điều, một người tính khí thất thường. Lúc ngoan ngoãn nhẫn nhục
hết mực, cho dù ông quát mắng vô lý đến đâu cũng cứ một vâng hai dạ, báo cáo
anh báo cáo anh, lúc sẵn sàng sửng cồ lên như thế này. Đã nhiều lần ông định
thay nhưng chưa tìm được người. Điều là người duy nhất làm một cái văn bản mà
ông không phải sửa chữa, hoặc sửa chữa rất ít, nói được đầy đủ ý ông. Đã làm
chánh văn phòng cho ba đời giám đốc, là người rất biết công biết việc, hơn thế
còn là người có trí nhớ rất tốt. Vấn đề xin thêm chỉ tiêu ngư lưới cụ, mình đã
có văn bản rồi, ký vào thời gian nào, công văn trên bộ về khoán dầu cho các tàu
cá, đã chuyển cho phòng hàng hải khai thác tháng trước chưa thấy phòng đề xuất
ý kiến gì... Hơn nữa ông biết làm cái anh trưởng phòng thì chánh văn phòng là
khô nhất. Ông dịu giọng:
- Cái ông Tạp này không có cuộc họp nào không đến muộn. Phê
bình mãi vẫn chứng nào tật ấy. Ông Điều xuống xưởng lạnh gọi ông Tạp lên cho
tôi. Bất cứ việc gì cũng để đấy. Lên ngay!
Chánh văn phòng không giấu vẻ bực tức, vừa bước ra khỏi phòng
vừa làu bàu:
- Văn phòng làm gì có biên chế để chạy theo các bố ấy mà giục.
Một lúc sau Điều bước vào phòng họp, theo sau là quản đốc xưởng
lạnh. Không để giám đốc phê bình, Tạp nói luôn khi mới bước vào cửa:
- Báo cáo giám đốc, sắp sửa đi thì nhà lạnh Đan Mạch báo
cáo tang trông đá vảy vỡ, phải điều thợ sửa chữa. Sửa chưa xong đã nhận
được điện của nhà máy điện báo ngày mai cắt điện để duy tu đường dây. Lại phải
làm việc với Ban điện năng chỗ ông Chinh khẩn trương hoàn chỉnh máy phát của
mình để phát thay thế. Nhưng dầu cung tiêu báo hết. Xin thủ trưởng cho vay dầu
của các tàu đỗ bến ngay để ngày mai chạy máy...
Trình, trưởng phòng cung tiêu, gầy gò, mảnh khảnh như một thư
sinh, vẫn ngồi tại chỗ, trả lời rành rọt như một người nắm rất vững công việc của
mình. Anh nói đã cho người làm hóa đơn ở Sở Dầu hai hôm nay rồi. Chỉ tiêu còn
hai trăm năm mươi tấn, chưa kể số dầu xin bổ sung ngoài chỉ tiêu là năm mươi tấn.
Nhưng hiện nay kho hết dầu. Sở Dầu hẹn trong ngày mai dầu về sẽ phát cho mình một
trăm tấn. Vân vân. Rồi câu chuyện lại quay về sở điện, tất cả những phiền toái rắc
rối do sở điện gây ra. Mà mình chiều mấy ông điện mấy ông nước hơn chiều bố đẻ.
Ngày lễ, ngày tết đều có quà, quà đậm. Con ông ấy lấy vợ lấy chồng mình không
thể không có mặt. Bố mẹ các ông ấy mất, mình phải đến viếng, không những thế
còn phải bán cho các ông ấy tạ cá ngon, nhiều gấp đôi tiêu chuẩn của cán bộ
công nhân viên trong liên hợp. Các ông ấy nắm yết hầu mình. Làm hàng đông lạnh
mà ông ấy cắt điện, cúp nước chỉ có chết...
Cuối cùng cuộc họp cũng khai mạc. Giám đốc nói. Về tình trạng
sản xuất. Về ngư trường mỗi ngày một cạn kiệt. Thiết bị xuống cấp. Về việc cần
thiết phải mở một hướng mới trong sản xuất kinh doanh. Về chuyến đi Singapore vừa
kết thúc của ông. Ông đã làm việc với một số đối tác ở Singapore, bên ấy người
ta sẵn sàng mua cả cá ăn tươi ướp đá. Tôi đã thảo luận với họ chi tiết về giá cả,
về chỉ tiêu chất lượng. Tóm lại là bây giờ làm thế nào bảo quản số cá từ loại 1
đến loại 5...
Ông nói đến việc tổ chức muối ướp trên các tàu đánh cá đá, đến
việc sản xuất các khay tôn tráng kẽm để ướp, tránh tình trạng cá bị dập nát, vỡ
bụng, và quan trọng hơn là tổ chức sản xuất theo đội, các tàu đánh được cá dồn
cho một tàu chở sang Singapore, cán bộ phòng OTK phải đi với các tàu ra biển,
trực tiếp chỉ huy việc chọn rửa muối ướp trên biển, phòng tổ chức trước mắt lo
làm thủ tục đi nước ngoài cho hai tàu khối 600 (mã lực)...
- Chỉ cần xuất khẩu được một nửa số cá loại 1 đến loại 5,
chúng ta cũng có một sản lượng trên hai nghìn tấn các đồng chí ạ. Làm được như
vậy, chúng ta có thể không hoàn thành kế hoạch tổng sản lượng nhưng sẽ hoàn
thành vượt mức chỉ tiêu xuất khẩu, chỉ tiêu giá trị, sẽ có ngoại tệ nhập thêm dầu
và mua phụ tùng sửa chữa. Làm được như vậy, không chỉ khối tàu đông lạnh đi nước
ngoài mà lần lượt các tàu sẽ được đi nước ngoài hết.
Phòng họp ồn ào sôi nổi hẳn lên. Người phấn khởi, người tỏ ý
nghi ngờ, người nêu những khó khăn. Giám đốc hiểu rõ diễn biến tâm lý của mọi
người. Ông kết luận một cách đanh thép:
- Còn nếu cứ tổ chức sản xuất như chúng ta vẫn làm, chỉ có lỗ.
Càng đánh càng lỗ. Đánh sạch biển Đông! Đánh sập xí nghiệp!
Ông nói và liếc rất nhanh vào đám khách trên sở, trên bộ ngồi
ở hàng ghế đầu. Đấy là điều ông muốn nhấn mạnh với họ.
° ° °
Bố tôi cầm cái tay chuông bên phải buồng lải kéo mạnh. Một tiếng
rẹtphảt ra. Tôi hiểu rằng tay chuông ở buồng mảy chỗ bảc Suất cũng chuyển động
như vậy, cũng kêu như vậy. Tiếng mảy bỗng nhẹ đi. Tàu đi chậm lại. Bố ra lệnh:
- Thả lưới.
Và bước về phía lải, đứng ngay chỗ đầu cầu thang dốc đứng,
cái cầu thang hàn chặt vào vảch tàu, bắc từ sàn giữa gần ống khói xuống tới mặt
boong lải. Cảc chú cảc bảc đã có mặt đông đủ. Có tiếng tút tút sảu giờ chiều.
Nhà sắp ăn cơm đây. Ất hẳn mẹ tôi với cái Ngàn ngồi ăn và nhắc đến tôi, nhắc đến
bố nữa. Ba mẹ con tôi tự hào về bố. Bố là chỗ dựa cho mẹ cho hai anh em tôi. Mẹ
vẫn thương bố biền biệt nơi sóng nước. Mỗi lần bố về, nhà lại như mở hội. Chúng
tôi không biết cụ thể nhưng ắt hẳn bố đưa cho mẹ nhiều tiền. Để mẹ nuôi chúng
tôi ăn học, để mẹ sắm sửa, để mẹ làm nhà, xây bể nước mưa, để mẹ có đồng ra đồng
vào. Nhờ bố, mẹ được dân làng vì nể. Nhờ bố, chúng tôi được thầy quý bạn yêu. Bọn
cùng lớp, khảc lớp nhìn tôi và cái Ngàn, ao ước thèm thuồng. Mọi thứ trên người
chúng tôi đều khảc chúng nó. Từ bộ quần ảo tới đôi dép, chiếc cặp sảch, cái mũ
đội trên đầu. Tiền học, tiền mua sảch vở, tiền kế hoạch nhỏ, tiền góp đi cắm trại...
chúng tôi bao giờ cũng là những đứa nộp đầu tiên. Nhà chúng tôi ở cũng khác. Cả
xã chỉ có trên chục gia đình được như vậy. Nhà xây, mái ngói, sân gạch, trong
nhà đủ quạt trần, quạt bàn, tivi màu. Bố mẹ còn bàn nhau sang năm được tuổi xây
nhà hai tầng cho mát. Tất cả là nhờ bố. Bao giờ về nhà bố cũng mang theo một
túi du lịch phổng căng. Bánh kẹo cho chúng tôi và tiếp khách. Chè, thuốc lá. Và
rất nhiều mực khô, cá khô. Những con mực khô hổng hổng phủ đầy phấn trắng, râu
dài gấp quặt vào thân bó chặt. Những con cá kìm khô tròn mỏ dài gần bằng thân,
thơm phức. Tôi thả sức nướng, nhai trẹo cả hàm vẫn còn muốn nhai nữa. Nướng ăn
và mang đến lớp cho mấy đứa cùng bàn. Đứa nào cũng thích. Chúng nó lạ nhất là
cái đầu cá có mỏ dài trong suốt giống hệt cái kìm. Vất đi thì tiếc, chúng đã thử
nhai nhưng rồi lại phải lè ra.
Nhiều lần bố tôi về không chỉ một mình. Đi cùng còn có các
chú các bác dưới tàu như bác Sĩ thủy thủ trưởng, như chú Hồng, bác Suất. Mẹ con
tôi giết gà nấu cơm mời khách. Khách dưới tàu thi thoảng mới tới nhà. Còn phần
lớn khách đến nhà tôi là họ hàng xóm láng giềng. Thế nào các ông khách cũng được
bố tôi rót rượu mời. Uống rượu với mực khô, với cá kìm. Ai cũng biết đấy là đặc
sản. Cả xóm lấy làm vinh dự vì có bố tôi, một thuyền trưởng Lại càng quý bố tôi
khi nghe đài phát thanh đọc một bài dài về bố tôi. Qua bài báo tôi mới biết bố
tôi cũng giống tôi, rất yêu biển, khi đi học đã sưu tầm nhiều bài thơ về biển,
không những thế nhiều người bạn còn gửi cho bố tôi những bài thơ hay về biển mà
họ đọc được trên báo, trong sách. Trong chiến tranh bắn phá, tàu bố tôi đi đến
Cửa Ong thì bị máy bay Mỹ phát hiện. Đêm. Nó thả pháo sảng hết đợt nọ đẽn đợt
kia. Rồi ném bom. Nổ sát tàu. Một thủy thủ bị mảnh bom văng vào tai. Một thủy
thủ bị phạt đầu. Xác còn chôn ở Cửa Ông. Trong đêm tối, bố tôi nhận đưa tàu tới
vị trí tập kết và đã mò mẫm tới Hòn Chông an toàn. Trong sản xuất bố tôi đã lập
nhiều thành tích, từ đánh cá, tới thăm dò khảo sát tôm biển. Đặc biệt trong nghề
đánh tôm, bố tôi là người đi đầu trong kỹ thuật đánh tôm bốn lưới thay cho kỹ
thuật đánh tôm hai lưới từ trước đến nay. Và cũng nhờ bài báo đó, tôi mới biết
bố tôi đã được đề nghị trên thưởng huân chương lao động. Tôi còn nhớ tên tác giả
bài báo: Duy Thông.
Đứng trên boong giữa, cạnh bố, tay vịn lan can, tôi nhớ lại tất
cả những chuyện ấy. Tôi muốn xuống boong lái, nhưng sợ vướng chân mọi người. ơ
dưới ấy, bốn tấm lưới tôm đang được xếp ra. Mỗi tấm lưới đều có xích sắt. Mỗi
bên càng (tăng gông) hai lưới, giữa hai lưới có mắc một thỏi sắt to bằng cổ
chân tôi, trông giống quả bí xanh nhỏ được gọi là "quả bom". Tơi bắt
đầu hoạt động. Hồng hộc, hồng hộc. Nó kêu những tiếng khô khốc quái gở. Mọi người
xốc lưới thả xuống biển. Bắt đầu là đụt lưới rồi đến lưới, hai "quả
bom", xích sắt. Và ván lưới. Tất cả mất hút dưới mặt nước nhấp nhoáng ánh
đèn pha. Bố tôi đi về phía buồng lái. Rẹt. Rẹt. Tay chuông trên buồng lái kêu.
Máy tàu chuyển nhịp. Con tàu rẽ nước tiến về phía trước. Nó đang dắt lưới.
° ° °
Nếu Cương được định biên hẳn xuống tàu HL 414 chắc anh sẽ được
biết sự thật của việc thuyền trưởng vắng mặt khi tàu vừa cập bến này. Nhưng anh
chỉ là lính đánh thuê một hai chuyến nên thuyền trưởng chẳng cần phải nói cùng
anh. Hoặc nếu là người thuộc tổ trông xe của xí nghiệp, Cương cũng biết. Biết
thuyền trưởng đã ra nhà gửi xe lấy xe máy vù về nhà rồi. Về tay không. Không một
cân cá. Một con mực khô cũng không. Về nhà với cái điều Bôn đã nghĩ tới từ khi
còn ở ngư trường, khi kéo mẻ lưới mà chỉ Bôn mới biết đó là mẻ lưới cuối cùng,
bởi vì lúc ấy anh chưa ra lệnh tổng vệ sinh, rời ngư trường về bến. Cái điều bất
kỳ thuyền viên nào đã có vợ đều nghĩ tới ngay khi nghe lệnh tổng vệ sinh tàu dù
đang ở Vịnh Bắc Bộ hay còn tận mãi Vịnh Thái Lan: Ngủ với vợ (và nhiều anh đã cứng
lên ngay từ lúc ấy - cánh đi biển xơi nhiều chất đạm, lại bị dồn nén lâu ngày
mà!). Bôn đã nghĩ tới giờ phút đầu tiên bước vào nhà. Anh nghĩ tới những lần
hai vợ chồng ân ái, nghĩ tới tấm thân mát rượi mà bốc lửa của chị. Nghĩ tới khi
người chị dâm dấp mồ hôi, thứ mồ hôi của ái ân, anh gục đầu hít một hơi dài cái
mùi nồng nàn tỏa ra từ nách chị mà thấy người ngây ngất. Anh nghĩ tới niềm đam
mê không bao giờ chán của chị, đến lúc chị hổn hển: "Anh ngồi như ông
Thế Trường đi". Anh đã ngơ ngác không hiểu vợ nói gì mà vì sao trong
lúc đang yêu nhau quên hết cả trời đất này lại có ông Thế Trường chen vào, cái
thằng Thế Trường khốn nạn đã ngồi như thế nào, cái thằng Thế Trường là thằng
nào đã làm gì vợ anh để vợ anh bắt anh ngồi như nó. Như biết anh nghĩ gì, chị
lăn từ trên người anh xuống chiếu, nâng anh ngồi dậy: "Ồng Thế Trường
biểu diễn yoga trên tivi ấy. Anh quên rồi à?" Anh hiểu. Anh đã hiểu
chị muốn gì và vội làm theo. Nhớ ra rồi! Kiểu ngồi ấy là một kiểu ngồi chưa từng
thấy. Ngay lúc xem ông Thế Trường biểu diễn trên tivi, anh đã bảo chị kiểu
khoanh chân cong người, đầu xuống dưới của ông trùm yoga Thế Trường là một tư
thế khó làm nhưng tuyệt vời. Anh nói với chị rồi anh quên đi, nhưng chị nhớ.
Anh vội vàng làm theo lời chị, cố bắt chước ngồi như ông Thế Trường và ghì chặt
lấy chị bởi anh biết chị vẫn khao khát anh ngồi như vậy và lúc này anh đang ngồi
như vậy...
Gần một tháng trời lênh đênh ngoài biển, nằm trên chiếc giường
hẹp, đêm đêm thức giấc anh hay nghĩ đến chị, nhớ chị và có những lúc nỗi nhớ biến
thành sự thèm khát mà anh vội xua nó đi ngay. Cũng chẳng phải anh là người quá
độ đâu. Có chuyến anh chỉ nghĩ tới con bé con. Anh hình dung rõ từng chi tiết về
đứa con gái khi ấy mới lên năm, còn đang học lớp năm tuổi trường mẫu giáo Mầm
Non. Thế là cập cầu xong, anh lấy xe đến trường xin phép các cô đón nó. Anh đèo
nó đi lòng vòng phố. Anh mua kem cho nó. Anh dắt nó ra vườn trẻ. Hai bố con vừa
đèo nhau trên xe vừa thủ thỉ chuyện trò... Chuyến này anh nghĩ đến chị (phần lớn
các chuyến anh nghĩ đến chị). Nhớ chị. Thèm chị. Anh biết anh em thuyền viên
cũng cùng chung với anh một nỗi niềm. Người xoay ra ghi nhật ký, người vùi đầu
vào bài bạc cho quên đi, người công khai nói ra điều thầm kín ấy. Có anh còn diễn
đạt điều ấy một cách rất tục tĩu: Lấy một con cá mối màu đất bãi cắm vào bụng
con cá ó mịn màng, trắng nõn treo lên vách hầm bảo quản. Bốn vách hầm cá treo
kín những con cá ó với cái bụng trắng phinh phính, con nào con ấy đều có một
con cá mối nâu cắm vào chỗ ấy. "Để chị em bốc cá xuống hầm biết chúng ta
nhịn thèm nhịn nhạt khổ sở như thế nào". Một thủy thủ đã nói thẳng ra như
vậy. Cái lần ấy anh còn ở tàu đông lạnh. Kế hoạch chỉ chuyển tải một chuyến,
nghĩa là hai tháng mà ba tháng cũng chưa được về. Còn phải ở lại ngư trường,
còn phải bám biển để góp phần hoàn thành kế hoạch năm. Về là mất hơn trăm tấn
cá ngay. Dù máy có chạy quá thời hạn cả trăm giờ. Dù rau tươi hết từ đời nảo đời
nào rồi. Dù có người lở loét hết cả hàm ếch vì thiếu rau mà anh em gọi là mắc bệnh
"lở mồm long móng". Bao nhiêu kế hoạch bị vỡ hết. Người về sang cát
cho bố. Người về phép đi hỏi vợ. Anh thì vợ đẻ. Cũng có khi chẳng có việc gì
quan trọng nhưng cứ kéo dài chuyến biển, cứ chuyển tải cá tại ngư trường, là
cái cảm giác mình bị coi như một thứ công cụ nhằm phục vụ cho những bước thăng
tiến của mấy ông lãnh đạo xí nghiệp, để các ông ấy lên chức, làm giàu lại đến,
là lại thấy ngán ngẩm và nhiều khi sôi lên, muốn tung hê tất cả. Là thuyền trưởng,
nhiều lúc anh cũng muốn hét vào mặt giám đốc những điều nung nấu ấy khi báo vụ
đưa cho anh bức điện vừa nhận: 414 chuyển tải cả cho HL 02 ngày..., nhận dầu,
nước, thực phẩm từ HL02 tại đảo Hòn Khoai. Thế là tất cả dự định đảo lộn.
Lẽ ra kéo lưới, tổng vệ sinh, về bến và sau đó là bao nhiêu niềm vui chờ đợi
trên đất liền, những niềm vui nhỏ nhoi mà những người trong đất liền chẳng bao
giờ để ý như tiếng bánh xe ô tô lăn trên đường nhựa, hay một vòi nước công cộng
vỉa hè, túm tụm người lấy nước, rửa ráy, giặt giũ. Phải xếp những thứ đó lại.
Phải gạt ngay cái mùi mồ hôi, mùi da thịt vợ nồng nàn quen thuộc đã phảng phất
đâu đây, như đã ngửi thấy, đã sờ thấy để rồi triệu tập ngay cuộc họp ban lãnh đạo
tàu. Phải có một vẻ mặt thích hợp để điều khiển cuộc họp, nghĩa là biểu lộ sự bực
dọc nhưng không thái quá để giải thích, thuyết phục anh em chấp hành lệnh một
cách tự giác mà vẫn không mang tiếng là người theo đuôi lãnh đạo dù mệnh lệnh
có kỳ quái thế nào chăng nữa. Để không phải van nài anh em, được anh em thông cảm
nhưng vẫn giữ được cái uy của mình, của người thuyền trưởng, vẫn hoàn thành nhiệm
vụ được giao. (Và mỗi khi chuyển được tình trạng bất mãn, tức giận của toàn tàu
sang trạng thái mọi công việc trôi chảy băng băng, anh có cảm giác giống như
khi vừa đưa tàu vào nơi trú ẩn an toàn thì cơn bão lớn ập đến, nằm trên con tàu
buông neo trong vịnh, nghe biển trời gào rú, lồng lộn ngoài kia và hiểu rằng
mình đã thắng).
Anh luôn nghĩ mình là một thứ đệm chống va. Mỗi khi cập cầu
nhìn cái đệm chống va bị ép kiệt giữa tàu nọ với tàu kia, hay giữa tàu với cầu
tàu anh lại nghĩ mình cũng giống như vậy. Anh em ép lên. Trên ép xuống. Hai chiều
cùng ép lên anh. Lực ép nào cũng ghê gớm. Như sắt ép vào sắt. Như sắt ép vào bê
tông. Nhưng anh cũng lại thông cảm với trên. Trên cũng là một thứ đệm chống va.
Trên cũng lại bị dưới ép lên và một trên nữa ép xuống. Ai cũng là một thứ đệm
chống va thôi. Anh hiểu nỗi lòng mọi người. Anh thông cảm với những phản ứng của
anh em. Gọi đi ca, đéo đi. Trưởng ca biết vậy không nói nữa. Nó nói thế nhưng vẫn
đi. Nếu giục, trả lời: Nói nữa đổ máu đấy. Dậy ra boong rồi, nhưng cả ca cứ ngồi
hai bên mạn boong. Cứ gục đầu xuống hai tay khoanh trên gối như người ngái ngủ.
Như người mới ốm dậy. Thế rồi bỗng một thủy thủ đứng phắt dậy bước ra. Trò gì
thế nhỉ. Bôn vẫn theo dõi diến biến của mọi người, nhưng anh không giục cũng
như lúc này không hỏi. Anh thủy thủ quần áo bảo hộ lao động dày cộp, ủng lệt sệt
hùng dũng, mặt sát khí đằng đằng. Mai. Một anh chàng rất ham đọc sách. Lại làm
cả thơ nữa. Mai đã chép tặng Bôn một bài thơ bốn câu cho đến nay Bôn vẫn nhớ:
Giẽng trong xanh mây trắng đẽn soi gương Lònggiẽng, lòng người
hay lòng đất Mạch nước, mạch thời gian hay dòng sữa mát Xa nhau rồi giẽng bỗng
hóa quê hương.
Bài thơ Mai làm để nhớ đến cái giếng làng mình. Cái giếng của
những chiều gánh nước, cô nàng buông gầu thì Mai giữ dây gầu để cùng nhìn xuống
bóng hai người in giữa một khoảng tròn thăm thẳm trời xanh, rồi nhìn vào mặt
nhau, cô nàng đỏ mặt. Đó chính là người của ta bây giờ. Mai bảo vậy.
Cô nàng vẫn ở quê, Thanh Hóa. Chuyến này Mai đã làm bao nhiêu ruốc cá thu, chỉ
chờ nghỉ phép mang về. Mai vẫn làm thơ nhưng không đọc và cũng không chép cho
Bôn. Hỏi thì Mai cười: "Báo cáo thuyền trưởng bây giờ vợ bìu con ríu, việc
quân cơ trăm sự nghĩ sao". Ra cái điều sắp có con. Lấy vợ mấy năm, mấy lần
về phép, rồi chọn đúng lúc tàu đậu bến, vợ ra thăm chồng, ở với nhau cả nửa
tháng trên nhà - hạnh - phúc vẫn chẳng thấy gì. Đêm nằm sờ tay lên bụng vợ, Mai
hỏi: Sao vẫn cứ cấy chăng dây thẳng hàng thế này. Bao giờ thì cấy ngửa tay? Cho
đến chuyến vợ ra đầu năm trở về được ít ngày, nhận thư vợ, Mai nhảy lên, khoe với
mọi người. Tất cả xúm lại đọc: Sau khi em ra thăm anh về, cái chu kỳ ấy
không đến nữa. Bây giờ không cấy chăng dây thẳng hàng nữa, cấy ngửa tay rồi! Một
anh kêu to: Cũng chu kỳ như chu kỳ vòng quay chuyến biển mới khiếp chứ, cái chu
kỳ gì đây ông Mai? Còn cấy ngửa tay là gì? Cứ như mật mã tình báo ấy. Mai
còn tâm sự với nhiều người trong tàu rằng lá thư mới nhận, vợ Mai viết khi ở cữ
sẽ về nhà mẹ đẻ, sợ mẹ chồng không giặt giũ được cho nàng dâu. Vợ Mai không biết
mẹ Mai đã giặt giũ cho các bà chị dâu Mai như thế nào. Mai đã thức một đêm viết
thư về cho vợ, một bức thư "dài từ ngọn nguồn tới giữa biển" như Giáp
lưới trưởng sau này tố cáo. Giáp bảo trong thư có câu: Em định bảo vệ luận án của
em tới bao giờ, luận án đây không phải là luận án phó tiến sĩ đâu mà luận án mẹ
chồng không giặt cho nàng dâu. Giáp còn dọa Mai: Khéo tuột đụt đấy. Có nghĩa là
cẩn thận không sảy. Nhưng Mai cười: Không lo. Mình đã thắt một cái nút hoạt rồi.
Nút hoạt là nút thắt đuôi đụt. Rất chắc. Vướng rạn cũng chẳng việc gì. Nhưng chỉ
giật nhẹ một cái là đụt cá sổ ra. Đã tính toán sít sao, đã làm cả ruốc cá thu
thế mà vỡ kế hoạch. Vợ đẻ không về được. Món ruốc cá đành đem cho anh
nuôi vay nấu mì. Anh nuôi nể lắm mới nhận vì mì ruốc cá so làm sao được
với mì nấu tôm tươi. Mẻ lưới nào chẳng lẫn mấy lạng tôm. Giờ thấy Mai hùng dũng
sát khí đằng đằng bước ra boong, qua chuồng cu (chòi micrô sau lái),
Bôn lặng im xem Mai giở trò gì. Bình thường Mai nói năng rất từ tốn, gần như
không bao giờ văng tục. Nhưng chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Một khi mọi kế hoạch
bỗng tan tành mây khói, mọi mơ ước sụp đổ. Đi đến giữa boong, Mai dừng lại. Tất
cả nhìn theo. Những người đi ca và cả những người không đi ca. Trò gì thế nhỉ?
Vẻ mặt Mai vẫn hầm hầm, trông phát sợ. Vẻ mặt ấy là của người bất cần đời, giời
cũng bé. Mai dừng lại, mắt trừng trừng về phía mũi. Tất cả nín thở chờ một điều
gì đó xảy ra. Mai giơ hai nắm tay về phía trước như người nắm ghi đông xe đạp.
Không phải xe đạp. Xe máy. Bởi Mai đã co chân lên đạp đạp mấy cái như kiểu đề
ma rơ, tay xoay xoay chỉnh ga, mồm dẩu raprừprừ rứ rứ rứ... Nhao nhao những
câu hỏi và những lời nhắn:
- Phóng xe đi đâu đấy?
- Nhớ quành ra Ngã Sáu mua ít rau tươi nhé!
- Mua về đây một tút Hero nghe không? Nhịn cả tuần rồi.
Giáp, lưới trưởng, trong những tình huống căng thẳng như thế
này thường được gọi là Giáp hấp tỉ độ cười nhạt gọi Mai:
- Nhớ tranh thủ về Thanh Hóa xem vợ mình đẻ chưa nhé. Nếu con
gái thì thôi. Nếu con giai là phải đẻ đứa nữa đấy. Nói hộ rằng mình còn lâu mới
về. Cứ đi kiếm với thằng nào cũng được. Nhưng phải đợi khô lò đã.
Câu nói châm chọc. Khích bác. Khoét vào nỗi đau của Mai. Rất
có thể Mai sẽ ra đòn lại, và câu chuyện chẳng biết sẽ đi đến đâu. Không khí như
lặng đi dù gió vẫn thổi, sóng vẫn xô và con tàu vẫn nâng lên hạ xuống. Như được
khuyến khích bởi sự im lặng giông bão ấy, Giáp làm ra vẻ rầu rĩ:
- Bảo với nó mình đã làm ruốc cá thu định đem về nhưng phải ở
lại nên cho nhà bếp rồi. Gắng đợi năm năm nữa mình về.
Mai bỗng buông thõng hai tay, không nắm ghi đông nữa.
Và quay lại lừ đừ nhìn Giáp. Nhìn như thôi miên. Giáp hấp tỉ độ, Giáp gai
cá gúng chăm chăm nhìn lại Mai. Tất cả nín thở chờ đợi một cuộc xô xát.
Nhưng Mai vẫn đứng nguyên một chỗ. Rồi lại nhìn thẳng ra phía trước, phía mũi
tàu, phía cái cẩu giương cần nghiêng nghiêng. Tay lại giơ lên. Chân lại đạp.
Tay xoay xoay như người xoay tay ga. Đặt hết tâm trí vào việc đề ma rơ.
- Prừ prừ rứ rứ rứ...
Và văng ra một tiếng bất ngờ nhất. Một tiếng chẳng liên quan
gì đến xe máy. Cũng chẳng liên quan gì đến đánh cá. Một tiếng tục không chịu được,
to tát giữa chỗ đông người, giữa thanh thiên bạch nhật vang lên cùng trời cao
biển rộng. Một tiếng tục bắn ra như một viên đạn nghe rất lạ tai vì cường độ của
nó. Một tiếng người ta chỉ có thể nói nhỏ, nói thầm bỗng văng ra thành một tiếng
thét. Chưa bao giờ tiếng ấy được thốt ra như một tiếng gào lớn lao và thống thiết
đến thế. Tất cả cười vang. Bôn cũng cười. Rung cả người. Giáp bật dậy chạy ra
ôm lấy Mai. Hai người ôm nhau vỗ vỗ vào vai nhau như những người bạn thân thiết
xa nhau quá lâu nay gặp lại. Nỗi bực dọc của mọi người biến đi đâu hết sau cái
tiếng Mai bất ngờ thét to hết cỡ ấy. Người cứ nhẹ lâng lâng. Làm thôi. Đằng nào
cũng phải làm thì làm thôi. Cả ca ai nấy đứng vào vị trí: Tơi trưởng lên máy điều
khiển, tơi phụ đứng cạnh bàn tời, ca trưởng thì vẫn gù chuồng cu sau lải, bốn
thủy thủ chia nhau hai người một, bước về hai trụ ván hai bên mạn. Công việc lại
chạy băng băng. Lại những tiếng rin rít của pu li cẩu kéo lưới từ biển lên sàn
dốc. Dây cáp. Rồi dây đõi quấn đay xơ xác. Nước bùn chảy ào ào trên boong tràn
qua mạn. Tiếng rì rì của tời kéo đụt cá. Giật đụt. Cá trút xuống mặt boong. Bơm
nước mặn rửa cá. Lấy xẻng xúc lên băng chuyền. Băng chuyền cao su tràn nước, những
con cá mới sa lưới còn sống chen nhau giương mang nghiêng mình lách ngược dòng
nước chảy. Cá trên băng từ phía lái ngược lên đổ xuống hầm chế biến. Xếp cá vào
khay. Rốp xình. Rốp xình. Cá đầy khay, đậy nắp lại, móc khuy một đầu, rồi tì
khuỷu tay ấn một cái thật mạnh. Rốp. Rốp. Rốp. Nghe cứ ghê người. Phải lấy hết
sức mà làm. Không khỏe ấn mãi cái nắp cũng không xuống. Đưa khay cá vào tủ
đông. Xình. Xình. Xình. Rốp. Rốp. Rốp xình. Rốp xình. Đinh tai nhức óc.
Bôn biết anh em. Họ rất tốt. Nhưng những lúc như vậy chớ có
lên lớp họ. Lúc ấy tất cả sẵn sàng văng ra những câu giọng đuôi cá đuối. Kết
quả chắc chắn sẽ là ngược lại. Bởi vì lòng vả cũng như lòng sung. Điều anh nghĩ
tới đầu tiên khi nhận lệnh chuyển tải đánh thêm hai trăm tấn cá nữa là nghĩ tới
giám đốc: Tất cả cho 10.000 tấn cả, khẩu hiệu ấy nếu thực hiện được
và vượt nữa có lợi cho ai? Trước tiên là lãnh đạo xí nghiệp mà giám đốc là người
được hưởng nhiều nhất rồi đến đám cán bộ trung gian, trưởng phó phòng, thuyền
trưởng thuyền phó, cuối cùng mới đến anh em công nhân thủy thủ, may mắn ra thì
được thêm một tháng lương, tháng lương thứ 13. Thuyền trưởng sẽ được chú ý, lên
lương, được điều sang các tàu máy móc thiết bị còn tốt, được tặng các danh hiệu
thi đua và quan trọng hơn cả là tăng thêm hy vọng được điều xuống các tàu đông
lạnh chở hàng đi nước ngoài để được đổi đời. Anh em thuyền viên chỉ được hưởng
cái xái xa xôi nhưng rất ít: Lời nói của thuyền trưởng tàu hoàn thành kế hoạch
bao giờ cũng có trọng lượng hơn, chữ ký của thuyền trưởng tàu hoàn thành kế hoạch
đề nghị thi nâng cấp nâng bậc, đề nghị điều chỉnh lương bao giờ cũng được trên
lưu ý và được bố trí vào thời gian thích hợp nhất. Bôn biết cái đám ăn xái đang
làm việc kia có lý khi nghĩ về lãnh đạo con tàu, lãnh đạo xí nghiệp như vậy.
Anh thông cảm với họ, từ những chuyện nhỏ nhất như sự so sánh cửa miệng của anh
em: Không gì khổ bằng cái nghề này. Giời mưa con chó cũng biết chạy vào trong
nhà, thế mà mình lại phải lao ra ngoài mưa. Cả cái câu của lưới trưởng Giáp
trong một bữa bia ở Ngã ba Đông Dương khi tàu kết thúc chuyến biển
dài ngày, cập bến, một câu nói tự đáy lòng như một lời than thở:
- Lên bờ trông người phụ nữ nào cũng đẹp.
Thế là đã nói bớt đi, nói cho lịch sự rồi đấy. Đi biển lâu
ngày, về bờ nhìn người phụ nữ nào cũng thấy uyển chuyển, dịu dàng, duyên dáng,
xinh đẹp và gợi tình. Người phụ nữ nào cũng làm mình muốn ôm chầm lấy, cũng làm
sống dậy trong mình cái máu đa si!
Thế mà phải lùi cái ngày ấy lại, cái ngày về bờ để nhìn thấy
người phụ nữ nào cũng đẹp cũng gợi tình lại. Mà xí nghiệp có đến cả chục lý do
để lùi, để kéo dài chuyến biển: Tàu về bến quá đông, không có cầu đỗ, thực phẩm
Hà Nội hết chỉ tiêu lấy cá, kho lạnh điện phập phù, mấy thằng điên nặng này
ngơi phong bì là hết ưu tiên v.v...
° ° °
Tôi đi ngủ sớm. Nằm. Không định ngủ nhưng mắt cứ díp lại. Những
mẻ lưới về đêm kéo lên tôi không được biết. Cũng chẳng rõ tàu đi đến đâu nữa.
Nhưng mẻ lưới sáng sớm hôm sau có mặt tôi. Bác Sĩ bảo tôi:
- Con giời. Sao ngủ sớm thế. Hôm qua tao gọi mày dậy ăn cá nướng
mà cứ ngủ thôi.
Tôi dậy đúng lúc kéo lưới. Hai cái đụt tômphinhphính treo
trên mỗi càng tăng gông. Chú Hồng giật cái dây, tôm cá xổ xuống mặt boong gỗ.
Râu tôm đỏ đọc giương lên. Những chân tôm, những vi ở bụng tôm vẫy vẫy như múa
trông rất vui mắt. Tôm búng tanh tách làm bắn cả nước lên mặt tôi. Nhưng cá vẫn
nhiều hơn. Rắn biển từng búi từng khoanh. Một con nhệch nghiến chặt một con
tôm. Con cá ó to nhất hội nằm ngửa như một con chim lật ngược, vẫy hai cánh cố
ưỡn cái bụng trắng lốp lên. Một con bạch tuộc chết. Còn con bạch tuộc sống nằm
giữa đống tôm cá, thỉnh thoảng phổng mình lên rất to rồi lại xẹp xuống.
Tôi túm lấy con bạch tuộc. Nó nhão nhớt, trơn tuột. Nhưng một
cái râu của nó quấn vào cổ tay tôi, và những nốt sần trên râu hút chặt lấy tay
tôi. Tôi ném mạnh nó xuống biển. Ngay lập tức con bạch tuộc phồng cái bụng như
một quả bóng hình bầu dục và giật lùi về phía sau. Khi di chuyển những chân tay
của nó chụm lại thành một búp thon thon gọn gàng trông giống một quả bầu nậm nhỏ
và dài. Mấy cái giật lùi như vậy, nó đã mất hút trong làn nước biển. Nhưng phải
nói đẹp nhất là con tôm bơi. Khi chú Hồng điều khiển tơi thả lưới, một con tôm
to vướng vào tấm lưới treo ở đầu tăng gông rơi xuống biển. Nó bơi. Hai chiếc
râu dài cong vút về phía sau. Hàng vi ở bụng quạt nước lấp lánh lấp lánh, mình
tôm duỗi thẳng, đuôi xòe rộng dưới làn nước biển xanh... Rất nhiều loại cá. Tôi
không biết tên. Con nào cũng đẹp. Đủ các màu sắc. Tôi nhặt một con cá nhám còn
sống đặt lên tang tơi nhìn ngắm. Trông nó thật đẹp. Nó không bềnh bệch như con
cá nhám chết đang nằm dưới kia. Da nó có những màu sắc của da trời. Trong,
xanh, vàng, bàng bạc thay đổi liên tục. Mang nó phồng lên xẹp xuống cũng như nó
luôn cựa mình. Chơi một lúc, tôi ném nó vào đống cá dưới boong. Một con cá to
màu xám đã lách theo mạn be rồi lại cứ ngược dòng nước xối từ mảy bơm trở về đống
cả. Có hai con sam bé tí, đuôi dài thẳng đơ, vụng về bò ra be, ngay lỗ thoát nước
mà không biết đường lăn xuống biển. Toàn tàu ra nhặt tôm. Tất cả tôm cá được
phân loại, cho vào lổ đưa xuống hầm đá. Những làn mưa mỏng buông chung quanh chỗ
chúng tôi. Có lẽ chỉ ở biển mới được thấy những làn mưa mỏng, võng từ trên trời
xuống như vậy. Một cơn mưa dày hơn, đen hơn đang trút xuống phía đất liền. Bố
tôi bảo với chú Hùng:
- Hôm nay nước ương. Cho tàu đảnh xuống rãnh được.
Bố tôi và chú Hùng chụm đầu vào hải đổ. Tấm hải đổ có in những
chữ số nhỏ li ti, chi chít ghi độ sâu của biển, trải trên bàn, thực ra không phải
là bàn mà chỉ là một tấm gỗ phẳng đảnh véc ni được bắt chặt vào vảch cabin buổng
lải. Lưới treo trên tăng gông. Tàu hành trình đến rãnh. Những mẻ lưới ở rãnh quả
là nhiều tôm. Nhiều tôm nhưng ít cả. Cảc chú bảo hễ được nhiều tôm là ít cả.
Ngược lại ít tôm là nhiều cả. Những con tôm búng nhảy, những con tôm nằm yên một
chỗ vây bụng đỏ hồng chuyển động đều đều phảt ra tiếng rì rào nhè nhẹ. Bảc Sĩ
nhặt một con cả trắng, tròn, nhỏ xíu bảo mọi người:
- Kỳ trước về Bắc Giang, bà Đảng (tức là mẹ tôi) cắp rổ đi chợ
mua về một rổ cả bướm. Tưởng cả bướm là cả gì, hóa ra cả này.
Tất cả cười ầm. Tôi hỏi bảc Sĩ:
- Cả này gọi là cả gì hở bảc?
- Con cả ót. Ót liệt.
° ° °
Hôm nay Bôn phóng xe tranh thủ về gặp người phụ nữ của anh,
người phụ nữ xinh đẹp dịu dàng yêu quý anh lúc nào cũng muốn ấp vào anh. Gửi xe
ở một hàng nước đầu phố, (anh không muốn tiếng xe máy bố cáo với mọi người rằng
anh đã về) anh đi bộ về nhà mà như đã nghe tiếng chị thở hổn hển dồn dập bên
tai. Lần này chắc chắn anh sẽ ngồi như ông Thế Trường ngay từ những giây phút đầu
tiên mà không đợi chị phải nhắc, phải giục. Trên đường về nhà, anh chỉ sợ gặp
người quen. Chỉ cần lúc lỏn vào nhà không gặp ai, không có ai trông thấy là được.
Anh cười thầm: Cứ như thằng đi ngoại tình. Cứ như thằng ăn trộm. Rồi nghĩ: Giờ
này hai đứa con anh đang ở trường. Còn vợ anh thế nào chẳng biết ngày giờ tàu cập
bến. Và cái anh chàng Đức, trưởng phòng điều độ thế nào chẳng vừa cười vừa đưa
sổ ghi điện cho chị bức điện xin cập bến bốc cá của anh. Nửa chặng đường, không
gặp người quen, Bôn hồi hộp cầu mong cho quãng đường còn lại. Cầu được ước thấy:
Không một ai quen! Đã nghĩ đến bữa tiệc ái ân sắp được hưởng nhưng vừa đến chân
cầu thang lối lên nhà anh, một người từ trên xuống. Trông thấy anh, người ấy
reo to:
- Chào thuyền trưởng! Chờ mãi. May quá, đang định về.
Một đòn choáng váng! Thông! Một người bạn từ xa xưa, thời còn
học trung cấp thủy sản! Cùng một khóa nhưng sau khi tốt nghiệp, Thông văn hay
chữ tốt nên được về làm phóng viên tờ báo địa phương, theo dõi ngành thủy sản.
Thỉnh thoảng vẫn xuống xí nghiệp lấy tin viết bài. Và bởi đã từng học thủy sản
nên Thông quen biết rất nhanh, nhất là hàng ngũ thuyền trưởng thuyền phó các
tàu. Đến tàu nào Thông cũng được quý trọng và đón tiếp nồng nhiệt. Chuyện nghề
nghiệp. Chuyện mùa vụ. Cả chuyện nhân sự thành phố. Chuyện thời sự quốc tế. Ăn,
nhậu và quà. Quà sang trọng: Cá chim. Tôm he. Mực tươi, mực khô. Thông lại có
cách nói toạc ra những điều thầm kín pha lẫn hài hước. Ví như tối hôm trước,
sau khi ăn nhậu dưới tàu VT 250 và được thuyền trưởng Lê Mây cho một lồ mực ống
tươi, phải lấy miếng vải nhựa đi mưa ra đùm, lại còn thân hành đưa ra khỏi cổng
bảo vệ; sáng hôm sau Thông xuống tàu để cảm ơn, một kiểu cảm ơn thật thà như đếm:
Cám ơn thuyền trưởng. Thuyền trưởng làm hai vợ chồng tôi gần chết. Ăn thế chó
nào hết gần chục cân mực. Đem cân ra cân, chính xác là chín kí bảy. Nhà tôi phải
sắm một cái cân đấy bố ạ. Chỉ để cân cá cân mực xin được. Tin làm sao được cân
của mấy mụ hàng cá. Nó cân cho mình, một cân chỉ tám lạng. Nó mua của mình, một
cân của nó ăn cân ba. Cân lên chín kí bảy tươi. Hai vợ chồng hai đứa con, ăn
nhiều lắm là ba kí. Đèo nhau ra chợ Trần Quang Khải, bán bảy ký. Coi như được một
tháng lương.
Mỗi khi ăn ở dưới tàu, Thông hay cười cười nửa đùa nửa thật:
Có vào người bữa đạm này, về nhà ăn rau cả tháng vẫn đủ chất, nhường mọi thứ
tiêu chuẩn thịt cá cho vợ. Được một con hồng bự của tàu đông lạnh, cho vào bao
dứa, Thông nói với mọi người dưới tàu: Đem con cá này về vất đánh huỵch một cái
giữa nhà rồi ngồi thở. Chỉ thở thôi. Vợ con mắt sáng lên. Con lấy quạt quạt cho
bố. Vợ pha nước chanh. Đèo cá qua cổng bảo vệ, Thông nhăn nhở: "Anh là nhà
báo đây. Vì vậy rất đói. Tàu cho anh con cá, đừng bắt anh, em nhé". Nói vậy
thôi chứ ai cũng coi phóng viên Duy Thông như một thứ người nhà rồi. Tuy làm
báo nhưng Thông lại có mộng viết văn, làm thơ. Đã có thơ đăng báo của hội văn
nghệ địa phương và gần đây viết rất lên chân (cách nói của Thông) bằng
chứng là có thơ in cả trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn. Không những thế, còn mới
in một tập thơ, mỏng thôi, thuyền trưởng cho cá hay không cho cá đều được Thông
tặng:
- Tự bỏ tiền in đấy các chiến hữu ạ. Tiền bán cá các chiến hữu
cho, chứ mình lấy tiền đâu ra mà in. Thơ đọc được đấy. In xong trong túi không
còn đồng nào. Xuống xin các chiến hữu chi viện đây. Lúc đi qua ngã tư Trại
Lính, chẳng biết đang nghĩ ngợi cái chó gì, vượt đèn đỏ. Công an tít, giở biên
lai ra ghi phạt. Mình bảo: Anh là nhà thơ đây. Nghèo lắm, chẳng đồng nào trong
túi. Nó bảo thật không? Mình rút tập thơ trong túi ra: Đây, ảnh anh in ở bìa
đây. Nó cầm tập thơ xem rồi bảo: Anh là nhà thơ thật nhỉ. Anh cho em tập này
nhé. Mình ký tặng ngay. Thế là cứ thế đi thôi. Không phạt phung gì nữa. Với lại
trong túi không còn đồng nào thật.
Gặp Thông, Bôn chết lặng. Gặp người quen là đã đại hạn rồi.
Huống hồ gặp Duy Thông! Mà lại gặp ngay chân cầu thang lối đi lên nhà mình!
Không trốn đi đâu được! Thông nắm chặt tay anh. Anh gỡ ra nhưng Thông càng nắm
chặt hơn với tất cả nhiệt tình vồn vã. Tôi vừa lên nhà. Gặp bà ấy. Bà ấy nói
ông đi biển. May quá. Suýt nữa không gặp. Sao, chuyến này thắng chứ hả. Hôm nọ
xuống xí nghiệp gặp thằng Đức điều độ, nó bảo ông đánh ở Bạch Long Vĩ, sóng lắm
phải không. Ông chịu sóng cũng xoàng. Chịu sóng khá nhất trong hàng ngũ thuyền
trưởng phải kể đến Lê Mây. Biển động tàu vào trú gió, sóng mới hạ xuống cấp 6
đã lay từng thằng một, giục nó ra biển. Nịnh từng thằng một. Dỗ như dỗ em.
Nhưng mà đánh thế là phí sức. Phải biết tiết kiệm sức lực của anh em như ông mới
đúng. Căn bản là năng suất mẻ lưới chứ không phải số mẻ lưới. Cứ nồng nhiệt như
vậy, tào lao chi khươn như vậy, gần như Thông lôi Bôn đến cửa nhà anh. Buồn nản
cùng cực, nguyền rủa cuộc gặp mặt, nguyền rủa Thông, Bôn nhìn vợ với hai con mắt
chứa chan tình yêu, ham muốn lẫn tràn đầy thất vọng. Anh nuốt một cái gì vào họng,
cố nặn ra một nụ cười mà không được:
- Có anh Thông đến chơi.
Liếc nhanh bộ mặt đâm lê của chồng, rồi nhìn sang Thông vẫn
đang đầy một niềm phấn khích, chị Ngát lạnh lùng:
- Thế là anh lại gặp nhà em đấy hở.
Rồi quay đi, giấu một cái nguýt rõ dài. Rõ ràng Ngát còn thất
vọng hơn Bôn. Bởi chị đã xin phép công ty nghỉ buổi sáng hôm nay, lại đã tắm rửa
cẩn thận chỉ để được gần chồng ngay sau khi tàu cập bến chứ không phải chờ đến
tối.
° ° °
Chiếc cần cẩu thiếu nhi - người ta gọi nó như vậy có lẽ vì nó
nhỏ, đặt trên một cái bệ có bốn bánh xe bằng sắt, một người có thể dùng tay đẩy
nó đi từ đầu đến cuối cầu cảng, do một công nhân nhỏ nhắn đã có tuổi tên là
Chín điều khiển. Tổ bốc cá mà ở đây người ta gọi gọn là tổ bốc chỉ có mỗi ông
Chín là đàn ông. Trước đây tổ bốc toàn chị em người Việt gốc Hoa, họ nói tiếng
Việt như người Việt gốc Việt, nhưng họ nói với nhau toàn bằng tiếng Hoa, ríu
rít như một đàn chim hót líu lô. Sau năm 1979, đám nữ công nhân gốc Hoa ấy biến
đi đâu hết. Chỉ còn trơ lại mỗi ông Chín. Thấy ông vẫn đứng điều khiển cần cẩu
trên cầu cảng, nhiều người nhìn ông ngạc nhiên. Ông hiểu cái nhìn ấy, tròn mắt:
- Anh tưởng tôi là người Hoa à? Tôi là người Việt trăm phần
trăm. Thế mà ai cũng nghĩ tôi là người Hoa. Rõ chán.
Ngày trước ông đứng cẩu. Bây giờ ông vẫn đứng cẩu. Chị em làm
dưới hầm cá lạnh và tanh hôm nay là những chị em người Việt.
Chiếc cần cẩu kêu ro ro. Nó hạ thấp cần xuống miệng hầm cá. Rồi
nó lại kêu. Lần này tiếng kêu của nó nặng hơn vì đã mang tải. Đầu cần ngóc lên.
Dây móc cẩu căng làm bắn ra những giọt nước đùng đục màu vàng. Dưới hầm chị em
tổ bốc ngoắc cái đụt cá đan bằng những sợi ni lông trắng đã ngả màu cháo lòng,
xơ xác bẩn thỉu, ướt đẫm, trương phềnh, cái đụt đã chất đầy cá nục, cá mối, cá
đổng và các thứ cả ba quân vào móc cẩu. Cần cẩu quay nặng nề, vừa
quay vừa từ từ ngóc lên cao và hướng về một chiếc xe ô tô đang nổ máy. Trên
thùng xe, một chị công nhân quần bông áo bông, ủng cao tới gối, mặt bịt kín giơ
bàn tay đi găng đón cái đụt cá. Chiếc cần cẩu như chỉ chờ có vậy. Ông Chín như
chỉ chờ có vậy. Cái đụt cá dừng lại lửng lơ. Nó rỏ những giọt nước lờ lờ như nước
gạo và nặng mùi bị gió thổi bay chéo. Chị bốc cá giật mạnh sợi dây ở đáy đụt.
Đó là cái nút hoạt mà Mai đã nói tới khi mọi người nhắc anh phải cẩn thận kẻo
không vợ anh bị sảy. Cá xổ tung trên thùng xe. Cần cẩu lại bắt đầu một chu kỳ mới,
quay một nửa vòng về phía miệng hầm cá và từ từ hạ xuống. Nước cá đục chảy trên
thùng xe xuống mặt cầu thành dòng, thành vũng.
Trên cầu tàu, ngoài những người có nhiệm vụ, những cán bộ OTK
của xí nghiệp, người của bên nhận hàng - lúc này là người của công ty thực phẩm
Hà Nội, lúi húi phân loại cá, nhân viên bảo vệ, còn có những công nhân phân xưởng
sửa chữa, những công nhân phân xưởng lạnh, cán bộ nhân viên khối trên bờ đi đi
lại lại, có công việc hay không có công việc. Họ đảo ra cầu tàu. Đảo ra để nhìn
những đụt cá, những xe cá biết bao hấp dẫn. Đảo ra để được ngửi cái mùi nằng nặng
ủng ủng của những tạ cá, những tấn cá không còn tươi đã bắt đầu phân hủy mà ao
ước có được mấy con. Bởi vì những bữa cơm của gia đình họ, của vợ chồng con cái
họ quá ư đạm bạc, không một chút mỡ dính bát, không một miếng thịt, không một
con cá, chỉ rau dưa nấu mắm và một tí mì chính tra vào như tra thuốc đau mắt...
Thì ra đây nhìn. Nhìn cho sướng con mắt. Nhìn cho thêm quyết tâm, thêm can đảm,
thêm kiên trì và nhẫn nhục để lựa thời cơ, xuống tàu bằng cách này cách khác kiếm
mấy con đem về nhà cải thiện.
Với Cương những con cá trong hầm cá chỉ còn là những con số tấn,
tạ, những đụt cá được chuyển lên xe. Những xác chết nhờn nhợt một màu. Những
con cá để biến thành những con số thực hiện kế hoạch chuyến biển, những con cá
không còn cả tính. Con cá thu không còn cái dáng chắc nịch hình thoi
lao đi như tên bắn dượt theo chiếc lông gà mà bố Tích cấp dưỡng mệnh danh tay
nải thân yêu thả trên mặt biển. Con cá khế mất hẳn cái màu sắc óng ánh hai
bên lườn dèm dẹp, lớp da mỏng tang của nó kỳ diệu thay, ở sâu dưới nước mà lại
lưu giữ màu sắc óng ánh luôn thay đổi của bầu trời lúc bình minh. Con cá hồng đỏ
rực giương vây, cái màng mỏng đỏ tươi dính vào các gai mọc trên lưng nhọn hoắt,
các vây ngực vây bụng xòe rộng, nửa thân phía dưới - bắp đuôi- rất khỏe quẫy cựa
làm lệch cái vây đuôi hình đuôi én. Nằm giữa đống cá nhỏ, con cá hồng như khoe
sức mạnh, vẻ đẹp của mình lần cuối cùng trước khi chết. Và con cá ong hương nhỏ
nhoi đầu to, cổ rụt, có dáng dấp của một nhà tư tưởng ngẫm nghĩ sự đời vẫn tiếp
tục dòng suy tưởng ngay khi bên cạnh nó những con cá dưa dài như cột nhà vàng
nhẫy da lươn đang ngáp ngáp trong cơn hấp hối. Con cá song há cái miệng rộng lởm
chởm răng, mang phồng ra đỏ tươi như máu, lách xuôi theo dòng nước từ ống cao
su của máy bơm nước mặn xối vào lưng nó. Không thể không nhìn con cá kẽm màu
xám đang nghiến chặt con cá đổng hồng tươi như một thỏi son môi giữa hai hàm
răng sắc, nghiến mãi nghiến mãi cho đến khi con cá đổng đứt làm hai, rồi rùng
mình mấy cái, đờ ra bất động, như đã cố thu hết tàn lực hoàn thành nhiệm vụ cuối
cùng.
Thỉnh thoảng mới được đi biển, Cương hay ngắm những con cá ấy.
Không mẻ lưới nào anh không có mặt. Để nhìn cá. Để nhìn chất đáy. Nhìn con cá sống
con cá chết, nhìn chất bùn đất rong rêu theo cá lên boong. Từ đó mà phán đoán
khu ô, phán đoán luồng cá. Cá còn tươi, còn giãy là mới chớm vào luồng cá. Cá
chết nhiều là đã vượt qua đàn cá. Rong rêu, bùn cát là tàu đang ở
đâu, đã giạt đi bao nhiêu độ. Cát bùn là đang ở đâu. Gặp nấm biển mà
anh em gọi là cốc chén của vua Thủy Tề là đang ở đâu. Cứ thế mà tính
mà trừ độ giạt. Mà bám luồng cá.
Bài học về chất đáy là bài học của cả đời. Vua chất đáy không
phải Bôn, Mây, cũng không phải Chơn. Vua chất đáy là Lê Uy, cháu họ Lê Mây, gọi
là cháu thôi chứ còn nhiều hơn Mây vài ba tuổi. Không cần chạm tay miết chất đất
dính vào đụt lưới, dính vào hàm chì, chỉ nhìn thôi, nhìn màu sắc chất đáy, nhìn
những tạp chất khác kèm theo, Uy đã biết tàu ở vị trí nào trên hải đồ. Bởi vậy
đánh cá đáy không ai có thể bằng Uy. Cá mối là chết với ông ấy. Cá mối là loài
cá đáy. Nhưng cá nục Uy cũng chỉ như Bôn thôi. Cá nục đi nổi.
Uy còn đang trú gió ở Bạch Long Vĩ. Trú gió ở đấy chẳng ăn nhằm
gì. Trú gió ở đấy cũng gần như không trú gió. Nhưng không thể chạy về Long
Châu. Chạy đi chạy về như vậy, dầu hết, còn thời gian đâu đánh cá.
Đã được mấy xe cá chọn rồi. Cương đảo ra ngoài miệng hầm. Anh
bảo vệ đứng ghếch một chân lên miệng hầm nghe chừng đã mỏi, bước ngược lên buồng
lái, vớ lấy ấm trà đặc làm liền vài chén. Anh ta loay hoay tìm bao thuốc lá
nhưng thuốc lá là vật bất ly thân, Cương đã cho vào túi áo bông, không thể để
thành một thứ xê xê xê pê 1 trong
buồng lái được.
Cương ngó xuống hầm cá, ước lượng số cá đã bốc, số cá còn
trong hầm và đảo vào bếp. Một nồi cá song đã được đặt trên bếp sôi lom rom. Và
một chảo sườn ninh. Chỉ có vậy.
- Bố Tích ơi!
- Bố Tích đi chợ rồi. Đi từ nãy cơ.
Anh thủy thủ trực bốc cá đứng sát bàn cân trả lời.
- Chết không. Sắp trưa rồi mà vắng tanh vắng ngắt thế này.
Sắp trưa và trưa. Đó là thời gian bận bịu căng thẳng của anh.
Và kia kìa cái dấu hiệu đầu tiên của sự căng thẳng đến kia rồi. Đó là Nhược và
Thuyền, hai người trông con tàu bẹp cùng anh. Nhược gầy cao xách chiếc xô tôn
thủng thẳng đi trước. Thuyền to lớn bệ vệ theo sau.
- Chào thủ trưởng.
- Thủ trưởng khỏe không?
- Khỏe. Anh em ở nhà thế nào?
- Bình thường. Nghĩa là đọi. Bà cả Đọi. Có cái khác là nhớ thủ
trưởng thôi.
- Cám ơn tấm lòng không lấy gì làm thơm của các bạn.
Nhược chìa xô ra:
- Thủ trưởng cứ cho đầy đầy cái xô này là được.
Ba người bước đến miệng hầm cá. Cương nói với mấy chị bốc cá
đang lấy cào ba chia cào cá vào miệng đụt. Cái xô được quăng xuống. Thuyền gọi
to:
- Chị Liền ơi. Cá bạc má nhé.
Nhược tiếp:
- Đầy xô vào.
Cả tổ bốc, cả anh bảo vệ đều biết Thuyền và Nhược là lính dưới
tàu 307, là quân của Cương, cần phải ưu tiên. Họ bốc ngay chỗ cá nục, cá bạc má
ngon nhất mà họ đã lựa ra theo phản ứng nghề nghiệp, chẳng thể để những con cá
ngon như thế giao cho mậu dịch được, hơn nữa thế nào cũng có những người tới bắt
họ phải nhặt những con cá chưa bị vỡ bụng, mắt còn trong vào túi vào xô.
- Cho đầy vào. Lắc lắc xô mấy cái đã nào.
Chị bốc cá làm đúng như mệnh lệnh. Nhược cúi gập người thõng
tay xuống nắm lấy cái quai xô chị bốc cá đang cố kiễng chân đưa lên.
- Đánh nhanh. Rút nhanh.
Hai người nhảy lên cầu tàu, đi về phía cuối cầu cảng, nơi con
tàu bẹp đỗ. Ớ đấy đã có mấy người đàn bà phe cả đứng đợi.
Thuyền, Nhược vừa đi thì một đoàn rồng rắn xô thùng đến. Đó
là những tàu sửa chữa định kỳ, nằm bến lâu ngày, những tổ xuống đá, những tổ
súc sạc ắc quy, những tổ sửa chữa, những tàu lai tàu dầu... Tất nhiên là những
suất cá ngon, nhưng ít người được toàn cá đẹp như Thuyền và Nhược. Chẳng ai
ghen tị với anh em trông con tàu bẹp. Quanh năm suốt tháng đói. Chỉ trông
vào viện trợ của chín nước anh em. Chỉ có đồng lương cấp bậc. Phụ cấp
đi biển không. Lương sản phẩm không. Quỹ công đoàn không. Quỹ tàu càng không.
Lương cũng lĩnh hai kỳ như khối trên bờ. Một mình tiêu không đủ, nói gì tới gia
đình vợ con.
Giải quyết xong việc cho cá, Cương xem đồng hồ: Đã mười một
giờ rồi. Bôn đã về. Cương bảo thuyền trưởng đi đâu, giám đốc tìm đấy. Sáng nay
họp bàn chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Bôn bảo: Cậu báo cáo hộ mình rồi chứ.
Cương đùa nhưng lại đúng sự thật:
- Có báo cáo ra trạm xá chứ không nói về nhà giải quyết
khâu tăng cường hàng tiền đạo.
Bôn cười không trả lời. Nào anh đã được xơ múi gì đâu. Cái buổi
sáng bao nhiêu hy vọng nhưng rồi không ra làm sao. Thông ngồi cũng không lâu lắm.
Đủ để đọc cho anh nghe mấy bài thơ về biển Thông mới làm và muốn xin ý kiến người
bạn đã gắn bó với biển nửa cuộc đời.
Biển ơi biển bạc làm chi Biển vàng mà rất nhiều khi không
vàng
Ông bạn nhà thơ trợn mắt nhìn Bôn:
- Ông thấy hai câu này của tôi được đấy chứ hả. Biển bạc là hỏng
rồi. Bạc là trắng phớ ra, là bạc bẽo. Là đổ mồ hôi sôi nước mắt mà chẳng ăn gì.
Chưa kể biển còn là nấm mồ chôn bao người. Còn biển vàng cũng là nói động viên
thôi. Có vàng đấy nhưng vàng rất ít. Tôi rất ưng hai câu này. Có thể đây là
tuyên ngôn về cuộc sống của tôi. Cuộc sống là như thế. Không vàng mà bạc.
Những câu nói của Thông cứ như những mũi khoan xoáy vào đầu
óc. Anh cũng chẳng biết mình có gật gù làm ra vẻ tán thưởng không nhưng trong đầu
anh đã bật ra một câu chửi, thơ với phú cút mẹ mày đi ông bạn giời đánh ạ lại
còn cái gì nữa đây à một bài thơ tình để tôi đọc bài thơ tình đã rồi bài thứ ba
lại là bài thơ về biển cho nó thay đổi không khí đi ăn mãi một món sợ chán hôm
qua em có về không anh đi đến giữa cánh đồng thì mưa mưa hay nắng cũng mặc xác
anh mặc xác em, thơ phú cái con tườu. Không có thằng nhà thơ dở hơi này thì từ
nãy đến giờ cũng xong rồi. Mà trông nàng mới tuyệt vời làm sao, ôi bây giờ được
ôm nàng vào lòng được bế nàng lên giường đóng chặt cửa lại hai đứa quấn vào
nhau hay ngồi như ông Thế Trường, ai gọi cửa cũng mặc em ơi em đã về chưa
đi sao cho hết buổi trưa lòng mình em như trúc mọc đầu đình trúc mọc đầu
đình thì mày ra đầu đình với trúc còn tao không, tao chỉ ở nhà tao thôi. Mày
làm thơ hay rồi. Đúng là đang lên chân nhưng ông ngồi mười lăm phút nữa là chết
con, là con bé con đi học về, là khốn nạn thơ phú cái con khẹc.
Bôn không dám nhìn vào mặt bạn nữa. Anh sợ rồi mình sẽ tống một
quả đấm vào bộ mặt đang tràn đầy chất thơ kia. Ôi cái thứ thơ văn lai láng giết
người. Có câm ngay đi không. Thằng chó chết. Bây giờ tôi đọc cho ông nghe bài
thứ ba lại một bài thơ về biển. Loáng thoáng bên tai anh những cánh chim hải
âu, những biển của tôi, rồi người chinh phục những chân trời. Cái lúc ấy, cái
lúc anh đang nghe những vần thơ mênh mông biển cả chân trời ấy, chị Ngát vợ anh
lại cúi cúi tìm một cái gì đó, lượt vải xa tanh bóng bẩy mềm mại chia cặp mông
tròn của chị ra làm đôi khiến cổ anh nghẹn lại. Anh bực bội cắt ngang lời người
bạn thi sĩ của anh bằng câu nói của Giáp:
- Ông phải nói được điều này của cánh đi biển chúng tôi. Đó là
khi kết thúc một chuyến biển dài ngày về bờ, chúng tôi nhìn thấy người phụ nữ
nào cũng đẹp.
Thông reo to:
- Hay! Quá hay! Tôi sẽ thêm ý này vào bài. Nhưng ông thấy cái
ý lấn biển của tôi có được không? Lấn biển không chỉ có nghĩa là quai đê lần biển
như thời cụ Nguyễn Công Trứ ngày xưa. Lấn biển còn là từng bước chinh phục biển
cả.
Cái thằng này đúng là không hiểu một cái gì. Nói đến thế mà
nó vẫn cứ hơn hớn ra mà thơ phú lấn biển thế kia. Chẳng biết đã trút hết nỗi niềm
thơ hay hiểu được vẻ mặt chủ nhân, Thông đứng dậy cáo từ. Bôn như cất được gánh
nặng nhưng vừa định cài cửa, lại lù lù một vị khách nữa dẫn xác đến. Vị này mới
cực kỳ vô tư và khảng khải:
- Thấy cửa mở là biết ngay ông mới về mà. Ông về, bà ấy mới
nghỉ ở nhà đón ông chứ.
Ngu đến như vậy là cùng. Rặt một bọn ngu, một lũ ngu. Nói thế
thì phải biết vợ chồng người ta mong gần nhau như thế nào chứ. Cứ ra cái điều
mình tâm lý mà chẳng tâm lý tí nào. Anh vào chơi. Tôi vừa về. Cám ơn anh tôi vẫn
khỏe. Đi biển hơn nửa tháng sốt ruột quá, không biết ở nhà tình hình ra sao,
tranh thủ về nhà được một tí rồi lại phải đến xí nghiệp ngay... Vừa tiếp chuyện,
Bôn vừa liếc nhìn đồng hồ. Anh biết hỏng tất cả mất rồi. Chỉ lát nữa con bé nhớn
đi học về. Chờ lúc vị khách nhìn ra ngoài sân, chị Ngát liếc chồng, cười kín
đáo. Nụ cười vừa như chế giễu, vừa như hứa hẹn sẽ đền bù lại cho anh gấp nhiều
lần vào tối hôm nay. Nụ cười làm anh nhẹ đi, vợi đi biết bao bực bội trong
lòng. Ông khách đến sau hồn nhiên không kém gì ông nhà thơ đến trước. Chuyện vệ
sinh khu tập thể. Chuyện phố Lán Bè có thằng thanh niên đứng ngoài cửa ném lựu
đạn vào giữa nhà lúc bố mẹ anh em đang xem tivi vì không cho nó tiền mua xe
máy, may mà lựu đạn không nổ, chuyện một ông bố nào đấy ngủ với con riêng của vợ,
bị bà vợ bắt được... Thấy con Linh đi học về "con chào bố, con chào
bác" còn reo lên: "Đã tan học rồi, trưa rồi à. Thôi chào hai ông bà
tôi cũng phải về đây. Ngồi lâu quá. Về cơm nước không bà ấy lại tế cho".
Thế là một cái ôm vợ cũng không được. Anh đi bộ ra hàng nước lấy xe phóng tới
xí nghiệp, rú ga thật to như muốn trút nỗi thất vọng qua cái ống xả và cũng để
bù lại lúc về phải trổ tài lái xe sao cho máy thật êm.
Cương phấn khởi nói với Bôn:
- Thế này có lẽ được mười tám tấn cá chọn đấy.
- Làm gì được.
- Cá mối nặng, cân dôi lắm. Mới hai hầm mà đã ba xe rồi.
- Sao bếp núc vắng tanh thế này?
- Bố Tích bảo đi mua tí bún, tí rau sống mà bây giờ vẫn chưa
thấy tăm hơi đâu.
--------------------------------
CCCP: Nhãn hiệu Liên Xô, được xuyên tạc là Của Công Cứ Phá,
Các Chú Cứ Phá, Cứ Cho Cứ Phá, Còn Cho Còn Phá. |
IV
Giống một con trâu kéo cày, con tàu với hai sợi dây cáp hai
bên mạn cắm sâu trong nước hun hút, nhoai ra nặng nhọc bền bỉ tiến lên, một
công việc mà bác Suất bảo là nó kéo lưới trả nợ ơn người. Chú Hùng bảo tàu đang
dắt lưới ở rãnh nhưng nhìn chẳng thấy rãnh đâu mà vẫn là biển cả mênh mông. Chỉ
một lần thuộc ca chú Hùng bỗng nhiên tàu mắc cạn mới biết trông thế thôi, chứ
biển chỗ ấy cũng không sâu lắm. Con tàu không nhúc nhích được. Không thể cứ đỗ
một chỗ chờ nước lên. Hôm nay nước ương nghĩa là không lên không xuống. Bác Sĩ
bảo nước sinh con. Bố tôi vào buồng lái. Bác Suất nhanh nhẹn xuống buồng máy. Rẹt
rẹt rẹt. Tay chuông kêu liên tục. Máy nổ rầm rầm. Chân vịt quạt nước về phía
sau cuồn cuộn, cuồn cuộn đục ngầu. Tất cả đứng ngoài boong, nhìn về phía đuôi
tàu lo lắng. Bố tôi quát: Thu lưới. Phải kéo lưới lên để giảm sức nặng cho tàu.
Tơi lại hồng hộc hồng hộc cuốn cáp. Rồi đẽn dây đõi là thứ dây cáp được quấn lẫn
với dây đay. Nước bùn từ dây đõi miết vào cái pu li bắt trên be tàu chảy xuống
boong lái bẩn thỉu. Những chiếc lưới đã treo lủng lẳng ở móc cẩu chìa ra chênh
chếch phía đuôi tàu. Nắng. Nắng rát mặt, rát vai. Biển mênh mông lóa mắt. Rẹt rẹt.
Con tàu chỉ nhè nhẹ rung khi kéo lưới bỗng run lên bần bật. Tiếng máy gầm vang.
Ầm ầm. Hộc hộc. Bàn chân đứng trên boong gần như nảy lên. Luồng nước bùn duỗi mạnh,
đạp mạnh, thục vào biển xanh. Nhiều lần như vậy. Mọi người nhìn cả về một hướng
theo luồng nước đục ngầu một vùng biển. Con tàu lắc mình quẫy đạp. Bố tôi đánh
tay lái sang phải. Đánh tay lái sang trái. Tàu đã hơi nhúc nhắc quay đi quay lại
cái mũi. Lùi không được. Tiến không được. Cứ ì ra một chỗ. Nó lại lắc. Lắc mạnh.
Tiếng máy vẫn ầm ầm. Bỗng nó rùng mình mấy cái rồi nhoài đi. Tiếng vỗ tay reo
hò. Tôi cũng vỗ tay. Con tàu lượn nghiêng nửa vòng và trườn đi, rướn đi, bỏ lại
phía sau một vùng nước đục ngầu, một vùng nước cực kỳ nguy hiểm, đè lên những
con sóng trong xanh đang uyển chuyển xô tới. Không chết gí một chỗ quẫy đạp nữa,
nó duyên dáng lướt trên biển xanh. Tôi thở phào. Nét mặt bố vẫn bình thản như
không có chuyện gì xảy ra. Bố và chú Hùng lại lúi húi đo đo tính tính trên hải
đồ. Hai người đánh dấu chỗ con tàu vừa mắc cạn.
° ° °
Bố Tích rất thiêng. Vừa nhắc đến đã thấy hiện ra ở cổng chào,
cái cổng chào ngăn đôi con đường bê tông dẫn ra cầu cảng, cái cổng chào mà anh
thi đua Đỗ Trung Tín cứ có công có việc, ngày lễ lại căng lên đó một tấm khẩu
hiệu đỏ tươi. Đó là một người đã có tuổi, gầy nhỏ, tóc hoa râm, cổ lộ hầu, có
biệt danh là tay nái thân yêu. Hai tay hai làn nặng, bố Tích đi như
chạy.
- Đi đâu mà bây giờ mới về, bố?
- Thì cũng phải đi bát ngát một tí chứ. Thế nào gọi là thủy
thủ về bờ. Già cũng vẫn là thủy thủ chứ. Các thủ trưởng cứ yên trí. Xương ninh
rồi. Cá nấu rồi. Bún đây. Luộc mực, rửa rau là xong. Cứ yên trí ở tay nái
thân yêu này. Còn một tiếng nữa cơ mà.
Tích đã ngoài năm mươi, được cả tàu gọi bằng bố, kể cả thuyền
trưởng. Làm việc không chê vào đâu được. Nếu có hội thi cấp dưỡng tàu toàn xí
nghiệp, Tích đoạt giải nhất là cái chắc. Khác với phần lớn cấp dưỡng tàu thiên
về chém to kho mặn, hoặc chỉ chú ý đến chất lượng cũng như số lượng, bố
Tích tay nái thân yêu anh nuôi tàu 414 rất chú trọng đến cách trình
bày hoa lá cành cho những món ăn, ví như mực xào bao giờ bố cũng khía những đường
chéo nhau trên con mực đã làm sạch rồi mới thái, không thái nhỏ mà thái những
miếng hình vuông, khi xào miếng mực cuộn thành những ống tròn, trông thật mê
ly. Mỗi khi tàu sắp tách bến, bao giờ trong kho của bố cũng có từng can chíu
chương, cả bao hành khô đủ dùng cho hai chuyến biển. Để phòng xa, như bố nói.
Cho nên cái món mì tôm bố Tích ăn đứt các thứ phở toàn mì chính là mì chính
trên phố. Ngon đến nỗi anh chàng Mai sợ tuột đụt phải són ra thơ: Tôm mì nấu
với mì tôm / An vào một bát no luôn dạ dày... Mẻ lưới buổi hừng đông kéo
lên, vừa giật đụt xong, bất kể mưa nắng cũng đều thấy bố Tích tay cầm cái rổ đủng
đỉnh đi sau lưng anh em đang ngồi nhặt cá, nhòm nhòm ngó ngó, cặp mắt hau háu
như quạ nhòm chuồng lợn. Nhiều ít thế nào bố cũng kiếm được khi dăm lạng, nhiều
thì cân, hơn cân, đủ các chủng loại: tôm vàng, tôm bộp, tôm he, tôm sắt, tôm
tít, bề bề, nhiều khi cả một con tôm hùm kềnh càng nữa. Riêng cái khoản tôm hùm
này lúc được nhiều tôm nhỏ bố cũng chẳng tơ màng, bởi lắm khi tranh nhau xảy ra
to tiếng, chỉ vì nó là món được nhiều thuyền viên ưa thích. Moi hết ruột, đánh
quang dầu vỏ, con tôm hùm khô và rỗng ruột là một thứ trang trí trên tường nhà
hấp dẫn, mang nặng đặc trưng nghề nghiệp. Bao nhiêu năm làm cấp dưỡng, bố Tích
quen thân với nhiều cửa hàng mậu dịch, cần cái gì bố tay nái thân yêu được
hết. Mỡ hiếm thế nhưng khi cần mua toàn mỡ cũng được. Vợ thuyền trưởng đẻ,
bố mua chân giò cho thuyền trưởng mang về ninh để vợ ăn cho sẵn sữa cũng được.
Không phải xếp hàng. Cứ thấy tay nái thân yêu là cắt thịt ngay. Bố
còn bông đùa:
- Các cô ấy trẻ quá chứ không tao cũng tay nái thân yêu rồi.
Cánh thủy thủ trẻ thừa biết bố Tích đánh đĩ mồm. Bố là người
chân chỉ hạt bột vào bậc nhất. Tất cả cho vợ con ở quê. Đi biển dài ngày, tiêu
chuẩn bia, thuốc lá được cả cây cả két bố đem bán hết. (Bán cho anh em thôi. Đắt
ngang giá ngoài, có rẻ cũng chỉ rẻ nửa giá, một giá là cùng). Tàu cập bến Vũng
Tàu, anh em lên bờ ăn chơi xả láng, bồ bịch, nhà hàng, bia ôm, karaoke đến
khuya, nhiều anh qua đêm, chỉ bố Tích ở nhà cùng với trực ban. Giáp bảo bố:
- Lên bờ đi. Các em Vũng Tàu hay lắm. Ki cóp làm gì. Vua Ngô ba
sáu tàn vàng. Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì. Chúa Chổm uống rượu tì tì.
Chết xuống âm phủ kém gì vua Ngô.
Tích bảo:
- Tao già rồi.
Anh em nhâu nhâu:
- Bố cứ đi thử một lần xem nào. Càng già càng dẻo càng dai.
Còn khối vị già hơn bố nhiều. Tóc bạc trắng hết, không một sợi đen cũng vẫn chiến
đấu tốt. Có mà bố tiếc tiền thì có. Bố đi. Con bao.
Trêu quá đà. Bố cáu:
- Tao mà bằng tuổi chúng mày, chúng mày phải gọi tao bằng cụ.
Nói thật với các chú chứ lão này con rơi con vãi cũng kha khá đấy.
Tất cả cười ồ khen bố giỏi võ miệng, nhưng rồi sau đó đứng im
phăng phắc há hốc mồm nghe. Nghe bố Tích kể chuyện thời gian còn ở bộ đội, thời
gian "bằng tuổi chúng mày bây giờ". Đập lúa giúp dân. Có một cô bé
hay quá. Chúng mày biết gái Thủy Nguyên đập lúa rồi chứ gì. Khăn mỏ quạ bịt kín
mặt chỉ để hở hai con mắt, chẳng biết già trẻ xấu tốt ra sao. Đập xong, tất cả
ra về, chỉ còn tao và một cô ở lại quét dọn, về sau. Đến khi ra cầu ao, cô ấy cởi
khăn ra giũ. Ôi trời! Đẹp quá. Má hồng rực, tóc mai dính bết, mắt bồ câu long
lanh. Hai đứa xắn quần lội xuống bậc gạch bên dưới. Cô ấy cúi xuống. Tao cũng
cúi xuống nhưng chưa vục nước ngay mà còn nhìn sang cô nàng. Hai bắp chân trắng
như cá chép ngâm dưới nước. Cô ấy cũng nhìn lại tao cười, má cứ rực lên rồi lại
cúi xuống ao, hai bàn tay khum khum định vốc nước lên mặt. Tao mới đưa tay sang
xoa xoa vào mặt nước chỗ khuôn mặt cô ấy. Cô ấy cười tủm tỉm, rồi nắm lấy tay
tao, giữ chặt không cho tao khỏa nước nữa. Lại còn đưa một tay sang xoa chỗ ao
tao đang soi xuống. Trả miếng đấy. Có đi có lại đấy. Ăn chết rồi! Tao cũng nắm
lấy tay cô ấy, giữ tay cô ấy lại, bóp một cái thật mạnh. Cô nàng nhăn nhó há miệng
ra chiều đau. Chỉ há miệng chứ không kêu thành tiếng. Chà! Cái nhăn mặt ấy mới
chết người.
- Thế rồi làm sao?
Cánh thủy thủ trẻ hồi hộp nín thở. Có anh nuốt nước bọt ừng ực.
- Công nhận bố giỏi phịa.
- Kể tiếp đi bố!
Bố Tích thủng thẳng:
- Rồi dắt nhau vào nhà kho ngay cạnh chứ còn làm sao nữa.
- Bố không sợ à?
- Sợ gì mà sợ. Cài then bên trong. Định bụng có ai đập cửa
cũng không mở. Với lại cũng phải liều chứ còn biết làm thế nào.
- Bố nói cứ như thật.
- Công nhận bố tài bịa.
Bố Tích không thèm trả lời những kẻ hoài nghi chủ nghĩa. Bố
nói tiếp một điều đầy sức thuyết phục với vẻ thản nhiên nhất trên đời:
- Tao còn vớ được ở đấy một hột thóc.
Tất cả reo hò. Đến nước này thì tất cả đều công nhận chuyện ấy
đích thị là thật rồi! Mười phần đúng chín chín phần trăm rồi! Thật một trăm mười
một phần trăm rồi! Không phải chuyện bịa nữa. Chẳng thể là chuyện bịa. Ngay các
nhà văn nói láo nhà báo nói phét cũng không thể bịa được một chuyện như thế!
Tuy vậy nhưng khi hết reo hò cũng có anh nói:
- Làm sao có hột thóc ở đấy được. Con không tin. Lời phản đối
yếu ớt, càng chứng tỏ anh ta đã tin xái cổ, chẳng qua chỉ muốn bố khẳng định lại
một lần nữa cái chuyện hạt thóc ấy. Nên bố Tích cười:
- Không tin thì thôi. Ừ. Chuyện tao bịa đấy mà. Cánh thanh
niên nhìn khuôn mặt khinh bỉ của bố, liếm môi hồi hộp:
- Rồi sao nữa hở bố? Bố đóng quân ở đấy có lâu không?
- Sáng hôm sau đã phải hành quân rồi. Một năm sau mới có dịp
quay về.
Bố cứ lửng khửng như vậy. Đúng đến chỗ hồi hộp nhất thì ngưng
câu chuyện. Lại phải hỏi:
- Bố có gặp lại cô nàng không?
Bố Tích thủng thẳng:
- Có. Nhưng không phải về đóng quân ở đấy, mà chỉ là đi ngang
qua thôi. Tranh thủ cuốc mười cây số, tạt vào gặp lại cô nàng thì cô nàng đã lấy
chồng. Cô nàng khóc bảo em bây giờ ván đã đóng thuyền, hạt thóc đã nảy mầm rồi
anh ơi!
Cả bọn lại cười, nhìn bậc tiền bối với con mắt kính nể. Hăng
lên trước đám hậu sinh há hốc mồm chờ đợi, bố kể tiếp một câu chuyện tình khác.
Với một cô gái khác cũng ở Thủy Nguyên trong đợt đóng quân lần thứ hai khi bố bị
sốt rét phải nằm lại gần nửa tháng. Cô con gái bà chủ nhà mười bảy tuổi chăm
sóc, cơm cháo, giặt giũ, nâng giấc...
- Chúng mày tính thời ấy khó khăn là thế, cơm độn rau má, mà
tao muốn ăn củ cải xào, thế là cô nàng chỉ xào củ cải, bao nhiêu lá bỏ lại hết.
Một anh sốt ruột:
- Nhưng đã xơ múi gì chưa?
Bố lắc đầu:
- Người này tính nết đoan trang, mỏng mày hay hạt, tao chỉ ôm
mỗi một lần. Rồi cầm tay nhau hứa hẹn thế thôi. Đến khi khỏe rồi thì về đơn vị,
mấy tháng sau cô ấy lên thăm, mình đang phải đi tập trung học lớp cải tạo cho
anh em xuất thân giai cấp bóc lột, tương lai mờ mịt. Chả ông bố tao trong cải
cách bị quy oan là địa chủ. Thằng cha trợ lý chính trị nói với cô ấy là tao phải
đi tù hai năm. Cô ấy khóc trở về. Thế mới thương chứ. Bây giờ tao vẫn gặp đấy.
Cô ấy lấy chồng ngay Hải Triều này. Một đàn con rồi. Đạp xe qua nhà, cô ấy gọi
mình mới biết. Cô ấy bảo: Em vẫn trông thấy anh nhưng hình như anh tránh mặt em
hay sao. Có cả chồng ngồi đấy mà nói với các con: Lẽ ra đây mới là bố chúng
mày. Các cậu bảo thế có kinh không. Tớ đoán chắc là cô ấy không muốn lấy anh chồng
này, nhưng anh chàng cứ lăn vào bám riết. Thế rồi nướng mực khô. Rượu Tây ngày ấy
quý lắm cũng đem ra mở. Rồi bảo: Anh uống đi. Mực khô đây. Ngày xưa mực tươi
anh không ăn, bây giờ anh ăn mực khô vậy.
Tất cả cười ầm. Mai bảo:
- Bố nhỏ con thế này mà cũng nhiều sức quyến rũ gớm.
- Bố xấu dây tốt củ đấy các cậu ạ.
- Này, con mực tươi của cô ấy khoảng mấy lạng hở bố.
- Cô này bố đã làm ăn gì đâu mà biết mấy lạng. Phải là cô đập
lúa chứ.
Thế rồi tranh luận sôi nổi. Người thích cô mực khô. Người chỉ
cô đập lúa mới là nhất. Nhưng ai cũng công nhận gái Thủy Nguyên là vô địch.
Bố gật đầu:
- Gái Thủy Nguyên chúng mày đứa nào chưa biết coi như chưa biết
gì hết.
Lại Giáp chuyện gì cũng sành điệu:
- Gái Vũng Tàu gọi gái Thủy Nguyên bằng cụ! Nhưng mà bố bịa rồi
bố ạ. Làm sao có hột thóc ở đấy được! Con tính đường đi cũng quanh co, vòng vèo
lắm chứ.
Anh nuôi Tích không tranh luận. Dường như cực chẳng đã phải
cho các chú biết ta từng là người thế nào. Vẫn Giáp:
- Khiếp. Bố mất vệ sinh bỏ mẹ. Vừa đập lúa xong. Mồ hôi mồ
kê. Chẳng tắm rửa gì.
Tích cười:
- Bộ đội ngày xưa đánh nhanh rút nhanh, lai vô ảnh khứ vô
hình chứ đâu như các cậu bây giờ, thuê phòng rồi toa lét, lắm chuyện.
- Con tin bố. Nhưng chuyện hạt thóc nảy mầm con không tin. Bố
có biết điều kiện nảy mầm là như thế nào không?
Bố Tích không trả lời. Cánh trẻ lại cãi nhau, người bảo không
được, người bảo được vì nó cũng hội tụ đủ các điều kiện nhiệt độ và độ ẩm. Người
bảo đấy là cô gái nói theo nghĩa bóng chứ không phải nghĩa đen, nghĩa là cô ta
đã có mang rồi. Đồ ngu. Ai để hạt thóc ở đấy lâu thế mà cũng nói. Rặm. Ngứa chịu
sao nổi. Người khẳng định để ở đấy nửa năm thì nó mọc mầm, lên cây, trổ bông ra
hạt thật, hạt mẩy thật ấy chứ. Ớ đấy nhiều chất dinh dưỡng lắm chứ. Chỉ không
biết nó bắt rễ vào đâu thôi...
Từ ấy mỗi khi trú gió, nằm ngồi ê ẩm, cánh trẻ lại có anh đem
bút giấy đến buồng bố Tích bảo bố:
- Bố vẽ cho con đường đi của hột thóc đến đấy xem nào, con thấy
nó cũng ngoắt ngoéo lắm chứ.
Tất nhiên Tích không thể biết được bằng cách nào hột thóc lại
nằm ở đấy, nên chẳng thể vẽ được. Còn cánh thanh niên mỗi người vẽ một cách,
lúc nó đi từ trên xuống, lúc từ dưới lên, lúc lại đi tạt ngang, rồi đem bản vẽ
trình bố Tích, cách nào bố Tích cũng công nhận đúng. Có anh còn vẽ một cây lúa
trĩu hạt mọc trên một gò đồi cỏ mọc um tùm mang đến Kính tặng bố Tích một
kỷ niệm xưa như chữ đề dưới bức tranh. Bố Tích cười không nhận. Anh ta dán
bức tranh lên bảng đen treo ở câu lạc bộ khiến ai đi qua cũng phải dừng lại
xem. Lại có anh đang ngồi nhặt cá trên boong, thấy bố Tích cắp rổ vè vè đi
quanh kiếm tôm nấu mì liền quăng cho bố một con mực nang to bằng cái quạt nan,
bảo bố:
- Mực tươi của bố đây. To khủng khiếp luôn. Mực thế mới là mực.
Bố ăn không hết thì cho anh em mỗi người mấy miếng. Đừng cố, bội thực đấy. Ăn
tham một mình không được đâu.
Bố Tích chỉ cười, xách con mực vào bếp xào cho cả tàu.
Hôm nay đặt hai cái làn thức ăn vừa mua về, anh nuôi Tích
chân năm tay mười và đúng như Tích nói: Xong ngay. Vẫn còn đủ thời gian lên
căng tin tay nái thân yêu chai rượu mùi dù khi đi chợ về, trong chiếc
làn Tích xách đã có một can cuốc lủi.
Cabin buồng lái được dùng làm nơi tiếp khách ăn trưa. (Ớ dưới
phòng ăn nhếch nhác quá, vừa gần hầm cá, lại người ra người vào). Đó là một khoảng
không gian mà chiều dài vừa bằng chiều ngang của thân tàu, trừ đi hai hành lang
hai bên, chiều rộng chừng hai mét, ở giữa buồng một cái vô lăng to bằng gỗ, bên
trái một cái rađa, một cái tay chuông hoen rỉ vì gần như không được sử dụng,
còn bên phải là cái tay chuông khác giống hệt tay chuông bên trái cũng bằng đồng
thau nhưng sáng bóng lên khiến nó hơi có sắc xanh vì luôn được tay người nắm đến.
Một thau men canh chua cá song. Một khay mực ống luộc, một thau men rau sống. Một
bát chíu chương. Chanh. Và ớt. (Bố Tích không có thời gian tỉa tót, bày biện
các món ăn. Với lại bố biết rằng với các ông trên bờ quanh năm đói, quanh năm
thèm, thì cứ làm sao thật chất, thật nhiều là được. Ăn kiểu thủy thủ thô mộc
như thế này họ lại thích. Mà đúng thế thật. Chỉ trông cũng đã chảy nước miếng rồi.
Chất lừ). Chậu cá song nấu chua, cá nhiều hơn nước, mà nước cũng đặc sệt, những
tảng cá song nổi lên, lớp da xám ôm lấy lớp thịt trắng nõn giữa những miếng cà
chua đỏ hồng thái lát. Cái khay tráng men tròn vẫn dùng để đựng ấm chén uống nước
đầy lùm lùm những con mực luộc hồng hồng, tròn xoe, hai vi chạy dọc hai bên lườn,
xòe ra đều đặn rất giống những quả tên lửa xòe cánh trên bệ phóng, phía đuôi
múp nhọn, phía đầu bung ra những cái chân và hai cái râu rất dài, dụng cụ săn mồi
của chúng khi còn sống. Tất cả nghi ngút khói.
° ° °
Tàu vẫn sản xuất quanh vùng biển Trà Sơn. Mười mấy mẻ lưới
không mẻ nào giống mẻ nào. Trong nhật ký khai thác, chú Hùng chỉ ghi vắn tắt:
- Mắc rạn, đứt xích, phát hiện được.
- Quấn đụt. Tôm không vào.
- Rách lưới.
- Vục bùn. Đứt xích.
- Hai lưới bên phải quấn nhau. Không được gì.
- Lưới bên trái toàn ốc.
- Bị gãy số tám xoay. Mất hai ván hai lưới.
Sản lượng thật bấp bênh. Mẻ năm mươi kí, mẻ bảy mươi kí, mẻ
kí rưỡi, mẻ không được kí tôm nào.
Bác Sĩ bảo: Nghề này là người dương gian làm việc âm phủ. Chẳng
biết thế nào mà chắc.
Một con chim bói cá không biết từ đâu bay tới gần tàu. Không
hiểu sao nó bay đi xa thế. Từ ngày đi biển tôi cứ mong gặp chim hải âu mà không
thấy. Thứ chim đặc trưng của biển mà tôi khao khát. Mong chim hải âu lại thấy
chim bói cá. Chỉ có một con. Nó chao đi lượn lại gần tàu như thử sức với biển.
Trên biển mênh mông không một cánh chim, trừ nó. Nó bay tít xa, hút tầm mắt rồi
lại bay lại. Bỗng nhiên nó chắp cánh lao nhanh xuống biển rồi bay lên, mỏ ngậm
một cái gì trăng trắng vút qua thân tàu, thẳng hướng về phía tây in hình một vệt
cây cối xanh đen. Phía ấy là tổ ấm, là đàn con đang mong. Không biết đây là con
chim bố hay con chim mẹ. Quê tôi cũng có nhiều chim bói cá. Không to như con
chim này và cũng không bay như con chim ở đây. Chim bói cá quê tôi cứ đỗ im lìm
như ngủ lịm trên một cành vối mọc chìa ra ao. Thế rồi từ cành cây nó lao vút xuống
nước rồi bay lên, trên mỏ thế nào cũng ngậm một con cả nhỏ. Con chim bói cả ở
đây kiẽm ăn vất vả quá. Còn đang suy nghĩ vẩn vơ thì con bói cá lại bay đến gần
tàu. Nó đã về tổ, cho con ăn xong rồi sao? Hay một con chim khác. Lần cuối cùng
nhìn thấy con chim bói cá là lúc mặt trời đã lặn. Nó ngậm con cá mới bắt được từ
biển khơi bay mải miết về phía tây. ơ đó một góc trời mù mịt tối sầm. Bay nhanh
chim ơi không lại gặp mưa giữa đường. Tôi nhìn về đằng tây, nơi con chim bói cá
bay tới, một cơn mưa đang lập. Chớp càng làm rõ hơn những màn nước đang trút xuống
và những đám mây đen hình thù kì dị đầy vẻ hung dữ hăm dọa. Nơi ấy là mưa, là
dông, là làng. Không biết quê tôi có mưa không. Mẹ đang nấu cơm đây. Cái Ngàn
chắc đang quét sân. Tự nhiên tôi nhớ nó quá. Tôi nhớ cả con lợn giờ này chắc
đang hộc lên đòi ăn. Mẹ lúc nào cũng vất vả. Tôi thương mẹ và yêu mẹ vô cùng.
Còn mẹ lại thương chúng tôi. Và mẹ thương bố lặn lội sông nước biển cả vì ba mẹ
con tôi. Giống con chim bói cá ngậm con cá nhỏ vừa bay từ biển vào bờ.
° ° °
- Nào. Xin mời ở như các cụ.
Anh chàng Đỗ Trung Tín thi đua dường như không thể chờ đợi
lâu hơn được nữa. Anh ta rót rượu và cầm lấy đũa.
- Ăn đi. Các bác ăn đi.
Cương và Bôn cùng giục. Ngồi quanh mâm hôm ấy chỉ có bốn
khách và hai chủ. Khách gồm trưởng phòng khai thác, phó tiến sĩ Trần Văn Dưỡng,
trưởng phòng kỹ thuật Nguyễn Minh Thưởng, trưởng phòng điều độ Phạm Đức và anh
thi đua Đỗ Trung Tín. Chủ là Bôn và Cương.
- Nâng cốc chúc thuyền trưởng, đại phó.
Tất cả đều cạn chén. Tín múc một bát nước canh chua, thứ nước
cánh trên bờ vẫn bảo nhau bổ hơn bất cứ một thứ nước sâm nào, làm một hơi, chép
chép mồm:
- Món này được lắm các vị ạ. Tỉnh người.
Rồi múc tiếp bát thứ hai. Đó là kinh nghiệm của Tín. Uống nhiều
canh chua. Rồi hãy uống rượu. Sẽ uống được nhiều rượu hơn.
Mỗi người khách múc vào bát mình một muôi nước canh chua và xắn
một miếng cá song phần nạc nhất, thịt trắng như lườn gà. Thuyền trưởng gắp một
miếng đầu cá song bổ tư, được chặt rất khéo bằng những nhát dao điêu luyện của
Tích:
- Bọn tôi đi biển ăn nhiều cá nên chỉ thích mút mát cái đầu.
Ăn đầu ăn được nhiều. Ăn thịt nó xác, chóng chán, cố lắm cũng không nổi nửa khúc.
Câu chuyện xuất khẩu cá đá vẫn là đề tài trong lúc ăn. Ai
cũng thấy đó là một hướng đi tuyệt vời. Tuy nhiên trưởng phòng kỹ thuật Nguyễn
Minh Thưởng vẫn dè dặt:
- Không đơn giản đâu. Trên lý thuyết, trên tính toán thôi.
Còn nhiều khó khăn lắm.
Dưỡng cũng thấy như vậy. Đó chỉ là một thử nghiệm, hơn thế,
anh còn biết những gì ẩn đằng sau chủ trương ấy của tổng giám đốc. Nhưng anh im
lặng. Mấy năm gần đây anh đã tập được thói quen im lặng như Mơ dặn anh. Thưởng
là người anh tin. Đức thì không. Tín lại càng không. Im lặng là vàng. Im lặng sẽ
tạo điều kiện cho anh thay đổi chỗ đứng, nghĩa là thay đổi cuộc sống hiện nay.
Thi đua Tín đúng là người động viên thi đua:
- Khối tàu 600 (mã lực) mà đi nước ngoài thì dễ đến non nửa
thuyền viên được đi nước ngoài còn gì nữa. Quyền huynh thế huỵch. Mấy
ông anh ngồi đây toàn trưởng phòng thế nào chẳng được đi.
Đức bảo:
- Ông là người trước tiên phải đi. Tôi nói phải đi chứ
không nói được đi đâu nhé. Ông phải đi để động viên thi đua, động viên phong
trào.
Dưỡng định nói bên ấy không có thi đua đâu, nói đùa vui thôi
vì ai chẳng biết như vậy, nhưng anh đã kìm lại được. Tín cười:
- Thì các ông anh quyền huynh thế huỵch giúp đỡ thằng
em...
Cương ngồi ngoài, giáp với cửa ra vào, đứng lên ngồi xuống.
Anh vẫn không quên nhiệm vụ trực ban, luôn phải đảo ra phía sau, nhìn xuống miệng
hầm cá lúc này khá đông người. Trưa rồi. Đã đến giờ cao điểm của công việc xin
cá, của những đội phượng hoàng bay, nghĩa là dân ở địa bàn quanh xí
nghiệp, cả đàn ông, đàn bà, trẻ con người lớn. Tiếng đồng chí bảo vệ quát:
- Lui. Ai không có nhiệm vụ lên bờ.
- Cương ơi. Ra xem tí đi.
Cương chạy ra lan can. Quanh miệng hầm là mấy cô công nhân
phân xưởng lưới và rất đông dân Cầu Đỏ. Anh tụt xuống chiếc thang dốc đứng được
hàn liền vào thành cabin, bước tới miệng hầm, nói với mấy chị công nhân quen:
- Thôi. Các chị ơi. Để khi khác. Bốc cá xong đã. Tàu có dành
riêng một ít bồi dưỡng chị em phân xưởng.
Anh nói như van nài. Bởi anh rất hiểu cuộc sống khó khăn của
chị em. Rồi anh cao giọng:
- Tất cả mọi người ai không có nhiệm vụ lên hết!
Không ai nhúc nhích. Cương cũng biết trước tác dụng của những
câu nói như vậy. Nói để mà nói. Và khi có ai nhặt dăm con nục hay hai con bạc
má hoặc vài con phèn, con sơn mỡ chỉ vàng cho vào thùng đồ nghề cờ lê mỏ lết hoặc
gói vào giấy báo, vào ni lông, vào nắm giẻ lau đầy dầu mỡ cầm trong tay, anh
cũng làm như không biết. Chẳng riêng anh. Cả đồng chí bảo vệ cũng làm như không
biết. Miễn là người bảo vệ có lương tâm.
Người bảo vệ ca sáng trên tàu 414 là một người có lương tâm.
Trong buồng lái bữa ăn vẫn tiếp tục. Trưởng phòng khai thác
Trần Văn Dưỡng là người đầu tiên tấn công vào món mực ống luộc. Dưỡng còn được
gọi là Trần Văn Bơm - phụ danh của thằng con trai anh. Trong thời gian chiến
tranh bắn phá, anh về thăm vợ ở nơi sơ tán và không thể nào gần vợ được vì ông
bà chủ nhà vợ anh ở thuộc loại phong kiến đặc sệt, hai vợ chồng đành phải rủ
nhau ra ngoài trạm bơm với danh nghĩa chúng con đi chơi mát một tí, trong
này nóng quả và yêu nhau ở đấy. Kết quả cuộc làm tình vụng trộm chớp
nhoáng bên những ống bơm nước bằng gang uốn cong cắm thẳng xuống bờ sông và nơm
nớp sợ dân quân du kích hoặc ai đó bắt gặp đòi làm biên bản, muốn kéo dài nhưng
lại phải kết thúc cho nhanh ấy là một đứa con trai. Anh đặt tên con là Trần Văn
Sinh nhưng mọi người đều gọi nó và gọi luôn cả anh là Trần Văn Bơm.
Ba ông khách còn lại cũng nhanh không kém. Cầm con mực hồng hồng
bốc khói lên. Xé hai cái vi hai bên lườn nó như hai cánh tên lửa đi. Rút những
đầu những mắt những râu những chân xòe như một bông hoa đi. Chú ý bọc mực - thứ
vũ khí thoát hiểm của nó khi còn sống - đen sì giữa những tua lòng ruột. Rồi
rút cái lá mỏng như lá lúa trong suốt dọc sống lưng nó ra. Xương của nó đấy.
Mai của nó đấy. (Giống mực ống không như mực nang mai dày và xốp). Cuối cùng là
bóc lượt da mỏng hồng hồng nâu nâu của nó. Con mực giờ đây là một cái ống trắng
nõn mịn màng, ấm nóng, cứng cứng mềm mềm. Nom thật hấp dẫn, thật mê li. Quệt
con mực vào bát chíu chương. Đưa lên miệng cắn. Sựt. Đẫy mồm đẫy miệng. Nước luộc
đọng trong bụng mực trào ra. Bỏng cả mồm. Nhai cho cái vị ngòn ngọt thơm thơm dẻo
dẻo của miếng mực dập ra nhuyễn ra áp vào hàm, cho vị cay của tương ớt ngấm vào
lưỡi, vào chân răng cho ấm lưỡi ấm chân răng. Rồi nhặt ngọn ngổ, ngọn húng đưa
lên miệng cho tất cả hòa quyện vào nhau trôi tọt xuống cổ. Xong đâu đấy chiêu một
ngụm rượu. Không. Rượu chanh quốc doanh không ngon. Phải là cuốc lủi cơ.
- Trương Xá chính cống đấy các cụ ạ. Rượu này đốt cháy đấy.
Tín nói vẻ thành thạo. Bữa ăn nào dưới tàu Tín cũng có vẻ
thành thạo ấy. Thành thạo, tự nhiên và thân mật, như giữa mình và chủ nhân có một
mối quan hệ đặc biệt thân thiết, còn những người kia chỉ là khách lạ. Ây cũng bởi
Tín biết rõ vị trí của mình trong đám khách. Bao giờ ngồi quanh bữa rượu do
thuyền trưởng các tàu vừa cập bến tổ chức như thế này cũng là các trưởng phó
phòng, khi phòng này khi phòng khác tạt ngang qua, chỉ có Tín là nhân viên
trơn, đã thế lại còn rất ít khi vắng mặt. Tín biết nhiều người đã nói về chuyện
ấy, chuyện "không tuần chay nào không có nước mắt" của anh, nhưng anh
không thể nào cưỡng lại được khi nghĩ đến những đĩa mực xào, mực luộc, những
khay tôm, những chậu men cá nấu chua nghi ngút khói. Và rượu. Nhất là rượu. Rượu
trắng đựng trong can. Rượu Vân, rượu Trương Xá chai nọ tới chai kia. Rượu quốc doanh
xanh nhạt, hồng tươi trong vắt. Uống vô tư. Uống thả sức. Uống không phải nghĩ
chén này là chén thứ mấy. Uống không cần nhìn chỗ còn lại trong chai. Uống
không phải nghĩ đến đồng lương bị lẹm vào, đến đồng tiền phải bỏ ra. Cả nhà anh
nghiện rượu và anh cũng nghiện. Nghiện từ khi còn đi học. Đã có những buổi anh
đấu rượu với cánh dưới tàu. Càng uống nhiều càng được vỗ tay hoan hô tán thưởng...
Để bù lại những ngày nhịn thèm nhịn nhạt, ra quán nước ngã ba một nghìn hai
chén rượu lờ lờ nhạt thếch chua loét. Cứ chèm chẹp cái mồm mà không dám uống
thêm vì đồng lương có hạn.
Bôn nhặt cái đầu râu mực các vị khách bỏ lại trên khay cho
vào bát của mình:
- Ăn cái này ngon. Ăn được nhiều. Không chán. Ăn mình mực chẳng
mấy chốc mà ngán. Không ăn được nhiều đâu.
Bôn vừa nói vừa cười. Anh cố gạt đi hình ảnh vợ đang cúi cúi
tìm cái gì đó, eo thắt lại, mông tẽ đôi ra dưới lượt vải xa tanh. Bôn hỏi mấy vị
thực khách: "Được không? Được không?" Và hướng dẫn các ông khách một
chỗ ngon nữa của con mực: Cái đuôi của nó. Cái đuôi nhòn nhọn hình đầu tên lửa
của nó. "Nó giòn. Ăn không ngán".
Tín cắn cái đuôi. Giòn thật. Nhưng có cát. Tín thành thật:
- Tôi là cứ ăn mình. Ăn mình cũng ăn được nhiều. Còn lâu mới
ngán.
Rồi tay bốc một con mực khác, miệng công bố một nguyên tắc:
- Ăn mực ống luộc dứt khoát phải năm binh mới ngon
các thủ trưởng ạ.
Đó cũng là một chân lý đã được thừa nhận lâu rồi. Tất cả đều
lấy tay mà bốc, mà bóc mà chấm chíu chương rồi đưa lên miệng. Chẳng mấy chốc mười
đầu ngón tay đen sì, môi đen mép đen, hai hàm răng cũng đen. Lắm khi má cũng
đen. Nước đen nóng hổi chảy xuống đến tận khuỷu rỏ giọt làm ố cả tay áo sơ mi.
Đó là những bọng mực bị vỡ, đọng trong bụng con mực.
Tín lại làm ra vẻ thạo:
- Ăn mực phải có tí bọng mực đen đen vỡ ra mới ngon mới ngọt.
Mực làm kỹ, trắng phau, ăn nhạt thếch.
Cái vẻ quá thân mật, thành thạo của Tín làm Dưỡng nhăn mặt.
Anh cố giấu vẻ khó chịu, quay sang hỏi Bôn về tình hình khai thác, và thông báo
cho Bôn biết năng suất của các tàu đang đánh cá ở các khu ô khác nhau. Ngồi ăn
với Tín là một điều anh không muốn. Nói thẳng ra, anh luôn coi khinh anh cán bộ
thi đua xuất thân từ một anh giã giò này. Anh luôn ý thức được sự khác nhau giữa
anh và Tín. Một bên là phó tiến sĩ tốt nghiệp loại ưu ở Liên Xô, đã có những
bài in trong sách giáo khoa ở trường đại học với một bên là một người viết cái
tin trên bảng đen chưa xong, sự khác nhau giữa một trưởng phòng khai thác hàng
hải và một anh nhân viên có cũng được, không có cũng xong, làm toàn những việc
vô bổ, giữa một người nói năng bỗ bã nhưng được coi là thành phần cơ bản, hơn nữa
còn là đảng viên, với một phó giáo sư phó tiến sĩ xuất thân quan lại (ông nội
anh là tri phủ) ngoài bốn mươi vẫn còn bạch vệ. Cái áo len dài tay quý thì quý
thật nhưng anh bật cười khi thấy Tín mặc nó trên người lại nói thêm về người
đan ra nó với một giọng đầy vẻ tự hào:
- Cái áo này do một bà cỡ trưởng phòng sở đan cho đây.
Không. Phải nghe chính Tín nói câu ấy cơ. Chữ cd và
chữ sở được nhấn mạnh, được kéo dài với cái cằm dưới đưa ra, nghe
như cddd, sssở.
Trước đây Dưỡng không có một ý niệm gì về Tín. Anh bắt đầu
làm cái việc so sánh giữa hai người khi Tín phản đối việc kết nạp anh vào Đảng.
Tín là đảng viên sinh hoạt trong chi bộ khối cơ quan. Là đối tượng phát triển Đảng,
Dưỡng đã được đưa ra lấy ý kiến biểu quyết trong chi bộ để kết nạp, nhưng cái
câu phát biểu của anh về kế hoạch năm, về sản lượng cá Vịnh Bắc Bộ trong lúc
trà dư tửu hậu đã làm hỏng tất cả:
- Một vạn tấn cá năm là không thể đạt được. Tôi lấy đầu ra cược
với bất kỳ ai kể cả bộ trưởng. Giám đốc cứ bảo sản lượng cá Vịnh Bắc Bộ là một
triệu tấn. Có be bờ tát cạn bắt từ con cá ót liệt bắt đi thì may ra được!
Mơ cho anh biết chính Tín là người nêu ra câu nói của anh
trong hội nghị chi bộ, một phiếu phản đối của Tín đã khiến anh phải kéo dài thời
gian thử thách, để đến đợt sau.
Đã mấy lần có sự thuyên chuyển đề bạt trong hàng ngũ giám đốc,
phó giám đốc, nhưng cấp trên không nghĩ đến anh. Chính anh cũng không nghĩ đến
anh. Bởi một lẽ giản đơn: Anh chưa phải đảng viên. Anh đã hiểu được sai lầm của
mình. Anh hiểu cái tác hại ghê gớm của việc nói sự thật cũng như hiểu sức mạnh
của một đảng viên như Tín. Và anh thực hiện triệt để nguyên tắc "Im lặng
là vàng". Càng thi hành triệt để hơn khi anh thấy tất cả bạn bè, cả những
em út của anh đều đã là những vụ vị, những tổng giám đốc, bét nhất cũng là chủ
nhiệm, không ai còn là một trưởng phòng quèn như anh, nghèo như anh. Anh im lặng
trước tất cả, lại càng im lặng trước Tín. Anh thận trọng với tất cả. Với Tín lại
càng cẩn trọng. Nhất là đang trong thời gian thử thách thêm.
Sau một thôi một hồi giáp chiến, hăng hái, nhiệt tình và đã cảm
thấy lưng lửng dạ dày cũng như đầy ắp chất bổ trong người, không ai bảo ai, tốc
độ cùng chững lại. Bây giờ mới là lúc vừa ăn vừa bày ra những trò vui cho ngon
miệng. Trưởng phòng điều độ Đức, chọn một con mực, cẩn thận rút râu, xé vây,
bóc da, nhòm vào bên trong con mực một lần nữa rồi đưa mời Tín:
- Mời trưởng ban thi đua. Con này ngon lắm.
Cảnh giác, Tín cũng nhìn phía trong con mực trắng nõn:
- Cái gì thế này?
Anh nói và bóp mạnh con mực, một thỏi mềm mềm, trắng ngà trào
ra. Anh nặn cho nó ra hết. Đức cười:
- Cái này tốt lắm, sao không ăn. Tinh trùng mực đấy bố ạ.
Ăn chứ. Nhưng chỉ ăn mực, không ăn tinh trùng mực. Và vẫn uống.
Mực ngon như thế bổ như thế làm sao không ăn. Rượu ngon như thế nhiều như thế
làm sao không uống. Vừa uống rượu vừa uống nước canh chua cá song. Rượu nóng và
cay trôi qua họng khiến thèm một chút nước chua chua ngòn ngọt. Nước canh vừa
chua vừa ngọt lại làm thèm một chút nóng nóng cay cay. Lại ăn. Ăn cá. Ăn mực.
Ăn một bữa cho cả tuần, cho cả tháng. Tín đã ăn hết con mực Đức đưa. Vừa xong,
Đức đã chuẩn bị sẵn sàng và chìa cho Tín một con mực khác, cũng đã rút đầu, bóc
da. Vẫn còn đủ tỉnh táo, Tín lại nặn, lại bóp con mực. Từ bên trong con mực lại
trào ra một thứ đằng đặc vàng vàng như lòng đỏ trứng, quanh quánh chứ không
nhũn như lần trước. Đó là trứng mực.
- Cái này ngon lắm sao không ăn. Bổ âm. Bổ dương. Món kia khỏe
lắm đấy. Ăn xong về Thủy Nguyên cho bà ấy biết thế nào là sức mạnh.
- Thôi để phần ông. Ăn cái này đẻ con trai đấy. Nhà ông ba vịt
giời, ông ăn đi. Nhà tôi hai thằng mũ gậy rồi.
Chỉ là những câu đùa vui nhưng không khí đã có vẻ hơi căng.
Bôn hiểu những gì ẩn sau câu nói của hai vị thực khách. Bôn biết, mấy vị khách
ngồi đây không thích Tín, nhưng anh hiểu tầm quan trọng của Tín, cũng như tầm
quan trọng của bất kỳ người nào thuộc khối phòng ban. Đừng để một ai ác cảm với
tàu mình, trong hoàn cảnh sản xuất gặp rất nhiều trục trặc khó khăn này.
Bôn đỡ con mực trong tay Tín, đưa lên miệng nhai rất ngon
lành. Tín lại múc một muôi nước canh chua, cái thứ nước ngon hơn bất cứ một thứ
nước dùng phở nguyên chất nào, thứ nước có thể làm cho người ốm sắp chết tỉnh lại.
Anh uống cạn một chén rượu, chiêu một bát nước canh. Và tự chọn cho mình một
con mực khác. Cũng rút đầu, lột da, xé vây và nhòm vào bên trong con mực. Rồi
đưa lên miệng cắn. Ngon. Bình thường như những miếng mực khác. Nhưng đến miếng
thứ hai thì cắn mãi mới đứt. Sao thế nhỉ. Con mực này có xương à?
Nhai. Ráp rô cả miệng. Nhè ra lòng bàn tay: Bên trong khoanh
mực anh cắn là một khúc cá phèn với cả đầu, cả xương và vảy cứng, kết quả của
cơn hoảng loạn khi chúng sa đụt lưới.
Tín bước ra cửa cabin, vất cái thứ ở lòng bàn tay xuống sông
và trông thấy Cương đang đứng cạnh miệng hầm.
- Đại phó. Vào đây làm với anh em tôi một chén.
Rồi trở vào rót từ can ra một chén rượu đầy. Nâng chén rượu đầy
tràn lên ngang mày, chân bước những bước chậm chạp, hơi chéo bên nọ chéo bên
kia như trong những buổi tế tửu ở sân đình, Tín đi ra phía cửa buồng lái, nơi
anh vừa từ đấy đi vào và cất tiếng gọi Cương. Từ miệng hầm cá, thấy vậy, Cương
leo thoăn thoắt lên boong và bước tới đỡ chén rượu trong tay Tín. Anh thò đầu
vào:
- Mời các anh. Em xin phép còn phải trực ban ở ngoài này.
- Em ăn rồi. Tranh thủ lùa bát bún với chúng nó ở dưới kia rồi.
Đã có thuyền trưởng tiếp các anh. Em xin phép.
Cương cạn chén rượu và đưa trả chén cho Tín. Suốt lúc Cương
đưa chén rượu lên miệng và từ từ uống cạn, Tín cứ đứng ngây ra nhìn Cương uống
từng hơi, cổ họng Tín đưa lên đưa xuống nhịp nhàng theo từng ngụm rượu Cương nuốt
như rượu đang chảy qua họng Tín. Và khi Cương kết thúc chén rượu bằng một tiếng
khà, Tín cũng khà một tiếng rõ dài.
... Tất cả đã say. Trừ Bôn. Đức nhìn Bôn rồi lại nhìn Dưỡng:
- Ăn thế này mà không gặp nhau ở máy bơm thì gay đấy ông Dưỡng
ạ.
Dưỡng gật gù:
- Một mình mình còn đỡ. Hắn mà cũng được ăn thế này
mới gay. Cam đoan hắn không cho mình dẫn ra đến trạm bơm ven đê. Mà
cũng chẳng có thằng Bơm. Chỉ có thằng Sân thôi. Trần Văn Sân. Ớ ngay sân. Chẳng
thể bước quá sân nhà chủ.
Bôn cười nghĩ đến cái khao khát của mình được gần vợ. Anh nhớ
tới kết luận có tính chất khoa học của anh em dưới tàu về cái thói ấy của
những chàng nhải biển: Ăn uống toàn những thứ chất lừ thế này thì phải
vậy chứ. Cứ xem các bố dân chài, có bố nào ít con không?
Đức chép chép miệng "ngon" và ghé vào tai Tín:
- Chủ tịch hội đồng thi đua ăn có ngon không?
- Đừng có cho thằng này đi tàu bay giấy. Chủ tịch hội đồng
thi đua là giám đốc. Ử... ử...
- Thế thường trực hội đồng thi đua ăn có ngon không?
- Thường trực hội đồng thi đua là chủ tịch công đoàn. Ử Ử Tôi
chỉ là thằng thi đua chuyên trách. U ử...
Những tiếng ử ử gầm gừ trong họng vọng ra khi Tín mím chặt
môi nghĩa là Tín đã say lắm rồi. Dưỡng, Đức, Thưởng cùng phá lên cười. Dưỡng
nói thêm:
- Tưởng là thường trực hội đồng thi đua, hóa ra chỉ là thi
đua chuyên trách thôi à?
Chắc chắn Dưỡng say, nên anh đã không "im lặng là vàng
được". Nhưng vừa nói xong, lập tức anh tỉnh rượu. Trí óc trở lại mẫn tiệp
và hiểu ngay rằng mình vừa phạm sai lầm. Một sai lầm nguy hiểm có thể biến tất
cả những cố gắng im lặng trước đây thành công dã tràng. Anh vội cầm can rượu
rót cho Tín một chén đầy. Một trăm phần trăm. Phải là một trăm phần trăm phiếu ủng
hộ. Anh nghĩ vậy và chạm cốc với mọi người:
- Một trăm phần trăm!
Đức vẫn tiếp tục câu chuyện với Tín:
- Nhưng mà tôi hỏi thi đua chuyên trách ăn có ngon không?
- Ử ử... ngon.
- Có ngon hơn giò không?
- Ử ử ngon hơn giò.
- Giò bộ đội cơ mà.
Tất cả cười. Dưỡng cũng cười nhưng đã kịp mím chặt môi lại.
Tín trừng mắt:
- Tức là giò Tìu chứ gì?
- Đúng rồi! Giò Tìu!
- Giò thằng này giã chứ gì. Ngon hơn làm sao được. Giò Tìu nổi
tiếng cả Bộ Tư lệnh. Tư lệnh xuống thăm đơn vị nào là trưởng phòng hậu cần cử
thằng này ử ử đi trước. Ử ử xuống trước. Cho nên cứ thấy giò Tìu xuống ử ử hôm
trước là y như rằng hôm sau tư lệnh xuống thăm đơn vị. Mình xuống nhưng không
được ử ử ló mặt ra để tư lệnh thấy. Tư lệnh nhìn thấy là cắt suất, là kỷ luật ử
ử là đi chiến trường đấy bố ạ.
Tín cười bè nhè. Khi say, việc quan trọng cũng biến thành
bình thường. Khi say Tín đã nói toạc ra tất cả những điều ai cũng biết mà Tín vẫn
còn giấu dầu cũng ngờ ngợ có lẽ mọi người đều biết cả rồi.
- Giò Tìu chính là thằng này. Tìu là tên bố mẹ đặt cho. Chẳng
có gì xấu...
Tất cả reo hò trừ Dưỡng. (Anh đã hoàn toàn tỉnh rượu và biết
mình phải làm gì). Bây giờ họ đã được nghe chính mồm Tín nói ra điều bí mật ấy.
Nhà Tìu ba đời làm nghề mổ lợn. Mổ lợn và làm giò chả. Học xong cấp 2, Tìu đi
nghĩa vụ quân sự. Huấn luyện ba tháng. Chuẩn bị đi B. Trước khi đi, đơn vị mổ lợn
liên hoan, có cả bộ tư lệnh xuống dự. Tìu trổ tài giã giò. Món giò lụa ngày ấy
người ta chỉ nói đến chứ ít khi nhìn thấy, lại càng ít khi được ăn. Mâm cỗ có
giò. Một khoanh giò lụa mịn màng, phía ngoài xanh, phía trong phơn phớt hồng,
chỉ trông cũng đã xuýt xoa:
- Ớ đâu ra giò thế này?
Tư lệnh hỏi. Tham mưu hỏi. Chủ nhiệm hậu cần hỏi. Sau bữa ăn
chủ nhiệm hậu cần trực tiếp gặp Tìu. Và bàn bạc với ban chỉ huy đơn vị. Một quyết
định vào giờ chót Tìu không ngờ đến. Chẳng riêng Tìu. Tất cả đều không ngờ. Tìu
được điều về bộ tư lệnh. Danh sách đi B năm ấy và những năm sau không có Đỗ Văn
Tìu.
Từ ấy, các sĩ quan trong bộ tư lệnh và cả các sĩ quan các
quân chủng bạn đóng gần đấy đều được thưởng thức món giò lụa Tìu làm. Trong những
buổi liên hoan hoặc hội nghị, người ta hỏi nhau: "Có giò Tìu đấy hở?"
Cái tên giò Tìu bắt đầu từ đấy. Giã giò, liên tục giã giò, Tìu đã được kết nạp
Đảng và đeo tới quân hàm chuẩn úy. Chuẩn úy giã giò là kịch cỡ rồi. Tìu xin
chuyển ngành. Trong bộ tư lệnh có nhiều cán bộ quen biết ngoại giao rất rộng. Họ
thích món giò Tìu nghĩa là có cảm tình với Tìu. Vài lần đi về xí nghiệp của một
đại tá, việc chuyển ngành của Tìu đã được giải quyết. Mặc dù học lớp 7 dở dang,
viết một cái văn bản không nên thân, Tìu được Quốc doanh đánh cá Biển Đông nhận
về làm thi đua, khi anh cán bộ thi đua cũ, đã tốt nghiệp trung cấp đánh cá nhất
định nằng nặc đòi xuống tàu, để được thực hành những kiến thức đã học trong suốt
ba năm mài đũng quần trên ghế nhà trường. Trong quyết định chuyển Tìu về quốc
doanh đánh cá, Tìu không còn là Tìu nữa. Không phải Đỗ Văn Tìu mà Đỗ Văn Tín.
Nhưng trong các văn bản Tìu viết trình giám đốc, Tìu ký tên là Đỗ Trung Tín.
Tín lại xắn một miếng cá song. Tất cả có vẻ uể oải rồi. Mực
không ngọt nữa. Cá song thì bã. Rượu thì ơn ớn. Nhưng vẫn cố ăn. Gắp miếng cá
vào bát, Tín lờ đờ cặp mắt nhìn mọi người:
- Xin mời ở như các cụ...
° ° °
Chiều nay trời đẹp. Mặt trời đang lặn, hắt ảnh sảng vào cảnh
cửa cabin chếch lên đình màn gió rung bần bật. Cái chỏm bên trên như bị cắt ra
bằng một vệt sẫm. Một con thuyền với hai cảnh buồm nhọn hoắt phía xa nằm gọn
trong lòng mặt trời to lớn đỏ rực nhưng không chói mắt. Tôi nom rõ mặt trời
chìm từng phần xuống biển. Từ chỗ mặt trời đang chìm dần, một vệt vàng lấp lảnh
chạy tới thân tàu. Rồi khi mặt trời lặn hẳn, không còn một chút ảnh sảng nào nữa,
mặt biển vụt thay đổi hoàn toàn. Không vàng rực lấp lóa nhức mắt mà bốn phía
mênh mông mềm mại. Chỉ còn những mảng hồng, da cam và xanh thẫm nhấp nhô.
Trăng sảng. Tàu dắt lưới. Biển tròn, mờ nhạt. Những gợn sóng
vàng và nhữnggợn sóng lân tinh xanh. Gió nhẹ. Những hàng đèn lưới vây ảnh sảng
khiến một vùng biển và trời sảng rực lên. Biển nuôi người cả ban đêm. Con người
lao động cả ngày đêm. Như thầy Tuyền dạy: Mọi thứ trên đời đều do lao động.
Không chỉ của cải vật chất mà cả tư duy, trí tuệ. Tôi yêu quý và kính trọng bố,
bảc Suất, chú Hùng lùn, chú Hồng, bảc Sĩ. Tôi yêu quý và kính trọng những người
đảnh cả đang đảnh lưới đèn trên vùng biển sảng như một đám chảy. Nằm trên boong
thượng với bảc Sĩ nghe bảc kể chuyện. Ngoài bố tôi ra, người trên tàu thân nhất
với tôi là bảc Sĩ. Bảc đã về nhà tôi nhiều lần. Bảc thân với bố tôi. Bảc gọi
tôi là thằng Ba Đùi. Mới đầu tôi không hiểu ra sao, nhưng rồi tôi đỏ mặt. Bảc
Sĩ nói cứ thản nhiên như không, như đó là một cái tên chính hiệu chẳng bao hàm
một ý nghĩa nào khảc. Bảc Sĩ sinh ra trên biển, lớn lên bên biển. Không như bố
tôi, sinh ra ở một làng vùng Yên Thế, có những con sông mảng và những đồi dẻ um
tùm. Khi còn bé đã một lần bảc Sĩ được đi biển với bố. Biển mịt mù với những kẹp
câu, với nghề giã tôm, những "dậu", những con sứa bơi dưới nước trong
suốt như thủy tinh hả cái miệng rộng ra hớp nước, kéo theo từng bát tép biển đỏ
tươi vào miệng. (Kể đến đây, bác cũng ngửa mặt lên, tròn mồm hớp hớp trông rất
buổn cười). Chiều chiều bác lang thang trên bãi biển săn đuổi những con dã
tràng với lũ trẻ con cùng xóm và đón bố trở về. Trong những đêm nằm gối đầu
lên tay bố, bác đã được nghe bố kể chuyện vùng biển quê bác. Vùng biển
ấy xa lắm. Xa không nhìn thấy đất liền. Vùng biển ấy sôi sục đỏ máu.
Cá xà và cá Ong Voi đánh nhau. Cá Ồng đi như một ông vua, quan
quân đằng trước đằng sau uy nghi bệ vệ. Đằng trước cá Ồng là những
con "cá nạng’ chỉ biết tiến chứ không bao giờ biết quay trở lại. Đó là những
võ quan. Những lưỡi kiếm sắc như dao của các võ quan này xòe ra giống như cái nạng,
khi bơi nó cắt đứt dây neo thuyền cũng không quay lại. Cứ lừng lững thẳng
một lèo dắt thuyền đi mãi đi mãi. Rồi đến những con cá heo tinh
khôn đạp nước nhào lộn để cá Ồng vui, những con mực to bằng cái
nón đi thành hàng hai bên, bơm mực làm nước biển đen ngòm đánh lạc
hướng cá xà. Tôm cua, bạch tuộc, cá khế, cá song... lội tung tăng phía trước
phía sau. Cá Ồng hiền lắm. Cá Ồng đội thuyền đưa người bị nạn vào bờ.
Còn cá xà thì khác. Nó có thể cắn ẳứt ẳôi những con mập hung dữ nhất. Bác Sĩ bảo
chính bố bác trông thấy trận ẳánh nhau ròng rã tám ngày tám ẳêm giữa cá Ồng và
cá xà. Cả một vùng biển không có gió mà sôi sục. Thuyền bè không ra khơi được.
Cá xà đánh nhau với cá kiếm cá nạng cá Ồng mấy ngày ẳêm rồi. Máu đỏ
loang cả một vùng biển. Nếu đôi bên cứ đánh nhau mãi thì cá Ồng chết
mất. Một người thợ rèn lấy sắt đánh tám cái lưỡi câu, giết thịt một con lợn
tám mươi cân, đóng một cái bè tám mươi cây tre lớn, móc con lợn vào lưỡi câu và
cột vào bè, lựa nước, lựa gió thả xuôi bè vào vùng biển chiến trường. Tất cả đứng
nhìn theo cái bè nhỏ xíu ở phía xa, trên bè có cắm một lá cờ đại vuông gió bay
phần phật. Bỗng dưng bè chìm nghỉm. Lá cờ đại chìm nghỉm. Cá xà cắn câu rồi!Mặt
biển trở lại yên tĩnh và xanh lại dần dần. Đến chiều, một cột nước vút thẳng lên
trời và tỏa xuống thành một cái cầu vồng. Cột nước của cá Ông báo hiệu thanh
bình đã trở lại. Cá heo lại nhào lộn. Cá nạng lại vác kiếm đi tiên phong, cá
song, bạch tuộc, cua bể, tôm hùm lại nhảy múa chung quanh cá Ông hiền lành đường
bệ. Con cá dữ, con cá ác đã bị giết. Nhưng nó chết ở đâu? Hai ngày sau cái bè
tre nổi lên ở chỗ cũ. "Mày ạ. Con cá to nào cũng quay về chết ở nơi nó đã
ra đi. Nó về chết ở nhà của nó".
Nằm trên boong thượng con tàu đang dắt lưới quành đi quành lại,
quầng sáng lưới đèn khi gần khi xa, khi ở bên phải khi ở bên trái, bác Sĩ đã kể
cho tôi câu chuyện cổ tích thật hay về biển. Biết là chuyện không có thật mà
sao cũng cứ mê đi. Cũng hay như thế, bác giảng cho tôi nghe về các loài cá. Chỉ
nghe tên cá thôi đã rối tinh lên rồi. Cái con cá bé tí như con cá ngạnh có dọc
xanh ở thân ấy là con cá ngác. Mày phải cận thận đừng để gai nó cắm vào chân.
Không chết người nhưng thối thịt ra đấy. Nhức chịu không nổi đâu. Con cá lá tre
lép kẹp như cái lá tre, có một lượt áo trắng như ni lông ép dẹt chẳng được tích
sự gì. Muối chượp làm mắm không xong. Con cá nóc phồng hơi tròn như quả bóng. Rất
ít loài cá dám ăn thịt nó. Không phải vì cái gai đâu mà nó rất độc. An vào là
chết. Người ăn cũng chết. Thịt trắng như thịt gà nhưng mổ không cẩn thận vỡ gan
mật là toi đấy. Nó độc ở cái gan. Rồi bác nói về con cá bã trầu, con cá khế, cá
hiên. Chiều nay kéo lưới được hai con cá hiên. Cá hiên trông rất hiền và đẹp.
Mình tròn, vảy nhỏ trắng, gần giống cá chim trắng. Đầu nhỏ và miệng rất nhỏ.
Chú Hồng vừa nướng một con. Giống cá ít xương và rất nhiều nạc. Thịt thơm và
ngon. "Mấy lần kéo lưới được cá hiên, mày có để ý thấy gì không?" Bác
hỏi tôi. "Không. Để ý cái gì cơ?" "Không bao giờ đánh được một
con. Cá hiên không bao giờ vào lưới một con. Bao giờ cũng một đôi. Cá vợ cá chồng.
Giống cá hiên đi đâu cũng có đôi". Đến lúc ấy tôi mới biết có giống cá
đáng yêu như thế. Thật là thủy chung. Sống cùng nhau và chết cùng nhau. Một giống
cá đáng để con người học tập.
° ° °
Chuyến biển cuối cùng trước khi vào sửa chữa định kỳ của tàu
VT 250 do Lê Mây làm thuyền trưởng cách đây có dễ hơn một năm. Đúng rồi. Mười bốn
tháng. Tuần đầu con nước lớn tháng mười một dương. Trú gió liên miên, sản lượng
thấp, đá tan, dầu tiêu hao nhiều. Vừa không dám bán cá, lương sản phẩm lại chẳng
được là bao, phải nợ tiền xí nghiệp (nói vậy thôi, đó chỉ là tàu nợ xí nghiệp
chứ còn khoản tiền cho thuyền viên hàng tháng, thuyền trưởng và quỹ công đoàn
tàu bao giờ cũng phải bảo đảm). Trú gió, anh em thuyền viên vui cười quanh ván
bài, còn thuyền trưởng Lê Mây thì buồn. Anh lại lẩm bẩm một mình câu tổng kết của
anh: "Đái bãi đái xái chuyến buôn". Lẽ ra anh có thể hoàn thành kế hoạch
chuyến biển, bước vào sửa chữa từ chuyến trước. Không phải đi chuyến này để chịu
gió mùa suốt chuyến. Sẩy một chút xíu, thế là nó cứ dồn, dồn mãi. Nếu ba chuyến
trước, tàu anh được bốc cá ngay thì đã có thể đi sau ba ngày đỗ bến đúng như
quy trình giữa hai chuyến biển, như vậy không bị trú gió mất bốn ngày, và chuyến
biển ấy sẽ được nhận dầu trước khi kho dầu của xí nghiệp cạn, phải chờ hơn tuần
xin bổ sung chỉ tiêu rồi chờ xà lan nhận dầu về bến... Đấy, đại loại là như thế.
Mỗi thứ một tí một tí, việc nọ dồn việc kia, chuyến biển bị lùi lại hơn một
tháng. Chuyến biển kết thúc trước khi trung tu (kế hoạch trung tu là sáu tháng
nhưng bao giờ cũng kéo dài vô hạn định, bởi biết bao nhiêu nguyên nhân không thể
lường hết được) trước khi anh em ở bờ dài dài, anh muốn sao cho mỗi người có một
khoản tiền kha khá nhưng thế là hỏng rồi. Anh đã uống hết chai rượu Vân thứ
hai. Chỉ còn một chai nữa. Anh ngắm nhìn nó rồi mở nút lá chuối rót ra lưng
chén làm một tợp, bụng nghĩ: Sắp gay rồi đây. Phải uống dè thôi. Cả đời đi biển
mình chưa thấy bao giờ biển động liên miên thế này. Nhìn chân trời đằng đông hừng
hừng đỏ đọc như có ngọn lửa cháy hắt lên từ bên kia đường chân trời, biết biển
chưa thể êm ngay nhưng anh vẫn dặn Sơn VTĐ (vô tuyến điện): Nghe cả thời tiết
bên Trung Quốc xem sao nhé. Chẳng qua không có việc gì, không biết đi đâu thì
vào phòng VTĐ nói vậy thôi. Với lại cũng là bấu víu vào một hy vọng mỏng manh:
Biết đâu quy luật thời tiết khác rồi.
Mây đi biển từ nhỏ. Cả nhà Mây đi biển. Bố Mây, anh Mây và
Mây. Hai anh em theo cha đi câu. Cha dạy hai anh em nghề câu vì đó là nghề khó
khăn nhất trong tất cả mọi nghề đi biển khi ấy. Ba cha con cùng câu thuê. Rồi
cha một thuyền, mỗi con một thuyền - cũng vẫn của chủ - cứ sáng sáng nhổ neo
tách bến. Mây yêu mặt biển buổi sáng nắng tràn, gió về ào ạt. Một vệt sóng vàng
lóa mắt như gang chảy trong lò, nhỏ dần ở mãi phía chân trời, càng gần càng to,
loang loáng băng băng về phía mũi thuyền. Nó giống một dòng sông vàng rực rỡ giữa
mặt biển xanh sẫm gần như tím lại. Vượt qua những vàng lưới dùng, những vàng
mành dắt hình bán nguyệt, anh cho thuyền đi mãi đi mãi. Đến Cù lao Chàm vẫn
dóng thẳng một lèo cho tới khi "dầm lao" 1 ,
mặt trời đã ngả về phía tây, chiếu xiên khoai rát lưng, anh mới neo thuyền lại,
bắt đầu thả câu.
Vùng biển đó sâu trên trăm sải, rất nhiều cá mập. Thả xong
vài dàn câu, anh nằm ngủ chờ tới sáng hôm sau thu cá. Cũng có khi trở về tay
không, nhưng chỉ là hãn hữu. Còn nhiều ngày, rất nhiều ngày, với một dàn câu,
anh vớt được hai, ba con mập. Một lần anh đã câu được một con cá mập dài hơn cả
chiếc thuyền câu. Vừa động dây câu, con cá đã nổi lên mặt nước. Con cá mập dính
câu đột ngột nhô lên như một chiếc tàu ngầm, làm mặt biển như dềnh lên cách anh
vài chục sải, cái lưng màu xám xanh, cong lên ở phía giữa. Hai vi bụng quạt nước
sôi sục ào ào. Nó xé nước mà đi, sung sức mềm mại, lúc ngoan ngoãn, khi tức giận
làm mặt biển khi êm ả, khi cộn lên trắng xóa. Như một chiếc thủy phi cơ màu
xám, nó kéo thuyền anh đi. Hẳn là nó mới dính câu, còn đang tràn trề sức lực,
chiếc vi lưng cong cong khổng lồ hình lưỡi hái dựng đứng, in trên nền trời đang
ửng hồng mãi lên. Nước chảy trên làn da xám bóng trơn nhẫy của nó ròng ròng.
Con cá còn rất khỏe và anh đã phải thả dần số dây giềng dự trữ để trên sạp thuyền.
Khi chỉ còn một đoạn ngắn, anh quyết bắt con cá dừng lại ở đó. Con cá chạy
quanh thuyền vẽ một vòng tròn trắng xóa, bán kính có tới non trăm sải. Anh quấn
một vòng sợi dây giềng vào cọc lái để san sẻ bớt sức nặng vào đó đồng thời vẫn
có thể thả thêm dây khi con cá bỗng đột ngột tức giận phóng nhanh, hai chân đạp
vào mạn thuyền, ngả hẳn người về phía sau. Bàn tay anh như xé làm hai, chân anh
dội lên sống lưng một cảm giác đau nhói xối tới sọ não. Anh vận hết sức lực
trong người ghì chặt, giữ chặt đoạn dây mà lúc đó anh coi như tất cả sinh mệnh
của mình, quyết không thả thêm cho con cá một li một tấc. Mắt anh lồi ra (khoảng
ít phút sau anh sờ lên mắt mình và ngạc nhiên: Nó phồng phồng mềm như mắt
nhái). Mặt anh phù đỏ. Nhưng con cá đã không bơi ra phía khơi nữa. Nó đã quay đầu
lại. Suốt một ngày hôm ấy, anh đấu trí, đấu sức với con cá. Cho đến khi thấy
ánh nắng buổi chiều chiếu thẳng vào mặt, anh biết mình đã thắng, con cá đã chịu
thua rồi. Nó đã quay về phía tây. Nó đang trở về chỗ cũ. Nó quay lại chỗ nó ở.
Cũng giống con người muốn được chết giữa gia đình vợ con, giống cá lớn bao giờ
cũng muốn chết tại nơi ở cũ. Mãi chập tối anh mới phóng được cái lao thép vào bụng
nó, và dùng chày đập liên tiếp vào đầu nó. Rồi có sự giúp sức của mấy thuyền bạn,
anh bẩy được nó lên thuyền. Quá nửa đêm cá mới về tới bến. Chủ thuyền đốt đuốc
sáng rực. Tám đòn, mười sáu người khiêng như một đám hội. Anh được chủ thuyền
thưởng một số tiền kha khá nhưng phải nằm liệt ba ngày mới cử động được chân
tay...
Biển với Mây có biết bao kỷ niệm. Sau này khi cách mạng thành
công, rồi kháng chiến, Mây đã vào dân quân, đã tham gia phục kích địch ở Hòa
Vang, đã rải truyền đơn trong thành phố Đà Nẵng, anh luôn ao ước khi kháng chiến
thắng lợi sẽ đưa tàu đi đánh cá ngoài biển khơi, biển của anh, tàu của anh, của
những người như anh, khai thác biển vàng biển bạc, xây dựng đất nước ngày một
giàu mạnh, sánh vai cùng các nước khắp năm châu bốn biển.
Mây đã toại nguyện. Tập kết ra Bắc, anh được đi học bổ túc
văn hóa công nông. Rồi được học trung cấp đánh cá. Về Quốc doanh đánh cá Biển
Đông, tiền thân của Liên hợp Biển Đông sau này. Anh yêu biển. Một tình yêu tự
nhiên không phải cố gắng chút nào. Anh yêu công việc anh làm dù có vất vả đến
đâu. Đi biển, có mẻ lưới nào anh không có mặt, dù đó không phải ca anh, dù lúc
đó là giữa trưa hè nung boong bỏng giãy hay nửa đêm
mưa phùn gió bấc. Biển động thì thôi rồi, không còn nỗi khổ
nào hơn. Ăn cơm cũng phải "đứng tấn", xoạc chân vào bàn, ghì lưng vào
vách cabin cho khỏi ngã. Muốn tới nhà vệ sinh phải bò, ruột gan như bị xóc lộn
cả lên. Có lẽ anh là người chịu sóng khỏe nhất. Chưa có cuộc thi nhưng theo như
kết quả anh em các tàu bình chọn trong những lúc trú gió chẳng có việc gì làm,
thì người chịu sóng tốt số một là Lê Mây, thuyền trưởng tàu VT 250. Cũng vì chịu
sóng tốt nên gió vừa hạ xuống cấp 6 anh đã đi vào từng buồng ướm lời với những
thủy thủ còn đang lử khử vật vã trên giường: "Êm lắm bay ơi. Êm lắm bay
ơi". Như nhà báo Duy Thông đã nói. Cái chuyến cuối cùng trước khi vào sửa
chữa ấy, anh cũng "êm lắm bay ơi" nhưng anh em không nhóc nhách được.
Đến nỗi máy trưởng Đay còn có tên Fa Ra Đay phải bảo anh:
- Tôi sẵn sàng đi với ông. Cấp tám thằng này nôn. Nôn thì đeo
túi ni lông đứng máy. Nhưng anh em không đứa nào đứng vững trên boong đâu.
Mây biết anh đang động viên anh em làm một việc quá sức mình.
Nhưng anh chau mày khi nghe Đay nói. Có bao giờ Đay góp phần giúp Mây động viên
anh em đâu. Có bao giờ Đay đeo túi ni lông đứng máy đâu mà cứ nói như đã làm thế
nhiều lần. Anh giãi bày:
- Cuối động bao giờ sản lượng cũng cao. Với lại phải chịu khó
cày còn có sản lượng cho quỹ công đoàn, quỹ sửa chữa của tàu chứ không thì gay.
Đói đã hẳn, sửa chữa mà không có tiền bồi dưỡng thợ, bồi dưỡng tổ trưởng, quản
đốc, đến bao giờ mới xong.
Không lo được về mặt đời sống cho anh em, không chuẩn bị được
quỹ tàu để bước vào sửa chữa là cái khổ thứ nhất của Mây. Cái khổ thứ hai không
kém, có khi còn hơn cái khổ thứ nhất là hết rượu. Năm ngày cuối chuyến cả tàu hết
rượu. Khi anh em moi móc các xó xỉnh, lật cả sạp trong buồng lái lên kiếm đầu mẩu
thuốc lá vất đi từ thời nảo thời nào, Lê Mây đi các buồng lục lọi xem còn tí nước
cay nào sót lại không. Mọi chai đều khô. Nhịn thèm nhịn nhạt. Sáng dậy không có
chất cay cay nóng nóng chảy qua cổ lan tỏa vào cơ thể, mắt cứ díp lại. Người
nhão ra. Bữa ăn lùa bát cơm cho nhanh. Có rượu, anh có thể đưa cay nửa cân bạc
má hay nhấm nháp cả cái đầu một con song ba ký. Anh không giấu mọi người chuyện
ấy. Chuyện anh ăn được cá ấy. Thời giám đốc Trần Hữu Bằng còn ở xí nghiệp, đã
tuyên dương thành tích ăn cá của Mây trong hội nghị công nhân viên chức:
"Ăn được cá như Lê Mây mới có thể gắn bó cả đời mình với biển. Những người
ăn được cá là vốn quý của xí nghiệp". Không rượu, cá cũng không muốn ăn, mồm
miệng đắng ngắt, ngáp ngắn ngáp dài, nước mắt nước mũi cứ giàn ra, lử khử lừ khừ
như đàn bà ốm nghén. Anh em bảo thuyền trưởng đang bị rượu nó vật. Khi thức đã
vậy, lúc ngủ càng khổ hơn. Vừa chợp mắt đã mơ thấy rượu. Những bữa rượu vỉa hè
với chai rượu Vân trong vắt thân thương. Những bữa giỗ tết ở nhà nâng lên đặt
xuống cùng vợ con đầm ấm. Và những bữa liên hoan dưới tàu vang lên "Dô!
Dô!" "Trăm phần trăm!" vui vẻ ầm ĩ. Cả những bữa tiệc sang trọng
Mây chưa từng dự bao giờ. Bàn ghế phủ khăn trắng muốt, cốc pha lê bày bốn chung
quanh với những đĩa thức ăn hình bầu dục. Rượu nhiều vô kể. Toàn những thứ rượu
sang trọng, cổ vàng cổ bạc, thứ trong như nước mưa, thứ đỏ sẫm sóng sánh trong
cốc. Ác cái là đúng lúc ấy, đúng lúc Mây cầm cốc rượu đưa lên chạm vào môi, hít
mùi thơm của nó là choàng tỉnh. Lần nào cũng vậy. Cứ sắp dốc vào họng là choàng
tỉnh. Choàng tỉnh nằm. Choàng tỉnh đau. Choàng tỉnh tiếc. Đau hơn, tiếc hơn
chàng trai mơ thấy một thiếu nữ khỏa thân trên giường chờ đợi mà mỗi khi bước tới
bên giường, vừa ngồi xuống giơ tay ôm nàng thì tỉnh giấc. Lại càng nhức đầu. Cố
ngủ lại, mơ lại để được làm nốt động tác cuối cùng: Dốc ly rượu thơm lừng ấy
vào miệng. Khổ nỗi những lúc nằm chờ ngủ để mơ tiếp là cứ nghĩ đến những bữa rượu
đã uống. Những bữa rượu quên đời. Nhiều bữa rượu đáng nhớ. Đáng nhớ nhất, bữa
rượu hay trở đi trở lại trong óc Mây nhất là bữa rượu ở Năm Căn. Với hai phụ nữ
thu mua cá Cà Mau. Danh tiếng các bà mả Năm Căn này đã vang dội khối
tàu. Bọn bợm rượu các tàu khi nhắc đến chị Hai, chị Ba đều
tỏ lòng kính nể và cả quyết trong Quốc doanh Biển Đông không ai địch nổi. Thuyền
trưởng Đại nói với anh:
- Ông cũng phải đo ván thôi. Rượu như Túy mà còn thua đấy.
Ngày ấy thuyền trưởng Đại còn sống, và Mây cũng mới là đại
phó. Anh không tin có một phụ nữ nào lại uống được nhiều rượu hơn anh và ao ước
được uống với họ. Cầu được ước thấy, trong một lần buông neo ở Hòn Khoai, bốc
cá lên trạm sơ chế của xí nghiệp, tàu thu mua của chị Hai cũng vào đảo
và cặp sát tàu anh. Một tay tóm cổ hai chai Lúa Mới, một tay nắm thang dây, Mây
tụt xuống tàu chị Hai và nói thẳng không úp mở:
- Em nghe đại danh hai chị đã lâu. Hôm nay thật may mắn, tàu
em và tàu hai chị lại áp mạn thế này, em xin phép được hầu rượu hai chị.
Cả chị Hai, chị Ba đều mừng rỡ, mời ngồi ngay trên buồng lái.
Tàu thu mua nhỏ, ngồi đấy nhìn ra chỉ thấy sườn tàu Mây sơn xám dập dờn theo từng
con sóng. Mây bước ra lan can, ngước nhìn lên, vẫy thuyền trưởng Đại: "Ông
Đại ơi! Cả hai chị mời thuyền trưởng xuống đây đấy!" Đứng trên boong, Đại
cười: "Nói hộ mình vô phép hai chị. Ông uống thế nào để sáng mai còn tách
bến đấy".
- Phải có tí nhắm chứ chú? Chị Hai hỏi.
- Tùy hai chị. Mồi cũng được. Xếch cũng được.
Chị Ba từ bếp đi lên:
- Ta cứ uống dần đi. Nhà bếp đang làm rồi. Cũng chẳng có gì.
Dưới tàu quanh quẩn chỉ canh chua, chả mực.
Mây toan vặn nút chai Lúa Mới bắt đầu bữa rượu, nhưng chị Hai
đã giằng lấy, cất dưới chân vô lăng rồi vào trong buồng lễ mễ xách ra một can
20 lít đầy ắp. Và nghiêng can, đổ rượu vào một chiếc ca nhựa, thứ ca một lít vẫn
dùng ở các hiệu bia hơi. Rượu từ ca nhựa được rót vào các cốc thủy tinh. Liếc
nhìn rất nhanh thứ nước nhờ nhờ đùng đục trong cốc, Mây đã biết ngay loại rượu
này chẳng ra gì. Mà đúng thế thật. Sau khi em xin nâng cốc chúc sức khỏe
hai chị, chúc cuộc hội ngộ của chúng ta, Mây làm một tợp cạn cốc. Đúng mà.
Rượu gì nhạt thèo thèo. Rượu này uống cả can cũng chẳng say. Chỉ tổ đi đái.
Chính thứ rượu anh khinh thường ấy đã quật ngã anh. Uống hết
nửa can, anh vẫn vững. Vẫn đều đều ba cốc một, ba cốc gần tràn miệng như nhau.
Mỗi người một cốc. Chả mực chưa đụng. Canh chua chưa đụng. Khô mực thỉnh thoảng
mới làm một xé nhỏ. Vẫn còn giành thế chủ động bắt chị Hai chị Ba uống
theo cách của anh: Lấy răng cắn vào cốc rượu rồi ngửa cổ cho rượu chảy vào miệng,
không được dùng tay. Hay cầm cốc rượu dốc thẳng vào họng mà không được chạm cốc
vào môi. Chú muốn kiểu gì cũng xong. Chị Hai chị Ba bảo vậy. Nhưng đến nửa can
còn lại thì anh gục. Bắt đầu là một sự chếnh choáng, hơi lắc lư cái đầu. Rồi đầu
nặng. Rồi ngây ngây. Muốn nằm. Cố không ngáp. Nhưng vẫn uống. Vẫn cứ đều đặn mỗi
người một cốc. Và vẫn cạn một hơi. Rồi nhìn chị Hai chị Ba thấy nhoè nhoè. Lúc
như chập làm một. Lúc lại thành ba thành bốn. Khi thuyền trưởng Đại từ thang
dây tụt xuống bước vào, anh vẫn biết nhưng không nói được nữa. Dù vẫn nghe
loáng thoáng tiếng Đại: Hết cả 20 lít chị Hai? Và tiếng cười giòn tan của các
chị như vọng về từ một nơi nào xa lắm. Mây ngả người dựa vào trụ lái, mắt nhắm
nghiền. Hình như có người đỡ anh nằm xuống sạp dưới chân trụ lái, ngay cạnh mâm
rượu.
Tỉnh dậy, Mây ngơ ngác thấy mình đang nằm trên một chiếc giường
hẹp, đầu gối lên chiếc gối vải hoa quen thuộc. Anh dần dần nhận ra chiếc giường
của anh, chiếc gối của anh, căn buồng của anh, đúng là buồng của anh, buồng đại
phó có treo bức hải đồ trên vách, cửa sổ hình chữ nhật trông ra chiếc ống khói
sơn đen. Vội choàng dậy. Nhìn qua cửa sổ xem tàu chị Hai cặp ở bên. Không thấy.
Vội chạy ra boong. Bốn chung quanh là biển. Thì ra anh đã ở ngư trường. Tàu
đang dắt lưới. Nhìn đồng hồ, đã 2 giờ chiều. Mãi sau, anh mới biết đêm qua, anh
em tàu anh đã phải sang tàu chị Hai, khiêng anh ra boong, đặt vào một tấm lưới,
buộc lại và dùng cẩu, cẩu anh lên tàu như cẩu một con cá lớn rồi khiêng anh vào
phòng để tàu tách bến đi sản xuất.
"Sai lầm của mình chính là ở đấy. Rượu không ra gì nhưng
uống tới sáu bảy lít thì cũng toi đời". Nằm trong cabin cố nối lại giấc mơ
ngắt quãng, nghe gió mùa đông bắc hú u u trên những dây chằng cẩu, dây ăng ten,
Mây tự nhủ. Và thèm đến tứa nước dãi, ước ao một vài lít, không thì chỉ nửa lít
cái thứ nước không ra gì ấy cũng được.
Chuyến ấy khi tàu cập bến, khi tàu đã được buộc chặt vào cột
bích, cầu thang đã bắc từ tàu xuống mặt bê tông cầu cảng, Mây khoác áo ba đơ
xuy dạ, mũ lông, hai tay thọc vào túi áo, đi một mạch ra căng tin. Anh đi từng
bước khoan thai, gặp ai cũng tươi cười gật đầu chào mà không bắt tay một ai,
không dừng lại nói chuyện với một ai. Khác hẳn mọi chuyến, anh muốn đi thẳng tới
nơi mà ở đó rượu tia xối vào họng, mát rượi, nóng bỏng, tràn vào miệng, tràn
vào lưỡi, ngấm vào các chân răng và trôi vào cơ thể, trôi đến đâu chảy đến đâu
nóng rực lên tới đó, hồi sinh tới đó, ngấm vào từng tế bào, từng lỗ chân lông,
nghĩa là anh sắp thoát khỏi tình trạng nửa thức nửa ngủ, nửa ốm nửa khỏe, đói
mà không muốn ăn, mồm miệng lúc nào cũng nhạt thếch, đắng ngắt này.
- Chào thuyền trưởng. Vừa về à? Khỏe không?
Một người chào anh. Người ấy ôm vai anh như rất thân thiết.
Huy! Một thuyền trưởng cùng được phong một đợt với anh nhưng trẻ hơn anh nhiều.
Và bây giờ rất vui vẻ vì được từ thuyền trưởng xuống làm thuyền phó. Không phải
thuyền phó tàu đảnh dậm mà là thuyền phó tàu HL 19, một trăm thằng
Vosco không bằng cái xô tàu Hạ Long 19. Toàn bộ những thứ trên người Huy đều
đắt tiền. Kính Mỹ đổi màu, đồng hồ Thụy Sĩ, áo bông Nhật, quần bò Levi’s, giày
da bóng lộn. Và ghê hơn là nhẫn vàng đỏ ngón tay... Huy móc túi, lấy ra bao ba
số. Mây miễn cưỡng rút một điếu. Huy bảo anh cầm cả mà hút. Nhưng anh lắc đầu:
- Cám ơn. Mình hút thuốc nặng quen rồi. Thứ này nhẹ quá.
Thôi. Đi nhá. Mình vào báo cáo chuyến biển với giám đốc.
Anh rũ được Huy như người rũ được một cái gì nhơ nhớp bám
trên người (nhất là Huy lại vừa quàng tay qua vai anh). Vốn tính thẳng thắn
ngang tàng, anh là một mẫu người khác hẳn Huy. Cái chuyện Huy lê la ở nhà giám
đốc, bí thư đảng ủy, trưởng phòng tổ chức là việc của Huy, anh không có ý kiến
gì, nếu có ý kiến chỉ là bái phục Huy, cái việc anh không thể làm được, Huy làm
tự nhiên dễ dàng như đã làm việc ấy từ lúc lẫm chẫm tập đi. Anh vẫn không quên
lần tàu anh làm dự trù nhận thêm một chiếc lưới mới và mấy chục mét dây đõi.
Kho hết. Hỏi ra thì kho còn nhưng thủ kho nói là tàu Huy đã làm hóa đơn rồi.
Thuyền phó tàu Huy, một người đã đi với Mây nhiều năm và khá thân nói với anh rằng
tàu anh ta còn những hai cái lưới mới dự trữ. Chẳng qua là... Là gì thì anh tự
hiểu lấy. Mây hiểu. Làm gì không hiểu. Anh đã sang gặp Huy, đề nghị với Huy cho
tàu anh vay tấm lưới ấy, để có thể đi sản xuất. Huy nhất định không cho. Huy
nói tàu anh ta cũng chỉ còn một tấm lưới dự trữ mà ông anh biết đấy, kỳ này vào
Cồn Cỏ, nhiều rạn nhiều đá ngầm, xác máy bay, không có lưới dự trữ là vỡ mặt.
Anh biết cái tính khó chơi của Huy, thói ganh ghét kèn cựa của Huy. Huy muốn vượt
hẳn lên cả khối tàu, không chịu thua ai, nhất là thua Mây. Và nhất là để ăn chắc
một suất xuống tàu vận tải, mặc dù đó chỉ là cái cớ, ai cũng biết chuyện điều
người xuống tàu đi nước ngoài phụ thuộc chủ yếu vào giám đốc, có người còn nói
thẳng ra phải nhiều đạn và đã có cả ba rem. Ba rem từ phòng tổ chức tới sếp.
Nhưng chủ yếu là sếp. Tổ chức có đề xuất cũng chỉ là một chuyện, đảng ủy họp
duyệt cũng chỉ là thủ tục phải làm mà thôi. Nhiều mối như vậy nên đạn phải nhiều
như lá tre, nhiều như quân Nguyên! Huy cũng biết điều ấy. Và đã lo cửa ấy.
Nhưng sự đời chẳng biết thế nào, cứ phải thật chắc cái thân mình, thời buổi mật
ít ruồi nhiều, tránh mọi sự trục trặc, Huy cố gắng mọi mặt để hoàn thành kế hoạch
của tàu, chẳng nhất cũng phải nhì khối. Trong khối tàu 400 mã lực, người luôn đạt
thành tích cao là Mây. Tất nhiên Huy không nhường Mây chiếc lưới dự trữ. Mây
cũng như nhiều tàu còn bị với Huy một vố. Mùa cá Nam năm ấy, anh đánh ở khu 18
chỉ hai, ba tạ mẻ. Anh bảo vê tê đê bám tàu Huy xem sản lượng có cao
không. Huy cũng chỉ báo hai, ba tạ mẻ. Mây đã định đưa tàu tới đánh nhưng nghĩ
đi nghĩ lại không kinh tế, có tăng được vài chục ký một mẻ thì cũng bù vào thời
gian chuyển ngư trường. Đến cuối chuyến Huy báo vọt lên một, hai tấn mẻ, Mây và
các tàu bạn chạy đến mới biết rằng không phải. Những mẻ trước đạt sản lượng
cao, Huy báo thấp và bây giờ khi sắp về bến, khi đàn cá đã tan, Huy báo vọt lên
để phù hợp với sản lượng đã khai thác được. Cái đểu là khi họp bàn về khai
thác, Huy còn nói tại Mây không bám được luồng cá, chứ sản lượng khai thác của
Huy là đúng như đã báo. Có lần Huy còn báo sai khu ô. Sản xuất ở khu 27 nhưng lại
báo về là khu 18, mọi người đưa tàu đến khu 18 chỉ thấy mênh mông gió nước, chẳng
thấy một con tàu nào! Anh em nói là Huy báo dã man. Nhưng với Mây, dã man nhất
là cái chuyện Huy nẫng tay trên các tàu những vật tư quý hiếm dù chưa cần dùng
đến. Và cái điều Mây không thể chịu được Huy có lẽ là sự khác nhau giữa hai
tính cách, là thói "đi đêm" với trưởng phòng cung tiêu, sự tấu hót,
nói xấu các bạn đồng nghiệp, nhiều khi chẳng phải vì muốn hại người mà chỉ để tỏ
ra mình cái gì cũng biết, là sự lui tới nhà lãnh đạo xí nghiệp bất kể người ta
tiếp đón mình như thế nào để đạt được nguyện vọng: xuống tàu vận tải ngoại
thương. Mây dị ứng với cách mời mọc thuốc lá, mời Mây xuống tàu uống rượu của
Huy. Nhiều người không hiểu bảo Mây khái tính. Không phải. Mây đã xuống tàu vận
tải ngoại thương uống rượu với bạn bè, khi về còn đút túi vài bao ba số,
Capstan bạn tặng. Nhưng với Huy thì chưa bao giờ. Cái kiểu mời quá nồng nhiệt của
Huy với Mây như một tiếng cười chế giễu: Cuối cùng ai thắng? Ông hay tôi? Vất vả
lắm phải không? Cố mà chịu nhé. Giờ đây ít người biết đến mâu thuẫn giữa Mây và
Huy từ thời xa xưa. Từ hồi cả hai còn đi tàu 1000 mã lực. Từ hồi Mây còn làm
trưởng ca. Nghỉ phép nghỉ bù về Quảng Nam ra trở về tàu, về giường mình, anh thấy
có người đã nằm ở đấy rồi. Người ấy là Huy.
- Anh nằm đây à? Giường tôi đây mà!
- Anh Trường phân công tôi về đây nằm.
- Không được. Quần áo, tủ của tôi còn đây. Nhiệm vụ tôi chưa
bàn giao.
Huy cười:
- Không. Tôi không đi đâu cả. Thuyền phó một nói tôi về đây.
Có gì anh lên gặp đại phó.
--------------------------------
Không trông thấy cù lao. |
V
Thế đấy. Mới có hơn tháng nghỉ phép nghỉ bù thôi đã có cuộc đảo
chính. Huy từ trên bờ được điều xuống làm trưởng ca. Thực ra khi mới đến xí
nghiệp trả phép, anh em gặp Mây đã nói hết cả sự tình. Họ bảo Huy đã làm
việc với tổ chức, lại đã mời ban chỉ huy tàu lên phố ăn nhậu mấy bữa kể cả
khoản em út thì Mây khó mà địch lại được.
- Tình hình thế đấy. Liệu đi thì vừa.
- Liệu. Liệu cái gì. Mình chỉ có lao động thôi. Từ trước đến
nay mình chỉ liệu có vậy thôi. Làm người lao động chứ không muốn làm
ông kia bà nọ.
Huy nằm đấy. Mây đi ngủ nhờ. Nay buồng này, mai buồng khác,
ôm khăn gói lang thang. Một hôm thủy thủ trưởng bảo Mây: "Ông Phú ông ấy bảo
khó nói với cậu quá". Mây cười: "Sao anh ấy lại nói thế nhỉ. Có gì mà
khó nói. Anh ấy là thuyền trưởng. Sao lại khó nói với thủy thủ. Nếu anh ấy làm
đúng, nói đúng thì không có gì khó cả". Thế rồi thuyền trưởng gặp Mây:
- Trước cậu ở tàu nào nhỉ?
- 110.
- Anh Thăng làm thuyền trưởng phải không? Anh em bên ấy khen
cậu lắm.
Mây chán ngán cắt ngang:
- Anh xem chuyện tôi công tác ở đây có vấn đề gì không thì
nói. Còn chuyện tôi ở trăm mười để khi khác. Tôi ra gõ gỉ đây.
Phú bảo:
- Cái này Trường nó đã làm như vậy. Cậu thông cảm cho mình.
Mây cố nén cảm giác bị sỉ nhục:
- Không có gì đâu anh ạ. Tôi nghĩ tôi phải cố gắng rất nhiều.
Các anh giải quyết hay tổ chức giải quyết tôi đều chấp hành. Tôi nghĩ không ai
ngăn cản được tôi tiến bộ. Có gì mà phải thông cảm hở anh.
Ngày ấy Mây chưa lấy vợ, chưa có cái tổ ấm ở khu Bãi Cát nên
mới phải chịu cảnh ngủ lang như vậy. Khi Lưu Văn Vượng xuống tàu làm đại phó ít
ngày thay Trường nghỉ phép, Mây nói với Vượng:
- Anh em gõ gỉ, bẩn thỉu chật chội nóng bức lắm, ngủ nhờ bất
tiện. Anh cho tôi nằm nhờ cái đi văng.
Vượng lấy vợ Hải Triều, ở phố Cầu Gỗ trung tâm thành phố,
trưa tối về nhà. (Đã có tối đi chơi phố, Mây ghé vào nhà Vượng, thấy cửa ngoài
khóa, cả nhà đi vắng, trong nhà chỉ có một con mèo bị nhốt gào thảm thiết). Vượng
đồng ý ngay. Thế là Mây tay hòm chìa khóa buồng thuyền phó 1 mát mẻ đỉnh đương.
Cho đến khi Trường giả phép ra, Trường gọi Mây vào buồng trưởng ca:
- Tổ chức điều Huy xuống. Anh em mình nói thật. Cậu ở đây
không có tương lai đâu. Không có con đường tiến lên nữa đâu. Ý cậu thế nào. Có
muốn chuyển sang tàu khác thì cứ đề đạt.
Vấn đề đặt ra thật bất ngờ. Họ định cẩu mình lên. Mây nói:
- Tôi lao động cũng muốn có con đường tiến lên của mình. Nghĩ
mình có cố gắng nhưng vẫn còn thiếu sót. Nếu làm được tốt hơn nữa thì yên tâm
hơn. Chứ chỉ nghĩ đến chuyện đề bạt thì mạt quá.
- Nhưng cậu ở đây thì kẹt.
- Anh nhận xét tôi ở đây có những kẹt gì?
Trường đáp chung chung. Mây bảo:
- Vậy tôi tự kiểm điểm anh nghe nhé. Tôi lao động
tích cực. Công tác cũng dô hò lăn vào làm với anh em. Có ý thức
xây dựng, có tinh thần đấu tranh. Tôi ở đây đã lâu. Các anh hiểu tôi. Tôi hiểu
các anh. Mặt tốt cũng như mặt xấu, giúp đỡ nhau tốt hơn. Nhưng tổ chức cũng như
ban chỉ huy tàu điều, là một thằng thuyền viên, tôi chấp hành.
- Thế nghĩa là ý cậu thế nào.
Mây cười:
- Thế nghĩa là ý tôi thế đấy.
Thật may cho Mây. Ngọt một trưởng ca khác được điều đi học.
Mây không bị cẩu lên.
Mây, Huy, hai người hai ca nhưng lại cùng chung một phòng,
phòng của trưởng ca. Trong phòng, hai trưởng ca không nói với nhau một lời. Có
lần hết ca, Mây lay gọi Huy dậy thay ca, Huy làm như đang ngủ giật mình tung
chân đá vào mặt Mây. Quá bất ngờ, Mây túm chặt cổ chân Huy xoay một vòng, mười
ngón tay thủy thủ từng săn cá mập và trầu cáp như những gọng kìm thép khiến Huy
phải lật người nằm sấp rất nhanh để khỏi bị trệch khớp háng và kêu to:
- Ông chơi trò gì thế này?
Mây cười:
- Đây là thuốc chữa bệnh cho những kẻ giả vờ ngủ chơi xỏ người
khác. Chỉ một lần là khỏi.
Hình như đó là lần đối thoại cuối cùng trong phòng của hai
trưởng ca. Còn trên boong vẫn có đối thoại. Như một hôm ở Cồn Cỏ. Huy đang ngồi
vá lưới, thấy Mây
ra, cứ xoay lưng lại phía Mây, che chắn không cho Mây nhìn. Hẳn
có chuyện gì đây. Mây đi quanh nửa vòng, buông một câu:
- Không xong rồi!
Huy buông ghim, ngẩng lên:
- Sao?
- Không được.
- Sao lại không được?
- Anh không tháo ra vá lại, thả lưới xuống lại rách, lại vá tốn
công tốn nhợ. Kỹ thuật không chiều ai đâu.
Lưới rách gần biên, lẽ ra phải kéo lại lưới, so xem có mất miếng
nào không, rồi vá từ trong vá ra, đuổi theo đường biên, lưới mới không bị
chùng, không dúm. Cũng có thể vá từ ngoài vá vào nhưng phải căn thật chính xác.
Huy đã không làm được như thế. Quả nhiên chỉ một mẻ lưới, chỗ ấy lại rách. Có lần
Mây đang làm lưới, Huy cho cẩu lưới lên. Chân Mây móc vào chỗ lưới rách, Mây bị
kéo ngược lên cao, la hét ầm ĩ: "Ông kia. Điên đấy à? Có hạ xuống ngay
không?" Huy vừa cho hạ lưới vừa cười thích thú. Mây bước tới, giơ nắm đấm
ra dí vào mặt Huy:
- Cẩn thận nhé. Lần sau thế chắc chắn ăn đấm đấy. Hay muốn ăn
ngay lần này. Hả?
Câu chuyện giữa hai người kết thúc sau chuyến khai thác ở Bạch
Long Vĩ. Một mẻ lưới hở đụt, kéo lên chỉ hai tạ cá. Thuyền phó Trường, thuyền
trưởng Phú kêu thét:
- Một mẻ lưới vất đi cũng hơn tấn cá. Mất đứt tấn cá. Bao
nhiêu tiền. Mây đâu. Làm ăn thế à? Phá hoại!
Mây cười:
- Không phải tôi. Anh Huy thắt đụt đấy.
- Huy đâu? Huy đâu?
Huy ra. Kiểm tra lại đụt. Bỏ mất bốn vòng khuyên mỗi vòng
khuyên hai mắt lưới là một mét sáu đụt không thắt. Đụt hở. Chưa hết. Ngày hôm
sau, Huy đứng cẩu. Đụt lưới đã lên sàn dốc. Hai tay hai công tắc. Một công tắc
lưới. Một công tắc đụt. Đụt cá đã được treo vào móc. Sóng to. Tàu nghiêng ngả.
Huy đứng như đứng tấn. Hai chân choãng ra. Rì rì. Rì rì. Chiếc đụt cá lên cao dần.
Một anh giật cái nút hoạt. Cá bắt đầu tụt xuống ở chỗ nút sổ. Nhưng ngay lúc ấy
một con sóng lớn đánh ngang tàu. Đụt cá văng ra ngoài be. Nút hoạt bung hết cỡ.
Cá trút xuống biển. Mây chạy vội ra cầm dây kéo đụt, lôi vào vớt vát được vài tạ.
Sai lầm của Huy là ở đấy. Là ở chỗ cẩu đụt cá lên cao quá. Nếu để đụt thấp,
sóng xô đụt chỉ đập vào be, không mất cá. Thuyền trưởng Phú từ boong trên nhảy
xuống. Mặt sàn chông chênh. Phú loạng choạng chạy tới, vịn vào tơi, đứng thẳng
lên, giơ nắm tay toan đấm Huy nhưng rồi chỉ ấn vào vai Huy. Mỗi cái ấn lại làm
Huy lạng người đi.
- Một tấn cá! Mày chết đi Huy ơi! Sao mày ngu thế!
Anh em cười. Mây cười. Thủy thủ chỉ có cười. Buồn làm gì. Đã
hiếm dịp cười. Cười cho giãn xương cốt, cho đỡ nhức đầu. Để lại bắt tay vào mẻ
lưới mới. Với lại nhiều lên hay ít đi một tấn cá chẳng mảy may ảnh hưởng đến cuộc
sống anh em. Nếu có, người ta ghi thành tích cho thuyền trưởng.
Sau sự cố ấy, Huy phải chuyển sang tàu khác nhưng trước khi
chuyển đi Huy còn nhiều lần được nghe câu nói ấy. Những lúc làm lưới, nhặt cá
hay đánh bài, thỉnh thoảng anh em lại nghiến răng nhiếc nhau để được giải lao,
để có trận cười:
- Mày chết đi! Sao mày ngu thế.
Biết anh em giễu mình, Huy cắn răng chịu, giả điếc và cười thầm
trong bụng: Rồi chúng mày biết tay tao. Cái ý chí làm mọi việc, bằng mọi giá để
trả thù đời hình như được định hình từ đấy.
Huy về tổ chức, xung vào đội dự trữ, rồi lại được đi tàu. Và
khi Mây lên thuyền phó rồi thuyền trưởng thì Huy cũng có tên trong danh sách đề
bạt cùng một đợt. Chẳng ai biết thực hư cái giá Huy phải trả trong những lần đề
bạt ấy cũng như cái giá của Huy xuống tàu vận tải ngoại thương ra sao. Cả xí
nghiệp một dạo đã ầm lên chuyện đánh ghen ở nhà giám đốc Hoàng Quốc Thắng. Từ
Hà Nội về đây làm giám đốc thay ông Trần Hữu Bằng về hưu, ông Hoàng Quốc Thắng
để vợ con ở lại Thủ đô. Theo chỉ thị của ông, phòng đời sống xếp cho ông ở tầng
hai một cái biệt thự bỏ không, xí nghiệp vẫn dùng làm nhà khách mà họa hoằn mới
có khách nghỉ lại. Cái biệt thự nhà khách gần đây không có ai đến nghỉ bởi
khách về làm việc đều được chánh văn phòng đưa đến những khách sạn sang trọng ở
trung tâm thành phố, thậm chí còn ra mãi Đồ Sơn. Giám đốc Hoàng Quốc Thắng ở đó
và cũng ăn luôn ở đó, cái biệt thự nhà khách ấy. Phòng đời sống cử hẳn một người
cơm nước, giặt giũ cho tổng giám đốc. Người ấy là Hoa, vợ Huy. Người ta nói nhiều
về chuyện này. Chuyện Hoa đến phục vụ riêng cho giám đốc. Không phải ngẫu nhiên
đâu. Phòng đời sống có bao nhiêu người. Vì sao lại là Hoa. Vì Hoa vừa trẻ vừa
ngon mắt. Vì trưởng phòng đời sống muốn làm vừa lòng sếp. (Chính trưởng phòng đời
sống cũng nói thẳng ra: phục vụ sếp không thể là Thị Nở, trông cũng phải sạch sẽ
một tí). Người bảo cái thằng Huy định thả cỏ vợ hay sao? Người rành rọt
hơn: Huy là bạn cánh hẩu với trưởng phòng đời sống, chính Huy nhờ trưởng phòng
đời sống điều vợ từ căng tin lên phục vụ sếp. Từ ấy Huy thường lui tới chỗ sếp
như người nhà. Mấy năm liền như vậy. Những khi vợ con giám đốc từ Hà Nội về,
Hoa phục vụ rất chu đáo. Cũng chẳng xảy ra điều tiếng gì. Chỉ đến khi cô em họ
của giám đốc về chơi mới sinh chuyện. Bà ta làm ầm lên. Hoa sợ quá đạp xe một mạch
về nhà. Giám đốc bịt mồm bà nhưng bà vẫn rỉa rói, riếc móc ầm ĩ cả xí nghiệp.
Lúc bấy giờ mọi người mới vỡ lẽ đấy không phải cô em họ giám đốc mà là bồ cũ của
giám đốc. Một cô kế toán từ cái thời ông còn làm ở Viện. Và chỉ bà ta mới có một
dàn ăng ten đặc biệt để khám phá ra tình ý giữa giám đốc và Hoa. Chỉ những người
đang yêu mới phát hiện được những biểu hiện của những người đang yêu cho dù họ
không để lộ bất cứ một sơ suất nào. Đảng ủy, công đoàn đã có những cuộc họp cán
bộ chủ chốt giải thích rằng sự việc không có gì. Đây là một sự hiểu lầm. Hơn nữa
phải cảnh giác với những luận điệu của kẻ xấu. Mà có vẻ như lắm kẻ xấu thật. Họ
nói rằng đã nhiều lần
Hoa vào nhà tắm kỳ lưng cho giám đốc. Đấy chỉ là những lời đồn
thổi. Nhưng Mây thì biết chính xác sự việc là có thật mà không dám hé răng. Một
buổi trưa đi nhậu về vì quá yêu ông giám đốc mới nói toàn những điều tốt đẹp về
người, về nghề, về sự lao tâm khổ tứ để đưa xí nghiệp tiến lên, Mây rẽ vào thăm
giám đốc. Thấy cửa đóng, hơi men lâng lâng, Mây trổ tài trèo lên cây phi lao
ngoài vỉa hè, nhìn qua cửa sổ tầng hai xem giám đốc ngủ hay thức thì thấy giám
đốc và Hoa đang... "Ngồi! Như Tây!" Mây tụt nhanh xuống đất, vẫn chưa
hoàn hồn và cứ lẩm bẩm một mình như người mất trí. "Ngồi! Như Tây!"
"Như Tây! Ngồi!" Và lo không biết hai người có nhìn thấy mình không?
Nỗi lo ấy ám ảnh anh. Đã nhiều đêm anh suy nghĩ. Rồi lại tự động viên mình: Sếp
nhìn thấy cũng tốt, không nhìn thấy cũng tốt. Không nhìn thấy thì chẳng có vấn
đề gì. Còn nếu nhìn thấy có nghĩa là mình đã nắm được huyệt của sếp. Sếp sẽ phải
chú ý tới mình hơn. Anh tự nhủ sống để dạ chết mang đi. Nhưng rồi lại tự hỏi:
Mình không nói, sao mọi người lại biết nhỉ? Và tự trả lời: Chắc sếp ăn vụng nhiều
lần. Nhiều người nhìn thấy, chẳng riêng mình. Câu chuyện hư hư thực thực ấy như
đã có kết luận rõ ràng khi mấy tháng sau Huy được làm hộ chiếu rồi xuống HL 19
làm đại phó! Huy được đổi đời. Hình như cũng biết những dư luận không hay về
mình, mặt Huy càng vênh lên, càng làm ra bất cần mọi thứ và càng khoe khoang của
cải, như muốn nói tất cả không là cái đinh gì, chỉ tiền là đáng kể. Mà tiền thì
Huy nhiều. Đang có rất nhiều. Sẽ còn có rất nhiều. Lạ cái Huy càng nhiều tiền,
mọi người càng coi thường, càng khinh Huy, nhất là Lê Mây.
Trả lời Huy "phải lên gặp giám đốc" nhưng Mây đi thẳng
ra căng tin. Xúng xính trong chiếc áo ba đờ xuy dạ đen dài tới đầu gối, anh bước
vào nhà bán hàng phòng đời sống lúc ấy còn vắng. Cô Ngụ nhân viên bán hàng, từ
đài thu phát chuyển sang, gái tân mà lại đi lấy một ông góa có con trai lớn hơn
mình vài tuổi, to cao trong chiếc áo bông bảo hộ lao động xanh rộng thùng
thình, tươi cười chào Mây:
- Thuyền trưởng về bao giờ đấy. Trưa em xuống tàu. Cho em mấy
con cá ngon đấy.
- Thích cá gì để anh bảo thằng đại phó của anh nó gói sẵn
cho.
- Em chỉ thích con mực.
- Xong. Một con mực nang. Hai ki lô được chưa.
Anh mua một chai rượu quít. Rượu không bán tự do, phải có giấy
của trưởng phòng đời sống hoặc bán theo tiêu chuẩn đi biển. Nhưng Mây được cô
ưu tiên. Cả kho chỉ còn hai loại rượu: rượu quít và rượu chanh. Rượu chanh nặng,
rượu quít nhẹ hơn. Mà lúc này chưa ăn gì lại muốn tu cho đã. Giơ chai rượu đỏ
tươi lên ngang mặt ngắm nghía đầy âu yếm như ngắm nhìn khuôn mặt người bạn tình
bấy lâu khao khát, lấy tay lau sạch bụi, rồi vặn cái nắp nhựa chụp xuống miệng
chai. Vỗ mạnh vào đít chai mấy cái như quy trình vẫn phải vậy, để rượu thúc mạnh
vào nút nhựa xoáy bịt cổ chai, lấy móng tay cậy cho nút kênh lên, cuối cùng là
vặn cái nút xoáy ra. Mây làm những việc ấy một cách vừa trang trọng vừa trìu mến
và bây giờ anh giơ chai rượu đã được lau hết bụi lên cao, đắm đuối ngắm nhìn
chai rượu đã mở sóng sánh một thứ nước đỏ hồng, như người ta cởi bỏ xiêm y của
một người đàn bà và chiêm ngưỡng tấm thân ngà ngọc. Ngước nhìn chai rượu một
lúc rồi ngửa mặt há miệng, hàm dưới râu ria lởm chởm hơi đưa ra, Mây nghiêng
chai từ từ rót thẳng vào cổ. Rượu vừa mát như nước, vừa nóng như lửa xối vào họng.
Anh nuốt. Từng ngụm, từng ngụm. Rượu tràn ra hai bên mép, đọng trên râu. Anh lấy
mu bàn tay quệt ngang. Rượu ngấm vào từng mạch máu. Rượu làm anh phút chốc bừng
tỉnh lại như tê đi, như đờ dại lại như bay lên. Thêm một lần dốc nghiêng chai từ
trên cao xuống miệng. Ngậm đầy miệng thứ dung dịch khát khao ấy rồi từng ngụm
nhỏ, từng ngụm nhỏ nuốt nó qua họng vào người, cảm thấy hết sức sống của hơi
men lan tỏa. Và lại đưa chai rượu lên ngắm nghía như người ta nhìn ngắm say mê
thân thể bạn tình trong lúc đang yêu. Đã hết khoảng nửa chai. Lần thứ ba ngửa cổ,
nghiêng chai. Rượu tràn ngập cổ cái hương vị gần một tuần nay mong mỏi. Uống đến
lần thứ ba thì gần hết chai rượu. Mây đứng lặng, chai rượu trong một tay buông
thõng, mắt nhìn vào một chốn vô hình. Lắng nghe từng mạch máu giãn nở, từng tế
bào cựa mình. Nghe máu dồn về tim và từ tim chảy đi, tỏa lên đầu rần rật và tới
mọi ngóc ngách cơ thể. Thấy mình như đang bay lượn, mình không đứng ở phòng đời
sống, cũng chẳng phải đang tay nắm tay thằng con trai bé đi dung dăng trong xí
nghiệp, cũng chẳng phải đang trên giường với vợ trong buổi tối đầu tiên về bến,
lại cũng không phải lúc đánh một mẻ lưới trúng tim luồng cá, cái đụt căng tròn
kéo lên trong ánh nắng sớm mai. Cái gì cũng không phải. Mà là tất cả những cảm
giác trên cộng lại. Thỏa mãn. Phấn chấn. Yêu đời. Coi khinh mọi khó khăn. Việc
gì cũng trong tầm tay. Và thắng lợi... Giơ cái chai đã gần cạn lên lần thứ tư,
nhìn trìu mến rất lâu chất nước đỏ hồng còn trong chai như nhìn một cái gì kỳ lạ
lắm, không hiểu nổi và cũng là để xem nó đã vào trong người mình bao nhiêu. Lắc
lắc chai, định làm thêm một ngụm nữa, nhưng đưa gần tới miệng thì đổi ý. Ngần
ngừ một giây rồi dốc ngược chai đổ rượu xuống nền nhà. Uống thế thôi. Cũng phải
cho nó uống một tí, mời nó một tí. Nó đã được tí
nào đâu. Rượu đỏ chảy qua miệng chai, tóa xuống cạnh chân anh. Nền xi măng cóc
ghẻ của phòng đời sống nuốt chỗ rượu Mây rót mời rất nhanh. Nhanh hơn cả Mây.
Còn lại vỏ chai không. Anh lẳng nó vào một góc nhà chất đầy vỏ chai bụi bậm cái
lành cái vỡ, thọc hai tay vào túi áo ba đơ xuy bước ra ngoài, đi trong gió mùa
ào ào lên phòng giám đốc.
° ° °
Nửa đêm qua mưa dông. Những làn gió mát lạnh lúc sắp mưa khiến
tôi và bác Sĩ đang nằm ngủ ngoài trời phải ôm chăn chiếu chạy vào trong phòng.
Sáng nay dậy tìm mặt trời mọc nhưng không thấy. Nhiều mây.
Gió tây bắc. Biển êm lạ thường. Chỉ là những gợn sóng lăn tăn. Chú Hồng bảo
tôi:
- Biển thế này có điên không. Cầu biển sóng cấp sảu cho thằng
này say sóng để nó biết bố Đảng khổ như thế nào. Mày chưa say là tao rất buổn
cu con ạ. Nhưng cẩn thận đấy. Biển êm thế này là chỉ nay mai thôi sóng gió nổi
lên, biết thế nào là lễ độ.
Tôi cười: Chảu không say. Đấy rồi chú xem.
Cảc chú thủy thủ dậy kéo lưới, nhặt tôm cả đưa xuống hầm
xong, đi đảnh răng rửa mặt rồi ai lại về giường người ấy nằm ngủ. Ngủ tranh thủ,
ngủ dễ dãi. Ngủ lắt nhắt nhưng thoải mải ngon lành và khi có tiếng chuông kéo
lưới là vùng dậy ngay. Hai tiếng rưỡi một mẻ lưới. Cả ngày cả đêm. Những bộ mặt
ngái ngủ. Những khăn mặt vắt vai. Những dảng đi lừ khừ, loạng choạng. Rửa mặt.
Vớ cái bảt vặn nước uống trong thùng men súc miệng. Những chiếc ảo bảo hộ dày cộp
quàng qua vai. Một chú ngực béo đầy lông lả từ giường đứng dậy bước ra hành
lang, chỗ vắt quần ảo, vừa đi vừa nói: "Quần đẹp của tôi đâu?Ảo đẹp của
tôi đâu?" Chú Quẹn tơi trưởng xỏ chân vào quần bảo hộ lao động rảch đầu gối,
chân thòi qua chỗ rảch. Chú Hồng mặc quần ngược, quay chỗ đầu gối rảch về phía
sau khoeo, rồi vòng tay cài khuy ở sau lưng. Chú vê tê đê vớ bộ quần ảo đầy những
vết bẩn đưa cho bảc Sĩ:
- Quần đẹp đây.
- Ảo đẹp đây.
Bác Sĩ xỏ tay vào cái ảo blu dông quả rộng, cái quần xanh vén
ống, lượt vải phía trong còn xanh gần như mới, khác hẳn lượt vải bên ngoài bạc
phếch. Chú Đỉnh chú Quẹn đứng tơi. Tơi kêu hồng hộc, quay ù ù. Dây cáp lên. Tơi
ghì lôi tấm lưới. Dây cáp chỗ sát mặt nước rung bần bật, nhích dần. Đã tới chỗ
tám xoay. Từ chỗ ấy dây cáp chẻ ra làm ba: Một vào "quả bom", hai dây
còn lại vào hai ván. Cái tám xoay nhảy lên qua pu li. Bác Sĩ cầm sào có móc đứng
chờ. Bác lao cái móc vào dây kéo đụt. Hụt. Lần thứ hai móc được, kéo được. Hai
người nữa xúm lại kéo cái đụt lủng lẳng ròng ròng nước. Bắt sợi dây vào tang
tơi. Cho tơi cuộn. Tất cả mũ áo đứng trên boong. Một người giật đụt. Reo hò ầm
ĩ. Reo vì mẻ lưới thất bại, chỉ có mấy con cá nhỏ, một ít ghẹ và mấy con tôm.
Kéo xong lưới bên trái rồi đến lưới bên phải, tấm lưới vẫn được nhiều hơn. Hai
cái đụt phinh phính như hai quả bầu. Hai chú giật dây. Tụt xuống một đống tròn.
Một búi rắn biển cuộn khoanh, đầu ngóc cả lên ngơ ngác nhìn quanh. Lại reo hò ầm
ĩ. Rất ít tôm. Có một cặp cá hiên nhơ nhỡ đập mình. Đúng là giống cá hiên đi
đâu cũng có đôi.
Bố hạ lệnh cẩu lưới. Vào vụng Ngọc trú. Giời này biển lặng,
trăng sáng, ít tôm. Chờ một vài ngày nữa xem sao. Bác Sĩ nhìn giời bảo:
- Chỉ ngày mai chậm lắm là ngày kia biển động thôi.
Bố bảo bác Sĩ:
- Thay cái đụt bên thằng Quẹn đi.
Tàu chạy vào vịnh. Trên đường vào vịnh, tất cả biến vào
cabin. Giữa trời nắng, chỉ còn bác Sĩ áo đẹp mũ lá có quai ni lông trắng và chú
Hồng quần đẹp mặc lộn đằng trước ra đằng sau lúi húi giữa boong với tấm lưới.
Tôi quên không kể chuyện hai con lợn. Hai con lợn tàu nuôi.
Chúng nó rất khôn. Cứ tha thẩn ụt ịt ngoài hành lang. Nắng chiếu vào hành lang
bên này thì rủ nhau sang hành lang bên kia. Khi tàu dắt lưới ngược lại, nắng
chiếu ngược lại, chúng cũng chuyển hành lang, nằm thở phì phò trong bóng râm.
Cái đêm mưa to, tôi và bác Sĩ ngủ ngoài boong phải chạy vào trong nhà, chúng
cũng không phải nằm ngoài mưa. Bác Sĩ rút hai chiếc ngăn kéo ở một cái giường
thủy thủ bỏ không, lùa chúng vào trong buổng. Như đã quen với những chuyện ấy,
chúng thành thạo nhảy qua bậc cửa sắt cao, vào cabin và mỗi con một ngăn kéo, nặng
nề nằm xuống ngoan ngoãn. Mẻ lưới nào chúng cũng có mặt ngoài boong. Chỉ đứng
xa nhìn. Không thấy ai để ý, chúng kêu ụt ịt. Và bao giờ chúng cũng có phần.
Các chú thủy thủ quãng ra cho chúng khi con cả, khi con ghẹ. Chúng ăn rất thiện
nghệ. Chúng dẫm một chân lên con cả mối, ngoạm vào chỗ thịt giáp với đầu, bóc
ngay được nửa con, không dính một tí xương nào. Rồi lấy mổm lật giở con cá và lại
làm như vậy. Hai cái rứt là xong một con mối tươi nguyên. Chỉ còn lại đầu với
cái xương sống chạy dài tới đuôi lởm chởm xương dăm. Chúng ăn ghẹ mới thật cừ.
Khôn ngoan như người vậy. Con ghẹ giương hai càng dài lên đe dọa. Con lợn vừa
đưa mõm tới gần, con ghẹ lùi lại rất nhanh, hai càng khua khua trước mặt con lợn.
Lợn ta đứng sững. Hai con vật nhìn nhau. Lợn giả cách đi chỗ khác như bỏ cuộc.
Rồi bước nhẹ nhàng về phía sau con ghẹ. Bỗng rất nhanh, lợn đặt một chân lên
lưng con ghẹ, ấn chặt. Hai càng ghẹ quều quào trong không khí nhưng bây giờ đã
trở thành vô tác dụng, chẳng làm sao cắp nổi lợn. Ấn mạnh chân, giữ chắc con ghẹ
trên mặt boong, lợn ta cúi xuống, há miệng ngậm lấy cái mai, nhích chân sang những
ngoe con rồi hất mạnh đầu, con ghẹ đã bị tách làm hai, hệt như mẹ tôi hay cái
Ngàn chách cua đồng nấu cơm vậy. Nhìn hai con lợn ăn cua ăn cá thạo thế tôi đã
hiểu vì sao chúng béo rụt đầu rụt cổ. Đúng là những con lợn sướng nhất thế giới!
° ° °
Sau chuyến ấy tàu VT 250 do Lê Mây làm thuyền trưởng vào sửa
chữa. Như mọi con tàu vào sửa chữa định kỳ khác, nó bị kéo dài. Công việc sửa
chữa của xí nghiệp cơ khí ùn lại. Do thiếu vật tư, do không đủ phụ tùng thay thế,
do việc lên đà một con tàu nào đó phụ thuộc con nước bị chậm. Trăm thứ lý do. Dồn
toa. Tàu này lùi đẩy tàu khác lùi. Tình trạng mười phương kiệt nguyên liệu thống
trị sản xuất. Hai tháng sau vẫn không ai ỏ ê đến VT 250. Rồi ba tháng. Đói. Đói
không khác gì 307. Và cũng phải xuống cuối cảng đỗ ngoài thằng 307. Nằm mãi, vô
công rồi nghề tù túng đói rách bứt rứt không chịu được. Mây nghĩ ra một mẹo:
Xin giám đốc cho đi thêm một chuyến, vừa để tăng sản lượng cho xí nghiệp, vừa đỡ
lãng phí thiết bị, lãng phí nhân lực. Máy trưởng Fa Ra Đay nhất trí cao. Anh em
thuyền viên reo hò tán thưởng. Nhưng phải có quà lên giám đốc. Chẳng thể nói
suông. Quà gì? Anh em mình nghèo, giám đốc thừa biết. Về vật chất chẳng thể nào
bằng được thằng Hạ Long 19, thằng Hạ Long 02, chúng nó tiền tấn. Mình cốt cái
lòng thành. Ta biện cái lễ nhỏ thôi. Giám đốc mấy hôm nay có phu nhân và tiểu
thư xuống chơi. Vậy ta cứ làm con gà, chai rượu. Thuyền trưởng, máy trưởng phải
xuất tướng. Thuyền trưởng nói về việc thực hiện kế hoạch. Máy trưởng báo cáo
thiết bị vẫn đi tốt. Nhất định được. Xin đi đánh cá cho xí nghiệp chứ làm gì
đâu mà không được. Nghe có vẻ xuôi. Nhưng Mây không ngờ các thứ quỹ tàu đều đã
xoẳn dù chưa bước vào sửa chữa. Túi anh, túi Fa Ra Đay đều cạn, đều mắc bệnh
viêm cơ túi. Cuối cùng anh phải thân ra Ngã ba Đông Dương, tới quán bà Bảy Béo
quen, tháo cái đồng hồ Seiko five (quen thì quen, ăn mòn bát mòn đũa vẫn phải
như vậy, cái ngã ba này nhờ cánh tàu cá mà bao nhà giàu có hẳn lên) đặt hai con
gà mái tơ và một chai ba sì đế 1 đúng
chập tối lên lấy. Nhớ là chập tối. Mấy giờ à. Đồng hồ cắm quán cô em rồi còn hỏi
giờ giấc. Nhớ là phải có cả lộc 2 . Nhiều lộc vào. Kế hoạch thực thi tốt đẹp.
Bà Bảy giao gà giao rượu đúng thời gian. Lộc nhiều. Hai con gà luộc vàng ươm được
gói giấy báo đặt trong mâm nhôm và để kín đáo, bà Bảy còn úp cái lồng bàn lên
trên. Nhọ mặt người, Đay đội mâm, Lê Mây cầm chai ba sì đế. Từ Ngã ba
Đông Dương tới nhà sếp khá xa. Đay đội ê cả cổ.
Tới nơi, đội lễ lên ngang cầu thang lại phải đội xuống. Nhà sếp
không chỉ có vợ chồng sếp. Mà còn có khách. Lại phải sang bên kia đường. Vào
hàng nước. Chờ. Nhưng đám khách vừa xuống lại một người khách đi xe máy tới,
khóa xe ở sân, lên thang. Ông này trông lạ. Hình như ở hải quan. Hay trên Bộ.
Chờ lâu. Cuối cùng khách cũng xuống. Rất nhanh, Mây và Đay đội mâm xách rượu bước
lên. Cái gì thế này? Giám đốc kêu lên. Đay mở lồng bàn. Mây đặt chai rượu nhìn
giám đốc: Biết chị và cháu về chơi, tàu chả có gì, nằm bờ lâu quá rồi, gọi là
lòng thành có tí quà mang biếu thủ trưởng với chị và cháu ăn cơm khỏi phải đi
ăn tiệm, phiền ra.
Lần đầu tiên trong đời tổng giám đốc nhận được một món quà biếu
như vậy. Ông cố nín cười bảo vợ chặt ngay con gà ăn cơm, nhiều khách quá đang
đói mềm ra đây và mời hai anh ăn luôn thể. Không thể nói đánh độp cái chuyện
xin đi thêm một chuyến biển được, không thể về ngay được, thuyền trưởng, máy
trưởng đành phải ở lại. Và cũng không thể để phu nhân giám đốc chặt thịt gà,
Mây nói:
- Ông Đay ra chặt cho chị Vân đi. Chị cứ để đấy, chúng tôi
làm nhoắng cái là xong.
Đay nhanh nhẹn bước tới chỗ đặt thớt có cái mâm mình vừa đội
đến. Gì chứ, chặt hai con gà, làm bữa nhắm chỉ là chuyện vặt. Ác cái là chờ đợi
lâu quá, hai tờ báo dính bết vào lớp da gà béo nhẫy những mỡ, mủn ra.
Vừa chặt vừa phải bấu bấu, nhặt giấy mủn để vào một góc mâm.
Năm người ngồi ăn. Vợ giám đốc, cô con gái giám đốc ăn xong trước, còn lại ba
người. Và bây giờ mới là lúc vui, lúc câu chuỵên cởi mở, rôm rả. Mây mạnh dạn đề
nghị được đi thêm một chuyến với những lý lẽ khó mà bác bỏ, chính đáng không
chê vào đâu được, hoàn toàn vì công việc, vì lợi ích của xí nghiệp và kết luận:
- Báo cáo giám đốc, tôi là đứa con hay lo hay làm của Đảng,
không xin giám đốc đi nghỉ mát hay đi dưỡng bệnh. Chỉ xin được đi biển đánh cá
mang về cho xí nghiệp thôi. Nằm nhà lâu nó hỏng mất người.
Có lẽ vì hương vị John đen ngon êm quá, hai vị
khách uống hết chén này tới chén khác. (Giám đốc cất chai rượu trắng của tàu đi,
và lấy ra một chai Johnnie Walker đen, loại rượu có thứ hạng trung bình trong số
những bạt ngàn các chai rượu trong buồng, đủ loại vang, sâm banh, uyt ki, cô nhắc,
quà của các tàu vận tải ngoại thương, cái món này đối với dân nghiện như Mây,
như Đay thật mềm môi). Đay đế theo đúng kịch bản đã xây dựng từ trước:
- Báo cáo giám đốc. Thiết bị vẫn còn gọ gẵng được. Có cái bơm
nước làm mát bị hỏng, chúng tôi đã liên hệ với thằng 217, tàu nó lên đà, nó hứa
sẽ cho mượn một chuyến biển. Dầu của tàu còn năm tấn. Chỉ xin xí nghiệp cho nhận
thêm năm tấn nữa thôi.
Lê Mây nhăn nhó:
- Bây giờ đang mùa cá bánh đường. Các tàu đánh đều đạt sản lượng
cao. Chúng tôi ở nhà nghe bạn bè nói mùa vụ, ruột gan chúng tôi cào xé lắm.
Giám đốc cười:
- Uống đi đã. Công việc hãy để đấy. Tính sau.
Ông thừa biết lý do xin đi thêm chuyến biển nữa. Ông hiểu
ngay cái lý do không được nói ra, mà đó lại là lý do chính. Các tướng nằm bờ
lâu hết tiền. Nhưng chẳng lẽ nói với giám đốc rõ ra cái ý ấy, có khác gì nhận
tôi không vì xí nghiệp mà chỉ vì tôi. Ai cũng vậy. Nói ra miệng điều mình không
nghĩ, và giấu biệt trong lòng những điều mình mong ước, giấu biệt mục đích của
mình. Trong hàng ngũ những thuộc quyền của ông mà ông giao tiếp, người ta đều
giấu ông ý nghĩ thật và thỉnh thoảng mới xì ra những sự thật cỏn con rồi thổi
phồng lên, coi đó như bản chất trung thực của mình để được ông tin tưởng, được
ông coi là tâm phúc. Cũng như ông đối với cấp trên ông thôi. Nói dối, giấu đi
những ý nghĩ thực của mình, lúc nào cũng vì công việc, vì cái chung, lo lắng
suy nghĩ... Đó là cung cách ứng xử của tất thảy. Mọi người ông nhìn thấy, kể cả
chính ông nhìn ông và nhìn cấp trên, cấp dưới của ông, chỉ là con người biểu kiến
chứ đâu phải con người thực. Cũng giống như chân trời biểu kiến khác với chân
trời thực mà ông đã học khi còn là sinh viên. Cái chân trời mình nhìn thấy luôn
không phải là chân trời thực. Cụm từ "trằn trọc trăn trở" của người
lãnh đạo luôn được nói tới thực chất chỉ là trằn trọc trăn trở sao cho được việc
chung để từ đó mình có thể rút ra cái phần tối đa cho mình. Và quan trọng là
cái phần tối đa ấy bao giờ cũng phải có một phần dành biếu cấp trên. Phần biếu
cấp trên có khi là ba mươi phần trăm, có khi là năm mươi, thậm chí đột xuất lên
đến một trăm phần trăm cũng không được tiếc. Đau đấy nhưng không được nhăn nhó,
mà phải giữ được nét mặt tươi như hoa. Phải biết nhìn những bước tiếp theo. Điều
quan trọng là biết nhìn những bước tiếp theo.
Như bữa ăn hôm nay. Là toàn bộ quà biếu của tàu VT 250. Tàu
đánh cá chẳng lấy đâu ra tiền. Lại là tàu nằm bờ mấy tháng nay rồi. Của cho
không quan trọng bằng cách cho. Quà biếu không quan trọng bằng cách biếu. Nói vậy
thôi. Quà biếu, của cho cũng quan trọng lắm. Vô cùng quan trọng. Không kém gì
cách biếu cách cho. Món quà biếu hôm nay rõ ràng chẳng quan trọng gì. Lại còn
tai tiếng nữa. Ông đã định không nhận. Nhưng rồi ông nghĩ lại. Nếu hai cán bộ
tàu của ông đội mâm về sẽ ra sao. Hẳn sẽ trở thành một chuyện thời sự. Và bọn
thối mồm, bọn ghen ăn ghét ở sẽ cười khẩy: Sếp đời nào nhận cái thứ vớ vẩn ấy.
Đúng là mấy lão hấp. Sếp chỉ nhận những thứ thật gọn nhẹ thôi. Gọn nhẹ nhưng
giá trị gấp trăm gấp nghìn lần. Hai con gà, sếp sẵn sàng nhận, nhưng phải là
hai con gà bằng vàng. Chuyện thời sự ấy không chỉ nằm trong xí nghiệp. Nó còn
lan truyền trong thành phố, thậm chí bay lên tận Hà Nội. Cách tốt nhất là nhận
rồi mời hai người ở lại uống rượu với ông. Sẽ là một giai thoại vui. Hình ảnh
ông sẽ được tô vẽ thêm, đáng yêu hơn trong con mắt mọi người. Ông uống rượu với
hai thuộc cấp và rất thân mật hỏi hai người khách:
- Tôi hỏi thật hai ông nhé? Ớ dưới tàu, thuyền trưởng máy trưởng
có ăn cắp cá không?
Câu hỏi đánh độp, tung ra rất bất ngờ. Ông không dùng chữ lấy,
lấy cả, mà ăn cắp, ăn cắp cả. Gọi sự việc đúng tên của nó. Cả
hai lặng đi. Lê Mây còn chưa biết trả lời ra sao trước câu hỏi vừa thân mật vừa
sỗ sàng, vừa nghiêm túc ấy, Fa Ra Đay đang đưa chén rượu lên môi, chợt ngừng lại,
nghiêm mặt trả lời:
- Báo cáo thủ trưởng có ăn cắp chứ. Không ăn cắp sống sao được!
Lê Mây chết lặng trước câu trả lời cũng sỗ sàng như câu hỏi.
Nói thế là đúng, là nói sự thật. Nhưng không nên đốp chát như vậy. Phải nói sao
cho có tình có lý để giám đốc biết thời buổi này nếu cứ ngang bằng sổ ngay, làm
ăn lương thiện thì không thế nào đủ sống. Với lại mang tiếng đi đánh cá quanh
năm suốt tháng, khi về nhà không có con cá mang về cho vợ cho con nghĩ nó cũng
tủi. Nói đến đấy rồi có thể nói thêm báo cáo thật với giám đốc là cá mang về
nhà phải là cá ngon, song, tráp, chim, thu... rồi nếu có thể nói dấn lên, báo
cáo thật với giám đốc chẳng nói các anh cũng biết nhiều khi vợ ốm con đau thuốc
men cũng chỉ trông vào con cá. Cực chẳng đã mới phải làm cái việc khốn nạn ấy
chứ ai muốn làm gì.
Vẫn cầm chén rượu trên tay, đầy tự tin và cả tự hào vì mình
là người đầu tiên dám công khai nhận với tổng giám đốc việc ấy, Đay nói thêm để
tổng giám đốc biết mình không phải loại ăn cắp thông thường:
- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi ăn cắp nhưng không ăn cắp như
những người khác. Chúng tôi ăn cắp có văn học!
Tiếng có văn học Đay tung ra nghiêm túc, nặng trĩu
đầy hãnh diện khiến tất cả cười ầm. Cả vợ giám đốc đang ngồi gọt những quả táo
tây tím lịm mà tàu vận tải nước ngoài biếu để chuẩn bị cho món đét xe cũng phải
phì cười. Cả cô con gái giám đốc ngồi cạnh mẹ cũng bật cười. Giám đốc hỏi tiếp
khi trận cười đã dứt:
- Thế nào là ăn cắp có văn học?
Mây im lặng chờ Đay trả lời.
- Khó nói lắm thủ trưởng ạ. Nghĩa là nó không thô. Nó có văn
học. Thế thôi.
Giám đốc gật đầu, vẻ như đã hiểu. Ông thấy thằng cha máy trưởng
trông sù sì như con gấu này được. Được ở chỗ hắn ta thật. Cái phần biểu kiến của
nó không đến nỗi. Lần đầu tiên ông nghe một thuộc cấp trả lời ông như vậy. Có
thể nói chuyện rất thẳng thắn với hắn về những chuyện khác nữa, nhưng không phải
lúc này, không phải ngay bây giờ.
Bữa rượu chỉ kết thúc khi mấy vị chức sắc trong ngành công an
đến chơi. Kết quả là số không. Tàu VT 250 cứ phải nằm bến chờ sửa chữa còn Đay
được điều xuống làm máy phó tàu HL 19, cùng một chuyến với bác sĩ Nông Đức Bá,
trưởng phòng y tế. (Chuyện đó sẽ kể sau). Và cũng khó khăn lắm Mây mới chuộc được
cái đồng hồ. Bằng tiền của báo vụ Quân. Quân cùng quê xứ Quảng. Quân đi tàu HL
12 từ vịnh Thái Lan mới về. Tiền đang xủng xoẻng. Đưa theo tàu ra dăm tấn gạo,
mặt hàng bao giờ miền Bắc cũng cần, cầm chắc lãi ba chục phần trăm, hơn trăm quả
dừa khô chắc chắn lãi gấp đôi, thêm mấy chục kí bún khô để ăn và làm quà. Quân
bảo Mây đèo về hai bao gạo, dăm kí bún. Lại cả một cặp dừa. Quân nói:
- Chi viện đồng hương thế thôi. Nếu thằng này đi tàu nước
ngoài thì quà sẽ nhẹ hơn. Chỉ một cái tivi thôi. Hay cái phong bì là xong.
Không phải cồng kềnh thế này. Nhưng bây giờ ra ngã ba Đông Dương cái đã. Nhớ
bia hơi Hà Nội lắm rồi.
Hai người ra quán bia, vào đúng quán bà Bảy Béo. Uống và chuyện.
Đến lúc ấy Quân mới biết Mây cắm đồng hồ ở quán. Thế là Quân chửi vung lên, bảo
bà chủ quán:
- Chắc lép à? Có hai con gà mà bắt đồng hương của tôi phải cắm
đồng hồ à? Muốn phá sản không thì bảo? Có muốn không ai vào đây ăn uống thì bảo?
Quân điên thật sự. Và Quân đã say. Bà chủ quán lắc lư bộ ngực
đồ sộ rối rít thanh minh em cũng tưởng anh ấy quên tiền ở tàu, rồi anh ấy về lấy
ngay, anh ấy gửi lại đồng hồ thì em giữ hộ thôi chứ có phải chắc lép đâu. Em cứ
chờ mãi không thấy anh ấy đến lấy. Đây. Em cất trong tủ cẩn thận...
Mây đeo đồng hồ vào tay. Quân ngửa cổ dốc vại bia uống dở vào
họng, dằn mạnh cốc xuống mặt bàn, bảo chủ quán:
- Tính tiền. Hai con gà, chai ba sì đế bao nhiêu. Cả
lãi nữa. Chỗ bia uống hôm nay bao nhiêu. Thanh toán. Không uống ở đây nữa. Đi
hàng khác.
Trả tiền xong, Quân dắt tay Mây dung dăng dung dẻ bước ra.
Anh nhìn chiếc đồng hồ trên cổ tay Mây:
- Cả tàu không đứa nào có tiền à?
- Đứa nào cũng kêu cháy túi. Kể ra để một cái mũ giữa câu lạc
bộ rồi thằng nào có bao nhiêu tiền vất cả vào cũng thừa đấy, nhưng ai lại làm
thế. Mình là thằng thủ trưởng phải lo chứ.
Quân nhìn Mây âu yếm, tủm tỉm cười:
- Chịu bố. Giám đốc có thể dát vàng cả nhà xí, không thiếu thứ
gì mà bố dám chơi cái văn đôi gà với cút rượu thì liều thật. Lại còn đội nghênh
ngang giữa đường nữa chứ. Chỉ có bố là dám chơi cái văn buổi dải ấy
thôi.
Rồi làm ra bộ nghiêm nghị nói với giọng khiển trách nhưng Mây
biết đấy là bạn mình đang sướng, là lòng bạn mình yêu mến vô cùng:
- Đồng hương buổi dải quá đấy đồng hương ạ.
Ớ quán bia mới, hai người còn uống nhiều uống lâu. Biết bạn
thèm rượu thèm bia, Quân chiêu đãi Mây một bữa túy lúy. Và cũng biết bạn túng,
Quân rút ra một xếp tiền đưa cho Mây:
- Cái này là biếu đồng hương để uống, không phải đưa cho bà ấy.
Bà ấy có khoản gạo kia rồi.
Thế là túi Mây rủng rỉnh. Trong thời gian tàu sửa chữa Mây có
đồng ra đồng vào, nhưng cũng chẳng được lâu. Tính Mây thế. Tính cánh đi biển thế.
Gặp nhau, kéo nhau vào quán, làm vài chén là thôi đấy. Mềm môi, cứ thế đưa cay.
Khi tàu sửa chữa được già nửa công việc, nghĩa là có nhanh cũng còn hai tháng nữa,
Mây đã nhịn rượu cả tuần rồi. Người bã bời, đắng ngắt, mồm miệng nhạt thếch,
chân tay rời rã. Giống hệt cái hồi đi chuyến biển cuối cùng năm ngoái. Đang
lang thang trên cầu thì gặp Huy. Huy rút trong túi ra bao thuốc Capstan mời Mây
xuống tàu làm một tí cay cay. Chỉ nghe thấy thế bao nhiêu nước miếng
đã tứa ra rồi. Chân Mây cứ bước theo Huy như một cái máy không thể nào cưỡng được.
Họng Mây như đã được thứ nước nóng bỏng ấy tưới vào làm cho tươi lại, sống lại.
Cái cay cay của Huy không phải là thứ cuốc lủi nhạt phèo ở mấy hàng nước quanh
đây, ngay cả rượu Vân cũng chẳng thấm gì. Mà nó giống rượu ở nhà giám đốc hôm
nào. Trong veo. Thơm. Thơm lạ lùng. Cầm chén rượu lên chưa uống đã thơm. Uống rồi
thơm mãi, ấm mãi trong họng. Và đặc biệt uống thoải mái không nhức đầu. Ngấm.
Và êm. Nhưng đi được mấy bước anh quay ngoắt lại trước sự ngạc nhiên của Huy.
Nhìn theo Mây, Huy cười một mình: Cà cuống chết đến đít vẫn cay. Không xuống
thì thôi. Càng còn rượu. Rồi cười một mình: Đã thế mai gặp lại mời, xem giữ được
bao lâu.
Mây đi một mạch đến nhà gửi xe. Đạp về nhà. Anh ở khu bãi
cát, một khu tập thể của xí nghiệp. Lục tìm trong túi ni lông treo ở một cái
đinh trên tường. Lấy ra quyển y bạ. Đút vào túi, xem đồng hồ rồi phóng xe đi. Vừa
ra ngõ, gặp ngay Quân rỗ đang đi vào.
- Tôi đang định vào rủ ông đi kiếm tí ba si đế.
Mặt Mây sáng lên. Nhưng lại ỉu xìu khi biết Quân cũng cháy
túi.
- Xuống thằng mười chín với tôi. Quân bảo. Vào thằng
Dân vê tê đê. Nó vẫn mời tôi xuống nó.
Nghĩ đến việc xuống đấy có thể gặp Huy, phòng đại phó và
phòng báo vụ nhìn thẳng sang nhau, Mây bảo:
- Y bạ ông để đâu?
- Ở tàu. Làm gì?
- Ông về lấy ngay ra đây. Đi với tôi luôn.
Một lúc sau hai người hai xe, hai quyển y bạ bước vào trạm
xá. Mây khám trước. Đồng chí Bá, bác sĩ người dân tộc nhưng tinh ranh hơn bất kỳ
một người Kinh nào, có cô vợ trẻ đẹp như mơ nhưng đang rất lo chuyện ấy của vợ
ngày một yếu, đã mua các thứ thuốc cho vợ uống vẫn không kết quả đành chịu bó
tay và giờ đây tập trung sức lực vào việc mở cuộc vận động đi tàu nước ngoài với
chức danh bác sĩ cũng được nếu không thì phục vụ viên cũng được, tươi cười chào
Mây:
- Chào thuyền trưởng. Lâu lắm mới gặp thuyền trưởng. Thuyền
trưởng đau ốm làm sao?
Mây đưa quyển y bạ, làm ra mệt mỏi nhăn nhó tật bệnh ốm đau:
- Chân tay tui nhức hết. Lưng nhức, ngực nhức. Anh
xòe bàn tay to lớn chai sạn của mình ra trước mặt bác sĩ: Tay nhơm nhớp, chân
nhơm nhớp, cứ ra mồ hôi trộm. Khó chịu quá bác sĩ ạ.
Bá đeo ống nghe, luồn vào lưng vào ngực Mây, vẻ mặt nghiêm
trang chăm chú. Một lúc sau lại bảo:
- Anh thở mạnh vào.
Mây thều thào thiểu não như sắp quỵ đến nơi:
- Ngực tưng tức, khó chịu lắm.
Bá vừa nghe phổi nghe tim cho Mây vừa nói với Quân ngồi chờ ở
ghế gần đó:
- Chờ một tí nhé. Anh Quân bệnh gì?
Mây nhanh nhảu trả lời thay Quân:
- Nó cũng như tau. Nó cũng như tau. Tay
chân nhơm nhớp...
Không chịu được sự nhăn nhó giả vờ của Mây, Quân đứng lên:
- Hắn nói bậy đó. Không bệnh trạng chi hết đó.
Anh bước tới cầm quyển y bạ của Mây để trên chiếc
bàn có phủ mảnh vải màu cháo lòng, lật từng tờ trước mặt bác
sĩ:
- Y bạ trắng tinh. Một viên aspirin cũng không. Từ ngày vào
xí nghiệp hắn chưa một lần đến phòng khám bệnh. Lần này là lần đầu tiên. Hắn khỏe
nhất xí nghiệp đó. Chẳng bệnh gì. Chẳng qua là thèm rượu thôi. Thèm rượu nhưng
hết tiền. Không có tiền mua rượu. Tôi cũng thế. Chẳng bệnh tật gì. Y bạ đây. -
Quân lại chìa quyển y bạ của mình ra, giở từng tờ - Trắng tinh. Xí nghiệp chưa
tốn một xu thuốc nào. Viên B1 cũng không. Lưng tôi lưng xuất khẩu đấy bố ạ. Báo
vụ nhưng những lúc cần, ngồi nhặt cá suốt đêm với cánh thủy thủ. Bọn boong còn
phải nghỉ giải lao chứ thằng này thì không. Bụng dạ cực tốt. Lên bờ bát ngát, về
tàu muộn, xuống bếp, chảo cá kho không đậy vung, gián trong vạc bò ra rào rào
như mưa, thằng này vẫn gắp ăn, chẳng sao. Bụng tôi bụng inox đấy bố ạ...
Bá bật cười:
- Thế bây giờ các bố cần gì, ốm không ốm đau không đau. Lưng
thì xuất khẩu, bụng thì inox...
Không phải đóng vai người ốm nữa, Mây tươi tỉnh mặt mày nói
năng lưu loát, anh cười làm những nếp nhăn sớm có nổi lên chằng chịt trên khuôn
mặt nâu sạm râu ria lởm chởm:
- Cứ cho mỗi thằng bốn chai canh kí na hay phong tê thấp cũng
được. Nói thật với bác sĩ thèm quá rồi. Chẳng còn xu mẹ nào. Tàu nằm bờ lâu
quá. Thằng đánh cá nằm bờ là túi xoẳn. Có như thằng đi tàu nước ngoài đâu.
Bá lắc đầu:
- Hai chai thôi. Tiêu chuẩn khám chỉ mỗi người một chai rượu
thuốc. Hai chai là đã ưu tiên rồi.
Quân gắt yêu:
- Cứ ghi vào đây, mỗi y bạ bốn chai. Y bạ trắng tinh đây này.
Phải bốn chai chứ hai chai ai uống ai đừng.
° ° °
Bác Sĩ, chú Hồng nói không sai: Hôm trước biển lặng, thả cái
bát xuống biển không chìm thì phải coi chừng, có gì ăn trước đi. Hôm sau biển động
đấy! Tàu vào vụng Ngọc trú gió hôm trước thì hôm sau biển động. Vừa buông neo
trong vụng, đã nghe tiếng bơm nước hùm hụp hùm hụp. Mọi người trần truồng hết,
chen chúc trong nhà tắm, không ai xấu hổ xấu han gì. Lạ thế! Vào đây tắm với
chúng tao thằng Ba Đùi. Giờ thì tất cả mọi người trên tàu (trừ chú Hùng lùn và
bố tôi) đều gọi tôi là thằng Ba Đùi. Tôi cũng quen rồi. Không ngượng nữa. Hơn
thế, tôi hiểu mình được cả tàu quý men. Nóng. Nóng quá. Không một phe phẩy gió.
Tắm xong, mở bia, nước ngọt rót vào ca. Một thau đá dùng để ướp cá ướp tôm từ
dưới hầm đã được đặt giữa buồng ăn. Tiếng lắc ca cho đá chảy, tiếng nhai đá rau
ráu giòn tan. Hai chiếc thuyền nan từ trong bờ chèo ra áp mạn tàu. Mỗi thuyền
là một phụ nữ. Một người hơn tuổi mẹ tôi đứng trên sạp thuyền chung quanh toàn
mít, dứa và quả tai chua. Một người chỉ khoảng ba mươi, mặc quần hồng áo hồng,
nét mặt sáng sủa nhẹ nhõm rất hay cười, trong thuyền bà ta chỉ có những lồ
không. Bà ta đứng dưới thuyền gọi tên từng người trên tàu. Bố tôi cũng bước ra:
Chào cô Nguyệt. Thế nào? Xây nhà chưa? Chào thuyền trưởng. Làm ăn ngày một khó
khăn. Lấy đâu tiền mà xây nhà. Thuyền trưởng có chiếu cố cho em đâu. Chú Hồng
cười: Chiếu cố đi thì phải chiếu cố lại, quan hệ hai chiều mới bền chứ. Tất cả
cùng cười. Người đàn bà có tên Nguyệt lại nói: Cho em lên tàu đi. Cứ bắt em đứng
phơi nắng dưới này à? Hôm nay cho em bao nhiêu lồ? Bác Sĩ bảo: Nhiều lồ. Lồ to.
Bọn anh chỉ đổi lấy một lồ bé tí của em thôi. Em đổi. Sẵn sàng. Có ngay. Mọi
người lại cười. Cả bà già đứng trên thuyền mít cũng cười. Trong khi thả thang
dây thì đổi cá lấy mít, lấy dứa đã. Đổi mít, đổi dứa không phải dùng thang. Hai
lồ cá vụn (đã chuẩn bị sẵn, để ngay ngoài be) chỉ đổi được hai quả mít chục quả
dứa và mươi quả tai chua. Người dưới thuyền cứ đứng dưới thuyền. Cả dòng dây
chuyền qua be, mít dứa tai chua kéo lên qua be. Lổ đựng hoa quả là lổ sạch. Tôi
chưa thấy ai mua bản đổi chảc như vậy bao giờ. Người mua cũng như người bản
không cần biết mặt hàng mình mua tốt xấu ra sao. Rất nhanh mặt nước biển chung
quanh tàu đã nổi lềnh bềnh những vỏ mít chỉ còn toàn xơ nhựa loang thành vảng,
những miếng vỏ dứa vạc sâu cho hết mắt. Và cũng rất nhanh bà bản hoa quả chèo
thuyền vào bờ. Đó cũng là lúc thang dây đã được thả xuống thuyền. Cô Nguyệt nắm
thang dây trèo lên. Bốn năm bàn tay giơ ra đỡ cô nhảy từ trên be xuống mặt
boong. Bố tôi, chú Hùng vẫn ở trên buổng lải. Trừ bảc Suất, bảc Nhớn cấp dưỡng
và vài người nữa, tất cả vây quanh cô Nguyệt. Người nắm tay cô. Người vỗ vai
cô. Cô cười với tất cả. Rồi cô bảo: Thôi. Cảc anh giao cả cho em đi. Tối em ra.
Cần cẩu hoạt động. Nắp hầm cả vuông bằng gỗ dày và nặng bịt thép được cẩu lên rồi
đặt xuống mặt boong đảnh rầm. Nhiều người nhanh thoăn thoắt xuống hầm. Những lổ
cả được đưa lên. Mười tảm lổ tất cả. Bảc Sĩ bảo mới đảnh mấy ngày được ít nhưng
toàn tươi ngon đấy. Cô Nguyệt thì chê cả bé cả xấu. Bảc Sĩ cầm con cà mối nâu
to đùng giơ lên: Của em bé thì có. Của bọn anh to thế này còn chê bé, đòi to đến
đâu nữa. Tất cả hau hảu nhìn vào cô Nguyệt. Cô Nguyệt đỏ rừ mặt, phảt vào vai bảc
Sĩ: Phải gió cái nhà anh này. Rồi hai người vào trong cabin bảc Sĩ đóng cửa lại.
Chắc là để giao tiền. Chú Hồng nhìn cái cửa gỗ phoóc mi ca đóng chặt nói: Lãi
nhất là bố Sĩ nhọ. Lẽ ra bố ấy chỉ được năm mươi phần trăm định suất. Chú Quẹn
còn bảo: Không được phần trăm nào cũng lãi rồi. Tất cả cùng cười. Hai người
đóng cửa trong phòng không lâu. Cô Nguyệt mở cửa bước ra. Tôi tò mò nhìn vào:
Bác Sĩ đang nằm bò trên giường lúi húi viết gì trên một tờ giấy, bên cạnh là một
xếp tiền. Một lúc sau từng người một vào nhận tiền bán cá. Rồi bác Sĩ cầm tiền
lên buồng lái. Không cần lên theo, tôi cũng biết bác đưa cho bố tôi và chú Hùng
lùn. Tôi hoang mang quá. Không hình dung được việc cả tàu bán cá như vậy. Mà
bán rất tự nhiên. Rất công khai. Chẳng phải suy nghĩ đắn đo. Không phải bàn bạc.
Nhận tiền cũng vậy. Bây giờ tôi đã hiểu những đồng tiền bố đưa cho mẹ là thế
nào rồi. Không phải tất cả là đồng tiền mồ hôi, đồng tiền lương thiện. Quyển
sách, bộ quần áo, đôi dép của tôi và cái Ngàn đẹp hơn những đứa bạn cùng lớp là
nhờ những đồng tiền bán cá này. Cả căn nhà cũng vậy. Việc này đã diễn đi diễn lại
bao lần rồi. Từ bao giờ? Và vẫn còn tiếp diễn. Từ hôm ấy giữa tôi và bố tôi có
một khoảng cách chứ không còn như trước nữa. Tôi quan sát bố, ngẫm ngợi, vừa
không hiểu vừa quý lại vừa thương. Bố làm việc ấy vì chúng tôi, vì mẹ. Tất cả
những người trên tàu vừa bán cá của nhà nước, đút tiền vào túi cũng đều vì gia
đình, vì vợ vì con. Tôi bỗng nghĩ đến con chim bói cá. Mọi người trên tàu cũng
giống như con chim bói cá hôm qua. Vất vả kiếm ăn nuôi đàn con nhỏ.
Hết nghĩ đến con chim bói cá tôi lại nghĩ đến bác Sĩ, đến mấy
đứa con bác mà bác đã kể cho tôi nghe. Bắt đầu từ việc uống chè. Bác Sĩ uống
chè rất đặc. Cái ca pha chè của bác có khi bã gần đầy. Nước đặc quánh. Tôi
không bao giờ dám uống chè của bác. Chát săn cả môi, sít lưỡi. Mỗi khi bác về
quê là mang theo hàng cân chè. Cả xóm đẽn uống. Khách đến ngồi giường uống chè,
xem tivi. Chỉ sợ sập giường. Bác bảo vợ con bác rất chiều bác. Đám con bác cứ
thứ bảy là đứa lớn cõng đứa bé ra ngõ đón bố. Bảy đứa tất cả. Bác đọc tên từng
đứa, đọc đi đọc lại mà mãi tôi không nhớ nổi. Không nhớ tên. Không nhớ đứa nào
là chị, đứa nào là anh, đứa nào là em. Chỉ đến khi chú Hồng cao giọng ngâm như
ngâm thơ, tôi mới nhớ. Nhập tâm ngay kể cả thứ tự lớn bé trai gái: "Tú,
Tình, Đức, Độ, Lý, Loan, Đô". Tú là cái Tú, Tình là cái Tình. Thằng Đức,
thằng Độ, cái Lý, cái Loan, thằng Đô. Đọc xong câu thơ, chú Hồng nói: Kết bằng
Đô. Hay! Đô là đô la. Có hướng đi lên.
Bác Sĩ còn kể khi ngủ thì cái Lý lên năm một bên, cái Loan
lên ba một bên, hai đứa sờ hai ti. Thằng Đô lên một ngủ với mẹ. Bố về, bố chiều,
lại có quà. Hộp sữa, cân bánh, cả tiền nữa. Vợ bác rất tằn tiện. Nghiêm. Có hộp
sữa bác giai cho cũng chờ bác giai về mới ăn. Hoặc bán cho con lấy năm nghìn.
Bác Sĩ cười bảo: Lũ trẻ nhà bác có vốn riêng. Tiền bố cho chứ ai. Nó đòi ăn sữa
ăn kẹo. Cho ăn rồi vẫn đòi. Trẻ con nó thế. Thấy còn là đòi. Hết thì thôi. Thế
là mẹ bảo con: Mày ăn tao bán cho hộp sữa. Năm nghìn. Nó mua ngay. Rồi lại đục
mời cả nhà. Bữa ăn, cả nhà chỉ có một con tôm he rim. Mẹ nhường con. Con nhường
bố. Bác cười: Ai ăn thì ăn đi. Có mỗi một con tôm he, này mẹ nó vất vả nhất, ăn
đi. Người ta đi đánh tôm thiếu gì. Bác gắp vào bát bác gái. Bác gái lại nhai
cho dập ra rồi bón với cơm cho thằng Đô bé nhất. Phụ nữ là chúa hay nhường. Bác
bảo vậy. Bác gái cũng giống mẹ tôi. Bữa cơm có miếng gì ngon lại nhường tôi,
nhường cái Ngàn. Nếu bố tôi ở nhà thì nhường bố tôi. Bác Sĩ rất thương vợ.
"Ngườiphụ nữ là khổ. Nam giới đã khổ nhưng phụ nữ còn khổ hơn nhiều".
Bác thương bác gái, thương thật lòng, nhưng sao bác lại đóng cửa với cô Nguyệt.
Chỉ giao tiền làm gì phải đóng cửa. Chắc chắn đã có một chuyện gì xảy ra. Mọi
người trên tàu đều biết. Cả bố cũng biết. Tôi nghi ngờ những điều bác Sĩ nói về
tình cảm của bác với bác gái. Từ bây giờ một khoảng cách cũng đã có giữa tôi và
bác. Không còn tin vào những điều bác nói như trước nữa. Bác và cả bố, không giống
như tôi vẫn nghĩ.
° ° °
Đại thắng, hai người tám chai rượu thuốc về nhà Lê Mây.
Nhà Lê Mây ở khu Bãi Cát, trước đây là trận địa pháo cao xạ.
Bây giờ chẳng còn dấu vết gì của một thời bom đạn, của những pháo thủ đã hi
sinh, của những nòng pháo ngụy trang chĩa lên trời, những ra đa quay bốn phương
dò bắt tín hiệu, canh giữ vùng trời. Chiến tranh qua lâu rồi. Trên mảnh đất
này, những mái nhà tranh đã mọc lên như một xóm nghèo. Nhà nọ cách nhà kia bằng
một hàng rào rau ngót, rau mồng tơi, gà nhà này sang vườn nhà khác bới và đạp
mái. Ngọn mướp bò cả vào cửa sổ, tay mướp xanh quấn từng vòng chấn song cửa bằng
róc. Cách đây mấy năm, thời còn bao cấp cũng có một hai nhà gạch, mái ngói, niềm
mơ ước của bao người. Nhưng giờ đây không phải những mái ngói nhà một tầng, những
căn nhà mà ta vẫn gọi là cấp bốn như thế nữa. Nhà hai tầng, nhà ba tầng vươn
cao trên trời xanh ngạo nghễ, đón gió bốn phương. Đó là những nhà có người đi
tàu vận tải đông lạnh nước ngoài, nhà của những người thuộc phòng kinh doanh (một
phòng mới lập ra khi ông Thắng về làm giám đốc thay ông Trần Hữu Bằng) chuyên
thu mua và xuất khẩu sắt vụn, gỗ bạch đàn, những công việc chẳng liên quan gì đến
con tôm con cá. Ngôi nhà to nhất khu Bãi Cát là của một người thuộc phòng này
chứ không phải của người đi tàu vận tải nước ngoài. Quán. Quán Mèo. Cũng chẳng
ai biết Quán Mèo từ đâu đến, vào làm xí nghiệp từ ngày nào, chuyển về phòng
kinh doanh từ bao giờ, nhưng giờ đây ai cũng nể Quán Mèo. Quán Mèo như từ trên
trời rơi xuống đúng lúc cần có Quán. Một cái biệt thự ba tầng, với khuôn viên
bao quanh, với những con béc giê to lớn, đuôi cúp, tiếng sủa ồm ồm. Quán nuôi
béc giê cho đúng mốt, cho vui thôi, bảo vệ ngôi nhà này là hai thanh niên gầy
gò, lừ đừ chậm chạp, mắt long lên sòng sọc trên khuôn mặt nhò nhọ bẩn thỉu tái
bủng thoạt nom cũng đã sợ rồi. Đúng là dân nghiện trăm phần trăm. Chỉ Quán mới
có thể giải quyết nổi những vụ việc rắc rối khó khăn nhất trong việc xuất khẩu
gỗ, xuất khẩu sắt vụn. Một đoàn người phóng xe máy ầm ầm vào sân xí nghiệp, dẫn
đầu là một phụ nữ xinh đẹp, quần áo bó, hai tay áo xắn cao, bắp tay phải bị
chém, vết sẹo mang hình cái lưỡi, nói cho dễ hiểu đó là một chữ V mà đầu nhọn
là ở cổ tay, sát chiếc vòng ngọc, rồi xòe ra chạy lên bắp tay. Nhìn vết sẹo,
người ta nghĩ đến ngay một nhát dao lóc vào thịt, sát xương róc ngược từ cổ tay
lên khuỷu tay mà rùng mình. Khoác trên người cô là chiếc áo mút xơ lin hoa màu
thẫm, mỏng tang tương phản với chiếc quần bò Levi’s mài bạc trắng hai đùi và
phía sau mông. Tất cả bó chặt càng làm nổi thân hình chắc nịch của cô. Mặt đẹp,
thân hình đẹp, quần áo đẹp, chiếc vòng ngọc bự, môi tím, móng tay nhuộm bạc, và
vết sẹo được may rất khéo bám trên bắp tay trần, dấu tích của một trận thư hùng
sống mái nào đấy, đẹp hơn mọi thứ trang sức cô đeo trên người, một thứ siêu
trang sức, tất cả nói rằng cô là người của thời đại, không dễ gì bắt nạt, hơn
thế, phải e dè kiêng nể. Cô xông vào phòng kinh doanh. Theo sau là một thanh
niên lực lưỡng, vệ sĩ số một của cô, còn mấy thanh niên khác đứng chờ ngoài
hành lang. Cô yêu cầu phải tính lại chất lượng sắt vụn cô nhập cho xí nghiệp.
Trưởng phòng kinh doanh giải thích, cô không nghe. Trưởng phòng điều độ, một
người có tài thuyết khách và có quen biết cô sơ sơ anh anh em em với
cô ngọt xớt, cô không nghe. Anh chị em trong phòng kinh doanh bỏ ra ngoài hết.
Để mặc trưởng phòng với cô. Tổng giám đốc biết chuyện không những không xuống,
còn đóng chặt cửa phòng. Tình thế thật nguy nan thì may quá, Quán Mèo ở đâu về.
Quán Mèo ở đâu đi Mazda về. Chào cô em! Sao? Cái gì mà ầm lên thế? Rất tự tin
và bề trên, cái anh chàng mới mấy năm trước còn cù bất cù bơ, lang thang đói
rách và chưa học quá lớp bảy kia đã thuyết phục được cô, khi tiễn cô ra cửa còn
cười rất tươi:
- Anh đã cứu em bao nhiêu lần, em phải nể mặt anh chứ. Đấy là
anh chưa kể số sắt của em có lẫn hơn chục quả lựu đạn mỏ vịt còn nguyên kíp đấy.
Trước khi đưa xuống tàu, may anh phát hiện ra kịp chứ không thì khốn. Nó mà nổ ở
dưới tàu chỉ có sập tiệm, vào nhà đá là cái chắc.
Chỉ Quán Mèo mới thuyết phục được cô, cũng như chỉ Quán Mèo mới
mua được chiếc cần cẩu chân đế còn mới tinh chưa lắp ráp của Cảng nặng hàng mấy
chục tấn rồi thuê xe chuyên dùng chở về xí nghiệp mà không sợ bị ách lại, và
thuê thợ phân xưởng cơ khí sửa chữa đem chai gió cắt chiếc cần cẩu còn nguyên
nước sơn ấy ra thành từng khúc nhập vào sắt vụn. Quán Mèo dặn những chàng lái
xe trong xí nghiệp chở sắt vụn trên đường, công an có làm luật thì cứ bảo xe của
Công ty Thủy sản Biển Đông, chở cho anh Quán Mèo đây. Mới đầu lái xe không tin
nhưng rồi tất cả đều thấy đấy là một câu thần chú màu nhiệm. Không ai biết vì
sao Quán Mèo có thể làm được những việc tài tình như vậy. Và tất nhiên Quán Mèo
tiền nhiều như nước Sông Đà. Thời gian ai là chủ sở hữu một con Đê Đê
(Honda DD) có thể coi khinh tất cả thiên hạ, Quán Mèo đã chơi ô tô rồi. Có lẽ
Quán Mèo là người đầu tiên trong thành phố mua ô tô. Một chiếc Mazda đã qua sử
dụng nhưng còn rất tốt. Như ô tô của giám đốc. Chắc chắn Quán là người đầu tiên
trong thành phố bỏ ra gần chục cây vàng mua một bộ dàn đĩa hình laser. Quán biết
giá trị của mình. Biết không cần chơi với những ai cũng như biết phải quan hệ tốt
với những ai. Cánh đi tàu nước ngoài, Quán cũng chỉ xã giao đôi chút, còn cánh
đánh cá, Quán Mèo chẳng buồn nhếch nửa nụ cười mỗi khi gặp họ, mặc dù cùng
trong một xóm. Nên chẳng mấy người ưa Quán. Quán giải thích chuyện ấy theo cách
của Quán: Họ ghen ghét đố kỵ với sự giàu có của Quán. Kệ họ. Trong cảnh giàu
sang, Quán thương họ, thương đám chúng sinh nghèo đói, nheo nhếch hai tay vày lỗ
miệng, chạy bữa sáng lo bữa tối. Chẳng ai biết Quán giàu đến đâu. Chỉ biết tổng
giám đốc cũng trọng nể Quán lắm. Tổng giám đốc là người ưa sạch sẽ, tôn trọng nội
quy, nếp sống văn minh. Ai vất đầu mẩu thuốc lá ở cầu thang, trên hành lang là
chết với giám đốc. Các ông chỉ có mỗi việc vất đầu thuốc vào thùng rác thôi
cũng không làm được à? Mà có phải đi đâu xa cho cam. Chỗ chiếu nghỉ cầu thang
nào tôi cũng cho đặt một cái chứa rác tự động gửi mua tận thành phố Hồ Chí Minh
chỉ lấy chân ấn vào là xong. Công lên việc xuống gì? Tôi hoàn toàn không hiểu
được các ông. Mấy ông mà sang Thụy Sĩ có bán nhà đi cũng không đủ tiền nộp phạt
vì tội vất rác ra đường!
Tổng giám đốc không hút thuốc và tất nhiên không vất đầu thuốc
lá xuống cầu thang. Ây thế mà một lần từ tầng trên đi xuống, giữa chừng tổng
giám đốc gặp Quán Mèo từ dưới đi lên, Quán Mèo rút bao Ba số trong túi ra mời.
Sếp cầm điếu thuốc. Quán Mèo lấy một điếu cho mình sau khi đã vất mẩu thuốc
trên môi xuống cầu thang, bật lửa cho sếp châm thuốc, rồi châm cho mình và đi
lên gác. Chờ Quán đi khỏi, tổng giám đốc lẳng lặng cúi xuống nhặt đầu mẩu thuốc
của Quán, đi ngược lên chiếu nghỉ vất vào sọt rác và cũng vất luôn điếu thuốc gần
như còn nguyên Quán Mèo vừa mời vào đó. Tất cả sự việc không qua được mắt cô
Phòng văn thư đang đứng ở hành lang tầng trệt. Cô Phòng đã kể lại cho Lê Mây
nghe sau cái lúc Lê Mây quen thói luộm thuộm lính tráng trên tàu vất đầu mẩu
thuốc ra hành lang và bị giám đốc chấn chỉnh. Cô Phòng bảo: Sếp chỉ nể mỗi Quán
Mèo thôi. Với con Thi nữa. Nó làm phòng xuất nhập khẩu, chồng nó đi tàu nước
ngoài, chắc có quà đậm. Tết vừa rồi chẳng thấy tổng giám đốc thăm ai ở nhà A. Cả
dãy nhà A bao nhiêu người, phó tổng có, thuyền trưởng có, chiến sĩ thi đua có,
giám đốc chỉ chúc tết mỗi nhà cái Thi Hải. Thi là cô Thi, nhân viên phòng xuất
nhập khẩu vừa trúng một quả móc nối với một đơn vị trong thành phố xuất lợn móc
hàm và lợn sữa đi Hong Kong. Còn Hải là chồng Thi, dân cơ công đi tàu 19 mười mấy
chuyến rồi. Hết Sing, Hong Kong, lại Nhật.
Thấy chồng và bạn lấy trong túi ra tám chai rượu thuốc đặt
lên bàn, chị Bấm ngơ ngác:
- Hai ông đi đâu về? Ôm đau gì mà nhiều thuốc thế?
Quân trả lời thay Mây:
- Ốm đau gì đâu. Anh em tôi khỏe như vâm. Thèm rượu quá mà nhẵn
tiền. Kéo nhau lên y tế xí nghiệp khám bệnh, mang về uống đấy.
Mây sốt sắng:
- Bà có gì làm nhắm không?
- Chả còn gì. Có mấy quả trứng gà. Con gà mơ mới đẻ. Năm sáu
quả.
- Con gà mái nâu chưa đẻ à?
- Chưa.
- Bắt con gà nâu.
Chị Bấm kêu lên:
- Không được. Của thằng Sĩ đấy. Cả nhà chỉ có hai con gà của
hai đứa. Chốc nữa chúng nó đi học về bắt đền chết.
Hai con gà kế hoạch nhỏ của hai đứa con trai xin ông bà ngoại
từ quê mang ra lúc mới xuống ổ. Thằng Lê Chí Dũng và thằng Lê Chí Sỹ bắt bố làm
ngay cái chuồng gà. Mây bỏ ra đúng một ngày từ sáng đến tối làm cật lực mới
xong. Xây bằng gạch pa panh cẩn thận. Chuồng hai tầng. Tầng trên nhốt gà, tầng
dưới chứa phân gà. Hai đứa chăm hai con gà như ngày trước hai vợ chồng anh chăm
chúng vậy. Thi nhau bốc gạo trong thùng cho gà ăn. Cả tép trong rổ chị mới đi
chợ về. Nhìn hai cái diều bé tí tròn căng như sắp nứt mà hai đứa vẫn bốc gạo rồi
xòe tay ra cho chúng mổ ngay trong lòng bàn tay, chị Bấm quát con:
- Thôi. Không nó bội thực đấy.
Lại nữa, những khi có con cá kiếm được từ xí nghiệp mang về,
chị Bấm bắt hai đứa nhốt gà lại, không cho chúng mổ ruột cá trên thớt lúc chị
đang làm cá. Ruột cá đông lạnh, gà còn bé thế này ăn vào là chết ngay.
Mây ngần ngừ. Tính làm sao khoản thức nhắm bây giờ. Chẳng lẽ
lại đạp xe vào xí nghiệp, xuống xem tàu nào còn cá kiếm lấy một con mang về. Nó
ê chề quá. Mà cũng chẳng còn tàu đánh cá nào đỗ bến. Ông Chơn đi chưa về, thằng
Bôn cũng đã tách bến một tuần rồi. Thằng Uy mới đi hôm qua... Anh rất muốn thịt
con gà mái nâu. Nhưng anh thương thằng Sĩ, thằng con trai bé của anh. Những
ngày tàu cập bến kết thúc chuyến biển, anh hay nắm tay thằng Sĩ, hai bố con đi
dung dăng dung dẻ ở xí nghiệp. Dắt nó ra căng tin. Bố làm chai bia. Con
lon xê vần nắp. Hai bố con một đĩa thịt bò xào. Dắt con xuống tàu. Thằng
bé con sung sướng nhảy nhót, khiến bác Xin, thủy thủ trưởng cứ phải chạy theo,
không dám rời nửa bước, cho đến khi anh quát, nó mới chịu lên cabin. Nó xoay
cái vô lăng gỗ. Nó nắm tay chuông. Chỉ có bố cháu với các thuyền phó mới được cầm
cái này thôi cháu ạ. Cháu có thích làm thuyền trưởng như bố cháu không? Thủy thủ
trưởng chỉ vào cái tay chuông bảo nó. Nó cười: Cháu thích. Xin bảo anh: Nó
thích làm thuyền trưởng đây anh Mây này. Thích thì phải cố học. Không học chỉ
làm thủy thủ như bác đây khổ lắm. Làm thuyền trưởng như bố cháu mới sướng. Mây
bảo Xin: Không. Hai thằng con, tôi nhất định không cho đứa nào đi đánh cá. Xin
cười: Nghề của anh em mình khổ thật. Vất vả, sóng gió lênh đênh, nguy hiểm, mà
cứ rời tàu là hết tiền, về hưu lên bờ tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Mây cười ôm
lấy thằng con vào lòng, cọ râu vào má nó: Lớn lên làm nghề khác, nghe không. Và
nói với Xin: Nghề này đời cha đi làm, đời con đốt sách.
Nghe chuyện, thằng Sĩ chẳng hiểu gì. Nhưng chắc nghe bác Xin
nói, nó càng tin bố là người có học. Mây nghĩ vậy và cười. Anh nhớ đến một ngày
hai vợ chồng đạp xe về quê ngoại. Bố mẹ anh đã mất từ lâu. Xứ Quảng quá xa, rất
ít khi anh về thăm quê. Giờ đây quê vợ là quê anh. Bố mẹ vợ, anh coi như bố mẹ
đẻ. Anh đi biền biệt. Một mình chị Bấm không sao trông nom xuể được cả hai đứa
con. Cai sữa cho thằng Lê Chí Sỹ xong, anh chị phải gửi nó về quê. Ông bà ngoại
quý cháu như vàng. Căn nhà hai ông bà già từ nay có tiếng khóc tiếng cười, tiếng
bi bô con trẻ. Nó ở với ông bà cho tới khi nó đến tuổi vào lớp một. Khi nó lên
năm, để chuẩn bị cho cháu ra phố đến trường, mỗi ngày ông dạy cháu dăm ba chữ
cái, ghép vần. Tháng nào anh chị cũng về thăm quê. Khi anh, khi chị, khi cả hai
và thằng Lê Chí Dũng. Mỗi lần về, lại thấy thằng Sĩ một lớn, một khác. Nhất là
khi nó mặc cái áo thủy thủ có sọc xanh. Anh dắt tay nó đi quanh sân, ra vườn.
Hai bố con hái lá chè xanh. Chè trồng ở bờ rãnh sát những cây chanh. Sĩ dặn bố:
- Khéo không lá chanh lẫn vào thì hỏng đấy bố ạ. Không uống
được đâu.
Bàn tay thô ráp nhẹ nắm bàn tay bé xíu của con:
- Sao con biết?
- Bố cứ thử đun một nồi nước to, bỏ cái lá chanh vào mùi nó
ra hết. Con có học con biết.
Rồi nó ngước mắt nhìn anh:
- Bố có học không hở bố?
Một lúc sau:
- Mẹ có học không hở bố?
Anh trả lời bố có học, mẹ cũng có học và thật ngạc nhiên và
sung sướng biết bao khi nó đọc được truyện tranh Thánh Gióng cho anh nghe. Có
cái bản đồ Việt Nam treo trên vách, nó và anh tranh nhau đọc những tên ghi trên
bản đồ. Anh biết tất cả là nhờ công lao của bố vợ.
Một ông hàng xóm sang chơi thấy hai bố con bảo: Bố Sĩ đấy hở?
Mấy cháu rồi? Khi biết anh được hai thằng con trai, ông khách nói: Đẻ hai đứa
con gái nữa cho nó cân. Anh chị cùng cười, nhưng thằng Sĩ trả lời: Hết trứng rồi
còn đâu mà đẻ.
Cái thằng thật đáng yêu. Nó là tất cả nguồn vui của anh. Anh
yêu nó hơn mọi thứ trên cuộc đời này. Đi biển về, anh chỉ ngủ với chị một tối
trọn vẹn, còn những tối khác, chị chỉ được chiếm hữu anh một khoảng thời gian vừa
đủ rồi anh sang với nó. Để được ôm nó, nắn chân nắn tay nó. Cho nó gối đầu tay.
Nó ngủ là phải gối đầu tay. Ê ẩm. Anh càng phục chị. Mới cho nó gối đầu tay một
lúc anh đã thấy ê ẩm, đã phải chờ nó ngủ say rồi khẽ khàng rút cánh tay ra, mà
chị thì quanh năm suốt tháng, từ lúc đẻ nó đến giờ. Không, không thể thịt con
gà mái nâu được. Nhưng giữa lúc ấy, Quân đã tóm được con gà mái nâu. Hai con gà
rất dạn người. Chỉ việc ngồi xuống chìa bàn tay ra miệng kêu túc túc túc túc là
nó đến ngay. Thì từ lúc mới nở đến giờ chúng toàn được hai thằng Lê Chí Dũng,
Lê Chí Sỹ cho ăn cách ấy.
- Dao đâu? Ngồi thụp xuống sân, Quân Rỗ ngước mắt nửa đùa nửa
thật hỏi Mây.
Mây đau khổ:
- Không được đâu. Của thằng Lê Chí Sỹ. Để nói bà ấy làm mấy
quả trứng vậy.
- Không được. Ai lại ăn trứng gà của nó. Không được chứ. Sai
chứ.
Và bắt chước giọng mếu máo của thằng bé con: "Chú Quân
ăn mất trứng gà của cháu rồi". Nó ô danh. Không được chứ! "Thế nhà
không còn đồng nào à?"
- Xoẳn. Còn mấy chục, chiều nay mang đến trường đóng tiền học
cho hai đứa là vừa.
Quân tư lự:
- Bất khả kháng nhỉ.
- Bất khả kháng. Mai, tiền ăn sáng cũng chưa nghĩ lấy đâu ra
đây.
Con gà mái nâu được thả vẫn quanh quẩn bên bàn tay Quân. Anh
đứng lên:
- Thôi được. Vào nhà. Nhậu. Tôi đã nghĩ ra món nhắm rồi.
Hai người vào nhà. Quân nhìn lên tường và bước tới chỗ hai
cái đinh thuyền buộc dây treo võng, cái võng làm bằng một mảnh lưới ni lông
xanh:
- Nhà có kìm không.
- Có. Làm gì?
- Đem ra đây.
Cầm cái kìm chủ nhà đưa, Quân cởi dây buộc võng, lấy kìm gõ
ngang cái đinh, lay đi lay lại rồi nhổ. Một chiếc. Hai chiếc.
- Chốc tôi đóng lại cho ông.
Ra vại nước rữa sạch. Trở vào, lấy mũi dao gậy xi, vặn nút một
chai phong tê thấp, rót ra hai chén uống nước cáu bẩn:
- Uống rượu mút đinh. Ngon lắm. Làng tôi nhiều người uống rượu
kiểu này. Khởi xướng là ông Buồi Gật. Cười cái gì. Tên nghiêm chỉnh đấy. Cả
làng đều gọi như vậy. Làng nhiều ông Buồi lắm. Bất kỳ ai có con trai đều gọi là
Buồi. Ông Buồi. Anh Buồi. Buồi Gật là con ông Buồi Gân. Đến khi Buồi Gật làm
trương tuần mới được gọi là Trương Gật. Còn con ông Trương Gật là Gù có con
trai mà vẫn bạch đinh nên vẫn gọi là Buồi Gù. Tôi đã uống kiểu ông Buồi Gật rồi.
Ông thữ xem. Được lắm. Đinh nó tanh tanh như mút cái xương cá ấy ông ạ. Ông lấy
mấy quả ớt ra đây. Nào. Dô.
Cứ như một bữa tiệc linh đình. Chị Bấm từ vườn trở vào tròn mắt
kêu lên:
- Hai ông uống rượu kiểu gì thế này. Thôi. Để đấy. Chờ tôi tí
đã.
Chị lấy xe đạp ra cổng và một lát sau trở về với một bọc lá
sen đựng trong túi ni lông: một túi thịt quay. Đổ thịt quay ra đĩa, chị bảo:
- Hai ông cứ ăn uống từ từ nhá. Tôi hái thêm nắm rau muống về
xào.
Hai người uống và đều nghĩ rằng chỗ này là nữa suất tiền học
phí rồi.
Quân bảo:
- Cứ yên tâm đi. Chiều tôi sẽ có tiền đóng học phí cho hai thằng.
Tôi xuống tàu 19. Vay thằng Dân. Làm gì không được. Bà Bấm đâu. Vào đây nhậu với
hai anh em tôi. Rau cứ để đấy. Đến trưa ăn với cơm luôn thể. Bà chị thật tuyệt
vời. Bà Bấm muôn năm! Vợ ông Mây muôn năm!
- Công nhận bà ấy nhà tôi chiều tôi. Không chỉ chiều chồng mà
còn chiều bạn của chồng nữa. Giàu vì bạn sang vì vợ. Như cái Hoa vợ thằng Huy ấy
thật ô danh.
- Ông nói thế nào! Cái Hoa chiều thằng Huy hết mực đấy chứ.
Chồng bảo ngủ với giám đốc là ngủ liền. Tôi hỏi ông: Có ai chiều chồng như thế
không?
Cả hai cùng cười. Quân bảo:
- Mẹ kiếp. Vợ tôi mà chìu chồng như thế, tôi giết.
Có tiếng béc giê vọng tới, tiếng béc giê ngắt quãng,
vang vọng, sang trọng, quý tộc.
- Quán Mèo đấy. Thằng ấy phút chốc nên người. Không biết nó ở
đâu dạt về xí nghiệp.
Quân Rỗ trừng mắt:
- Ông không biết nó à. Nó là thằng trông đầm tôm ở Hà Sơn chứ
đâu. Sau thành một anh chị ở phố. Có dính đến ma túy. Thằng lái xe với thằng bảo
vệ nhà nó trông đặc nghiện chứ còn gì nữa. Đệ tử của nó thời nó buôn ma túy đấy.
- Thế thì thế nào cũng lại về mo thôi.
- Còn lâu nó mới về mo! Cứ mỗi tàu sắt xuất đi là
nhà sếp lại có thêm một thứ đồ. Lúc cái tivi, lúc cái tủ lạnh, lúc bộ dàn. Đấy
chỉ là khoản anh em mình trông thấy
thôi. Phần phong bì mới quan trọng. Nó nuôi sếp tốt thế về
mo làm sao được! Sếp cứ tưởng không ai biết gì, cứ bảo thằng cháu Hoan nhà
tôi nó mới mua. Xì! Cứ làm như thằng Hoan nhà sếp làm ăn giỏi lắm ấy.
Mây lại nghĩ về thằng Hoan, con trai lớn giám đốc. Học hành dở
dang. Tụ bạ bè bạn chơi bời. Giám đốc sợ quá vội cho đi học một lớp sơ cấp
ngành boong rồi cho xuống tàu vận tải ngoại thương, đi nước ngoài hơn năm nay rồi,
một việc như cái gai chọc vào mắt cán bộ công nhân xí nghiệp nhất là với những
người kỳ cựu, xuống tàu từ thời còn vỏ gỗ, phá vòng vây thủy lôi mà đi, giờ đây
vẫn hì hụi đánh cá và vẫn ngong ngóng chờ được làm hộ chiếu. Quân tiếp tục làm
nhiệm vụ cung cấp thông tin:
- Thằng Hoan mua gửi về! Có mà gửi cái xác nó về. Rồi ông
xem. Tôi nói có đúng không. Kỳ vừa rồi tàu tôi vào Sài Gòn chuyển tải đỗ cạnh
tàu 19, sang chơi với mấy thằng bên ấy. Thằng Định cơ công, thằng Dân báo vụ,
ông Nguyên thuyền trưởng. Lúc nào cũng thấy thằng Hoan đánh bạc. Anh em nói nó
nợ mấy chục nghìn đô rồi. Thằng ấy sẽ nghiện ma túy. Tôi bảo đảm với ông thế.
Anh em dưới tàu sẽ đưa nó vào ma túy.
Mây ngơ ngác không hiểu.
- Sếp ăn dữ quá. Chúng nó ức. Chúng nó sẽ đưa thằng Hoan vào
ma túy. Một chuyến đi Hong Kong về được là bao. Sếp xuống gặp thuyền trưởng nói
thẳng: Chuyến này tàu lo cho hai trăm triệu nhé. Ông Nguyên ngơ ngác: Báo cáo
giám đốc... Chưa kịp nói hết câu, sếp đã bảo: Một con tàu chuyến này đi Hong
Kong, chuyến sau đi Nhật, chuyến sau nữa đi Singapore mà không có lấy nổi hai
trăm triệu thì đi làm gì. Để người khác đi. Trên bờ người ta đã lo hết cả rồi.
Hải quan, công an, quản lý thị trường, lo hết. Lại còn hàng hóa, hợp đồng, thủ
tục, không phải động chân tay. Hai trăm triệu chứ ba trăm triệu cũng phải nôn
ra. Thế là anh em lại phải đóng góp. Đây chỉ là khoản đóng góp đột xuất thôi.
Các chuyến khác thấp hơn nhưng vẫn phải bảo đảm chỉ tiêu.
- Chết. Chết. Mây lại thở dài. Cũng phải thôi. Sếp về đây là
đã phải chi rồi. Bao nhiêu người nhăm nhe cái chức này nhưng sếp đánh bật ra hết.
Tiền tấn. Chi dữ rồi. Phải hoàn vốn chứ. Lại còn phải tích lũy, còn phải tiếp tục thăm
nuôi. Ông Nguyên xuống tàu làm thuyền trưởng cũng phải thu hồi vốn, cũng
phải thăm nuôi. Đâu phải một mình sếp. Còn các phó giám đốc. Còn tổ
chức. Còn công đoàn. Nghĩa là phải thu của anh em. Chỉ chết cánh chân đất. Chết
thằng cu li lao động.
Quân cười:
- Còn lâu chúng nó mới chết. Có mình chết thì có.
Mây nghĩ đến giám đốc, đến dáng người thấp đậm, khuôn mặt đầy
đặn vương trượng của giám đốc, đến những buổi họp cán bộ chủ chốt, đến hội nghị
công nhân viên chức, sếp lên nói chuyện. Sếp toàn nói về những điều to lớn hệ
trọng, về toàn tâm toàn ý xây dựng xí nghiệp, xây dựng chủ nghĩa xã hội, về
năng động sáng tạo, về chống lãng phí tham ô, về phát huy tinh thần làm chủ, đấu
tranh xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nói mà không hề ngượng nghịu,
không hề vấp váp.
- Giá các ông ấy cứ ăn nhưng đừng giảng đạo đức cho mình thì
dễ chịu hơn.
- Cái tài của các sếp chính là chỗ ấy. Có thế mới làm sếp được.
Ông chưa biết đấy thôi. Đấy chỉ là một nguồn thu. Còn nhiều nguồn thu lắm. Thằng
Quán Mèo chẳng hạn. Tháng trước nó mượn đâu được cái Mercedes, đem theo hai va
li tiền đưa sếp với chánh văn phòng đi xuyên Việt. Nhất dạ đế vương. Thì chính
chánh văn phòng nói tiếc quá không biết nó mang hai va li tiền mà tiêu. Thành
ra chuyến đi chỉ tiêu của nó bốn chục triệu.
Chú thích:
1. |
Ba si đế: Rượu. |
Lộc: Rau thơm, lá non ăn kèm. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét