Biển và chim bói cá 2
VI
Rượu cứ rót. Rượu thuốc ngăm ngăm nhưng cũng bừng bừng. Món
thịt quay mềm, bì giòn tan. Khi chị Bấm mặt đỏ ửng bưng đĩa rau muống xào vào,
Mây xúc động rưng rưng:
- Mình ngồi đây, uống với anh em tôi cho vui.
Quân cũng chèo kéo nhưng chị Bấm nhất định không ngồi, chị bảo
còn phải nấu cơm trưa, hai thằng nhỏ sắp về rồi. Mây nhìn dáng đi ra đi vào tất
bật của vợ mà thương quá:
- Bà ấy lấy tôi toàn là vất vả. Cái tivi cũng mới có tháng
trước. Mình cũng chẳng có tiền mua. Một thằng lính của mình ngày trước đi tàu
nước ngoài cho, giả tiền không lấy. Cũng chẳng riêng gì mình. Cả xóm này trước
đây ai có tivi ngoài ông Quán Mèo. Cứ tối cả xóm đổ xô đến nhà Quán Mèo. Chỉ
vài người lớn dám vào nhà nó. Còn toàn trẻ con. Cứ đứng cửa. Nó phải ra mời
vào.
Chè nước. Lại cả thuốc lá nữa. Bọn này không hút. Chỉ hút thuốc
lào. Xì bẩn cả nền đá hoa nhà nó. Về sau dáng chừng cu cậu sợ bẩn. Lại mất thời
gian, mất tự do nữa chứ. Thế là sắp bảy giờ nó đã đem cái ghế kê giữa ngõ, đặt
tivi lên, câu điện ra, rồi khóa cửa đi chơi. Trẻ con thì chưa Bông hoa nhỏ 1 đã ngồi dài ra cả rồi. Tôi chỉ nghe thời sự
với cải lương. Bà vợ tôi thì phim. Bây giờ nhà nào cũng có tivi mới hết cảnh ấy.
Tôi là thằng có tivi sau cùng. Một hôm thằng Ân đến chơi. Nó cho mấy trăm với
chai rượu Ông cụ. Nó bảo nhà anh chưa có tivi à? Thế là nó cho một cái. Từ ngày
có tivi vợ con không phải đi xem nhờ nữa. Cám ơn thằng Ân quá.
Rượu cứ rót. Rượu thuốc cũng say. Mây gục đầu xuống bàn. Một
lúc sau ngẩng lên, chém mạnh tay vào mặt bàn, rồi cất giọng buồn rầu:
- Giám đốc không hiểu tôi.
Quân cười:
- Giám đốc hiểu đồng hương quá rõ nên đồng hương mới thế này
đồng hương ạ!
Rồi nhìn ra cửa ngó trước ngó sau, thì thầm vào tai Mây:
- Giám đốc biết cả chuyện ông nhìn thấy giám đốc ngồi như Tây
với cái Hoa đấy.
Mây giật thót, tỉnh hẳn rượu:
- Chết mẹ. Thật không? Ai nói ông biết?
- Ông Nguyên chứ còn ai. Chính ông Nguyên thuyền trưởng tàu
19 chứ còn ai.
° ° °
Vụng Ngọc bốn chung quanh là núi đá. ơ Vụng Ngọc không nhìn
thấy chân trời. Cửa vào rộng, trông về hướng nam. Đứng chắn ở cửa là một hòn
núi đá đơn độc giống một chiếc hài nằm trên sóng vỗ. Bác Sĩ kể cho tôi nghe sự
tích hòn núi đó. Nó tên là Núi Hài. Có một hôm các nàng tiên trên trời rủ nhau
xuống biển tắm. Đã đến giờ phải về nhưng một cô tiên còn mải mê vui đùa bơi lội
nên lên bờ sau cùng. Khi tất cả đã bay về trời, cô tiên này mới mặc xong quần
áo và xỏ hài bay lên. Vừa bay thì một chiếc hài rơi xuống biển. Đã hết giờ, cô
không dám quay trở lại nhặt hài. Chiếc hài đó là ngọn Núi Hài chơ vơ giữa biển,
chắn sóng cho Vụng Ngọc. Từ trong vụng nhìn ra chẳng thấy chân trời đâu, chỉ có
sóng biển xanh đập vào vách đá Núi Hài trắng xóa. Và sóng xô vào vách núi cửa vụng,
dựng đứng, bắn tóe những bọt nước. Trong vụng rất nhiều tàu nhiều thuyền. Những
tàu thuyền đánh cá tôm quanh đây đã tập trung cả ở vụng Ngọc. Biển động. Hôm
qua sóng êm biển êm là thế mà hôm nay biển động. Đúng như bác Sĩ chú Hồng nói.
Có những con tàu sơn xám cũ kỹ. Những con tàu như tàu của bố tôi nhưng không có
càng xòe ra hai bên. Họ không đánh tôm. Có những con tàu rất to, sơn đỏ, cần cẩu
như một cái cổng chào. Tàu nào cũng có những chiếc thuyền nan dập dềnh bên cạnh.
Trên thuyền phần lớn là phụ nữ. Đó là những thuyền đi bản hoa quả, đi mua cả
như hai chiếc thuyền đã đến tàu của bố tôi. Trong vụng còn có một loại thuyền
nan nữa, loại thuyền không đi đổi hoa quả, mua cả, mà chuyên chở những người dưới
tàu, từ tàu vào bờ, hoặc từ tàu này sang tàu khảc. Vụng rất rộng và êm ả. Nóng
nữa. Ngoài kia gió là thế, sóng là thế mà trong này chỉ lăn tăn. Chú Hồng, bảc
Suất, chú Quẹn, chú Đỉnh rủ nhau vào bờ. Thấy vậy tôi cũng đi theo. Tôi muốn biết
ở cái bến xa xa với những mải nhà thâm thấp cây cối mọc nhiều kia có những gì.
Và đằng sau những mải nhà ấy, đằng sau những cây cối ấy có gì nữa. Cả những ngọn
núi đả nhấp nhô xanh đen phía xa. Nếu bây giờ không đi sẽ chẳng bao giờ tôi có
dịp đặt chân đến. Thoảng một chút ngần ngừ. Bốn người nhìn nhau dò hỏi. Tôi
không hiểu ra sao. Đã định không đi. May quả, chú Hồng cười, gật đầu. Rồi chú vẫy
một chiếc thuyền nan. Chúng tôi tụt thang dây xuống thuyền. Cô lải đò quần ảo bạc
phếch gầy gò đen nhẻm, tóc xơ xảc im lặng chèo. Chú Hồng bảo tôi:
- Taxi của thủ trưởng đấy mày ạ.
Chiếc "taxi của thủ trưởng" lướt đi khả nhanh, thẳng
hướng vào bến. Gió mảt. Chú Quẹn phanh ảo bảo: Xuống đây còn đỡ. Trên quan tài
sắt chảy mỡ ra. Thuyền cập bến, tất cả chúng tôi nhảy lên, leo một cái dốc xoai
xoải là tới đường cái. Một con đường rải đả, phía vụng trổng nhiều cây còn phía
trong là một dãy hàng quản có treo biển: Cà phê giải khảt, hàng cơm, cắt tóc, gội
đầu thư giãn,... lèo tèo nhưng nó làm tôi ngạc nhiên, không ngờ ở một vụng
hoang vắng ngoài đảo này mà cũng có nhiều hàng quản như vậy.
Cửa hàng nào cũng gọi chúng tôi. Gọi đúng tên từng người, tất
nhiên là trừ tôi. Chúng tôi vào một quản cà phê giải khảt. Nóng quả. Không có
điện không có quạt. Nhưng cốc nào cũng đầy ắp nước đả. Tôi nêu thắc mắc ấy với
chú Hồng. Chú Hồng bảo: Mày cứ hỏi vớ vẩn. Đả cảc tàu thiếu gì. Ba cô gái trẻ mặc
quần soóc bó từ phía trong bước ra. Em chào anh Suất. Em chào anh Hồng. Em chào
anh Đỉnh. Em chào anh Quẹn. Em chào anh... anh gì nhỉ? Anh chưa biết tên. Bảc
Suất bảo: Thằng con anh đấy. Nó còn đang đi học. Cả ba cô reo lên. Anh Suất có
con lớn thế này rồi cơ à? Đẹp trai quả. Mà không phải rồi. Không được nói dối.
Anh Suất làm gì có con trai. Bốn vịt giời chứ làm gì có con trai. Một cô vò đầu
bảc Suất: Nói dối ai chứ nói dối chúng em sao được. Tôi xấu hổ quả, không dảm
nhìn ai, lại càng không dảm nhìn cảc cô. Nhất là khi cảc cô vây quanh năm chúng
tôi. Những chiếc ảo chẽn như nhô ra, những đôi chân trần cứ sảng lóa ngay trước
mắt tôi. Và mùi quần ảo, son phấn... Tôi rất hối hận đã lên bến. Tôi đã gây nên
một tình huống khó xử và chỉ muốn độn thổ đi cho rồi. Làm một hơi cạn cốc nước
mảt, tôi đứng dậy:
- Cảc chú cảc bảc ngổi đây. Chảu đi ra ngoài một lảt. Nửa tiếng
nữa chảu quay lại.
Và bỏ ra ngoài. Nửa tiếng. Tại sao tôi lại nói nửa tiếng. Tôi
cũng chỉ có thể lang thang ở cái phố đảo này nửa tiếng là cùng. Xem ra cũng chẳng
có gì. Với lại hình như nửa tiếng là thời gian cần thiết tôi vắng mặt ở cái quản
cà phê giải khát ấy. Tôi đi mà không biết mình đi đâu. Đầu tôi vảng ù. Ấn tượng
về các cô gái trẻ (chắc chỉ hơn tôi vài tuổi và không cao bằng tôi) vây quanh,
mùi son phấn vừa lạ vừa thơm của họ như còn quanh quẩn bên tôi, bám vào người
tôi, nói với tôi về một thế giới tôi chưa hề biết. Thế giới ấy đã gần tôi lắm.
Tôi đã ngửi thấy hơi của nó. Thế giới ấy đang diễn ra trong quán cà phê giải
khát tôi vừa bước ra. Tôi vừa đi vừa nghĩ trong mùi nước mắm ngào ngạt, mùi cá
phơi được nắng thì có tiếng gọi tên tôi. Tôi quay lại: Chú Hồng. Chú Hồng chạy
theo tôi: Thằng cu! Chờ chú. Hai chú cháu đi bên nhau chẳng nói một câu. Tự nhiên
tôi đi sát vào chú Hồng vai chạm vai và ngước nhìn chú: Tôi đứng đến tai chú.
Chú chẳng cao hơn tôi bao nhiêu. Thế mà mọi người nhìn tôi như một đứa trẻ con.
Tôi cũng luôn nghĩ mình là một đứa trẻ con. Chúng tôi đi sâu mãi vào trong đảo.
Đường vắt ngang sườn núi. Đi trên đường nhìn xuống thấy một thung lũng lúa đang
lên xanh. Nhiều nhà dân mãi xa. Thấy xí nghiệp nước mắm. Thấy một công trường,
có cả cần cẩu, xe ô tô và rất đông người làm việc. Chú Hồng bảo:
- Công trường xây dựng khu du lịch.
Tôi nói:
- Chú cháu mình về đi. Trưa rồi.
Tôi muốn nói "quá nửa tiếng rồi" nhưng lại thôi.
° ° °
Bữa rượu đang đến độ, nghĩa là hơi men bắt đầu ngấm, cuộc vui
còn nhiều hứa hẹn, rượu còn gần bốn chai, gói thịt quay còn già nửa, món rau muống
xào cũng vẫn còn thì Đay, Fa Ra Đay đến. Nhìn dáng người cao lớn, cái lưng cánh
phản, khuôn mặt nổi những múi thịt, chiếc cằm lẹm bên dưới cặp môi mỏng dính của
Đay, Mây và Quân đều thất vọng. Họ không muốn có ai ngồi vào mâm rượu với họ
trong lúc này, lại càng không phải Đay. Dù Quân chưa bao giờ đi cùng tàu với
Đay, dù Mây là thuyền trưởng còn Đay là máy trưởng kiêm bí thư chi bộ tàu Mây.
Cả xí nghiệp ai chả biết Đay. Đay ngồi chỗ nào là tất cả mọi người ở đấy đều biến
thành người nghe, chỉ một mình Đay nói. Bởi Đay luôn đúng, luôn biết tất cả.
Không chỉ giỏi lý luận nhất khối tàu, Đay còn là nguồn cung cấp mọi thông tin
trên giời dưới biển. Đề tài gì Đay cũng có thế chen vào và trở thành người dẫn
dắt câu chuyện. Thậm chí việc khai thác là của thuyền trưởng, nhiều khi Đay
cũng nhảy xổ vào góp ý. Mây ao ước có một máy trưởng như Cải bên tàu Bôn. Hơn
chục năm làm máy trưởng, Cải chưa một lần chịu gãy chuyến biển. Và lúc nào cũng
tận tình làm theo ý đồ khai thác của thuyền trưởng. Đay cũng hăng hái đấy nhưng
còn lâu mới được như Cải. Đang mùa cá, mà Đay có công có việc bận ở nhà, y như
rằng máy tàu còn nhiều chuyện, chưa thể đi được. Phải ít nhất ba ngày nữa bố
ơi. Còn cái ắc đỡ li hợp, bình thường năm ngày, làm ngày làm đêm cũng ba ngày.
Khi cái bơm nước làm mát, khi mấy cái răng gạt cáp... Tàu sửa chữa, Đay cứ
khoán mặc anh em trên phân xưởng, phóng xe đi đâu miết. Mây đã có lần góp ý với
Đay là phải quan tâm đến anh em thợ một chút, đối với lính tráng phải niềm nở
ân cần. Nó mượn cờ lê, nó mượn cái ống tuýp để bắt vào cờ lê mình phải lấy cho
nó, nó mượn cưa, có ngay. Đay vặc:
- Quan tâm thế nào? Cười à? Chào anh à? Ừ thì cười, chào. Có
khi nó còn chửi cho đấy. Trách nhiệm nó sửa thì nó phải sửa.
Mây nhẹ nhàng:
- Trách nhiệm của nó là đúng rồi. Còn vấn đề tình cảm nữa.
Tôi nói ví dụ như cái gối đỡ. Đáng lẽ sửa thế này. Nó lại sửa thế này. Bảo nó.
Nó bảo tìm tổ trưởng mà nói. Tổ trưởng bảo làm thế tôi làm thế. Tìm được mấy
ông tổ trưởng mất nửa ngày. Thế nhưng thông cảm với nó, nó sửa ngay.
Đay xùy một cái rõ dài:
- Ông cứ nịnh chúng nó, chúng nó hư đi. Chúng nó làm thì
chúng nó có lương. Cứ đúng nguyên tắc tôi làm.
Thấy Đay, cả hai cùng a lên một tiếng và cùng săm sắn: Ngồi
đây. Ngồi đây. Không hẹn mà gặp mới thích. Chị Bấm vội lấy thêm bát đũa. Không
khách khí, Đay ngồi xuống mâm ngay:
- Đang thèm rượu, hai hôm nay không có tí gì vào họng. Ừ. Có
lẽ mình cũng phải cầm quyển y bạ lên y tế mới được. Sáng kiến của ông Mây hay
ông Quân đây.
Chưa bao giờ Mây thấy Đay có khuôn mặt rạng rỡ tươi vui như vậy.
Vui từ trong lòng vui ra, một niềm vui không giấu được. Có chuyện gì thế nhỉ?
Nhưng thôi, không hỏi. Hãy để Đay tự nói ra. Đặt chén rượu đã uống cạn xuống
mâm, Đay ngước cặp mắt sáng ngời nhìn hai người bạn:
- Khốn nạn đã biện cái lễ lên giám đốc xin tranh thủ đi chuyến
nữa tăng thêm sản lượng cho xí nghiệp mà không được. Rách quá.
Quân cười:
- Cái lễ của các ông làm ô nhục cả giám đốc ra. Giám đốc đâu
nhận cái lễ như vậy. Nhưng mà này tôi hỏi thật nhá. Ông Mây nói ông nhận với
giám đốc là có ăn cắp cá, nhưng ông ăn cắp có văn học. Thế là thế nào? Ông
nói cái ăn cắp có văn học của ông như thế nào cho tôi nghe.
Tất cả cười. Chị Bấm vừa lấy cái đĩa đặt nắm rau kinh giới mới
rửa còn ướt đẫm nước từ sân bước vào cũng không nhịn được cười. Quân tiếp:
- Mà sao ông lại buổi dải thế?
Chị Bấm đỏ rừ mặt vì câu nói tục tĩu của Quân. Chưa trả lời
ngay, Đay làm tiếp một chén rượu nữa rồi nhăn mặt:
- Tôi không thích món rượu thuốc này. Bí quá phải uống thôi.
Còn cái ăn cắp có văn học là như thế này: Đại loại như bảo thằng cấp
dưỡng chiều nay anh không ăn cơm tàu, làm cho anh mấy khúc cá ngon anh mang lên
phố ăn trên ấy. Thế là báo cáo hai anh, một chị cá song đầu nó to phía trên bụng
thì rỗng, tôi lấy mấy khúc dưới, khúc dưới chứ không phải khúc đuôi, nó
đã sỏi vẩy rửa sạch rắc muối đàng hoàng chỉ việc gói ni lông đem đi
thôi. Bảo vệ có hỏi cũng cứ nói thế với lại chính sách nào đi bắt cá muối. Cũng
có khi bảo thằng thợ máy nhặt mấy con cá ngon sỏi vẩy cẩn thận mổ bụng xắt khúc
tinh tươm, làm vài con mực nang to lột mai rữa ráy sạch sẽ cho vào túi xách về.
Tất cả đều công nhận đúng là cách lấy cá của Đay có văn học.
Đay trợn mắt:
- Cứ thế cho nó đàng hoàng. Công khai. Không chui lủi giấu giếm.
Mình là thằng thủ trưởng. Sao phải chui lủi giấu giếm. Anh em biết nó khinh
cho. Như ông Thai thuyền trưởng 401. Mấy thằng thủy thủ, mấy thằng thợ máy đến
nhà thủ trưởng chơi, thấy hai con cá hồng dài tổ bố, mỗi con hơn chục cân nằm
đoàng đoàng ngay cữa bếp. Thế thì còn nói làm sao ăn làm sao bây giờ. Mình
ăn nhưng còn phải nói. Đâu chỉ có ăn. Mình là thằng cán bộ, còn có trách
nhiệm nói nữa chứ. Cho nên cứ phải đàng hoàng.
Lại một đòn gì với ông Thai nữa đây. Hẳn ông Thai mới vướng
chuyện gì với Đay, nếu không đã chẳng có việc rêu rao hai con cá hồng thế này.
Nhưng là chuyện gì? Cũng có thể không có chuyện gì mà chỉ tỏ ra việc gì cũng biết
đấy thôi. Quân cười:
- Ông ăn thế còn nói làm sao được? Xấu hổ
chết. Chúng nó cười cho.
Đay chìa chén rượu về phía Quân, cười lớn:
- Cạn với ông một chén. Câu hỏi của ông rất thẳng thắn. Tôi
cũng xin trả lới thẳng thắn. Phải không biết xấu hổ. Làm gì mà xấu hổ. Cứ nói.
Nói hăng. Thì ông Mây đây cũng thế. Ông lên làm thủ trưởng cũng thế.
Ai làm thủ trưởng cũng thế. Chúng nó thừa biết nhiệm vụ mình
phải nói thì mình nói. Mình biết nói chẳng ai nghe nhưng cứ nói. Làm thủ trưởng
không thể không nói. Nói giữa hội nghị. Lên bục nói. Cho mọi người bên dưới
cùng nghe. Không được vấp váp. Biết mình nói một đằng làm một nẻo, nên lại càng
phải nhiệt tình. Ông Thắng cũng vậy. Sếp của ông Thắng cũng vậy. Ai cũng thế tuốt.
Đâu chỉ mình mình. Nhưng chỉ vài ba người ngồi riêng với nhau tốt nhất là nói
thật. Trên dưới đều cùng một hội. Cho nên ông Thắng rất thích tính thẳng thắn của
tôi. Tôi lên là pha chè ngay. Ông ấy bảo tôi phê bình ông ấy. Tôi nói thủ trưởng
khôn lắm đấy. Ông ấy bảo thế nào là khôn. Tôi bảo phê bình phải đúng lúc đúng
chỗ, cũng như thấy tôi, anh hỏi em ăn cơm chưa? Báo cáo anh ăn rồi. Chốc vào
anh uống nước nhé. Thế là thằng bé biết có vấn đề gì rồi đây nhưng vẫn đến. Đến
mà thoải mái vì anh bảo đến uống nước cơ mà. Chén thứ nhất không nói gì. Chén
thứ hai, chén thứ ba xong anh mới bảo sao mày lại nói tao như thế, ô hay ngày
nào mày cũng phải nói một câu lung tung à? Sao không góp ý thẳng với anh?
Hình như đoạn này đã là không có thật rồi, bao năm sống với
nhau, Mây quá hiểu tính Đay, tuy nhiên anh vẫn hỏi:
- Câu gì? Nhưng mà câu gì? Ông nói ông Thắng câu gì mà ông ấy
bảo lung tung?
Đang cười, Đay bỗng thay đổi hẳn nét mặt, vừa quan trọng vừa
nghiêm túc:
- Không được. Không nói ra đây được. Dù là các chiến hữu cũng
không nói được. Cho qua. Tổng giám đốc lại bảo ngoài điều ấy ra còn gì nữa nào.
Cứ nói thẳng đừng loanh quanh, điện cứ chạy thẳng bắt trực tiếp không qua tăng
phô biến thế giảm xuống 110 làm gì. Cứ 220 chạy thẳng. Anh cứ nói thế, thẳng
cũng có mức độ. Có khi hai trăm hai. Có khi chỉ còn trăm sáu, trăm rưởi. Lại
cũng có khi chỉ còn sáu mươi, tám mươi thôi. Chúng tôi như quả trứng trong tay
anh. Các anh mở tay thì còn. Nắm tay thì xây xát mà bóp thì vỡ. Các anh hiểu
cho thì được. Các anh thành kiến không dùng thì cho chúng tôi đi. Chúng tôi lao
động được, gánh gồng được, đi biển được, ở bờ được mà theo con trâu vặt ra vặt
vào cày cắt tám cắt bốn cũng được. Thậm chí làm anh cầm bút đề phong bì, dán hồ
văn thư cũng được, chẳng mơ ước cao siêu gì. Có thủ trưởng mới mộng cao cục vụ
thứ trưởng bộ trưởng, chứ chúng tôi không. Mà mộng ấy của thủ trưởng là có cơ sở.
Này nhé phó tiến sĩ ngành mình ít, đảng viên lâu năm ít, thủ trưởng được cả
hai. Thủ trưởng lại chỉ có hai đứa con, anh lớn đã đi làm, còn một cháu gái bé
thủ trưởng nuôi cháu cũng như nuôi con họa mi thôi, không như anh em chúng tôi
vất vả lắm.
Tiếp tục hỏa mù đây. Chắc là có dính dáng đến chuyện xuống
tàu vận tải nước ngoài. Nói vậy để tô vẽ cho mình, rằng mình là người xuống tàu
ngoại thương khác với mọi người, rằng mình với tổng giám đốc có một quan hệ
thân tình, đặc biệt. Quân hỏi một câu mà anh biết sẽ làm cho Đay sướng:
- Thế không đề nghị giám đốc cho xuống tàu đi nước ngoài à?
Đúng là Đay sướng. Khuôn mặt da thiết bì sạm thế mà cứ ngời
lên:
- Có đề nghị cũng chẳng được. Cũng chỉ là thử phản ứng sếp
thôi. Như thử phản ứng penicillin ấy. Sếp bảo tớ thích tính cậu thẳng. Tôi bảo
không, tôi có thủ đoạn đấy. Thủ đoạn kinh tế, thủ đoạn kỹ thuật, thủ đoạn với
trên, thủ đoạn với dưới, đủ cả. Thế là thế nào? Thưa anh thủ đoạn kinh tế là
tôi phải biết xoay xỏa chứ cứ đợi xí nghiệp thì có khi sặc gạch. Râu con mực mềm
luộc ăn giòn thế mà quăng thì vướng lung tung, vướng hết, kéo đổ cả đấy. Tôi
không móc ngoặc cho tôi. Tôi móc ngoặc vì xí nghiệp. Thủ đoạn kỹ thuật tôi cũng
làm. Còn thủ đoạn với trên là gì? Là thành thật. Khôn ngoan chẳng lọ thật thà.
Lòng vả cũng như lòng sung. Tổng giám đốc cũng là người. Với lại giấu sao được
tổng giám đốc. Như hôm nọ lên xin tổng giám đốc cho đi chuyến nữa để tăng thêm
sản lượng cho liên hợp là không thành thật. Thất bại ngay. Đừng có làm xiếc với
lãnh đạo. Lẽ ra phải nói thật: Báo cáo anh nằm bờ lâu ngày khô quá. Khô như mực
ống phơi ba nắng giời hanh ấy. Bản thân thế nào chịu cũng được. Còn vợ còn con.
Vợ muốn mua cái áo cho con, không có tiền. Bố về không có cá, các con ra đón vẫn
chào ba ạ nhưng không được nhiệt tình cho lắm. Cơm không có cá, các chiến sĩ ta
uể oải hẳn đi. Cứ nói thế rồi mới nói đến thiết bị máy móc, kết hợp ba lợi
ích... Sếp cười rất khoái rồi hỏi còn thủ đoạn với dưới là thế nào? Báo cáo anh
cái ấy anh biết quá rõ còn gì nữa. Làm to thủ đoạn to làm nhỏ thủ đoạn nhỏ, tóm
lại cũng là sự động viên hứa hẹn vẽ ra một tương lai tươi sáng thôi.
Mây hỏi:
- Ông nói với sếp thế thật à?
Gắp miếng thịt quay cho vào miệng nhai, Đay trừng mắt:
- Còn hơn thế nữa ấy. Nói cả chuyện tôi muốn làm thằng cấp dưỡng
tàu. Sếp bảo tại sao. Tôi bảo đấy là người sướng nhất tàu cá. Ngày hai bữa cơm
cùng lắm là thêm một bữa mì đều làm trong nhà, mưa không đến mặt nắng không đến
đầu. Cái ấy không nói làm gì, trên tàu nhiều người như thế, thuyền trưởng, báo
vụ, tổ máy chúng tôi chẳng hạn. Sướng là chỗ khác cơ, thằng cấp dưỡng tàu đứa
nào cũng khẳm, thuyền trưởng máy trưởng chống gậy sắt đuổi mòn gậy mà
đã kịp nó à, báo cáo thủ trưởng, trước hết gạo em cứ nấu hết tiêu chuẩn bảy lạng
ăn hết hay không, mặc, còn thừa em sấy, cho vào máy, sấy nhanh lắm chóng khô lắm,
đóng bao mang về nghìn rưỡi một cân cơm khô mà giá gạo này nghìn rưỡi sao được,
một chuyến vài bao cơm khô. Rồi đến nước gạo, nước gạo tàu cầm chắc năm trăm một
cân các bà ưng ngay, thùng đầy là một tạ đấy thủ trưởng ạ...
Chuyện này có thể thật, Mây cằn nhằn:
- Ông nói thế, gay cho cánh cấp dưỡng rồi.
- Không. Để sếp biết, quan tâm hơn đến thuyền trưởng máy trưởng
thôi. Tôi mà nói hết sự thật thì thằng cấp dưỡng chết, thằng cấp dưỡng toi. Nó
còn bao nhiêu thứ nữa chứ. Chẳng hạn như cá thu, cá song cứ chặt ra kho, ăn
không hết em làm ruốc. Nhiều cá ít cá đêm hôm lưới rách máy hỏng kệ em không biết,
cứ hai bữa em làm xong là em phì phèo thuốc lá quần ca dô đánh tú lơ
khơ, lại quần ca dô mới chết chứ, nhưng tối kéo lưới em cũng ra nhặt
dăm con tôm he, em không ăn mì đêm, em nhặt mấy con cho cháu, thì thằng nào
ghen tị với thằng cấp dưỡng về mấy khúc cá thừa mấy con tôm vãi. Ớ biển thế, về
bờ thì sao? Sáng sớm ông ấy đã xong xuôi cơm nước rồi, mình ngủ dậy nhìn lên bảng
đã thấy cơm trong nồi, cá kho trong chạn, canh chua ở bếp, 3 mâm 4, 1 mâm 3, 1
mâm 2, các đồng chí tự giác lấy, ông ấy biến rồi, một bao lên chợ rồi, vất đi
cũng dăm bảy cân, cứ tính mười nghìn một cân thôi, mười nghìn làm sao được,
toàn cá ngon rẻ cũng phải mười hai nghìn, đấy là bán buôn cho người ta đấy, đến
trưa đang ngủ đã nghe tiếng chặt bồm bộp, bố ấy đã làm cơm chiều rồi lần này
không bao nữa mà cặp lồng, cá ngon xắt khúc cho vào cặp lồng thì bao nhiêu, vài
cân đấy, mình ngủ dậy đã thấy chữ đề trên bảng mấy mâm bốn mấy mâm ba mâm hai,
đấy là tăng hai, tăng ba là chiều tối nấu một cặp lồng cá nữa đem đến mấy bà
bán bún riêu, bảo vệ có hỏi cũng chả làm sao, chính sách không đề ra bắt cá
chín, chỉ cá sống chứ cá chín thì ai bắt làm gì mấy khúc cá nấu vớ vẩn. Một
ngày ông ấy đá ba tăng như vậy là bao nhiêu? Đấy là khi tàu còn bốc cá, bốc cá
xong xuôi thì...
Đay buông đũa đứng lên, cao lớn, sù sì khoanh hai tay lễ
phép, đầu ngoẹo đi, bắt chước anh cấp dưỡng nào đó, thiểu não:
- Báo cáo anh, em nghỉ bù.
Rồi Đay cười phá lên. Tiếng cười tắt ngay, hai mắt giương
tròn:
- Thuyền trưởng máy trưởng đuổi sao kịp nó? Ông có công nhận
thằng cấp dưỡng nào cũng khẳm không? Đấy là chưa kể món chả cá không phải xay
mà chạy mô tơ cái vẩy cũng rừ.
Đay làm động tác đổ cá từ máy xay ra khay, rưới mỡ vào khay,
đút khay vào gầm lò, giơ tay ngang mặt xem đồng hồ rồi rút khay ra, lấy dao xắt
khay chả, gói và cắp vào nách. Vở kịch câm ấy Đay biểu diễn rất thành thạo khiến
ai nhìn cũng hiểu. Chị Bấm cứ cười rũ ra. Đay hất hàm:
- Một cân chả ai không biết chứ tôi là tôi bán được hai mươi
nghìn 2 mà chè chai lông vịt lắm cũng phải bốn cân
chứ nó chịu làm một cân à?
Rồi Đay lại tuôn ra một câu ngược lại, đầy bao dung làm tất cả
không còn hiểu ra sao nữa:
- Nói đi thì thế. Nhưng nghĩ cho cùng cũng chỉ là gà què ăn
quẩn cối xay thôi.
Mọi người không hiểu là đúng thôi. Bởi Đay đang vui. Đay đã
nhìn thấy sự đổi đời. Trong lúc hào hứng, hơi men đang bốc, suýt nữa Đay nói ra
cái điều Đay đã tự bảo phải giữ kín từ lúc bước chân vào đây: Tổng giám đốc đã
hứa sẽ bảo tổ chức cho Đay chụp ảnh làm hộ chiếu vào đợt tới. Mới chỉ là lời
nói. Chưa đưa được phong bì. Nên coi như hợp đồng chưa được ký. Đã điều tra:
Thông thường là một nghìn đô. Tám trăm đô cho sếp. Hai trăm đô cho trưởng phòng
tổ chức. Đay đã định liệu đâu vào đấy. Kể cả câu nói khi đưa phong bì cho sếp
cũng đã được chuẩn bị: "Cám ơn anh đã cho em có cơ hội được đổi đời. Bây
giờ em chưa xuống tàu, gọi là của ít lòng nhiều, chỉ có tí quà cho cháu. Em hứa
sẽ không bao giờ quên ơn anh". Còn trưởng phòng tổ chức là bạn học cùng
khóa, đi biển say sóng phải lên bờ, nói thế nào cho thân mật là được.
Chỉ đến khi ấy mới có thể công khai với các chiến hữu, mới
nghĩ đến bước thứ hai quan trọng không kém: biên chế dưới tàu Hạ Long 19.
° ° °
Buổi tối ở Vùng Ngọc.
Một mình tôi nằm ngửa trên nóc cabin thượng, nơi tôi đã nằm với
bác Sĩ nghe bác kể chuyện cá xà đánh nhau với cá Ông mấy hôm trước. Lúc này tôi
muốn nằm một mình. Không muốn có ai ở bên. Điều tôi vẫn nhận thấy ở mọi người
dưới tàu từ trước đẽn nay hóa ra chỉ là lớp vỏ ngoài. Mỗi người đều có hai
khuôn mặt. Bác Suất, chú Hồng, chú Đỉnh, chú Quẹn, bác Sĩ... không còn là những
người như tôi vẫn nghĩ. Còn bố? Cả chú Hùng lùn nữa? Chắc chắn bố cũng có hai
khuôn mặt. Như mọi người trên tàu có hai khuôn mặt. Bây giờ mình tin rằng tất cả
người lớn đều có hai khuôn mặt.
Tôi cứ nằm ngửa trên tấm chiếu trải ở mặt boong cao nhất của
con tàu mà nghĩ ngợi một mình. Nằm đây cũng không nhìn thấy chân trời. Chỉ một
bầu trời đầy sao úp xuống. Tiếng sóng trong vịnh êm đềm, có lẽ là từ những chiếc
thuyền nan, "những chiếc xe taxi của thủ trưởng’ chở người từ tàu lên bờ,
từ bờ về tàu hay từ tàu này sang tàu khác xô vào thân tàu. Vẫn nghe vọng về tiếng
ì ầm của biển động ngoài kia. Có tiếng nhạc từ một con tàu nào đó vang đến. Có
gió nhưng gió thổi trên cao, không thổi xuống chỗ tôi nằm. Vịnh rất nhiều tàu.
Nhiều tàu rất giống nhau, trong bóng đêm nhìn hệt nhau, từ hình dáng, kích thước,
đến chiếc cần cẩu chênh chếch, các cửa sổ cabin, nhưng cánh thuyền nan vẫn nhận
ra ngay từng con tàu khác nhau, dù không nhìn số hiệu và không bao giờ phải
loay hoay tìm gọi. Tôi đang nằm nghe tiếng sóng nhè nhẹ chung quanh thì có tiếng
đụng khẽ vào thân tàu. Một chiếc thuyền nan. Và tiếng phụ nữ:
- Anh Sĩ ơi.
Tiếng cô Nguyệt. Cả tàu đang im lặng bỗng nhốn nháo. Tôi nghe
thấy cả tiếng bố tôi, tiếng chú Hùng lùn, tiếng bác Suất, bác Sĩ. Nghĩa là cả
ban chỉ huy tàu. Và tiếng chú Đỉnh, chú Quẹn. Rồi tôi nghe tiếng máy tàu nổ.
Con tàu bỗng rùng rùng như sắp tách bến. Cần cẩu kêu. Tiếng rầm của nắp hầm cá
vất xuống mặt boong. Tôi khẽ khàng nhỏm dậy bò ra cạnh boong thượng, sát với đầu
cầu thang dốc đứng, nép vào sau chiếc trụ đèn pha phủ vải bạt nhìn xuống boong
lải. Gần như cả tàu đang đứng trên boong. Và cô Nguyệt. Ba bốn người nhanh
thoăn thoắt biến xuống hầm. Miệng hầm sáng trưng ánh điện. Mười hai lổ tôm được
đưa lên. Nước chảy ròng ròng. Trong ảnh sảng hắt lên từ dưới hầm, tôi trông thấy
những người trên boong nhanh nhẹn xếp sảu lổ tôm vào trong đụt, lổ nọ chồng lên
lổ kia. Cần cẩu quay chênh chếch sang mạn, hạ xuống thuyền. Hai lần như vậy.
Tôi không nom rõ thuyền vì nó khuất sau be, chỉ thấy cô Nguyệt nắm thang dây tụt
xuống và biến mất trong khoảng tối om. Dù đã chứng kiến chuyện bản cả ban sảng
bây giờ tôi vẫn ngạc nhiên. Sao tàu bố tôi có thể bản nhiều thế nhỉ? Cả. Rồi
bây giờ lại tôm. Có lẽ cả là sản phẩm phụ bản ban ngày, còn tôm là sản phẩm
chính phải cẩn thận hơn chăng? Liệu bố tôi có việc gì không? Tôi biết trên tàu
người thuyền trưởng chịu trảch nhiệm về mọi mặt mọi chuyện xảy ra. Tôi biết khi
tàu chìm, thuyền trưởng là người cuối cùng rời tàu và tôi rất tự hào về điều ấy.
Tôi lo cho bố. Nhưng tôi thấy mọi người trên tàu kể cả bố không có chút gì tỏ
ra lo lắng. Ngược lại, vui, phấn khởi. Bây giờ tôi đã hiểu chuyến nào tàu cũng
bản cả và cả bản tôm. Không chỉ tàu bố tôi. Cảc tàu khảc cũng vậy. Nhưng chỉ
riêng tàu bố tôi không có định mức vì là tàu khảo sảt thăm dò. Nhiều ít, không
ai bắt bẻ được. Nhưng như thế còn gì là khảo sảt là thăm dò nữa một khi mọi con
số đều đã bị làm sai lệch.
Đám đông trên boong lải đã giải tản rất nhanh cùng với sự biến
mất của cô Nguyệt. Mảy tàu tắt. Đèn dưới hầm tắt. Vụng Ngọc trở lại êm đềm. Tôi
nhìn ra cửa vụng.
Không trông thấy hòn Núi Hài đâu. Ở chỗ ấy chỉ thấy
những mảng lân tinh xô tới, chạy lên cao rồi xòe ra như một bó hoa, rụng xuống
lả tả. Cửa vụng cũng vậy. Những làn ảnh sảng xanh dựng đứng đập vào vách đả, đổ
gập. Trong tiếng ầm ầm sôi động của biển khơi ngoài kia vẫn nghe rõ tiếng sóng
Vụng Ngọc êm ả vỗ bờ. Tôi trở lại chỗ nằm trên boong thượng. Khí trời mát dần.
Một mình tôi nằm nhìn sao chi chít trên trời mà thấy vũ trụ thật vô cùng. Lại
càng thấy mình bé nhỏ cô đơn. Biết bao điều không dám nói với ai. Tôi nghĩ đến
thằng Toán. Nó có cái cằm nhọn, khi cười cằm càng nhọn. Nó ngồi cạnh tôi. Hai đứa
chơi với nhau rất thân. Nó không được vào thẳng cấp ba như tôi, vì môn văn của
nó chỉ được năm điểm rưỡi. Tiếc cái là các môn khác, nó đều đạt điểm cao. Hôm
tôi đi nó buồn buồn:
- Mày sướng thật. Đi chóng lên rồi về nhá. Nhớ có quà cho tao
và cho cả em Nhã nữa đấy.
Cái Nhã là người nó yêu. Nó nói với tôi rằng nó yêu cái Nhã
ngồi bàn trên. Cái Nhã con ông Thi giáo viên trường cấp ba. Cái Nhã bằng tuổi
nó và cũng bằng tuổi tôi, mười sáu. Nó rất thích được tôi chế nó, nói với nó về
chuyện cái Nhã. Đại loại như: Bằng tuổi nằm duỗi mà ăn. Hay: Cái Nhã là hoa
khôi của trường đấy. Rồi: Mày lấy được cái Nhã thì chẳng lo gì, cứ thế mà lên cấp
ba. Rồi vào đại học thôi. Anh chàng cười tít mắt: Tao sẽ viết thư tỏ tình chứ
không nói đâu. Mày bảo viết thư hơn hay nói hơn? Tôi cười. Tôi biết thằng này
chỉ mạnh miệng thế thôi. Thư không bao giờ viết. Nói cũng không bao giờ. Mà quả
vậy.
Trông thấy cái Nhã là anh chàng lại luống cuống lảng đi chỗ
khác hoặc giữ tôi ở lại với nó để gặp cái Nhã. Bao giờ cũng là cuộc gặp tay ba.
Còn cái Nhã thì chẳng biết gì, vẫn cứ cậu cậu tớ tớ với nó như với tất cả các bạn.
Giá có thằng Toán ở đây, tôi sẽ kể cho nó nghe bao nhiêu chuyện. Tôi bỗng thấy
mình hiểu biết hơn thằng Toán rất nhiều, "già đời" hơn thằng Toán rất
nhiều. Nó vẫn như tôi cách đây mấy ngày. Vẫn sống trong thế giới học trò, thế
giới trẻ con. Thế giới này có rất nhiều điều chúng mình không hiểu được đâu
Toán ạ. Nhưng rồi chúng mình phải hiểu. Bởi chúng mình sẽ là người lớn và sống
trong thế giới ấy.
Đêm đã khuya. Trăng lên tự bao giờ. Ánh trăng gợn gợn trong vụng.
Tiếng một con cá quẫy sát tàu. Lại tiếng sóng nhỏ nhẹ êm đềm bốn chung quanh.
Và một tiếng sóng khác vẫn êm đềm như thế nhưng to dần, sau đó một tiếng động
nhẹ vào thân tàu làm con tàu hơi cựa mình. Có một chiếc thuyền nan vừa áp mạn.
Có ai đó vừa đi chơi về. Mà đúng thế thật. Tôi nghe thấy tiếng chân hai người
nhảy từ trên be xuống mặt boong. Rồi tiếng chân bước lên boong trên. Và ngồi xuống
ngay bên dưới chỗ tôi nằm. ơ đấy có một cái thùng gỗ to, đặt sát vào ống khói,
gần với chân cần cẩu chĩa ra miệng hầm cá. Cái thùng mà tôi đã thử mở ra xem,
bên trong đựng những mảnh lưới rách, những nhợ vá, ghim đan lưới và các thứ
linh tinh khác.
- Con bé đi với ông trông khá đấy chứ.
Tiếng chú Lượng, một thủy thủ cao lớn, nước da trắng, một bên
má có một nốt ruồi đen mọc những sợi râu dài. Chú Lượng rất vui tính. Chú có
cái giọng của người chuyên hô hoán. Một buổi chiều, mọi người đang đứng ăn cơm
ngoài boong lái, chợt chú Lượng vất cái bát xuống nắp hầm cá, chỉ tay ra ngoài
biển kêu thét lên:
- Tàu cháy!
Mọi người hoảng hốt nhìn ra. Một con tàu to từ biển khơi tiến
vào, ống khói bỗng nhả ra một cục khói tròn to đen sì. Hay mới hôm qua trong vịnh
thôi. Một chiếc thuyền nan, "một chiếc taxi của thủ trưởng’ đi ngang qua.
Chúng tôi đứng nhìn theo. Chú Lượng giơ tay chào. Người chèo thuyền - một đứa
con gái trạc tuổi tôi - tưởng chú gọi chở, định ghé vào thì chú huơ tay ra hiệu
cứ đi đi. Đứa con gái chèo đi, vừa chèo vừa nhìn chúng tôi rồi nói một câu gì
đó. Chú Lượng gào lên: Nói to lên! Nghe không rõ! Đứa con gái trên thuyền buông
chèo bắc tay lên miệng làm loa. Chúng tôi nghiêng tai lắng nghe. Chẳng biết nó
nói gì. Bỗng chú Lượng ôm chầm lấy tôi, thét to: "Anh này hử?" Tôi giật
mình còn tất cả cười ầm.
- Con bé của mình trông bình thường nhưng nội thất rất được!
Tiếng chú Đài vê tê đê. Tôi biết họ vừa đi đâu về. Tôi không
muốn thuật lại câu chuyện họ nói với nhau. Tôi nghĩ đến bố. Không biết bố có
như các chú ấy không? Nếu vậy thì thất vọng quá, buồn quá. Tôi bấu víu vào một
hy vọng: Bố là thuyền trưởng. Là thủ trưởng của con tàu. Cầm cân nảy mực. Là
người rời con tàu cuối cùng khi tàu lâm nạn. Chắc chắn bố không giống các thuyền
viên khác.
- Hôm nay được năm lô, chi ái tình phí hết năm sọi. Tích cóp
đến bao giờ mới làm lại được cái nhà. Tiếng chú Đài.
- Tao chưa dám nghĩ đến nhà cửa. Kiếm ăn vặt thế này
nghĩ đến làm nhà sao được. Phải là quả cơ.
- Đúng. Phải trúng một quả gì đó.
- Chúng mình làm sao có quả gì. Gà què ăn quẩn cối xay. Mày
báo vụ còn cái cửa đi tàu nước ngoài. Chúng tao cánh thủy thủ xếp lốt đến bao
giờ.
- Không hy vọng gì đâu. Bánh vẽ đấy. Rồi lần lượt tất cả các
đồng chí thuyền viên đều được đi tàu vận tải ngoại thương, trước tiên là những
người có thành tích trong sản xuất, có thâm niên cống hiến với xí nghiệp. Nói
như trạng mẹ. Ồng Lê Mây đấy. Về đây từ ngày đầu mới xây dựng xí nghiệp, thời
tàu vỏ gỗ, có được đi không. Tao về sau ông Mây hai năm. Có được đi không. Mà
thằng Li mới về ba năm đã được đi. Chúng mình không có đạn. Cũng không có thế.
Mày biết cái thằng tàu 19 đi cái xe 250phân khối hai ống xả không nhỉ. Nó có
làm ở xí nghiệp một ngày nào đâu. Con một ông đại tá công an. Vô nghề nghiệp.
An chơi đua đòi, tiêu tiền như rác. Sắp nghiện đến nơi. Ồng bố vội nói với sếp
cho nó xuống tàu.
- Thằng Khương. Mình biết.
- Thấy ông Đáng nói nó đi mười mấy chuyến rồi, tổ chức đã làm
quyết định rút lên dự bị, bố nó viết một cái thư xuống, thế là lại đi tiếp.
- Chứ lại không à? Nó lên bờ là gay go. Nó còn đi tàu 19, bảo
đảm tàu không bị khám, không bị giết. Cũng là một thứ hợp đồng ngầm cả.
- Thôi cứ yên tâm ở đây thôi. Sống là đây mà chết cũng
- Tao tự an ủi là chúng mình vân hơn bọn đảnh cả. Bọn
chúng nó phải bảo đảm chỉ tiêu định mức.
- Cũng bản như điên. Hụt chỉ tiêu cũng bản như điên.
- Thì rõ. Nhưng không bằng tàu mình. Ồng Đảng cũng tả xung hữu
đột lắm mới giữ được bộ khung tàu đấy. Chuyến nào về chả có phong bì. Không chỉ
tổng giảm đốc đâu. Còn phòng tổ chức, còn đảng ủy công đoàn. Cái khoản mười phần
trăm tiền bản cả không chia là vào mục ấy. Ồng Đảng không xơ múi gì vào chỗ ấy
đâu.
- Ai biết đâu ma ăn cỗ.
Nghe chú Lượng nói, tôi đỏ mặt. Tôi bỗng ghét chú Lượng vô
cùng. Vậy ra là thế. Người tin bố tôi. Người không tin. Tôi tin bố. Như chú
Đài. Chú Lượng không tin bố. Thế nhưng bình thường tôi thấy chú ấy đối với bố
tôi cũng y như chú Đài, như mọi người trên tàu, chẳng có gì khảc. Có nhiều người
như chú Lượng không? Mà bố có đảng tin thật không? Người ta có quyền không tin
chứ. Có tiếng bật lửa lảch cảch. Mùi khói thuốc lả bay lên. Và tiếng chú Đài:
- Cô bé Ngã Năm của mày đến đâu rồi.
- Chẳng đâu vào đâu. Căng lắm.
- Hôm nọ thấy đèo một túi tôm he đến nhà cơ mà.
- Chuyến trước xin thuyền trưởng hai cân tôm he, với hai con
mực nang to mỗi con phải đến hai ki lô. Cho vào cái túi đem đến biếu bà mẹ. Bà
mẹ vui lắm. Không phải vì túi tôm cả ấy đâu. Mà bà mẹ rất thương mình. Rất muốn
gả con gái cho mình. Bà mẹ nói thương mình vì bố mình bị bắn chết trong cái
cách ruộng đất, mình mồ côi. Nên bà coi như con. Bà nói cô cũng nói thật với
cháu cái Liên nhà cô lấy cháu, nó không phải đi làm dâu. Cô đã đi làm dâu, cô sợ
làm dâu lắm rồi. Ba đứa con gái nhà cô, hai đứa lớn đi lấy chồng đều không phải
làm dâu. Rồi bà kể cho mình nghe chuyện bà làm dâu. Bà lấy chồng được ba tháng
thì chồng đi bộ đội. Biền biệt mười một năm mới về. Một mình bà quần quật cơm
nước hầu hạ bố mẹ chồng, các em trai em gái nhà chồng. Tổ chức cưới vợ cho hai
em trai nhà chồng, lo đám cưới cho em gái nhà chồng. Lại là dâu trưởng, mọi
công việc trong họ đều đến tay. Om cũng không được nghỉ. Ổm vẫn phải lo công việc
đồng áng. Mình ốm nhưng mẹ chồng cũng ốm. Mình phải lo cháo lão thuốc thang...
Mười một năm cháu ạ. Còn gì là đời! Cho nên cô nhất quyết lo liệu sao cho nó lấy
chồng nhưng không phải làm dâu. Cô hãi lắm rồi. Bây giờ nghĩ lại vẫn còn hãi.
Bà động viên mình cứ kiên trì. Lúc mình đến nhà, cô nàng dắt xe đạp đi. Mình muốn
về nhưng bà bảo: Cứ ngồi chơi nói chuyện với cô. Chỉ tí nữa nó về thôi. Mình ngồi
chờ. Chờ lâu. Chuyện với bà già. Hết chuyện nọ đến chuyện kia. Cuối cùng cô ấy
cũng về nhưng cứ ở dưới bếp, nhất định không lên. Chán quá, mình chào bà già,
xuống bếp chào cô nàng thì cô nàng xách túi tôm với mực ấn vào tay mình, mình
nhất định không cầm. Hai đứa giằng co đến tận cửa. Cuối cùng mình đành phải cầm.
Đạp được một quãng mình lẳng cái túi vào bụi cây ven đường, phóng một mạch về
tàu nằm vật, chẳng thiết gì đời nữa.
Hai người im lặng. Một lúc tiếng chú Đài đầy thông cảm:
- Cho nên chỉ có những lúc đến với các em là quên tất cả. Mọi
sự. Quên chuyện yêu đương Quên chuyện làm nhà. Quên cả chuyện làm việc dưới tàu
vất vả như một con chó.
- Mình vẫn không quên được cô nàng. Trong khi ôm các ả ca ve
mình cứ phải tưởng tượng đấy là Liên.
- Thế thì gay thật. Chỉ còn mỗi cách phải bám chắc lấy bà mẹ
thôi.
Chú Lượng thở dài:
- Khó lắm. Mình đi biền biệt thế này. Có nhanh cũng phải nửa
tháng mới đến được một lần. Giá làm trên bờ còn dễ...
Tôi nằm im lặng nghe. Cố không gây ra một tiếng động nào.
Cũng không sợ là mình nghe trộm chuyện người khác. Chẳng qua là không muốn làm
đứt quãng câu chuyện của hai người thôi. Nếu các chú có lên boong thượng, tôi sẽ
giả cách ngủ. Chẳng sao. Nhưng hai người không lên. Một lúc sau họ về cabin ngủ.
Tôi ngồi dậy, xuống chỗ hai chú vừa ngồi rồi quành về cabin bố
tôi trong lòng rất hồi hộp. Chỉ sợ bố tôi không có trong phòng và thở phào: Qua
cánh cửa ra vào để mở, tôi thấy bố đang nằm ngủ, một chân ghếch lên thành giường
nhô cao. Tôi biết là bố không đi đâu cả mà! Cũng như tôi biết bố không lấy một
đồng nào trong cái quỹ ngoại giao đút lót ấy. Tôi lại nghĩ đến chú Lượng Ai biết
đâu một người vui tính tếu táo thế mà mang trong lòng biết bao điều. Tôi định
trở lên boong thượng nhưng nghe thấy tiếng hai con lợn ụt ịt bên dưới. Không đi
lối cầu thang gỗ bên trong, tôi tụt cầu thang sắt dốc đứng phía ngoài đến chỗ
chúng. Khuya rồi, tất cả tàu đã ngủ nhưng chúng vẫn còn tha thẩn dạo chơi trên
boong lái. Tôi ngồi xuống. Chúng quay cả đầu về chỗ tôi, dưới ánh trăng tôi
trông thấy mũi chúng chun lại, cái đuôi ve vẩy ụt ịt ụt ịt. Rõ ràng chúng muốn
nói gì với tôi. Hai tay tôi đặt vào gáy hai con lợn và khẽ gãi gãi như các chú
trên tàu vẫn làm. Chúng thôi không ụt ịt nữa, cúi đầu ngoan ngoãn đứng im. Lợn
ơi. Khuya rồi sao chúng mày chưa ngủ. Hay chúng mày cũng mất ngủ như tao. Chúng
mày mất ngủ còn có bạn. Đêm nay tao mất ngủ đây, mà chẳng có ai trò chuyện. Bao
nhiều điều muốn nói, nhưng biết nói cùng ai. Tôi nhớ đến thằng Toán. Nhưng tôi
nghĩ nếu có thằng Toán ở bên, tôi cũng chẳng biết nói gì với nó. Tôi bỗng thấy
mình già đi chục tuổi.
° ° °
Quán Mèo biết rằng trong Liên hợp nhiều người ghét mình, nhiều
người muốn mình về mo. Chỉ vì Quán đã thoát khỏi kiếp nghèo hèn. Quán
đã trở thành giàu có, thành "tỉ phú" như nhiều người nửa đùa nửa thật
chào Quán. Không. Không bao giờ Quán về mo, không bao giờ Quán trở lại kiếp sống
khốn nạn ngày trước nữa. Giờ đây không ai có thể đẩy Quán trở lại nghèo hèn khốn
nạn được nữa. Các cụ nói vạn sự khởi đầu nan. Quán đã qua bước khởi đầu khó nhọc
ấy rồi. Quán không ngờ đời mình lại có lúc được như hiện nay. Một bao tải tiền.
Người ta thường nói với nhau như vậy để chỉ ai đó có nhiều tiền
lắm. Thế nhưng Quán đã có nhiều bao tải tiền. Và Quán thấy kiếm tiền cũng khó
nhưng cũng dễ. Căn bản là phải có máu liều. Phải có máu làm ăn lớn. Và phải chớp
thời cơ. Thời cơ nó đến rồi nó đi. Không thể chần chừ. Thời cơ thứ nhất làm nảy
sinh thời cơ thứ hai. Thời cơ thứ hai đẻ ra thời cơ thứ ba. Cứ như một phản ứng
dây chuyền. Và phải biết xâu các đầu mối lại với nhau, liên kết những người
cùng máu mê, chí hướng với nhau. Để tạo ra một sức mạnh tổng hợp. Người nọ dựa
uy người kia, dựa thế người kia, dựa lực người kia. Thực ra bây giờ Quán mới có
những suy nghĩ mang tính tổng kết như vậy. Chứ lúc mới bắt đầu, Quán chỉ làm
như một người đang nghèo đói ngửi thấy cửa này làm ăn được, ngửi thấy hơi tiền
mà không nguy hiểm. Nói vậy bởi Quán cũng đã có lúc làm ra tiền nhưng có thể
tiêu đời. Lúc đầu là mang thuê thuốc phiện từ mạn ngược về thành phố. Tiếp theo
là bồng thuê heroin. Được mươi chuyến sợ quá dù nhiều tiền. Đường dây vỡ. Hai
người bị bắt. Nhưng họ thực hiện lời thề khi mới cùng nhau làm ăn, không khai
ra Quán. Không chỉ một đường dây của Quán. Nhiều đường dây vỡ, nhiều người tra
tay vào còng số 8. Có cả người dựa cột 3 . Quán lại về trông đầm tôm cho hợp tác
xã. Muỗi, dĩn đốt ngứa mẩn cả người. Đã mấy lần đổ trộm tôm đem bán. Nhưng rồi
bị lộ. Quán bị đưa ra kiểm điểm ở hội nghị xã viên và bị đuổi việc.
Sự việc càng ô danh hơn khi Quán ngủ với vợ anh hàng xóm, bị
anh ta bắt được, Quán phải viết giấy nhận mình hủ hóa và cam đoan cày cho anh
ta ba sào ruộng đầm giữa trời rét đại hàn chi cực để anh ta không tố cáo trước
xóm làng. Cày thì cày nhưng bí mật vụ việc không giữ được, vẫn cứ lộ ra. Lộ vì
vợ Quán, cái con mụ mặc quần cá rô đớp. Chẳng thể tìm được lý do gì mà giữa
ngày đông tháng giá, chồng mình lại dong trâu đi cày đầm nhà hàng xóm. Hỏi thì
Quán bảo: Lão ta lười, thuê mình, mình làm lấy tiền chứ làm sao. Lại hỏi thuê
bao nhiêu, công sá ra làm sao. Quán trả lời: Thuê trả bằng thóc. Mỗi sào hai
mươi ki lô thóc. Đến vụ trả. Rồi cười với vợ, tình tứ: Nhà túng, người ta đi
làm không thương người ta thì thôi, còn hỏi. Vợ Quán tưởng thật, yên trí chồng
mình biết thương vợ thương con. Chỉ đến khi nghe tin đứa con trai bị đánh chết
tại thành phố Hồ Chí Minh, vợ Quán vừa khóc vừa sang ông hàng xóm xin trả trước
số tiền để thêm cặp đi vào lo tang ma cho con ở trong ấy, mới biết rõ đầu đuôi.
Thế là con mụ quần cá rô đớp te tái chạy về làm ầm ĩ cửa nhà, ầm ĩ xóm làng. Ôi
làng nước ơi. Ôi trời cao đất dày ơi. Có ai khổ như tôi không. Ông giời sao
không vật chết tôi đi để tôi sống làm gì để khổ để nhục thế này. Tao tưởng mày
cày ruộng thuê lấy tiền nuôi vợ nuôi con như mày nói. Ai ngờ mày đi cày cái lồn
nhà nó cho nó sướng cái buồi của mày để phải lội xuống đầm giữa mùa mưa dầm gió
bấc cày cho nhà nó ba sào ruộng. Ôi con ơi. Sống khôn chết thiêng về đây mà xem
thằng bố của con bôi gio trát trấu vào mẹ vào cả nhà con ơi...
Vừa đau đớn mất con, vừa nhục nhã công nợ túng thiếu, Quán đã
phải giở trò kiếm ăn vặt. Như đến vài người bạn bán thuốc lá vỉa hè vay mỗi người
một cây thuốc lá Vina, nói là tổ chức đám cưới cho thằng con thứ, "khổ, nó
mê con ông giám đốc ngân hàng quận, cứ đòi tổ chức, mà nghe chừng con bé bụng
cũng lùm lùm rồi, không cưới ngay có khi gay dù trong túi thằng bố nó chẳng có
đồng xu mẹ nào". Vay rồi bán ngay. Cũng lại cho những hàng nước vỉa hè.
Bán nhưng không trả gốc. Quán nghĩ có lẽ lại phải dính vào chất bột trắng thôi.
Quán đã chuẩn bị bắt lại liên lạc với đường dây cũ thì trong một bữa rượu thịt
chó, nghe một người nói công ty Liên hợp Biển Đông đang thu mua sắt vụn. Chỉ
nói vu vơ thế thôi. Nhưng trong đầu Quán đã nảy ngay ra một kế hoạch. Tại Liên
hợp Hải sản Biển Đông, Quán có quen một người. Một người bạn học thời còn học cấp
một ở làng bên tên Xuân. Quán nhớ lại một kỷ niệm giữa hai người khi còn đi học.
Trong một lần tắm ở hồ trước cửa trường, chơi trò lặn đuổi dưới nước Xuân lặn
trốn thế nào mà bị mảnh sành rạch sứt môi, máu chảy ròng ròng. Cả bọn hoảng
quá. Nghe nói chỉ có lông dái rịt vào là cầm được máu, cả bọn lên bờ, vạch vòi
khám xét nhưng chẳng đứa nào có lấy một sợi mà nhổ, mà rịt.
Kiếm bao ba số, Quán đến xí nghiệp tìm Xuân, nhưng Xuân đã
chuyển về Hà Nội làm một sếp gì đó rồi. Quán gặp trưởng phòng kinh doanh và dù
không gặp Xuân, dù Xuân đã chuyển đi, nhưng câu chuyện đi tắm với Xuân thời còn
con nít đã gây tác động không ngờ đến trưởng phòng kinh doanh vì Xuân chính là
người đã kèm cặp nâng đỡ anh ta để anh ta được như ngày nay.
- Thì toàn mười hai mười ba tuổi, làm gì đã có sợi lông nào. Lão
Xuân lớn nhất cũng chỉ mới lấm tấm.
Nghe Quán kể, trưởng phòng cười như nắc nẻ và viết giấy giới
thiệu Quán đi các nơi: quân đội, giao thông, miền núi. Bên giao thông, Quán tìm
ra một cái sà lan bẹp. Quán cùng trưởng phòng kinh doanh sang làm việc, ký hợp
đồng. Hai tháng trời Quán tổ chức cắt bóc. Quán chiêu mộ những người đang lờ vờ
không có công ăn việc làm, đang đói. Bạn của Quán. Bạn của bạn Quán. Bạn con
Quán. Bạn của bạn con Quán. Những người thất nghiệp. Những người mới đi tù về.
Họ làm như trâu. Quán cũng làm như trâu. Hai tháng trời không về nhà, lăn lộn
trên một bãi sú đầy muỗi dĩn. Cái gì chứ khoản muỗi dĩn Quán coi khinh. Chống
hai thứ này dễ ợt. Đem cái màn xô dấn nước rồi mắc lên. Chui vào trong màn nằm,
muỗi dĩn chỉ có khóc. Để có tiền nuôi đám quân gia, Quán phải dựa vào xí nghiệp.
Quán báo cáo với giám đốc, với trưởng phòng kinh doanh và tổ chức cho ba người
(cả trưởng phòng tài vụ - chớ có quên nhân vật tay hòm chìa khóa này) đến thăm
quan công trường của Quán bằng xe ô tô của xí nghiệp. Ngồi trên chiếc Mazda lún
người máy điều hòa mát rượi Quán đã nghĩ mình phải có cái ô tô như thế. Cái bọn
làm sếp này sướng thật.
Trước khi sung sướng phải gian khổ đã. Rất thích sung sướng
nhưng Quán có ưu điểm đã quen chịu khổ.
Trong thời gian hai tháng vạn sự khởi đầu nan ấy Quán gầy rộc
đi. Đợt tạm ứng đầu tiên, Quán không giữ lại gì cho mình. Giám đốc, trưởng
phòng kinh doanh, trưởng phòng tổ chức, trưởng phòng tài vụ đều có phần. Càng
không thể quên ông sếp bên giao thông. Sau khi chi lương, Quán chỉ còn trong
tay hơn triệu bạc. Đã định cầm tiền đi xả hơi, giải trí, nhịn suốt mấy tháng rồi,
đạp xe nửa đường nghĩ đi nghĩ lại, Quán quành về nhà. Quán sợ xui. Bước đầu khởi
nghiệp không dính đến món ấy. Bấm bụng chờ kết thúc phi vụ này đã. Quán đưa tiền
cho vợ, bảo làm cỗ cúng. Vợ Quán ngơ ngác:
- Hôm nay cúng ai hở bố nó?
- Mua con gà, thổi nồi xôi, thắp hương cầu xin cho công việc
của tôi được đầu xuôi đuôi lọt.
Bữa ăn, vợ Quán nhìn chồng gầy rộc, đen sạm, thương quá:
- Chừng đến bao giờ xong hở mình?
- Được nửa công việc rồi. Một tháng nữa đời chúng ta sẽ khác.
Nhưng chưa khác nhiều đâu.
Vợ Quán nghe câu tuyên bố chắc như đinh đóng cột ấy của chồng
mà tự trách mình ngày trước đã không giữ được sự ghen tuông giận giữ làm khổ
Quán. Nhưng chị không dám nói ra điều ấy, chỉ chép miệng thương xót:
- Bố nó vất vả quá.
Tối hôm ấy, hai người nằm cạnh nhau. Chị vợ ôm lấy anh chồng.
Quán hất tay ra: Để yên cho người ta ngủ. Mệt bỏ cha ra đây. Nhưng sự đụng chạm
ấy lại gợi Quán tới ý định đi vui vẻ lúc ban ngày. Tất cả những sự chung đụng với
đám gái làng chơi trẻ trung, thơm tho chiều chuộng trở lại trong óc và Quán thở
dài trở mình nằm nghiêng đưa tay ôm vợ. Vợ Quán rúc vào người Quán:
- Em thương mình lắm.
Người Quán rạo rực một nỗi thèm muốn. Quán luồn tay vào chỗ ấy
và rụt vội tay ra:
- Thấy tháng à?
Vợ Quán nói với vẻ biết lỗi:
- Bốn hôm rồi. Sao kỳ này lâu thế. Mọi lần chỉ ba ngày là sạch
thôi.
Quán thở dài trở lại nằm ngửa. Im lặng. Một lúc sau, Quán làu
bàu:
- Cái đồ lồn teo vú tóp này mà cũng lắm chuyện. Cẩn thận
không tao thay mái.
Vợ Quán xoay mình nằm nghiêng về phía chồng sợ hãi:
- Hay là anh cứ ấy đi.
Quán xùy một cái:
- Kinh bỏ mẹ.
- Cũng gần sạch rồi. Buổi chiều chỉ còn dây rớt một tí thôi.
Thật đấy. Nhè nhẹ thôi. Được đấy.
Chị vợ đã sẵn sàng. Quán với tay tắt ngọn đèn ngủ. Dù đã tối
om, nằm trên vợ, Quán vẫn nhắm nghiền hai mắt, lẩm nhẩm trong óc:
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta...
Câu cuối cùng hình như là câu thứ ba mươi mốt, Quán bỗng bật
lên trong một tiếng rên dài:
- Không phải vợ ta à à...
° ° °
Một con tàu nữa vào vụng. Con tàu sơn hai màu đỏ trắng, to, cần
cẩu như một cái cổng chào, giống hệt con tàu đã buông neo trong vụng mấy hôm
nay. Mũi tàu xẻ nước gợn gợn, thân tàu ép mặt nước trong vụng thành những vệt
sóng xòe ra hai bên làm tất cả các tàu thuyền trong vụng đu đưa. Nhiều người đứng
trên boong mũi. Những tiếng gọi nhau ầm ĩ. Có tiếng gọi tên bố. Đứng vịn lan
can ngay cửa buồng lái, bố giơ tay vẫy: Chào thuyền trưởng Đặng Việt. Tí sang
nhé! Một người đàn ông cao lớn thét to: Neo xong là sang ông đấy. Có ba sì đế
không? Còn cái gì nhắm không? Con tàu đi men vụng vào đỗ phía trong, gần sát bến.
Những đợt sóng vẫn lan tỏa. Những chiếc thuyền nan trong vụng nâng lên hạ xuống
dập dềnh như đang trên biển. Chỉ lát sau, thuyền trưởng Đặng Việt đã từ một chiếc
"thuyền nan taxi" trèo lên tàu, vào phòng bố. Tiếng bác Việt oang
oang:
- Trời còn gió nhưng cũng phải ra đây thôi. Ngày mai chắc gió
giảm. Nửa đêm nổ máy. Sáng mai tới ngư trường chứ không lại mất một ngày. Với lại
tàu sửa chữa nằm bờ lâu quả rồi. Ra đây kiếm con lợn khao quân cái đã. Bảo thằng
Quang đại phó rồi. Nhắn cái Nguyệt đến ngay. Con lợn khoảng bảy chục cân. Giả bảy
tạ cá loại bốn thôi. Chứ không có loại hai loại ba đâu. Hết chuyến biển sẽ trả.
Trước mắt khuyến mại cho em hai tạ đá. Cứ thế mà làm.
Rượu được rót ra. Mấy con mực khô bác cấp dưỡng mới mổ phơi mấy
hôm trước, một bát tương ớt. Bác Việt uống rượu rất nhiều, không như bố tôi.
Càng uống da mặt bác càng bì bì tái lại. Bác uống và than thở về sửa chữa kéo
dài, về chất lượng sửa chữa, về cái ly hợp... Uống và bảo bố tôi:
- Tối nay hai bố con ông sang tôi nhá. Làm bữa tiết canh lòng
lợn. Thế nào cũng sang đấy.
Bác Việt về, bố tôi vào phòng vê tê đê hỏi chú Đài tình hình
thời tiết. Bác Sĩ bảo: Giời này là ngày mai gió giảm, chuẩn bị mọi thứ, sớm mai
tách bến là vừa.
Chú Hùng lùn ghi trên bảng đen treo trong phòng ăn: Hai ca
xem lại toàn bộ dây lưới. Năm giờ sáng mai tách bến đi sản xuất.
Tôi cứ tưởng đến tối bố tôi cùng đi với tôi sang tàu bác Việt.
Nhưng hóa ra lại là bác Sĩ. Gần đến lúc đi, bố bị đau bụng. Tàu bác Việt nổ máy
rầm rầm. Đèn trên tàu sáng trưng. Chúng tôi bám thang dây leo lên. Lần đầu tiên
tôi đặt chân lên một con tàu to như thế. Khác hẳn tàu bố. Cách bố trí các buồng,
phòng lái, cầu thang đều khác. Và phòng ăn vẫn gọi là câu lạc bộ mới đẹp đẽ lịch
sự làm sao. Rộng, những ba bàn ăn, mặt bàn sạch sẽ bóng lì. Trên tàu vui như hội.
Những đĩa tiết canh đông cứng đỏ thẫm, với đủ cả lạc rang, rau thơm phủ lên
trên những miếng gan. Những đĩa tây to trắng tinh đựng đầy lòng. Và những đĩa
thịt xếp rất đẹp. Rồi nước xuýt. Rồi rau thơm. Hệt như ở nhà những hôm ba mươi
tết giết lợn. Bác Việt tỏ ý tiếc là bố tôi không sang. Và rót rượu. Mọi người
cũng rót rượu vào chén của mình. Tàu bác Việt đông. Phải đến hai chục người.
Tôi cũng được một chén rượu trắng. Giá có bố ở đây, chắc bố không cho tôi uống
đâu. Tôi cũng chạm cốc với bác Việt, bác Sĩ và với nhiều người khác. Lần đầu
tiên tôi uống rượu. Tôi đưa cốc rượu lên môi khẽ nhấp thử. Nhàn nhạt lợ lợ cay
cay. Tôi liều uống thử một ngụm nhỏ. Lập tức mũi tôi cay xè, như khi lặn ở ao bị
sặc. Tôi hắt hơi liền ngay sau đó. Tất cả nhìn tôi cười. Tôi xấu hổ quá không
dám nhìn ai. Định theo nghề của bố mà không biết uống rượu à? Con trai là phải
biết uống rượu. Nam vô tửu như kỳ vô phong. Bố cháu uống rượu vào loại siêu đấy.
Mỗi người một câu trêu tôi, động viên tôi. Bác Việt cụng li với tôi, bảo tôi:
- Mày uống từ từ thôi con ạ. Nào hai bác cháu mình...
Tôi lấy hết bình tĩnh, mạnh bạo đưa chén rượu lên nhấp một ngụm
nhỏ. Vẫn cay. Vẫn thấy khe khé ở mũi, nhưng không hắt hơi nữa.
Bác Sĩ bảo tôi:
- An đã. An vào bụng đã rồi hãy uống.
Tôi xắn một miếng tiết canh. Rồi ăn một miếng thịt. Bác Sĩ
múc vào bát tôi một muôi nước suýt. Tôi uống một hơi cạn bát nước suýt.
- Được rồi. Bây giờ uống rượu được rồi.
Tôi lại đưa chén rượu lên miệng. Ngụm này nhiều hơn ngụm trước.
Rượu trôi qua họng nóng ran cổ khiến tôi phải khà một tiếng rõ to cho mát cổ.
Bác Sĩ khen: Thằng con giời uống được đấy. Rượu bốc lên đầu. Rần rật thái
dương. Râm ran xuống ngực xuống tay. Người tôi lâng lâng. Tôi chưa có cảm giác
như thế bao giờ. Bác Sĩ lại bảo: Thôi bây giờ ăn đi. Và bác đứng dậy chìa cốc
ra trước mặt bác Việt. Tất cả đứng lên làm theo bác Sĩ, đưa cốc về phía thuyền
trưởng. Tôi cũng làm theo. Cụng ly. Mọi người ngửa cổ dốc cả chén rượu vào họng.
Tôi cũng làm như vậy và bị ho sặc sụa đến nỗi phải bỏ ra ngoài hành lang, một
lúc sau mới trở vào. Bác Sĩ ghé tai tôi, dặn dò:
- Mày uống vừa vừa thôi. Thế là đủ rồi đấy. Kẻo không bố mày
lại trách tao.
Bữa ăn rất ngon và vui. Trong đời tôi chưa được dự một bữa ăn
nào vui thế. Toàn là dô, là trăm phần trăm, năm mươi phần trăm. Người ta uống
nhiều hơn ăn. Người ta reo hò. Người ta cụng chén tay đôi tay ba. Người ta cầm
chén rượu đi bàn này bàn khác. Tôi ăn đã no. Chỉ ngồi nhìn người khác. Mọi người
như quên mất tôi. Chỉ chú ý đến các chén rượu trên bàn đầy hay vơi để rót thêm
để bắt phải uống cạn. Không khí trong câu lạc bộ nồng nặc mùi rượu. Rượu đổ
trên bàn ăn. Rượu tràn ly rớt xuống bàn chảy xuống chân. Tôi lặng lẽ bước ra
boong. Mặt mũi nóng bừng nhẹ đi. Đầu óc căng nhức nhẹ đi. Thoang thoảng gió
mát. Nhìn quanh Vụng Ngọc. Êm đềm. Vắng vẻ. Những ngọn núi đá xám không còn vẻ
lồi lõm sù sì nữa, trông mỏng dính. Bầu trời nhiều mây như sà xuống thấp. Lại
tiẽng một con cả quẫy. Thải dương tôi vẫn rần rật rần rật. Không buổn ngủ nhưng
tôi ngáp một cái rõ dài. Tôi muốn nằm quả. Người tôi mệt rã rời. Có cái gì nghẹn
nghẹn thúc thúc nơi cổ họng. Tôi muốn về ngủ hoặc chỉ nằm dài trên giường hay
trên nóc cabin thượng.
Tôi lại vào câu lạc bộ xem bữa ăn đã xong chưa để rủ bảc Sĩ về.
Nhưng không, không thể được. Mọi người đang trong giai đoạn hào hứng nhất. Mắt
ai nấy đều long lanh còn khuôn mặt thì rạng rỡ. Đã có người say xỉn, đang lắc
lư cái đầu cố ngổi cho vững. Một người khảc cất tiếng nói, giọng nói ríu ró, lè
nhè không ngắt được tiếng nọ với tiếng kia. Tất cả lắng nghe nhưng không hiểu
anh ta nói gì. Bảc Sĩ kêu lên: Thằng Thượng mản méo tiếng rồi. Câm đi. Đừng nói
nữa. Bảc lại với tay cầm chai rượu trắng rót một lượt nữa:
- Nào dô.
Tôi biết chẳng thể bảo bảc về được. Đành lại ra boong. Lại
nhìn trời nhìn vụng. Nhìn về phía tàu bố tôi đen đen neo mãi xa. Bỗng một chiếc
thuyền nan đột ngột hiện ra trong màn đêm chèo đến gần. Đứng dưới thuyền, người
đàn bà dưới thuyền hỏi vọng lên:
- Anh ơi! Có đi không?
Tôi mừng rỡ kêu lên: Có. Và quành ra chỗ treo thang dây.
Không nói với bảc Sĩ, tôi tụt thang dây xuống thuyền. Và chỉ một lúc sau đã có
mặt ở tàu của bố, sau khi đã trả tiền.
Nếu tàu bảc Việt ổn ào vui vẻ sảng trưng thì tàu của bố tôi
ngược hẳn lại: tối đen, không một tiếng động, không một bóng người. Cảc cửa
cabin bên dưới đều đóng im ỉm.
Như một con tàu chết. Tôi bước lên phòng bố tôi. Cảnh cửa
cũng đóng như vậy. Tôi cầm cái tay xoay bằng sắt mạ inox sảng loảng vặn mạnh mở
rộng cửa. Một cảnh tượng không ngờ được, không tưởng tượng được bày ra trước mắt:
Ngọn đèn ngủ trên đầu giường bố tôi tỏa ảnh sảng yếu ớt màu xanh lơ. Và chính
nhờ ngọn đèn ấy mà tôi trông thấy một người nằm trên giường bố tôi. Một người
đàn bà mặc bộ đổ màu tím nhạt đang nằm duỗi dài trên giường bố. Thấy cửa mở,
người ấy quay ra và giật mình ngổi dậy. Vừa bước một chân vào phòng, tôi vội rụt
lại sập mạnh cửa bước ra boong trèo thẳng lên cabin thượng, chỗ nằm quen thuộc
của tôi. Cô Nguyệt! Cô mua cả hôm tàu mới vào vụng! Cô mua tôm tối hôm qua!
Chính vì cô ấy quay ra nên tôi mới biết là cô Nguyệt. Có lẽ cô ấy tưởng bố tôi
mở cửa.
Nằm dài trên chiếc chiếu trải trên boong thượng, tôi không cựa
mình, cố giữ sao cho không một tiếng động. Tôi sợ gặp bố. Lúc này gặp bố tôi biết
nói gì. Tôi sợ bố biết tôi đã về, đã nom thấy cô Nguyệt nằm trên giường bố. Tôi
khóc. Để mặc nước mắt chảy trên mả, tôi mở to mắt nhìn trời. Tôi thương tôi,
tôi thương cái Ngàn và nhất là tôi thương mẹ. Bố không như chúng mình vẫn tưởng
đâu. Mẹ ơi. Mẹ đã ngủ chưa. Mẹ đang làm gì. Mẹ có biết những gì đã đến với mẹ
không? Mẹ có biết mẹ bị phản bội không? Tôi muốn về ngay với mẹ để khỏi phải
nhìn thấy bố, gặp bố, để sống bên mẹ, giúp đỡ mẹ làm mẹ vui. Trong mấy ngày dưới
tàu tôi đã biết được nhiều chuyện, học được nhiều điều. Tôi biết người ta có thể
làm những việc không tưởng tượng được. Nhưng tôi vẫn hy vọng, vẫn nghĩ rằng đấy
là chuyện của mọi người, tất cả, trừ bố. Bố là thuyền trưởng, là người lãnh đạo,
là người chịu trách nhiệm về toàn bộ con tàu, là người cuối cùng rời tàu khi
tàu lâm nạn. Bố không giống mọi người. Thế rồi mọi chuyện đổ sụp. Bố không còn
là thần tượng của tôi nữa. Bố cũng giống hệt mọi người. Thế mà trước kia chúng
tôi đã tự hào về bố biết bao! Vậy là từ lâu chúng tôi vẫn sống với những điều dối
trá mà không biết. Tôi đau đớn nghĩ mới đây thôi chúng tôi còn tự hào khi bố về
nhà và người bố ấy đã không còn nữa. Bây giờ là một người bố khác. Một người bố
có những điều bí mật mà mình không nên biết. Một người bố có nhiều thói hư tật
xấu. Quá thất vọng, tôi tự nhủ: Có lẽ phải quan niệm lại: Thế nào là bố chăng?
Có tiếng hai con lợn ụt ịt bên dưới boong mũi. Tôi muốn xuống
với chúng nó quá. Nhưng lại sợ gặp bố.
Chắc là phải gần sáng tôi mới thiếp đi được. Ánh nắng chiếu
vào mi mắt khiến tôi tỉnh dậy. Nhìn quanh. Những dãy núi đá quây lấy Vụng Ngọc
không còn nữa. Tôi nhìn về phía lái: Không thấy Núi Hài đâu. Vậy là tàu nổ máy
rời vụng từ sớm lắm. Nắng vàng lấp lóa rải đầy trên mặt biển phía trước mặt.
Hoa sóng nở vàng rực trong nắng nhức mắt. Nhưng nhìn về phía sau sóng vẫn xanh
dịu. Gió thổi ngược chiều tàu đi. Tàu gối sóng, mũi tàu chồm lên đè xuống. Đánh
răng rửa mặt xong, tôi vào bếp ăn sáng. Trong bếp có nhiều người. Cả bố. Cả bác
Sĩ, cả chú Hùng lùn, chú Đài, chú Lượng. Tôi liếc nhìn bố rất nhanh. Bố đặt tô
mì tôm bốc khói ăn dở xuống bàn, nói:
- Lần này vào Lạch Trường xem có tôm vàng không. Năm ngoải
cũng mùa này chúng mình chả gặp tôm vàng ở đấy là gì. Mẻ năm mươi cân. Mẻ một tạ.
Cao nhất hai tạ.
Chù Hùng bảo:
- Trong ấy nhiều rạn. Lại có xảc mảy bay. Lưới rảch nhiều lắm.
Có khi mất lưới. Anh em boong chuẩn bị sẵn tinh thần vả lưới.
Bảc Sĩ bảo tôi:
- Hôm qua con giời say xỉn về trước hả. Về mà không bảo tao lấy
một câu. Tao cứ tìm.
Tôi liếc nhìn bố. Bố vẫn chẳng tỏ ra có vẻ gì đặc biệt, cũng
chẳng nhìn tôi, và vẫn cứ tiếp tục câu chuyện về ngư trường:
- Xảc mảy bay không sợ. Mình đảnh bên trong, gần bờ. Nếu
trúng tôm vàng chỉ ba ngày thôi là tấn tôm cầm chắc.
Bảc Sĩ bảo:
-Ở đấy nhiều lưới rê lắm đấy.
Tàu vẫn hành trình. Mặt trời mỗi lúc một gay gắt, nhưng vẫn mảt.
Vì gió. Vì biển. Mãi tới gần trưa, ăn cơm xong, mới thả lưới. Bố tôi và chú
Hùng đảnh dấu trên hải đổ. Rồi chú Hùng ghi nhật ký khai thảc. Hai tiếng rưỡi
sau, kéo lưới. Tôi đứng ở chân cẩu, gần chỗ bố xem bố có nói gì không. Nhưng bố
đang chăm chú nhìn vào hai cái đụt đã được kéo lên, nước trút xuống mặt boong gỗ
ào ào như dội. Một người giật đụt. Bố tôi reo lên: Tôm vàng! Mọi người cùng bật
lên tiếng reo như bố tôi. Hai đụt lưới khảc được kéo lên. Như hai quả bầu nậm,
bên trên nhỏ bên dưới phình ra, hai quả bầu nậm khổng lồ. Lại giật đụt. Lần này
tiếng reo còn to hơn lần trước: Tôm vàng!! Bố tụt xuống cầu thang bước ra boong
nhìn đống tôm lùm lùm nằm phơi mình dưới ảnh nắng, bảo chú Hùng:
- Tôm chết nhiều. Mẻ tới cho tàu chạy ngược lên hai lý rồi mới
thả lưới. Chắc được nhiều hơn.
Rồi quay lại bảc Sĩ:
- Ông Sĩ với thằng Quẹn xem lại cái lưới bên phải đi. Lưới
không xuôi. Tôm không đi vào đụt, giắt lưới nhiều quả.
Và nói với cảc thủy thủ:
- Nắng lắm đấy. Làm thật nhanh nhé. Không hỏng hết tôm đấy.
Rồi như nói một mình: Sóng này nhiều tôm.
Tôi cũng xuống nhặt tôm với cảc chú cảc bảc.
Chú Hồng xem xét kỹ bụng một con tôm nhỏ rồi đưa cho tôi:
- Cho thằng này một con tôm chưa cùng ai.
Tôi nhặt tôm, mấy lần bị cái gai nhọn ở đầu tôm đâm vào chảy
mảu. Bảc Sĩ đang chữa cái lưới xanh thẫm bên cạnh bảo tôi:
- Thôi đi bố. Không làm được nghề này đâu. Vất vả lắm. Cứ kiếm
mấy cái lồ, một cái xe mảy chạy đường Bắc Ninh Hà Nội ngày được mấy trăm đấy.
Chú Hồng cười:
- Đúng. Ngày hai ba trăm thằng này làm được. Chẳng phải học
tính toản làm gì.
- Nhưngphải học tính nhẩm cơ.
- Các bà buôn làm tính nhẩm thì vô địch.
- Bao nhiêu cũng không phải hạ bút tính. Mà không hề sai.
- Em Nguyệt đấy. Một trăm bảy mươi lần năm nghìn rưỡi, biết
ngay là chín trăm ba nhăm nghìn. Bố Sĩ nhà mình cứ phải giấy bút.
Bác Sĩ cười:
- Tôm cá bao nhiêu loại tao không hạ bút, nhầm phải đền oan
à.
Chưa hết câu chuyện, đống tôm đã được phân loại xong. Còn cá
thì nhanh thôi. Nhặt những con cá to, cá ngon để riêng, những con cá nhỏ thì
xúc cả vào lổ lẫn lộn rồi chuyển xuống hầm. Tôi tụt xuống hầm xem các chú ướp
tôm ướp cá. Đèn điện sáng chiếu vào những hầm đá sáng lóa mắt. Mát lạnh. Tôm được
đổ vào những thùng sắt đựng nước có hòa nước đá. Còn cá thì đổ ngay vào chân một
đống đá rồi cuốc đá lấp lên.
Giữa trưa nắng gắt, ngoài boong chỉ còn chú Quẹn bác Sĩ đang
làm việc. Cái mũ lá, bộ "quần đẹp áo đẹp" dày cộp của bác Sĩ khi trên
tăng gông, khi dưới boong. Bác leo trèo thoăn thoắt. Nắng tưởng đến mức cháy thịt.
Bố tôi cũng trèo lên tăng gông. Nom bố ngồi vắt vẻo trên đầu ngoài cùng cái
cánh tay sắt chìa ra đu đưa trên mặt biển, giống một diễn viên xiếc tài ba. Tàu
vẫn gối sóng dập dềnh. Bên dưới là khoảng không. Là biển. Là sóng. Mà đâu chỉ
có việc ngồi trên ấy. Còn cầm cơ lê, còn vặn, còn kéo dây, còn cân chỉnh. Tấm
lưới vẫn đu đưa. Những cái ván vẫn chênh chếch là là trên sóng như sắp đáp xuống
mặt nước. Một sợi cáp vẫn thõng xuống cắt lạng những lát nước mỏng tung lên như
người ném thia lia. Tôi thử sờ vào một đầu tăng gông bằng thép và vội rụt tay lại.
Giống như chạm vào nước sôi. Cuối cùng khi tàu đến vị trí thả lưới, công việc
cũng vừa xong. Bố tôi, bác Sĩ, chú Quẹn, mặt đỏ gay vì cháy nắng vào bếp, mỗi người
một ca bia bỏ nước đá, uống và nhai đá rau ráu. Rồi cả ba vào buồng tắm.
° ° °
Thuyền trưởng Trần Bôn ở trong khu tập thể có nhiều nhà ba tầng
xây song song, một thời đã từng là biểu tượng của cuộc sống đang thay da đổi thịt
hàng ngày của thành phố Hải Triều. Những "cửa sổ sơn xanh mở đều một
loạt, như một ban đồng ca cùng ngân giọng hát, như những người bên nhau cùng mở
rộng tâm hồn". Nhà thơ Duy Thông đã có những vần thơ như vậy về khu tập
thể mới xây. Than ôi! Thời ấy đã qua lâu rồi. Những ngôi nhà đã xuống cấp thảm
hại. Màu vôi vàng mới quét cùng với cửa sổ sơn xanh gợi tứ thơ cho Duy Thông đã
biến mất từ bao giờ. Cửa chớp long, nan chớp gãy, phải bịt lại bằng cót ép, bằng
giấy dầu. Tường loang lổ trơ vữa và nhiều chỗ trơ cả gạch. Mặt trước còn đỡ. Mặt
tường phía sau nơi khu phụ mới thật thảm khốc. Cống thoát nước tắc.
Nước sinh hoạt tràn từ tầng ba xuống tầng hai, từ tầng hai xuồng tầng một. Những
vệt xám đen, những vầng rêu đen dày bám trên tường. Cỏ mọc trên tường.
Và cả những cây si, cây đa theo trường phải bon sai mọc
nghiêng. Kinh khủng nhất là những thứ rác rưởi cứt đái lưu cữu trên mặt nền
phía dưới. Ớ đó lúc nào nước cũng xăm xắp. Có lần về nhà, Trần Bôn suýt bị cả một
bô cứt của Khoa, kỹ sư phòng kỹ thuật trên tầng ba hắt xuống trúng đầu. Sống
trên tầng ba, Khoa bành trướng ngược lên sân thượng và độc chiếm trên ấy, quây
một cái túp con con, nuôi mười một con lợn. Sân thượng là vương quốc của những
con lợn gia đình Khoa nuôi. Mười một con lợn chạy lông nhông như ngựa. Phân lợn
và cả phân người nữa rải khắp sân. Xỉ than đổ trên sân thượng từng đống. Khi
nào đống xỉ đầy quá, Khoa mang xẻng lên. Hai ba nào. Xúc hất xuống mảnh đất
phía sau. Họp tổ không xong. Kiện tụng ra chính quyền, ra công đoàn. Đồng chí
Trần Ngọc Thu bí thư đảng ủy sau khi trực tiếp thị sát trên sân thượng đã tuyên
bố:
- Tôi đố ông nào lên sân thượng nhà B mà không dẫm phải cứt.
Nếu không dẫm phải cứt tôi xin mất chầu bia.
Cũng chỉ có một câu nói ấy thôi. Chẳng ai có thể dỡ được cái
túp lợp giấy dầu của Khoa, đuổi được đàn lợn của Khoa xuống đất. Ai cũng biết
nhà Khoa cực kỳ khó khăn. Bố mẹ già, vợ không có việc làm, hai đứa con nhỏ, chỉ
trông vào đồng lương của Khoa. Cả bố mẹ, cả vợ Khoa đều đã nai lưng ra làm việc.
Không kêu ca nửa lời, ngược lại còn cám ơn số phận, cám ơn xí nghiệp, nhờ con,
nhờ chồng, đã được từ quê ra tỉnh làm ăn và tuy có vất vả, làm ăn ở đâu chẳng vất
vả, nhưng có công có việc quanh năm. Công việc của ba người là khi tàu bốc cá
xong thì xuống hầm, dọn hầm, móc vét những con cá nát trong la canh đem
về nấu nuôi lợn hay ướp chượp. Dọn hầm là công việc nặng nhọc. Nhất là cái nước la
canh. Mùi nó khó ngửi hơn mùi phân tươi, mùi cóc chết. Trên sân thượng
ngoài lợn, phân lợn còn có sáu cái chum chượp nhơ nhỡ bốc mùi khủng khiếp. Dòi
bò rơi xuống hành lang, chỉ nằm ngất một lúc lại tỉnh, lại tiếp tục bò. Bò dọc
hành lang. Mon men bò vào các nhà. Bò ra cầu thang rơi xuống bất động và lại tiếp
tục bò. Tầng nào cũng có dòi. Bậc thang nào cũng dòi. Chiếu nghỉ nào cũng dòi.
Không nhiều thì ít. Bởi tầng nào cũng có người làm mắm, chẳng phải một mình
Khoa. Dòi và than tổ ong. Những ngày đồng khởi nấu mắm mới thật là khiếp
khủng (đó là chữ của Khoa, Khoa công nhận là khủng khiếp nhưng
không bao giờ nói khủng khiếp mà cứ là khiếp khủng). Mùi chượp,
mùi mắm nấu lan tỏa ướp đượm ngào ngạt, át mọi thứ mùi thường nhật đã ngửi
quen. Rồi còn vấn nạn hố xí tự hoại đã thành hố xí tự hại. Nước thiếu.
Hệ thống bơm nước hỏng từ thời nảo thời nào. Người đi vệ sinh không chịu giội.
Tắc. Chọc. Vỡ ống tiêu. Phải xuống đi ra mãi dãy nhà vệ sinh công cộng hố xí
thùng mới xây gần bãi rác. Đấy là những người lớn, những người tử tế. Còn cái
món ấy của trẻ con, của những người đau bụng đột xuất, và của một vài ông độc
thân hộ A1 gặp khi trời mưa là chỉ có bay theo một đường cong parabol từ trên
nhà xuống dải đất phía sau. Cái ngày trưởng phòng tổ chức chưa mua đất xây nhà,
còn ở tầng hai, sáng dậy mở cửa thấy một gói giấy báo đựng toàn phân đặt ngay
ngắn ngay bậu cửa, bên trên có viết chữ Kính gửi... cẩn thận. Chẳng
biết ai mà trị. Cứt ở đây thì nhiều. Cũng phải nói đôi chút về bãi rác của nhà
máy đồ hộp gần đấy, nơi có dãy hố xí thùng của Liên hợp Biển Đông mới xây. Công
nhân bên đồ hộp thường xuyên được mua xương lợn, đầu lợn. Những khúc xương ống,
những dẻ xương sườn trắng hếu như đã được lạng bóc bằng manh xơ lam. Những chiếc
thủ lợn lột hết thịt và da, chỉ còn trơ sọ đầu lâu mắt trắng dã nằm giữa hai
vành lông mi cứng và đen. Xương ống, xương vè lủng lẳng treo ghi đông xe đạp đi
trên đường khiến bao người thèm khát hỏi han xin mua lại, bởi ai cũng biết còn
bao nhiêu chất béo bổ trong tủy, trong xương, trong sụn sẽ tiết ra khi cho lên
bếp than ninh nhừ. Ninh nấu ăn xong, tất cả quẳng ra bãi rác. Cả một bãi xương
trắng mênh mông như tha ma bị sét đánh. Mùi thối khẳn theo gió thốc đi các nơi.
Chân trần dẫm vào đó chỉ có què. Dưới đất thì thế. Trên đầu, một thứ khiếp
khủng khác. Dây điện. Dây điện lòng thòng, lằng nhằng như mạng nhện. Mỗi
nhà một đường dây. Công tơ tổng cháy lâu rồi. Nhà Bôn ba quạt hai bóng đèn, một
tủ lạnh trả sáu tư nghìn tiền điện, nhà Khoa bốn bếp điện chỉ phải trả hai nhăm
nghìn. Mà máy lạnh có mấy khi chạy đâu. Điện sụt áp. Hai trăm hai mươi mà chỉ
còn tám chín mươi thôi. Nhà máy điện không thu được tiền điện đe dọa cắt điện.
Giám đốc đồng ý cắt, nhưng công đoàn có ý kiến: Khu tập thể là sân sau của
xí nghiệp và đây là vấn đề do lịch sử để lại. Giám đốc đồng ý
trước mắt xí nghiệp bảo trợ tiền điện song song với việc trích quỹ phát triển sản
xuất và công đoàn trích quỹ phúc lợi hợp đồng với sở "Điên nặng" kéo
dây mắc công tơ đến từng nhà. Từ bấy mới có điện ổn định. Các gia đình loại bỏ
hẳn bếp điện. Cánh chè chai xe đạp cọc cạch hết chuyến này tới chuyến khác chở
không biết bao nhiêu bếp điện từ khu tập thể tỏa đi các nơi.
Điện đã được giải quyết nhưng chuyện vệ sinh vẫn chẳng nhúc
nhích. Vẫn dòi, phân, rác, khói than tổ ong. Đi về nhà, bao giờ Bôn cũng gần
như chạy. Vừa vì sợ gặp người như đã nói ở phần trên. Vừa để bảo đảm an toàn,
không bị hắt nước vào đầu, ném gói giấy đựng rác, hất bô đựng phân vào người.
(Nhưng thật lạ. Bên ngoài bẩn thế mà mở khóa - các loại khóa - khóa nổi, khóa
chìm, khóa từ tính, loại khóa hiện đại nhất do những người đi tàu nước ngoài
mang về, bước vào nhà là cả một thiên đường sạch sẽ. Sạch không một gợn nơi bàn
chân trần, mát lạnh. Tivi, cassette, tủ lạnh, dàn nhấp nháy đều không một hạt bụi.
Lau. Lau suốt ngày. Sàn nhà. Mặt bàn, mặt xa lông...)
Đấy là nỗi khổ chung. Riêng nhà Bôn và các gia đình trong dãy
nhà B còn một nỗi khổ khác: Những lời đối đáp, chửi nhau của vợ chồng một chị
bán bia mới dọn đến hơn năm nay. Họ mua lại căn hộ của trưởng phòng tổ chức,
khi trưởng phòng tổ chức chuyển đến ngôi nhà ba tầng mới xây ở Cầu Tre. Nghĩa
là vợ chồng chị bán bia ở sát ngay nhà Bôn. Ban ngày ngôi nhà gần như hoàn toàn
yên ắng. Chỉ có một thằng con giai đang học lớp 5. Anh chồng đã hai lần vượt
biên sang Hong Kong, nhưng đều bị trả về, không được định cư ở nước thứ ba. Anh
làm thợ xây tự do, khi đi khi về im như bồ thóc, lúc nào cũng khép cửa, xóm
làng chỉ biết anh có nhà khi thấy thằng con anh cầm chai đi mua rượu. Cho đến
khi chị vợ ở cửa hàng bia ngoài cổng cảng chính về, thường là mười một mười hai
giờ đêm, nghĩa là buổi sum họp bắt đầu khi một ngày lao động mệt nhọc đầu tắt mặt
tối kết thúc. Các nhà đã tắt đèn buông màn đi ngủ. Lúc ấy đèn nhà nọ sáng
trưng. Và bỗng nhiên, tiếng quát của anh chồng vang lên:
- Sáng mai bố mày cứ nấu cơm ăn bình thường, mày không muốn
ăn với bố mày thì mày đi chỗ khác. Nhà này là nhà của bố mày. Bố mày báo trước
cho mà biết.
- Rất tiếc là bố mày chưa được uống máu lồn nhé.
- Đừng có mà dọa bố mày. Mày lồn sành ghe đá thì bố mày buổi
vá xi măng nhé. Bố mày báo trước cho mà biết.
- Bố mày lấy mày. Bố mày không biết mày đĩ như thế nào à?
- Còn gạo là sáng mai bố mày nấu cơm ăn. Bố mày chậm lương chứ
không phải bố mày không có lương nhé. Báo trước cho mà biết.
- Bố mày không bỏ mày. Bố mày cứ ám. Báo trước cho mà biết.
Thách cả họ nhà mày cũng không bỏ được bố mày đâu.
Thường là nghe tiếng của anh chồng. Còn tiếng chị vợ chỉ văng
vẳng tít mãi phía trong bếp. Thoảng khi chị vợ ở gian ngoài, những lúc ấy Bôn
nghe rõ tiếng chị vợ đối đáp:
- Địt mẹ mày. Tao chửi mày đấy.
Anh chồng gầm lên:
- Địt mẹ đồ đĩ.
- Con mẹ mày đĩ. Đĩ cái thằng bố mày.
Im lặng một lúc rồi lại tiếng chị bán bia:
- Li dị. Không ghen tuông làm gì. Không hợp nhau thì li dị.
Tao với mày không thể hợp được. Tao lấy mày từ lúc lấm tấm, bây giờ chấm kheo.
Tao còn lạ gì mày.
Anh chồng gầm lên:
- Bố mày không li dị. Bố mày cứ ám. Mai bố mày có chết bố mày
cũng không cần cơ mà. Tí nữa bố mày có chết bố mày cũng không cần cơ mà. Bố mày
đang điên đây. Báo trước cho mà biết.
- Điên thì làm đéo gì phải báo trước.
Cứ như vậy, những câu chữ tục tĩu nhất được văng ra trong đêm
khuya lúc vang vọng cả dãy nhà, lúc ôn tồn trầm bổng như một cuộc tâm tình. Cứ
tưởng sẽ đánh nhau đến nơi. Sẽ đập phá đến nơi. Nhưng bỗng nghe tiếng anh chồng
hạ giọng:
- Thôi. Bây giờ bố mày đi ngủ nhé.
Tiếng "nhé" nhẹ hẳn đi, gần như âu yếm.
Nằm bên này vợ chồng Bôn nghe những cuộc chửi nhau thường
xuyên tối tối, mới đầu buồn cười, nhưng sau lại thấy buồn. Cuộc sống như vậy là
địa ngục. Nhưng vẫn phải sống thôi. Bôn tự hỏi không biết nghe bố mẹ chửi nhau
như vậy, thằng con giai của họ nghĩ gì. Nó có học được không? Thằng bé rất kháu
khỉnh và lễ phép, gặp Bôn đâu là khoanh tay cúi đầu chào. Rồi anh lại nghĩ đến
hai đứa con anh. Đêm nào cũng những cuộc đối thoại như vậy, hẳn sẽ ảnh hưỏng đến
chúng nó. Và anh lại thấy cần phải nhanh chóng rời khỏi khu sân sau của
xí nghiệp. Tìm mọi cách sớm rời khu sân sau của xí nghiệp. Anh chi
tiêu rất tiết kiệm. Là một người chừng mực anh không sa lầy vào những cuộc nhậu,
những cuộc chơi thâu đêm như một số cán bộ tàu khác hay như một số thuyền viên
chính tàu anh. Đã có lần anh theo anh em thuyền viên tàu anh lên bờ khi cập cảng
Vũng Tàu. Chưa tới cảng, không khí đã nhộn nhạo hẳn lên. Anh em buôn bột mì
gièm pha cánh đảnh hàng sữa. Anh em buôn sữa trêu chòng trở lại: Bột
mì kỳ này toi. Đi buôn là phải theo cái lỗ. Chuyến trước, buôn sữa bị lỗ thì
chuyến này lại phải buôn tiếp sữa vì ai cũng sợ sữa lỗ rồi đổ xô vào buôn bột
mì. Vì thế bột mì chuyến này nhất định ế. Và bắt chước giọng con buôn õng
ẹo: "Anh ơi. Anh có sữa chúng em mua. Còn bột mì để chuyến sau anh
nhé!" Tuy trêu nhau như đùa cợt nhưng ai cũng lo. Giá cả lên xuống thất
thường. Bôn cũng lo. Khi đi đánh cá ở Vịnh Thái Lan, tàu to tàu nhỏ, tàu nào chả
đầy ắp một bụng hàng. Hàng trong cabin, hàng trong hầm cá, hàng trong kho bếp,
hàng trong nhiều ô, nhiều khoang ngóc ngách. Nhiều khi nhầm lẫn đi đến cãi
nhau.
Mọi chuyến cập Vũng Tàu, anh đều ở lại tàu. Anh em lên bờ gần
hết. Cả tàu gần như vắng không. Chỉ còn anh, cấp dưỡng Tích tay nải thân
yêu và hai người trực ban, một máy, một boong. Tích bưng từ bếp lên chiếc
mâm nhôm trên có một con gà luộc còn nghi ngút khói, một đĩa hoa, một chai Lúa
Mới và gọi anh. Anh xách cái ghế đẩu nhựa xuống boong. Tích đặt mâm cúng lên ghế
đặt sát mũi tàu, gần chỗ tơi neo. Anh thắp hương, kính cẩn vái năm vái. Anh
không biết khấn. Phần khấn bao giờ cũng là anh nuôi Tích. Anh im lặng lắng nghe
tiếng rì rầm của Tích. Chẳng thấy gì ngoài những tiếng xuýt xoa. Giữa trời nước
mênh mông vắng lặng lúc chiều tà, trong khói hương bay, những tiếng xuýt xoa rì
rầm của ông già Tích đầy vẻ thiêng liêng. Rồi sau đó, bốn người (cả hai đồng
chí trực ban boong, máy) về câu lạc bộ thụ lộc. Uống. Ăn thịt gà. Xôi. Đã có lần
Bôn hỏi T ích khấn những gì. Tích nghiêm chỉnh trả lời à thì cũng xin Hà bá, Thổ
thần phù hộ cho tàu gặp may mắn, biển lặng gió êm, khai thác được nhiều, an
toàn hàng hải, an toàn ván lưới, hài hòa ba lợi ích, hàng họ anh em mang vào
lãi nhiều, một vốn bốn lời...
Bôn có cảm giác những lúc tàu vắng vẻ khi vừa cập bến Vũng
Tàu, tất cả kéo nhau lên bờ chỉ còn lại bốn người như thế này là những lúc đặc
biệt thanh thản trong lòng người cấp dưỡng già. Cắt tiết con gà, thổi nồi cơm nếp,
bày đĩa hoa, mở nắp chai rượu, Tích đúng là người anh cả trên tàu, là người chủ
một gia đình trong những ngày giỗ chạp tết nhất. Và sau bữa rượu như thế, Tích
thường ngồi lại nói với Bôn biết bao nhiêu chuyện. Chuyện T ích đi bộ đội chống
Pháp ngày trước. Chuyện Tích về nhà ở Thanh Miện. Chuyến về bắc được cái cầu
ao. Chuyến làm được cái chuồng lợn, bỏ chuồng được đôi lợn con. Bố Tích có hai
bà. Tích là con bà cả. Nhưng bà trẻ lại ở với vợ con Tích. Gọi là trẻ thôi cũng
ngoài bảy mươi cả rồi. Tôi dặn nhà tôi, có nấu bát canh thì cứ cho thêm tí nước
vào, rồi thêm tí mì chính, tiêu chuẩn mì chính của tôi lúc nào cũng có, bà
không phải lo, cua vẫn thế, rau vẫn thế mà có thêm bát canh, bữa ăn bưng sang
biếu bà già một bát. Thế là các cụ vui, thì tính người già ấy mà. Có gói kẹo
cho trẻ cũng đừng đưa cho chúng nó. Đưa cho cụ nói là con biếu bà, bà nào ăn một
mình. Với lại kẹo cứng các cụ chỉ ngậm thôi. Mà cũng đừng đưa cho một cụ. Phải
mỗi cụ một gói. Nếu chỉ có một gói thì phải san đôi. Rồi Tích kể đến cái đận có
tivi mới khổ. Tối nào cũng phải đun một nồi nước vối rõ to, một bó đóm để hút
thuốc lào. Tối nào cũng phải thức khuya, khách về hết mới đi nằm. Mà nào có được
đi nằm ngay đâu. Còn phải đem vồ gõ lại giường. Còn phải đổ xỉ ở bát điếu, còn
phải quét nhà. Tất cả là thằng lớn hết. Bây giờ thằng lớn đã đi học trường công
nhân kỹ thuật, thì đến ông thứ hai. Ông này tôi đang tính phải làm sao chứ như
thằng anh thì chán quá. Tôi bảo cháu cố gắng con ạ, phải vào được đại học mới
mát mày mát mặt được. Cháu học khá. Chỉ hơi kém môn toán. Tôi bảo bà ấy nhà tôi
không bắt cháu làm lụng đồng áng, cơm nước. Để cháu tập trung vào học. Ưu tiên
bồi dưỡng cho cháu để có đủ sức khỏe... Biết cá heo là loài cá đặc biệt thông
minh, hễ đánh được con cá heo, thế nào Tích cũng cắt lấy cái đầu, cất vào kho lạnh,
để khi cập bến đèo về quê cho con ăn óc cá...
--------------------------------
Tiết mục Những bông hoa nhỏ dành cho trẻ em mở đầu chương
trình truyền hình buổi tối. |
|
Đồng tiền của chúng ta giá trị lên xuống thay đổi không ngừng
theo năm tháng. Xin hiểu theo ý nghĩa văn học. |
|
Tử hình. |
VII
Chuyến ấy tới Vũng Tàu buổi tối, Bôn không ở lại tàu với
Tích. Anh em chèo kéo, với lại anh cũng muốn đi một lần với các thuyền viên, tận
mắt thấy những gì anh em làm khi lên bờ, những điều anh vẫn nghe anh em hào hứng
kể lại. Vũng Tàu anh vẫn lên. Nhưng là lên vào ban ngày ban mặt. Để dạo chơi. Để
ngắm thành phố. Để uống một cốc nước mát thư giãn. Đây là lần đầu tiên anh đi với
mọi người, mà lại đi vào buổi tối...
Khi tời khởi động, chiếc xuồng cứu sinh được đưa ra khỏi be
và hạ nhẹ nhàng xuống mặt nước, khi chiếc thang dây được móc chặt vào thành
tàu, anh cùng mọi người lần lượt xuống xuồng. Và khi xuồng cập bến dốc đá xoai
xoải, nhảy lên bờ, anh lom khom toan té nước rửa hai bàn tay đen bẩn vì vừa nắm
thang dây, Chiêm, một máy hay vui tính nghịch ngợm trẻ trung và đẹp trai kéo
tay anh:
- Không phải rửa thủ trưởng ạ. Bao nhiêu lồn đĩ nó chịu hết.
Hôm nay thủ trưởng phải đi với em. Em làm hướng dẫn viên du lịch cho thủ trưởng.
Chiêm kéo anh đi như kéo tay một đứa trẻ. Anh gỡ ra và bước
chậm lại phía sau. Bãi Trước. Những hàng dừa tối, vắng vẻ. Ánh điện đường hoe
hoe lốm đốm. Thế mà lạ thay, từ trong bóng tối rặng dừa, từ các khay thuốc lá vỉa
hè, tiếng những cô gái vang lên:
- Anh Chiêm!
- Tàu Hạ Long 414! Các anh tàu 414 đã vào!
- Em chào anh Mai!
Những tiếng chào cất lên trên dọc đường họ đi. Nhưng không ai
dừng lại. Đến khi một đám con gái từ phía bờ biển chạy ra cản đường, Chiêm thay
mặt các thuyền viên, hỏi các em:
- Bọn anh vừa vào đến đây. Tiền không có. Sữa chưa bán được.
Các em có đồng ý cho chơi chịu không? Mai bọn anh bán được sữa sẽ trả.
Một cô bảo:
- Được chứ. Các anh Hạ Long có bao giờ lại quịt bọn em.
Vẫn Chiêm:
- Giá cả thế nào, có thay đổi gì không?
- Vẫn thế. Các anh làm phát một hay cả đêm?
- Hãy để bọn anh kiểm tra máy móc cái đã.
Chỉ cố gắng được đến thế, Bôn bước sang bên kia đường gần như
chạy. Anh không thể hình dung được người ta có thể nói với nhau như vậy. Vẫn biết
cánh thuyền viên là những người nói năng tục tĩu bỗ bã sống sượng nhưng đến mức
ấy thì quá thể. Nhất là người ấy lại là Chiêm. Máy phó, một máy phó rất có
trách nhiệm của anh. Một thanh niên cao lớn, đẹp trai đã có vợ, một con. Vợ
Chiêm cũng là một cô gái nhan sắc, nước da trắng mịn, đôi mắt trong sáng mở to,
hai má bầu bĩnh ưng ửng hồng như xoa một lượt phấn mỏng, làm nghề dạy học. Dù
không nói ra nhưng ai cũng biết Chiêm tự hào về vợ. Là con một ông vụ vị gì đó ở
Hà Nội, Chiêm nói năng từ tốn nhẹ nhàng, thỉnh thoảng lại chêm một vài câu bông
phèng làm tất cả bật cười, nhưng chưa bao giờ Chiêm nói tục. Hình như hôm nay
Chiêm cố làm ra vẻ bụi, ăn chơi bạt mạng, lọc lõi trên tài dân ăn chơi Vũng Tàu
để được các em kính nể và nhất là không bị các em cho vào xiếc. Kìa! Chiêm đang
thọc tay vào quần một cô gái và duề một cái rõ to ngụ ý chê bai, du mạnh
cô gái ra, rồi tách khỏi đám đông, chạy sang bên kia đường với Bôn, vừa thở vừa
cười:
- Làm thế để chúng nó sợ. Để chúng nó khỏi xả quác. Thủ trưởng
thông cảm cho em.
Biết thuyền trưởng không muốn tham gia vào những trò chơi như
vậy, nhưng đi đâu bây giờ? Nhìn nét mặt khó đăm đăm của thuyền trưởng, Chiêm
khoác tay anh, reo lên:
- Hay là anh em mình đến nhà ông Nhâm đi.
Bôn tươi tỉnh hẳn lên:
- Phải đấy. Linh hai cũng mới từ Hong Kong về. Đang
đỗ đây. Cuối bãi.
Anh không muốn sự có mặt của mình cản trở cuộc vui của anh
em. Thủy thủ là vậy. Làm việc. Vật lộn với công việc. Hết mình. Nhưng cũng chơi
hết mình. Cuộc đời họ gắn với biển, với các cảng, các bến sông, trôi nổi như
sóng như nước, tàu là nhà, nhà là quán trọ, quanh quẩn mấy chục mét vuông, từ
cái giường hẹp ra ngoài hành lang, từ hành lang ra boong, từ boong xuống hầm
cá, xuống buồng máy, lúc nào bàn chân cũng dẫm lên sắt thép, lúc nào cũng trong
nhịp tàu rung, trong tiếng rền rền của tiếng máy tàu, khi làm việc, cũng như
khi chơi, khi đánh bài, khi ăn khi ngủ. Nhịp rung và tiếng rền của máy tàu đã
là cuộc sống nhưng vẫn cứ giục giã làm người ta không yên, căng thần kinh, căng
da đầu da mặt, thúc vào bụng vào ngực, bám vào từng tế bào như một chất keo
dính nhớp không rời. Chỉ đến khi tắt máy mới thấy à, cuộc sống bình thường là
như thế đấy. Mặt bằng bàn chân dẫm lên im lặng, bình yên, mặt bằng dưới lưng im
lặng bình yên, bữa cơm bình yên, giấc ngủ bình yên, chiếc ghế mình ngồi lặng im
ngoan ngoãn... Bỗng thấy một cuộc sống khác hẳn, một cuộc sống không có tiếng
máy tàu. Tất cả dịu lại, chùng lại.
Những người đi tàu, kể cả Bôn, là những người sống giản đơn với
những gì gần bản năng và cũng là những người lạc hậu. Quanh quẩn trong căn buồng
hẹp. Đi trong hành lang hẹp. Rồi xuống buồng máy nếu là thợ máy, đi ra boong
lái boong mũi nếu là thủy thủ. Cái boong lái giống như mảnh sân trong một gia
đình. Làm việc ở đấy. Gieo trồng ở đấy. Thu hoạch ở đấy. Giữa trưa hè nắng đổ
cũng là ở đấy. Mưa dầm gió bấc buốt xương hay trời mưa rào sầm sập trút nước
cũng là ở đấy. Và khi trăng lên, nghỉ ngơi cũng là ở đấy. Người thủy thủ phải
tranh thủ tất cả vì công việc. "Ăn nhanh lên!" Hoặc "Rồi hãy
ăn!" Đó là những câu nói thường nghe thấy trên tàu cá. "Ăn nhanh lên!"
hoặc "Rồi hãy ăn!" để có lưới đánh, để thả xong mẻ lưới, để cho cá
vào khay, để cho cá xuống hầm, để kéo lưới. Đã ăn lưng lửng rồi thì "ăn
nhanh lên!" Mới bưng bát cơm lên lùa vài miếng thì "rồi hãy ăn!"
Để đến khi về câu lạc bộ, cơm canh nguội ngắt và đã quên hẳn bữa ăn rồi. Cứ như
vậy cộng với bài bạc, đánh cờ ăn tiền (không thể đánh suông được. Nhạt phèo!).
Và nói tục. Tục như tàu cá. Mở miệng là các từ tục tĩu văng ra. Như sắp điên đến
nơi, sắp đánh nhau đến nơi. Cuộc sống là tối thiểu. Sợi dây liên hệ với gia
đình không còn. Sợi dây liên hệ với xã hội chỉ là chiếc radio, những tin tức
phát đi qua chiếc loa treo ở trụ đèn chính trên boong thượng. Loa kêu đấy, nói
đấy, truyền đi tin tức đấy nhưng thật ít người nghe. Vì vậy khi lên bờ họ sống
bù lại những tháng ngày lênh đênh trên biển. (Tàu cá còn khổ hơn tàu buôn nhiều.
Tàu buôn trên biển là chỉ hành trình. Chẳng tàu buôn nào cày cuốc lao động ba
tháng liền trên biển như tàu cá). Có người còn không biết Tổng bí thư Đảng, Chủ
tịch Nước là ai.
Bôn biết chẳng thể gò anh em vào khuôn phép. Nhưng anh cố gắng
thu hẹp khoảng cách giữa anh với những người ở đất liền. Nếu không có gì cản trở,
anh nghe không bỏ sót một buổi phát thanh nào. Mỗi chuyến biển anh đều lên thư
viện mượn một hai quyển sách và tranh thủ đọc. Trên tàu có hai thủy thủ giống
anh: mượn sách. Giáp và Mai. Mai mượn sách văn nghệ: Quy luật của muôn đời.
Rừng xà nu. Chiếc lược ngà. Giáp mượn sách lý luận, sách chính trị. Chủ
nghĩa Lenin và vấn đề dân tộc. Đấu tranh giai cấp động lực của phát triển. Toàn
sách nặng. Mai bảo Giáp: Cẩn thận đấy. Bên Viện Triết mà biết họ điều sang là
ngành đánh cá mất toi một nhân tài đấy. Giáp cười: Mất một nhà đánh cá nhưng lại
có thêm một nhà lý luận. Thỉnh thoảng Bôn hỏi Giáp: Đọc đến đâu rồi. Giáp cười:
Đọc nát cả bộ óc dân chài mà chẳng hiểu gì. Dù sao Bôn cũng quý Mai quý Giáp. Họ
cũng đánh bạc, khi điên lên cũng rặt một giọng gai cá gúng, đuôi cá đuối, sẵn
sàng đi đến ẩu đả nhưng vẫn dành thời gian đọc sách. Những người đọc sách bao
giờ cũng hơn những người không đọc sách. Qua cơn nóng giận, họ biết mình phải
làm gì và thế nào là lẽ phải. Anh chẳng thể bắt mọi người trên tàu đều đọc
sách. Anh chỉ đòi hỏi họ điều tối thiểu: Phải bảo đảm nội quy, đảm bảo chế độ
trực ca, phải hoàn thành chức danh nhiệm vụ. Như Chiêm đây, tếu táo thế nhưng
là một máy phó miễn chê.
Anh bước bên Chiêm như một người em bước theo một người anh,
vì đất vỉa hè Vũng Tàu này là đất của Chiêm. Anh cám ơn Chiêm vì Chiêm đã giải
thoát cho anh khỏi một tình huống khó xử: Đi đến nhà Nhâm. Nhâm cùng quê với vợ
anh: Cẩm Giàng Hải Dương và có họ xa với vợ anh, vai vế còn là chú vợ anh nữa.
Nhâm cũng đã một thời gian làm thủy thủ trưởng cho anh. Người nhỏ thó, nhưng
công việc luôn hoàn thành. Các thiết bị trên boong luôn được vệ sinh, che đậy,
chăm chút. Bôn nhớ nhất cái lần đi ngang qua vùng biển Quy Nhơn, gặp bão. Buổi
sáng trời vẫn đẹp. Gió chỉ hây hẩy. Những con cá chuồn bay thành đàn qua tàu,
nhiều con lao xuống boong, lao vào vách cabin như những viên đạn. Thế nhưng đến
chiều trời chuyển. Bôn cho tàu chạy tiếng ba, cố vượt qua cơn bão. Nhưng không
kịp. Gió về nhanh quá. Chập tối gặp bão. Tàu nghiêng ngả. Mấy chục chai gió, mỗi
chai nặng non tạ xếp trên boong lái đã chằng buộc bằng dây cáp cẩn thận, xô vào
nhau kêu rầm rầm. Nếu nó hất tung dây chằng thì thật nguy hiểm. Những bình thép
như những quả bom sẽ lăn trên boong, xô vào nhau, thúc vào miệng hầm cá, nguy hại
hơn là đâm thủng be tàu và đến lúc ấy tất cả sẽ bó tay, bởi không ai có thể bước
ra giữa những bình thép lăn lóc, lao điên cuồng trên mặt boong nghiêng ngả. Bôn
cùng anh em xông ra, trong ánh đèn pha mọi người dùng tay ghì lại sợi cáp chằng
đang lỏng dần. Những hạt mưa chéo quất rát mặt.
Gió thổi nghiêng người.
Tàu tròng trành khiến nhiều người trượt ngã. Cái chính là phải
có những sợi dây mềm như dây ni lông, dây manila. Dây cáp cứng quá. Khó ghì. Lạt
mềm buộc chặt. Các cụ đã nói vậy. Vừa nghĩ đến sợi dây mềm thì Nhâm ở đâu chạy
ra với một tấm lưới ni lông cũ. Nhanh như chớp, tấm lưới được tung ra choàng
lên toàn bộ mấy chục bình thép. Rồi từng mối dây được buộc, được cột chặt vào
be, vào trụ ván, vào bệ tơi, vòng quanh cả miệng hầm cá. Tàu chạy dăm hải lý
thì ra ngoài vùng bão. Căn cứ vào dự báo của nha khí tượng, Bôn đã tính toán
tàu sẽ qua vùng biển ấy bão mới đến, nhưng bão đã đi nhanh hơn dự báo nên tàu
anh chỉ chịu bão có nửa tiếng đồng hồ. Âu cũng là một bài học kinh nghiệm. Cũng
chỉ bởi Bôn không muốn chạy vào đảo trú gió. Nửa ngày vào, nửa ngày ra. Lại phải
chờ ít nhất một, hai ngày cho bão tan...
Là người hiền lành chịu khó, Nhâm được nhiều người mến. Nhâm
không thắc mắc với ai, kèn cựa với ai. Kiểu gì cũng xong. Anh em bảo thánh nhân
đãi kẻ khù khờ. Vừa chuyển sang tàu 2 được mấy tháng, đã được cùng cả tàu chụp ảnh
làm hộ chiếu đi nước ngoài. Đi ngay từ những chuyến đầu tiên. Nhâm đã lấy một
cô vợ ở Vũng Tàu. Đã mua nhà. Cha mẹ mất cả. Bốn nhăm tuổi vẫn độc thân. Cũng
đã một lần lấy vợ ở quê, nhưng lấy phải người chẳng ra gì. Chồng đi biền biệt, ở
nhà một mình, vợ Nhâm trở thành mụ Hến của đám nghêu sò ở xã, đẻ ba năm hai đứa,
chẳng biết con ai nhưng chắc chắn không phải con Nhâm. Từ bấy Nhâm không về
làng nữa. Biết Nhâm buồn, muốn có vợ, có một gia đình, anh em chia sẻ với Nhâm
bằng cách của những người thủy thủ:
- Vợ con làm gì. Cứ đâm bậy một thương rồi bỏ chạy.
Thế là mọi người thương Nhâm đấy. Bởi họ biết rằng Nhâm chẳng
bao giờ "đâm bậy một thương rồi bỏ chạy" như họ. Nhâm không chơi bời.
Nhâm ăn tiêu đúng kế hoạch, cố gắng dành dụm. Tàu sửa chữa, bao giờ Nhâm cũng
cùng anh em nhận một công việc gì đấy như gõ gỉ, vệ sinh hầm la canh, dưới khẩu
hiệu giải phóng tàu nhanh nhưng thực chất là để có thêm thu nhập. Chẳng biết số
tiền Nhâm dành dụm được bao nhiêu, chỉ biết khi được đi nước ngoài, mọi người kể
cả thuyền trưởng, máy trưởng đều phải đi vay tiền và nhận vàng từ những người
thân gửi mua cái áo lông, cái quạt cũ, cái đầu máy khâu làm vốn buôn ban đầu
nhưng Nhâm thì không. Có đánh hàng Nhâm cũng chỉ làm vừa phải. Nhiều lắm là gấp
hai lần tiêu chuẩn. Mà chủ yếu là những hàng như thuốc lá, thuốc con nhộng, xà
phòng thơm, xích líp, máy tính bỏ túi, những thứ gọn, nhẹ, qua mặt hải quan được,
những thứ bông hoa nhỏ được. Những bông hoa nhỏ là danh từ
anh em chỉ việc mang hàng ít một lên bờ, nói theo tên gọi chương trình truyền
hình dành cho các cháu thiếu nhi hồi đó. Trong những lần hoa nhỏ ở
Vũng Tàu, Nhâm đã gặp người sau này sẽ là vợ Nhâm: Một cô bán thuốc lá vỉa hè.
Đang xách túi đi tìm người bán hàng quen thì có tiếng gọi "anh có gì bán đấy,
cho em coi nào". Tiếng gọi ngọt ngào, dễ thương gần như nũng nịu. Nhâm bước
lại. Một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi. Son phấn, xinh tươi, người miền Nam mà da
trắng thế. Thuốc lá, xà phòng, máy tính,... cô mua hết. Khi Nhâm về, cô đứng
lên chỉ tay vào ngôi nhà tối ngay sau lưng:
- Em ở đây nè. Tầng hai. Có hàng anh mang đến cho em, bao
nhiêu em mua hết. Em trả như người ta, không để anh thiệt. Không thấy em ngồi
đây, anh cứ vô nhà. Hỏi em ai cũng biết. Em kêu tên Huệ. Dễ nhớ lắm mà.
Thế là tất cả những hàng bông hoa nhỏ chuyến ấy và
những chuyến sau Nhâm đều bán cho Huệ. Rồi Huệ mời Nhâm lên căn buồng xoàng
xĩnh độc thân của Huệ. Rồi chuyện mua đô la Nhâm cũng chẳng phải lo nữa. Đã có
Huệ. Nhâm thấy Huệ là người hiếm có ở chỗ trong việc mua bán Huệ rất thật thà.
Mua hàng của anh, Huệ chưa bao giờ trả thấp hơn những anh em thuyền viên khác,
cũng như Huệ tính giá đô la với anh chưa một lần cao hơn.
Tất cả mọi chuyện ấy, Nhâm giấu kín. Anh em dưới tàu không một
ai biết. Nhâm chỉ kể khi hai người quyết định lấy nhau. Cả tàu đã lên thăm căn
buồng của Huệ giờ đây là căn buồng hạnh phúc của hai người. Cô ấy chính quê An
Giang, chẳng hiểu làm sao lại lấy chồng Vũng Tàu. Nhà này là nhà thuê của nhà
nước. Thằng chồng quá khốn nạn suốt ngày rượu chè, đánh đập cô ấy. Không chịu
được, cô ấy đã li dị. Đã có một đứa con, nhưng nó chết vì sốt xuất huyết cách
đây ba năm. Đại khái cái lý lịch trích ngang của vợ do Nhâm kể là như vậy.
Lấy vợ được mấy tháng trông Nhâm thay đổi hẳn. Hoàn toàn là một
người khác. Béo đỏ, da căng. Mặt mày tươi tắn sáng sủa mỡ màng, không còn làn
da khô khốc đen sạm trên khuôn mặt khó đăm đăm lúc nào như cũng đang suy nghĩ
căng thẳng, tính toán một điều gì. Tàu về, không phải trực là lên bờ, về với Huệ.
Là những bữa ăn ngon, bổ, những gà ác tần hạt sen, là chim hầm thuốc bắc, là rượu
thuốc (cưng uống bia ít thôi, uống thứ ấy chỉ tội nặng bụng, không được việc gì
cho em là em bắt đền đó nghe cưng) là cô vợ trẻ thơm nức từ gót lên đến đầu với
những bộ váy áo mỏng manh quyến rũ hết lòng chăm sóc chồng, sẵn sàng chiều chồng
bất cứ lúc nào, lúc nào cũng thương chồng vất vả. Là những buổi xe máy thong thả
đèo vợ đi lượn phố hay vào các hiệu may chọn mặt vải đo cắt cho Huệ. Căn buồng
của Huệ chật cứng những đồ đạc đắt tiền. Cái tivi màu 19 inch mua ở Nhật. Chiếc
tủ lạnh Toshiba hai cánh 250 lít cũng là của Nhật. Rồi dàn loa, rồi quạt máy, rồi
điều hòa, cả đến cái tủ trang điểm của Huệ cũng là đồ Nhật xịn. Chiếc tủ đứng
cũ kỹ được thay bằng chiếc tủ gỗ cẩm lai mới cứng. Rồi xa lông. "Vợ Nhâm
phải đúng là vợ Nhâm chứ!" Anh em đến chơi nhà đều mừng cho Nhâm, khen
Nhâm tốt số. Cũng lại là thần hoàng đãi kẻ ngẩn ngơ! Rõ ràng Nhâm đã đổi đời.
Và cũng rõ ràng căn buồng trên gác hai này đã trở nên quá chật. Huệ bàn với
Nhâm mua một căn nhà khác. Một ngôi nhà hai tầng mặt tiền của một gia đình chuẩn
bị vượt biên. "Cùng lắm mới phải chịu ở thế này thôi cưng. Em muốn chuyển
từ lâu rồi nhưng không có tiền phải chịu. Rồi còn sinh con nữa chứ cưng. Hình
như em mang bầu rồi đây nè..." Huệ kéo chiếc váy mỏng lên rồi cầm tay Nhâm
day day xoa xoa vào bụng mình, nũng nịu. Khi Nhâm đồng ý mua ngôi nhà ấy (ai cũng
công nhận rẻ được một cây) Huệ đánh đu lên cổ Nhâm làm Nhâm loạng choạng đổ xuống
giường, và thế là một cuộc ngẫu hứng bất chợt ngoài dự kiến đưa hai người tới
thiên đường...
Nhâm làm tất cả cho ngôi nhà mới mua thêm đẹp. Chăm chút từ
màu sắc tường, màu sơn cửa, tấm rèm tới bức tranh treo tường, chiếc đèn ngủ. Và
luôn miệng: Vợ Nhâm phải đúng là vợ Nhâm chứ. Mọi người bảo Nhâm tốt số, từ bé
đến giờ không được ai thương yêu chăm sóc, bây giờ như vậy chẳng qua là luật bù
trừ. Chiêm lắc đầu:
- Ông Nhâm vất vả quá. Cứ đâm bậy một thương rồi bỏ chạy có
phải nhàn nhã hơn không.
Thế nghĩa là Chiêm mừng cho Nhâm đã nên người. Bôn
cũng vậy. Cánh tàu khối người bồ bịch, có người có cả vợ hai. Điều ấy Bôn phản
đối. Ái tình phí nhiều đã hẳn, cắt hẳn một khoản trong ngân sách lẽ ra của vợ
đem cho bồ là phạm vào đạo đức, chưa kể nhẫn tâm lừa dối người vợ cùi cụi nuôi
con cho mình ở nhà khi mình đi biền biệt và vẫn tin rằng chồng chung thủy với
mình.
Mà khốn nạn. Trừ những anh đi nước ngoài nhiều ít thế nào
không biết, anh em đánh cá tiền có được là bao! Tàu anh, anh nghiêm cấm điều
đó. Nhưng kiểu ăn bánh trả tiền hay nói theo cách của Chiêm đâm bậy một thương
rồi bỏ chạy thì anh coi là cũng được. Cuộc đời thủy thủ tàu cá nào có mấy niềm
vui. Hơn nữa, anh cũng chẳng thể cấm đoán anh em.
Kìa. Cái ngã tư có ngôi nhà chung quanh trồng toàn hoa giấy
đã hiện ra. Qua đó rẽ phải là đến.
- Không biết ông Nhâm có nhà không.
- Tàu về hai ngày rồi. Chắc tối nay thế nào người cũng bông
hoa nhỏ.
- Đến không gặp ông ấy thì ngồi với bà Huệ một lúc.
- Nghe nói ông Nhâm chỉ đi chuyến này rồi lên bờ có phải
không.
Bôn gật đầu:
- Chuyến này xong là lên. Hôm nọ nghe Thục tổ chức nói thế.
Lên là đăng ký rồi tổ chức cưới đấy.
- Hai năm đi nước ngoài. Ông ấy trúng số độc đắc còn gì. Có
nhà. Có vợ. Lại được cô vợ đảm, chiều chồng hết ý. Lên bờ xin hưu non mở cửa
hàng cà phê giải khát sống đỉnh đương. Chẳng phải đi đánh cá làm gì.
- Mình cũng nghe Nhâm nói sẽ nghỉ ngơi một năm rồi mở cửa
hàng giải khát.
Cửa nhà Nhâm mở rộng, đèn tuýp sáng choang hắt ra hè. Chắc
ông Nhâm có nhà rồi. Ngồi một tí thôi. Làm lon bia rồi về. Cảnh thủy thủ về bờ.
Chẳng nên ám lâu.
Bôn bảo Chiêm. Chiêm đồng ý ngay, nhưng lại nói: "Bao giờ
thấy mụ Huệ lườm nguýt mới về. Cho mụ ấy tức một trận. Mụ ấy là ngấu lắm rồi".
Thế nhưng vừa bước tới nơi, hai người sững lại ở cửa. Ngồi xa
lông ngay phòng khách là một người đàn ông to béo, cởi trần bụng phệ, trên
mình, trên hai cánh tay không chỗ nào không vằn vện những hình xăm trổ, cái quần
xà lỏn màu cháo lòng, vừa rít thuốc lá vừa dán mắt vào màn hình tivi có hai người
một nam một nữ đang ngửa cổ ca cải lương. Ghế bên kia là hai đứa trẻ, hai chị
em, đứa lớn khoảng mười tuổi còn thằng em kém con chị chừng một hai tuổi. Một đứa
hỏi:
- Ba! Sao ảnh lại bỏ cô Thúy, ba?
Người đàn ông gắt:
- Cứ coi tiếp đi rồi biết. Con Nhẫn! Mở tủ lạnh lấy cho ba
lon bia nữa!
Hai người khách - vốn dĩ nhút nhát khi đến nhà một người lạ,
lại càng thận trọng hơn trước những gì đang xảy ra, nép vội vào bóng tối vỉa
hè. Không. Đúng là nhà Nhâm. Chiếc tủ lạnh Toshiba 250 lít hai cánh, bộ xa
lông, cái rèm treo cửa sổ, bộ đèn chùm. Lại bức tranh hai con dê gặp nhau trên
chiếc cầu bắc ngang suối sâu. Đúng là nhà Nhâm. Không nhầm mà. Nhưng ba bố con
người đàn ông này là ai? Chỉ nhìn cách họ ngồi xem tivi, cách uống bia của người
bố, cách mở tủ lạnh của đứa con gái thì rõ ràng họ là chủ ngôi nhà này. Kia rồi!
Huệ! Huệ với chiếc váy liền áo, tóc búi cao từ phòng trong bước ra. Hình như vừa
tắm xong. Tươi tắn, mát mẻ, rạng rỡ và thỏa mãn. Vẻ thỏa mãn của những người đạt
được ước mơ.
- Chị Huệ.
Theo phản ứng bản năng, Chiêm cất tiếng gọi. Cả bốn người
trong nhà quay ra. Người đàn ông đứng lên, khệnh khạng bước tới. Cao lớn, tay
chân nung núc thịt, gườm gườm nhìn hai người. Rồi Huệ. Huệ với nét mặt thay đổi
hẳn, đanh lạnh, cáu kỉnh, nhăn lại ghê tởm như trong thấy một ổ vi trùng lúc
nhúc. Hai đứa trẻ lại dán mắt vào tivi, chiếc tivi màu 19 inch thời đó là cả một
sự mê mẩn. Quá bất ngờ, nhưng thôi, đành phải hỏi thôi, chẳng thể nào rút lui
được nữa.
Bôn bước lại sát bậc cửa. Chiêm theo sau. Nhìn cảnh này Chiêm
đã đoán ra cơ sự rồi. Nhưng vẫn phải bước theo để có gì còn chia lửa với thủ
trưởng. Người đàn ông không giấu vẻ giận dữ:
- Huệ. Người ta hỏi em nè.
Bôn lịch sự khe khẽ:
- Chị Huệ à. Anh Nhâm có nhà không chị?
Huệ tròn mắt miệng há hốc như đột nhiên đứng trước những quái
thai quái gở nhất trên đời, không thể nào hiểu nổi:
- Nhâm nào? Ớ đây làm chi có ai tên Nhâm. Kỳ quá à!
Và quay ngoắt đi vào phía trong, ném một cái nguýt dài. Người
đàn ông bước xáp tới Bôn, mắt long lên:
- Vớ vẩn! Xéo! Biến! Lần sau đừng có đến đây giở trỏ vớ vẩn
ra nữa nhé. Hối không kịp đó. Nói trước cho biết!
Chiêm tươi cười:
- Vâng. Chúng tôi xin lỗi.
Hai người lặng lẽ bước tới ngã tư, nơi có ngôi nhà trồng toàn
hoa giấy.
- Đau quá. Ông Nhâm đau quá.
- Cú lừa này mới là cú lừa thế kỷ.
- Ky cóp cho cọp nó xơi.
- Cao thủ. Đại cao thủ. Cho vợ mình làm vợ người ta một năm
trời để chiếm toàn bộ dinh cơ. Đúng là đại cao thủ.
Cả hai đều hiểu ngay tất cả đầu đuôi câu chuyện. Cái mỹ nhân
kế ấy phải nhằm đến đích mua một ngôi nhà. Và ngôi nhà ấy mang tên Huệ là chủ sở
hữu. Nhâm không thể đứng tên hoặc đồng đứng tên bởi một lẽ giản đơn: Nhâm không
có hộ khẩu. Lại không có đăng ký kết hôn.
- Suốt một năm vừa rồi không thấy thằng chồng với hai đứa con
lai vãng đến đây. Thế mới sợ.
Hai người đều thương Nhâm và cảm thấy hận thay cho Nhâm. Giá
Nhâm chơi bời trai gái đĩ bợm lại khác. Lừa những người ấy là khốn nạn nhưng vẫn
có thể chấp nhận được. Còn đây là Nhâm. Một người độc thân. Ngoài bốn mươi
nhưng vẫn chưa biết thế nào là tình yêu. Chiêm nói thành lời suy nghĩ của mình:
- Khổ thân ông ấy. Hai lần lấy vợ đều bị vợ lừa cho nên sếp
thấy triết lý của tôi có đúng không! Cứ là đâm bậy một thương rồi bỏ chạy.
Chiêm cố cười. Còn Bôn không sao cười được.
° ° °
Trên bảng đen trong bếp chú Hùng ghi:
15 giờ 15 TL (thả lưới)
17 giờ 45 KL (kéo lưới)
Bên cạnh đó không biết ai đã vẽ hình con tàu của chúng tôi
nom rất giống.
Trong thời gian tàu dắt lưới tất cả ngủ, chỉ trừ chú Lượng và
chú Hùng đi ca hàng hải. Dưới buồng máy cũng có một thợ máy, tôi không biết là
ai. Cuộc sống trên tàu thật đơn điệu. Những cái máy ăn. Những cái máy ngủ. Nhìn
bố nằm ghếch chân lên thành giường mệt nhọc, những ý nghĩ giận hờn, hụt hẫng thất
vọng tối hôm qua trong tôi có dịu đi phần nào. Tàu trở lại hoang vắng. Biển
càng hoang vắng.
Một ngày một đêm tưng bừng phấn khởi. Toàn tàu linh hoạt hẳn
lên. Bố linh hoạt hẳn lên. Bố gọi chú Hùng đang ở buồng lái vào, hai người cặm
cụi trên hải đổ, đo đo tính tính. Mẻ nào cũng đạt trên một tạ tôm. Và rất nhiều
cua. Những con cua bể giơ càng lởm chởm răng cưa dữ tợn. Nhặt tôm, muối cá và
buộc cua. Có mẻ lưới không có thời gian ràng cua mà cứ lấy xẻng xúc vào lổ đổ
vào nhà tắm rồi đóng chặt cửa lại. Những lúc mở cửa nhà tắm bỏ thêm cua vào,
nhìn đống cua lổm cổm bò mà sướng mắt, mà phát khiếp: Chúng đổng loạt giơ càng
lên cao như một rừng giáo mác. Trong lúc ngổi nhặt tôm với các chú thủy thủ, một
con cua không biết từ đâu bò đến cắp vào mông tôi xuyên qua lượt quần lót máu
chảy ròng ròng. Tôi đứng lên, con cua treo mình lủng lẳng càng cắp mạnh. Tôi cố
gắng không kêu, không chảy nước mắt. Bác Sĩ vội xỏ găng tay vải bạt bẻ cái càng
còn lại rồi ghé mồm cắn nát một gọng kìm của chiếc càng đang cắm sâu vào thịt
tôi. Tôi phải vào buồng lấy dầu xanh xoa vào vết thương. Đúng là vết thương.
Cái quần đùi bị thủng hai lỗ và ở mông tôi hai vết trũng rỉ máu như hai vết
răng chó.
Tôm vàng. Cua bể và cá. Sáu mẻ lưới liên tiếp thắng lợi. Mọi
người nhìn bố đầy vẻ kính phục. Họ nói với nhau: Ông Đáng bám tôm như ông Uy
bám cá mối, không chạy đi đâu được. Và hát: "Không cho chúng nó thoát.
Không cho chúng nó thoát. Chúng bay vào sẽ không có đường ra". Niềm vui từ
đáy lòng nên thật là đồng cảm. Bây giờ tôi hiểu những mẻ lưới được nhiều tôm cá
làm mọi người mệt nhưng vui vì những lý do gì rồi.
Đêm qua ngủ ngoài boong mũi. Chăn dạ trùm kín dù đang giữa
mùa hè. Mơ mơ màng màng thấy tàu đến gần những con tàu ngoại quốc lớn đang
buông neo. Ánh điện trên tàu sáng chói một vùng trời một vùng biển. Rồi lại thấy
hàng măng sông lưới đèn sáp lại, lấp lánh. Biết rằng mình ngủ được vì từ những
con tàu ngoại quốc buông neo chờ vào cảng đến những vàng lưới đèn cách nhau xa
lắm.
Sáng làm tôm xong, mặt trời vẫn chưa mọc. Biển hiền lành. Trời
dịu, biển dịu. Nhưng khi có một mảng hồng đầu tiên trên trời, biển đổi màu
ngay. Từ đó là một sự đổi màu liên tục của biển vì trời đổi màu liên tục.
Mẻ lưới buổi trưa chỉ được mấy con cả dưa, một đống cả ngảc.
Một chú thủy thủ cầm con dao nhọn rạch một nhảt vào bụng con cả dưa, moi ra cái
bong bóng ròng ròng mảu, vặn nước rửa sạch rồi đem phơi. Còn cả ngảc thì xịt nước
cho giạt ra be xuống biển. Bố bảo: Chuyển về Vạn Sơn thôi. Đàn tôm vàng hết hoặc
tan rồi.
Tàu lại cẩu lưới chuyển về Vạn Sơn. Là nói vậy thôi chứ tôi
thấy vùng biển nào cũng giống vùng biển nào. Cũng sóng cũng nước và nhìn về
phía tây thỉnh thoảng lại thấy vệt xanh mờ của cây cối thì biết phía ấy là bờ,
là đất liền.
Vạn Sơn. Đêm. Trăng chênh chếch. Chuông kéo lưới. Mảy giảm tốc
độ. Đèn tối lại. Quạt chạy chậm lại. Mẻ lưới được ít nhưng nhiều tôm he. Những
con tôm he râu và vi bụng đỏ như mảu tươi nom thật thích mắt. Bảo đảm mẹ tôi
cũng như cả làng chưa ai nom thấy những con tôm như thế. Tôi nhặt năm con tôm
he to định đem xuống bếp nướng, nhưng chú Hồng gọi lại: Cho vào ống xả. Một lúc
là chín thôi cu ạ. Chờ chú. Chú Hồngxảch một con cả chim trắng to như cái quạt
đi cùng với tôi lên chỗ ống khói. Hơi nóng tỏa ra. Chú xỏ một sợi dây vào mang
con cả chim, rồi kẹp mấy con tôm của tôi lại, cho vào ống xả. Chú Lượng đổ cả một
rổ tôm tít vào nồi bắc lên bếp luộc. Làm xong mẻ lưới, mọi người tụ tập cả ở
boong lải. Bảc Nhớn xảch can chíu chương đã vơi vơi, một can rượu còn đầy lên.
Tôi bóc con tôm he nướng thơm phức mời bảc Suất, mời bảc Sĩ, mời bố, nhưng tất
cả bảo nhường tôi. Con tôm he to chấm tương ớt cắn một miếng đẫy mồm đẫy miệng.
Vị tôm ngọt thơm, vị chíu chương cay cay. Cố gắng lắm tôi cũng chỉ ăn hết hai
con. Ba con còn lại được bác Nhớn, chú Hùng, chú Quẹn tương trợ. Rượu rót ra
chén ra cốc nhựa. Tôi cũng có một chén rượu đầy. Nhưng bố bảo:
- Thằng Phong không được uống rượu.
Tôi lại đặt chén xuống, mặc dù không muốn vâng lời chút nào,
không muốn bị coi là trẻ con chút nào.
Nhưng bác Sĩ nói giúp tôi:
- Hôm nọ bên tàu ông Việt nó đã uống rồi đấy. Uống được. Con
trai là phải biết uống rượu. Nam vô tửu như kỳ vô phong. Bác xin phép bố cho
mày rồi. Uống đi. An những thứ này mà chiêu nước chè còn ra cái quái gì.
Tôi uống. Không bị sặc nữa. Nhưng vẫn cay quá. Nước mắt muốn
chảy ra. Đúng là có hớp rượu, lại thấy muốn ăn. Tôi bóc một miếng cá chim. Rồi
quay sang rổ tôm tít. Cái giống tôm bé, đầu to, có hai càng giống như hai càng
cua này ăn rất mát ruột. Trăng sáng. Gió đã nhẹ đi nhiều. Sóng êm hơn. Chén rượu
đầy để trên mặt boong chỉ sóng sánh chứ không nghiêng đổ ra ngoài. Đó là những
giờ phút thư dãn đầm ấm dễ chịu nhất trên tàu, trong cuộc đời thủy thủ. Chú Hồng
cười:
- Cứ thế này thì đi biển muôn năm!
Rồi lại:
- Biển này là biển hiền hòa. Biển này là bạn phương xa!
Bác Sĩ mỉa mai:
- Thuận buồm xuôi gió chén chú chén anh. Lên thác xuống ghềnh
buồi anh dái chú.
Bố tôi bảo:
- Cố gắng đảnh được tấn rưỡi tôm thì về.
Rượu làm tôi lâng lâng. Các chú các bác rất cởi mở vui vẻ.
Con cá chim đã biến mất hoàn toàn. Xương, vây, đầu cũng không còn. Rổ tôm tít
chỉ còn lại vỏ. Bác Sĩ vào phòng đem ca chè trứ danh cùng phích nước ra. Tôi đứng
dậy đi ra vịn lan can nhìn biển. Trăng chênh chếch lấp lánh. Những gợn sóng đẫm
trăng rượt theo nhau như đã hẹn nhau đi tới một nơi nào đó, không dừng lại. Tàu
vẫn đi, nhưng dù có quay ngược, quay xuôi thế nào cũng vẫn là một vệt trăng
vàng bám đuổi không rời. Dòng nước phía đuôi tàu lõm xuống rồi cộn lên, hệt như
biển đang đùn lên một dòng nước bằng vàng. Tiếng dây cu roa tải máy điện (bây
giờ tôi biết những cỗ máy nhỏ vuông vức dưới buồng máy là máy điện rồi) tành
tành, tành tành. Nhiều người cũng đứng dậy bước ra mạn, vịn lan can nhìn biển.
Bố tôi bảo:
- Hồng ơi. Có nhớ Nam Cao không? Trăng chiếu trên sông và
sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng.
Bỗng ở phía xa trước mũi tàu một ngọn đèn lắc đi lắc lại rối
rít. Bác Sĩ kêu lên: "Thuyền lưới rê!" Bố vặn vô lăng về phía phải.
Bác Sĩ bảo:
- Thuyền nó ở cuối gió. Bao giờ cũng vậy. Lưới ở trên. Thuyền
ở dưới. Rẽ ra là dính lưới đấy.
Bố cho tàu rẽ trái. Một lát sau, khi chúng tôi đang quây quần
quanh đám tá lả ở buồng ăn, có tiếng thét của chú Hùng lùn: Lưới! Lưới rê! Bố vội
nhảy lên buồng lái. Khi tôi lên còn nhìn thấy một cái cờ nửa đỏ nửa trắng nhấp
nhô xa dần.
Tàu giảm tốc độ. Bố cho kéo lưới. Sợ bị quấn chân vịt.
Con tàu đã dừng hẳn dù mảy vẫn nổ. Khi trục tơi quay tròn kéo
những mét dây cáp đầu tiên, nhìn những mảng lưới cước trắng quấn chung quanh
cáp, một sự im lặng ghê gớm bao trùm tất cả. Không ai nói một câu. Nét mặt mọi
người đầy lo lắng trừ bố. Tất cả im lặng làm việc. Không một lời nhắc nhở. Làm
nhanh, làm dứt khoát. Làm vì biết nhiệm vụ phải làm. Làm để sớm xua đuổi nỗi ám
ảnh: Gỡ cho nhanh những miếng lưới rê này để khỏi lôi thôi. Và cũng để biết rằng
tàu có bị quấn chân vịt không. Ai cũng lo như vậy nên không ai dám nói ra. Nhìn
nét mặt lạnh tanh của bố, tôi biết bố đang nghĩ ngợi rất lung. Nếu quấn chân vịt,
máy không hoạt động được thì biết làm sao đây. Ba sợi cáp bị quấn chặt vào với
nhau. Một lá cờ nhỏ đỏ trắng dắt ở ròng rọc đầu tăng gông. Những con dao nhỏ đầu
nhọn sắc như nước được mang ra. Cắt lưới. Im lặng xẻo cắt. Trèo ra tăng gông. Tụt
xuống ván. Ngồi hẳn trên giềng phao, ngâm chân xuống biển. Gỡ. Cắt. Xẻo. Rồi tất
cả lên boong. Bố hạ lệnh tơi hoạt động để kéo đụt. Cái đụt đã ở ngay sát ván mà
sao kéo không lên. Tang tơi cuộn từng vòng. Pu li rít ken két. Dây kéo đụt bằng
ni lông trắng ngà to ngang chuôi dao căng thẳng. Đụt vẫn không nhúc nhích. Một
chú nhấc dây cáp đặt lại trên be. Tơi lại rít ken két. Tàu hơi nghiêng đi. Mãi
mới nhổ lên được cái đụt bê bết đất. Đụt bên kia cũng vậy. Lèo tèo vài kí tôm.
Làm xong là mười một giờ đêm. Mọi người đã tưởng thôi không đánh nữa. Và đã có
tiếng khe khẽ:
- Về đây là đè lưới rê ngay thôi mà.
- Cứ ở Lạch Trường lại hơn.
- Quyết đạt một tấn rưỡi tôm để làm gì nhỉ.
Không biết bố có nghe thấy không. Bố lên buồng lải giật
chuông. Mảy nổ. Tiếng mảy giòn giã. Những bọt nước quạt lại phía sau trong ảnh
đèn pha lúc này sao đảng yêu đến thế. Nó chứng tỏ tàu vẫn bình thường, khôngphải
thả trôi. Không phải nhờ tàu đến cứu. Tiếng bố:
- Chuẩn bị thả lưới nhé!
Nhiều tiếng ngạc nhiên hỏi lại:
- Thả lưới à?
- Ừ. Thả lưới. Bố đảp nhẹ nhàng.
Đám người vừa lao động khẩn trương căng thẳng ôm đống lưới mới
được buộc lại xốc xuống biển. Bố lại ra đứng chỗ chân cần cẩu nhìn xuống. Bảc
Sĩ nhìn theo chiếc lưới còn chưa duỗi hết đang quấn vào nhau trong nước biển
phía đuôi tàu dưới ảnh đèn pha, hốt hoảng:
- Sao thế kia.
Bố ôn tồn:
- Tốt. Không việc gì đâu.
Tàu đi. Dưới nước, lưới duỗi xuôi đẹp xa dần, chìm dần. Xong
mọi công việc lúc ấy mới thấy trăng vàng vẫn chênh chếch mặt biển. Nhưng thôi
ăn mì đã. Mặc dù đã ăn cả chim nướng, tôm tít luộc và cả tôm he nữa, bảc Nhớn vẫn
nấu nồi mì tôm phục vụ mọi người đêm nay vất vả.
Đêm tôi lại ngủ trên boong thượng. Boong mũi vẫn còn mùi tanh
của bữa ăn bốc lúc tối. Mơ mơ màng màng. Nghe có tiếng quảt. Và tiếng chú Hùng:
"Không. Không có gì đâu". Ngồi nhỏm dậy thấy trong ảnh đèn hành trình
hai cảnh buồm mở rộng, một chiếc nhô lên ngay mũi tàu. Và những người đứng trên
thuyền lố nhố. Những người đi tìm lưới rê, tìm con tàu đã làm mất lưới của họ.
Họ khua tay ra hiệu tàu dừng lại. Tiếng quát to:
- Tàu làm mất lưới rê của chúng tôi. Cho chúng tôi lên tàu.
Chú Hùng thét:
- Chúng tôi không biết lưới rê lưới kéo gì cả. Tránh ra, tàu
đâm chúng tôi không chịu trách nhiệm.
Những người trên thuyền vẫn huơ tay ra hiệu. Sóng làm hai
cánh buồm lúc hút xuống lúc nhô lên ngay bên mạn. Chú Hùng giật chuông. Máy
tăng tốc độ, rùng rùng rướn tới bỏ lại chiếc thuyền buồm chở những người đánh
cá mất phương tiện sinh sống trong bóng tối biển cả mênh mông. Tôi nằm, không
ngủ được. Tôi ghét chú Hùng. Tôi ghét bố. Bây giờ tôi càng hiểu vì sao khi tàu
quấn lưới rê, cả tàu phải cắt lưới và làm mọi việc nhanh như thế. Tôi thương những
người đánh lưới rê. Trong bữa ăn tôi đã được nghe mọi người nói về lưới rê. Đó
là thứ lưới thả nổi, dài hàng mấy trăm mét, rất nhiều tiền. Cuộc sống thật gian
nan, vất vả, cực nhọc đầy rẫy những chuyện đau lòng.
Bố đã thức dậy đi ra buồng lái: Cái gì thế? Chú Hùng trả lời:
Không có gì đâu. Họ đi tìm lưới rê đấy mà. Bố nhắc: Giảm tốc độ đi. Chú Hùng
kéo tay chuông: Vừa nãy họ cứ chắn mũi tàu. Tăng tốc dọa họ tí thôi. Đã định nếu
không tránh là mang súng ra bắn chỉ thiên. Bố nghiêm mặt: Đừng. Súng ống rách
việc.
° ° °
- Buông dây lái cho xà lan dầu! Buông dây lái cho xà lan dầu!
- Mở van nước không vỡ ống bây giờ! Mở van nước ngay!
- Xông hết dây mũi, chỉ để lại một tao thôi!
- Xông từ từ dây mũi ra!
- Xông từ từ dây lái ra!
- Thu hết dây lái về! Thu hết dây lái về!
- Chuẩn bị dây lái để ném dây lái!
- Thu nhanh dây lái nếu bắt được dây lái!
- Ném lại đi! Chỉ ném một đoạn dây mồi cũng không xong!
- Ném dây lái lại đi!
Những tiếng loa vang động cả xí nghiệp rồi tắt hẳn khiến người
ta biết ngay là tàu ông Chơn đang ở bến. Và sau những mệnh lệnh khi nghiêm khắc,
khi càu nhàu gắt gỏng ấy là những tiếng còi tàu chứ không phải Đi mô chừ
cũng nhớ về Hà Tĩnh thì người ta biết tàu ông Chơn tách bến đi sản xuất chứ
không phải từ ngư trường về cập bến.
Trên buồng lái, Chơn nắm vô lăng, mắt căng ra nhìn về phía
trước. Tất cả một màu trắng sữa. Trời mây sông nước, trước mặt, phía sau, bên
phải bên trái, trên đầu dưới chân đều một màu trắng đặc như có thể lấy tay vốc
được. Sa mù. Trời này gọi là tầm nhìn hạn chế đây. Có cả một chương về
sa mù trong bài học hàng hải: "Khi đó chỉ được cho tàu hành trình với
tốc độ vừa phải". Chung chung quá. "Vừa phải" nghĩa là khi
phát hiện ra mục tiêu thì tớp máy sao cho trớn tàu đi chớm đến mục tiêu là dừng
lại. Thế đấy. Chẳng cụ thể tí nào. Anh phân công hai thủy thủ mạn phải, hai thủy
thủ mạn trái, hai người trên boong lái. Nhìn. Căng mắt ra nhìn. Đứng ở mũi tàu
nhìn không thấy lái. Chỉ thấy bóng cái cần cẩu mờ mờ chênh chếch chỗ hầm cá và
bóng người thủy thủ đứng bên mạn, đốm thuốc lá thỉnh thoảng lại đỏ lên. Phát hiện
tàu bạn phải tốp máy dừng lại quan sát. Đến khi thấy rõ hướng đi của họ mới dám
cho tàu mình chạy. Còi mù liên tục. Còi mù không dứt. Còi
mù như lạc bạn cất tiếng gọi. Tôi đang ở đây. Tôi đang ở đây. Với Chơn hôm
nay, tiếng còi còn như tiếng chào Hòa vẫn đang đứng trên bến nhìn theo. Chào
em. Cám ơn em. Anh đi. Hai tuần nữa anh về. Thông cảm với anh. Tu tu. Hòa nhé.
Tu tu. Tu tu. Tu tu. Anh em bảo kính coong đấy. Giống xe đạp đi vào
chỗ đông người. Kính coong. Kính coong. Tàu chạy tiếng một. Máy
xình xình một nhịp. Tiếng máy cũng như nhẹ đi. Sóng được bọc trong một lớp bông
xốp êm đềm. Tàu như rẽ lớp bông xốp mà đi. Bồng bênh. Bồng bênh. Tiếng còi đều
đều. Như gọi. Như chào. Chơn biết trên cầu cảng Hòa vẫn đứng trong sa mù dõi
theo bóng tàu anh, nghe tiếng còi tàu anh cất lên rời bến, nhưng anh không dám
quay đầu lại. Với lại có nhìn thấy gì đâu mà quay đầu với chẳng quay đầu. Sao
lúc này anh muốn có Hòa đứng bên đến thế. Để lại được ôm Hòa, cảm thấy hết chiều
dày, chiều cao, hơi nóng rừng rực tỏa ra từ tấm thân Hòa. Để lại được gục đầu
vào ngực Hòa thơm mùi sữa. Để cùng Hòa đi ra biển. Kể ra có thể lùi giờ tách bến
lại chờ tan mù.
Nhưng như thế thì chậm mất so với tính toán của anh. Và nhất
là chậm mất giờ tách bến đã được đại phó Lừng nghiên cứu kỹ. Hơn nữa biết đến
bao giờ mới tan mù. Anh cũng không muốn phá vỡ kế hoạch đã định: Ghé vào Vụng
Ngọc, đưa lên tàu con lợn non một tạ, làm một bữa lòng lợn tiết canh ra quân để
tăng thêm khí thế. Mấy tháng nằm bờ sửa chữa kham khổ quá rồi. Lại còn phải bảo
đảm thả mẻ lưới đầu tiên vào lúc hoàng hôn. Hừng đông, tắt quản, đó
là hai mẻ lưới quan trọng nhất trong cả một ngày. Đây là một chuyến đi biển thực
hiện theo cơ chế khoán mới: Lời ăn, lỗ chịu. Có thể nộp cá cho xí nghiệp nhưng
cũng có thể nộp tiền. Nghĩa là có thể bán cá ngoài biển, bán cá ở cảng. Nộp tiền
cho xí nghiệp theo định mức. Một chuyện rất khó nhằn. Đánh lưới vét là lọc nước
lấy cái. Càng lọc nhiều nước càng được nhiều cái. Mà tốc độ tàu giảm, dù mới
trung tu xong. Bởi có phụ tùng thay thế đâu. Dầu tiêu hao vượt định mức, nói
theo cánh thợ máy "tàu uống dầu hơn voi uống nước". Đó là chưa kể mấy
chục năm nay chà đi xát lại, Vịnh Bắc Bộ có còn như trước nữa đâu. Nghề lưới
vét là một nghề tàn phá môi trường, khai thác có tính hủy diệt, gần như chẳng
còn nước nào duy trì. Chỉ mỗi Việt Nam... Khó khăn. Nhưng anh quyết chuyến ra
quân thắng lợi. Không phụ lòng tin của anh em. Cố gắng đem lại thu nhập dù chỉ
là tối thiểu. Thực hiện chính sách khoán trắng của xí nghiệp, trách nhiệm của
thuyền trưởng thật nặng nề. Anh chỉ mong tàu đừng xảy ra sự cố...
Tối qua, buổi tối trước khi tách bến, như mọi thủy thủ khác,
anh lên nhà xe, lấy xe dạo phố. Đi lang thang. Như những buổi tối trước khi
tách bến, chỉ có mấy người trực ban ở lại tàu, còn tất cả lên bờ. Đi từ biệt đất
liền. Đi để nghe nhìn. Nghe những âm thanh muôn hình muôn vẻ của cuộc sống.
Nhìn những người giặt giũ, lấy nước ở vòi nước công cộng vỉa hè. Nghe tiếng ô
tô lăn bánh trên đường nhựa. Để xa nó, ra biển. Người thủy thủ có lẽ là người
có nhiều cuộc chia tay nhất. Đang vẩn vơ cảm nhận những cành lá ven đường ngay
trên đầu mình, bỗng nghe có người gọi tên anh. Hòa. Thì ra anh đang lang thang ở
phố Phan Bội Châu, ngay trước cửa nhà Hòa.
Đã lâu lắm mới gặp lại Hòa. Hòa luôn gợi cho anh những tình cảm
tốt đẹp, tin cậy, chân thật đến mức cảm động. Hòa còn làm anh nghĩ tới thời
gian đi sao thật nhanh, và con người ta biến đổi biết chừng nào bởi trước mắt
anh không phải cô Hòa vừa là trẻ con vừa là người lớn năm nào. Một cô Hòa anh vẫn
nhận ra ngay nhưng đã hoàn toàn khác. Một cô gái trưởng thành như muốn khoe tất
cả sức sống bừng dậy trên khuôn mặt, trên cơ thể. Một cô Hòa khỏe mạnh, rực rỡ
tươi tắn quyến rũ làm anh bất ngờ, gần như choáng ngợp. Hòa chạy ra sát lòng đường,
nắm tay anh, kéo anh về nhà. Đã lâu lắm anh mới bước chân lên cái hè phố này.
Nhà Huyền kia. Đứng ở trước cửa là những cô gái lạ mặt. Chắc mẹ Huyền cũng đã
chuyển nhà rồi. Anh bước theo Hòa. Lại đi vào cánh cửa ngách ấy, lối đi hẹp ấy.
Cái ô làm buồng tắm đã được chữa lại. Như đoán được những gì trong lòng anh, và
cũng giống bà mẹ trước đây, Hòa dừng lại trước cửa gian buồng tắm, bật điện. Cửa
gỗ mở, nhưng bên trong không còn xô chậu, gáo múc nước với cô gái bé nhỏ khom
người bối rối lấy tay che chỗ kín nhìn anh. Một nhà tắm với đầy đủ các la va
bô, bệ bệt, vòi hoa sen, bình nóng lạnh giữa những bức tường ốp gạch men trắng
muốt.
- Mới chữa lại đấy anh ạ.
Hòa nói và nhìn anh. Anh cũng nhìn vào mắt Hòa và thấy ở đó
có gì như giễu cợt, như trêu chòng lại như thách thức, một vẻ thách thức đầy tự
tin. Đôi mắt nói hẳn anh còn nhớ em đã tắm ở trong ấy và anh đã nhìn thấy tất cả
con người em không giấu giếm không che đậy. Ngày ấy em là một con bé con vừa
sung sướng vừa sợ hãi và xấu hổ, nhưng sợ hãi nhiều hơn vì em còn là con nít
trong khi anh đã là người lớn, mà người lớn bao giờ cũng mạnh mẽ bí ẩn, lũ trẻ
con chúng em không hiểu được. Còn bây giờ anh xem em đã là như thế nào. Em cũng
là người lớn như anh, hiểu những gì thuộc về người lớn như anh. Hòa lại nắm lấy
tay anh, cái nắm tay thân thiết làm anh xao xuyến.
- Mẹ xem con đem về cho mẹ ai đây này.
Mẹ Hòa đang ngồi ở giữa nhà, ôm một đứa bé chừng sáu, bảy
tháng, đứng vụt dậy:
- Anh Chơn. Sao lâu thế không thấy anh lại chơi.
Chơn nhìn đứa bé trong tay mẹ Hòa rồi lại nhìn
Hòa. Hai má Hòa ửng đỏ:
- Con em đấy. Cháu trai.
Thật quá bất ngờ. Anh đứng ngây người nhìn thằng bé giơ hai
tay về phía mẹ đòi bế. Hòa bế con và chìa nó về phía Chơn:
- Bác bế con nào.
Thấy người lạ, thằng bé nép vào người mẹ. Chơn giơ tay xốc lấy
nó, vô tình anh chạm vào ngực Hòa vừa mềm lại vừa căng. Nhưng nó nhất định
không chịu, cứ ôm chặt lấy cổ mẹ.
Bà mẹ rót nước rồi quay lại hỏi anh:
- Đã vợ con gì chưa. Con Hòa nó cứ hỏi thăm anh mãi đấy.
Câu ấy cứ như một lời trách móc, như muốn nói lẽ ra anh đã là
chồng Hòa và Hòa lúc nào cũng nhớ đến anh.
- Con ế bà ạ. Vẫn cứ lấy tàu là nhà, biển cả là quê hương
thôi.
- Để tôi làm mối cho một đám. Thật đấy. Giá ngày ấy anh đồng
ý em Hòa, bây giờ cũng đã con bồng con bế thế này rồi.
Anh cười. Hòa cũng cười. Cả hai cùng đỏ mặt. Thằng bé cứ rúc
vào ngực Hòa đòi bú. Hòa bảo mẹ:
- Mẹ bế cháu ra ngoài kia chơi một chốc nhé.
Còn anh và Hòa. Hai người ngồi nhìn nhau. Gái một con trông
mòn con mắt. Trước mắt anh là một phụ nữ xinh đẹp và quyến rũ. Dù quần áo rộng
vẫn thấy được một cơ thể căng đầy, nở nang, hơi xổ ra càng làm nổi tấm thân
tràn căng nhựa sống. Da sáng mịn, dưới ánh đèn vàng vọt vẫn thấy sắc hồng nơi
gò má. Nổi bật nhất là khuôn mặt đầy đặn và hai bầu ngực tròn mà anh biết vừa rắn
lại vừa mềm. Ớ hai chỗ nhô xa nhất nơi ngực ấy, sữa thấm ra làm ố chiếc áo hoa.
Không còn là cô bé Hòa nhỏ xíu năm nào dù khỏa thân vẫn chỉ gợi cho người ta ý
niệm đứng xa xa nhìn ngắm. Anh cố tìm những mối dây liên hệ giữa cô gái như vầng
trăng non mát dịu ngày trước với người mẹ một con như một mặt trời tỏa ra biết
bao năng lượng có thể thiêu đốt người khác đang ngồi trước mặt anh:
- Hòa đẹp quá. Khác hẳn trước. Hòa trông anh có già nhiều
không?
Hòa cũng chăm chú nhìn anh:
- Trông anh trẻ ra thì có.
Đến lúc ấy anh mới biết trước khi cưới, Hòa đã mấy lần xuống
xí nghiệp tìm anh đưa giấy mời, nhưng tàu anh đi biển. Chồng Hòa cũng là dân đi
biển, thủy thủ trên một con tàu vận tải Bắc Nam.
- Sao lâu thế anh không đến chơi. Hòa nói như trách móc. Mẹ
em cứ nhắc đến anh luôn. Nói thật với anh mẹ em quý anh lắm. Chỉ muốn anh làm rể
thôi.
Đó là một lời thú nhận Hòa yêu anh, vẫn yêu anh. Chơn vừa
sung sướng vừa như đánh mất một cái gì. Anh cố lấy giọng bông đùa để át đi sự
xúc động:
- Mẹ là một chuyện. Chủ yếu là em chứ.
- Thì đã có bao giờ em nói không bằng lòng anh đâu.
Rồi như một ý nghĩ vụt đến, Hòa bước lên thang gác lửng:
- Anh chờ em một tí nhé.
Từ trên gác lửng đi xuống là một Hòa khác. Không mặc bộ quần
áo vải hoa thông thường khi ở nhà, Hòa khoan thai từng bước với bộ váy liền áo
mút xơ lin mỏng màu đen. Đã thon thả lại càng thon thả. Đã nở nang lại càng nở
nang. Trông rõ chiếc nịt vú như hai cánh bướm xòe trên ngực. Trông rõ đường
cong nơi eo chạy xuống cặp chân dài. Vừa lồ lộ lại vừa bí ẩn. Anh kêu lên:
- Hòa đẹp quá.
- Anh chỉ khéo nịnh em thôi.
- Đẹp lắm ấy. Ít người có được cái dáng như em.
Hòa cười hồn nhiên:
- Ngày ấy anh chê em bé chứ gì?
- Không. Không phải chê em bé, mà em hãy còn là trẻ con. Anh
lấy người lớn. Như em bây giờ. Anh không lấy trẻ con.
Cả hai cùng cười. Hòa bảo:
- Như em bây giờ anh có lấy không?
Không trả lời, anh đặt bàn tay để mở lên bàn, chìa về phía
Hòa và đăm đắm nhìn Hòa. Hòa cũng nhìn anh rồi cúi đầu. Anh vẫn kiên nhẫn để
yên bàn tay mời gọi. Một lúc sau Hòa nhẹ nhàng đặt bàn tay mình vào đấy. Anh nắm
nhẹ bàn tay Hòa mát lạnh, rồi ấp cả tay kia lên tay Hòa. Anh đứng lên bước sang
phía ghế đối diện. Hiểu ý anh, Hòa ngoan ngoãn đứng lên. Hai người song song
sát nhau. Anh cảm thấy hơi nóng từ người Hòa tỏa ra bao bọc lấy anh. Anh ôm Hòa
nhè nhẹ. Hòa đứng nguyên trong vòng tay anh. Anh hôn Hòa nhưng Hòa quay mặt đi:
- Không được. Em bảo không được mà.
Chơn nói lắp bắp:
- Anh yêu em.
Dù không cho anh hôn, Hòa vẫn đứng nguyên trong vòng tay anh.
Anh cảm nhận hết cơ thể dày dặn của Hòa song song với cơ thể anh đang bốc cháy.
Khẽ gỡ tay anh, Hòa quay lại ghế ngồi. Chơn cũng trở về ghế của
mình, ngồi nghe Hòa nói. Chuyện Hòa lấy chồng và đau khổ là những bất ngờ liên
tiếp đối với anh. Với những tình cảm vừa bùng lên trong lòng, anh nghe Hòa với
tất cả sự chăm chú pha lẫn xót thương tiếc nuối. Chồng Hòa tên là Minh, bố mẹ ở
cả Thái Bình nên khi lấy nhau Minh dọn đến nhà Hòa. Chó chui gầm chạn như
bạn bè trêu chọc. Chính vì vậy mới phải làm thêm cái gác lửng, chứ trước đây
anh đến có thấy đâu. Cái gác này là do công sức của Minh. Minh mua ống thép.
Minh mua gỗ. Minh kéo mấy người bạn dưới tàu đến làm. Hai người đã có những
ngày hạnh phúc. Chỉ sau khi đẻ, Hòa mới biết mình bị lừa dối. Do mấy con gà. Những
con gà mẹ mua về nuôi để Hòa tẩm bổ khi sinh đẻ. Có một con đẻ. Nó nhảy tìm ổ’.
Mò vào đống than. Chui vào gầm chạn. Lên cả nhà trên. Cuối cùng nhảy lên gác bếp,
chỗ để những kìm búa, cuộn dây điện cũ, những túi, những gói của Minh, những rổ
rá, linh tinh chẳng ai đụng đến bao giờ. Khi nó từ trên ấy nhảy xuống cục ta cục
tác điếc cả tai, Hòa xuống bếp định nhặt quả trứng con so mới đẻ. Trước mắt
Hòa, trên nền bếp, những chiếc phong bì rơi tung tóe. Phong bì nào cũng đề
"Anh Nguyễn Hoàng Minh, công ty vận tải biển 2". Phong bì nào cũng những
nét chữ nắn nót con gái. Và bên trong là những lời lẽ nhớ nhung yêu đương, những
kỷ niệm không quên. Từ nhiều địa chỉ. Những địa chỉ, những bến cảng tàu Minh đã
ghé vào ăn hàng hoặc bốc hàng. Có những bức thư trước ngày cưới và nhiều bức gửi
sau ngày cưới...
- Thật không ngờ. Đã bao nhiêu ngày đêm em mong anh ấy. Mong
anh ấy bước vào nhà. Mong anh ấy nằm bên em. Thì ra em chỉ là chỗ để anh ấy đi
về, khi anh ấy không có ai. Em đã bị lừa dối, phản bội trước cả khi cưới. Mà
anh biết đấy. Em trong trắng như thế nào.
Chơn không biết nói gì. Còn Hòa im lặng. Rồi chính Hòa bước tới
bên anh, đặt hai tay lên vai anh. Anh đứng lên, một nỗi xót xa khiến anh ôm chặt
lấy Hòa.
- Chỉ tại anh đấy. Không. Anh đừng sợ. Mẹ chưa về đâu. Biết
anh đến chơi với em là mẹ không về đâu. Đến với em luôn anh nhé.
Nét mặt Hòa vừa đau đớn vừa tin cậy. Anh không hôn Hòa, chỉ lấy
tay vuốt dọc lưng Hòa:
- Bảy giờ sáng mai anh đi biển rồi. Nửa tháng nữa mới về. Anh
sẽ đến em luôn.
Rời nhà Hòa, anh đi như người mộng du. Có lẽ anh là người về
tàu sau cùng. Trằn trọc không ngủ được. Lại phải nhờ đến rượu. Trong giấc ngủ
anh mơ. Không mơ thấy Hòa. Mà mơ thấy vợ. Hai người yêu nhau. Như chưa hề li dị.
Sáng dậy quên ngay. Chỉ đến khi thấy đũng quần ướt mới nhớ là có giấc mơ đó. Nhớ
tới giấc mơ đó và nhìn ra ngoài trời thấy sa mù trắng xóa. Những ngọn đèn trên
cầu cảng hoe hoe đỏ giữa những làn bụi nước trắng sữa khi đứng im, khi quẩn
quanh kéo tới rồi lại nhẹ nhàng êm ả uốn lượn trườn đi. Anh vùng dậy, vào nhà tắm
tắm rửa rồi lên nhà xe lấy xe đạp ra phố. Sương mù thôi thúc anh. Câu chuyện với
Hòa thôi thúc anh. Giấc mơ vừa qua thôi thúc anh. Không thể nằm một mình trong
phòng được.
Anh đạp xe chầm chậm trong sương. Sương như bột ẩm rắc lên da
mặt, lên hai bàn tay nắm ghi đông mát dịu. Đèn hai bên phố cũng chỉ một quầng
hoe hoe trông rõ những hạt bụi li ti. Như bơi trong bụi nước. Như bơi trong
sương. Như đi vào một thế giới trong mơ, không có thực. Một thoáng kỷ niệm mong
manh ẩn hiện, hư ảo như khói bếp của một ngày đã qua nào xa lắm. Một ngày đầm ấm
nào của tuổi thơ, hay mơ mộng của tuổi trưởng thành. Và một điều gì chờ đợi anh
trong tương lai. Có phải Hòa không? Hòa vẫn nghĩ đến anh từ ngày mới lớn. Hòa
đau khổ trong vòng tay anh như trách móc lại như tìm thấy một niềm an ủi. Và
sương mù. Sương mù huyền diệu như làm dịu lại tất cả căng thẳng của cuộc đời.
Sương phơi phới từng làn qua cửa sổ ùa vào căn phòng gác nhà ai để mở, ngọn đèn
tròn treo thõng trên trần cũng chỉ hoe hoe. Sương khuyên con người hãy yêu cuộc
sống, hãy sống tốt hơn. Sương giục con người bơi trong sương, xê dịch, di chuyển
trong sương. Giá bây giờ có Hòa cùng đi, hai người đạp xe bên nhau trong thế giới
mỏng manh như không có thật này. Những ngôi nhà từ từ hiện ra và nối tiếp nhau
trôi về phía sau. Trên bãi Máy Tơ, chiếc cần cẩu nhẹ quay cánh tay thép trong
sương. Những chiếc ô tô đỗ trong bãi, xám và mảnh, hiền dịu nhẹ nhàng như một
thứ đồ chơi con trẻ. Những người đi trên đường không có trọng lượng ẩn hiện.
Như trong mây. Như rẽ mây mà đi. Chầm chậm đạp xe trong sa mù, mải mê với những
ý nghĩ lộn xộn nhưng biết bao cảm xúc, khi nhìn đồng hồ anh giật mình vội đạp
xe về bến. Và thật không ngờ: Hòa đang đứng ở cầu tàu! Bên cạnh là Lừng đại
phó. Anh xúc động reo lên và tự lên án mình là một thằng vớ vẩn, đi lang thang
trong khi Hòa đứng trên cầu cảng chờ anh:
- Em đến lâu chưa.
Lừng tươi cười, chỉ vào Hòa:
- Người đẹp chờ anh lâu rồi.
Anh sốt sắng:
- Xuống tàu. Vào cabin đi!
Anh muốn kéo Hòa xuống tàu trò chuyện và cũng để Hòa xem căn
buồng chật hẹp của anh, ngôi nhà của anh, để Hòa thấy anh cần được thay đổi cuộc
sống biết chừng nào, nhưng Lừng ngăn lại:
- Để khi khác thuyền trưởng ạ. Tàu sắp tách bến không cho phụ
nữ xuống tàu đâu. Tôi là cứ nói thật.
Chơn và Hòa cùng cười. Nhất là Hòa. Cô coi như một câu nói
đùa. Nhưng Chơn biết đấy là câu nói nghiêm túc nhất của người thuyền phó nhiều
tuổi hơn anh, chỗ dựa đáng tin cậy của anh, lúc nào cũng mong muốn điều tốt đẹp
đến với anh. Sống trong một gia đình cả nhà đi biển, sinh ra trên sóng, Lừng có
thể kể không biết bao chuyện về những điều kiêng kỵ mà Lừng tận mắt chứng kiến
hay nghe nói lại và kiên quyết thực hiện những điều kiêng kỵ ấy. Chính tàu anh
đã bị một vố mà Lừng lấy làm bài học nhãn tiền. Chuyến ấy đang sản xuất thì bị
quấn chân vịt, thả trôi gần một ngày trên biển. Mãi mới có một tàu đi đến gần.
Còi liên tục. Nhưng nó không để ý. Bắn bốn phát pháo hiệu về phía nó. Nó rẽ
sóng tới bên. Quăng cáp cho nó. Nó kéo. Bốn lần đứt cáp. Sóng to quá. Lần thứ
năm mới kéo được vào vịnh. Anh em thay nhau lặn, cắt lưới. Đúng một ngày, tàu mới
nổ máy cơ động được. Lại còn hai ngày hàn, trít lại tàu. Đó là chưa kể mất tấn
cá ngon cho tàu vận tải gọi là chi trả tiền dầu. Chưa kể phải ngừng sản xuất
hơn bốn ngày tất cả. Lên tàu tắm rửa xong, trong bữa cơm anh em tập trung ở câu
lạc bộ, Lừng quát:
- Chuyến này trước khi tách bến có phụ nữ nào xuống tàu
không?
Tra hỏi vặn vọ nhau mãi cuối cùng là có. Cô Lữu làm ở căng
tin được anh nuôi nhờ mua hộ một can tương ớt, xách xuống lúc tàu sắp tách bến!
Anh nuôi Phiệt bị một mẻ nên thân. Mắng anh nuôi chán, Lừng
quay ra nói với mọi người: Từ nay trước khi tách bến không ai được đưa phụ nữ
xuống tàu. Nếu người ta xuống phải tìm mọi cách cản lại. Người quen của ai người
ấy chịu trách nhiệm. Tôi biết các bố duy vật, không tin nhưng rồi các bố phải
tin. Đấy rồi xem!
Không chỉ cấm ngặt phụ nữ xuống tàu trước khi tách bến, mà
trên đường ra cửa sông, nếu có chiếc thuyền nào, con tàu nào có phụ nữ ngồi
trên chạy cắt vát mũi tàu, thế nào Lừng cũng làu bàu tức giận rồi vào bếp lấy
con dao làm cá ra mũi, ngồi thụp xuống, chém chéo bên nọ chéo bên kia đúng chín
nhát, miệng lẩm bẩm đúng chín lần vía lành thì ở, vía dữ thì đi này! Tối
qua, khi đi dạo phố và đến nhà Hòa, Chơn biết Lừng ở lại tàu nấu xôi, giết gà
thắp hương cầu xin Hà bá, Thủy thần phù hộ cho chuyến đi kết quả. Lừng cũng đã
xem lịch thủy triều, cũng như tra sổ định giờ tách bến như người trên bờ xem giờ
xuất hành. Và giờ ấy là không thể thay đổi. Nhất là chuyến đầu tiên sau trung
tu. Anh xem lại đồng hồ, bảo Hòa:
- Còn ít phút nữa tách bến. Đi với anh một lát trên cầu tàu.
Lừng nói thêm một câu chân tình:
- Cái nghiệp đi biển phải thế. Sóng nước chẳng biết thế nào.
Cô thông cảm. Nửa tháng nữa tàu về bến mời cô xuống tàu chơi lâu lâu với anh em
tôi.
Hai người nắm tay nhau đi trên cầu cảng đặc sương. Chỉ mươi
bước chân đã chẳng thấy Lừng đâu, chẳng thấy tàu đâu. Đã lạc vào sương. Đã tất
cả là sương dày. Họ đứng lại, nhìn nhau, nhìn sương che phủ bao bọc họ. Chỉ còn
hai người giữa một vực sương trắng quây bốn chung quanh. Không ai bảo ai, anh
và Hòa ôm choàng lấy nhau. Hòa hôn anh. Hòa hôn anh trước. Sôi nổi cuồng nhiệt,
môi Hòa gắn vào môi anh, anh chỉ kịp nhấc hai hàm răng, lưỡi Hòa đã tràn sang
quẫy cựa trong khoang miệng. Khi tưởng chừng ngạt thở, Hòa rời anh ra, thở gấp:
- Suốt đêm qua em chỉ nghĩ đến anh.
Choáng ngợp trước tình cảm Hòa dành cho mình, Chơn lắp bắp:
- Anh yêu em. Cám ơn em...
- Đến với em anh nhé. Chỉ có anh an ủi được em thôi. Em không
đòi hỏi gì ở anh đâu.
Trong sương mù, anh thấy cặp mắt Hòa long lanh như van nài.
Anh nhìn những giọt sương đọng li ti trên mái tóc Hòa, trên vai áo Hòa rồi ép
má anh vào gò má nóng bừng của Hòa:
- Anh sẽ đến. Nhất định anh sẽ đến...
Hai người lại ép vào nhau. Bỗng anh thấy ươn ướt nơi ngực áo
sơ mi. Sữa. Sữa từ ngực Hòa chảy thấm qua áo Hòa sang áo anh. Anh chậm rãi cởi
khuy áo Hòa rồi cúi xuống, ngậm lấy bầu vú nóng hổi căng mọng vì ứ sữa. Những
tia sữa ngọt thơm tưới vào anh hương vị tuổi thơ. Như đứa trẻ tham lam, anh vục
đầu sang bầu vú bên kia. Hòa khẽ đẩy đầu anh ra:
- Nhẹ thôi. Đau em.
Nói thế nhưng chính Hòa lại kéo đầu Chơn vào ngực mình, lấy
ngón tay ép vào bầu vú để sữa từ đó tia vào miệng Chơn. Trong sương mù, họ cảm
thấy hai lần tự do. Cõi trần ngừng tồn tại. Chỉ còn họ. Trời sương này là dành
cho họ. Để có thể đứng giữa trời mà ôm nhau. Để có thể có nụ hôn giữa trời này.
Cho đến khi có tiếng còi tàu gọi Chơn. Hòa và Chơn càng ghì nhau chặt hơn. Dứt
hồi còi thứ ba, hai người mới rời nhau, tay nắm tay đi về phía tàu đỗ.
Thế rồi cầu tàu được kéo lên. Những mệnh lệnh của Chơn vang
trong trời mù. Tàu tách bến. Đứng trên cầu, Hòa nhìn theo HL 412, nhìn theo
Chơn trong buồng lái với người thủy thủ lái tàu, hy vọng Chơn sẽ quay lại nhìn
mình, nhưng không, anh đã đặt hết tâm trí vào công việc. Con tàu với những người
trên tàu, tất cả như những chiếc bóng, nhẹ như đang tự động nổi trôi. Cần cẩu,
dây cẩu, mũi tàu xám trên dòng sông mờ mờ giữa những gợn nước như đi trong một
bức tranh thủy mạc. Tu tu. Tu tu. 412 mỏng dần, mờ dần rồi biến mất trong sương
như chưa từng có nó trên khúc sông này, bến cảng này. Nhưng nghe tiếng còi của
nó, Hòa biết nó vẫn đang ở đâu đây gần lắm, đang gọi cô trong bến sương ngay
đây thôi. Nó chỉ ở bên kia bức màn sương, vừa quá tầm nhìn nhoè trong sương đặc
thôi. Tu tu. Tu tu. Trong sa mù, tiếng còi tàu như tiếng kêu gọi bạn giữa bồng
bềnh tiền sử. Tu tu. Tiếng gọi kiên nhẫn thiết tha. Tu tu. Tiếng gọi nhỏ dần.
Nhỏ dần. Vọng lại từ phía sa mù đặc ngoài cửa biển. Vọng lại chỗ Hòa như còn cố
gửi một lời chào, một lời hò hẹn.
Rồi không nghe thấy tiếng còi sương nữa.
Hạ Long 412 đã đi xa rồi.
Hòa vẫn đứng im lặng trên bến cảng nhìn vào cầu tàu nơi Hạ
Long 412 vừa tách bến. Ớ chỗ ấy là một khoảng trống. Và một khoảng trống còn lớn
hơn thế trong lòng Hòa.
° ° °
Mẻ lưới sáng sớm. Một con cả ngựa. Vài con cả ó. Những con cá
ó trông hệt những con chim bị thương nằm xõa cánh. Chúng cố bật đôi cánh lên.
Đôi cánh rộng, khỏe đập xuống mặt boong. Rồi lại cố đập. Mẻ lưới chẳng được mấy
tôm mà bao nhiêu khó khăn. Lần đầu tiên tôi thấy kéo lưới mà đuôi lưới ở phía
mũi tàu (lưới trái). Lưới phải thì chỉ nhìn thấy một sợi cáp chéo ngang thân
tàu. Bây giờ mới thật là nguy cơ bị quấn chân vịt.
Thế nhưng tất cả dửng dưng. Hôm qua quấn lưới rê, lo lắng,
làm như điên. Hôm nay mọi người thản nhiên ngồi xổm giữa boong hoặc chống tay
vào be nhìn xuống biển. Bình chân như vại. Tất cả đã có bố. Là thuyền trưởng, bố
phải chịu trách nhiệm tất cả. Chú Hùng cũng chỉ trách nhiệm rất ít. Một chú uể
oải cầm cái sào vươn ra móc dây kéo đụt nhưng không tới. Sào chỉ đập xuống nước.
Đầu gần nhất của sợi dây là gần chiếc ván. Nước chảy mạnh, đánh bật cả lưới cả
đụt ra mãi xa. Bác Sĩ trèo lên tăng gông. Lại chiếc blu dông xanh dài quá khổ,
chiếc quần xanh bạc mà bác xắn gấu lên, lộn phía trong ra ngoài màu xanh thẫm.
Không giấu được vẻ bực dọc, vừa leo bác vừa lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp. Về thì không về. Cố làm tấn rưỡi tôm cơ. Chết
cả nút.
Bác trèo ra đầu mút tăng gông, tụt xuống ván, kéo dây đụt ném
mạnh về phía tàu. Chú thủy thủ giơ lèo ra đón nhưng không được. Mấy lần như vậy.
Cuối cùng cũng kéo được đụt, cái đụt trôi ngược trước tàu lép kẹp toàn nước bùn
đục đổ xuống ào ào.
Còn lưới bên trái. Chú Đỉnh đứng tơi. Tơi gầm lên quay. Sợi
cáp căng thẳng nhưng không nhích dù chỉ một xăng ti mét. Sợi cáp kéo lưới biến
mất ở sườn tàu. Mọi người lại trở lại thái độ dửng dưng. Im lặng. Không nói.
Nhìn ra biển. Nhìn xuống nước. Bố cũng im lặng. Tôi lo cho bố quá. Bố vào buồng
kho, lục lọi, lấy ra một sợi dây ni lông to lồng vào sợi cáp, rồi bảo ba thủy
thủ kéo cáp vòng qua đuôi tàu. Bố lại lấy một cây sào dài bước ra be, cắm xuống
biển. Rồi đo: Hai sải. Bố bảo chú Hùng lên buồng lái giật chuông. Máy nổ. Cuồn
cuộn nước. Bố reo to: "Chân vịt không việc gì! Nó chỉ cạn. Nhưng nước đang
lên". Rồi bố nghiêm mặt:
- Anh em đứng lại tôi có mấy ý kiến đã.
Bố nói. Mỗi lúc một căng thẳng.
- Tàu chúng ta có những biểu hiện mà tôi cho rằng phải chấn
chỉnh. Đó là thái độ của một số đồng chí không được đúng mực lắm. Tôi cứ nói thẳng
ra rằng chúng ta làm cho chúng ta. Vì cuộc sống, vì gia đình vợ con. Là thuyền
trưởng tôi chịu trách nhiệm trước xí nghiệp, nhưng tôi cũng chịu trách nhiệm
trước anh em. Thế nào là hài hòa lợi ích. Không thể nặng về một vế. Nước có lên
thuyền mới lên được. Chúng ta muốn có quỹ tàu để chia thì chúng ta phải có tôm,
phải có kết quả thăm dò khảo sắt nộp cho xí nghiệp. Tất cả trách nhiệm dồn lên
vai tôi. Nếu phải đi tù, tôi là người đi tù đầu tiên. Điều ấy chắc các đổng chí
hiểu quá rõ. Mà tôi hoàn toàn công khai vấn đề này. Tôi được chia tỉ lệ một phẩy
năm. Anh Hùng, bác Suất một phẩy ba. Có đổng chí nào muốn được một suất một phẩy
năm một phẩy ba như chúng tôi không? Chúng tôi xin nhường ngay. Suất này là suất
xương máu đấy. Thế mà khi tôi quyết định ở lại đánh lấy một tấn rưỡi tôm rồi gặp
sự cố, các đổng chí tỏ thái độ ngay. Cứ như là tôi làm mọi việc vì cá nhân tôi ấy.
Tôi làm vì quyền lợi của toàn tàu. Tôi làm mà lo ngay ngáy. Nếu cuộc sống chúng
ta được bảo đảm, chúng ta nhất định không làm cái việc như thế. Có đổng chí nói
rất đúng rằng con chó khi trời mưa cũng biết chạy vào nhà. Nói ngay hai con lợn
của tàu thôi. Trời mưa là tìm chỗ trú. Còn chúng ta trời mưa, chuông kéo lưới vẫn
phải ra boong. Đổng lương ký sổ không đủ sống. Năm trăm nghìn, ăn cũng không đủ.
Mà đâu chỉ lao động tám tiếng. Hai tiếng rưỡi một lần kéo lưới. Ngủ thì lắt nhắt
chập chờn. Đổng chí nào chán cảnh làm việc ở đây cứ xin chuyển. Tôi ủng hộ.
Sang tàu vận tải nước ngoài càng hay. Tôi nhiệt liệt hoan hô. Tôi chỉ mong các
đổng chí giữ sao cho nội bộ thật đoàn kết. Tôi cũng nói rằng số tiền phần trăm
ngoại giao của tàu tôi chi hết. Không tơ hào một xu. Kinh nghiệm là mọi sự mất
đoàn kết rồi đi đến tố cáo nhau đều bắt đầu từ việc ăn chia.
Tất cả im lặng. Nói rồi bố lên buồng lải, trực tiếp cầm vô
lăng. Bố cho tàu rẽ phải, lựa đuôi tàu xoay theo chiều lưới. Nước ở đuôi tàu đục
ngầu. Một xoáy nước tròn đục cuồn cuộn, ào ào. Chúng tôi đứng nhìn xoáy nước.
Chú Đài VTĐ bảo:
- Người xuống đó chỉ có chết.
Tàu còn sản xuất thêm hai ngày nữa. Tôi thấy nhớ nhà quá rồi.
Tôi nhớ cây me ở góc vườn. Tôi nhớ cái giếng sâu thăm thẳm cạnh sân. Nhớ con đường
đất núi, những vụn đá đỏ au từ nhà ra trường học. Nhớ mẹ. Nhớ cái Ngàn. Nhưng
những người chung quanh tôi không thấy ai nói gì về nỗi nhớ của họ. Kể cả bố. Vẫn
bình thường như có thể kéo dài cuộc sống trên biển thế này đến bao giờ cũng được.
Có lẽ mọi người quen rồi. Công việc đơn điệu đều đều. Đi ra đi vào quanh quẩn
trên con tàu kéo lưới giữa biển hoang vắng. Hơn mười mẻ lưới nữa. Chẳng mẻ nào
giống mẻ nào. Mọi công việc đều diễn ra ở boong lái. Mẻ được nhiều, mẻ được ít.
Mẻ kéo lưới lên rồi thả lưới được ngay. Mẻ phải buộc lại dây, vá lại lưới cả tiếng
đồng hồ mới thả. Nhưng có một mẻ lưới thật thú vị. Mẻ lưới sáng sớm sau cái hôm
tàu bị sự cố sợ quấn chân vịt. Bốn đụt tôm. Đụt nào cũng phinh phính phồng phồng.
Giật dây thắt đụt. Tôm xổ ra tràn trên boong. Những con tôm tươi xanh nhảy búng
loạn xạ. Râu đỏ rực. Vi bụng đỏ rực quạt đều đều phát ra một âm thanh rì rào rì
rào nhè nhẹ. Những giọt nước li ti bắn lên mặt chúng tôi như một cơn mưa nhẹ. Mặt
trời vừa nhô lên khỏi mặt biển, chiếu ánh sáng tới chỗ chúng tôi ngồi nhặt tôm
trên boong.
Một dòng vàng nhẫy từ chân trời chạy tới nơi tàu thả trôi,
hai bên là biển xanh trong. Tàu khẽ nâng lên hạ xuống. Gió chỉ phây phẩy. Chúng
tôi ngồi xung quanh đống tôm vừa kéo từ biển lên. Những giọt nước mát rượi vẫn
bắn lên mặt, lên đầu tóc, quần áo chúng tôi. Một chiếc cầu vồng mọc lên từ đống
tôm ấy. Chúng tôi vừa nhặt tôm vừa nhìn nhau qua chiếc cầu vồng.
Phần thứ hai
I
Ấnh thi đua Đỗ Trung T ín được chuyển về phân xưởng lạnh làm
thống kê. Là một anh giã giò, đầu óc ngu si tứ chi phát triển, như chánh văn
phòng nói, Tín "không làm được một việc gì". Bản tin không viết được.
Báo cáo lại càng không. Chỉ giỏi rượu. Với lại những lúc rỗi việc, ngồi ở bàn,
anh ta có cái tật chép miệng khan, không chép miệng như người ta, tiếng chép miệng
của anh kêu to như pháo nổ, có thể làm ai yếu bóng vía giật mình. Anh ra đi khi
vẫn chưa ai phá được câu chào của anh ta:
- Xin chào ở như các cụ.
Hai tiếng ở như kéo dài, quai hàm trẹo bên nọ sang
bên kia, cằm dưới đưa ra, lúc ấy trông anh rất tươi tắn đáng yêu. Vào phòng
thanh tra, tới văn phòng công đoàn, lên đảng ủy, tới phòng hàng hải hay đi đâu
trở về văn phòng, thấy đám nhân viên cùng phòng, có khi chỉ toàn phụ nữ, những
cô Phòng văn thư, bà Nga chạy văn phòng phẩm hay cái Nhạn đánh máy, cái Tám tiếp
tân, anh cũng nở nụ cười rất tươi, hai mắt long lanh, cái cằm râu ria đưa ra
xin chào ở ở ở như ư ư các cụ! Mãi sau khi anh đi được một tháng, cô Phòng,
vâng chính cô Phòng dân bánh chưng đất, văn thư đã nghĩ ra câu đối đáp lại.
Ây là vào cái hôm cả hội vừa ăn ốc luộc xong (hôm ấy sếp đi họp
trên thành phố - vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm) thì Giò Tìu từ phân xưởng lên
ghé vào văn phòng có việc gì đấy, vừa bước vào cửa, đã đưa cái hàm dưới ra:
- Xin chào à ở như các cụ!
Đang dương dương tự đắc và nở nụ cười thỏa mãn vì biết người
ta không thích mình, không thích cả câu chào độc đáo của mình mà vẫn phải cắn
răng chịu, bỗng anh ta tái mặt.
- Để mời à các cụ ngồi chơi!
Đó là cô Phòng! Phút xuất thần của cô Phòng! Chánh văn phòng
Điều vỗ tay trước tiên:
- Con này giỏi! Con này giỏi! Khá! Tao sẽ xin giám đốc tăng
cho mày một bậc lương con ạ.
Tất cả cười ngặt nghẹo và đều công nhận câu đáp của cô Phòng
hay. Cái Tám hỏi:
- Chị nghĩ ra từ bao giờ đấy?
Cô Phòng hai gò má đẫm nước mắt, tính cô hễ cười nhiều là nước
mắt cứ chảy ra:
- Vừa nghĩ xong. Tức quá. Tự nhiên bật ra thôi.
Chánh văn phòng đưa cằm ra phía trước:
- Xin a chào à ở như các cụ.
Cả hội đồng thanh, trừ Tín:
- Để a mời à các cụ ngồi chơi.
Và cười ầm. Tín cung cúc bước ra cửa đi về xưởng lạnh trong
tiếng cười giòn tiễn đưa của anh chị em đơn vị cũ. Chánh văn phòng còn nói thêm
một câu đủ để Tín nghe thấy:
- Cho hết cái thói nhăn nhăn nhở nhở như mồm lở sơn...
Người về thay Tín làm thi đua cờ đèn kèn hoa là một người ít
nói nhưng lại có khiếu hài hước. Một người nhiều tuổi hơn cả chánh văn phòng,
văn hay chữ tốt, hơn thế, một người từng trải, nếu có thể nói được như vậy.
Toàn, Nguyễn Đức Toàn, hơn tuổi chánh văn phòng, đã từng làm trợ lý giám đốc sở
công nghiệp thành phố, đã đi thanh niên xung phong Trường Sơn, đã ba lần được
là đối tượng kết nạp Đảng nhưng cả ba lần đều hoãn kết nạp vì những lý do khách
quan. Một lần ở thanh niên xung phong. Chi bộ đã định ngày kết nạp thì Toàn bị
trúng bom. Nằm bệnh viện nửa năm, khi ra viện về một đơn vị khác, làm công việc
nhẹ hơn cho phù hợp với sức khỏe. Thế là lại bắt đầu lại từ đầu. Lại phấn đấu.
Lại được đi học lớp cảm tình. Lại nghe giảng về đấu tranh giai cấp, về chủ
nghĩa tư bản giãy chết, chủ nghĩa cộng sản văn minh. Và lại được đứng trong
hàng ngũ đối tượng phát triển. Bỗng có chủ trương tạm ngừng công việc phát triển
Đảng một thời gian để tập trung vào nhiệm vụ củng cố Đảng, nâng cao chất lượng
đảng viên. Hết thời gian đó Toàn đã xin được về Hải Triều, thành phố quê Toàn
và cũng là nơi vợ con Toàn sinh sống. Làm tổng hợp cho đồng chí giám đốc sở
công nghiệp thành phố. Có trí nhớ tốt, được việc, trở thành người thân cận của
giám đốc, lại một lần nữa, Toàn được là đối tượng kết nạp nhưng giám đốc chuyển
đi sau một vụ đấu đá, phó giám đốc - người mâu thuẫn gay gắt với giám đốc, người
thắng cuộc - lên thay. Hiển nhiên là ông không dùng Toàn làm thư ký tổng hợp.
Việc kết nạp Đảng càng không thể đặt ra. Từ ấy Toàn gạt hẳn mục tiêu vào Đảng
ra khỏi đầu óc. Và Toàn cũng hiểu con đường tiến lên của anh thế là hết. Ý chí
phấn đấu của anh bị giáng một đòn căn bản, bởi anh biết không vào Đảng thì khó
lòng được thăng tiến. Chẳng những thế anh còn phải tạm nghỉ để chờ tổ chức phân
công công tác. Hơn một năm sau vẫn chẳng được giao việc, anh gặp giám đốc mới
xin tự liên hệ công tác và được giám đốc chấp nhận. Các xí nghiệp trong sở
không ai dám nhận anh. Họ đều biết anh bị giám đốc cho ngồi chơi xơi nước cùng
với một số cán bộ trong ê kíp cũ. Thế mà trong khi anh còn đương chức, họ tiếp
đón anh nhiệt tình đến thế. Phải gần một năm nữa, giám đốc mới (nay đã thành
cũ) mới cho anh liên hệ công tác ở ngoài ngành. Đó là một việc bất đắc dĩ vì đồng
chí không muốn ngành thất thoát cán bộ! Được về Liên hợp Hải sản Biển Đông -
Biendong Fiscom, anh coi như mình trúng số độc đắc và lao vào công việc với tất
cả hào hứng, phấn khởi. Nghĩ lại hai năm trời thất nghiệp dở mà rùng mình. Hai
năm trời chợ búa nấu cơm, giặt giũ trước bao con mắt tò mò dò xét, những lời xầm
xì vào ra của những người trong khu tập thể. Hai năm trời không làm tròn trách
nhiệm người chồng, người bố. Vẫn có đồng lương nhưng đó là lương thất nghiệp, bảy
nhăm phần trăm lương cơ bản. Tất cả gánh nặng chi tiêu dồn vào vai vợ. Mà nào vợ
anh có dễ dàng gì cho cam. Công nhân một xưởng sản xuất cân, sản phẩm không
tiêu thụ được, xí nghiệp phát lương bằng các loại cân, từ cân bàn, đến cân móc,
cân treo. Về nhà, tháo những dây chằng buộc, những túi đựng quả cân, đĩa cân,
méo mặt vì lo, vợ anh vẫn còn hài hước:
- Phóng xe ra tới cổng bảo vệ, tất cả cán bộ công nhân hét
to: "Nhấc ba de lên cho chúng tớ đèo lương về đây này!" Giám đốc còn
định gán lương bằng cân tạ cho bọn em, ba bốn người chung nhau một chiếc vì cân
bàn tồn kho quá nhiều. Chúng em kêu lên sếp có lĩnh lương loại vĩ mô ấy
thì lĩnh, chứ chúng em không nhận đâu. Sếp quen các thủ trưởng, sếp bán được
cân vĩ mô. Chúng em chỉ có thể mang cân vi mô ra chợ đổ cho
mấy bà buôn hay gạ bán cho mấy nhà hàng xóm thôi.
Bán cân. Xí nghiệp tính theo giá của xí nghiệp, còn mình làm
sao bán được như đầu ra tính trên giấy ấy. Đồng lương đã kém lại càng
kém. Toàn đã đi ra chợ bán cân. La cà dãy các bà bán cá, bán tôm, buôn gà vịt,
bán hàng khô. Và gặp nhiều người cũng ra bản lương ở các xí nghiệp
khác. Người ta cũng mang bán sản phẩm của xí nghiệp gán thay lương nhưng có lẽ
chẳng ai khổ như vợ chồng Toàn, chẳng ai khổ như những người làm xí nghiệp cân.
Công nhân xi măng lĩnh lương bằng xi măng rời quá ư dễ bán. Hợp tác xã xe đạp,
lương trả toàn bằng poóc ba ga, gác đờ bu, cũng khó bán đấy nhưng cũng còn dễ
hơn cân. Hay như cái Liên hợp Biển Đông này mới sung sướng làm sao! Được phát
lương bằng cá. Cá băng, cá đông. Cá đóng túi ướp đá. Sau này khi anh đã đi làm
thi đua ở Biendong Fiscom, cùng anh chị em văn phòng ôn lại cơ đận ấy, cô Phòng
cười khanh khách bảo anh:
- Chúng bố lĩnh lương bằng gạo, gạo các tàu chở từ miền Nam
ra. Chúng bố lĩnh lương bằng cá. Thật danh giá. Đạp xe ra Ngã Ba là con buôn đã
ơi ới ơi ới gọi rồi. Chỉ có cái chán là cá xí nghiệp tính cao. Bán cho con buôn
có được thế đâu. Mỗi cân thế nào cũng mất mấy giá.
Và cô tiếp luôn:
- Nhưng chúng bố không sợ. Chúng bố tát nước theo mưa. Lấy
mùa bù chiêm. Xuống tàu xin cá. Trà trộn cá xin với cả lương. Đem
qua cổng bảo vệ thoải mái.
Cô Phòng có kiểu nói như vậy. Khi mới đến công ty làm thi
đua, về sinh hoạt ở văn phòng, ấn tượng mạnh nhất đối với Toàn là cô Phòng. Cô
trạc ba nhăm ba bảy tuổi, có biệt hiệu là "bánh chưng đất" vì quê Hải
Dương. Con một gia đình trí thức. Bố là một ông giáo già đã về hưu, học trò ông
có những người là tướng, là bộ trưởng. Cô có một anh là phó tiến sĩ, còn một cô
em gái là nhà văn đã được giải thưởng Tảc phẩm tuổi xanh. Cô cũng có
phải dân văn thư chuyên nghiệp đâu. Báo vụ có hạng được đào tạo chính quy đấy.
Trong các cuộc thi tay nghề cô luôn nằm trong danh sách năm người đứng đầu. Chỉ
đến khi lấy chồng có con (cái con bé bây giờ đã học lớp 5, thỉnh thoảng vẫn
theo mẹ ra văn phòng mà cô gọi là con mảnh sành cong này này), không
thể làm ca kíp được, cô mới xin chuyển từ đài thu phát trung tâm về công đoàn
làm công tác thư viện, rồi khi anh chàng Trần Minh Mẫn ở đâu lù lù về văn phòng
công đoàn phụ trách bổ túc văn hóa kiêm thư viện, cô lại chuyển về làm văn thư.
Nước da nâu mịn màng, má lúm đồng tiền, mỗi khi cười gò má lại đỏ lên, một thời
từng làm chết mệt bao chàng trai kể cả thuyền trưởng Trần Nhân Chơn, cuối cùng
lại rơi vào tay anh chàng Nghiêm, kỹ sư vỏ tàu quê xứ Bọ, hiền như đất.
Toàn hòa nhập rất nhanh với công việc ở đơn vị mới. Hai công
việc đầu tiên phải làm là căng lại dây loa truyền thanh và viết phiếu đặt hàng
đưa chánh văn phòng ký đề nghị xưởng cơ khí làm một bảng tin bằng sắt, chôn dưới
gốc bàng. Anh đề nghị phòng tổ chức điều cho một thủy thủ dự trữ cùng anh kéo lại
những đoạn dây loa bị đứt. Cậu thủy thủ dự trữ này là người đầu tiên thuộc khối
dưới nước mà anh tiếp xúc. Trước tiên anh ngạc nhiên về những gì anh ta mang
trên người. Còn rất trẻ. Nhưng diện ngất trời. Quần áo, kính, mũ, đồng hồ, nhẫn
vàng và lạ nhất là túi áo túi quần, túi nào cũng có ba số và cứ nhất định ấn một
bao vào túi áo Toàn. Mà quần áo anh ta nhiều túi lắm.
- Chú cầm lấy hút.
Đó là món lộc đầu tiên của Toàn ở Liên hợp Hải sản Biển Đông:
- Ớ đâu ra lắm thuốc lá thế.
- Bọn tàu 19 mới về. Mỗi thằng cho vài bao.
Toàn ước tính trên người anh thủy thủ dự bị này phải đến hai
cây thuốc lá. Nếu Toàn có chỗ ấy, đó là cả một khoản thu nhập. Anh bóc bao thuốc,
lấy một điếu hút. Đã lâu lắm mới đàng hoàng bóc bao thuốc ba số như thế này. Từ
ngày còn làm tổng hợp cho giám đốc sở công nghiệp...
Mới kéo được một đường dây từ xưởng lạnh ra phòng đời sống, cậu
thủy thủ đã bảo:
- Vào căng tin nghỉ một tí đã chú ạ. Chú ăn sáng chưa? Ăn rồi
cũng cứ vào với cháu. Cháu chưa ăn. Đói lắm rồi.
Mới hơn chín giờ. Toàn chưa đói. Nhưng rõ ràng chẳng thể bắt
cậu dự bị công tử này làm việc tiếp, bởi cậu đã cố gắng hết sức cũng như cậu rất
nể và kính trọng Toàn, hơn nữa cũng chẳng thể một mình làm cái việc căng dây.
Chưa đến giờ cao điểm, căng tin còn vắng. Một bàn bốn thuyền viên đang ăn phở.
Cô căng tin béo núc, cúc áo chật căng, da rất trắng bưng cái khay có bốn bát phở
nghi ngút khói lên.
- Sao bát vơi thế em Lan?
- Thế này mà năm nghìn à?
- Đắt thế, anh bắt đền em đấy.
Một giọng ồ ồ của người thứ tư, cất lên:
- Đắt rẻ là phụ thuộc vào mình: Ăn nhiều ớt hay ít ớt.
Tất cả cười ầm. Đúng là ớt năm ấy quá đắt. Và chỉ ngoém một
cái, bốn người bốn cái sẻ, đĩa ớt hết veo. Người có giọng ồ ồ chìa đĩa không về
phía cô căng tin:
- Cho thêm đĩa ớt đây em. Nếu hết ớt thì thay bằng thịt cũng
được. Giá tiền cũng tương đương nhau ấy mà.
Cánh thuyền viên không biết Toàn, nhưng biết chàng lính dự trữ:
- Khương! Tàu bao giờ đi?
Chàng thủy thủ kéo dây cười:
- Chào các anh. Em lên bờ rồi anh Chất ồ ạ.
Chất ồ, người có giọng nói ồ ồ, tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Đã lên à? Mới đi được hơn hai chục chuyến chứ mấy?
Lại cười đồng loạt. Khương cười khẩy:
- Chính xác là hai bốn chuyến, mười chín chuyến Hong Kong,
hai chuyến Sing, ba chuyến Nhật. Kể thì nhiều nhưng cũng không nhiều.
- Càng nhiều càng ít.
Toàn chỉ biết nghe. Khương gọi bia Heineken, một đĩa bò xào.
Nâng lên đặt xuống. Bia sủi bọt mát lạnh. Thịt bò mềm. Ba số thơm. Lại thêm hai
bát phở. Ăn xong, Khương bảo Toàn nghỉ thôi chú ạ. Ăn xong nặng bụng leo trèo mệt
lắm. Chiều chú cháu mình làm tiếp.
Thế là nghỉ. No. Ca cơm mang theo có mấy viên lạc rang mỡ mắm,
không dùng đến, không phải vào bếp đặt ghé bên bếp than chung quanh thùng nước
của bà Nhàn, vần vần xoay xoay cùng với bao nhiêu người, bao nhiêu ca, cặp lồng
khác. Toàn lang thang. Đứng nhìn cầu cảng. Chầu rìa mấy ván tiến lên. Chiều chẳng
thấy cháu đâu. Chú đến phòng tổ chức. Không thấy cháu. Lại ra cầu cảng thì thấy
cháu từ trên tàu 19 bước xuống. Toàn rảo bước tới gặp Khương: Chiều không làm
à? Chú cứ chờ mãi. Mặt Khương đang bừng bừng tức giận: Chú xin người khác đi.
Cháu không làm nữa đâu. Rồi Khương trèo lên một chiếc xe máy đen kềnh càng những
ống thép mạ kền, hai ống xả sáng chói mắt, ghi đông thì vểnh lên xòe cong ra
hai bên, ấn nút khởi động. Xe không nổ. Mấy lần xe không nổ. Co chân đạp. Chỉ rồ
lên được một tí lại tắt lịm. Một thanh niên còn rất trẻ đứng cạnh chiếc xe DD đỏ
chót mới cứng dựa trên chân chống sát cầu, cạnh mũi tàu HL19 cười:
- Xe gì thế. Vất đi thôi!
Khương quắc mắt nhìn anh thanh niên:
- Mày nói gì thế thằng Duy? Nói lại tao nghe xem nào!
- Thay xe đi! Giọng anh thanh niên tên Duy đã có vẻ dìu dịu.
- Được rồi! Nhớ đấy! Nhớ lấy nhé thằng con giời ạ!
Đám người rải rác trên cầu tàu dừng cả lại chăm chú theo dõi
câu chuyện đang có chiều căng thẳng. Duy - cũng là người sang trọng từ đầu đến
chân, phủ lên người anh ta là toàn những thứ đồ ngoại đắt tiền - cười cười đùa
vui cho bớt căng:
- Đạp như thế một chân to một chân nhỏ về vợ nó không nhận ra
đâu!
Không ngờ câu ấy càng làm Khương tức hơn. Đỏ mặt tía tai, lấy
hết sức bình sinh đạp cần đề. Xe nổ. Khương điều chỉnh ga, tiếng máy gầm lên nhức
óc:
- Tao cho cái xe của mày xuống sông đây này. Mày muốn không?
- Dám à?
Khương dận số, chiếc xe lao tới chỗ Duy. Quá hốt hoảng, Duy
nhảy vọt ra, tránh được chiếc xe máy đang phóng thẳng vào mình. Không giảm tốc
độ, Khương cho xe lượn sát chiếc xe DD đỏ, co chân đạp mạnh vào thân xe, chiếc
xe máy đỏ chót bóng loáng rơi xuống lòng sông. Tất cả kêu lên. Không quay lại,
đang đà phóng, anh chàng thủy thủ thuộc lực lượng dự trữ phụ việc căng dây truyền
thanh cho Toàn tăng ga phóng ra phía cổng xí nghiệp.
Có lẽ sau khổ chủ Duy, Toàn là người sửng sốt nhất về việc ấy.
Mà sao lúc đi căng dây với anh, Khương một điều chú hai điều cháu, ngoan ngoãn,
lễ phép, hiền lành đến thế. Nó cả gan đạp chiếc xe máy của người ta xuống sông.
Không suy nghĩ đắn đo. Không thương tiếc. Chiếc xe máy có giá trị bằng cả một
gia tài. Chiếc xe máy có thể làm bất kỳ ai sở hữu nó, hay chỉ ngồi phía sau ôm
eo lượn quanh phố thôi, tăng thêm hàng chục nấc thang giá trị. Cả cầu cảng náo
động. Mấy chiếc máy hàn của cánh thợ sửa chữa thôi hoạt động, những tiếng hú
inh tai của máy hàn tắt hẳn. Rồi đến tiếng gõ gỉ từ phía đà nổi cũng tắt. Chị
em gõ gỉ quần áo, khăn trùm đầu, khẩu trang găng tay một màu gỉ sắt lệt sệt
giày ủng đứng xa xa. Tạm ngừng mọi công việc. Người ở các tàu kéo ra cả boong.
Chỗ chiếc xe máy rơi đông đặc người. Toàn cũng ra đứng đó, nhìn xuống sông. Chẳng
thấy gì. Chỉ có dòng nước đang ròng, trôi ra phía cửa sông, kéo theo rến rác,
lá sú, mấy miếng xốp trắng bập bềnh cùng những giọt dầu loang...
Đã qua cơn bất ngờ, bình tĩnh trở lại, khổ chủ Duy ngồi bệt
xuống nền bê tông cầu cảng, rồi đứng phắt dậy, chạy tới chiếc xe máy dựng gần đấy,
thét lên:
- Anh Thu ơi! Chìa khóa xe anh đâu! Cho em mượn. Em phải sống
chết với thằng này.
Bao nhiêu người lên tiếng can ngăn Duy. Hãy bình tĩnh. Việc đầu
tiên là lo vớt cái xe lên đã. Ngâm lâu dưới nước mặn là hỏng hết. Chiếc xe nặng
thế không trôi đi đâu. Ngay dưới này thôi. Một người bước tới chỗ Duy đang đứng
bên chiếc xe máy:
- Chìa khóa đây. Nhưng mày định đánh nhau với nó à? Đánh nhau
tay đôi với nó mày thua hay nó thua? Lo tìm người vớt xe đi. Ông Chín lặn tốt đấy.
Nói cảng vụ cho mượn cái cần cẩu thiếu nhi. Rồi làm đơn lên giám đốc, lên tổ chức.
Tre có chỗ chẻ chứ. Vừa nãy ở trên tàu anh đã thấy nó điên điên. Con giời đang
cú. Lên bờ mấy chuyến rồi. Bố nó làm đơn gửi tổng giám đốc xin đi tăng nữa.
Nhưng chưa được giải quyết.
Bao nhiêu người bày tỏ sự phẫn nộ về hành động của Khương.
Qua những lời bàn tán, đến lúc ấy Toàn mới biết Khương là con ông Nguyễn Thạc,
phó giám đốc công an thành phố. Học mãi thi mãi không đỗ phổ thông, đàn đúm ăn
chơi với đám bạn bè toàn những đứa như mình, bố mẹ làm sếp, lắm tiền nhiều của,
Khương là một trong những thanh niên sành điệu nhất Hải Triều. Con đường hư hỏng
đối với Khương khó mà tránh được. Chỉ còn là thời gian thôi. Biết tin Liên hợp
Hải sản Biển Đông mới tổ chức cho mấy tàu đánh cá chuyển sang vận tải nước
ngoài, ông phó giám đốc công an vội xuống gặp tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng.
"Không được đâu anh ơi. Con anh cũng như con tôi.
Nhưng xuống tàu phải có chức danh. Phải qua đào tạo. Giá cháu
có một cái chứng chỉ đào tạo ở một trường nào đó, công nhân thôi cũng được thì
tốt quá. Anh làm gì không kiếm được cái chứng chỉ ấy". Ngừng một lát ông
cười: "Có thằng cháu nhà anh xuống tàu, chúng tôi càng yên tâm. Anh em có
gì sơ suất đã có các anh trên ấy giúp đỡ". Con anh cũng như con tôi. Tổng
giám đốc đã nói rất thực lòng. Ông cũng đã chịu biết bao khổ sở đắng cay vì con
cái. Không biết bao nhiêu đêm, ông đạp xe đi (không dám một mình đi xe máy ban
đêm) các nơi tìm con. Đến nỗi những người bán hàng đêm khuya các đầu cầu đã
quen mặt ông. Họ biết cả con ông và băng đảng của nó. Những đêm tìm con, ông hiểu
thêm thế giới ban đêm và càng thấy sự nguy hiểm đã ập đến gia đình ông. Ông đã
nhìn thấy nhiều đứa con trai và cả con gái còn trẻ hơn con ông từ đâu ào vào một
quán hàng ở bờ sông ăn uống, cười nói, rồi lại ầm ầm phóng xe đèo nhau đi vào
lúc hai giờ đêm. Thằng ngồi sau giơ cao kiếm, mã tấu, côn, chùy... hoa múa trên
đầu, hò reo như những đoàn quân xông lên giao chiến trên phim ảnh. Ông vội chạy
vào hàng nước gọi điện cho cảnh sát 113. Bà hàng nước cười bảo ông: "Chỗ
này bao giờ chả có cảnh sát trực. Họ chỉ giải quyết hậu quả thôi chứ không can
thiệp đâu. Có hỏi thì bảo: Cho chúng nó giết nhau bớt đi". Đêm khuya,
trong mùi phân hoai nồng nặc ven đê, ông đã mò mẫm gần như nằm rạp xuống đất, nhìn
vào sát gầm cầu, bấm đèn pin và thấy một lũ nằm nghêu ngao hát cải lương. Ông
đã thấy một cái xác nằm co trên bãi sông, một đàn chuột đang xúm vào gặm đầu và
cổ. Theo lời chỉ dẫn của một người hàng nước tốt bụng, ông xông vào một chiếc lều
bỏ hoang, kéo tung những cái lõi chăn bông bẩn thỉu, hôi hám thủng rách phủ
trên ổ rơm và thấy gần chục đứa còn rất trẻ hoàn toàn trần truồng ngồi bật dậy
co rúm vào nhau, trong đó có hai đứa con gái chỉ mười bốn mười lăm đẹp như
thiên thần và ông đã lôi được thằng con ông về nhà. Nhưng rồi nó lại bỏ đi. Ông
lại đi tìm và lại một lần nữa xông vào nơi tụ tập của chúng nó nhưng lần này
không có con ông ở đó và ông bị bọn chúng đuổi đánh, suýt mất mạng, nếu không
có một người đàn ông cũng đi tìm con như ông phóng xe máy đến... Ông giám đốc
Liên hợp cũng rất thành thật khi nói: Có con anh xuống tàu chúng tôi càng yên
tâm. Anh em có gì sơ suất đã có các anh trên ấy giúp đỡ. Ông phó giám đốc công
an cũng rất cởi mở và thân mật: Điều ấy anh không cần phải nói. Nhưng cũng phải
bảo anh em làm cái gì cũng vừa vừa thôi, giới hạn thôi. Rồi ông chép miệng than
thân: Đến khổ vì con vì cái. Ngay hôm sau ông phó giám đốc công an đã đích thân
cầm hồ sơ của con trai ông có cả chứng chỉ đã tốt nghiệp khoa boong của trường
công nhân kỹ thuật. Và Khương xuống tàu. Khương xuống tàu, đi hơn hai mươi chuyến.
Hơn hai mươi chuyến tàu 19 an toàn. Không bị khám. Không bị thu. (Tất nhiên đối
với hải quan công an vẫn phải thu xếp cống tiến như đã thỏa thuận trong hợp đồng
ngầm). Không xảy ra một hiện tượng đáng tiếc nào, một trục trặc kỹ thuật nào.
Đưa Khương lên dự trữ sau hơn hai mươi chuyến đi nước ngoài
là ý kiến của trưởng phòng tổ chức Nguyễn Văn Thục. Lý lẽ của trưởng phòng tổ
chức khiến giám đốc thấy thật có lý có tình, khó bác bẻ. Hơn nữa chính ông cũng
nghĩ như vậy: Khương là một thanh niên ở đâu đến đây, chưa có một đóng góp nào
cho xí nghiệp thế mà được xuống tàu đi nước ngoài ngay, đi liền hơn hai năm
nay. Trong khi ấy bao nhiêu cán bộ công nhân cả khối dưới nước lẫn trên bờ cống
hiến cho xí nghiệp từ thời còn tàu vỏ gỗ, đánh giã đôi, cho tới thời chiến
tranh bắn phá vẫn còn phải xếp hàng chờ đợi. Như thế đã là ưu tiên quá rồi. Hẳn
ông phó giám đốc công an cũng nhận thấy điều ấy. Tổng giám đốc nghĩ vậy. Với lại
thằng con ông cũng đi tàu vận tải nước ngoài. Hai thằng như vậy đi nước ngoài
là không ổn. Lại còn cái mối ân tình với bác sĩ Bá nữa... Để Khương lên bờ dự
trữ rồi ta hãy định liệu sau. Tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng gật đầu, bảo Thục:
- Cậu làm quyết định đi. Mình tán thành.
Ông không biết mỗi chuyến tàu đi nước ngoài về cập bến, trưởng
phòng tổ chức đều xuống thăm tàu, tươi cười tay bắt mặt mừng với mọi cán bộ,
thuyền viên. Sau khi hỏi thăm sức khỏe, là một câu nói xanh rờn, thản nhiên như
chẳng có gì quan trọng:
- Tàu chuẩn bị nhé. Chuyến này có một số thay đổi về nhân lực
đấy.
Thế là cả tàu nháo nhào lên. Xôn xao. Hoang mang. Lo lắng. Và
người ta không ai bảo ai đều tìm tới nhà trưởng phòng tổ chức. Không đến người
không. Hẳn rồi. Cũng không đến với những thứ cồng kềnh, những quạt máy, đầu máy
khâu, tivi hay tủ lạnh. Những thứ ấy sếp có đủ rồi, thừa rồi. Mà đến với cái
phong bì, mỏng thôi bởi không phải phong bì tiền Việt. Mọi chuyến lời báo trước
của trưởng phòng tổ chức "tàu, chuẩn bị nhé, sẽ có một số thay đổi về
nhân lực đấy " chỉ là lời báo trước. Nhưng chuyến vừa qua, lời báo
trước ấy đã biến thành sự thật. Bởi Thục thấy cần phải biến thành sự thật. Vì
đã có những dư luận đến tai Thục. Những dư luận không hay. Nào là thằng ấy luôn
khủng bố tinh thần anh em, xóc như xóc cua trong giỏ để gặt hái. Nào là cái thằng
đi biển say sóng không chịu được giờ lên bờ tác oai tác quái. Xuống tàu làm thủy
thủ không xong... Với lại cái thằng Khương này chưa một lần đến nhà Thục, chưa
một chút quà, nó làm như đã là con phó giám đốc công an thì có thể qua mặt tất
cả, coi thường tất cả. Thục cũng biết giám đốc muốn đưa bác sĩ Bá xuống tàu.
Chính giám đốc nói với Thục điều ấy. Thu xếp cho ông bác sĩ người dân tộc đi một
vài chuyến. Phục vụ viên. Ông ấy kêu quá. Gặp đâu cũng nhăn nhó, xin xỏ, mè
nheo. Sốt cả ruột. Bác sĩ Bá thì chẳng lấy đâu ra tiền rồi. Nhưng cũng chẳng phải
vì sốt ruột mà sếp cho đi. Mà vì cái chứng thần kinh tọa của sếp. Đủ các thứ
thuốc. Các thứ bệnh viện không khỏi. Bá chỉ châm cứu và bó mấy lần bằng thuốc
gia truyền. Thế là cái bệnh đau nhói từ hông xuống đến mắt cá chân của sếp biến
đi lúc nào không hay. Tổng giám đốc và trưởng phòng tổ chức đã gặp nhau ở một
điểm.
Trưởng phòng tổ chức viết quyết định đưa giám đốc ký nhưng
giám đốc bảo đã phân cấp rồi, ký quyết định điều thủy thủ là trưởng phòng tổ chức.
Có lẽ sếp đã quên. Quy chế là trưởng phòng tổ chức chỉ ký quyết định điều động
thuyền viên tàu đi đánh cá. Còn thuyền viên đi tàu vận tải nước ngoài là sếp. Sếp
trực tiếp quản. Sếp trực tiếp ký. Càng hay. Càng chứng tỏ vị trí của mình, Thục
nghĩ vậy. Thế là quyết định điều động lên khỏi tàu thủy thủ Trần Đắc Khương có
chữ ký trưởng phòng tổ chức T/L giám đốc (thừa lệnh giám đốc) được thi hành.
Tưởng thế là xuôi. Nào ngờ lại xảy ra sự cố, ầm ĩ cả xí nghiệp.
Chiếc Honda DD nhanh chóng được vớt lên. Xí nghiệp không tính tiền cẩu. Nhưng
Duy phải trả tiền cho thợ lặn. Phải đem xe lên phố bảo dưỡng... Tất cả căm phẫn
hành động của Khương. Duy thề sẽ trả mối thù này. Chí ít là đưa ra hội đồng kỷ
luật. Nhưng thật không ngờ. Duy có quyết định lên bờ về lực lượng dự trữ ngay
chuyến ấy. Chính ban chỉ huy tàu lên gặp giám đốc đề nghị đưa Duy lên. Nếu
không cả tàu sẽ chết. Cả tàu sẽ bị giết. Xí nghiệp cũng gay chứ chẳng riêng
tàu. Duy lên. Khương xuống. Ngay. Không chậm trễ. Khương xuống tàu với quyết định
do đích thân tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng ký.
° ° °
Suốt thời gian kéo dây loa, đặt hàng bảng tin rồi giồng bảng
tin, Toàn chỉ nghe người ta nói về chuyện ấy.
Khương đã xuống tàu vận tải nước ngoài. Phụ cho Toàn không phải
Duy (Duy đã xin nghỉ phép) mà là Nhược, anh chàng đã đánh chén cả suất cơm của
giám đốc Trần Công Bằng ngày nào. Rồi khi cần phải thêm nhân lực để giồng cái bảng
tin bằng sắt dài sáu mét dưới gốc cây bàng ở giữa sân thì có thêm cả Thuyền,
người thủy thủ to béo đã đi tù về tội buôn bốn ki lô đá lửa. Cả hai đều là thuyền
viên của đại phó Phạm Cương, thủ trưởng tàu 307, con tàu có số chuột nhiều hơn
toàn bộ số thuyền viên của Liên hợp Biển Đông. Buổi chôn bảng tin lại xảy ra một
sự cố nhỏ nhưng vui. Khi Toàn, Nhược, Thuyền đang de chân chèo, cố dựng chiếc bảng
tin nằm dưới đất đứng thẳng lên sao cho sáu chân cọc của nó vào đúng sáu cái lỗ
đã đào sẵn, giám đốc ở đâu xộc tới:
- Ông Toàn! Chánh văn phòng không nói gì với ông à?
Toàn ngơ ngác:
- Báo cáo tổng giám đốc, không ạ!
- Để đấy đã! Ông vào đây với tôi!
Toàn xoa xoa hai bàn tay đất cát (thật phúc là lúc này lại có
hai bàn tay đầy đất cát), bước theo sau giám đốc, vào buồng văn phòng tổng giám
đốc, ngơ ngác không hiểu có chuyện gì. Buồng văn phòng tổng giám đốc cũng là buồng
làm việc của Toàn. Mặc dù là buồng làm việc của mình nhưng Toàn không dám ngồi
mà cứ đứng vịn tay vào chiếc ghế dựa đặt sau bàn làm việc của anh. Giám đốc bừng
bừng tức giận bước thẳng tới bàn Điều:
- Ông Điều! Ông Toàn! Hai ông ra đây với tôi! Ra đây!
Điều vội xếp các giấy tờ trên bàn, đặt chiếc cặp ba dây đè
lên, rồi đứng dậy theo tổng giám đốc ra ngoài. Toàn đi sau cùng. Tổng giám đốc
dẫn hai người tới toa lét.
- Các ông không ngửi thấy gì à? Tôi đã bảo các ông từ hôm qua
là cho vệ sinh thật sạch sẽ cái toa lét này cơ mà? Sao các ông không làm? Rồi
cho kẻ ngay hai cái bảng đóng lên cửa để phân biệt bên dành cho nam bên dành
cho nữ mà các ông không chịu làm gì cả. Việc nhỏ như thế mà các ông không làm
được, hỏi còn làm việc gì nữa. Tôi đến chết với các ông mất thôi. Các ông đúng
là những thợ nói.
Toàn im lặng. Còn Điều phân trần:
- Báo cáo giám đốc toa lét chiều qua trước khi về đã cho cọ rửa
kỹ rồi. Khai thế này là mới từ sáng. Sáng nay nước lại bị cắt...
Tổng giám đốc lắc đầu chán nản:
- Mới từ sáng đến giờ đã khai nhức óc lên thế này. Phòng ban
nào cũng vậy. Làm việc thì ít. Uống chè thì nhiều. Uống chè rồi đi đái. Đúng là
ăn hại đái khai. Chỉ lo tiền mua chè với đun nước sôi cho mấy ông cũng đủ chết.
Ông cho người gánh nước từ bên bể xưởng lạnh về đây. Cọ ngay cho tôi. Ông Toàn
vẽ ngay cho tôi hai cái biển. Như ở các khách sạn ấy. Một cái dành cho nam. Một
cái dành cho nữ. Ông hiểu ý tôi chứ? Ông đã đến khách sạn bao giờ chưa?
Toàn lí nhí:
- Rồi ạ.
- Bên dành cho nam vẽ cái đầu đàn ông dưới viết Gentleman,
bên nữ vẽ cái đầu đàn bà dưới đề Lady. Đây. Ông có biết tiếng Anh
không? Tôi viết ra cho ông đây. Cứ thế mà làm. Hay là thôi, để sau cũng được.
Trước mắt lo cọ ngay cái toa lét. Đi mãi xa, chưa vào đến sân đã ngửi thấy mùi
khai rồi. Không ra làm sao cả. Bước vào xí nghiệp là thấy mùi khai. Mũi các ông
điếc hết cả rồi à? Ông biết khách sắp đến rồi chứ. Cái toa lét là bộ mặt của xí
nghiệp ông hiểu chưa? Khách quốc tế đến một xí nghiệp thực phẩm, ngửi mùi nước
đái người ta đã khiếp còn nói gì chuyện làm ăn.
Ông giơ tay xem đồng hồ:
- Thằng cha Robert Lee sắp đến rồi đấy.
Sếp lên phòng sếp. Điều làu bàu:
- Có cái toa lét chứ cái đếch gì đâu mà cứ nhặng lên. Thôi
ông Toàn, ông bảo hai thằng dự bị ngừng việc chôn bảng tin lại, để đến chiều,
lên đây lấy xô, cọ nhà xí. Còn ông đi lĩnh sơn, kẻ bảng treo ngay lên cho tôi.
Phải nói sếp rất quan tâm đến cái toa lét. Nó nằm sát ngay cửa
văn phòng tổng giám đốc và ăn hoắm vào chân cầu thang, bên dưới chỗ chiếu nghỉ,
lối lên tầng hai, trên ấy là nơi tổng giám đốc và các phó tổng giám đốc làm việc.
Cái toa lét mới được sửa lại, nền lát gạch men, tường ốp gạch men trắng muốt, với
những bàn cầu, những trang bị tiểu tiện gắn vào tường cho nam và những nơi vệ
sinh cho nữ. Có đèn tuýp, có gương, có la va bô rửa tay. Và cũng có cả vòi nước
để rửa chân. Đúng là chỉ trông thôi cũng thấy mát mẻ, hiện đại. Khác hẳn cái
nhà toa lét cũ, cũng là cái này nhưng tường gạch, nền láng xi măng, cặn nước giải
bám trên rãnh cáu khú vàng khè, cọ rửa thế nào cũng chẳng hết mùi.
Chánh văn phòng nói tiếp:
- Hôm qua sếp bảo kẻ hai cái biển ở toa lét thì cứ nghĩ lúc
nào kẻ mà chẳng được. Hôm nay ông dựng bảng tin. Mai kẻ. Nào biết đâu phải có
biển ngay để đón thằng cha Robert Lee. Nó đến để bàn kế hoạch làm ăn chứ nó đi
vào xem toa lét làm gì. Nhưng thôi, ông cứ kẻ ngay đi.
- Nó đầu tư cái gì hở anh?
- Thằng này quốc tịch Mỹ chuyên buôn bán cá. Nó gặp ông sếp
nhà mình ở Singapore. Cái dự án xuất cá ướp đá thẳng từ ngư trường sang Sing mà
ông Thắng đề ra là sau buổi gặp nó. Nó muốn sang khảo sát các thiết bị phương
tiện đánh bắt của mình. Cách thức muối ướp. Phương tiện vận tải. Nếu cần nó sẽ
đầu tư cho mình tàu thu gom muối ướp đá trên biển. Dự án lớn lắm. Ông Thắng rất
hy vọng. Nếu thành công thì đây sẽ là cứu tinh của xí nghiệp.
Nghe biết vậy thôi. Mãi sau Toàn mới hiểu được những con tàu
đang vận tải cá ra nước ngoài kia là chỉ chở cá đông lạnh. Mà năng lực sản xuất
của xí nghiệp chủ yếu lại là những con tàu đánh cá ướp đá. Tàu đánh cá ướp đông
thiết bị ngày một kém, càng đánh càng lỗ, đã tìm được lối thoát là vận tải hải
sản đông lạnh cho các công ty hải sản xuất khẩu, trong khi ấy các tàu đánh cá ướp
đá cũng trong tình trạng thiết bị xuống cấp, ngư trường ngày càng ít cá, càng
đánh càng lỗ nhưng vẫn chưa tìm được lối thoát. Và bây giờ một hy vọng được
nhen lên là ông khách người Mỹ Robert Lee, cái ông khách sắp đến xí nghiệp.
Dưới sự hướng dẫn của chánh văn phòng, Thuyền, Nhược, hai người
vớ hai cái xô trong kho cái Tám và mượn hai cái nữa của phòng công đoàn, xách
nước từ xưởng lạnh băng qua sân huỳnh huỵch, huỳnh huỵch vào trong toa lét cọ dội
ào ào.
- Làm thật sạch hộ tôi các bạn nhé. - Chánh văn phòng vào tận
nơi chỉ trỏ - Tí nữa ông sếp ông ấy vào kiểm tra đấy. Tính ông ấy là cứ phải
làm ngay như thế.
Và quay lại nói với đám nhân viên các phòng ban đang lượn lờ
gần toa lét:
- Tôi xin các bố các mẹ có đi đái chịu khó sang xưởng lạnh mà
đái nhé. Chỗ này cọ sạch là để làm mẫu đấy, không phải chỗ toa lét đâu. Các bố
các mẹ đái còn tôi lĩnh đủ đấy.
Có tiếng cười:
- Thế thì ông Toàn phải kẻ dòng chữ vào đây: Cấm đái.
Một người gầy gò da xám ngoét răng nâu xỉn, cười cười nói với
một phụ nữ cao lớn, xinh đẹp hai má ửng hồng rừng rực khí thế:
- Liễu ơi. Có sang xưởng lạnh toa lét cho anh gửi một
bãi nhé. Xa lắm anh không đi được đâu.
Cô gái tên Liễu, nhân viên phòng tài vụ lườm nguýt:
- Anh rủ thêm người nữa đi. Hai người mới đầy. Mình anh chỉ
được một góc thôi.
Càng cười giòn giã. Chánh văn phòng bảo với anh chàng gầy gò
xám ngoét vừa nói:
- Thằng Lập mà vào đây đái tao cắt dái. Gửi được ai cứ gửi.
Khi công việc dọn nhà xí đã xong, đám đông đã giải tán, chánh
văn phòng đã vào tận nơi hít hít, gật đầu tỏ vẻ hài lòng, không những thế còn bảo
cái Tám tiếp tân xịt thêm một ít nước thơm, hai anh thủy thủ dự trữ sau khi
hoàn thành nhiệm vụ, chưa muốn trở về quan tài sắt ngay, còn đang ngồi cả ngoài
hành lang xem Toàn lúi húi vẽ hình một người mặc váy, bên dưới đề chữ Lady (Quý
Bà) thì khách đến. Tổng giám đốc đã ngồi chờ ở sa lông trong văn phòng. Một chiếc
ô tô sáng bóng, lượn vào và dừng ở giữa sân. Lái xe mở cánh cửa phía sau,
nghiêng người, giang tay nhìn vào trong xe. Một người từ trong xe bước ra. Như
chỉ đợi có vậy, tổng giám đốc đứng bật dậy, tươi cười sải những bước dài ra
sân, cái sân mới được phủ một lớp xi măng cát, láng một lớp phù sa, dấu vết của
những ngày nước lớn tràn vào lếnh láng một nửa sân hơi dốc.
- Chào ông Robert Lee.
Hai người ôm lấy nhau vỗ vỗ vào vai nhau như những chiến hữu
lâu ngày mới gặp. Khách là một người nhỏ nhắn, ăn mặc giản dị, da nâu, có cái
trán bị bóp lại, khuôn mặt càng xuống phía dưới càng to ra, điểm cực đại là chỗ
bắt đầu xương quai hàm dưới, từ đó cái cằm đưa ra, môi dưới dày hơi bị thưỡi
trong khi môi trên lại mỏng. Trông rất bình thường nếu không nói là bẩn tướng, ấy
thế mà lại là một nhà tư bản kếch sù, buôn bán xuyên quốc gia.
Chủ khách dắt tay nhau lên gác. Chánh văn phòng Điều cắp cặp
theo sau.
Toàn, Thuyền, Nhược cùng nhìn theo ba người đang vui vẻ lên từng
bậc thang. Bỗng Toàn nghe thấy tiếng Thuyền bên tai:
- Quen quá. Lạ quá nhỉ? Hay là...
Thuyền đứng thẳng lên, ngây người lẩm bẩm:
- Robert Lee à? Đúng rồi. Không chệch đi đâu được. Sao lại có
thể thế được nhỉ?
Toàn hỏi anh thủy thủ to béo:
- Anh quen à?
- Quen. Nhưng không biết có đúng không.
Nhược cười:
- Thấy người sang bắc quàng làm họ. Người ta là một nhà tư bản
bên Mỹ, còn mình là thằng thủy thủ dự bị mà cứ nói quen. Thôi về tàu đi bố.
Nhược về. Thuyền không về. Thuyền ở lại xem Toàn kẻ chữ Lady và
chờ ông khách Robert Lee xuống. Dù có phải chờ đến trưa. Nhưng Thuyền không phải
chờ lâu. Có tiếng giám đốc cười nói:
- Mời ông đi thăm quan xí nghiệp. Có thể nói xí nghiệp chúng
tôi là xí nghiệp đầu đàn trong ngành. Ta mời khách ra xem cầu cảng, xem tàu trước
đã ông Điều nhỉ.
Khi tổng giám đốc, ông khách Mỹ và chánh văn phòng trịnh trọng
xuống hết bậc thang cuối cùng, đi qua cửa toa lét không còn tí mùi khai nào và
bước dọc hành lang, tiến về chỗ Thuyền, Thuyền buột kêu lên khe khẽ:
- Đúng rồi! Nhọ...
Và đứng lên nhìn thẳng vào Robert Lee. Ông khách Mỹ sững lại:
- Ai như... Ôi! Anh Thuyền! Thuyền Lồn!
Hai người ôm lấy nhau. Ghì chặt. Đẩy nhau ra. Nhìn vào mặt
nhau. Rồi lại ghì chặt. Đấm vào lưng nhau. Ép má vào nhau. Thuyền thì thầm rất
khẽ vào tai Robert Lee chỉ đủ để một mình Robert Lee nghe thấy:
- Lý Sinh Keng! Nhọ mõm. Nhọ mõm!
Và Robert Lee đáp lại cũng bằng những tiếng thì thầm:
- Thuyền Lợn! Thuyền Lợn!
Họ nhìn vào mặt nhau cười lớn.
- Anh làm ở đây à? Chiều gặp nhé. Bây giờ tôi còn phải theo
ngài Tổng giám đốc đi làm việc đã. Thế nào chiều cũng gặp đấy. Anh cứ chờ tôi ở
sân này.
Nói rồi Robert Lee chạy tới ô tô, mở cửa xe, lấy ra một cây
ba số đưa cho Thuyền:
- Cầm lấy hút tạm. Chiều nói chuyện nhiều. Thật không ngờ gặp
anh ở đây. Chiều nhé. Cuộc sống ổn không?
Thuyền chỉ cười ổn ổn.
Khách đã đến rồi. Sếp đã cùng khách xuống tàu rồi. Chẳng cần
làm cấp tập cái hình người đàn ông với chữ Gentleman nữa. Toàn thu dọn
đồ nghề, bút lông, mấy hộp sơn màu đem vào cất ở góc phòng, đi ra hành lang
phía sau nhìn ra cầu cảng. Thuyền cũng đứng đó. Cũng nhìn về phía ba người chủ
và khách đang leo lên cầu thang dốc ngược bước vào cabin tàu HL 406 sơn đỏ đỗ
áp cầu, nổi dềnh lên để lộ gần hết mạn tàu vì tàu đã bốc hết hàng, vì nước lớn.
Ôm cây ba số, Thuyền vẫn còn chưa hết xúc động, nắm tay Toàn, gần như kéo Toàn
đi:
- Ra căng tin uống cái gì thôi chứ sếp?
Hai người ra căng tin. Bia ướp lạnh nhưng vẫn bỏ thêm đá.
Thuyền bóc bao ba số, ấn một bao vào tay Toàn:
- Sếp cầm lấy hút, sếp mới về xí nghiệp à? Thảo nào lên trên
phòng ban bao nhiêu lần hôm nay mới gặp sếp. Cái thằng cha Robert Lee này chính
tên là Lý Sinh Keng. Trời ơi cứ tưởng đón ông Robert Lee mắt xanh mũi lõ nào
cơ. Cọ rửa nhà xí tí chết. Khớ khớ. Không còn tí mùi nước đái nào. Xách nước bại
cả tay. Lại xịt thêm dầu thơm nữa. Nếu tôi biết nhà doanh nghiệp Mỹ Robert Lee
chính là Lý Sinh Keng thì tôi đã đề nghị tổng giám đốc huy động thêm một số anh
chị em đái thêm một chập nữa. Thì thế. Khớ khớ. Điều đó rất có lợi cho xí nghiệp.
Có thể vì vậy mà hợp đồng được ký kết cũng nên. Khớ khớ. Bởi vì doanh nhân Mỹ
Robert Lee này đặc biệt thích mùi nước đái. Thế. Thì thế mà lại. Khớ khớ. Thật
mà. Ớ trong tù chúng tôi gọi là Keng nhọ mõm. Vì mồm lúc nào cũng như nhọ, cũng
như vừa ăn sắn nướng xong mà không chùi mép. Còn tôi to béo nên anh em gọi là
Thuyền lợn. Gọi vui thôi không ác ý gì đâu. Với lại cái tên ghép ấy mà. Hai thằng
tù với nhau mãi. Bố ấy lại không có tiếp tế. Vợ bỏ. Tôi thì nhận tắc đều đều.
Có gì tôi cũng chia, cũng cho ăn chung. Thì sếp tính cả toán chỉ có hai anh em
người Hải Triều thôi, nhiều nhặn gì cho cam. Tù lâu hơn tôi. Mà bây giờ khá thế
đấy. Thủy thủ bên Vosco. Cũng buôn lậu. Tôi ra, tay ấy còn tù. Mà bây giờ nên
người. Ha ha. Sướng. Ai ngờ đâu mình lại quen với thượng khách của tổng giám đốc.
Khớ khớ. Lại nghĩ đến cái nhà xí. Cái nhà xí trong tù ấy mà, không thể tả được
đâu. Khai chảy nước mắt nước mũi. Thế mà chẳng mấy tối tôi với Lý Sinh Keng tức
là cái ông Robert Lee này này không đun đun nấu nấu ở trong ấy. Mà đâu chỉ mình
mình đun. Bao nhiêu người nữa chứ. Khói không mở được mắt. Mồ hôi mồ kê. Thế.
Thì thế mà lại... Ai ngờ lúc vượt biển ra đi là đồ phản quốc mà khi trở về lại
danh giá thế!
Suốt từ ấy cho đến trưa gần như chỉ một mình Thuyền nói. Thuyền
nói hai người gặp nhau ở trại Tân Lập. Rồi cùng chuyển lên trại Phố Lu. Được cái
không bị quản chế. Mà là tù tự giác. Tự giác có đỡ hơn nhưng cũng đói lắm.
Thích nhất là gánh phân hay lấy lá làm phân xanh. Nhổ được sắn. Nhổ của trại.
Nhổ của đồng bào. Thuyền cười lớn:
- Một hôm tôi với ông Robert Lee này này đang cùng anh em ngồi
nhổ cỏ vườn rau của trại, nắng quá, nắng hơn hôm nay, có mấy bà người dân tộc địa
phương đi qua, tự nhiên Nhọ mõm lại ngẩng lên rền rỉ: Bà ơi! Bà thấy chúng tôi
tù thế này bà có thương không hở bà? Một bà trả lời đốp chát: Thương gì mà
thương. Có nương sắn của chúng tôi các anh nhổ hết còn thương cái nỗi gì? Thế
là tất cả chúng tôi cười ầm. Khớ khớ. Nhưng có cái này phải công nhận. Gầy gò
nhỏ bé, làm việc nặng không được, thường xuyên phải ăn mức mười ba cân (gạo),
nhưng Lý Sinh Keng à không phải Robert Lee khơ khớ khớ cứ quên thôi này cái tên
Robert Lee nghe hay nhỉ, nghe rất Mỹ mà dễ gọi. Lại vẫn giữ được cái họ Lý của
mình. Lý là họ phải không sếp. Còn Robert là tên. Phương T ây người ta để tên
trước họ có đúng không sếp. Ây là tôi cũng nghe nói thế chứ chữ Tây chữ Tàu là
tôi mù tịt. Đang nói cái gì nhỉ? À. Nhớ ra rồi. Đang nói đến trong tù Lý Sinh
Keng yếu nhưng rất nhanh. Rất tháo vát. Tôi chưa từng đi đến một bản làng nào,
một nhà dân nào thế nhưng Keng nhọ mõm đâu cũng biết. Trùm phe đấy. Anh muốn mấy
quả trứng gà bồi dưỡng? Có ngay. Một chai con con mật ong? Nói sáng là chiều
có. Kể cả rượu cũng có. Bỗng dưng thấy đã là mùa mít, thèm mít và cần chục múi
ư? Có ngay. Cứ vải mưa đem đi là khi về cái gì cũng có. Không vải mưa thì tiền
mặt cũng được. Tiền mặt chứ không phải tiền âm phủ đâu. Còn những bánh mì, thịt
kho, thuốc lá là những thứ có sẵn trong trại không nói làm gì. Những thứ ấy có
thể mua bằng tiền âm phủ 1 .
Và Thuyền cười sảng khoái:
- Khớ khớ khớ. Thật là hay! Tự nhiên sáng nay lại được điều
đi giồng bảng tin cho sếp mới được gặp bạn cũ. Chiều nay ta cố gắng hoàn thành
sớm nhé. Để anh em tôi có thời gian hàn huyên tí chút. Chắc chẳng thể tránh được
một chầu lên bờ xuống ruộng.
Buổi chiều ba người, cả Nhược nữa kết thúc công việc sớm. Lúc
Toàn và Nhược đang mỗi người một đầu bảng tin giữ cho nó đứng thẳng và Thuyền
đang ngắm lại một lần nữa trước khi chèn gạch vỡ, đá vụn vào sáu cái chân cột
dưới tán lá gốc bàng và chờ Robert Lee thì tổng giám đốc bước tới. Ông hất hàm
về phía Thuyền:
- Đồng chí... gì nhỉ?
- Báo cáo thủ trưởng tôi là Thuyền. Lê Văn Thuyền ạ.
- Đồng chí quen Robert Lee đấy à?
- Vâng ạ.
- Lâu chưa?
- Khoảng hai chục năm rồi ạ.
- Ông ấy vượt biên năm nào?
- Năm bảy chín.
- Ớ nhà ông ấy làm gì?
- Báo cáo thủ trưởng. Thủy thủ bên Vosco.
- Tôi mời ông ấy đi ăn cơm tối. Nhưng ông ấy nói đã hẹn với đồng
chí rồi. Có gì trong bữa ăn, đồng chí nói thêm vào dùm nhé. Ông ta còn ngại khoản
máy lạnh trên tàu 600 mã lực. Hơi bị cũ. Nếu ký được hợp đồng, mình sẽ phải đầu
tư phục hồi sửa chữa chứ. Đồng chí đang là lực lượng dự trữ à? Bao lâu rồi? Được.
Được. Để rồi sẽ tính...
Chẳng biết giám đốc sẽ tính cái gì. Mà có tính cái gì chắc
cũng là điều tốt đẹp thôi. Với lại khi sếp chưa nói thì mình chưa thể hỏi. Buổi
tối với Robert Lee rồi cuối cùng cũng đến. Ô tô đón Thuyền từ sân xí nghiệp.
Thuyền bước lên xe trước con mắt ngạc nhiên, thèm thuồng của
bao nhiêu người đang thập thò ở cửa buồng làm việc, chờ kẻng tan tầm. Một bữa
ăn sang trọng tại nhà hàng. Hai người trong phòng nhỏ. Xúp vây cá khai vị. Rượu
uyt ki. Tôm hùm nướng. Thịt nhím xào sả. Một cô phục vụ váy ngắn đứng chờ ở
phía ngoài cửa phòng sẵn sàng bước vào khi có lệnh của thực khách. Cuối tiệc
còn có một phong bì với ba tờ đô. Họ không nói chuyện làm ăn. Mà nói chuyện tù.
Bắt đầu là câu chuyện sếp Thắng quát tháo về cái toa lét khai mù, chính Thuyền
phải xách nước từ xưởng lạnh lên cọ rửa để đón ngài Robert Lee. Rồi đến cái nhà
mét trong tù. Ông khách Mỹ gốc Việt ngả ưỡn người trên ghế làm ra vẻ mơ màng:
- Ôi! Cái mùi khai đến cay mắt ấy.
Và cười rinh rích:
- Ông về nói với tổng giám đốc là tổng giám đốc làm hỏng hết
việc rồi. Nếu còn cái mùi khai nhớ nhung thân thương ấy thì hợp đồng đã được ký
ngay buổi chiều. Ông tư bản Mỹ gốc Việt này đặc biệt thích mùi khai. Sở dĩ hợp
đồng còn lằng nhằng chưa ký là vì không có mùi khai đấy.
Lại cười:
- Mai tôi phải vào toa lét xem thế nào mới được.
Một lúc sau Robert Lee như nói một mình:
- Giờ đây nghĩ lại vẫn rợn người. Giá ngày ấy ông nghe tôi,
đi với tôi có phải bây giờ khác rồi không?
Thuyền như đã suy nghĩ rất nhiều lần chuyện ấy:
- Ngày ấy đi là không có ngày về. Đi là mắc tội phản quốc. Mà
tôi còn bố mẹ già. Đâu biết đi rồi lại được về, trở thành Việt kiều yêu nước,
đón tiếp trọng vọng thế này. Với lại con người tôi ông biết. Chỉ ăn no vác nặng
thôi. Đâu tháo vát nhanh nhẹn được như ông.
Rồi Thuyền kể những ngày lao vào kiếm sống sau khi mãn hạn
tù. Mình thì xí nghiệp đã cho trở lại đi làm. Nhưng bữa đực bữa cái không đủ sống.
Còn bốn cái tàu há mồm nữa phải lo. Tối đêm, tôi với thằng nhớn ra bờ sông
khiêng về nhà một miếng sắt không biết nằm ở đấy từ bao giờ. Đục khuôn dép.
Khuôn dép trẻ con. Vì tôi đã nghiên cứu trẻ con là hay đánh rơi dép nhất. Người
ta chỉ làm khuôn hai chiếc một, giỏi lắm là hai đôi bốn chiếc, tôi chơi cái
khuôn tám chiếc. Thế rồi bốn đứa con lớn bé chặt băm dép cũ, màu xanh để riêng,
màu đỏ để riêng, màu nâu để riêng, hòa xà phòng bột rửa sạch, xếp vào khuôn nướng
trên bếp than. Khổ lắm. Vất vả suốt đêm. Mùi nhựa khía vào hai lỗ mũi, bật máu.
Kiếm ăn được. Đàng hoàng. Nhưng ông phòng thuế đến. Thì cũng chỉ mất bữa rượu
thịt chó thôi. Nhưng ông công an đến, truy hỏi nguồn gốc của miếng thép làm
khuôn thì gay rồi. Đòi xuất trình hóa đơn chứng từ của công ty kim khí hóa chất.
Đây là mặt hàng nhà nước độc quyền quản lý. Ông thấy khó sống không? Miếng thép
vất ở bờ sông không sao. Mình đem về làm một việc có ích cho xã hội thì lôi
thôi. Biết các ông vòi đây, muốn ăn đây. Lại phải một chầu thịt chó nữa thêm
vào mỗi ông hai đôi dép trẻ con. Làm được mấy năm, khi hàng nhựa Trung Quốc
vào, phải chuyển sang làm máy xay xát.
Ông Việt kiều yêu nước chia sẻ với bạn:
- Tôi sang bên ấy những ngày đầu cũng vất vả lắm. Vất vả
không kém trong tù. Nhưng rồi lại nghĩ phải làm sao mở mày mở mặt với đời. Thế
là lại cố. Lúc nào thư thái tôi kể cho ông nghe.
Nhấp một ngụm rượu, ông tiếp:
- Vấn đề là phải có nhiều tiền ông Thuyền ạ. Tôi đã rút ra được
điều ấy. Ai có tiền người ấy là chủ xã hội. Tiền mua được tất cả. Cái gì tiền
không mua được thì nhiều tiền sẽ mua được. Có tiền, người ta sẽ phải phủ phục
dưới chân ông. Không có tiền ông chỉ là cục cứt. Trước khi về đây, tôi đã nằm ở
Hà Nội nửa tháng. Gặp nhiều kiều khác cũng về tính nước làm ăn. Gặp
nhiều quan chức cỡ bự. Tôi biết. Không gì mạnh bằng tiền. Người ta nói thế này
thế nọ nhưng ai cũng thích tiền. Nói một đằng nhưng nghĩ và làm một nẻo. Nói
cách mạng nhưng thích tiền. Đô la là nhất. Tiền Việt cũng không đứng hạng nhì
đâu. Bởi thế bạn ơi, bạn phải có tiền. Tôi có thể biếu ông dăm ba trăm thậm chí
một nghìn đô. Nhưng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Cái chính là tạo ra công
việc cho ông để ông kiếm được tiền. Nếu việc mua cá đá của công ty Biển Đông
suôn sẻ, ông sẽ là đại diện cho tôi ở đây. Được không?
Một điều Thuyền chưa hề nghĩ tới. Một điều trên cả tuyệt vời
cầu mong thành hiện thực. Cầm cái phong bì ba trăm đô của bạn, Thuyền nghĩ ngay
tới cái máy xay xát cọc cạch đặt ở nhà, không ngày nào không giở chứng. Thằng
Trịnh con nhớn anh luôn miệng kêu ca cằn nhằn, chân tay bê bết dầu mỡ vì sửa chữa.
Kỳ này phải thay một cái máy mới hoàn toàn. Mô tơ ngoại. Đi lại đường dây điện.
Thay mới cái cầu dao điện ba pha. Thiếu thì lấy tiền bán máy cũ bù vào...
--------------------------------
Tiền âm phủ: Số tiền được ghi trong một tờ giấy có xác nhận
của giám thị trại tù. |
II
Hôm sau, xuống chiếc tàu bẹp, đưa cho Phạm Cương bao ba số, vừa
mới giải thích đôi điều về lai lịch của bao thuốc lá với Cương, đã có người
trên văn phòng xuống gặp Thuyền:
- Anh lên ngay giám đốc gặp.
Dường như giám đốc rất hy vọng vào việc xuất cá đá này. Ngồi
thẳng người trên xa lông, đối diện với giám đốc, nhìn cái Tám, cô gái thon thả
trẻ trung phục vụ tiếp khách cho giám đốc bưng ấm trà ra, ngón tay cong cong
rót nước vào chén sứ, rồi khẽ khàng đi sang buồng bên, anh cảm thấy mình như đã
là đại diện của một công ty nước ngoài, một đối tác với Liên hợp Biển Đông rồi.
- Sao? Hôm qua tốt chứ hả?
Thuyền thuật lại tất cả, kể cả ý định của Robert Lee muốn anh
sẽ làm đại diện tại Việt Nam khi công việc trôi chảy. Tổng giám đốc tươi cười:
- Được thế càng tốt. Trước mắt tôi sẽ nói tổ chức chuyển đồng
chí xuống tàu sản xuất. Xuống ngay tàu 600 làm chế biến trưởng. Đánh cá đá xuất
thẳng. Ngay chuyến đầu tiên. Có đồng chí, chắc Robert Lee sẽ không làm khó dễ.
Hộ chiếu đồng chí có chưa nhỉ. Để tôi bảo tổ chức làm ngay cùng đợt với tàu.
Tàu đang làm đấy.
Chỉ ngày hôm sau, anh đã nhận quyết định xuống tàu 600 mã lực
với chức danh chế biến trưởng, rồi đi chụp ảnh làm hộ chiếu, đúng như giám đốc
nói, chấm dứt chuỗi ngày tháng lê thê nằm canh quan tài sắt.
Cương, Nhược, Thuyền, Kích bốn người làm một bữa liên hoan
chia tay. Không căng tin, không nhà hàng. Làm ngay tại tàu. Vừa ăn. Vừa nằm. Vừa
ngồi. Nó mới sướng. Chúc cho một thằng thoát kiếp dự trữ thường xuyên. Chúc cho
một thằng nhờ tận đâu đâu đã thoát khỏi kiếp thủy thủ dự trữ nhọc nhằn. Và có
thể sẽ nên người.
° ° °
Từ khi Toàn về thay Giò Tìu, công tác thi đua đã có những
thay đổi đáng kể. Sau một thời gian quá dài không được làm việc, Toàn lao vào
công việc với một nhịp độ "như điên". Sau khi giồng bảng tin và căng xong
dây truyền thanh, Toàn mời một nhà nhiếp ảnh về chụp toàn bộ cầu cảng, làm một
cái panorama bốn kiểu ảnh ghép lại lồng khung kính treo ở văn phòng giám đốc,
chỗ Toàn và chánh văn phòng ngồi làm việc. Trưởng phòng điều độ trông thấy
thích quá, đề nghị phóng thêm một bộ treo ở điều độ, rất tiện lợi trong việc
theo dõi cầu bến, xếp tàu. Toàn còn lên đài phát thanh thành phố ký một hợp đồng
mua ăm li, mắc thêm loa. Rồi gửi tàu đi nước ngoài mua micro mới... Cũng có trục
trặc kỹ thuật đôi chút. Ây là khi bàn giao, anh kỹ thuật cơ công nhất định đòi
bản vẽ mà anh cán bộ kỹ thuật đài truyền thanh nói là không có, chúng tôi
đã làm hàng trăm hệ thống loa đài cho các xí nghiệp không thấy nơi nào đòi bản
vẽ cả, bên A chỉ cần biết hệ thống loa chúng tôi mắc song song. Anh kỹ thuật
cơ công nhất định không chịu chấp nhận, không thể đồng ý với cách làm việc thủ
công như thế. Cuối cùng Lê Xuân Vân, phó thư ký công đoàn phải đến giải quyết.
Vân hỏi Toàn về số loa đã mắc, vị trí các loa, về công suất ăm li. "Bác bật
công tắc tôi xem". Vân bảo Toàn. "A lô a lô. Chúng tôi thử hệ thống
loa. A lô. A lô". Tiếng loa trên các nóc nhà vang khắp xí nghiệp.
Vân quay lại nói với anh cán bộ kỹ thuật đài truyền thanh:
- Tôi nghiệm thu. Hệ thống loa vận hành tốt. Cám ơn các đồng
chí.
Buổi nghiệm thu kết thúc. Nhưng còn bữa cơm liên hoan tại
căng tin đang chờ đợi. Anh cơ công chắc tự thấy không có đóng góp gì cho buổi
nghiệm thu, không những thế lại còn gây khó khăn, và cũng để phản đối cách làm
ăn luộm thuộm, thiếu khoa học nên là người ra về đầu tiên. Anh cán bộ đài phát
thanh đã nổi cơn tự ái, cũng nhất định ra về. Bốn suất ăn với đầy đủ bia, thịt
gà, chả cá thu, sườn ninh khoai sọ, tim gan xào thập cẩm giải quyết sao bây giờ.
Toàn sang văn phòng công đoàn mời Vân đi ăn, Vân lắc đầu quầy quậy. "Ai lại
thế. Giá không có cái chuyện ông Nhự hâm bên cơ công cứ nhất định đòi bản vẽ để
em phải sang giải quyết thì em đi với bác ngay. Đằng này mình giải quyết, rồi
mình đi ăn. Hơi thô, bác thông cảm". Toàn báo cáo khó khăn ấy với chánh
văn phòng Điều. Điều cười: "Yên tâm. Để tôi giải cho. Kiếm người làm khó
chứ kiếm người ăn dễ ợt". Chánh văn phòng vận động cô Phòng văn thư. Phòng
giãy nảy: "Không đâu. Nhét. Khơ ra sô!" Chánh văn phòng cười ngặt nghẹo:
"Lào giáp Căm-pu-che!" Đấy là câu chào của chị Nhuệ, tạp vụ nấu nước
ngày trước. Cái dạo tàu Liên Xô vào nhiều, gặp thuyền viên Liên Xô nào chị cũng
cười rất tươi, để lộ mấy chiếc răng vàng lấp lánh: Dờ-đáp-tơ-vui-che. Và Huy,
chính Huy, đại phó HL 19 bây giờ đã Việt hóa lời chào tiếng Nga ấy bằng một câu
thật dễ nhớ: "Lào giáp Căm-pu-che". Lào giáp Căm-pu-che cô Phòng
xong, đi tìm bà Nga. Bà Nga đồng ý ngay. Toàn gật gù: Đúng. Bà Nga là cộng tác
viên tương lai của đài. Khi đọc phải có giọng nam giọng nữ chứ. Người thứ ba là
trưởng phòng điều độ Đức. Cũng lại rất chính xác. Điều độ là đầu mối của mọi
tin tức trong xí nghiệp. Toàn và Điều sang điều độ. May Đức vừa từ ngoài cảng về,
theo sau là ba người khách. Đức ngồi vào bàn, những người khách kéo ghế ngồi
quây phía đối diện. Tặng phó phòng ngồi ở bàn phía ngoài nhưng tất cả không ai
để ý đến, coi như không có Tặng ngồi đấy. Dường như họ đang tiếp tục cuộc tranh
luận dở dang. Đức giơ tay chém chém vào không khí, giọng oang oang, gay gắt:
- Tôi phản đối cách làm như thế. Yêu cầu các thuyền trưởng
Lát phải ký vào biên bản. Tàu phải có người trực chứ! Tàu Lát nào cũng phải có
người trực.
Một người khách tóc bạc trắng lễ phép:
- Tôi đã báo cáo giám đốc của tôi rồi. Cái này lỗi không phải
của chúng tôi. Giám đốc của chúng tôi sẽ sang thưa chuyện với anh sau.
Đức dường như vẫn đang cơn say máu:
- Các anh cứ bảo một Lát vào làm ma nơ hết hai triệu
đắt quá. Nhưng các anh làm ăn như vậy, chúng tôi làm sao bốc được hàng.
Những người khách tỏ vẻ biết lỗi. Họ đứng lên nắm tay Đức ân
cần:
- Chúng tôi sẽ rút kinh nghiệm. Lần đầu tiên. Mong anh thông
cảm.
Lúc họ vừa bước ra, Đức như chợt nhìn thấy chánh văn phòng và
Toàn, anh cười rất tươi, vẻ mặt thay đổi hẳn:
- Chào các chiến hữu. Có việc gì đấy. Làm ăn như thế này chết
cả. Sao? Tan tầm ra căng tin à. Xong rồi.
Và giật giọng gọi một thanh nhiên đi ngang qua:
- Tuyến ơi. Vào đây. Các bồ chờ tôi một tí. Ngồi đây. Ba số
đây. Mấy thằng Lát vừa biếu đây. Tuyến. Tình hình thế nào mày?
Tuyến là một thanh niên to lớn, đội trưởng đội bốc xếp, một tổ
chức đánh thuê cho xí nghiệp, tay chân đắc lực của Đức.
- Cháu mở máng từ một giờ đến giờ chưa có xe.
- Xe của nó đâu? Phải hỏi chủ hàng chứ!
Điều và Toàn mỗi người châm một điếu ba số rồi trở về phòng
sau khi đã dặn lại Đức một lần nữa: Đúng năm rưỡi nhé!
Thấy thái độ kính phục của Toàn về cung cách làm ăn của trưởng
phòng điều độ, Điều cười:
- Ông không biết. Thằng này siêu đấy. Chỗ dựa vững chắc của sếp
đấy. Cảng bây giờ là cảng tổng hợp, không chỉ là cảng cá. Tàu gạo, tàu xi măng,
tàu sắt thép... Chở đến. Chở đi. Hợp đồng làm ba ngày thì đỗ năm ngày. Tàu dài
một trăm mét, bảo tàu dài năm mươi mét. Đội quân cửu vạn của thằng Tuyến phải nộp
đều đều. Cống cho bố Đức. Bố Đức lại cống cho bố Thắng. Thằng Đức giở mặt như
bàn tay. Ông Vệ, giám đốc cũ ở đây, nghỉ hưu chuyển về Quy Nhơn, đi đánh thuê,
hôm nọ đưa tàu ra đỗ ở cảng, không có hợp đồng, nó yêu cầu làm hợp đồng, ông ấy
không làm, nó đuổi đi ngay. Ông Vệ trước khi tách bến còn lên đứng giữa sân, gọi
nó ra chỉ tay vào mặt nó: "Mày là thằng ăn cháo đái bát. Mày thừa biết
chính tao là người đề nghị đề bạt mày. Mày cũng biết chính tao xây dựng cái cầu
này. Thế mà bây giờ cầu rộng tao đỗ có một ngày, mày cũng đuổi tao à?" Bây
giờ ông Thắng thử về hưu xem nó coi không bằng con tép.
Ngừng một lát, Điều tiếp:
- Còn cái chuyện ở phòng điều độ vừa rồi là thằng Đức nhận
thêm một Lát của Nga vào bốc hàng. Nhưng thằng Tuyến không kham nổi ba dây cùng
bốc. Thằng Đức cáu. Chắc cái Lát của Nga này thằng Đức vớ bẫm. Tàu Nga là nó
tính giá thuê cầu bằng đô đấy. Nó cứ làm như nó tích cực lắm. Qua làm sao được
mắt tôi.
Nghe Điều nói Toàn mới biết được đầu đuôi câu chuyện ở phòng
điều độ. Khi anh sang để nhắc lại với
Đức về thời gian ra căng tin, vẫn còn thấy Đức và Tuyến đang
trao đổi với nhau. Bàn ngoài, phó phòng Tặng ngồi im như một pho tượng dửng
dưng vô cảm, không tham gia vào câu chuyện.
- Chú thông cảm với cháu. Cháu không có đủ người để bốc.
- Nhưng cái này liên quan đến thằng Ivan Tuyến ạ.
- Ivan thì Ivan chứ. Nó cũng là người chứ.
- Thế xe của nó đâu.
- Ớ ngoài cổng. Xếp lốt kẹt cứng ngoài cổng. Mở cửa là nó ùa
vào.
- Mày cứ mở máng cho chú.
- Máng mở từ một giờ đến giờ.
Đức cầm cái chìa khóa xe máy trong tay Tuyến:
- Thôi. Mày để chú giải quyết. Cái này dính đến thằng Ivan. Để
chú lo.
Đức bước ra sân, mở máy phóng xe đi. Tuyến nói như phân bua với
Tặng:
- Tôi không thích những ai coi người nước ngoài hơn người
mình. Nước ngoài cũng là người thôi chứ.
Ngừng một lát Tuyến tiếp:
- Mà thực tế bọn Ivan này chỉ là Bế Văn Đàn cho bọn chủ người
Việt Nam thôi. Chúng nó kiếm ăn nhưng dưới danh nghĩa thằng Ivan cho dễ bề hoạt
động. Ivan thì Ivan. Cũng là người thôi chứ.
Tặng chỉ cười. Nụ cười như muốn bảo: Tao biết quá rõ, kể cả
mày nữa. Chúng mày làm ăn với nhau thế nào
tao biết hết. Không qua khỏi mắt tao. Tuyến bước ra, Toàn định
nói với Tặng một câu gì đó bỗng chuông điện thoại đổ hồi. Tặng vẫn ngồi yên
không nhúc nhích. Một hồi. Hai hồi. Ba hồi... Giòn vang. Thúc giục. Tặng vẫn ngả
người ngó ra phía ngoài sân. Toàn nhắc:
- Điện thoại. Anh Tặng.
Tặng thản nhiên:
- Điện thoại gọi ông Đức đấy. Mình có nhấc máy thì cũng chỉ
"cho tôi gặp anh Đức". Ông Đức đi vắng là cúp máy ngay. Chỉ làm việc
với ông Đức thôi mà.
Và xem đồng hồ:
- Sắp hết giờ rồi. Hôm nay phải về sớm. Có "ông trưởng"
ra chơi. Đưa ông ấy ăn cơm tiệm. Ông ấy chỉ thích thế thôi. Mười ba tuổi mà uống
bia rất giỏi. Tôi bảo hơn bố rồi. Bố mười ba tuổi đi học về còn phải chăn trâu
bạc áo ở đồng đất Thái Bình kia kìa. Tiếp đãi ông ấy cẩn thận không có ông ấy lại
nói xấu mình với mẹ ông ấy. Lần trước ông ấy ra chơi, khi về ông ấy mách mẹ:
Con thấy hai con đĩ phi dê đến chơi nhà thầy.
Tặng cười phá lên trước ông con giai ghê gớm. Rồi lấy xe đi.
Tan tầm Đức về. Đúng hẹn. Đức đã giải quyết được việc bốc ba dây. Sang bên cảng
chính thuê hẳn một dây. Đức đúng là người năng động tháo vát, hơn thế còn là một
người dễ gần, thoải mái với tất cả. Một mẫu người Toàn rất thán phục. Công việc
cứ vui vẻ và nhẹ tênh tênh. Lúc sắp ăn, một cô căng tin đến, ghé sát vào người
Đức. Một cô gái béo núc, sơ mi trắng cúc chật căng, da rất trắng, mặt bầu bĩnh
dễ thương, vai chạm vai Đức, cố
tình liếc Đức tình tứ cứ như một đôi tình nhân thực sự vậy.
Đáp lại cú liếc chỉ còn hai lòng mắt trắng giã, Đức cầm bàn tay múp míp của cô
đưa lên miệng hôn.
- Em Lan. Lấy ghế ngồi xuống đây.
Lan cười:
- Nhớ quá hả?
- Ly hôn đi.
- Ly hôn là gì hở anh?
- Là cái hôn không khít.
Rồi cầm cốc bia lên miệng uống một hơi, và đưa cho cô căng
tin:
- Cạn. Uống đúng chỗ này.
Chỗ này là chỗ Đức vừa đặt môi mình vào. Lan vẫn đứng, ngoan
ngoãn làm theo lời Đức. Uống xong, cô cúi xuống tì cả hai khuỷu tay lên bàn,
nghiêng người về phía Đức. Đức mở khóa chiếc túi treo trên ghế, rút ra một xếp
tiền 5000, đếm. Đây. 200 nghìn. Đây 35 nghìn nữa. 235 nghìn. Viết giấy cho anh
nhé. Tiền bữa trước chiêu đãi mấy thằng Ivan đây.
Trong bữa ăn, Đức bảo:
- Làm ăn bây giờ cứ chờ là chết.
Toàn lấy câu nói đó làm đầu đề cho bài viết về sự năng động
sáng tạo của phòng điều độ. Buổi phát thanh kết thúc, về phòng, gặp Điều, Điều
bảo:
- Con nhà Đức ngồi im lặng nghe. Con ấy phổng mũi. Nhưng mà
ông hơi đề cao con ấy quá đấy.
Toàn thanh minh:
- Tôi có nói cá nhân nào đâu. Toàn là biểu dương phòng điều độ
thôi.
° ° °
Toàn đã có một thời oanh liệt. Ngắn thôi nhưng oanh liệt. Từ
trong phòng bả âm toa lét (phòng truyền thanh đặt trong một cái toa
lét cũ làm từ thời Tây đã hỏng, không dùng nữa) Toàn bật ăm li, khẽ gõ vào
micro mấy cái nhè nhẹ:
Đây là buổi truyền tin Liên hợp Hải sản Biển Đông.
Đây là buổi truyền tin Liên hợp Hải sản Biển Đông.
Buổi phát tin hôm nay có những tin chính sau đây...
Những tiếng ấy vang lên ở tất cả các cơ sở của công ty Hải sản
Biển Đông. Khi hai ngày một lần, khi một tuần hai lần, tùy theo có nhiều tin
hay ít. Tin ít thì đọc thêm chỉ thị nghị quyết của đảng ủy, giám đốc, công
đoàn, những văn bản của nhà nước, hỏi đáp sinh đẻ có kế hoạch, thông báo tổng vệ
sinh chiều thứ bảy của phòng y tế gửi tới. Mời cả bà Nga lên đọc có giọng nam
giọng nữ như đã định.
Toàn sang đài thu phát trung tâm lục sổ điện báo, ghi lại
toàn bộ những bức điện của các tàu hoạt động trên biển báo cáo về xí nghiệp (mỗi
tàu phải điện về hai lần trong ngày) viết thành tin. Cũng có khi phát lại
nguyên văn những bức điện để thấy rõ cuộc vật lộn của anh em thuyền viên trên
biển như sửa chữa sự cố đột xuất về máy móc thiết bị, tinh thần khắc phục khó
khăn khi đi biển dài ngày, thiếu cả nước ngọt tắm rữa, phải hứng nước ngưng từ
các dàn lạnh chảy ra để dùng... Anh có quyển sổ theo dõi sản lượng các tàu sát
đến mức nhiều khi phòng kế hoạch phải mời Toàn sang đối chiếu số liệu... Tàu vừa
cập bến, anh em thủy thủ còn đang làm dây, hầm cá chưa mở, chị em bốc cá còn
đang chuẩn bị cần cẩu, xe chở cá chưa đến, đã nghe loa truyền thanh vang vang
truyền đi khắp xí nghiệp bài viết chào mừng chuyến biển vừa kết thúc, với những
khó khăn vừa vượt qua, những chuyện anh em thuyền viên vừa trải, những sóng gió
cấp năm, cấp sáu, những bơm nước làm mát bị hỏng, những ly hợp máy chính
"ly không ly hợp không hợp", những mẻ lưới lép kẹp, những mẻ lưới
trúng tim luồng cá... Còn gì phấn khởi hơn. Nghe mà mát cả ruột. Nghe mà cứ thấy
như giám đốc và phòng tổ chức sắp chuyển mình sang tàu đi nước ngoài đến nơi.
Toàn không quên khối trên bờ. Toàn mời đồng chí quản đốc đà nổi
lên trực tiếp phát biểu trước micro. Toàn viết tin tổng hợp về xí nghiệp sữa chữa,
xí nghiệp lạnh đông (hai phân xưởng này đã lên xí nghiệp cả rồi, xí nghiệp cơ
khí sữa chữa hạch toán độc lập, còn xí nghiệp lạnh đông hạch toàn báo sổ). Toàn
biểu dương phòng cung tiêu đã chạy đủ am mô ni ac trong tình hình khan hiếm...
Ngày ấy người ta gọi Toàn là nhà báo. Dù tòa soạn và phòng bá âm đặt ngay trong
cái toa lét hỏng.
Nhà báo đến đâu cũng được yêu quý. Không phải lòng yêu quý
suông. Sơ kết sáu tháng, tổng kết cả năm được mời ăn. Hoặc ở căng tin. Hoặc lên
khách sạn. Bia
bọt lu bù. Khi về mỗi đại biểu còn được một món quà gói trong
giấy báo. Một mảnh vải pô-pơ-lin may áo. Hay mảnh xa tanh đen. Những thứ cực quỳ
quý hiếm, mặc vào phẩm giá được nâng lên, tuy không bằng cưỡi trên chiếc DD,
hay Cup - 81 - chót - chét - bảy - mươi - phân - khối - kim - vàng - giọt - lệ
- màu - ốc - bươu nhưng cũng là oanh liệt.
Các tàu thì không đợi đến sơ tổng kết. Mỗi tàu cập bến kết
thúc chuyến biển thi đua xuống ngay. Bao giờ thi đua cũng là một trong những
người đầu tiên xuống thăm tàu, cùng với Đức đen, trưởng phòng điều độ và anh
chàng Thơ bắt dây, quân của Đức.
Sau những buổi phát thanh, những tin tức trên bảng đen, tàu
nào cũng coi Toàn là người nhà, người thân. Thuyền trưởng hoặc đại phó bảo:
- Bốc cá xong, xuống nhé.
Nghĩa là khi bốc cá xong, khi tàu trở lại vắng vẻ, Toàn xuống
tàu nhận suất cá của Toàn.
Rặt những thứ ngon. Mực nang, mực ống, chim, thu, song, tráp,
cá khế, cá cam. Cá to tươi nguyên, đem về nhà mổ, máu tươi còn chảy ròng ròng.
Nhà Toàn được cải thiện một cách căn bản. Cả nhà bận rộn nấu rán rồi quây quần
quanh bữa cơm ngon. Hạnh phúc hẳn lên. Hòa thuận hẳn lên. Trong thời buổi thực
phẩm cao hơn nhân phẩm như nhà báo Duy Thông đã nói này, Toàn thấy thật
đúng là con người ta có số. Hóa ra bị đẩy đi khỏi ngành công nghiệp lại hay. Vợ
Toàn nước da tái mét nay có sắc ửng hồng nơi gò má. Uống chén rượu nhìn vợ thấy
yêu yêu. Lũ con Toàn mạnh khỏe, hoạt bát, thông minh, đứa nào đứa ấy mắt đen
lay láy. Chả bù cho ngày trước, chen chúc nửa ngày cắt phiếu mua được mấy lạng
cá nục muối mặn đắng. Giờ thì cá rán, cá riêu, cá xốt cà chua cả nhà ăn thoải
mái. Lại còn khi tàu tôm về mới thích. Một túi tôm nát. Gọi là nát vì đầu nó bị
dập, vỏ nó bị sầy khi mắc trong đụt lưới, không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, chứ thứ
ấy là tuyệt vời nhất, chất lượng nhất. Mà cái món tôm tẩm bột rán, tôm bóc nõn
xào xu hào cần tỏi mới tuyệt làm sao!
Cũng có khi cả nửa tháng không có một con tàu nào về bến bốc
cá. Cầu cảng vắng tanh. Bữa ăn đạm bạc. Mòn mỏi đợi chờ. Nhưng sau đó sẽ là tàu
về dồn dập. Bốc hai giây. Bốc ba giây. Ô tô chở cá xếp hàng. Người đen cầu cảng.
Lúc đó phải tăng cường độ hoạt động. Đi đi về về. Lên lên xuống xuống. Điều
nhìn đám nhân viên của mình tất bật, cất lời than:
- Lúc thì lồn ra. Lúc thì ba váy!
Xin được nhiều, ăn không hết đem bán. Ai cũng là con mẹ
hàng cả. Từ cầu cảng về, nhìn trước nhìn sau không thấy sếp, cánh phòng
ban, người trước kẻ sau xách túi cá nặng vào buồng làm việc, mở tủ đứng hay tủ
bàn dúi vào, và khép nhanh cánh tủ lại, đi ra ngoài cửa, đứng nghênh ngó xem có
ai nhìn thấy mình vừa xách cá về không rồi trở vào kéo ghế ngồi trước bàn làm
việc, giở tài liệu ra xem như người trách nhiệm nhất trên đời. Cô Phòng còn nói
to khi Toàn sang hỏi cô về chiến lợi phẩm cô vừa cho vào hộc tủ:
- Hôm nay nước nủi, bán cá hạ đây.
Bán cá lấy tiền mua lạng mỡ. Lấy tiền đóng tiền học, mua sách
vở cho con (đủ tiền mua cả vở ô ly đấy). Kha khả thì đổi hột, bản gạo mậu
hút hùn hụt (tiếng nhà quê của cô Phòng) đong gạo quê. Chỉ mỗi việc đem cá
ra khỏi chỗ giấu trong phòng là phải cẩn thận. Phải chờ các sếp về đã rồi mới
xách ra. Phải tia các sếp cho thật chắc. Các sếp có thấy cũng giả
cách quay đi thôi, nhưng nó vẫn rợ rờ rờ (vẫn tiếng nhà quê của cô
Phòng). Thành ra những ngày bốc cá, đám nhân viên đều chăm chỉ ở lại làm
việc, thực hiện tám giờ vàng ngọc (mà đúng là vàng ngọc thật)
hơn thủ trưởng.
Cho tới khi giám đốc có văn bản cấm tiệt các tàu cho cá tươi
và chỉ thị phòng bảo vệ kiểm tra thật kỹ các túi xách khoác trên ghi đông xe đạp
cũng như các gói đèo sau pooc ba ga, toàn xí nghiệp ngao ngán, cánh trên bờ thở
hắt ra. Chánh văn phòng và Toàn đã bàn nhau cách đối phó. Toàn định nói cách của
mình nhưng Điều xua tay:
- Không được. Mỗi người một cái bút viết vào tay rồi cùng xòe
ra cho nhau xem.
Hai người ngồi đối diện ở bàn chánh văn phòng, nhìn nhau long
trọng rồi đầy tự tin, cầm bút bi viết vào lòng bàn tay biện pháp của mình. Khi
cả hai cùng xòe ra, lòng bàn tay người nào cũng cùng có một chữ khô (nghĩa là
các thứ đã phơi khô - mực khô, cá khô) to đùng và cười lớn. Cười như Gia Cát Khổng
Minh và Chu Du bàn kế đánh Xích Bích, cùng ghi một chữ Hỏa vào lòng
bàn tay vậy.
Toàn nghĩ mình thật may mắn được về đây. Ngoài việc có một
nguồn cung cấp thực phẩm, nguồn đạm cực kỳ, giá trị gấp mấy lần tiền lương, còn
có một người thủ trưởng trực tiếp khá thông cảm với mình. Mà bằng kinh nghiệm
cuộc đời đã sắp chiều, Toàn biết có một sếp trực tiếp thông cảm với mình là
quan trọng biết chừng nào. Chánh văn phòng rất hợp với Toàn, có lẽ là do cùng
trải qua nhiều đận cơ hàn ba chìm bảy nổi, đặc biệt là chuyện kết nạp Đảng. Tuy
đứng trong hàng ngũ chức sắc nhưng Điều có phải là đảng viên đâu! Điều cũng đã
ba lần suýt được kết nạp Đảng, giống hệt Toàn. Dạo xa xưa Điều làm cán bộ sở thủy
sản tỉnh Q. đã được vào diện đối tượng. Nhưng sếp chánh sếp phó đấu đá nhau. Trâu
bò húc nhau ruồi muỗi chết. Điều là người của sếp chánh. Đến khi bỏ phiếu, toàn
chi bộ đều ủng hộ trừ sếp phó. Không đủ trăm phần trăm số phiếu nên không được
kết nạp. Rồi Điều về làm giám đốc một xí nghiệp nước mắm. Một hôm gần tết có
ông vụ vị từ bộ về thăm huyện. Ông chủ tịch huyện cho người sang gặp Điều lấy một
bình 5 lít nước mắm ngon biếu ông để ông đem về ăn tết. Điều thân hành đi lấy
loại nước mắm cá quẩn nguyên chất 25 độ đạm đưa lên huyện. Nào ngờ ông vụ trưởng
lại cho đo độ đạm trước khi sử dụng. Và tai họa đã xảy ra. Một hôm ông chủ tịch
huyện về thăm xí nghiệp, mở cửa buồng họp thấy đông người, hỏi bâng quơ:
"Các đồng chí họp gì thế này?" Và khi biết họp Đảng bàn chuyện kết nạp
Điều, ông giơ tay, hét lên: "Ngừng lại ngay! Ông Hào vụ trưởng đang làm ầm
lên kia kìa. Huyện ủy, ban giám đốc sở khốn đốn vì thằng Điều đấy. Thằng ấy tôi
sắp đưa truy tố. Thằng phá hoại! Nước mắm cao nhất là hai muơi độ đạm mà nó làm
hai nhăm độ đạm. Lãng phí của nhà nước không biết bao nhiêu tiền! Tha truy tố
là phúc rồi! Lại còn kết nạp Đảng. Dừng lại ngay!" Sau này biết chuyện, Điều
đã thanh minh với ông chủ tịch rằng đấy là loại nước mắm chỉ sản xuất một ít
dùng để quảng cáo và đối ngoại, chứ không bán đại trà. Ông chủ tịch đã thân
hành xuống kiểm tra, xác nhận đúng nhưng vẫn phê bình Điều vô nguyên tắc, phải
thử thách thêm một thời gian nữa. "Dạo ấy mình mới hai mươi sáu tuổi ông ạ.
Kỹ sư hiếm lắm. Cả huyện chỉ có hai kỹ sư. Vốn quý đấy. Nên dù bạch vệ mà
vẫn được làm giám đốc. Rồi lại được đi học lớp đối tượng phát triển. Đã học được
bảy ngày. Sang ngày thứ tám, ông trưởng ban tuyên giáo thân chinh đến giảng về
chiến lược chống cộng của Mỹ qua các đời tổng thống. Đến khi ông nhấn mạnh: ‘Đặc
biệt nguy hiểm là thằng Ke-tơ-ri!’ thì mình đếch hiểu là thằng tổng thống nào nữa.
Ông có biết thằng Ke tơ ri là thằng nào không?" Toàn lắc đầu. Điều cười ngặt
nghẹo. "Ông trưởng ban tuyên giáo nói tiếp: Thằng này còn trẻ, rất hung
hăng. May mà nó đã bị nhân dân Mỹ ám sát. Ông ta còn cầm phấn viết lên bảng ba
chữ Ke-tơ-ri và gạc một cái rõ dài rồi vênh mặt lên nhìn chúng mình.
Đến bấy giờ mình mới hiểu. Đó là tổng thống Kennedy. Thế là mình bỏ học luôn.
Nói là công việc sản xuất đòi hỏi, phải về điều hành, và xin đi học lớp
sau".
- Đến bây giờ tôi vẫn oán thằng cha ấy ông ạ. Năm ngoái, ra
Q. gặp ông ta, mình bảo giá anh không nói Ke-tơ-ri mà nói Kennedy thì đời tôi
đã khác rồi. Đã là đảng viên rồi. Đã là ông nọ bà kia rồi. Lão ta đã nghỉ hưu,
cười khì khì: "Thì mình nông dân nghèo tham gia cách mạng với tất cả nhiệt
tình, có được đào tạo học hành như các ông đâu. Cái tên không quan trọng. Ke-
tơ-ri với Kennedy là một. Chủ yếu là nắm được sự hiếu chiến của bọn đế quốc đầu
sỏ mà nâng cao tinh thần cách mạng tiến công". Thế có tức không? Một thằng
không biết cái chó gì lại dạy mình có đau không? Mà đi học có đơn giản đâu. Từ
xí nghiệp đến lớp chín cây số, vừa đi vừa về mười tám cây số, đường Quang Hanh
ông biết rồi đấy, toàn lên đèo rồi lại đổ dốc. Địt mẹ chính thằng ấy hại tôi. Nếu
không đời mình đâu đến nỗi thế này. Còn cái ông Ân chủ tịch huyện định bỏ tù
mình thì thế nào ông có biết không? Hôm đi nhậu ở Vạn Xuân, thấy lão ta lục sục
trên gác lửng với em Ngà. Lúc xuống giả cách không trông thấy mình. Mình chào
rõ to: Chào thủ trưởng. Thủ trưởng khỏe không ạ. Lão ta cung cúc đi ra cửa, vừa
đi vừa trả lời: Điều đấy hở. Lúc nào lại mình nhé. Mình vẫn không tha: Lâu quá
mới gặp thủ trưởng. Thế nào em cũng lại. Thủ trưởng ngồi uống với chúng em chén
rượu đã. Lão ta bảo để khi khác hôm nay mình bận. Rồi lên xe nổ máy phóng đi mất.
Bảy mấy tuổi mà đi xe máy rất tốt.
Điều cười lớn: Lại một lần đến Liễu Xanh, thấy lão ta mở cửa
buồng bước ra cùng với một em mắt xanh mỏ đỏ, mũ sùm sụp, mặt bịt kín, chỉ để hở
hai con mắt như ninja. Nhưng mình vẫn nhận ra. Làm sao không nhận ra cơ chứ.
Mình nói một mình, nói to để lão ta nghe thấy: Trông giống ông Ân quá! Địt mẹ.
Đạo đức giả mãi. Bây giờ thì lộ mặt.
Không chỉ chánh văn phòng, mà toàn thể anh chị em trong văn
phòng đều dễ chịu. Cô Phòng văn thư chẳng hạn. Rất mau nước mắt, bị giám đốc mắng
là rân rấn nhưng lại luôn nghĩ ra những chuyện hài hước. Chính cô đặt cho Toàn
cái tên Tí cho nó có vẻ nhà quê. Và gọi tất cả thủ trưởng bằng con, gọi ngay
trước mặt, tất nhiên là chừa các chánh phó giám đốc.
- Anh Tí ơi. Hôm qua con Điều con ấy trúng quả đậm. Một phong
bì dày. Của đại diện ở miền Nam gửi ra. Con ấy có mời anh đi uống bia không?
Chánh văn phòng mím môi, giơ tay huơ huơ như sắp đấm vào đầu
cô Phòng: "Con này láo. Bố đánh cho bỏ mẹ bây giờ". Cô Phòng giả cách
giơ tay đỡ và nghiêng đầu tránh đòn. Nụ cười lúm đồng tiền, chiếc răng kênh. Rất
xinh. Rồi cháu Nhạn đánh máy. Là vợ bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản, nhưng ăn
nói rất kinh. Khi chánh văn phòng kể chuyện một ông sếp to tướng tận đẩu tận
đâu rất liêm khiết, không nhận quà biếu, không nhận hối lộ, một cái tết ông ấy
nộp cho tài chính hơn bảy tỉ tiền biếu xén, đang gõ máy rào rào như tập trung tất
cả vào công việc, Nhạn bỗng dừng lại quay ra hỏi Điều:
- Thế bụng nó không có cứt à bá?
Quá bực về những văn bản của các phòng đưa đến viết cẩu thả,
dập xóa nhằng nhịt, Nhạn cứ gõ như bản viết tay. Ông trưởng phòng xuất nhập khẩu
nhăn nhó cầm bản đánh máy sang hỏi Nhạn:
- Sao chữ Hong Kong em lại đánh như thế này.
Nhạn hỏi lại:
- Thế anh xem bản chính chưa? Chả Honkon là gì đây.
- Nó viết thế nhưng em phải hiểu là Hong Kong chứ.
- Em đi đến đâu mà biết HonKon là Hong Kong. Nhỡ HonKon là
HonKon thì chết em à. Lẽ ra anh phải bảo nhân viên của anh viết cẩn thận thì
anh lại trách em.
Toàn với Điều cùng đứng đó cứ im lặng cười. Điều bảo Nhạn:
- Cái con này có chồng nằm trong bộ tứ lãnh đạo xí nghiệp mà
chẳng xây dựng tí nào.
- Thanh niên với công đoàn ăn theo nói leo. Có được cái tích
sự gì đâu bá.
Và Nhạn đọc luôn một bài ca dao:
Công đoàn với lại Thanh niên Hai anh rách việc đi liền với
nhau An đi trước, làm đi sau Có tí công việc thi nhau họp bàn.
Anh chị em đói. Đói nên hay khùng. Khùng thì bày những trò
như vậy nói những lời như vậy để giải tỏa, để vui. Điều biết anh chị em thỉnh
thoảng vẫn kiếm được tí cá cả khô lẫn tươi, nhưng là một trò chơi nguy hiểm, nhất
là lại mới chuyển ở đâu về một tay bảo vệ rất ghê gớm, hình như đang có ý định
leo lên chức đội trưởng, trẻ không tha già không thương, có thể gây ra những sự
cố chưa thể nào lường được. Đã có mấy công nhân xin cá mang qua cổng bị thu để
ươn thối ra ngay cạnh chòi gác và bị ghi tên trên bảng đen cạnh đấy. Điều lập
quỹ của phòng. Cũng chẳng giải quyết được gì nhưng nó là cái để đoàn kết mọi
người, là chút tình trong phòng, gắn bó mọi người lại với nhau. Ngoài quỹ của
phòng lại còn quỹ của từng nhóm nữa. Quỹ của phòng ra tấm ra miếng hơn, chỉ để
phát cho anh chị em những ngày lễ lạt: Quốc tế lao động mồng 1 tháng 5, Quốc
khánh mồng 2 tháng 9, tết Nguyên đán. Phòng xuất nhập khẩu phong bao năm trăm
nghìn đồng. Cảng vụ phải nôn ra ba trăm nghìn đồng. Cửa hàng giới thiệu
sản phẩm một triệu. Rồi đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh gửi ra. Các tàu thì
nhỏ thôi. Nhưng đều đều. Tàu nào đi nước ngoài về cũng có một túi đựng một cây
thuốc lá hoặc Ba số hoặc Capstan, mấy cục xà bông Fa hay Zest... Điều đáng
trách các tàu là họ bình quân chủ nghĩa. Phòng ban nào cũng như nhau, chẳng kể
đông người hay ít, đói hay no, cũng một cây thuốc lá mấy cục xà bông đựng trong
cái túi ni lông hồng hồng xách đi các phòng phát như phát chẩn. Thành ra chỉ có
văn phòng đảng ủy, văn phòng công đoàn, văn phòng thanh niên ít người là trúng
quả. Văn phòng tổng giám đốc có tới những hăm mấy người, quá đông!
Cô Phòng có máu hài hước, bàn:
- Ta phải bảo các tàu lên xem danh sách các phòng ban ở bên tổ
chức cho nó nắm vững, chứ không thế này thiệt quá. Chánh văn phòng ơi! Em xin
sang văn phòng thanh niên đây. Bên ấy chúng nó chỉ có hai mống.
Nhạn cười:
- Các tàu phải làm như thời gian phân phối lốp ấy chứ. Hai
nhăm người một lốp là cứ vậy mà làm.
Thời gian ấy, Toàn chưa về Liên hợp Biển Đông. Thời gian ấy
Toàn còn nằm khàn ở nhà chờ phân công, ăn 75% lương cơ bản. Cô Phòng bảo Toàn:
- Ngày ấy văn phòng ta danh giá lắm anh Tí ạ. Được riêng một
lốp. Chẳng phải chung chạ với thằng nào. Cứ thế đem luộc, chia nhau mỗi đứa húp
một húp.
"Luộc lốp lây nước húp", "luộc quạt cóc lấy nước
húp", "luộc màn lấy nước húp" "luộc quần lót lấy nước
húp"... nghĩa là đem bán ở chợ đen các thứ được mua theo giá cung cấp
như lốp, quạt cóc, màn, quần lót... lấy tiền lời chia đều. Cũng có khi chẳng phải
đem đi đâu mà (học các cơ quan xí nghiệp trong thành phố Hồ Chí Minh) bán ngay
cho người trong phòng theo giá làng. Biện pháp rất thông minh khi hàng năm
mới có một đợt phân phối lốp, phân phối quạt, màn, quần lót. Hai nhăm người một
chiếc lốp, nếu cứ bốc thăm lần lượt thì phải hai nhăm năm sau người cuối cùng mới
được. Bây giờ tút thuốc, mấy cục xà bông cũng được đem bán lấy tiền nhập quỹ,
nhưng người ta không gọi là "luộc lấy nước húp" nữa mà
là "quy ra thóc".
Những món quà ấy cũng có thể do lòng tốt. Họ thương văn phòng
nghèo. Nhưng có một điều chắc chắn rằng quanh năm văn phòng đã giúp đỡ họ, họ
đã phải nhờ đến văn phòng. Văn phòng tổng giám đốc có một đội xe con từ Lada
cho đến Toyota chạy lạnh. Văn phòng có máy photocopy, có máy chữ, có con dấu...
Anh chị em trong văn phòng có thể gây cho những đơn vị khác
những khó khăn bất ngờ, lặt vặt thôi nhưng rất khó chịu. Phải chờ đóng dấu vào
sổ công văn vì văn thư bận hoặc đi vắng, máy photocopy hỏng còn đang tìm người
sửa, đánh máy công văn lấy ngay à, chờ đã nhé, còn một xếp ông Thăng phó tổng mới
đưa đánh để làm việc với đăng kiểm đây hay là dừng của ông Thăng lại, hoãn
chương trình làm việc với đăng kiểm ngày mai... Lại còn điều tối quan trọng nữa:
Xe ô tô. Toyota à? Cái bốn chỗ Kháng đi Thanh Hóa chưa về. Cái Corona ông Bình
vừa đi Quảng Ninh, cái bảy chỗ đang sửa, cái Mazda tổng giám đốc đi họp. Thế là
đành phải đi Lada mà các thủ trưởng nhỏ chẳng ai thích đi Lada không có điều
hòa đã hẳn, lại cũ quá rồi, hay chết máy dọc đường, chưa kể còn kém thớ.. Bởi
thế những món tiền cứu đói cho anh chị em văn phòng đúng là "tổng hòa các
mối quan hệ xã hội". Hơn nữa chánh văn phòng còn là người ghê gớm. Điều
nói toạc ra những điều người ta vẫn thầm thì. Điều có tài bắt các đơn vị khác
phải nôn ra. Điều oang oang:
- Đây là vì chúng mày, vì anh em. Chứ tao thì bao giờ cũng có
một suất riêng, một suất đẹp.
Có lần Điều gọi một thuyền trưởng đánh cá đang đi ở ngoài
sân:
- Hoàn ơi! Vào đây.
Thuyền trưởng Hoàn thấp đậm, bụng to, trông giống con cá nóc,
nên được gọi là Hoàn nóc, bước vào:
- Thủ trưởng bảo gì cơ?
Điều nghiêm mặt ra lệnh:
- Chuyến biển này về cho văn phòng hai ki lô mực khô, nghe
chưa. Một ki lô cho tập thể. Một ki lô cho chánh văn phòng. Ki lô cho chánh văn
phòng phải là hiện vật để chánh văn phòng uống bia. Còn ki lô cho tập thể
thì quy ra thóc cũng được!
Quá bất ngờ trước một giọng quyền uy như vậy, thuyền trưởng
Hoàn chỉ còn biết ấp úng:
- Vâng. Vâng.
Mặt lạnh tanh, Điều tiếp:
- Vâng là phải làm chứ không được để đấy. Không được quên.
Nghe chưa? Có đông đủ anh em ở đây. Đừng đùa với chính quyền! Chính quyền không
ưa đùa!
Không ai hiểu Điều nói thật hay nói đùa. Nhưng ai cũng biết mực
khô là phải có, hoặc bằng hiện vật, hoặc quy ra thóc cũng như ai cũng
hiểu chẳng chính quyền nào lại thích đùa bao giờ!
Ngoài quỹ của văn phòng, mỗi nhóm lại có một quỹ riêng. Tất
nhiên mạnh nhất là nhóm lái xe con. Nhóm tạp vụ (chủ yếu là phục vụ nhà khách),
nhóm văn thư đánh máy cũng có. Đó là sáng kiến của cô Phòng văn thư và cháu Nhạn
đánh máy. Họ lập ra "Nhóm xin đểu" có hôm được bốn năm chục nghìn.
- Chúng bố ăn cả chả nem đấy con ạ.
Cô Phòng bảo Toàn như vậy. Anh chị em văn phòng rách việc hay
trêu nhau. Và giả cách phát khùng, xưng ông và gọi người khác là con. Cách trêu
chọc nhau phổ biến nhất là moi gốc gác quê hương nhau ra. Ví như Toàn thì được
gọi là "Đứng bên bẽn Bính ta thề". Chả Toàn quê Thanh
Nguyên. Ai cũng biết câu 8 tiếp theo câu 6 ấy là "Không lấy được cứt
không về Thanh Nguyên". Do ngày trước khi nhà nước còn quản lý cả
phân bắc, bà con Thanh Nguyên đêm hay đi đò (không dám đi phà, với lại phà cũng
không chở) vượt bến Bính sang phố mua lậu phân bắc về bón ruộng, bón hoa màu.
Anh chàng Thám thợ điện (thay Nhược) được gọi là Lô tha
ba vì người Thanh Hóa, "Khu Bốn đẩy ra khu Ba đẩy vào". Thám
tiếp ngay, liến thoắng, tự họa chân dung mình một cách hoàn chỉnh: "Sát
nhập sang Lào, thì Lào không nhận. Đùng đùng nổi giận, lập quốc gia riêng. Thủ
đô thiêng liêng, là miền Nông Cống. Quốc ca truyền thống, dô tả dô ta.."
Toàn bảo:
- Than hoạt tính. Thuốc lá Bông Sen có than hoạt tính thật à?
Than hoạt tính là gì?
Thám khẳng định:
- Nó chống được phóng xạ đấy bố!
Cô Phòng ngoài biệt hiệu "Bánh chưng đất" còn
có tên "Dâu xứ Bọ" để chỉ xuất xứ quê hương nhà chồng. Cái
Nhạn đánh máy quê Nam Hà có biệt hiệu "Cưỡi trâu đi họp tỉnh", đến
hội nghị báo "suất cơm suất cỏ". Còn chánh văn phòng Điều
quê Ninh Bình là "Lạt, không lạt" để nhớ sự tích hồi tổng
khởi nghĩa, dân vùng quê Điều tập đi mốt hai mốt không phân biệt được
chân trái chân phải, phải buộc lạt vào một bên ống quần, người chỉ huy hô
"lạt, không lạt" thay cho tiếng một, hai...
"Hội xin đểu" chủ yếu do Nhạn và Phòng hoạt động. Bọn
Toàn, Thám và cả cái Tám phục vụ tiếp tân nữa chỉ hỗ trợ. Thắng to thì nem
chua, bún gà. Còn không thì bắp rang bơ, luộc ốc. Phổ biến nhất là luộc ốc. Rồi
củ đậu, mít, bưởi, bánh... mùa nào thức ấy. Đối tượng xin đểu bao gồm các phòng
ban (không xin tàu bao giờ, nhất là các tàu đi nước ngoài, chúng nó khinh) hội
lái xe, cảng vụ, điều độ. Mà toàn đàn ông thôi. Không xin đàn bà. Thấy trưởng
phòng điều độ bước vào để đóng dấu hợp đồng thuê cảng và bốc dỡ là reo lên:
- A! Con vịt béo đây rồi! Vặt lông đi chúng mày ơi!
Thế là cả bọn xúm lại. Trưởng phòng điều độ Đức
tủm tỉm cười nhìn vòng vây khép lại xung quanh. Ai cũng biết
tàu vào là Đức có màu. Không thoát được. Đức tươi cười:
- Nào! Cần gì? Bao nhiêu?
- Năm sọi 1 >
được không?
- Nhiều thế! Bốn sọi.
- Cũng được. Đưa đây bốn sọi.
Với hội lái xe đi đón Tây về thì hỏi khác:
- Quà đâu?
- Quà gì?
- Quà đi với Robert Lee ấy.
- Không có đâu.
- Nôn ra đi!
- Đây. Chỉ có chỗ này, xem được bao nhiêu. Cho tất. Bốc trong
túi quần một nắm tiền vụn, quăn queo ném ra bàn. Nhạn vuốt thẳng, đếm và reo:
- Được ba nghìn bảy bá Toàn ơi!
Nhạn còn rất trẻ, học phổ thông với con gái Toàn nên gọi Toàn
bằng bá. Trong phòng có hai người nhiều tuổi được Nhạn gọi bằng bá là Toàn và
Điều. Thám ít tuổi hơn chút ít nên chỉ được gọi là anh thôi, dù đã có cháu ngoại.
Một hôm Nhạn tươi cười đến nói với Điều:
- Hôm nay sếp đi vắng, luộc ốc được đấy bá ạ.
- Đứa nào luộc ốc chết với tao.
- Bá cho con xin ba nghìn.
- Ba trăm cũng không có nữa là ba nghìn. Nhăn nhăn nhở nhở.
Nhạn cười, hai má đỏ hồng, hàm răng trắng rất đều:
- Con chỉ xin bá hai cân ốc thôi. Cho vào siêu điện đun nhanh
lắm.
"Hội xin đểu" chẳng tha một ai. Có lẽ chỉ chừa một
tổng giám đốc. Phó tổng giám đốc được tăng lương. Phát truy lĩnh 600 ngàn và hỏi
phó tổng:
- Còn 59 ngàn thủ trưởng nghĩ sao?
Phó tổng cười:
- Thôi đấy, cho mấy đứa con gái chúng mày.
Được hẳn bữa bún gà ăn trưa bia bọt đàng hoàng chứ có ít đâu.
Mời cả chánh văn phòng, cả mấy chàng "giặc lái". Chợ búa nấu nướng từ
chín giờ sáng, nổi lửa ở trong góc phòng kho cái Tám có đầy đủ nồi, bát đĩa,
thìa, nĩa, bếp điện, siêu điện, đĩa, cốc..., nơi tổng giám đốc không đi đến bao
giờ. Chỉ có mỗi trục trặc kỹ thuật là mùi nước xáo măng thả hành thơm quá. Tổng
giám đốc đi ngang qua, ghé vào bảo khẽ cô Phòng:
- Nói các cháu nấu gì từ từ thôi. Thơm thế ai cũng biết bất
tiện.
Suốt bữa ăn, cô Phòng cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện ấy. Vừa
kể vừa cười ngặt nghẹo. Ai cũng đồng ý với cô là dạo này tổng giám đốc dễ tính
đi nhiều, chứ như ngày trước, con ấy chửi cho vuốt mặt không kịp.
Nhưng hóa ra đấy là một nhận xét hết sức sai lầm.
Vừa khen tổng giám đốc dễ tính đi nhiều hôm trước, hôm sau cô
Phòng đã bị tổng giám đốc quạt một trận nên thân. Và lại khóc. Chỉ vì một chuyện
cỏn con. Một cái giấy triệu tập họp, sếp ghi vào công văn để phó tổng thứ nhất
đi. Sáng hôm sau gặp phó tổng thứ nhất, tổng giám đốc hỏi sao không đi họp, lúc
ấy mới vỡ nhẽ: văn thư không đưa giấy triệu tập. Thế là tổng giám đốc làm ầm
lên, quạt cô Phòng tơi bời khói lửa. Cô lễ phép trình bày rằng cô phải đưa chồng
đi bệnh viện. Cô đã bàn giao cho Thám làm thay văn thư. Thám chờ đưa công văn
cho
Điều để đúng trình tự thủ tục. "Tôi không hiểu các cô
làm ăn thế nào. Đu đa đu đưa. Ôm thì nghỉ. Đi làm là phải bảo đảm công việc. Phải
năng động sáng tạo. Từ nay trở đi cấm tuyệt đối không được nấu nướng trong giờ
làm việc. Làm ăn như thế có chết người ta không".
Tất cả im thin thít. Cả chánh văn phòng. Mãi tới khi Tổng
giám đốc đã đi xa, sinh hoạt văn phòng trở lại bình thường, Toàn mới cười bảo
Phòng:
- Nào. Cứ khen con ấy dễ tính mãi đi.
° ° °
Từ ngày các tàu đánh cá nằm bến hàng loạt, Toàn rất sợ giáp mặt
tổng giám đốc. Bởi tổng giám đốc ngày càng bẳn tính. Bởi Toàn tự thấy mình là một
người thừa. Sản xuất trì trệ, tàu nằm bẹp vì thiếu vật tư, phụ tùng thay thế,
kéo theo tình trạng công nhân khối trên bờ (xưởng lưới, xưởng sửa chữa, nhà máy
lạnh...) nghỉ luân phiên, ăn lương 75%. Mỗi buổi sáng đạp xe đến xí nghiệp,
Toàn cứ phải khắc phục cái cảm giác mệt mỏi, uể oải, "ngại như đêm"
và đã nghĩ bao giờ cho đến tan tầm buổi trưa. Dù suốt tám tiếng chẳng công nên
việc xuống vất vả gì. Nhưng thà công nên việc xuống. Thà rằng vất vả. Chứ lờ vờ
thế này còn mệt gấp mấy. Cũng may, ít lâu nay, trên đường tới xí nghiệp, Toàn
tìm được một thú vui giải trí là "thả hồn" vào bức tường bao của cảng
mới xây, một bức tường bao bổ trụ, gạch chỉ, trát vữa rất đẹp, hơi lùi vào bên
trong, cách mặt đường ba bốn mét (chắc là vì quy hoạch mở rộng đường bao trong
tương lai), dài suốt chiều dài của cảng, gần như vô tận. Thành ra liền với đường
nhựa là một con đường đất bỏ hoang mọc đủ các loại cây dại, cỏ dại. Nhiều người
đã tranh thủ dựng quán dựa vào tường bao bán hàng quà, hàng nước, sửa vá xe, cắt
tóc. Ngoài hơn chục quán đã định vị, trên bức tường dài hàng cây số đầy những
mũi tên, những vạch vôi và vạch sơn các màu. Những chữ ghi trên tường thật muôn
hình muôn vẻ, không một người nào có thể nghĩ ra cho được: /Có chủ//Có người//Có
ông//Đã có ông đây//Có Sơn/ /Có Tích/ /Lồn/ /Có bố/ /Có rồi/ /Có ông Hải/ /Có tất/
/Buồi/ /Ô này của nhà Nhớ ký tên đóng dấu/... Nhiều khi giữa hai mũi tên
đánh dấu chủ quyền chỉ là những hình vẽ: Một cái sọ đầu lâu giữa hai xương
chéo, hoặc một hình tam giác với những vạch đen chĩa ra chung quanh như tia nắng
mặt trời... Thì các sếp đua nhau chiếm nhà chiếm đất, đua nhau ra mặt tiền, những
người khố rách áo ôm cũng phải làm ra có tí đất, tí mặt tiền và công bố với bàn
dân thiên hạ cho vui chứ. Vui và cũng phòng xa khi sảy chân lỡ bước.
Vừa đạp xe mệt nghỉ giữa những hàng chữ và hình vẽ khẳng định
chủ quyền ấy vừa tủm tỉm cười (làm sao không cười cho được trước những hình thức
công bố sở hữu, khi nhũn nhặn, khi hăm dọa, khi nghiêm trang, khi hài hước đầy
sáng tạo như vậy) thế là chỉ rẽ một quãng ngắn đã đến xí nghiệp. Lại thêm vui
khi cất xe đạp nhờ bên văn thư, cô Phòng hỏi:
- Thế đã đến rồi đấy như.
(Đấy là lời chào buổi sáng của cô. Còn lời chào khi tan tầm
là: "Đã về rồi đấy cơ nhi". Sau khi đại thắng giò Tìu, cô Phòng càng
hay nói tiếng nhà quê). Toàn nói với cô Phòng:
- Đạp xe đi làm là cứ nghĩ đến ca dao vùng mỏ thôi.
- Lại thế nữa cơ nhi. Ca dao thế nào?
- Bước chân vào mỏ như lê vào tù.
Bốn tiếng rưỡi đồng hồ buổi sáng sao mà dài. Bình thường bốn
tiếng rưỡi đã dài rồi, lại còn vị trí cái buồng khiến nó dài thêm. Một giao điểm
của hai hành lang vuông thước thợ có cầu thang lên gác. Nghĩa là một cái ngã
ba, chẳng kín đáo khuất nẻo chút nào.
Càng thêm khốc hại là dạo này tổng giám đốc lúc đầu giờ hay đảo
qua ngồi xa lông, lập tức có ngay vài người thuộc hàng chức sắc (khi một, hai
phó tổng, khi chủ tịch công đoàn, hoặc bí thư đảng ủy) đến ngồi, tất nhiên có cả
chánh văn phòng. Có thể chỉ vài câu trao đổi về thời tiết. Có thể bàn công việc
ngay. Hay dập dạp đề cương những việc phải làm trong thời gian trước mắt. Có thể
là những điều tổng giám đốc không vừa ý, những nhận xét về khuyết điểm của một
người hay một đơn vị nào đó, những ý nghĩ vừa nảy trong đầu tổng giám đốc đêm
qua. Thường là những lời phàn nàn chê bôi. Điều ấy đúng thôi vì cứ mười việc
thì có tới bảy, tám việc trục trặc, mà trong thời buổi người khôn của khó, cạnh
tranh gay gắt, việc ít người nhiều, thiết bị ngày một xuống cấp này, một trục
trặc xảy ra là gượng không nổi. Mọi người kêu lương thấp. Làm như thế sao không
thấp? Một cái tết, mỗi người một trăm nghìn đồng thôi, cả xí nghiệp đã mất hơn
trăm triệu rồi. Kiếm một trăm triệu nào đễ dàng gì. Đổ mồ hôi sôi nước mắt,
không cẩn thận vào tù như bỡn. "Suýt nữa mình nghe lời cô Dần lấy một trăm
tấn tỏi về có chết không? May mà mới thử có một tấn. Xuất không xuất được. Kho
không dám để, sợ có mùi. Quẳng ở chỗ tập văn nghệ. Đi qua toàn mùi tỏi là mùi tỏi.
Cho nên tôi mới nói sợ nhất tham mưu dởm". "Thằng tàu 14 bục hầm hàng
nằm lại Hong Kong. Tàu lên đà mới được sáu tháng. Tôi không biết mấy ông kỹ thuật
làm ăn thế nào nữa". "Thằng cha Robert Lee mới phảch sang,
yêu cầu hạ giá tôm. Thế có bỏ mẹ không. Làm ăn với tư bản không cẩn thận chết
có ngày". (Nhân đây lại nói chuyện về ông Robert Lee tức Lý Sinh Keng nhọ
mõm. Kế hoạch xuất cá đá đã khơi dậy bao nhiêu hy vọng cho xí nghiệp và nhất là
cho Thuyền, thất bại thảm hại. Mặc dầu các con số đã được phòng tài vụ, phòng
hàng hải khai thác tính toán rất kỹ từ số ngày đánh bắt, số ngày đi Sing bốc cá
rồi về, số dầu tiêu hao, lượng đá mang đi, số phơ rê ôn chạy lạnh hỗ trợ, số cá
chọn bình quân khai thác, tỉ lệ phần trăm xuất khẩu... là hòa vốn, còn mình được
lãi chỗ cá 6 2 ,
được khấu hao, hơn thế còn duy trì được hoạt động của đoàn tàu kéo theo nó là
hoạt động của khối trên bờ; trên giấy tờ là hoàn toàn chính xác nhưng vẫn thất
bại. Mặc dầu chưa bao giờ cán bộ thuyền viên trên tàu và riêng Thuyền lại có
tinh thần trách nhiệm như chuyến ấy, nâng từng con cá, nhặt từng con nục, con bạc
má, con chỉ vàng, sơn mỡ cho vào khay, một lượt cá một lượt đá, và xếp khay nọ
lên khay kia đúng quy trình, để khí lạnh thổi khắp sáu mặt khay vẫn là thất bại.
Bởi thời tiết, nên chuyến biển phải kéo dài, bởi các ống lạnh trong hầm xì xoẹt,
không cung cấp đủ hơi lạnh hỗ trợ như dự kiến, bởi lẽ ra phải có tàu mẹ để chuyển
tải cho các tàu, con cá chỉ nằm ở tàu ba, bốn ngày là cùng, bởi vân vân, nghĩa
là bởi vô vàn thứ. Con cá đưa sang không đủ chất lượng, bị ươn, bị vỡ bụng, hoặc
đơn giản hơn: Mắt cá bị bạc màu. (Mẹ bố chúng nó. Chúng nó ăn gì mà sành thế. Mắt
cá bạc màu đã không ăn rồi. Chúng ông cá vỡ bụng vẫn xài tốt, vẫn khỏe như vâm,
con chúng ông vẫn giải nhất thi toán quốc tế, Điều bảo vậy). Đã tưởng giải quyết
được công việc cho bốn tàu 600 mã lực có máy lạnh phụ trợ, xuất khẩu cá đá, mở
ra một hướng sản xuất mới, tạo điều kiện cho non một trăm thuyền viên ra nước
ngoài, thế là giấc mơ ấy tan thành mây khói. Chỉ bở đám thuyền viên, tàu từ
Sing trở về chở đầy cá thối nhưng cũng đầy hàng. Xe máy ít thôi (không như ở Nhật,
tại Sing người ta ít đi xe máy, có bói cũng chỉ tìm được vài xe máy cũ) nhưng tủ
lạnh tivi, dàn loa thùng, quạt máy, máy giặt máy khâu cũ, nồi cơm điện... thì
nhiều vô kể. Thuyền cũng mua được một số đồ nhưng điều may nhất cho anh là dù
không được làm chế biến trưởng, không làm đại diện cho ông Robert Lee, Thuyền
cũng không phải lên bờ, không phải về con tàu 307 với đại phó Phạm Cương. Anh
đã được định biên hẳn ở tàu 600 mã lực).
Có khi sếp bực tức về những chuyện rất nhỏ. Tàu vào cảng bốc
gạo nhiều. Xe ô tô nối nhau trong xí nghiệp, lái xe ngủ kín nhà khách. Khách
lái xe chỉ ngủ ở nhà khách bình thường thôi, không phải loại nhà khách chạy lạnh
- dù cũng phải trả tiền, bây giờ là dịch vụ tất, từ cầu cảng, bốc dỡ tới nhà
khách - nghĩa là ngủ ở dãy nhà ngay phía sau nhà tổng giám đốc.
- Lẽ ra các anh phải biết tôi cần gì khi hết giờ làm việc trở
về nhà chứ. - Vừa bước chân vào văn phòng, tổng giám đốc đã súc miệng - Khách
khứa tùm lum. Ỉa đái khắp nơi. Tám tiếng làm việc nhừ người, tôi cần sự yên
tĩnh. Mong ước đó là tối thiểu. Đâu có được. Cứ phải đi dọn cứt. Hai vợ chồng
thay nhau dọn. Đến mức vợ tôi nó bảo: "Thôi. Hay anh chuyển đi chỗ khác ở
thôi". Sau một ngày nói sa sả, làm việc như ngựa, mong muốn được yên tĩnh
nghỉ ngơi của tôi là chính đáng. Mình có đặc quyền đặc lợi gì đâu mà phải chịu
như vậy. Ừ, thì khách nhưng mà chọn khách mà xếp vào đấy...
--------------------------------
Sọi: chục nghìn. |
|
Cá 6: Cá loại 6, chỉ để’ làm chượp hoặc xay bột chăn nuôi. |
III
Chánh văn phòng liếc nhìn Toàn, cái nhìn đầy ý nghĩa. Toàn ngồi
im thin thít tại bàn phía trong, càng ý thức được rằng mình là kẻ vô tích sự, một
người ăn bám, một người thừa, một người có lỗi, không làm gì, đêm được ngủ
trong yên tĩnh, không phải đi dọn cứt.
Điều làm ra vẻ bận rộn, sắp xếp lại đống công văn giấy tờ vừa
nhận do cô Phòng chuyển sang, khuôn mặt như được dát một lớp kim loại rất mỏng,
căng và rắn, hắt trả lại mọi tia nhìn nảy lửa của tổng giám đốc. Chờ tổng giám
đốc đi ra, Điều bảo Toàn:
- Nhà khách ông Nam thì mấy thằng đi tàu nước ngoài còn ở đấy.
Thằng Tuyền, thằng Bảo, mấy con ấy giàu phải ở phòng có điều hòa cơ. Ớ thế
nhưng đéo giả tiền. Mình làm gì được. Nhà khách có phải của liên hợp đếch đâu.
Của xí nghiệp thành viên. Địt mẹ. Chúng nó nuôi bọn nhà khách tốt thế thì làm
sao đuổi được chúng nó đi.
Rồi làu bàu:
- Nói như ho vào lồn ấy mà cũng nói. Làm lãnh đạo không có đặc
quyền đặc lợi làm làm cái đếch gì. Cứ tưởng người ta mù cả đấy. Chúng tôi không
ngu đâu.
Toàn cũng nghĩ như Điều. Ai làm sếp mà chẳng thế. Anh vui vẻ
chấp nhận tình trạng ấy như mọi người trong thế gian này vui vẻ chấp nhận tình
trạng ấy (tuy nhiên cũng như mọi người, Toàn vẫn ao ước giá họ cứ ăn nhưng đừng
thuyết lý rao giảng thì dễ chịu hơn nhiều, rồi bật cười nghĩ đến câu nói của
phóng viên Duy Thông nói với anh trong một lần xuống xí nghiệp lấy tin:
"Thiếu cái gì thì nói về cái ấy. Người ta thiếu đạo đức, người ta nói về đạo
đức. Anh em mình thiếu tiền, nói về tiền).
Mỗi người có một cửa của mình. Hãy cố gắng tạo cho mình một cửa.
Người làm to cửa to. Người làm nhỏ cửa nhỏ. Không thể ghen tị. Mình làm sếp cũng
vậy thôi. Ai làm sếp cũng vậy thôi. Cũng vừa măm vừa dạy dỗ đạo đức. Cũng đứt
dây thần kinh xấu hổ. Đã vào guồng là phải vận hành theo guồng. Nếu không sẽ bị
văng ra.
Hơn nữa dạo này phát sinh hai từ dôi dư. Trong các
cuộc họp, tổng giám đốc đều nói tới điều ấy. Sợ lắm. Mà đúng là dôi dư rành
rành chứ còn gì. Như Toàn chẳng hạn. Đích thị dôi dư. Văn phòng tổng giám đốc
khối người dôi dư. Cảnh dôi dư. Phó văn phòng công tử Nhương dôi dư. Thám mà
không dôi dư à? Các phòng ban khác nhiều người dôi dư. Như Mơ khai thác. Như Lập
kỹ thuật. Như Mẫn công đoàn. Như Liễu tài vụ... Buổi sáng hôm ấy, Toàn đang ngồi
đọc báo ở bàn làm việc thì Liễu bước vào. Đó là một phụ nữ to béo, chẳng liễu tí
nào. Cao lớn, da trắng mịn, nhìn Liễu đi dọc hành lang, hai bầu ngực núng nính
nảy tưng tưng, cặp mông căng đung đưa, má cứ hồng rực lên, đôi mắt ươn ướt lấp
lánh, nhiều người nuốt nước bọt. Nuốt nước bọt vì ngày ấy cả xí nghiệp chỉ có
vài người như Liễu. Thiếu ăn, phụ nữ phần lớn thuộc loại đét đê mo nang,
khô khốc như con cá mắm. (Liễu bảo Liễu ăn nhầm phải bột nở nên người nó thế
thôi chứ nhà Liễu có gì mà tẩm bổ). Nuốt nước bọt còn vì Liễu đã li dị mấy năm
nay. Ai cũng biết Liễu đang kiếm tấm chồng. Liễu đã cặp với Chiêu, một máy trưởng
tàu cá. Câu chuyện gần như công khai. Cả xí nghiệp ai cũng biết. Vợ Chiêu từ
Nam Định đã ra đánh ghen mấy lần. Nhưng chẳng ai có thể tách được họ ra. Chỉ đến
khi Liễu tự thấy mình phải rời Chiêu. Tự thấy mình phải chấm dứt cuộc sống bồ bịch
và có một tấm chồng. Không thể cứ thế mãi. Ai cũng nói Liễu ngấu lắm rồi. Người
ta công khai nói với nhau về Liễu: Tốt mái hại sống. Cái Liễu li dị vì thằng chồng
yếu quá, không đáp ứng được. Thằng chồng nó trước cũng không đến nỗi nào nhưng
càng ngày càng gầy, khéo ho lao rồi không biết chừng. Đêm bảy ngày ba, may li dị
sớm chứ không toi là cái chắc. Chính Điều còn nói sẽ làm mối cho Liễu một cụ
lão thành cách mạng, bảy mươi chín tuổi, vợ chết, có hai biệt thự, mày lấy cụ ấy
chỉ một tháng là cụ đi tong. Toàn bộ tài sản, tem phiếu của cụ, mày quơ hết. Thắng
lớn đấy em ạ!
Chiến dịch tìm chồng của Liễu tại Hà Nội và Hải Triều thất bại.
Chính Liễu kể. Liễu chẳng giấu cánh văn phòng. Chẳng làm gì phải giấu. Ăn cắp
ăn trộm gì đâu mà giấu. Tiến trình tìm hiểu đang ở đoạn nào, Liễu kể lại hết.
Khi năm ăn năm thua, khi được ăn cả ngã về không, khi bổ
sung vào lực lượng dự trữ và cuối cùng đều phải tinh giảm biên chế
thôi, không duyệt được.
Liễu là nhân viên phòng tài vụ, một cộng tác viên của Toàn,
chuyên cung cấp số liệu lỗ lãi của các tàu, các đơn vị sản xuất trên bờ để Toàn
viết tin. Liễu vừa nghỉ hai tháng vào Sài Gòn, thăm mẹ ốm nặng, nhưng anh em bảo
Liễu vào để giải quyết dứt điểm phi vụ chồng con, Liễu cười: Cũng là một công
đôi ba việc.
- Em chào chánh văn phòng. Em chào anh Toàn.
Liễu nói như quát khi bước chân vào văn phòng tổng giám đốc.
Toàn vẫn cắm cúi đọc báo. Điều hỏi:
- Quà đâu?
- Em làm gì có quà. Nghỉ hai tháng không lương làm gì có quà.
Điều đính chính:
- Nghỉ hai tháng nguyên lương chứ. Anh cũng đang mong được
như em đây.
- Em chào anh Toàn! - Liễu lại hét to - Sao anh làm việc say
mê thế?
Toàn buông tờ báo:
- Anh đã qua được cái cơn nhớ em rồi. Em cứ ngồi uống nước
đi. Anh trở lại bình thường rồi.
Cô Phòng cũng có mặt ở đó, cười rất tươi:
- Kinh không. Công khai thú nhận tình yêu.
Liễu bảo Toàn:
- Anh cứ ra đây ngồi với em một tí, lại nhớ ngay ấy mà. Đi có
hai tháng mà dỗi. Ghê chưa! Lúc em đi thế nào về vẫn nguyên thế ấy, chẳng suy
suyển tí nào. Anh cứ yên tâm.
Toàn buông tờ báo, ra xa lông rót nước mời Liễu:
- Trông em trắng ra đẹp ra đấy. Đã kiếm được một thằng đàn
ông nào chưa?
- Được rồi. Ớ lâu thế là được rồi. Trông cái mặt thì biết. Cô
Phòng đế theo.
- Suýt nữa được. Mà cũng có thể được. Còn đang suy nghĩ đây.
Phòng này. Anh Tí này. - Liễu hạ giọng. - Anh chàng này tuổi ngoài năm mươi.
Mình thấy là được. Thì cậu tính mình cũng ba mươi sáu rồi chứ còn ít ỏi gì.
Chánh văn phòng một quận. Người Bắc. Ly dị vợ. Thế là được chứ còn gì nữa. Con
lớn hai hai. Con bé mười lăm. Thế là tương xứng với mình. Mình cũng hai con, đứa
lớn mười hai, đứa bé lên mười. Mình chăm con người ta thì người ta chăm con
mình. Con người ta có mẹ lo thêm thì con mình có bố lo thêm. Mới gặp mấy lần
nhưng rất nhiệt tình. Cứ nói chuyện ra Hải Triều để gặp các cụ, thưa chuyện với
các cụ rồi tổ chức. Chỉ mỗi chuyện hình thức hơi kém. Bụng to. To hơn bụng anh
Điều này này.
Tất cả phá lên cười. Điều bước ra xa lông, cố phưỡn bụng, hai
tay xoa xoa bụng:
- Bụng anh thế này mà em bảo to à? Là thủ trưởng bụng phải
to, em nghe không? Bụng anh thế này hơi nhỏ đấy.
Cô Phòng đầy vẻ háo hức:
- Yên. Yên. Kể nốt đi xem nào.
- Bụng to. Hình thức kém, rõ ràng rồi. Nhưng thôi. Mấy người
trước, người được cái nọ mất cái kia. Căn bản là tình cảm, là vẻ đẹp bên trong.
Mình thấy cũng có vẻ được. Thế rồi một hôm em hẹn sáu giờ chiều đón em ở chỗ nọ
chỗ kia. Chờ mãi. Chờ mãi. Sáu giờ. Rồi sáu giờ mười lăm. Hay là bị kẹt xe. Kẹt
gì mà kẹt. Hẹn ngay chỗ đầu Nơ Trang Long, ông ấy nhà bên kia Cầu Đỏ. Sáu rưỡi
vẫn không thấy, mình phóng xe đến thẳng nhà thấy chàng đang bế cháu đích tôn. Đứa
cháu mười bốn tháng như cái rãi khoai khóc ngằn ngặt. Cả nhà chỉ có hai ông
cháu. Thằng bé nóng như than. Thì ra thằng con giai hai hai tuổi có con với đứa
nào đấy, nó đem con đến nhà trả rồi bỏ đi đâu mất. Khi mới gặp nhau chàng cũng
thành thật nói với mình là đã lên chức ông nội, thì cũng cứ tưởng chúng nó có vợ
có chồng có nhà có cửa, làm ăn trông nom nhau, ngoài năm mươi là ông nội chẳng
có gì phải nghĩ. Ai ngờ đâu lại thế. Thằng con hai hai tuổi biết cái gì mà nuôi
con. Còn con kia chắc mười sáu mười bảy biến rồi. Em mới hỏi: Bà nội cháu đâu?
"Bà nội cháu mặc quần áo đẹp đi nhảy rồi!" Bà ngoại đâu? "Bà ngoại
mỗi ngày đến một lần. Vừa về rồi! Bà ngoại bảo phải tiếp nước cho thằng
bé". Em hoảng lên: Sao lại tiếp nước cho cháu? Tiếp nước rất nguy hiểm.
Người lớn tiếp nước không cẩn thận cũng chết như chơi! Cháu bé thế này ven mạch
ở đâu mà cắm kim, lại còn chằng buộc thế nào để giữ yên tay nó mấy tiếng đồng hồ?
Anh phải cho cháu đến bệnh viện ngay. Thế là đưa đến bệnh viện. Thì ra nó viêm
tai giữa. Đàn ông đàn ang tắm cho nó, người béo ngón tay ngắn ngủn không bịt được
tai cháu, để nước chảy vào tai...
Tất cả lại cười. Liễu buồn buồn:
- Mình nghĩ thì ra ông ta không cưới vợ cho mình mà cưới bà
cho cháu. Chắc chắn lấy ông ta mình phải trông nom thằng bé. Không biết thế nào
chứ Phòng ạ, mình đã qua cái đận trông con thơ, sợ lắm rồi. Đã mất mười lăm năm
giờ lại mất mười năm nữa còn gì là đời.
Phòng vẽ ra một viễn ảnh sáng ngời:
- Rồi để ràng buộc, thắt chặt tình cảm giữa hai vợ chồng, mày
cũng phải đẻ một đứa chứ. Ba sáu tuổi còn đẻ tốt.
Và Phòng bàn một cách rất nghiêm chỉnh:
- Hay là thôi mày ạ. Cứ cặp với ông nào cho nó xong đi.
Liễu cũng thành thật không kém:
- Cặp thì tao cũng cặp rồi. Cặp với một người gay lắm. Tan cửa
nát nhà người ta. Chẳng lẽ lại nay cặp người này mai cặp người khác. Thế thì
mình là điếm mất rồi còn gì nữa. Cứ vui chơi cho đến khi không vui chơi được nữa
à? Cứ vui chơi có thưởng à?
Buột miệng câu nói sau cùng, Liễu đỏ nhừ mặt, đỏ xuống cổ, đỏ
xuống tận ngực nơi chiếc cúc áo sơ mi đính trễ. Trông Liễu lại càng duyên hơn mọi
lúc.
Chờ mọi người cười xong, Toàn thở dài đầy cam chịu, như biết
rằng cuối cùng việc khó khăn này lại đến tay mình thôi, rằng cái thân phận mình
là như thế, bao giờ cũng là như thế, không đẩy cho ai được:
- Thôi. Để anh cố.
Liễu đỏ đến cả hai con mắt lúc nào cũng ươn ướt:
- Anh thì gươm cùn giáo gỉ rồi. Không cố được em đâu.
Phòng cười, mặt còn đỏ hơn cả Liễu:
- Chưa cùn đâu. Còn sắc lắm.
- Đấy. Có Phòng xác nhận đấy. Gươm chưa gỉ. Giáo chưa cùn. Vẫn
tốt. Tất cả vì em. Với người khác thì mặc xác nhưng với em, anh phải có trách
nhiệm chứ.
Phòng biết mình lỡ lời, nghiêm mặt:
- Không được huyên thuyên!
Liễu nói mà không nhìn ai, mặt rực lên như người say rượu:
- Nếu cố được cũng không đến lượt anh!
Phòng thêm:
- Đúng! Chí ít cũng phải là chánh văn phòng! Chức vụ. Rồi bổng
lộc.
Liễu như nói một mình:
- Thảo nào. Mới gặp nhau mấy bận, hôn chưa hôn, chưa một lần
cầm tay để xem xúc động thế nào, luồng điện chạy ra sao đã muốn ra ngoài ấy gặp
các cụ rồi...
Toàn an ủi:
- Không phải nghĩ nữa. Anh cố được mà.
Như muốn chuyển đề tài, Liễu nhìn Toàn, giọng trách móc:
- Anh chỉ được cái mồm thôi. Em về mở hàng khô. Anh bảo anh
chạy hàng cho em mà chẳng thấy đâu.
Cô Phòng hưởng ứng ngay cái sự chuyển đề tài của Liễu:
- Mày mà mở hàng khô con mày nó ăn hết.
Liễu vênh mặt lên:
- Tao bán ớt ờ. Tao bán cà. Ờ. Tao bán mắm tôm. Ờ ờ. Có muốn
ăn cũng không ăn được. Hờ hờ.
Những tiếng ờ ờ hờ hờ như thách thức lũ con háu ăn của Liễu
đang quanh quẩn đâu đây. Phòng bảo:
- Tao không về. Tao chẳng làm gì mà tao về.
Liễu tán thưởng:
- Tao cũng không về. Sao không bảo bà về từ trước. Ờ ờ. Bảo
bà về từ mười mấy năm trước có được không? Ờ. Sao bây giờ mới bảo? Ờ ờ. Sao bây
giờ bà về mà những đứa mắt xanh mỏ đỏ lại được vào làm? Ờ. Nó cũng không có nghề
ngỗng gì. Hờ. Ờ. Ờ.
Mà đúng là thế thật. Nhiều mắt xanh mỏ đỏ mới về. Một mắt
xanh mỏ đỏ về văn phòng tổng giám đốc. Chẳng biết vì sao lại được về. (Ai cũng
biết phải đẽm dữ nhưng không biết chính xác bao nhiêu). Từ nước Tiệp
Khắc đã đổi màu về. Lao động từ Plden về. Cùng với cái Tám làm tiếp tân. Nhưng
công việc chuyên môn chủ yếu lại là đánh bóng bàn. Cắt, giật, tiu, đỡ rất giỏi.
Vừa chơi vừa rất hồn nhiên khi đối thủ sắp thua: Cụ lạnh tới chân rồi này.
Cụ lạnh tới ngực rồi này! Cải này thì mũi cụ vẹo về một bên, sắp đi rồi này! Vô
địch giải đơn nữ toàn xí nghiệp. Tham gia thi đấu giải bóng bàn nghiệp dư thành
phố, được giải ba hẳn hoi. Rồi vay tiền xí nghiệp mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm
ở phố Bắc Ninh. Chỗ trông ra Vườn hoa Đưa Người ngày trước. Cửa hàng to. Bán nước
mắm, cá ướp đá, cá ướp đông, cá khô, mực khô. Lưới, dây nhợ vá, cước, dây ni
lông. Sơn. Cả đồ hộp của xí nghiệp bên cạnh. Tổng giám đốc đi thăm cửa hàng về
phấn khởi kể chuyện oang oang:
- Cô Hiếu bây giờ tiền đầy túi. Đếm tiền cực nhanh, cực giỏi.
Đấy! Làm ăn phải mạnh dạn bung ra như thế chứ. Tôi đã nói với tất cả mọi người
rằng bây giờ phải biết kiếm tiền.
Điều lụi hụi nói với Toàn khi chỉ có hai người: "Không
phải dạy khôn. Chúng tôi cũng muốn kiếm tiền như sếp lắm nhưng đâu có được".
Trước mắt mọi người, Hiếu là một ngôi sao sáng. Có tiền. Được sếp hay lui tới
và đánh giá cao. Một mắt xanh mỏ đỏ mới về nữa là Ngọt, cô phiên dịch tiếng
Anh. Cô này ăn mặc hiện đại không kém Hiếu. Váy bò ngắn. Bít tất màu da chân
cao đến gối. Sơ mi hồng chẽn. Ngọt về phòng xuất nhập khẩu. Dù ở phòng xuất nhập
khẩu nhưng cũng là đề tài sôi nổi cho cánh văn phòng tổng giám đốc. Nhạn chỉ
vào Điều, bảo Toàn:
- Trưa nay bá con đi sau, cô Ngọt đi trước, trông bá con rất
buồn cười nhé. Mặt mũi nghiêm trọng, chăm chú đi sau cung cúc cung cúc. Con gọi:
"Bá ơ ơ ơi ơi!"
Nhạn dài mồm, cất tiếng gọi thảm thiết. Toàn gật gù:
- Bá hiểu. Đó là tiếng gọi thê thảm, tăm tối, tuyệt vọng của
đứa con sắp mất bố.
Chánh văn phòng Điều chỉ cười không thành tiếng. Cô Phòng
nói:
- Cái Nhạn nó bảo em: "Chị mà ở đấy nhìn bá em. Buồn cười
lắm".
Điều chê bôi:
- Ba mươi tư tuổi mà già cốc đế.
Cô Phòng bảo:
- Đẹp như kiều hối hả còn gì nữa. Cái Nhạn bảo nó sẽ
nói với nàng là con giai bá em nhớn hơn chị rồi đấy. Con giai bá em chính là thằng
Cảnh điên đấy.
Cảnh, một nhân vật hâm hâm, một kẻ rách việc nhất trong những
người rách việc bỗng dưng nói một câu rất oách:
- Hay là bá sang tên cho con đi.
Điều cười:
- Bố tổ cái thằng này. Đi nhổ cỏ đi!
Cô Phòng "tố cáo" với Toàn:
- Phó văn phòng "công tử" Nhương dắt cô Ngọt đến, bảo
em cấp cho cô ấy một bút bi, một thếp giấy, sếp nói trước mặt cô ấy chẳng lẽ
không cho. Thế rồi một lúc sau chánh văn phòng lại đến bảo đưa tao hai cái bút
bi, cho cái Ngọt, nó viết nhiều. Em bảo này không có đâu nhé. Một chiếc thôi.
Thì nó một chiếc, tao một chiếc. Em bảo anh không thèm viết bút bi nội cơ mà.
Điều chỉ cười, không nói. Cô Phòng tiếp:
- Công nhận chánh văn phòng dễ tính. Anh Tí ơi. Anh đi đâu cứ
đi. Xuống cơ sở. Lên thi đua thành phố. Chánh văn phòng không nói gì đâu. Công
nhận khi yêu người ta dễ tính đi nhiều.
Câu chuyện cứ như vậy, vui vẻ, tếu táo. Vừa lúc ấy, Vân phó
chủ tịch công đoàn vào. Cái Nhạn than thở:
- Có mỗi cô phiên dịch mới mà bao nhiêu người thương thuê,
khóc mướn.
Điều làm ra vẻ sừng sộ:
- Khóc mướn cái gì nào?
- Xin bút bi hộ đấy thay. Bá còn cãi nữa hay thôi.
Cô Phòng chỉ vào Vân:
- Đây, phó chủ tịch công đoàn áo kẻ. Chánh văn phòng áo kẻ,
phó tổng giám đốc áo kẻ. Cả một trường phái áo kẻ. Xem ai thắng ai nào.
Vân cười:
- Tôi là tôi múc luôn.
Đúng mọi người nhận xét mắt xanh mỏ đỏ mới nhận về cũng chẳng
có nghề ngỗng gì. Cô Ngọt sếp kêu dịch kém. Còn cái Hiếu bỗng dưng làm đơn
trình bày bị khách hàng chiếm dụng vốn, không còn khả năng thanh toán, xin thôi
việc, ở nhà mở cửa hàng, không phải cửa hàng giới thiệu sản phẩm của xí nghiệp
mà bán đồ may mặc. Thế là xí nghiệp mất toi mấy trăm triệu. Nhưng theo chánh
văn phòng, tiền không rơi vào túi Hiếu cả đâu. Mà theo đúng tỉ lệ phân chia. Hiếu,
trưởng phòng tài vụ, tổng giám đốc mỗi người một phần ba.
° ° °
Phòng văn thư đánh máy ngay cạnh phòng Toàn, nhưng trái ngược
với phòng Toàn, nó rất khuất nẻo. Đó là khúc nhô ra khỏi cái góc vuông của hành
lang, cái góc có hai buồng vệ sinh hiện đại, mà ngày nào Thuyền và Nhược đã
xách nước từ phân xưởng lạnh sang cọ rửa cho hết mùi khai để đón nhà tư bản Mỹ
Robert Lee. Tổng giám đốc làm việc ở tầng trên, có toa lét riêng ngay trong buồng
nên chẳng bao giờ đi vào ngõ cụt ấy.
Một cái tuyệt nữa của phòng văn thư đánh máy là giữa phòng có
mấy chiếc tủ đứng chắn ngang, chia thành hai phòng nhỏ. Cô Phòng, văn thư ngồi
bên ngoài, cái Nhạn đánh máy ngồi bên trong vì phòng đánh máy có nhiều công văn
giấy tờ quan trọng, cần phải kín đáo đôi chút.
Cũng như mọi phòng khác của cánh thước thợ phía này, phòng
văn thư đánh máy có hai cửa ra vào. Một cửa nhìn ra hành lang đằng trước, nhìn
ra tiền sảnh hình vòng cung có treo cái bảng mà Toàn kẻ dòng chữ tiếng Anh:
"Welcom to Biendongfiscom", bên dưới là một hàng chữ tiếng Việt:
"Liên hợp Hải sản Biển Đông kính chào quý khách". Và một cửa thông ra
hành lang phía sau, nhìn ra cầu cảng.
Khi Toàn đi từ cái bồn dầu đã không sử dụng giáp với xưởng
làm nước đá xây dựng từ thời sau tiếp quản nay đã bỏ hoang, tay xách cái ghế dựa,
theo sau là Thám, anh chàng thợ điện có nhiều tài vặt, bước tới hành lang phía
sau, thì Toàn đặt vội cái ghế xuống hành lang, lững thững mở cửa sau phòng văn
thư, vung vẩy hai tay bước vào.
Phòng, Nhạn quay cả lại:
- Đã cắt tóc xong rồi đấy. Nhanh thế!
- Cái ghế lấy mang đi đâu? Không giả người ta à?
Toàn vội quành ra hành lang, xách cái ghế dựa vào:
- Cũng phải trinh sát xem có ai không đã. Ngộ nhỡ gặp sếp thì
làm sao?
Thám bảo:
- Cắt tóc chỉ có sang kho kiến thiết cơ bản là thích nhất.
Khóa cửa ngoài là yên trí. Sếp chẳng đi đến đấy bao giờ.
Cái Nhạn đi lại phía Toàn, nhìn chăm chú và kêu lên:
- Đầu bá một mất một còn hở bá?
Thám bĩu môi:
- Một mất một còn! Thế này mà một mất một còn à?
Nhạn níu lấy hai tai Toàn, giữ cho Toàn nhìn thẳng, kéo cho
Toàn nhìn nghiêng rồi hỏi:
- Đây. Không bên xanh bên trắng là gì đây. Chị Phòng xem này.
Con cho bá mượn cái gương. Bá soi xem con nói có đúng không. Thợ dởm.
Một anh chàng bước vào. Còn trẻ. Gầy. Mặt khắc khổ. Cảnh, nguồn
vui bất tận cho anh chị em văn phòng. Cảnh nhìn Toàn, cười:
- Một mất một còn như bá không sợ. Một mất một còn như Thúy
tài vụ mới sợ.
Tất cả cười ầm. Thúy là tên cô phó phòng tài vụ, vừa đi mổ vú
tháng trước. Thúy được chánh văn phòng gọi là Của một đống tiền. Đi
triển lãm Giảng Võ, chánh văn phòng giao cho lái xe kèm Thúy:
- Mày trông nó cẩn thận nhé. Của một đống tiền đấy.
Mà đúng là một đống tiền thật. Đoàn tham gia triển
lãm Giảng Võ của xí nghiệp với đông đủ các đại diện phòng kỹ thuật, phòng cung
tiêu, xưởng cơ khí, chánh văn phòng và cả thi đua Toàn cùng lái xe nữa, gần một
chục người ăn trưa, bia bọt giải khát ở Hà Nội thoải mái đều được chánh văn
phòng chi và Thúy nhận thanh toán, khi về đến Hải Triều đã nhá nhem, tưởng ai về
nhà nấy hóa ra còn dừng lại Lưu Lang làm một chầu bia với mì xào thập cẩm và
hoành thánh chiên giòn. Anh nhớ lấy hóa đơn nhé. Mai đưa em thanh toán. Khiếp.
Cái món ăn gì có tên đến khiếp. Hoành thánh. Đọc cứ trẹo cả mồm. Tàn bữa Lưu
Lang, Thúy bảo Điều như vậy. Từ ấy Thúy có tên là Của một đống tiền. Sau
khi đi mổ về, cô có hai tên mới là Của một đống rưỡi tiền và Một
mất một còn. Tùy. Ai muốn gọi thế nào thì gọi.
Cảnh còn đang đứng thưởng thức thắng lợi từ câu nói của mình
thì Thám hất hàm:
- Nói với ai thế?
Cảnh cười nhạt:
- À. Nói chỉ thiên đấy.
Chưa bao giờ Cảnh có vẻ mặt câng câng như vậy. Cảnh ngồi xuống
chiếc ghế dựa phía trong, đặt sau cái tủ đứng, co một chân lên, nhưng rồi lại vội
vàng thõng chân xuống, xỏ vào dép. Ngồi ở một chỗ khuất và xỏ hai chân vào dép,
đó là đặc điểm của Cảnh. Thám đe:
- Được. Cứ ngồi đấy mà nói chỉ thiên. Không ra nhổ cỏ đi. Cứ
ngồi đấy.
Cảnh chìa hai bàn tay bẩn ra:
- Vừa nhổ về. Nghỉ giải lao một tí.
- Mày vừa nhổ phải không? Nhổ ở chỗ nào? Đưa tao ra xem.
Hai đùi Cảnh rung tít. Mặt Cảnh vênh lên:
- Đã có sếp kiểm tra. Mỗi ngày hai nhăm mét vuông. Đúng chỉ
tiêu.
- Một mét vuông cũng không được. Hai nhăm mét! Thằng này rất
kinh. Nó cứ ra chỗ bãi cỏ nhổ chừng hai ba cái cho tay có nhựa rồi xoa vào đất.
Thế là xong. Đi vào ngồi đấy.
Cảnh càng rung đùi tít hơn, và ngước nhìn trần nhà, kiểu như
muốn nói: Không thèm chấp.
Rồi bước lại cái bàn uống nước - cũng để sau tủ đứng cho nó
kín đáo - lấy giấy bút ra vẽ, chăm chú, mải miết, cái mỏ thỉnh thoảng lại dẩu về
bên này, dẩu về bên kia. Tất cả im lặng nhìn Cảnh. Nhạn, Thám bĩu môi đầy vẻ
khinh bỉ. Cảnh vẫn say sưa vẽ, không biết chánh văn phòng đứng bên tự bao giờ.
- Nhổ cỏ đến đâu rồi mà vào đây vẽ vời đấy?
Cảnh ngẩng lên, không hề bối rối về chuyện bị thủ trưởng bắt
quả tang không đi nhổ cỏ mà lại ngồi trong buồng quạt trần chạy vù vù, vẽ vời.
Nó chìa tờ giấy cho chánh văn phòng, vẻ nghiêm túc nhất trên đời:
- Chú ơi. Cháu định làm cái biểu đồ biểu diễn đường găng. Chú
xem cho cháu với.
Cảnh đưa cho chánh văn phòng tờ giấy có vẽ biểu đồ, những trục
tung, trục hoành, những đường chéo và trong khi chánh văn phòng im lặng xem, nó
cũng ngó vào đó, môi dẩu ra, đầy căng thẳng và thỏa mãn. Rồi cầm bút bi chỉ chỉ:
- Biểu đồ đường găng thế này chứng tỏ công việc suôn sẻ chú ạ.
Chánh văn phòng vất tờ giấy ra bàn:
- Đếch phải rồi. Đường găng đâu phải đường này. Đường găng là
diễn đạt cùng một lúc phải giải quyết rất nhiều công việc. Chọn công việc gì
làm trước, công việc gì làm sau. Như thế nào nhỉ...
Điều ngẫm nghĩ và à lên:
- Như các cụ nói đấy. Đang khi lửa tắt cơm sôi. Lợn gầm con
khóc, chồng đòi...
Không đợi chánh văn phòng nói hết câu, Cảnh gật gù tủm tỉm:
- Tòm tem.
- Đấy. Thế. Đường găng là như thế. Trong ngần nấy công việc,
làm việc gì trước. Phải nấu cơm đi. Chứ làm việc khác để hỏng nồi cơm là bỏ mẹ.
Nhạn cười:
- Làm việc khác là làm việc gì đấy bá?
Cảnh cầm tờ giấy biểu diễn đường găng trầm ngâm suy nghĩ, và
chỉ đến khi ấy, khi nó thả chân xuống đất (không biết nó đã cao hứng co một
chân lên ghế lúc nào) thì chẳng thấy một chiếc dép lê đâu nữa cả. Quên hết mọi
chuyện nhổ cỏ, đường găng, quên cả chánh văn phòng đang đứng trước mặt, nó cúi
cúi tìm dép. Và nó nhìn nét mặt từng người. Chẳng thể tìm thấy gì trên những vẻ
mặt ấy, nhưng nó biết ai là người giấu dép của nó. Và nó biết thế là hỏng mất rồi,
mất đứt mất rồi. Chánh văn phòng phì cười:
- Cái này mới thật là đường găng đây.
Thám làm như bây giờ mới hiểu câu chuyện:
- Mất dép à?
Và cười giòn tan sảng khoái. Lại nói đầy vẻ khiêu khích:
- Đứa nào lấy dép của nó nhỉ?
Điều biết đám nhân viên của mình đã đi vào đề tài muôn thuở
là trêu Cảnh. Anh làm mặt nghiêm, cắt đặt công việc:
- Chú Thám tí nữa đi chặt cành cây la ra lối đi. Thằng Cảnh nữa.
Hôm nay đi theo ông Thám, phụ với ông ấy.
Thám giãy nảy:
- Không. Tôi làm một mình thôi. Làm được đến đâu thì làm. Tôi
không làm với thằng Cảnh đâu. Hôm nọ sếp bảo nó phụ với tôi chữa quạt. Mình đã
kê bàn bắc ghế leo lên chỗ cái quạt trần, bảo nó đưa cho hộp sơn. Sếp có biết
nó làm gì không? Nó lại đi bật quạt. Điện giật chết thì sao? Cánh quạt phạng
vào mắt vào mang tai thì sao? May mà kịp ngồi thụp xuống tránh được.
Cảnh nói với vẻ bề trên dạy bảo:
- Khi làm phải để các thứ gọn gàng, với tay là lấy được ngay.
Để xa thế là không ổn rồi.
Bị chạm tự ái nghề nghiệp, Thám gầm lên:
- Phải. Mày cái gì cũng giỏi.
Chánh văn phòng cười dàn hòa:
- Thôi. Hai anh em đi tỉa cành. Ông Thám cho nó đi chặt cùng.
Để nó chặt một mình nó lại chặt trụi như lần trước cho ông sếp ông ấy giết tôi
à?
Đang bực mình, Thám cũng phải phì cười. Chả là lần trước,
chánh văn phòng giao cho Cảnh chặt cây. Biết được trình độ thông minh của nhân
viên của mình, trước khi tan tầm chiều, Điều đã đánh dấu phấn vào những cành phải
chặt, để nó khỏi phạng đi tất cả, "sáng mai đến cứ cành nào có dấu phấn
thì chặt, chặt bừa là chết tao đấy".
Ai ngờ, Đức đen trưởng phòng điều độ tối hôm ấy trực bốc xếp.
Rách việc, buồn tình, Đức lấy phấn đánh dấu vào tất cả các cành cây trong vườn
hoa như trong tập truyện A li ba ba và bốn mươi tên cướp vậy. Thế là
sáng hôm sau Cảnh ra sức phạt. Trụi một nửa vườn hoa mới biết.
° ° °
Chánh văn phòng vừa ra thì lại một người bước vào.
- Chào thanh tra.
Cô Phòng nhanh nhảu.
- Chào em gái. Anh không ở thanh tra nữa rồi.
- Anh sang bảo vệ rồi à?
- Sang rồi. Xí nghiệp có nhiều của quý phải chia nhau canh
gác chứ.
Đó là Vinh, nguyên phó quản đốc phân xưởng đá cây Liên Xô. Gọi
thế vì phân xưởng này do Liên Xô xây dựng ngay từ những ngày đầu tiên thành lập
xí nghiệp. Phân xưởng đá cây Liên Xô có một chánh hai phó nhưng luôn luôn lục đục.
Mâu thuẫn căng từ khi máy móc còn mới tinh và chỉ được giải quyết khi phân xưởng
đóng cửa vì thiết bị già cỗi không hoạt động nữa, ống ga đụng đến chỗ nào là chỗ
ấy xì, ba vị lãnh đạo phân xưởng chuyển đi mỗi người một nơi. Quản đốc chuyển về
bộ, một phó quản đốc về nhà máy đá vẩy mới xây dựng, còn Vinh làm phó ban thanh
tra. Ban thanh tra có ba người, một trưởng, một phó, hai người lãnh đạo một
nhân viên. Đó là một ban hoàn toàn rỗi việc. Công việc chính của ban thanh tra
là tiếp ban thanh tra thành phố, ban thanh tra bộ về làm việc định kỳ tại xí
nghiệp. Không giống Toàn và một số người khác, cán bộ thanh tra rỗi việc một
cách danh chính ngôn thuận, bởi sếp chánh đã nói: "Các anh thanh tra rỗi
việc là mừng. Chứng tỏ xí nghiệp không có vấn đề gì. Các anh bận việc là hỏng đấy".
Có lẽ sếp muốn "mừng", sếp muốn thanh tra rỗi việc nên đã mấy lần
thanh tra muốn bận, muốn có việc làm đều bị sếp gạt đi. Như chuyện cho thuê cầu
cảng của điều độ chẳng hạn. Thanh tra đã cho qua, nhưng cái chính là Đức không
biết điều. Cứ làm như mọi người mù. Rồi coi mọi người không ra gì. Kiểu khinh
người, coi tất cả là đồ mù như vậy chỉ từ cỡ nào trở lên mới làm được, chứ cái
anh trưởng phòng điều độ quèn mà cũng thế thì thật quá thể. Vừa thấy trưởng
phòng điều độ ngoài sân, Nghi trưởng ban và Vinh phó ban thanh tra đã gọi to, với
nét mặt rõ ràng là căng thẳng, vẻ mặt của thanh tra đang làm việc thanh tra:
- Anh về phòng đi, chúng tôi hỏi anh một tí.
Ba người trở về phòng điều độ. Đức định pha nước, nhưng Nghi,
Vinh đi thẳng ra cửa phía sau, nhìn qua bãi phù sa lúc này nước lên đầy ăm ắp,
chỉ tay vào một chiếc tàu vận tải lớn nổi cao phía cuối cầu cảng, giáp với con
tàu 307:
- Tôi hỏi anh cái tàu này hôm nay còn vào đây là làm sao nhỉ?
Đức tỉnh bơ:
- Thì hôm nay nó vào, còn sao.
- Thế hợp đồng đâu?
Đức cười rất tươi, xuề xòa thân mật:
- Hai anh vào đây. Vào đây. Tôi giải thích để các anh rõ. Các
anh chưa biết cứ hỏi không sao. Chúng tôi sẽ báo cáo. Đây. Hợp đồng đây chứ
đâu.
Vinh liếc qua bản hợp đồng Đức mới đưa, mặt tái đi, chứng tỏ
anh đang rất cáu:
- Tàu vào cảng, thế hợp đồng đâu?
Đức thôi không cười nữa:
- Hợp đồng anh đang cầm đấy thôi.
Cái hợp đồng Vinh đang cầm đã hết hạn hơn chục ngày rồi. Vinh
cười nhạt:
- Thế thì tôi đề nghị anh ghi vào bên dưới: Hợp đồng này
có giả trị vĩnh viễn.
Đức tỏ ra cáu kỉnh không kém:
- Tôi nói cho các anh biết: Mình là đại lý cho nó. Vấn đề
thanh toán phải để sau một chuyến.
Nghi lắc đầu, mặt lạnh tanh, giọng nhỏ nhẹ nhưng kiên quyết:
- Hợp đồng quá hạn gần nửa tháng rồi. Tiền chưa nộp. Đã thế
anh còn quát nạt chúng tôi. Tôi cũng nói cho anh biết: Chúng tôi không cho xe ô
tô vào.
Thế nhưng tàu vẫn đỗ ở cảng. Ô tô vẫn vào. Lệnh sếp. Được. Hợp
đồng của điều độ có chuyện gì ta sẽ có ý kiến sau. Nhưng các đồng chí không được
cản trở sản xuất. Bây giờ khách hàng là thượng đế. Phải tạo mọi điều kiện để
thu hút khách đến với cảng của mình. Thành phố này bao nhiêu cảng. Có phải chỉ
riêng mình có cảng đâu. Hoan nghênh các đồng chí đã quán xuyến, công tâm. Nhưng
cũng nên uyển chuyển. Cứng nhắc là hỏng việc. Sếp bảo vậy. Và cũng chẳng thấy
chỉ thị gì thêm về cái hợp đồng. Mặc dù ai cũng biết mười mươi rằng Đức vớ bẫm.
Hợp đồng ký hai ngày, lại hai ngày, rồi lại hai ngày, để làm gì? làm sao như vậy?
ai cũng biết. Cũng như ai cũng biết cái chiều dài chiều rộng của tàu trong hợp
đồng đã được rút ngắn đi nhiều. Ai cũng biết mọi chuyện Đức làm như vậy là đã
được chủ hàng "lo liệu". Chủ hàng chứ không phải chủ
tàu. Mà bây giờ chủ hàng rất nhiều, rất nhiều người buôn bán từ thời gian
đổi mới đến nay khi vị Tổng Bí thư Đảng đã nói Nhất bản vạn lợi.
Đức cứ như vậy mà nâng cao năng lực và chất lượng dịch vụ
của cảng như bản tin Toàn viết trên bảng đen. Còn Vinh người hăng hái nhất
ở thanh tra được chuyển sang bảo vệ.
Khi còn ở thanh tra, Vinh hay đi dạo các phòng, cả đảng ủy,
công đoàn, thanh niên. Tới phòng nào anh cũng đứng ở cửa gõ cộc cộc, để mọi người
tưởng khách, quay ra nhìn. Thế là anh cười rất tươi nhưng không thành tiếng rồi
bỏ đi. Cũng có khi ghé vào nói chuyện. Toàn chuyện Gorbachev, Yeltsin. Cuối
cùng là chuyện anh lấy vợ. Ai cũng khen Vinh lấy được cô vợ trẻ. Vợ anh chính
là cô bán hàng phòng đời sống mà chúng ta đã nói tới khi cô bán chai rượu quít
không phiếu cho Lê Mây. Cô Ngụ. Vinh đã có bốn người con với đời vợ trước. Khi
vợ chết vì ung thư, anh đã định ở vậy. Nhưng chẳng hiểu duyên số thế nào anh lấy
Ngụ, một cô gái tân, tuổi còn kém cả thằng lớn nhà anh. Chuyện với mọi người về
cô vợ trẻ, anh lắc đầu với vẻ thán phục có pha khiếp hãi:
- Chảu Ngụ kinh lắm. Máu lắm.
Và cười. Phải nói Vinh có hàm răng rất đẹp, trắng, đều tăm
tăm.
Toàn pha trà mời Vinh. Vinh chỉ vào Cảnh:
- Bố thằng này ngày xưa nói giỏi lắm đây này. Nói hay lắm.
Ông ấy nói là cứ im phăng phắc.
Cảnh chân dép chân đất:
- Không bằng em.
Tất cả cười ồ. Cô Phòng bảo:
- Bố nó ngày xưa làm to lắm. Nổi tiếng ở thành phố này đấy.
Ai mà không biết tiếng ông Sinh, một người lãnh đạo xuất sắc
trong thành phố, một người tổ chức tài ba và nhất là một nhà hùng biện. Hơn thế,
ông còn là một nhà nghiên cứu về nhiều lĩnh vực chính trị và văn hóa. Ông thường
xuất hiện trên tivi, cũng như trong những hội nghị quan trọng, giảng giải về
con đường đi lên của cách mạng, kêu gọi mọi người hãy rèn luyện, cống hiến,
trau dồi đạo đức, không ngừng học tập nâng cao năng lực với một giọng vang âm
truyền cảm thiết tha. Toàn chưa được trực tiếp nghe ông nói. Chỉ được và nhìn
ông qua tivi. Người anh nhiều khi nổi gai lên vì thán phục. Toàn cười:
- Cái thằng này nói thật hay đùa đấy. Dám hơn bố cơ à?
Cảnh nói chắc như đinh đóng cột, như nó đã làm cái sự so sánh
giữa hai bố con nó nhiều lần lắm rồi, và kết luận rút ra lần nào cũng giống
nhau:
- Bố cháu nói nhiều thế nhưng chỉ cháu biết là quanh quẩn vẫn
mấy bài cơ bản thôi. Buổi nói chuyện nào của bố cháu cũng phải có mấy câu thuận
lợi rất nhiều nhưng khó khăn cũng không phải ít. Chúng ta phải đem hết sức mình
ra cống hiến, thấm nhuần lời dạy của Bác. Nếu không lại thời cơ và
thách thức, hòa nhập chứ không hòa tan, đổi mới chứ không đổi màu. Phải nắm vững
xê cộng vê cộng em (C+V+M)... Đấy chú cứ xem mà xem. Quanh đi quẩn lại chỉ
vậy. Về nông thôn thì thêm vào mấy câu như chúng ta phải nghiên cứu vấn đề
vật nuôi cây trổng, trổng cây gì, nuôi con gì. Mới đây có thêm câu con
gì nuôi nhốt, con gì nuôi thả...
Tất cả cười ầm. Cả Thám, cả Nhạn những người hay châm chọc Cảnh
cũng cười. Điều ấy làm Cảnh nở mày nở mặt. Lại Vinh:
- Ngồi ghế mà nói như mày, ai nói chả được. Đứng trên bục,
trước hàng trăm người nghe nó khác chứ.
Toàn động viên Cảnh:
- Cảnh đứng lên, làm điệu bộ xem có hơn bố không nào. Thằng
này làm tốt.
Được khuyến khích, Cảnh chân đất chân dép đứng dậy, hai tay
chống trên bàn, cạnh đĩa đựng chén uống nước, mắt nhìn về phía xa hắng giọng:
- Thưa các đồng chí. Hôm nay tôi nói với các đồng chí...
Vừa xong câu mở đầu đã ngồi xuống ghế, ngượng nghịu:
- Em không nói nữa đâu.
Thám bĩu môi:
- Chỉ bốc phét. Nói thế chó nào được. Lòi mặt ra chưa!
Điên tiết, Cảnh đứng lên sừng sộ:
- Thật không? Thật không?
- Thật mười mươi! Cãi làm sao được! Thật như bố nằm với mẹ!
- Thưa các đồng chí! Giọng Cảnh sang sảng cất lên. Chúng ta
phải không ngừng nâng cao cảnh giác chống mọi âm mưu của các thế lực thù địch
diễn biến hòa bình. Mọi quyền lực về tay nhân dân. Một chính quyền của dân do
dân vì dân. Dân biết dân bàn dân làm dân kiểm tra. Phải tăng nguồn hàng xuất khẩu.
Phải thực hành tiết kiệm. Chống tham ô lãng phí. Tham nhũng đang là quốc nạn.
Kiên quyết xử lý nghiêm minh. Không tắm từ vai xuống. Mà tắm là phải tắm từ đầu
xuống. Không ai đứng trên pháp luật! Không ai đứng ngoài pháp luật!
Càng nói càng hăng. Càng vung tay múa chân, nghiêng người bên
này nghiêng người bên kia. Nghiêm mặt. Nhìn bao quát. Khi mọi người bật lên vỗ
tay tán thưởng một cách thành thực, tự đáy lòng, Cảnh không cười mà chỉ dừng một
lúc, rồi cúi xuống như đang xem lại dàn bài và ngẩng lên tiếp tục:
- Bây giờ tôi xin nói kỹ hơn về vấn đề dân chủ hóa. Đây là vấn
đề thiết yếu, sống còn. Chỉ có vậy mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhân
dân. Bác Hồ đã dạy: Dễ muôn lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng
xong...
Chưa bao giờ "hội trường" lại phấn khởi như vậy.
Vinh reo lên:
- Thế chứ! Như thế chứ! Công nhận thằng này nói giỏi. Tiến bộ
rất nhanh. Lần đầu còn ngượng nghịu mà lần thứ hai đã nhập vai thuần thục ngay.
Đúng là một diễn giả tài ba. Hơn bố là cái chắc.
Cảnh bốc:
- Mà bố em còn phải chuẩn bị, phải làm đề cương. Mà cũng chỉ
nói giỏi về chính trị thôi. Em không phải gì chứ, nói ngay được về bất kỳ vấn đề
gì. Như đề tài nhổ cỏ em cũng nói được hai ngày.
Lần này chính Vinh công khai tỏ ý nghi ngờ:
- Bốc phét. Nói sao được? Nói gì mà được những hai ngày? Hùng
biện như ông Fidel Castro cũng chỉ nói được một buổi sáng...
Đang thăng hoa, Cảnh mắt long lanh hùng hồn giải thích:
- Tôi nói được hai ngày về cỏ. Phản xạ của người ta có hai loại:
Phản xạ có điều kiện và phản xạ không có điều kiện. Khi lao động, sự vật thường
xuyên tác động vào suy nghĩ của mình. Không trực tiếp lao động thì chỉ có thể
là khó khăn cũng lắm mà thuận lợi cũng nhiều cứ thế mà nói. Hay xê cộng vê cộng
em, thế thôi. Bởi vậy nội dung bài nói của tôi sẽ là: Chương thứ nhất:
Cỏ là gì? Chương thứ hai: Vì sao có cỏ. Chương thứ ba: Nước,
đất và không khí. Thế nào là nước. Thế nào là đất. Thế nào là không khí. Ớ chỗ
này có thể nói thêm về sự hình thành của quả đất. Sau vụ nổ Big Bang. Về các kỷ.
Về khí độc lúc quả đất mới hình thành, về loài khủng long kỷ Jura...
Vinh cười:
- Nhưng thế nào cũng phải nói khó khăn thuận lợi, thuận lợi
cũng nhiều mà khó khăn cũng lắm chứ. Không có cái ấy chó nó nghe.
Cô Phòng đế thêm:
- Đúng. Đúng. Mà cũng chỉ nói được vài tiếng đồng hồ là hết.
Nói sao được hai ngày.
Không thèm để ý đến những lời khích bác, Cảnh chìm vào dòng
suy nghĩ, giơ ngón tay bấm đốt:
- Cỏ là gì? Vì sao có cỏ? Các loại cỏ trên thế giới...
Và reo ầm lên:
- Đúng rồi. Các loại cỏ trên thế giới. Cái này nói được một
ngày đấy. Phong phú lắm. Cỏ gà, cỏ mật, cỏ may, cỏ gấu, cỏ gì nữa nhỉ, cỏ lác,
cỏ ba lá... Cỏ có hại. Cỏ có lợi. Cỏ độc giết người. Cỏ cứu người, cỏ làm thuốc
vân vân. Rồi còn cách nhổ cỏ, những hóa chất trừ cỏ, tội ác của Mỹ về chất độc
hóa học màu da cam.
Thám bĩu môi:
- Chuyên gia về môi trường đấy.
Nhạn mỉa mai:
- Thế nào chẳng có câu: Chúng ta phải cố gắng nhổ cho hết cỏ.
Nói xong vào trong phòng ngồi, quạt trần quay vù vù.
Không thèm nghe, không thèm đáp, Cảnh đang bị bài diễn văn
nói vo liền hai ngày cuốn hút, ngẩng lên hỏi Vinh:
- Anh thấy đã được hai ngày chưa. Nếu chưa đủ, em sẽ nói thêm
về việc trồng cỏ trong vườn hoa, trồng cỏ nuôi bò sữa, phân tích thêm ý nghĩa
văn hóa, ý nghĩa kinh tế của cỏ...
Vinh nhìn cái đùi đang rung tít và cái chân thõng của Cảnh:
- Đúng rồi. Cỏ có nhiều ý nghĩa lắm. Kinh tế, chính trị, văn
hóa. Nhưng sao lại chân đất chân dép thế kia?
Cảnh không giấu vẻ thất vọng khi câu chuyện bị cắt ngang đột
ngột bởi một vấn đề tầm thường đến thế, trả lời chiếu lệ, coi cái chuyện mất
dép vừa nãy còn là vô cùng quan trọng ấy chỉ là chuyện vặt, không đáng quan
tâm:
- Mất rồi. Ai nghịch giấu đi ấy mà.
- Vừa mất xong?
- Vừa mất xong.
Phòng cười, má lúm đồng tiền rất tươi:
- Cảnh báo cáo chú bảo vệ đi.
Cảnh trình bày:
- Thế này. Em vừa đi nhổ cỏ về...
Nhạn cắt ngang:
- Nhổ ở chỗ nào? Được bao nhiêu mét rồi?
Cảnh đáp cho qua chuyện:
- Nhổ ở cổng bảo vệ. Về là vào thẳng đây.
- Lúc ấy vẫn còn hai dép?
- Vẫn còn hai dép.
- Về ngồi ở đây?
- Về ngồi ở đây.
- Vô lý. Dép ở chân làm sao mất được?
- Em ngồi cũng có văn hóa thôi. Không như Thám ngồi kia đâu.
Thám đang ngồi xổm trên ghế. Rất cáu nhưng cũng phì cười.
- Ngồi có văn hóa là thế nào?
Cảnh thở dài nói lên một chân lý phổ biến:
- Ai chả có lúc ngồi chân nọ gác lên chân kia.
- Tức là chân co chân duỗi?
- Chân co chân duỗi.
- Có lúc nào co hẳn một chân lên ghế không?
- Có.
- Lúc nào?
- Không nhớ.
- Co chân lên ghế lúc nào phải nhớ chứ?
- Không nhớ. Lúc ấy còn mải làm việc.
- Làm việc gì? Công việc là nhổ cỏ, sao lại còn việc gì ở đây
nữa?
- Không. Chỉ là vẽ đường găng thôi.
Vinh làm như bây giờ mới vỡ nhẽ:
- À. Tưởng văn phòng giao nhiều việc quá thì phải báo cáo
giám đốc để rút bớt. Thế cửa này mở chưa?
Vinh chỉ tay ra cái cửa thông với hành lang phía sau, lối
Toàn và ông phó cúp Thám vừa đi vào khi nãy. Cảnh gật:
- Cửa mở từ sáng.
- Ớ đây có những ai?
- Có vài người.
- Đường, bí thư đoàn vào chưa?
Đường là chồng Nhạn, nên Nhạn trả lời thay Cảnh:
- Đường vào rồi. Nhưng lúc ấy Cảnh chưa về.
- Thành, phó bí thư đảng ủy vào chưa?
- Rồi.
- Điều, chánh văn phòng vào chưa?
- Rồi.
- Thế thì chỉ có hai người ấy lấy dép thôi. Thành và Điều. Tí
nữa lên phòng đảng ủy, sang buồng chánh văn phòng xem sao. Tao thấy họ ra gặp
tao, tay lại cứ để sau lưng. Tao không biết mày mất dép nên không để ý.
Coi như cuộc điều tra đã kết thúc và đã có kết luận, Vinh đứng
dậy, bước lên gác, gõ cửa phòng đảng ủy. Cộc. Cộc. Cộc. Tưởng khách đến làm việc,
mọi người quay cả ra. Anh đứng ngoài nhìn vào không nói một lời. Chỉ cười. Rất
tươi. Không thành tiếng. Hàm răng trắng đều tăm tăm. Rồi đi sang phòng công
đoàn liền bên. Lại đứng ngoài cửa. Cộc. Cộc. Cộc. Để mọi người quay cả ra. Lại
cười rất tươi không thành tiếng. Và lại bỏ đi.
° ° °
Toàn chỉ ao ước được giao một công việc gì đó, đều đặn thường
xuyên, có khối lượng cụ thể. Như cô Phòng. Như cái Nhạn. Hay như Cảnh cũng được.
Bây giờ phải làm công tác phong trào. Thật là đấm vào không khí.
Cái khổ ở chỗ Toàn là một người trung thực, quá trung thực,
không thể tự dối mình, không thể nhắm mắt trước sự thật, rồi cứ làm những đề
cương thi đua cải tiến quản lý, xây dựng tổ đội,... không thể tràng giang đại hải
về phong trào trong công nhân viên chức, cải tiến kỹ thuật, cải tiến lề lối làm
việc, giải quyết khó khăn. Về lý luận, tập trung vào những việc ấy nghe chừng
đúng đấy nhưng sự thật đâu phải thế.
Sự thật là với những người như Toàn (số này rất đông) đi làm
chỉ để qua ngày đoạn tháng, giả vờ làm việc, giả vờ lĩnh lương, giả vờ bận bịu,
giả vờ nghe, giả vờ nói và cả giả vờ... ăn nữa, vật vờ sống và mong đợi một cái
gì sẽ đến, cái sẽ đến ấy là gì không biết rõ nhưng vẫn cứ mong, bởi cuộc sống
như thế này khó mà chịu đựng lâu hơn nữa, phải chấm dứt đi thôi.
Sự thật là với những người như Đức, như giám đốc các xí nghiệp
thành viên, những người làm ở các cửa hàng... đi làm là để tạo điều kiện, chớp
thời cơ, lách qua các kẽ hở, liên kết với nhau để biến lưng vốn xí nghiệp, đồng
lãi của xí nghiệp thành của riêng mình. Bản tổng kết của những người này là chủ
trương, chính sách của Đảng, Chính phủ và cả vị trí của mình đều luôn thay đổi,
được ngày nào biết ngày ấy, mưa lúc nào mát mặt lúc ấy, phải biết tranh thủ, đừng
bỏ phí cơ hội.
Sự thật là sản xuất kinh doanh trong xí nghiệp tùy thuộc vào
sự xoay xỏa của mấy tổng và phó tổng mà thực chất là một ông tổng giám đốc, mấy
trưởng phó phòng như xuất nhập khẩu, kinh doanh. Tài tháo vát, ngoại giao xoay
xỏa này được gọi là "năng động sáng tạo", thực ra với động cơ duy nhất
tìm mọi cách vơ vét càng nhiều càng ít.
Đánh cá không được thì chuyển sang vận tải nước ngoài. Khi có
phong trào sắt vụn, nổi lên những người làm sắt vụn. Khi có phong trào làm gỗ bạch
đàn thì sáng láng nhất là những người làm gỗ bạch đàn. Tổng giám đốc cười tươi
săn đón họ, bắt chân bắt tay vồn vã. Họ là những ngôi sao sáng, là những người
đem tiền bạc về cho xí nghiệp, dù đã lấy chai gió cắt cả chiếc cần cẩu chân đế
mới tinh chưa sử dụng chuyển xuống tàu nước ngoài bán sắt vụn. Nhân viên phòng
xuất nhập khẩu, phòng tàu, những người làm ra tiền, đi đứng hùng dũng nói năng
to tát, thuốc lá ba số, Capstan, đưa đánh máy, đóng dấu, photo những vận đơn,
những quota, những công văn mở LC, những thứ chắc chắn sẽ sinh ra đô
la. Nét mặt họ hớn hở, nghiêm trọng, bước những bước dài tất bật ở hành lang, từ
phòng này sang phòng khác, không thèm để ý đến những người chung quanh đang
nhìn họ một cách thèm thuồng và ghen tị, rõ ràng họ đang gánh vác cả một sứ mạng
thiêng liêng. Họ diện giày da, họ phóng xe máy đi về, lượn những vòng cua thật
đẹp ở sân. Mà phải công nhận họ lượn tài thật. Đúng chỗ cần đỗ là khựng lại.
Chiếc nọ cạnh chiếc kia đều tăm tăm, cứ như những ông coi xe xếp xe đạp vậy. Họ
cười nói. Họ xộc vào phòng tổng giám đốc như gặp bạn. Thật sung sướng, bình đẳng
và làm chủ. Không chỉ sung sướng vì giá trị tinh thần được nâng cao, mà chắc chắn
trong túi, trong tủ họ rủng rỉnh tiền, vàng, đô la... Chứ chỉ có đồng lương ký
sổ thì vất vả làm gì. Lại còn vất vả thế mà cứ tươi cười hơn hớn.
Lép vế nhất có lẽ là đoàn thanh niên và thi đua. Chứ công
đoàn không. Đồng chí chủ tịch công đoàn có nhiều việc để làm: họp thường vụ, dự
hội nghị giao ban, xét duyệt lên lương, ký thanh toán bảo hiểm, làm việc với
các cơ sở, xét trợ cấp khó khăn, họp hội đồng kỷ luật, lên Liên Hiệp Công đoàn
thành phố mà sau này gọi là Liên đoàn Lao động, mở hội nghị công nhân viên chức
từ cơ sở tới xí nghiệp, đại hội công đoàn, tiếp xúc với các đồng chí về hưu...
Ngay đảng ủy cũng chẳng nhiều việc bằng!
Nói đúng ra đấy chỉ là công việc của đồng chí chủ tịch công
đoàn mà văn phòng công đoàn có những năm người. Một phó thư ký Vân, một trưởng
ban nữ công Phương, một cán bộ Xuân trố không biết làm gì. Mỗi quý một lần đi đặt
sách báo, tổ chức giải bóng chuyền nhân dịp mồng hai tháng chín, giải bóng bàn
nhân dịp mồng một tháng năm (mà cô Hiếu lao động ở Tiệp về luôn được giải nhất,
chỉ đến khi Hiếu mở cửa hàng và nợ xí nghiệp hơn ba trăm triệu, xí nghiệp gạch
tên, khoản tiền ấy được ghi vào tài khoản nợ khó đòi; giải nhất bóng bàn nữ mới
về tay người khác). Người cuối cùng là Mẫn, cán bộ phụ trách bổ túc văn hóa, có
một trường bổ túc văn hóa liên xí nghiệp dành cho anh ta. Khi trường liên xí giải
tán anh ta chỉ có một việc đi lấy báo (do anh chàng Xuân trố "văn thể"
đặt) phát cho các phòng ban, rồi rút về phòng thư viện ngồi đọc báo và cho mượn
sách. Số sách đồ sộ kín các giá sách ngày một ít dần đi.
Toàn hay lỉnh đến phòng thư viện này. Nó nguyên là một phòng
làm việc của ban kiến thiết cơ bản mà trong các văn bản được viết tắt là KTCB
nên cả xí nghiệp gọi là ban Kiẽm Tiền Chơi Bời. Ban kiến thiết cơ bản
có quỹ riêng, nguồn kinh phí riêng khổng lồ từ trên rót xuống với những công
trình mở rộng cầu cảng, những nhà máy lạnh Nhật, những tàu Đức, tàu Na Uy...
Không phải bỏ tiền mà có thêm nhà xưởng, thêm tàu, trị giá hàng bao nhiêu tỉ,
ban kiến thiết cơ bản được coi như một vương quốc riêng biệt không dính dáng đến
hoạt động sản xuất sôi động hàng ngày của xí nghiệp. Bởi vậy nên phòng làm việc
của ban cũng rất riêng biệt, rộng rãi, có một phòng lớn thênh thang, một phòng
nhỏ cho trưởng ban và một nhà tắm, tất cả đều nằm trong phòng lớn, biệt lập ở một
góc xí nghiệp. Ngày xưa ở đây luôn có những chiếc ô tô đỗ ngoài cửa, bóng dáng
cao lớn của các chuyên gia nước ngoài, nam có nữ có, tư bản có, xã hội chủ
nghĩa có, và với bất cứ chuyên gia nào khi đã đến làm việc ít lâu cũng đều có cảm
tình với cái Nhạn ngày đó còn chưa lấy chồng, nhỏ nhắn xinh xắn lúc nào cũng má
hồng mơn mởn và được nó dạy những tiếng Việt đầu tiên:
- Chào đồng chí.
- Chào ẳồồng chí.
- Tên tôi là Hâm. Đồng chí Hâm.
- Tên tôi là Hăm. Đồồng chí Hăm.
Mấy ngày liền ông chuyên gia mắt xanh tóc bạch kim cao hai
mét com lê ca vát giày da bóng lộn nhận mình là Hâm và cúi đầu về phía Nhạn một
cách rất ga lăng khi Nhạn chào đồng chí Hâm trong tiếng cười rộ lên của mọi người.
Nhưng hẳn là thấy người ta cười nhiều quá nên vị chuyên gia rất lịch sự và cởi
mở kia đã hỏi phiên dịch hoặc tra từ điển và sáng hôm sau khi Nhạn ửng hồng đôi
má tươi cười chào đồng chí Hâm thì "đồng chí Hâm" lắc đầu
quầy quậy: Không. Tôi không phải Hăm. Đồồng chí là Hăm...
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, ô tô không đến nữa,
chuyên gia không đến nữa. Ban kiến thiết cơ bản teo dần và giải tán. Trưởng phó
ban, những kỹ sư công trình, những đội trưởng, những công nhân, đánh máy chuyển
sang những phòng ban khác, những liên doanh với các xí nghiệp bạn, những cửa hàng...
Trưởng ban được xuống tàu đi nước ngoài mấy chuyến rồi về hưu. Phó ban, một kỹ
sư còn trẻ, cao gầy, tóc lúc nào cũng chải mượt, áo sơ mi cho vào trong quần,
thắt ca vát, đi giày da tên là Nhương về làm phó văn phòng. Vì luôn ăn mặc tề
chỉnh, nói năng nhỏ nhẹ nên mọi người gọi là công tử Nhương. Cái Nhạn cũng chuyển
về văn phòng thay bà Ngọc nghỉ hưu. Cả Thám nữa. Thám chuyên trông nom về điện
trong khu cơ quan thay Nhược. Cảnh cũng về văn phòng "đặc trách vấn đề cỏ".
Chỉ còn vài người hoàn toàn làm theo chế độ hợp đồng với xí nghiệp để sửa chữa
nhỏ và thầu các công trình xây dựng bên ngoài, chủ yếu là làm mới hay sửa chữa
nhà ở, bếp núc, làm lại nhà xí thành toa lét cho cán bộ công nhân
viên trong khu tập thể. Việc này đang phát triển. Như một phong trào. Nhà nhà
làm toa lét. Người người làm toa lét. Cố gắng dành dụm làm toa lét. Vay giật
làm toa lét. Khách đến chơi nhà, không khoe gì, dẫn khách ra khoe toa lét. Làm
không hết việc. Thật may!
Thống trị cả một gian buồng rộng thênh thang quá cỡ này là một
anh chàng học vị cao nhất văn phòng công đoàn nhưng lại lép vế nhất: Mẫn. Trần
Minh Mẫn. Ngoài bốn mươi, râu cằm lởm chởm, quần áo bẩn thỉu, Mẫn tốt nghiệp đại
học sư phạm khoa văn và là giáo viên đã hành nghề trên chục năm tận vùng Đông Bắc.
Vợ con ở cả Hải Triều, Mẫn tìm mọi cách xin chuyển, nhưng mãi gần đây mới được
về Liên hiệp công đoàn thành phố, rồi được về xí nghiệp, phụ trách bổ túc văn
hóa, tối dạy ngày nghỉ. Mẫn thỉnh thoảng có đến xí nghiệp họp hành gì đấy, rồi
được giao thêm nhiệm vụ đi lấy báo, phần việc của "Xuân lồi", để
"Xuân lồi" tập trung vào giải bóng chuyền... Rồi khi tinh giảm biên
chế, chuyển cô Phòng chuyên trông coi thư viện sang văn thư, Mẫn kiêm luôn thư
viện, thành tích này được công đoàn báo cáo lên trên đã tinh giảm hai mươi phần
trăm biên chế. Mà đúng là như thế. Một con số to đùng!
Thật may cho Mẫn, vì chỉ ít ngày sau trường bổ túc văn hóa
liên xí nghiệp giải tán chứ không Mẫn lâm vào cảnh bơ vơ, không việc.
Hàng ngày Mẫn phải đem báo đến các phòng ban, riêng tổng và
phó tổng thì giao cả cho văn phòng để văn phòng chuyển. Vì vậy mỗi khi đồng chí
chủ tịch công đoàn lôi Mẫn từ thư viện sang bên xí nghiệp có việc gì đấy, Mẫn lẽo
đẽo theo sau, trên đường đi gặp tổng giám đốc đều được tổng giám đốc cúi chào Mẫn
một cách rất lịch sự vì rất ít khi đồng chí gặp Mẫn. Cử chỉ ấy được Toàn giải
thích như sau:
- Chỉ thằng Mẫn là sướng thôi. Năm năm ở xí nghiệp rồi mà tổng
giám đốc vẫn tưởng là người Liên đoàn lao động thành phố xuống làm việc. Gặp là
cúi rạp đầu chào.
Mẫn cười rinh rích, nghi nghi hoặc hoặc không biết có đúng thế
không? Nhưng từ ấy, Mẫn tự hạn chế mình, ít xuất hiện ở khu vực cơ quan và cũng
từ ấy cửa phòng thư viện thường khóa luôn, chẳng biết Mẫn đi đâu.
Thế rồi một hôm Mẫn bảo Toàn, có cả bọn cái Nhạn cô Phòng
"ông Thám", vẻ mặt Mẫn đau đớn:
- Lộ hết rồi anh Toàn ơi! Sếp biết em là người xí nghiệp rồi.
Gặp em trên đường ra căng tin, sếp gọi lại quạt cho em một trận. Thư viện
của anh tụ tập toàn những người rách việc! Đọc báo suốt ngày! Phòng ban nào
cũng có báo rồi! Chỗ đó chỉ cho anh em dưới tàu ngồi đọc báo thôi! Còn phòng
ban tuyệt đối không! Mượn sách xong thì về!
Mẫn vừa nói xong, cô Phòng lập tức đứng lên bắt chước sếp,
đưa bàn tay phải ấp vào ngực trái, cúi gập người chào Mẫn. Mẫn bảo Phòng, vẻ
đau đớn:
- Bồ ơi! Thế là bồ với anh ít được gặp nhau rồi. Bồ có muốn
anh sang cũng không được nữa rồi.
Phòng làm bộ nũng nịu, ngúng nguẩy lắc lắc cái đầu:
- Em ứ sợ. Em nhớ anh, em cứ sang với anh. Em ứ sợ.
Mẫn giãy nảy:
- Đừng. Em ứ sợ là bỏ mẹ anh đấy!
Lại cười. Bỗng Mẫn tươi tỉnh hẳn lên:
- Nhưng mà sếp sắp đi rồi. Sếp chuyển về bộ. Sếp khác về, lại
phải năm năm sau mới biết anh không phải là người của Liên đoàn lao động bồ ạ.
Thì lúc ấy sếp mới cũng lại sắp đi rồi. Ráng chịu ít ngày thôi. Lại tha hồ nhìn
nhau.
Đúng là gần đây có tin sếp sắp chuyển thật. Tin đồn thôi.
Nhưng không có lửa sao có khói. Người ta nói sếp bị nhiều đối thủ công kích dữ
lắm. Nào là từ ngày ông Thắng về, đoàn tàu khai thác cá gần như không hoạt động,
càng khai thác càng lỗ. Nào là các tàu vận tải nước ngoài đi buôn là chủ yếu.
Tàu Hạ Long 03 chở hàng thuê cho ông Robert Lee từ Hong Kong về Trung Quốc, anh
em thuyền viên buôn hàng lậu, bị Trung Quốc bắt giữ mất cả tàu. Toàn bộ thiết bị
dưới nước ngày một xuống cấp. Còn về chuyện khoán sản xuất kinh doanh cho các
đơn vị trên bờ, chánh văn phòng Điều đi đâu cũng bô bô:
- Đéo biết còn đỡ tức. Càng biết càng điên! Vụ cá ngừ đấy.
Đưa cho ông Tạp xưởng lạnh 150 triệu, mua mười tám nghìn một cân, xí nghiệp giả
hai mươi hai không bán, bán cho thằng Mềm mười chín, mà đéo phải mười chín đâu.
Tôi bảo thanh tra mày cần xe ô tô lên Bắc Thái, tao cho. Chuyến này phải làm
cho ra nhẽ. Số cá thằng cha Tạp bán cho Bắc Thái bao nhiêu, lãi nộp Liên hợp hết.
Thế là phải lòi ra. Chỉ có mỗi mình ông Tạp ăn. Địt mẹ thằng Mềm, cái thằng ngồi
nhà cân. Đi đái thì ngã ở nhà đái. Bây giờ cũng xe cúp vè vè. Các ông đến nhà
thằng Mềm chưa nhỉ. Xa lông sang hơn xa lông này. Tủ lạnh cực điệu. Dàn năm thớt.
Như ông hoàng. Lại còn thằng Tiêu. Tôi vừa nẹt: Ông là tổ trưởng thu mua. Tổng
giám đốc trực tiếp chỉ đạo. Ông bật đèn xanh cho chúng nó làm trái quy định của
xí nghiệp. Thằng này khôn lắm. Tổng giám đốc bảo gì cũng vâng. Vâng để đấy. Về
làm nhảm. Năm sáu cái cửa hàng nuôi nó. Béo trắng ra. Cửa hàng con Chưng vốn
chín tháng đầu năm một tỉ mốt. Thanh tra lãi mười tám triệu, trừ chi phí chín
triệu còn lãi ròng chín triệu. Bây giờ khách hàng còn nợ 156 triệu, nó nợ xí
nghiệp 68 triệu. Tóm lại là âm. Tỉ mốt gửi ngân hàng cứ cho lãi bốn phần trăm một
tháng thôi 1 ,
chín tháng là bao nhiêu? Bao nhiêu lần chín triệu? Lại còn cái thằng Bính lạnh,
phó giám đốc gì mà trông như thằng ăn mày. Nó bảo chỉ có bảy mươi ki lô cá xuất
khẩu. Tôi bảo đéo được. Tổng giám đốc cho anh năm mươi triệu mua cá xuất khẩu
sao anh lại mua cá kém phẩm chất. Mà ai xác nhận cho anh là chỉ có bảy mươi ki
lô cá xuất khẩu. Địt mẹ nói thế là không xong đâu.
Không chỉ vì những chuyện làm ăn nát tươm ra, anh em nói sếp
Thắng có rất nhiều đối thủ vì dù sao cái Biển Đông phí cơm (anh em gọi
chệch chữ BienDongFiscom) này vẫn là một chỗ thơm, hái ra tiền, một trong những
đơn vị còn có thể cựa quậy được, làm ăn được. Những đối thủ có sừng có mỏ sẵn
sàng hạ gục sếp, cho dù sếp có một ô dù vững chãi: Đại ca. Nhưng Đại ca hình
như cũng đang gay. Cái tin Đại ca đang gay nghe chừng mơ hồ lắm. Khó tin. Đại
ca ở nấc thang vòi vọi làm sao gay được. Những người hay bàn tán thường có những
dẫn chứng rất độc, đưa ra những chi tiết không ai biết, và rất thú vị khi người
nghe ngồi im phăng phắc hoặc xuýt xoa:
- Đại ca của sếp có vấn đề lý lịch. Trong kháng chiến chống
Pháp, bố đại ca là cai thầu chuyên xây boong ke, lô cốt cho quân đội Pháp. Năm
năm tư hòa bình lập lại bố đại ca đi Nam, đại ca ghi trong lí lịch là bố mất
tích. Bây giờ người ta mới phát hiện ra.
- Khuya rồi. Việc ấy khuya rồi. Ông không biết rồi. Lạc hậu rồi.
Công khai lâu rồi. Mới cách đây mấy tháng bố đại ca mất. Từng đoàn từng lũ rặt
các kễnh bay vào
thành phố Hồ Chí Minh viếng và đưa tang. Mấy trăm người. Một
bao tải phong bì đem đi đốt. Ông thử tính xem mỗi phong bì bao nhiêu triệu?
- Không có tiền Việt đâu. Đô. Toàn đô.
- Bố đại ca mới chết à? Thật không?
- Sao lại không thật. Chính ông chú tôi làm đại sứ mới về Hà
Nội cũng vào thành phố Hồ Chí Minh viếng mà.
- Đấy rồi ông xem. Đại ca cao vòi vọi thì lại có những đối thủ
cao vòi vọi. Những bậc đại cao thủ không kém đại ca. Các ông cứ để ý xem. Dạo
này sếp Thắng hay cáu gắt, rất khó tính.
Những chuyện ấy đến tai Toàn. Toàn nghĩ điều ấy chẳng liên
can gì đến mình. Sếp nào cũng vậy. Cò con như phó văn phòng công tử Nhương đây
thôi. Thanh tra đã định thanh tra quà Tết vừa rồi. Nhưng Điều gạt đi. Điều kể
cho Toàn nghe tất cả:
- Tết vừa rồi ông biết đấy. Mình vào thành phố Hồ Chí Minh ăn
Tết với con gái. Giao cho công tử Nhương trực. Thế đéo nào mà ông ấy báo cáo chỉ
có bảy đoàn đến chúc tết, chỉ có bảy túi quà có vô lý không? Xí nghiệp đầu
ngành. Vào Nam ra Bắc. Đi nước ngoài quanh năm. Thanh tra nó bảo ông Nhương với
bà Nga làm giàu cái tết này. Năm chục đoàn là ít. Nó định thanh tra. Tôi bảo
thôi, cho qua. Thiên hạ kiếm nhiều chứ nó kiếm mấy. Đấy là nó chưa biết cái vụ
mua sắm bàn tủ cho nhà khách. Ông Nhương với bà Nga chụm đầu tính toán suốt một
tuần mới xong. Có gì mà phải tính lâu thế. Mua thì lấy hóa đơn rồi thanh toán
mà phải cộng cộng trừ trừ cả tuần lễ. Tha cho thì được đấy thôi. Với lại chúng
nó ăn nhiều chứ hai người ấy ăn là mấy...
Đúng là hai người ấy ăn là mấy. Nhưng đấy cũng là một cửa. Một
cửa làm ăn. Một cửa để sống. Có lẽ vì cái cửa của mình hẹp quá so với các trưởng
phòng và cũng có thể do một ức chế nào đấy lặp đi lặp lại quá nhiều lần nên trước
tết, nhận được công văn trên gửi về nghiêm cấm các đơn vị lấy tiền quỹ mua quà
biếu cấp trên. Điều đọc công văn, hầm hầm nét mặt:
- Công văn nhắc nhở đây. Bố biết rồi. Không phải nhắc. Giả vờ
giỏi đến thế là cùng. Năm nào cũng có công văn cấm. Năm nào cũng biếu. Năm nào
cũng nhận. Rồi lại có chỉ thị cấm. Tài thật. Giả vờ siêu hạng. Giả vờ mà như
không giả vờ gì cả. Thế mới thánh.
Rồi đọc to một câu đinh, một câu chốt trong công văn:
- "Nghiêm cấm các đơn vị không được lấy tiền quỹ
mua quà biếu cấp trên".
Và vừa như nói một mình vừa như nói với người vô hình nào đó
đang đứng trước mặt:
- Bố không lấy tiền quỹ mua quà biếu. Mà bố cho thẳng tiền quỹ
vào phong bì đem biếu. Bố đéo mua quà. Bố đéo vi phạm. Bố lấy tiền quỹ cho thẳng
vào phong bì.
Điều kể Điều và phó tổng thứ nhất đã bao nhiêu lần đem phong
bì đi biếu như thế nào: Cho phong bì vào bó hoa. Đến nhà các sếp là chỉ có tặng
hoa. Thế thôi. Bà vợ ông chủ tịch đỡ bó hoa còn cười nói với hai người:
- Đội hình các bác đẹp quá. Hai bác bác nào cũng đẹp.
Điều cười:
- Dạ. Báo cáo thủ trưởng chúng tôi là đội hình mẫu đấy ạ. Chứ
anh em thì cũng gầy còm, bình thường thôi.
Điều giải thích cho Toàn: Mồng một tháng năm, mồng hai tháng
chín, tết tây tết ta, năm nào cũng biếu nên thân quen, tôi cứ bỗ bã như thế cho
thân mật. Con béc giê trông thấy bọn tôi còn vẫy đuôi mừng cơ mà! Thân quen đến
mức thấy phòng khách đông người là cùng chủ nhà đem thẳng hoa vào bếp. Chứ đứng
chờ à? Có đến đêm. Đông lắm. Xếp hàng. Nói xếp hàng thì không đúng, nhưng mặc
nhiên thống nhất với nhau thằng đến sau chờ thằng đến trước ra rồi mới vào. Cứ
tản ở các ngã ba, ngã tư gần đấy. Chờ. Kín nền nhà bếp toàn hoa. Ông tính xem
bao nhiêu bó. Bao nhiêu cái phong bì?
Lại văng tục:
- Địt mẹ. Mình đi biếu thành phố chẳng xơ múi gì. Thằng chánh
văn phòng ủy ban đi biếu các bố nó ở Hà Nội vớ bẫm. Phong bì hai nghìn đô nó bớt
mẹ nó năm trăm. Ba nghìn nó bớt hẳn một nghìn. Chả lẽ mang danh các kễnh lại điện
xuống hỏi à? Mà các kễnh ông đâu nhận. Chỉ các kễnh bà thôi. Mỗi lần đi, đâu ít
phong bì. Một năm bao lần đi. Mà nó làm thế mấy chục năm rồi. Cũng cài phong bì
vào hoa. Cũng quen hết béc giê. Ông tính xem nó có bao nhiêu tiền? Thằng con
giai nó mới mua cái Mercedes mới cứng. Cũng cáo lắm. Về hưu mới cho con mua xe,
xây nhà. Mình chén nước cũng chẳng được. Với lại thời gian đâu mà uống nước. Mà
uống làm đéo gì. Vào nhanh còn ra để thằng khác vào chứ.
Rồi như sực nhớ ra một chuyện, Điều cười lớn:
- Hôm nọ đang ngồi uống bia ở cái quán gần nhà sếp tổng với
Quân rỗ, thấy thằng cha Nguyên thuyền trưởng tàu 19 mới về, phóng xe máy đèo một
túi to đi qua rồi quành vào nhà sếp. Thế là chờ lúc cha Nguyên vừa xuống, mình ập
vào luôn. Sếp ông vội đút cái phong bì cầm trên tay vào túi quần, sếp bà đang
giở các thứ trong gói ra xa lông. Thấy mình đến, Hoàng Quốc Thắng bảo vợ: Kiếm
cái túi san cho chú Điều tí quà. Thế là trấn được của sếp. Sướng!
Toàn bật cười:
- Được những gì?
- Mấy thứ vớ vẩn thôi. Chai Remy, gói bánh, hộp sâm, cây ba số.
Mình định bảo: Em không nhận những thứ này. Chỉ xin sếp một tờ trong cái phong
bì ở túi quần sếp thôi ạ.
Rồi tiếp sau một lúc:
- Lão ấy cũng ngán tôi lắm. Định thay mấy lần nhưng không tìm
được người. Với lại cái chức chánh văn phòng này chẳng đứa nào thiết. Lại đầu
sai, bổng lộc chẳng đến lân...
Nói vậy thôi, dù sao Điều cũng còn có cửa. Toàn hay Mẫn hay
đông đảo đám nhân viên khác chẳng có cửa gì. Toàn thân với Mẫn có lẽ ở chỗ Mẫn
chẳng có cửa gì mà vẫn cứ tươi hơn hớn. Ớ văn phòng công đoàn Toàn thân với hai
người: Mẫn và phó chủ tịch công đoàn Trịnh Vân. Vân cũng trạc tuổi Mẫn, ngoài bốn
mươi. Đã lăn lộn ở chiến trường "Bê ba", ăn cả lá bèo tây non và chôn
không biết bao nhiêu đồng đội. Đã làm thủy thủ, làm thuyền phó, có biết bao
nhiêu hiểu biết về ngành nghề "về cái khốn nạn của nghề đánh cá". Câu
chuyện làm Toàn xúc động nhất là chuyện Vân hành quân vào Nam. Đó là những ngày
ngừng bắn trong dịp Tết nguyên đán. Khi sắp vượt sông, anh em tân binh móc túi
ném hết tiền lại cho đám thanh niên xung phong hai bên đường. Những đồng bạc cụ
Hồ, những tờ "cụ mượt" bay như cánh bướm. Những đoàn xe sang sông với
tất cả khí thế hào hùng nô nức như đi trẩy hội. Vì như chính ủy đã nói: Phải
ngày đêm hành quân để kịp tới chiến trường trước khi hòa bình, trước khi chiến
thắng. Vào chậm, chỉ còn mỗi việc thu nhặt ống bơ gỉ, tháo gỡ dây thép gai
thôi. Chẳng còn địch đâu mà đánh. Xe trước hát vang: Giải phóng miền Nam
chúng ta thề quyết tiến bước. Xe thứ hai tiếp theo hào hùng: Diệt đế
quốc Mỹ phá tan bè lũ bán nước. Xe thứ ba tiếp lời: Ôi xương tan máu
rơi, lòng hận thù ngút trời... Cứ như vậy hành quân. Quang cảnh chiến trường
ác liệt hiện rõ dần theo từng cung đường, từng cánh rừng dù vẫn bặt im tiếng
súng. Những hố bom sâu hoắm. Những cánh rừng bị băm nát. Những cô thanh niên
xung phong xanh xao, khô xác, áo quần tả tơi dừng mọi công việc nhìn những
chàng tân binh tươi trẻ, hồng hào non mỡ, mắt sáng lên không giấu nỗi thèm
khát, giơ tay làm những cử chỉ tục tĩu. Có cô còn lấy xẻng úp vào chỗ ấy. Một
chàng tân binh ngỗ ngược bẻ một cành phi lao chọc mạnh vào giữa hai đùi một cô.
Cô thanh niên xung phong kêu lên, ngã vật xuống đường. Người chỉ huy đơn vị
thanh niên xung phong, một nam thanh niên, từ đâu chạy ra, súng lục nhăm nhăm
giang tay chặn đầu ô tô, hét lên đầy căm phẫn:
- Tất cả dừng lại! Lập biên bản!
Cậu tân binh dại dột nọ mặt tái mét. Đoàn xe buộc phải dừng
bánh. Thiếu tá chỉ huy bước rất nhanh lên đầu hàng quân, hạ lệnh đanh thép:
- Toàn đơn vị tiếp tục hành quân vào Nam! Tiến! Ai cản trở, bắn
bỏ!
Người đi. Xe đi. Chẳng ai dám cản trở. Nhưng không một tiếng
nói. Không một tiếng cười. Im lặng nặng nề. Càng im lặng hơn, nặng nề hơn khi
đoàn quân nghỉ giải lao gần một nghĩa trang. Nghĩa trang đầu tiên trên dải Trường
Sơn sắt thép và máu lửa. Như có một lực hấp dẫn, tất cả lính tráng tạt vào.
Toàn tên con gái. Toàn lứa tuổi mười bảy, mười tám. Gần như cùng một năm sinh.
Hồng, Nụ, Lan, Liên, Hà, Thương, Thoa, Hương, Hiền, Hạnh, Bấm, Mơ, Nguyệt, Nga,
Ngân, Bích, Thúy, Vân, Tuyết, Trang, Hòa, Bưởi, Ngọt... Những tên dịu dàng mềm
mại chỉ muốn được gọi lên, được trìu mến vuốt ve. Những tên ghi trên mộ chí
ngút tầm con mắt mà nhìn nó ai cũng nghĩ đến một lớp thiếu nữ tuổi thanh xuân
phơi phới từ khắp mọi miền đất nước, nằm bên dưới đang rữa nát vĩnh viễn lặng
câm như đất...
Phải chăng em cô gái mở đường
Không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát
Ơi những cô con gái đang ngày đêm mở đường
Hỏi em bao nhiêu tuổi mà sức em phi thường
Em đi lên rừng cây xanh mở lối
Em đi lên núi núi phải cúi đầu...
Tiếng hát trên loa truyền thanh thời còn cắp sách đến trường
vang lên bên tai Vân. Tiếng hát hào hùng thúc giục, rộn rã, tươi vui phơi phới...
- Bài hát thật hay. Có sức động viên rất lớn. Khi còn ở nhà
em rất thích bài hát này. Nhưng lúc ấy em chỉ ao ước giá ông nhạc sĩ sáng tác
bài hát ấy có mặt cùng với chúng em ở đó. Yêu biết bao cô gái vui ngày đêm
mở đường. Rừng bao hoa thắm nở chẳng có hoa nào bằng. Em đi san rừng em đi bạt
núi. Em như con suối nước chảy không ngừng...
Vân vừa nói vừa nhăn mặt, lắc đầu như mếu:
- Bác đã lăn lộn Trường Sơn mãi, còn lạ gì nữa. Chiến tranh
có phải hội hè đâu. Nhìn cái nghĩa trang đầu tiên ấy, tất cả chúng em ai cũng
chùng xuống, nghĩ về người, nghĩ về mình, nghĩ đến mẹ già, đến những đứa em thiếu
thốn đủ thứ ở quê nhà. Trên đường hành quân còn không biết bao nhiêu nghĩa
trang nữa.
Toàn đánh giá cao sự hiểu biết xã hội và nhất là sự trung thực
của Vân trong đối xử với mọi người, trong sự đánh giá xí nghiệp và xã hội. Vân
cũng kính trọng Toàn ở những điểm ấy và còn ở tuổi tác nữa. Mấy năm vừa rồi Vân
cố cày lấy cái bằng kinh tế. Toàn động viên Vân:
- Còn ít tuổi như chú tội gì ngồi ở đây. Đói lắm! Chỉ có lỡ cỡ
quá tuổi như mình mới chịu ngồi đây thúc thủ Hạ Bì thôi.
- Em cũng cố đây. Làm cái nghề phong trào của anh em mình
không ra làm sao. Tháng sau thi xong. Cuối năm nhận bằng là em phới. Em đã ướm
các sếp rồi. Các sếp đồng ý cả.
Toàn rất quý Vân. Có lẽ Vân là người tri kỷ duy nhất trong xí
nghiệp. Vân biết rất nhiều chuyện. Thuyên chuyển, đề bạt, dây nhợ, mâu thuẫn,
ai núp dưới bóng cây Kơ nia của ai. Vân bảo:
- Mau mau tìm đường thôi anh ạ. Chúng nó làm ăn tơi tới, xây
nhà đi xe máy, mình cứ thế này chết cả!
Thỉnh thoảng trong những khi lang thang vô mục đích, cốt để
tránh xa cái bàn hộp phủ tấm kính năm ly bóng loáng kia ít phút, Toàn lại rẽ
vào phòng Vân. Ây là những lúc chỉ có một mình Vân ngồi với quyển sách học tiếng
Anh hay đang cày một báo cáo nào đó cho chủ tịch công đoàn, dù đang làm gì Vân
cũng dừng công việc lại, đổ bã, tráng ấm chén, pha ấm trà mới.
Có khi chẳng nói chuyện gì, chỉ nhìn nhau lắc đầu rồi cùng cười.
Nụ cười đồng điệu hài hước nhưng ra nước mắt. Toàn nhìn hai cái bàn không người
bên cạnh. Hiểu ý, Vân nói:
- Đi rồi. Anh lên liên đoàn. Chị xuống cơ sở.
Thế là Toàn có thể yên tâm ngồi đấy. Anh đây là Xuân trố hay
Xuân lồi cũng thế, người đang hy vọng được là cán bộ kế cận. Chị đây là bà
Phương, năm năm nay bà vẫn năm mươi ba tuổi nên gọi là đứng tuổi, và
vẫn còn đang chuẩn bị về hưu, vẫn tuyên bố với Vân: "Hai năm nữa về hưu.
Đúng tuổi là về. Nhường cho lớp trẻ. Một ngày tớ cũng không ở lại".
Chú thích:
1. |
Trong những ngày lạm phát đại phi mã lên tới 3 con số những
năm 90 thế kỷ trước, ngân hàng nâng cao lãi xuất để’ thu về tiền mặt. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét