Chủ Nhật, 26 tháng 9, 2021

Biển và chim bói cá 2

Biển và chim bói cá 2

VI

Rượu cứ rót. Rượu thuốc ngăm ngăm nhưng cũng bừng bừng. Món thịt quay mềm, bì giòn tan. Khi chị Bấm mặt đỏ ửng bưng đĩa rau muống xào vào, Mây xúc động rưng rưng:

- Mình ngồi đây, uống với anh em tôi cho vui.

Quân cũng chèo kéo nhưng chị Bấm nhất định không ngồi, chị bảo còn phải nấu cơm trưa, hai thằng nhỏ sắp về rồi. Mây nhìn dáng đi ra đi vào tất bật của vợ mà thương quá:

- Bà ấy lấy tôi toàn là vất vả. Cái tivi cũng mới có tháng trước. Mình cũng chẳng có tiền mua. Một thằng lính của mình ngày trước đi tàu nước ngoài cho, giả tiền không lấy. Cũng chẳng riêng gì mình. Cả xóm này trước đây ai có tivi ngoài ông Quán Mèo. Cứ tối cả xóm đổ xô đến nhà Quán Mèo. Chỉ vài người lớn dám vào nhà nó. Còn toàn trẻ con. Cứ đứng cửa. Nó phải ra mời vào.

Chè nước. Lại cả thuốc lá nữa. Bọn này không hút. Chỉ hút thuốc lào. Xì bẩn cả nền đá hoa nhà nó. Về sau dáng chừng cu cậu sợ bẩn. Lại mất thời gian, mất tự do nữa chứ. Thế là sắp bảy giờ nó đã đem cái ghế kê giữa ngõ, đặt tivi lên, câu điện ra, rồi khóa cửa đi chơi. Trẻ con thì chưa Bông hoa nhỏ 1 đã ngồi dài ra cả rồi. Tôi chỉ nghe thời sự với cải lương. Bà vợ tôi thì phim. Bây giờ nhà nào cũng có tivi mới hết cảnh ấy. Tôi là thằng có tivi sau cùng. Một hôm thằng Ân đến chơi. Nó cho mấy trăm với chai rượu Ông cụ. Nó bảo nhà anh chưa có tivi à? Thế là nó cho một cái. Từ ngày có tivi vợ con không phải đi xem nhờ nữa. Cám ơn thằng Ân quá.

Rượu cứ rót. Rượu thuốc cũng say. Mây gục đầu xuống bàn. Một lúc sau ngẩng lên, chém mạnh tay vào mặt bàn, rồi cất giọng buồn rầu:

- Giám đốc không hiểu tôi.

Quân cười:

- Giám đốc hiểu đồng hương quá rõ nên đồng hương mới thế này đồng hương ạ!

Rồi nhìn ra cửa ngó trước ngó sau, thì thầm vào tai Mây:

- Giám đốc biết cả chuyện ông nhìn thấy giám đốc ngồi như Tây với cái Hoa đấy.

Mây giật thót, tỉnh hẳn rượu:

- Chết mẹ. Thật không? Ai nói ông biết?

- Ông Nguyên chứ còn ai. Chính ông Nguyên thuyền trưởng tàu 19 chứ còn ai.

° ° °

Vụng Ngọc bốn chung quanh là núi đá. ơ Vụng Ngọc không nhìn thấy chân trời. Cửa vào rộng, trông về hướng nam. Đứng chắn ở cửa là một hòn núi đá đơn độc giống một chiếc hài nằm trên sóng vỗ. Bác Sĩ kể cho tôi nghe sự tích hòn núi đó. Nó tên là Núi Hài. Có một hôm các nàng tiên trên trời rủ nhau xuống biển tắm. Đã đến giờ phải về nhưng một cô tiên còn mải mê vui đùa bơi lội nên lên bờ sau cùng. Khi tất cả đã bay về trời, cô tiên này mới mặc xong quần áo và xỏ hài bay lên. Vừa bay thì một chiếc hài rơi xuống biển. Đã hết giờ, cô không dám quay trở lại nhặt hài. Chiếc hài đó là ngọn Núi Hài chơ vơ giữa biển, chắn sóng cho Vụng Ngọc. Từ trong vụng nhìn ra chẳng thấy chân trời đâu, chỉ có sóng biển xanh đập vào vách đá Núi Hài trắng xóa. Và sóng xô vào vách núi cửa vụng, dựng đứng, bắn tóe những bọt nước. Trong vụng rất nhiều tàu nhiều thuyền. Những tàu thuyền đánh cá tôm quanh đây đã tập trung cả ở vụng Ngọc. Biển động. Hôm qua sóng êm biển êm là thế mà hôm nay biển động. Đúng như bác Sĩ chú Hồng nói. Có những con tàu sơn xám cũ kỹ. Những con tàu như tàu của bố tôi nhưng không có càng xòe ra hai bên. Họ không đánh tôm. Có những con tàu rất to, sơn đỏ, cần cẩu như một cái cổng chào. Tàu nào cũng có những chiếc thuyền nan dập dềnh bên cạnh. Trên thuyền phần lớn là phụ nữ. Đó là những thuyền đi bản hoa quả, đi mua cả như hai chiếc thuyền đã đến tàu của bố tôi. Trong vụng còn có một loại thuyền nan nữa, loại thuyền không đi đổi hoa quả, mua cả, mà chuyên chở những người dưới tàu, từ tàu vào bờ, hoặc từ tàu này sang tàu khảc. Vụng rất rộng và êm ả. Nóng nữa. Ngoài kia gió là thế, sóng là thế mà trong này chỉ lăn tăn. Chú Hồng, bảc Suất, chú Quẹn, chú Đỉnh rủ nhau vào bờ. Thấy vậy tôi cũng đi theo. Tôi muốn biết ở cái bến xa xa với những mải nhà thâm thấp cây cối mọc nhiều kia có những gì. Và đằng sau những mải nhà ấy, đằng sau những cây cối ấy có gì nữa. Cả những ngọn núi đả nhấp nhô xanh đen phía xa. Nếu bây giờ không đi sẽ chẳng bao giờ tôi có dịp đặt chân đến. Thoảng một chút ngần ngừ. Bốn người nhìn nhau dò hỏi. Tôi không hiểu ra sao. Đã định không đi. May quả, chú Hồng cười, gật đầu. Rồi chú vẫy một chiếc thuyền nan. Chúng tôi tụt thang dây xuống thuyền. Cô lải đò quần ảo bạc phếch gầy gò đen nhẻm, tóc xơ xảc im lặng chèo. Chú Hồng bảo tôi:

- Taxi của thủ trưởng đấy mày ạ.

Chiếc "taxi của thủ trưởng" lướt đi khả nhanh, thẳng hướng vào bến. Gió mảt. Chú Quẹn phanh ảo bảo: Xuống đây còn đỡ. Trên quan tài sắt chảy mỡ ra. Thuyền cập bến, tất cả chúng tôi nhảy lên, leo một cái dốc xoai xoải là tới đường cái. Một con đường rải đả, phía vụng trổng nhiều cây còn phía trong là một dãy hàng quản có treo biển: Cà phê giải khảt, hàng cơm, cắt tóc, gội đầu thư giãn,... lèo tèo nhưng nó làm tôi ngạc nhiên, không ngờ ở một vụng hoang vắng ngoài đảo này mà cũng có nhiều hàng quản như vậy.

Cửa hàng nào cũng gọi chúng tôi. Gọi đúng tên từng người, tất nhiên là trừ tôi. Chúng tôi vào một quản cà phê giải khảt. Nóng quả. Không có điện không có quạt. Nhưng cốc nào cũng đầy ắp nước đả. Tôi nêu thắc mắc ấy với chú Hồng. Chú Hồng bảo: Mày cứ hỏi vớ vẩn. Đả cảc tàu thiếu gì. Ba cô gái trẻ mặc quần soóc bó từ phía trong bước ra. Em chào anh Suất. Em chào anh Hồng. Em chào anh Đỉnh. Em chào anh Quẹn. Em chào anh... anh gì nhỉ? Anh chưa biết tên. Bảc Suất bảo: Thằng con anh đấy. Nó còn đang đi học. Cả ba cô reo lên. Anh Suất có con lớn thế này rồi cơ à? Đẹp trai quả. Mà không phải rồi. Không được nói dối. Anh Suất làm gì có con trai. Bốn vịt giời chứ làm gì có con trai. Một cô vò đầu bảc Suất: Nói dối ai chứ nói dối chúng em sao được. Tôi xấu hổ quả, không dảm nhìn ai, lại càng không dảm nhìn cảc cô. Nhất là khi cảc cô vây quanh năm chúng tôi. Những chiếc ảo chẽn như nhô ra, những đôi chân trần cứ sảng lóa ngay trước mắt tôi. Và mùi quần ảo, son phấn... Tôi rất hối hận đã lên bến. Tôi đã gây nên một tình huống khó xử và chỉ muốn độn thổ đi cho rồi. Làm một hơi cạn cốc nước mảt, tôi đứng dậy:

- Cảc chú cảc bảc ngổi đây. Chảu đi ra ngoài một lảt. Nửa tiếng nữa chảu quay lại.

Và bỏ ra ngoài. Nửa tiếng. Tại sao tôi lại nói nửa tiếng. Tôi cũng chỉ có thể lang thang ở cái phố đảo này nửa tiếng là cùng. Xem ra cũng chẳng có gì. Với lại hình như nửa tiếng là thời gian cần thiết tôi vắng mặt ở cái quản cà phê giải khát ấy. Tôi đi mà không biết mình đi đâu. Đầu tôi vảng ù. Ấn tượng về các cô gái trẻ (chắc chỉ hơn tôi vài tuổi và không cao bằng tôi) vây quanh, mùi son phấn vừa lạ vừa thơm của họ như còn quanh quẩn bên tôi, bám vào người tôi, nói với tôi về một thế giới tôi chưa hề biết. Thế giới ấy đã gần tôi lắm. Tôi đã ngửi thấy hơi của nó. Thế giới ấy đang diễn ra trong quán cà phê giải khát tôi vừa bước ra. Tôi vừa đi vừa nghĩ trong mùi nước mắm ngào ngạt, mùi cá phơi được nắng thì có tiếng gọi tên tôi. Tôi quay lại: Chú Hồng. Chú Hồng chạy theo tôi: Thằng cu! Chờ chú. Hai chú cháu đi bên nhau chẳng nói một câu. Tự nhiên tôi đi sát vào chú Hồng vai chạm vai và ngước nhìn chú: Tôi đứng đến tai chú. Chú chẳng cao hơn tôi bao nhiêu. Thế mà mọi người nhìn tôi như một đứa trẻ con. Tôi cũng luôn nghĩ mình là một đứa trẻ con. Chúng tôi đi sâu mãi vào trong đảo. Đường vắt ngang sườn núi. Đi trên đường nhìn xuống thấy một thung lũng lúa đang lên xanh. Nhiều nhà dân mãi xa. Thấy xí nghiệp nước mắm. Thấy một công trường, có cả cần cẩu, xe ô tô và rất đông người làm việc. Chú Hồng bảo:

- Công trường xây dựng khu du lịch.

Tôi nói:

- Chú cháu mình về đi. Trưa rồi.

Tôi muốn nói "quá nửa tiếng rồi" nhưng lại thôi.

° ° °

Bữa rượu đang đến độ, nghĩa là hơi men bắt đầu ngấm, cuộc vui còn nhiều hứa hẹn, rượu còn gần bốn chai, gói thịt quay còn già nửa, món rau muống xào cũng vẫn còn thì Đay, Fa Ra Đay đến. Nhìn dáng người cao lớn, cái lưng cánh phản, khuôn mặt nổi những múi thịt, chiếc cằm lẹm bên dưới cặp môi mỏng dính của Đay, Mây và Quân đều thất vọng. Họ không muốn có ai ngồi vào mâm rượu với họ trong lúc này, lại càng không phải Đay. Dù Quân chưa bao giờ đi cùng tàu với Đay, dù Mây là thuyền trưởng còn Đay là máy trưởng kiêm bí thư chi bộ tàu Mây. Cả xí nghiệp ai chả biết Đay. Đay ngồi chỗ nào là tất cả mọi người ở đấy đều biến thành người nghe, chỉ một mình Đay nói. Bởi Đay luôn đúng, luôn biết tất cả. Không chỉ giỏi lý luận nhất khối tàu, Đay còn là nguồn cung cấp mọi thông tin trên giời dưới biển. Đề tài gì Đay cũng có thế chen vào và trở thành người dẫn dắt câu chuyện. Thậm chí việc khai thác là của thuyền trưởng, nhiều khi Đay cũng nhảy xổ vào góp ý. Mây ao ước có một máy trưởng như Cải bên tàu Bôn. Hơn chục năm làm máy trưởng, Cải chưa một lần chịu gãy chuyến biển. Và lúc nào cũng tận tình làm theo ý đồ khai thác của thuyền trưởng. Đay cũng hăng hái đấy nhưng còn lâu mới được như Cải. Đang mùa cá, mà Đay có công có việc bận ở nhà, y như rằng máy tàu còn nhiều chuyện, chưa thể đi được. Phải ít nhất ba ngày nữa bố ơi. Còn cái ắc đỡ li hợp, bình thường năm ngày, làm ngày làm đêm cũng ba ngày. Khi cái bơm nước làm mát, khi mấy cái răng gạt cáp... Tàu sửa chữa, Đay cứ khoán mặc anh em trên phân xưởng, phóng xe đi đâu miết. Mây đã có lần góp ý với Đay là phải quan tâm đến anh em thợ một chút, đối với lính tráng phải niềm nở ân cần. Nó mượn cờ lê, nó mượn cái ống tuýp để bắt vào cờ lê mình phải lấy cho nó, nó mượn cưa, có ngay. Đay vặc:

- Quan tâm thế nào? Cười à? Chào anh à? Ừ thì cười, chào. Có khi nó còn chửi cho đấy. Trách nhiệm nó sửa thì nó phải sửa.

Mây nhẹ nhàng:

- Trách nhiệm của nó là đúng rồi. Còn vấn đề tình cảm nữa. Tôi nói ví dụ như cái gối đỡ. Đáng lẽ sửa thế này. Nó lại sửa thế này. Bảo nó. Nó bảo tìm tổ trưởng mà nói. Tổ trưởng bảo làm thế tôi làm thế. Tìm được mấy ông tổ trưởng mất nửa ngày. Thế nhưng thông cảm với nó, nó sửa ngay.

Đay xùy một cái rõ dài:

- Ông cứ nịnh chúng nó, chúng nó hư đi. Chúng nó làm thì chúng nó có lương. Cứ đúng nguyên tắc tôi làm.

Thấy Đay, cả hai cùng a lên một tiếng và cùng săm sắn: Ngồi đây. Ngồi đây. Không hẹn mà gặp mới thích. Chị Bấm vội lấy thêm bát đũa. Không khách khí, Đay ngồi xuống mâm ngay:

- Đang thèm rượu, hai hôm nay không có tí gì vào họng. Ừ. Có lẽ mình cũng phải cầm quyển y bạ lên y tế mới được. Sáng kiến của ông Mây hay ông Quân đây.

Chưa bao giờ Mây thấy Đay có khuôn mặt rạng rỡ tươi vui như vậy. Vui từ trong lòng vui ra, một niềm vui không giấu được. Có chuyện gì thế nhỉ? Nhưng thôi, không hỏi. Hãy để Đay tự nói ra. Đặt chén rượu đã uống cạn xuống mâm, Đay ngước cặp mắt sáng ngời nhìn hai người bạn:

- Khốn nạn đã biện cái lễ lên giám đốc xin tranh thủ đi chuyến nữa tăng thêm sản lượng cho xí nghiệp mà không được. Rách quá.

Quân cười:

- Cái lễ của các ông làm ô nhục cả giám đốc ra. Giám đốc đâu nhận cái lễ như vậy. Nhưng mà này tôi hỏi thật nhá. Ông Mây nói ông nhận với giám đốc là có ăn cắp cá, nhưng ông ăn cắp có văn học. Thế là thế nào? Ông nói cái ăn cắp có văn học của ông như thế nào cho tôi nghe.

Tất cả cười. Chị Bấm vừa lấy cái đĩa đặt nắm rau kinh giới mới rửa còn ướt đẫm nước từ sân bước vào cũng không nhịn được cười. Quân tiếp:

- Mà sao ông lại buổi dải thế?

Chị Bấm đỏ rừ mặt vì câu nói tục tĩu của Quân. Chưa trả lời ngay, Đay làm tiếp một chén rượu nữa rồi nhăn mặt:

- Tôi không thích món rượu thuốc này. Bí quá phải uống thôi. Còn cái ăn cắp có văn học là như thế này: Đại loại như bảo thằng cấp dưỡng chiều nay anh không ăn cơm tàu, làm cho anh mấy khúc cá ngon anh mang lên phố ăn trên ấy. Thế là báo cáo hai anh, một chị cá song đầu nó to phía trên bụng thì rỗng, tôi lấy mấy khúc dưới, khúc dưới chứ không phải khúc đuôi, nó đã sỏi vẩy rửa sạch rắc muối đàng hoàng chỉ việc gói ni lông đem đi thôi. Bảo vệ có hỏi cũng cứ nói thế với lại chính sách nào đi bắt cá muối. Cũng có khi bảo thằng thợ máy nhặt mấy con cá ngon sỏi vẩy cẩn thận mổ bụng xắt khúc tinh tươm, làm vài con mực nang to lột mai rữa ráy sạch sẽ cho vào túi xách về.

Tất cả đều công nhận đúng là cách lấy cá của Đay có văn học. Đay trợn mắt:

- Cứ thế cho nó đàng hoàng. Công khai. Không chui lủi giấu giếm. Mình là thằng thủ trưởng. Sao phải chui lủi giấu giếm. Anh em biết nó khinh cho. Như ông Thai thuyền trưởng 401. Mấy thằng thủy thủ, mấy thằng thợ máy đến nhà thủ trưởng chơi, thấy hai con cá hồng dài tổ bố, mỗi con hơn chục cân nằm đoàng đoàng ngay cữa bếp. Thế thì còn nói làm sao ăn làm sao bây giờ. Mình ăn nhưng còn phải nói. Đâu chỉ có ăn. Mình là thằng cán bộ, còn có trách nhiệm nói nữa chứ. Cho nên cứ phải đàng hoàng.

Lại một đòn gì với ông Thai nữa đây. Hẳn ông Thai mới vướng chuyện gì với Đay, nếu không đã chẳng có việc rêu rao hai con cá hồng thế này. Nhưng là chuyện gì? Cũng có thể không có chuyện gì mà chỉ tỏ ra việc gì cũng biết đấy thôi. Quân cười:

- Ông ăn thế còn nói làm sao được? Xấu hổ chết. Chúng nó cười cho.

Đay chìa chén rượu về phía Quân, cười lớn:

- Cạn với ông một chén. Câu hỏi của ông rất thẳng thắn. Tôi cũng xin trả lới thẳng thắn. Phải không biết xấu hổ. Làm gì mà xấu hổ. Cứ nói. Nói hăng. Thì ông Mây đây cũng thế. Ông lên làm thủ trưởng cũng thế.

Ai làm thủ trưởng cũng thế. Chúng nó thừa biết nhiệm vụ mình phải nói thì mình nói. Mình biết nói chẳng ai nghe nhưng cứ nói. Làm thủ trưởng không thể không nói. Nói giữa hội nghị. Lên bục nói. Cho mọi người bên dưới cùng nghe. Không được vấp váp. Biết mình nói một đằng làm một nẻo, nên lại càng phải nhiệt tình. Ông Thắng cũng vậy. Sếp của ông Thắng cũng vậy. Ai cũng thế tuốt. Đâu chỉ mình mình. Nhưng chỉ vài ba người ngồi riêng với nhau tốt nhất là nói thật. Trên dưới đều cùng một hội. Cho nên ông Thắng rất thích tính thẳng thắn của tôi. Tôi lên là pha chè ngay. Ông ấy bảo tôi phê bình ông ấy. Tôi nói thủ trưởng khôn lắm đấy. Ông ấy bảo thế nào là khôn. Tôi bảo phê bình phải đúng lúc đúng chỗ, cũng như thấy tôi, anh hỏi em ăn cơm chưa? Báo cáo anh ăn rồi. Chốc vào anh uống nước nhé. Thế là thằng bé biết có vấn đề gì rồi đây nhưng vẫn đến. Đến mà thoải mái vì anh bảo đến uống nước cơ mà. Chén thứ nhất không nói gì. Chén thứ hai, chén thứ ba xong anh mới bảo sao mày lại nói tao như thế, ô hay ngày nào mày cũng phải nói một câu lung tung à? Sao không góp ý thẳng với anh?

Hình như đoạn này đã là không có thật rồi, bao năm sống với nhau, Mây quá hiểu tính Đay, tuy nhiên anh vẫn hỏi:

- Câu gì? Nhưng mà câu gì? Ông nói ông Thắng câu gì mà ông ấy bảo lung tung?

Đang cười, Đay bỗng thay đổi hẳn nét mặt, vừa quan trọng vừa nghiêm túc:

- Không được. Không nói ra đây được. Dù là các chiến hữu cũng không nói được. Cho qua. Tổng giám đốc lại bảo ngoài điều ấy ra còn gì nữa nào. Cứ nói thẳng đừng loanh quanh, điện cứ chạy thẳng bắt trực tiếp không qua tăng phô biến thế giảm xuống 110 làm gì. Cứ 220 chạy thẳng. Anh cứ nói thế, thẳng cũng có mức độ. Có khi hai trăm hai. Có khi chỉ còn trăm sáu, trăm rưởi. Lại cũng có khi chỉ còn sáu mươi, tám mươi thôi. Chúng tôi như quả trứng trong tay anh. Các anh mở tay thì còn. Nắm tay thì xây xát mà bóp thì vỡ. Các anh hiểu cho thì được. Các anh thành kiến không dùng thì cho chúng tôi đi. Chúng tôi lao động được, gánh gồng được, đi biển được, ở bờ được mà theo con trâu vặt ra vặt vào cày cắt tám cắt bốn cũng được. Thậm chí làm anh cầm bút đề phong bì, dán hồ văn thư cũng được, chẳng mơ ước cao siêu gì. Có thủ trưởng mới mộng cao cục vụ thứ trưởng bộ trưởng, chứ chúng tôi không. Mà mộng ấy của thủ trưởng là có cơ sở. Này nhé phó tiến sĩ ngành mình ít, đảng viên lâu năm ít, thủ trưởng được cả hai. Thủ trưởng lại chỉ có hai đứa con, anh lớn đã đi làm, còn một cháu gái bé thủ trưởng nuôi cháu cũng như nuôi con họa mi thôi, không như anh em chúng tôi vất vả lắm.

Tiếp tục hỏa mù đây. Chắc là có dính dáng đến chuyện xuống tàu vận tải nước ngoài. Nói vậy để tô vẽ cho mình, rằng mình là người xuống tàu ngoại thương khác với mọi người, rằng mình với tổng giám đốc có một quan hệ thân tình, đặc biệt. Quân hỏi một câu mà anh biết sẽ làm cho Đay sướng:

- Thế không đề nghị giám đốc cho xuống tàu đi nước ngoài à?

Đúng là Đay sướng. Khuôn mặt da thiết bì sạm thế mà cứ ngời lên:

- Có đề nghị cũng chẳng được. Cũng chỉ là thử phản ứng sếp thôi. Như thử phản ứng penicillin ấy. Sếp bảo tớ thích tính cậu thẳng. Tôi bảo không, tôi có thủ đoạn đấy. Thủ đoạn kinh tế, thủ đoạn kỹ thuật, thủ đoạn với trên, thủ đoạn với dưới, đủ cả. Thế là thế nào? Thưa anh thủ đoạn kinh tế là tôi phải biết xoay xỏa chứ cứ đợi xí nghiệp thì có khi sặc gạch. Râu con mực mềm luộc ăn giòn thế mà quăng thì vướng lung tung, vướng hết, kéo đổ cả đấy. Tôi không móc ngoặc cho tôi. Tôi móc ngoặc vì xí nghiệp. Thủ đoạn kỹ thuật tôi cũng làm. Còn thủ đoạn với trên là gì? Là thành thật. Khôn ngoan chẳng lọ thật thà. Lòng vả cũng như lòng sung. Tổng giám đốc cũng là người. Với lại giấu sao được tổng giám đốc. Như hôm nọ lên xin tổng giám đốc cho đi chuyến nữa để tăng thêm sản lượng cho liên hợp là không thành thật. Thất bại ngay. Đừng có làm xiếc với lãnh đạo. Lẽ ra phải nói thật: Báo cáo anh nằm bờ lâu ngày khô quá. Khô như mực ống phơi ba nắng giời hanh ấy. Bản thân thế nào chịu cũng được. Còn vợ còn con. Vợ muốn mua cái áo cho con, không có tiền. Bố về không có cá, các con ra đón vẫn chào ba ạ nhưng không được nhiệt tình cho lắm. Cơm không có cá, các chiến sĩ ta uể oải hẳn đi. Cứ nói thế rồi mới nói đến thiết bị máy móc, kết hợp ba lợi ích... Sếp cười rất khoái rồi hỏi còn thủ đoạn với dưới là thế nào? Báo cáo anh cái ấy anh biết quá rõ còn gì nữa. Làm to thủ đoạn to làm nhỏ thủ đoạn nhỏ, tóm lại cũng là sự động viên hứa hẹn vẽ ra một tương lai tươi sáng thôi.

Mây hỏi:

- Ông nói với sếp thế thật à?

Gắp miếng thịt quay cho vào miệng nhai, Đay trừng mắt:

- Còn hơn thế nữa ấy. Nói cả chuyện tôi muốn làm thằng cấp dưỡng tàu. Sếp bảo tại sao. Tôi bảo đấy là người sướng nhất tàu cá. Ngày hai bữa cơm cùng lắm là thêm một bữa mì đều làm trong nhà, mưa không đến mặt nắng không đến đầu. Cái ấy không nói làm gì, trên tàu nhiều người như thế, thuyền trưởng, báo vụ, tổ máy chúng tôi chẳng hạn. Sướng là chỗ khác cơ, thằng cấp dưỡng tàu đứa nào cũng khẳm, thuyền trưởng máy trưởng chống gậy sắt đuổi mòn gậy mà đã kịp nó à, báo cáo thủ trưởng, trước hết gạo em cứ nấu hết tiêu chuẩn bảy lạng ăn hết hay không, mặc, còn thừa em sấy, cho vào máy, sấy nhanh lắm chóng khô lắm, đóng bao mang về nghìn rưỡi một cân cơm khô mà giá gạo này nghìn rưỡi sao được, một chuyến vài bao cơm khô. Rồi đến nước gạo, nước gạo tàu cầm chắc năm trăm một cân các bà ưng ngay, thùng đầy là một tạ đấy thủ trưởng ạ...

Chuyện này có thể thật, Mây cằn nhằn:

- Ông nói thế, gay cho cánh cấp dưỡng rồi.

- Không. Để sếp biết, quan tâm hơn đến thuyền trưởng máy trưởng thôi. Tôi mà nói hết sự thật thì thằng cấp dưỡng chết, thằng cấp dưỡng toi. Nó còn bao nhiêu thứ nữa chứ. Chẳng hạn như cá thu, cá song cứ chặt ra kho, ăn không hết em làm ruốc. Nhiều cá ít cá đêm hôm lưới rách máy hỏng kệ em không biết, cứ hai bữa em làm xong là em phì phèo thuốc lá quần ca dô đánh tú lơ khơ, lại quần ca dô mới chết chứ, nhưng tối kéo lưới em cũng ra nhặt dăm con tôm he, em không ăn mì đêm, em nhặt mấy con cho cháu, thì thằng nào ghen tị với thằng cấp dưỡng về mấy khúc cá thừa mấy con tôm vãi. Ớ biển thế, về bờ thì sao? Sáng sớm ông ấy đã xong xuôi cơm nước rồi, mình ngủ dậy nhìn lên bảng đã thấy cơm trong nồi, cá kho trong chạn, canh chua ở bếp, 3 mâm 4, 1 mâm 3, 1 mâm 2, các đồng chí tự giác lấy, ông ấy biến rồi, một bao lên chợ rồi, vất đi cũng dăm bảy cân, cứ tính mười nghìn một cân thôi, mười nghìn làm sao được, toàn cá ngon rẻ cũng phải mười hai nghìn, đấy là bán buôn cho người ta đấy, đến trưa đang ngủ đã nghe tiếng chặt bồm bộp, bố ấy đã làm cơm chiều rồi lần này không bao nữa mà cặp lồng, cá ngon xắt khúc cho vào cặp lồng thì bao nhiêu, vài cân đấy, mình ngủ dậy đã thấy chữ đề trên bảng mấy mâm bốn mấy mâm ba mâm hai, đấy là tăng hai, tăng ba là chiều tối nấu một cặp lồng cá nữa đem đến mấy bà bán bún riêu, bảo vệ có hỏi cũng chả làm sao, chính sách không đề ra bắt cá chín, chỉ cá sống chứ cá chín thì ai bắt làm gì mấy khúc cá nấu vớ vẩn. Một ngày ông ấy đá ba tăng như vậy là bao nhiêu? Đấy là khi tàu còn bốc cá, bốc cá xong xuôi thì...

Đay buông đũa đứng lên, cao lớn, sù sì khoanh hai tay lễ phép, đầu ngoẹo đi, bắt chước anh cấp dưỡng nào đó, thiểu não:

- Báo cáo anh, em nghỉ bù.

Rồi Đay cười phá lên. Tiếng cười tắt ngay, hai mắt giương tròn:

- Thuyền trưởng máy trưởng đuổi sao kịp nó? Ông có công nhận thằng cấp dưỡng nào cũng khẳm không? Đấy là chưa kể món chả cá không phải xay mà chạy mô tơ cái vẩy cũng rừ.

Đay làm động tác đổ cá từ máy xay ra khay, rưới mỡ vào khay, đút khay vào gầm lò, giơ tay ngang mặt xem đồng hồ rồi rút khay ra, lấy dao xắt khay chả, gói và cắp vào nách. Vở kịch câm ấy Đay biểu diễn rất thành thạo khiến ai nhìn cũng hiểu. Chị Bấm cứ cười rũ ra. Đay hất hàm:

- Một cân chả ai không biết chứ tôi là tôi bán được hai mươi nghìn 2 mà chè chai lông vịt lắm cũng phải bốn cân chứ nó chịu làm một cân à?

Rồi Đay lại tuôn ra một câu ngược lại, đầy bao dung làm tất cả không còn hiểu ra sao nữa:

- Nói đi thì thế. Nhưng nghĩ cho cùng cũng chỉ là gà què ăn quẩn cối xay thôi.

Mọi người không hiểu là đúng thôi. Bởi Đay đang vui. Đay đã nhìn thấy sự đổi đời. Trong lúc hào hứng, hơi men đang bốc, suýt nữa Đay nói ra cái điều Đay đã tự bảo phải giữ kín từ lúc bước chân vào đây: Tổng giám đốc đã hứa sẽ bảo tổ chức cho Đay chụp ảnh làm hộ chiếu vào đợt tới. Mới chỉ là lời nói. Chưa đưa được phong bì. Nên coi như hợp đồng chưa được ký. Đã điều tra: Thông thường là một nghìn đô. Tám trăm đô cho sếp. Hai trăm đô cho trưởng phòng tổ chức. Đay đã định liệu đâu vào đấy. Kể cả câu nói khi đưa phong bì cho sếp cũng đã được chuẩn bị: "Cám ơn anh đã cho em có cơ hội được đổi đời. Bây giờ em chưa xuống tàu, gọi là của ít lòng nhiều, chỉ có tí quà cho cháu. Em hứa sẽ không bao giờ quên ơn anh". Còn trưởng phòng tổ chức là bạn học cùng khóa, đi biển say sóng phải lên bờ, nói thế nào cho thân mật là được.

Chỉ đến khi ấy mới có thể công khai với các chiến hữu, mới nghĩ đến bước thứ hai quan trọng không kém: biên chế dưới tàu Hạ Long 19.

° ° °

Buổi tối ở Vùng Ngọc.

Một mình tôi nằm ngửa trên nóc cabin thượng, nơi tôi đã nằm với bác Sĩ nghe bác kể chuyện cá xà đánh nhau với cá Ông mấy hôm trước. Lúc này tôi muốn nằm một mình. Không muốn có ai ở bên. Điều tôi vẫn nhận thấy ở mọi người dưới tàu từ trước đẽn nay hóa ra chỉ là lớp vỏ ngoài. Mỗi người đều có hai khuôn mặt. Bác Suất, chú Hồng, chú Đỉnh, chú Quẹn, bác Sĩ... không còn là những người như tôi vẫn nghĩ. Còn bố? Cả chú Hùng lùn nữa? Chắc chắn bố cũng có hai khuôn mặt. Như mọi người trên tàu có hai khuôn mặt. Bây giờ mình tin rằng tất cả người lớn đều có hai khuôn mặt.

Tôi cứ nằm ngửa trên tấm chiếu trải ở mặt boong cao nhất của con tàu mà nghĩ ngợi một mình. Nằm đây cũng không nhìn thấy chân trời. Chỉ một bầu trời đầy sao úp xuống. Tiếng sóng trong vịnh êm đềm, có lẽ là từ những chiếc thuyền nan, "những chiếc xe taxi của thủ trưởng’ chở người từ tàu lên bờ, từ bờ về tàu hay từ tàu này sang tàu khác xô vào thân tàu. Vẫn nghe vọng về tiếng ì ầm của biển động ngoài kia. Có tiếng nhạc từ một con tàu nào đó vang đến. Có gió nhưng gió thổi trên cao, không thổi xuống chỗ tôi nằm. Vịnh rất nhiều tàu. Nhiều tàu rất giống nhau, trong bóng đêm nhìn hệt nhau, từ hình dáng, kích thước, đến chiếc cần cẩu chênh chếch, các cửa sổ cabin, nhưng cánh thuyền nan vẫn nhận ra ngay từng con tàu khác nhau, dù không nhìn số hiệu và không bao giờ phải loay hoay tìm gọi. Tôi đang nằm nghe tiếng sóng nhè nhẹ chung quanh thì có tiếng đụng khẽ vào thân tàu. Một chiếc thuyền nan. Và tiếng phụ nữ:

- Anh Sĩ ơi.

Tiếng cô Nguyệt. Cả tàu đang im lặng bỗng nhốn nháo. Tôi nghe thấy cả tiếng bố tôi, tiếng chú Hùng lùn, tiếng bác Suất, bác Sĩ. Nghĩa là cả ban chỉ huy tàu. Và tiếng chú Đỉnh, chú Quẹn. Rồi tôi nghe tiếng máy tàu nổ. Con tàu bỗng rùng rùng như sắp tách bến. Cần cẩu kêu. Tiếng rầm của nắp hầm cá vất xuống mặt boong. Tôi khẽ khàng nhỏm dậy bò ra cạnh boong thượng, sát với đầu cầu thang dốc đứng, nép vào sau chiếc trụ đèn pha phủ vải bạt nhìn xuống boong lải. Gần như cả tàu đang đứng trên boong. Và cô Nguyệt. Ba bốn người nhanh thoăn thoắt biến xuống hầm. Miệng hầm sáng trưng ánh điện. Mười hai lổ tôm được đưa lên. Nước chảy ròng ròng. Trong ảnh sảng hắt lên từ dưới hầm, tôi trông thấy những người trên boong nhanh nhẹn xếp sảu lổ tôm vào trong đụt, lổ nọ chồng lên lổ kia. Cần cẩu quay chênh chếch sang mạn, hạ xuống thuyền. Hai lần như vậy. Tôi không nom rõ thuyền vì nó khuất sau be, chỉ thấy cô Nguyệt nắm thang dây tụt xuống và biến mất trong khoảng tối om. Dù đã chứng kiến chuyện bản cả ban sảng bây giờ tôi vẫn ngạc nhiên. Sao tàu bố tôi có thể bản nhiều thế nhỉ? Cả. Rồi bây giờ lại tôm. Có lẽ cả là sản phẩm phụ bản ban ngày, còn tôm là sản phẩm chính phải cẩn thận hơn chăng? Liệu bố tôi có việc gì không? Tôi biết trên tàu người thuyền trưởng chịu trảch nhiệm về mọi mặt mọi chuyện xảy ra. Tôi biết khi tàu chìm, thuyền trưởng là người cuối cùng rời tàu và tôi rất tự hào về điều ấy. Tôi lo cho bố. Nhưng tôi thấy mọi người trên tàu kể cả bố không có chút gì tỏ ra lo lắng. Ngược lại, vui, phấn khởi. Bây giờ tôi đã hiểu chuyến nào tàu cũng bản cả và cả bản tôm. Không chỉ tàu bố tôi. Cảc tàu khảc cũng vậy. Nhưng chỉ riêng tàu bố tôi không có định mức vì là tàu khảo sảt thăm dò. Nhiều ít, không ai bắt bẻ được. Nhưng như thế còn gì là khảo sảt là thăm dò nữa một khi mọi con số đều đã bị làm sai lệch.

Đám đông trên boong lải đã giải tản rất nhanh cùng với sự biến mất của cô Nguyệt. Mảy tàu tắt. Đèn dưới hầm tắt. Vụng Ngọc trở lại êm đềm. Tôi nhìn ra cửa vụng.

Không trông thấy hòn Núi Hài đâu. Ở chỗ ấy chỉ thấy những mảng lân tinh xô tới, chạy lên cao rồi xòe ra như một bó hoa, rụng xuống lả tả. Cửa vụng cũng vậy. Những làn ảnh sảng xanh dựng đứng đập vào vách đả, đổ gập. Trong tiếng ầm ầm sôi động của biển khơi ngoài kia vẫn nghe rõ tiếng sóng Vụng Ngọc êm ả vỗ bờ. Tôi trở lại chỗ nằm trên boong thượng. Khí trời mát dần. Một mình tôi nằm nhìn sao chi chít trên trời mà thấy vũ trụ thật vô cùng. Lại càng thấy mình bé nhỏ cô đơn. Biết bao điều không dám nói với ai. Tôi nghĩ đến thằng Toán. Nó có cái cằm nhọn, khi cười cằm càng nhọn. Nó ngồi cạnh tôi. Hai đứa chơi với nhau rất thân. Nó không được vào thẳng cấp ba như tôi, vì môn văn của nó chỉ được năm điểm rưỡi. Tiếc cái là các môn khác, nó đều đạt điểm cao. Hôm tôi đi nó buồn buồn:

- Mày sướng thật. Đi chóng lên rồi về nhá. Nhớ có quà cho tao và cho cả em Nhã nữa đấy.

Cái Nhã là người nó yêu. Nó nói với tôi rằng nó yêu cái Nhã ngồi bàn trên. Cái Nhã con ông Thi giáo viên trường cấp ba. Cái Nhã bằng tuổi nó và cũng bằng tuổi tôi, mười sáu. Nó rất thích được tôi chế nó, nói với nó về chuyện cái Nhã. Đại loại như: Bằng tuổi nằm duỗi mà ăn. Hay: Cái Nhã là hoa khôi của trường đấy. Rồi: Mày lấy được cái Nhã thì chẳng lo gì, cứ thế mà lên cấp ba. Rồi vào đại học thôi. Anh chàng cười tít mắt: Tao sẽ viết thư tỏ tình chứ không nói đâu. Mày bảo viết thư hơn hay nói hơn? Tôi cười. Tôi biết thằng này chỉ mạnh miệng thế thôi. Thư không bao giờ viết. Nói cũng không bao giờ. Mà quả vậy.

Trông thấy cái Nhã là anh chàng lại luống cuống lảng đi chỗ khác hoặc giữ tôi ở lại với nó để gặp cái Nhã. Bao giờ cũng là cuộc gặp tay ba. Còn cái Nhã thì chẳng biết gì, vẫn cứ cậu cậu tớ tớ với nó như với tất cả các bạn. Giá có thằng Toán ở đây, tôi sẽ kể cho nó nghe bao nhiêu chuyện. Tôi bỗng thấy mình hiểu biết hơn thằng Toán rất nhiều, "già đời" hơn thằng Toán rất nhiều. Nó vẫn như tôi cách đây mấy ngày. Vẫn sống trong thế giới học trò, thế giới trẻ con. Thế giới này có rất nhiều điều chúng mình không hiểu được đâu Toán ạ. Nhưng rồi chúng mình phải hiểu. Bởi chúng mình sẽ là người lớn và sống trong thế giới ấy.

Đêm đã khuya. Trăng lên tự bao giờ. Ánh trăng gợn gợn trong vụng. Tiếng một con cá quẫy sát tàu. Lại tiếng sóng nhỏ nhẹ êm đềm bốn chung quanh. Và một tiếng sóng khác vẫn êm đềm như thế nhưng to dần, sau đó một tiếng động nhẹ vào thân tàu làm con tàu hơi cựa mình. Có một chiếc thuyền nan vừa áp mạn. Có ai đó vừa đi chơi về. Mà đúng thế thật. Tôi nghe thấy tiếng chân hai người nhảy từ trên be xuống mặt boong. Rồi tiếng chân bước lên boong trên. Và ngồi xuống ngay bên dưới chỗ tôi nằm. ơ đấy có một cái thùng gỗ to, đặt sát vào ống khói, gần với chân cần cẩu chĩa ra miệng hầm cá. Cái thùng mà tôi đã thử mở ra xem, bên trong đựng những mảnh lưới rách, những nhợ vá, ghim đan lưới và các thứ linh tinh khác.

- Con bé đi với ông trông khá đấy chứ.

Tiếng chú Lượng, một thủy thủ cao lớn, nước da trắng, một bên má có một nốt ruồi đen mọc những sợi râu dài. Chú Lượng rất vui tính. Chú có cái giọng của người chuyên hô hoán. Một buổi chiều, mọi người đang đứng ăn cơm ngoài boong lái, chợt chú Lượng vất cái bát xuống nắp hầm cá, chỉ tay ra ngoài biển kêu thét lên:

- Tàu cháy!

Mọi người hoảng hốt nhìn ra. Một con tàu to từ biển khơi tiến vào, ống khói bỗng nhả ra một cục khói tròn to đen sì. Hay mới hôm qua trong vịnh thôi. Một chiếc thuyền nan, "một chiếc taxi của thủ trưởng’ đi ngang qua. Chúng tôi đứng nhìn theo. Chú Lượng giơ tay chào. Người chèo thuyền - một đứa con gái trạc tuổi tôi - tưởng chú gọi chở, định ghé vào thì chú huơ tay ra hiệu cứ đi đi. Đứa con gái chèo đi, vừa chèo vừa nhìn chúng tôi rồi nói một câu gì đó. Chú Lượng gào lên: Nói to lên! Nghe không rõ! Đứa con gái trên thuyền buông chèo bắc tay lên miệng làm loa. Chúng tôi nghiêng tai lắng nghe. Chẳng biết nó nói gì. Bỗng chú Lượng ôm chầm lấy tôi, thét to: "Anh này hử?" Tôi giật mình còn tất cả cười ầm.

- Con bé của mình trông bình thường nhưng nội thất rất được!

Tiếng chú Đài vê tê đê. Tôi biết họ vừa đi đâu về. Tôi không muốn thuật lại câu chuyện họ nói với nhau. Tôi nghĩ đến bố. Không biết bố có như các chú ấy không? Nếu vậy thì thất vọng quá, buồn quá. Tôi bấu víu vào một hy vọng: Bố là thuyền trưởng. Là thủ trưởng của con tàu. Cầm cân nảy mực. Là người rời con tàu cuối cùng khi tàu lâm nạn. Chắc chắn bố không giống các thuyền viên khác.

- Hôm nay được năm lô, chi ái tình phí hết năm sọi. Tích cóp đến bao giờ mới làm lại được cái nhà. Tiếng chú Đài.

- Tao chưa dám nghĩ đến nhà cửa. Kiếm ăn vặt thế này nghĩ đến làm nhà sao được. Phải là quả cơ.

- Đúng. Phải trúng một quả gì đó.

- Chúng mình làm sao có quả gì. Gà què ăn quẩn cối xay. Mày báo vụ còn cái cửa đi tàu nước ngoài. Chúng tao cánh thủy thủ xếp lốt đến bao giờ.

- Không hy vọng gì đâu. Bánh vẽ đấy. Rồi lần lượt tất cả các đồng chí thuyền viên đều được đi tàu vận tải ngoại thương, trước tiên là những người có thành tích trong sản xuất, có thâm niên cống hiến với xí nghiệp. Nói như trạng mẹ. Ồng Lê Mây đấy. Về đây từ ngày đầu mới xây dựng xí nghiệp, thời tàu vỏ gỗ, có được đi không. Tao về sau ông Mây hai năm. Có được đi không. Mà thằng Li mới về ba năm đã được đi. Chúng mình không có đạn. Cũng không có thế. Mày biết cái thằng tàu 19 đi cái xe 250phân khối hai ống xả không nhỉ. Nó có làm ở xí nghiệp một ngày nào đâu. Con một ông đại tá công an. Vô nghề nghiệp. An chơi đua đòi, tiêu tiền như rác. Sắp nghiện đến nơi. Ồng bố vội nói với sếp cho nó xuống tàu.

- Thằng Khương. Mình biết.

- Thấy ông Đáng nói nó đi mười mấy chuyến rồi, tổ chức đã làm quyết định rút lên dự bị, bố nó viết một cái thư xuống, thế là lại đi tiếp.

- Chứ lại không à? Nó lên bờ là gay go. Nó còn đi tàu 19, bảo đảm tàu không bị khám, không bị giết. Cũng là một thứ hợp đồng ngầm cả.

- Thôi cứ yên tâm ở đây thôi. Sống là đây mà chết cũng

- Tao tự an ủi là chúng mình vân hơn bọn đảnh cả. Bọn chúng nó phải bảo đảm chỉ tiêu định mức.

- Cũng bản như điên. Hụt chỉ tiêu cũng bản như điên.

- Thì rõ. Nhưng không bằng tàu mình. Ồng Đảng cũng tả xung hữu đột lắm mới giữ được bộ khung tàu đấy. Chuyến nào về chả có phong bì. Không chỉ tổng giảm đốc đâu. Còn phòng tổ chức, còn đảng ủy công đoàn. Cái khoản mười phần trăm tiền bản cả không chia là vào mục ấy. Ồng Đảng không xơ múi gì vào chỗ ấy đâu.

- Ai biết đâu ma ăn cỗ.

Nghe chú Lượng nói, tôi đỏ mặt. Tôi bỗng ghét chú Lượng vô cùng. Vậy ra là thế. Người tin bố tôi. Người không tin. Tôi tin bố. Như chú Đài. Chú Lượng không tin bố. Thế nhưng bình thường tôi thấy chú ấy đối với bố tôi cũng y như chú Đài, như mọi người trên tàu, chẳng có gì khảc. Có nhiều người như chú Lượng không? Mà bố có đảng tin thật không? Người ta có quyền không tin chứ. Có tiếng bật lửa lảch cảch. Mùi khói thuốc lả bay lên. Và tiếng chú Đài:

- Cô bé Ngã Năm của mày đến đâu rồi.

- Chẳng đâu vào đâu. Căng lắm.

- Hôm nọ thấy đèo một túi tôm he đến nhà cơ mà.

- Chuyến trước xin thuyền trưởng hai cân tôm he, với hai con mực nang to mỗi con phải đến hai ki lô. Cho vào cái túi đem đến biếu bà mẹ. Bà mẹ vui lắm. Không phải vì túi tôm cả ấy đâu. Mà bà mẹ rất thương mình. Rất muốn gả con gái cho mình. Bà mẹ nói thương mình vì bố mình bị bắn chết trong cái cách ruộng đất, mình mồ côi. Nên bà coi như con. Bà nói cô cũng nói thật với cháu cái Liên nhà cô lấy cháu, nó không phải đi làm dâu. Cô đã đi làm dâu, cô sợ làm dâu lắm rồi. Ba đứa con gái nhà cô, hai đứa lớn đi lấy chồng đều không phải làm dâu. Rồi bà kể cho mình nghe chuyện bà làm dâu. Bà lấy chồng được ba tháng thì chồng đi bộ đội. Biền biệt mười một năm mới về. Một mình bà quần quật cơm nước hầu hạ bố mẹ chồng, các em trai em gái nhà chồng. Tổ chức cưới vợ cho hai em trai nhà chồng, lo đám cưới cho em gái nhà chồng. Lại là dâu trưởng, mọi công việc trong họ đều đến tay. Om cũng không được nghỉ. Ổm vẫn phải lo công việc đồng áng. Mình ốm nhưng mẹ chồng cũng ốm. Mình phải lo cháo lão thuốc thang... Mười một năm cháu ạ. Còn gì là đời! Cho nên cô nhất quyết lo liệu sao cho nó lấy chồng nhưng không phải làm dâu. Cô hãi lắm rồi. Bây giờ nghĩ lại vẫn còn hãi. Bà động viên mình cứ kiên trì. Lúc mình đến nhà, cô nàng dắt xe đạp đi. Mình muốn về nhưng bà bảo: Cứ ngồi chơi nói chuyện với cô. Chỉ tí nữa nó về thôi. Mình ngồi chờ. Chờ lâu. Chuyện với bà già. Hết chuyện nọ đến chuyện kia. Cuối cùng cô ấy cũng về nhưng cứ ở dưới bếp, nhất định không lên. Chán quá, mình chào bà già, xuống bếp chào cô nàng thì cô nàng xách túi tôm với mực ấn vào tay mình, mình nhất định không cầm. Hai đứa giằng co đến tận cửa. Cuối cùng mình đành phải cầm. Đạp được một quãng mình lẳng cái túi vào bụi cây ven đường, phóng một mạch về tàu nằm vật, chẳng thiết gì đời nữa.

Hai người im lặng. Một lúc tiếng chú Đài đầy thông cảm:

- Cho nên chỉ có những lúc đến với các em là quên tất cả. Mọi sự. Quên chuyện yêu đương Quên chuyện làm nhà. Quên cả chuyện làm việc dưới tàu vất vả như một con chó.

- Mình vẫn không quên được cô nàng. Trong khi ôm các ả ca ve mình cứ phải tưởng tượng đấy là Liên.

- Thế thì gay thật. Chỉ còn mỗi cách phải bám chắc lấy bà mẹ thôi.

Chú Lượng thở dài:

- Khó lắm. Mình đi biền biệt thế này. Có nhanh cũng phải nửa tháng mới đến được một lần. Giá làm trên bờ còn dễ...

Tôi nằm im lặng nghe. Cố không gây ra một tiếng động nào. Cũng không sợ là mình nghe trộm chuyện người khác. Chẳng qua là không muốn làm đứt quãng câu chuyện của hai người thôi. Nếu các chú có lên boong thượng, tôi sẽ giả cách ngủ. Chẳng sao. Nhưng hai người không lên. Một lúc sau họ về cabin ngủ.

Tôi ngồi dậy, xuống chỗ hai chú vừa ngồi rồi quành về cabin bố tôi trong lòng rất hồi hộp. Chỉ sợ bố tôi không có trong phòng và thở phào: Qua cánh cửa ra vào để mở, tôi thấy bố đang nằm ngủ, một chân ghếch lên thành giường nhô cao. Tôi biết là bố không đi đâu cả mà! Cũng như tôi biết bố không lấy một đồng nào trong cái quỹ ngoại giao đút lót ấy. Tôi lại nghĩ đến chú Lượng Ai biết đâu một người vui tính tếu táo thế mà mang trong lòng biết bao điều. Tôi định trở lên boong thượng nhưng nghe thấy tiếng hai con lợn ụt ịt bên dưới. Không đi lối cầu thang gỗ bên trong, tôi tụt cầu thang sắt dốc đứng phía ngoài đến chỗ chúng. Khuya rồi, tất cả tàu đã ngủ nhưng chúng vẫn còn tha thẩn dạo chơi trên boong lái. Tôi ngồi xuống. Chúng quay cả đầu về chỗ tôi, dưới ánh trăng tôi trông thấy mũi chúng chun lại, cái đuôi ve vẩy ụt ịt ụt ịt. Rõ ràng chúng muốn nói gì với tôi. Hai tay tôi đặt vào gáy hai con lợn và khẽ gãi gãi như các chú trên tàu vẫn làm. Chúng thôi không ụt ịt nữa, cúi đầu ngoan ngoãn đứng im. Lợn ơi. Khuya rồi sao chúng mày chưa ngủ. Hay chúng mày cũng mất ngủ như tao. Chúng mày mất ngủ còn có bạn. Đêm nay tao mất ngủ đây, mà chẳng có ai trò chuyện. Bao nhiều điều muốn nói, nhưng biết nói cùng ai. Tôi nhớ đến thằng Toán. Nhưng tôi nghĩ nếu có thằng Toán ở bên, tôi cũng chẳng biết nói gì với nó. Tôi bỗng thấy mình già đi chục tuổi.

° ° °

Quán Mèo biết rằng trong Liên hợp nhiều người ghét mình, nhiều người muốn mình về mo. Chỉ vì Quán đã thoát khỏi kiếp nghèo hèn. Quán đã trở thành giàu có, thành "tỉ phú" như nhiều người nửa đùa nửa thật chào Quán. Không. Không bao giờ Quán về mo, không bao giờ Quán trở lại kiếp sống khốn nạn ngày trước nữa. Giờ đây không ai có thể đẩy Quán trở lại nghèo hèn khốn nạn được nữa. Các cụ nói vạn sự khởi đầu nan. Quán đã qua bước khởi đầu khó nhọc ấy rồi. Quán không ngờ đời mình lại có lúc được như hiện nay. Một bao tải tiền.

Người ta thường nói với nhau như vậy để chỉ ai đó có nhiều tiền lắm. Thế nhưng Quán đã có nhiều bao tải tiền. Và Quán thấy kiếm tiền cũng khó nhưng cũng dễ. Căn bản là phải có máu liều. Phải có máu làm ăn lớn. Và phải chớp thời cơ. Thời cơ nó đến rồi nó đi. Không thể chần chừ. Thời cơ thứ nhất làm nảy sinh thời cơ thứ hai. Thời cơ thứ hai đẻ ra thời cơ thứ ba. Cứ như một phản ứng dây chuyền. Và phải biết xâu các đầu mối lại với nhau, liên kết những người cùng máu mê, chí hướng với nhau. Để tạo ra một sức mạnh tổng hợp. Người nọ dựa uy người kia, dựa thế người kia, dựa lực người kia. Thực ra bây giờ Quán mới có những suy nghĩ mang tính tổng kết như vậy. Chứ lúc mới bắt đầu, Quán chỉ làm như một người đang nghèo đói ngửi thấy cửa này làm ăn được, ngửi thấy hơi tiền mà không nguy hiểm. Nói vậy bởi Quán cũng đã có lúc làm ra tiền nhưng có thể tiêu đời. Lúc đầu là mang thuê thuốc phiện từ mạn ngược về thành phố. Tiếp theo là bồng thuê heroin. Được mươi chuyến sợ quá dù nhiều tiền. Đường dây vỡ. Hai người bị bắt. Nhưng họ thực hiện lời thề khi mới cùng nhau làm ăn, không khai ra Quán. Không chỉ một đường dây của Quán. Nhiều đường dây vỡ, nhiều người tra tay vào còng số 8. Có cả người dựa cột 3 . Quán lại về trông đầm tôm cho hợp tác xã. Muỗi, dĩn đốt ngứa mẩn cả người. Đã mấy lần đổ trộm tôm đem bán. Nhưng rồi bị lộ. Quán bị đưa ra kiểm điểm ở hội nghị xã viên và bị đuổi việc.

Sự việc càng ô danh hơn khi Quán ngủ với vợ anh hàng xóm, bị anh ta bắt được, Quán phải viết giấy nhận mình hủ hóa và cam đoan cày cho anh ta ba sào ruộng đầm giữa trời rét đại hàn chi cực để anh ta không tố cáo trước xóm làng. Cày thì cày nhưng bí mật vụ việc không giữ được, vẫn cứ lộ ra. Lộ vì vợ Quán, cái con mụ mặc quần cá rô đớp. Chẳng thể tìm được lý do gì mà giữa ngày đông tháng giá, chồng mình lại dong trâu đi cày đầm nhà hàng xóm. Hỏi thì Quán bảo: Lão ta lười, thuê mình, mình làm lấy tiền chứ làm sao. Lại hỏi thuê bao nhiêu, công sá ra làm sao. Quán trả lời: Thuê trả bằng thóc. Mỗi sào hai mươi ki lô thóc. Đến vụ trả. Rồi cười với vợ, tình tứ: Nhà túng, người ta đi làm không thương người ta thì thôi, còn hỏi. Vợ Quán tưởng thật, yên trí chồng mình biết thương vợ thương con. Chỉ đến khi nghe tin đứa con trai bị đánh chết tại thành phố Hồ Chí Minh, vợ Quán vừa khóc vừa sang ông hàng xóm xin trả trước số tiền để thêm cặp đi vào lo tang ma cho con ở trong ấy, mới biết rõ đầu đuôi. Thế là con mụ quần cá rô đớp te tái chạy về làm ầm ĩ cửa nhà, ầm ĩ xóm làng. Ôi làng nước ơi. Ôi trời cao đất dày ơi. Có ai khổ như tôi không. Ông giời sao không vật chết tôi đi để tôi sống làm gì để khổ để nhục thế này. Tao tưởng mày cày ruộng thuê lấy tiền nuôi vợ nuôi con như mày nói. Ai ngờ mày đi cày cái lồn nhà nó cho nó sướng cái buồi của mày để phải lội xuống đầm giữa mùa mưa dầm gió bấc cày cho nhà nó ba sào ruộng. Ôi con ơi. Sống khôn chết thiêng về đây mà xem thằng bố của con bôi gio trát trấu vào mẹ vào cả nhà con ơi...

Vừa đau đớn mất con, vừa nhục nhã công nợ túng thiếu, Quán đã phải giở trò kiếm ăn vặt. Như đến vài người bạn bán thuốc lá vỉa hè vay mỗi người một cây thuốc lá Vina, nói là tổ chức đám cưới cho thằng con thứ, "khổ, nó mê con ông giám đốc ngân hàng quận, cứ đòi tổ chức, mà nghe chừng con bé bụng cũng lùm lùm rồi, không cưới ngay có khi gay dù trong túi thằng bố nó chẳng có đồng xu mẹ nào". Vay rồi bán ngay. Cũng lại cho những hàng nước vỉa hè. Bán nhưng không trả gốc. Quán nghĩ có lẽ lại phải dính vào chất bột trắng thôi. Quán đã chuẩn bị bắt lại liên lạc với đường dây cũ thì trong một bữa rượu thịt chó, nghe một người nói công ty Liên hợp Biển Đông đang thu mua sắt vụn. Chỉ nói vu vơ thế thôi. Nhưng trong đầu Quán đã nảy ngay ra một kế hoạch. Tại Liên hợp Hải sản Biển Đông, Quán có quen một người. Một người bạn học thời còn học cấp một ở làng bên tên Xuân. Quán nhớ lại một kỷ niệm giữa hai người khi còn đi học. Trong một lần tắm ở hồ trước cửa trường, chơi trò lặn đuổi dưới nước Xuân lặn trốn thế nào mà bị mảnh sành rạch sứt môi, máu chảy ròng ròng. Cả bọn hoảng quá. Nghe nói chỉ có lông dái rịt vào là cầm được máu, cả bọn lên bờ, vạch vòi khám xét nhưng chẳng đứa nào có lấy một sợi mà nhổ, mà rịt.

Kiếm bao ba số, Quán đến xí nghiệp tìm Xuân, nhưng Xuân đã chuyển về Hà Nội làm một sếp gì đó rồi. Quán gặp trưởng phòng kinh doanh và dù không gặp Xuân, dù Xuân đã chuyển đi, nhưng câu chuyện đi tắm với Xuân thời còn con nít đã gây tác động không ngờ đến trưởng phòng kinh doanh vì Xuân chính là người đã kèm cặp nâng đỡ anh ta để anh ta được như ngày nay.

- Thì toàn mười hai mười ba tuổi, làm gì đã có sợi lông nào. Lão Xuân lớn nhất cũng chỉ mới lấm tấm.

Nghe Quán kể, trưởng phòng cười như nắc nẻ và viết giấy giới thiệu Quán đi các nơi: quân đội, giao thông, miền núi. Bên giao thông, Quán tìm ra một cái sà lan bẹp. Quán cùng trưởng phòng kinh doanh sang làm việc, ký hợp đồng. Hai tháng trời Quán tổ chức cắt bóc. Quán chiêu mộ những người đang lờ vờ không có công ăn việc làm, đang đói. Bạn của Quán. Bạn của bạn Quán. Bạn con Quán. Bạn của bạn con Quán. Những người thất nghiệp. Những người mới đi tù về. Họ làm như trâu. Quán cũng làm như trâu. Hai tháng trời không về nhà, lăn lộn trên một bãi sú đầy muỗi dĩn. Cái gì chứ khoản muỗi dĩn Quán coi khinh. Chống hai thứ này dễ ợt. Đem cái màn xô dấn nước rồi mắc lên. Chui vào trong màn nằm, muỗi dĩn chỉ có khóc. Để có tiền nuôi đám quân gia, Quán phải dựa vào xí nghiệp. Quán báo cáo với giám đốc, với trưởng phòng kinh doanh và tổ chức cho ba người (cả trưởng phòng tài vụ - chớ có quên nhân vật tay hòm chìa khóa này) đến thăm quan công trường của Quán bằng xe ô tô của xí nghiệp. Ngồi trên chiếc Mazda lún người máy điều hòa mát rượi Quán đã nghĩ mình phải có cái ô tô như thế. Cái bọn làm sếp này sướng thật.

Trước khi sung sướng phải gian khổ đã. Rất thích sung sướng nhưng Quán có ưu điểm đã quen chịu khổ.

Trong thời gian hai tháng vạn sự khởi đầu nan ấy Quán gầy rộc đi. Đợt tạm ứng đầu tiên, Quán không giữ lại gì cho mình. Giám đốc, trưởng phòng kinh doanh, trưởng phòng tổ chức, trưởng phòng tài vụ đều có phần. Càng không thể quên ông sếp bên giao thông. Sau khi chi lương, Quán chỉ còn trong tay hơn triệu bạc. Đã định cầm tiền đi xả hơi, giải trí, nhịn suốt mấy tháng rồi, đạp xe nửa đường nghĩ đi nghĩ lại, Quán quành về nhà. Quán sợ xui. Bước đầu khởi nghiệp không dính đến món ấy. Bấm bụng chờ kết thúc phi vụ này đã. Quán đưa tiền cho vợ, bảo làm cỗ cúng. Vợ Quán ngơ ngác:

- Hôm nay cúng ai hở bố nó?

- Mua con gà, thổi nồi xôi, thắp hương cầu xin cho công việc của tôi được đầu xuôi đuôi lọt.

Bữa ăn, vợ Quán nhìn chồng gầy rộc, đen sạm, thương quá:

- Chừng đến bao giờ xong hở mình?

- Được nửa công việc rồi. Một tháng nữa đời chúng ta sẽ khác. Nhưng chưa khác nhiều đâu.

Vợ Quán nghe câu tuyên bố chắc như đinh đóng cột ấy của chồng mà tự trách mình ngày trước đã không giữ được sự ghen tuông giận giữ làm khổ Quán. Nhưng chị không dám nói ra điều ấy, chỉ chép miệng thương xót:

- Bố nó vất vả quá.

Tối hôm ấy, hai người nằm cạnh nhau. Chị vợ ôm lấy anh chồng. Quán hất tay ra: Để yên cho người ta ngủ. Mệt bỏ cha ra đây. Nhưng sự đụng chạm ấy lại gợi Quán tới ý định đi vui vẻ lúc ban ngày. Tất cả những sự chung đụng với đám gái làng chơi trẻ trung, thơm tho chiều chuộng trở lại trong óc và Quán thở dài trở mình nằm nghiêng đưa tay ôm vợ. Vợ Quán rúc vào người Quán:

- Em thương mình lắm.

Người Quán rạo rực một nỗi thèm muốn. Quán luồn tay vào chỗ ấy và rụt vội tay ra:

- Thấy tháng à?

Vợ Quán nói với vẻ biết lỗi:

- Bốn hôm rồi. Sao kỳ này lâu thế. Mọi lần chỉ ba ngày là sạch thôi.

Quán thở dài trở lại nằm ngửa. Im lặng. Một lúc sau, Quán làu bàu:

- Cái đồ lồn teo vú tóp này mà cũng lắm chuyện. Cẩn thận không tao thay mái.

Vợ Quán xoay mình nằm nghiêng về phía chồng sợ hãi:

- Hay là anh cứ ấy đi.

Quán xùy một cái:

- Kinh bỏ mẹ.

- Cũng gần sạch rồi. Buổi chiều chỉ còn dây rớt một tí thôi. Thật đấy. Nhè nhẹ thôi. Được đấy.

Chị vợ đã sẵn sàng. Quán với tay tắt ngọn đèn ngủ. Dù đã tối om, nằm trên vợ, Quán vẫn nhắm nghiền hai mắt, lẩm nhẩm trong óc:

- Không phải vợ ta.

- Không phải vợ ta.

- Không phải vợ ta.

- Không phải vợ ta.

- Không phải vợ ta...

Câu cuối cùng hình như là câu thứ ba mươi mốt, Quán bỗng bật lên trong một tiếng rên dài:

- Không phải vợ ta à à...

° ° °

Một con tàu nữa vào vụng. Con tàu sơn hai màu đỏ trắng, to, cần cẩu như một cái cổng chào, giống hệt con tàu đã buông neo trong vụng mấy hôm nay. Mũi tàu xẻ nước gợn gợn, thân tàu ép mặt nước trong vụng thành những vệt sóng xòe ra hai bên làm tất cả các tàu thuyền trong vụng đu đưa. Nhiều người đứng trên boong mũi. Những tiếng gọi nhau ầm ĩ. Có tiếng gọi tên bố. Đứng vịn lan can ngay cửa buồng lái, bố giơ tay vẫy: Chào thuyền trưởng Đặng Việt. Tí sang nhé! Một người đàn ông cao lớn thét to: Neo xong là sang ông đấy. Có ba sì đế không? Còn cái gì nhắm không? Con tàu đi men vụng vào đỗ phía trong, gần sát bến. Những đợt sóng vẫn lan tỏa. Những chiếc thuyền nan trong vụng nâng lên hạ xuống dập dềnh như đang trên biển. Chỉ lát sau, thuyền trưởng Đặng Việt đã từ một chiếc "thuyền nan taxi" trèo lên tàu, vào phòng bố. Tiếng bác Việt oang oang:

- Trời còn gió nhưng cũng phải ra đây thôi. Ngày mai chắc gió giảm. Nửa đêm nổ máy. Sáng mai tới ngư trường chứ không lại mất một ngày. Với lại tàu sửa chữa nằm bờ lâu quả rồi. Ra đây kiếm con lợn khao quân cái đã. Bảo thằng Quang đại phó rồi. Nhắn cái Nguyệt đến ngay. Con lợn khoảng bảy chục cân. Giả bảy tạ cá loại bốn thôi. Chứ không có loại hai loại ba đâu. Hết chuyến biển sẽ trả. Trước mắt khuyến mại cho em hai tạ đá. Cứ thế mà làm.

Rượu được rót ra. Mấy con mực khô bác cấp dưỡng mới mổ phơi mấy hôm trước, một bát tương ớt. Bác Việt uống rượu rất nhiều, không như bố tôi. Càng uống da mặt bác càng bì bì tái lại. Bác uống và than thở về sửa chữa kéo dài, về chất lượng sửa chữa, về cái ly hợp... Uống và bảo bố tôi:

- Tối nay hai bố con ông sang tôi nhá. Làm bữa tiết canh lòng lợn. Thế nào cũng sang đấy.

Bác Việt về, bố tôi vào phòng vê tê đê hỏi chú Đài tình hình thời tiết. Bác Sĩ bảo: Giời này là ngày mai gió giảm, chuẩn bị mọi thứ, sớm mai tách bến là vừa.

Chú Hùng lùn ghi trên bảng đen treo trong phòng ăn: Hai ca xem lại toàn bộ dây lưới. Năm giờ sáng mai tách bến đi sản xuất.

Tôi cứ tưởng đến tối bố tôi cùng đi với tôi sang tàu bác Việt. Nhưng hóa ra lại là bác Sĩ. Gần đến lúc đi, bố bị đau bụng. Tàu bác Việt nổ máy rầm rầm. Đèn trên tàu sáng trưng. Chúng tôi bám thang dây leo lên. Lần đầu tiên tôi đặt chân lên một con tàu to như thế. Khác hẳn tàu bố. Cách bố trí các buồng, phòng lái, cầu thang đều khác. Và phòng ăn vẫn gọi là câu lạc bộ mới đẹp đẽ lịch sự làm sao. Rộng, những ba bàn ăn, mặt bàn sạch sẽ bóng lì. Trên tàu vui như hội. Những đĩa tiết canh đông cứng đỏ thẫm, với đủ cả lạc rang, rau thơm phủ lên trên những miếng gan. Những đĩa tây to trắng tinh đựng đầy lòng. Và những đĩa thịt xếp rất đẹp. Rồi nước xuýt. Rồi rau thơm. Hệt như ở nhà những hôm ba mươi tết giết lợn. Bác Việt tỏ ý tiếc là bố tôi không sang. Và rót rượu. Mọi người cũng rót rượu vào chén của mình. Tàu bác Việt đông. Phải đến hai chục người. Tôi cũng được một chén rượu trắng. Giá có bố ở đây, chắc bố không cho tôi uống đâu. Tôi cũng chạm cốc với bác Việt, bác Sĩ và với nhiều người khác. Lần đầu tiên tôi uống rượu. Tôi đưa cốc rượu lên môi khẽ nhấp thử. Nhàn nhạt lợ lợ cay cay. Tôi liều uống thử một ngụm nhỏ. Lập tức mũi tôi cay xè, như khi lặn ở ao bị sặc. Tôi hắt hơi liền ngay sau đó. Tất cả nhìn tôi cười. Tôi xấu hổ quá không dám nhìn ai. Định theo nghề của bố mà không biết uống rượu à? Con trai là phải biết uống rượu. Nam vô tửu như kỳ vô phong. Bố cháu uống rượu vào loại siêu đấy. Mỗi người một câu trêu tôi, động viên tôi. Bác Việt cụng li với tôi, bảo tôi:

- Mày uống từ từ thôi con ạ. Nào hai bác cháu mình...

Tôi lấy hết bình tĩnh, mạnh bạo đưa chén rượu lên nhấp một ngụm nhỏ. Vẫn cay. Vẫn thấy khe khé ở mũi, nhưng không hắt hơi nữa.

Bác Sĩ bảo tôi:

- An đã. An vào bụng đã rồi hãy uống.

Tôi xắn một miếng tiết canh. Rồi ăn một miếng thịt. Bác Sĩ múc vào bát tôi một muôi nước suýt. Tôi uống một hơi cạn bát nước suýt.

- Được rồi. Bây giờ uống rượu được rồi.

Tôi lại đưa chén rượu lên miệng. Ngụm này nhiều hơn ngụm trước. Rượu trôi qua họng nóng ran cổ khiến tôi phải khà một tiếng rõ to cho mát cổ. Bác Sĩ khen: Thằng con giời uống được đấy. Rượu bốc lên đầu. Rần rật thái dương. Râm ran xuống ngực xuống tay. Người tôi lâng lâng. Tôi chưa có cảm giác như thế bao giờ. Bác Sĩ lại bảo: Thôi bây giờ ăn đi. Và bác đứng dậy chìa cốc ra trước mặt bác Việt. Tất cả đứng lên làm theo bác Sĩ, đưa cốc về phía thuyền trưởng. Tôi cũng làm theo. Cụng ly. Mọi người ngửa cổ dốc cả chén rượu vào họng. Tôi cũng làm như vậy và bị ho sặc sụa đến nỗi phải bỏ ra ngoài hành lang, một lúc sau mới trở vào. Bác Sĩ ghé tai tôi, dặn dò:

- Mày uống vừa vừa thôi. Thế là đủ rồi đấy. Kẻo không bố mày lại trách tao.

Bữa ăn rất ngon và vui. Trong đời tôi chưa được dự một bữa ăn nào vui thế. Toàn là dô, là trăm phần trăm, năm mươi phần trăm. Người ta uống nhiều hơn ăn. Người ta reo hò. Người ta cụng chén tay đôi tay ba. Người ta cầm chén rượu đi bàn này bàn khác. Tôi ăn đã no. Chỉ ngồi nhìn người khác. Mọi người như quên mất tôi. Chỉ chú ý đến các chén rượu trên bàn đầy hay vơi để rót thêm để bắt phải uống cạn. Không khí trong câu lạc bộ nồng nặc mùi rượu. Rượu đổ trên bàn ăn. Rượu tràn ly rớt xuống bàn chảy xuống chân. Tôi lặng lẽ bước ra boong. Mặt mũi nóng bừng nhẹ đi. Đầu óc căng nhức nhẹ đi. Thoang thoảng gió mát. Nhìn quanh Vụng Ngọc. Êm đềm. Vắng vẻ. Những ngọn núi đá xám không còn vẻ lồi lõm sù sì nữa, trông mỏng dính. Bầu trời nhiều mây như sà xuống thấp. Lại tiẽng một con cả quẫy. Thải dương tôi vẫn rần rật rần rật. Không buổn ngủ nhưng tôi ngáp một cái rõ dài. Tôi muốn nằm quả. Người tôi mệt rã rời. Có cái gì nghẹn nghẹn thúc thúc nơi cổ họng. Tôi muốn về ngủ hoặc chỉ nằm dài trên giường hay trên nóc cabin thượng.

Tôi lại vào câu lạc bộ xem bữa ăn đã xong chưa để rủ bảc Sĩ về. Nhưng không, không thể được. Mọi người đang trong giai đoạn hào hứng nhất. Mắt ai nấy đều long lanh còn khuôn mặt thì rạng rỡ. Đã có người say xỉn, đang lắc lư cái đầu cố ngổi cho vững. Một người khảc cất tiếng nói, giọng nói ríu ró, lè nhè không ngắt được tiếng nọ với tiếng kia. Tất cả lắng nghe nhưng không hiểu anh ta nói gì. Bảc Sĩ kêu lên: Thằng Thượng mản méo tiếng rồi. Câm đi. Đừng nói nữa. Bảc lại với tay cầm chai rượu trắng rót một lượt nữa:

- Nào dô.

Tôi biết chẳng thể bảo bảc về được. Đành lại ra boong. Lại nhìn trời nhìn vụng. Nhìn về phía tàu bố tôi đen đen neo mãi xa. Bỗng một chiếc thuyền nan đột ngột hiện ra trong màn đêm chèo đến gần. Đứng dưới thuyền, người đàn bà dưới thuyền hỏi vọng lên:

- Anh ơi! Có đi không?

Tôi mừng rỡ kêu lên: Có. Và quành ra chỗ treo thang dây. Không nói với bảc Sĩ, tôi tụt thang dây xuống thuyền. Và chỉ một lúc sau đã có mặt ở tàu của bố, sau khi đã trả tiền.

Nếu tàu bảc Việt ổn ào vui vẻ sảng trưng thì tàu của bố tôi ngược hẳn lại: tối đen, không một tiếng động, không một bóng người. Cảc cửa cabin bên dưới đều đóng im ỉm.

Như một con tàu chết. Tôi bước lên phòng bố tôi. Cảnh cửa cũng đóng như vậy. Tôi cầm cái tay xoay bằng sắt mạ inox sảng loảng vặn mạnh mở rộng cửa. Một cảnh tượng không ngờ được, không tưởng tượng được bày ra trước mắt: Ngọn đèn ngủ trên đầu giường bố tôi tỏa ảnh sảng yếu ớt màu xanh lơ. Và chính nhờ ngọn đèn ấy mà tôi trông thấy một người nằm trên giường bố tôi. Một người đàn bà mặc bộ đổ màu tím nhạt đang nằm duỗi dài trên giường bố. Thấy cửa mở, người ấy quay ra và giật mình ngổi dậy. Vừa bước một chân vào phòng, tôi vội rụt lại sập mạnh cửa bước ra boong trèo thẳng lên cabin thượng, chỗ nằm quen thuộc của tôi. Cô Nguyệt! Cô mua cả hôm tàu mới vào vụng! Cô mua tôm tối hôm qua! Chính vì cô ấy quay ra nên tôi mới biết là cô Nguyệt. Có lẽ cô ấy tưởng bố tôi mở cửa.

Nằm dài trên chiếc chiếu trải trên boong thượng, tôi không cựa mình, cố giữ sao cho không một tiếng động. Tôi sợ gặp bố. Lúc này gặp bố tôi biết nói gì. Tôi sợ bố biết tôi đã về, đã nom thấy cô Nguyệt nằm trên giường bố. Tôi khóc. Để mặc nước mắt chảy trên mả, tôi mở to mắt nhìn trời. Tôi thương tôi, tôi thương cái Ngàn và nhất là tôi thương mẹ. Bố không như chúng mình vẫn tưởng đâu. Mẹ ơi. Mẹ đã ngủ chưa. Mẹ đang làm gì. Mẹ có biết những gì đã đến với mẹ không? Mẹ có biết mẹ bị phản bội không? Tôi muốn về ngay với mẹ để khỏi phải nhìn thấy bố, gặp bố, để sống bên mẹ, giúp đỡ mẹ làm mẹ vui. Trong mấy ngày dưới tàu tôi đã biết được nhiều chuyện, học được nhiều điều. Tôi biết người ta có thể làm những việc không tưởng tượng được. Nhưng tôi vẫn hy vọng, vẫn nghĩ rằng đấy là chuyện của mọi người, tất cả, trừ bố. Bố là thuyền trưởng, là người lãnh đạo, là người chịu trách nhiệm về toàn bộ con tàu, là người cuối cùng rời tàu khi tàu lâm nạn. Bố không giống mọi người. Thế rồi mọi chuyện đổ sụp. Bố không còn là thần tượng của tôi nữa. Bố cũng giống hệt mọi người. Thế mà trước kia chúng tôi đã tự hào về bố biết bao! Vậy là từ lâu chúng tôi vẫn sống với những điều dối trá mà không biết. Tôi đau đớn nghĩ mới đây thôi chúng tôi còn tự hào khi bố về nhà và người bố ấy đã không còn nữa. Bây giờ là một người bố khác. Một người bố có những điều bí mật mà mình không nên biết. Một người bố có nhiều thói hư tật xấu. Quá thất vọng, tôi tự nhủ: Có lẽ phải quan niệm lại: Thế nào là bố chăng?

Có tiếng hai con lợn ụt ịt bên dưới boong mũi. Tôi muốn xuống với chúng nó quá. Nhưng lại sợ gặp bố.

Chắc là phải gần sáng tôi mới thiếp đi được. Ánh nắng chiếu vào mi mắt khiến tôi tỉnh dậy. Nhìn quanh. Những dãy núi đá quây lấy Vụng Ngọc không còn nữa. Tôi nhìn về phía lái: Không thấy Núi Hài đâu. Vậy là tàu nổ máy rời vụng từ sớm lắm. Nắng vàng lấp lóa rải đầy trên mặt biển phía trước mặt. Hoa sóng nở vàng rực trong nắng nhức mắt. Nhưng nhìn về phía sau sóng vẫn xanh dịu. Gió thổi ngược chiều tàu đi. Tàu gối sóng, mũi tàu chồm lên đè xuống. Đánh răng rửa mặt xong, tôi vào bếp ăn sáng. Trong bếp có nhiều người. Cả bố. Cả bác Sĩ, cả chú Hùng lùn, chú Đài, chú Lượng. Tôi liếc nhìn bố rất nhanh. Bố đặt tô mì tôm bốc khói ăn dở xuống bàn, nói:

- Lần này vào Lạch Trường xem có tôm vàng không. Năm ngoải cũng mùa này chúng mình chả gặp tôm vàng ở đấy là gì. Mẻ năm mươi cân. Mẻ một tạ. Cao nhất hai tạ.

Chù Hùng bảo:

- Trong ấy nhiều rạn. Lại có xảc mảy bay. Lưới rảch nhiều lắm. Có khi mất lưới. Anh em boong chuẩn bị sẵn tinh thần vả lưới.

Bảc Sĩ bảo tôi:

- Hôm qua con giời say xỉn về trước hả. Về mà không bảo tao lấy một câu. Tao cứ tìm.

Tôi liếc nhìn bố. Bố vẫn chẳng tỏ ra có vẻ gì đặc biệt, cũng chẳng nhìn tôi, và vẫn cứ tiếp tục câu chuyện về ngư trường:

- Xảc mảy bay không sợ. Mình đảnh bên trong, gần bờ. Nếu trúng tôm vàng chỉ ba ngày thôi là tấn tôm cầm chắc.

Bảc Sĩ bảo:

-Ở đấy nhiều lưới rê lắm đấy.

Tàu vẫn hành trình. Mặt trời mỗi lúc một gay gắt, nhưng vẫn mảt. Vì gió. Vì biển. Mãi tới gần trưa, ăn cơm xong, mới thả lưới. Bố tôi và chú Hùng đảnh dấu trên hải đổ. Rồi chú Hùng ghi nhật ký khai thảc. Hai tiếng rưỡi sau, kéo lưới. Tôi đứng ở chân cẩu, gần chỗ bố xem bố có nói gì không. Nhưng bố đang chăm chú nhìn vào hai cái đụt đã được kéo lên, nước trút xuống mặt boong gỗ ào ào như dội. Một người giật đụt. Bố tôi reo lên: Tôm vàng! Mọi người cùng bật lên tiếng reo như bố tôi. Hai đụt lưới khảc được kéo lên. Như hai quả bầu nậm, bên trên nhỏ bên dưới phình ra, hai quả bầu nậm khổng lồ. Lại giật đụt. Lần này tiếng reo còn to hơn lần trước: Tôm vàng!! Bố tụt xuống cầu thang bước ra boong nhìn đống tôm lùm lùm nằm phơi mình dưới ảnh nắng, bảo chú Hùng:

- Tôm chết nhiều. Mẻ tới cho tàu chạy ngược lên hai lý rồi mới thả lưới. Chắc được nhiều hơn.

Rồi quay lại bảc Sĩ:

- Ông Sĩ với thằng Quẹn xem lại cái lưới bên phải đi. Lưới không xuôi. Tôm không đi vào đụt, giắt lưới nhiều quả.

Và nói với cảc thủy thủ:

- Nắng lắm đấy. Làm thật nhanh nhé. Không hỏng hết tôm đấy.

Rồi như nói một mình: Sóng này nhiều tôm.

Tôi cũng xuống nhặt tôm với cảc chú cảc bảc.

Chú Hồng xem xét kỹ bụng một con tôm nhỏ rồi đưa cho tôi:

- Cho thằng này một con tôm chưa cùng ai.

Tôi nhặt tôm, mấy lần bị cái gai nhọn ở đầu tôm đâm vào chảy mảu. Bảc Sĩ đang chữa cái lưới xanh thẫm bên cạnh bảo tôi:

- Thôi đi bố. Không làm được nghề này đâu. Vất vả lắm. Cứ kiếm mấy cái lồ, một cái xe mảy chạy đường Bắc Ninh Hà Nội ngày được mấy trăm đấy.

Chú Hồng cười:

- Đúng. Ngày hai ba trăm thằng này làm được. Chẳng phải học tính toản làm gì.

- Nhưngphải học tính nhẩm cơ.

- Các bà buôn làm tính nhẩm thì vô địch.

- Bao nhiêu cũng không phải hạ bút tính. Mà không hề sai.

- Em Nguyệt đấy. Một trăm bảy mươi lần năm nghìn rưỡi, biết ngay là chín trăm ba nhăm nghìn. Bố Sĩ nhà mình cứ phải giấy bút.

Bác Sĩ cười:

- Tôm cá bao nhiêu loại tao không hạ bút, nhầm phải đền oan à.

Chưa hết câu chuyện, đống tôm đã được phân loại xong. Còn cá thì nhanh thôi. Nhặt những con cá to, cá ngon để riêng, những con cá nhỏ thì xúc cả vào lổ lẫn lộn rồi chuyển xuống hầm. Tôi tụt xuống hầm xem các chú ướp tôm ướp cá. Đèn điện sáng chiếu vào những hầm đá sáng lóa mắt. Mát lạnh. Tôm được đổ vào những thùng sắt đựng nước có hòa nước đá. Còn cá thì đổ ngay vào chân một đống đá rồi cuốc đá lấp lên.

Giữa trưa nắng gắt, ngoài boong chỉ còn chú Quẹn bác Sĩ đang làm việc. Cái mũ lá, bộ "quần đẹp áo đẹp" dày cộp của bác Sĩ khi trên tăng gông, khi dưới boong. Bác leo trèo thoăn thoắt. Nắng tưởng đến mức cháy thịt. Bố tôi cũng trèo lên tăng gông. Nom bố ngồi vắt vẻo trên đầu ngoài cùng cái cánh tay sắt chìa ra đu đưa trên mặt biển, giống một diễn viên xiếc tài ba. Tàu vẫn gối sóng dập dềnh. Bên dưới là khoảng không. Là biển. Là sóng. Mà đâu chỉ có việc ngồi trên ấy. Còn cầm cơ lê, còn vặn, còn kéo dây, còn cân chỉnh. Tấm lưới vẫn đu đưa. Những cái ván vẫn chênh chếch là là trên sóng như sắp đáp xuống mặt nước. Một sợi cáp vẫn thõng xuống cắt lạng những lát nước mỏng tung lên như người ném thia lia. Tôi thử sờ vào một đầu tăng gông bằng thép và vội rụt tay lại. Giống như chạm vào nước sôi. Cuối cùng khi tàu đến vị trí thả lưới, công việc cũng vừa xong. Bố tôi, bác Sĩ, chú Quẹn, mặt đỏ gay vì cháy nắng vào bếp, mỗi người một ca bia bỏ nước đá, uống và nhai đá rau ráu. Rồi cả ba vào buồng tắm.

° ° °

Thuyền trưởng Trần Bôn ở trong khu tập thể có nhiều nhà ba tầng xây song song, một thời đã từng là biểu tượng của cuộc sống đang thay da đổi thịt hàng ngày của thành phố Hải Triều. Những "cửa sổ sơn xanh mở đều một loạt, như một ban đồng ca cùng ngân giọng hát, như những người bên nhau cùng mở rộng tâm hồn". Nhà thơ Duy Thông đã có những vần thơ như vậy về khu tập thể mới xây. Than ôi! Thời ấy đã qua lâu rồi. Những ngôi nhà đã xuống cấp thảm hại. Màu vôi vàng mới quét cùng với cửa sổ sơn xanh gợi tứ thơ cho Duy Thông đã biến mất từ bao giờ. Cửa chớp long, nan chớp gãy, phải bịt lại bằng cót ép, bằng giấy dầu. Tường loang lổ trơ vữa và nhiều chỗ trơ cả gạch. Mặt trước còn đỡ. Mặt tường phía sau nơi khu phụ mới thật thảm khốc. Cống thoát nước tắc. Nước sinh hoạt tràn từ tầng ba xuống tầng hai, từ tầng hai xuồng tầng một. Những vệt xám đen, những vầng rêu đen dày bám trên tường. Cỏ mọc trên tường.

Và cả những cây si, cây đa theo trường phải bon sai mọc nghiêng. Kinh khủng nhất là những thứ rác rưởi cứt đái lưu cữu trên mặt nền phía dưới. Ớ đó lúc nào nước cũng xăm xắp. Có lần về nhà, Trần Bôn suýt bị cả một bô cứt của Khoa, kỹ sư phòng kỹ thuật trên tầng ba hắt xuống trúng đầu. Sống trên tầng ba, Khoa bành trướng ngược lên sân thượng và độc chiếm trên ấy, quây một cái túp con con, nuôi mười một con lợn. Sân thượng là vương quốc của những con lợn gia đình Khoa nuôi. Mười một con lợn chạy lông nhông như ngựa. Phân lợn và cả phân người nữa rải khắp sân. Xỉ than đổ trên sân thượng từng đống. Khi nào đống xỉ đầy quá, Khoa mang xẻng lên. Hai ba nào. Xúc hất xuống mảnh đất phía sau. Họp tổ không xong. Kiện tụng ra chính quyền, ra công đoàn. Đồng chí Trần Ngọc Thu bí thư đảng ủy sau khi trực tiếp thị sát trên sân thượng đã tuyên bố:

- Tôi đố ông nào lên sân thượng nhà B mà không dẫm phải cứt. Nếu không dẫm phải cứt tôi xin mất chầu bia.

Cũng chỉ có một câu nói ấy thôi. Chẳng ai có thể dỡ được cái túp lợp giấy dầu của Khoa, đuổi được đàn lợn của Khoa xuống đất. Ai cũng biết nhà Khoa cực kỳ khó khăn. Bố mẹ già, vợ không có việc làm, hai đứa con nhỏ, chỉ trông vào đồng lương của Khoa. Cả bố mẹ, cả vợ Khoa đều đã nai lưng ra làm việc. Không kêu ca nửa lời, ngược lại còn cám ơn số phận, cám ơn xí nghiệp, nhờ con, nhờ chồng, đã được từ quê ra tỉnh làm ăn và tuy có vất vả, làm ăn ở đâu chẳng vất vả, nhưng có công có việc quanh năm. Công việc của ba người là khi tàu bốc cá xong thì xuống hầm, dọn hầm, móc vét những con cá nát trong la canh đem về nấu nuôi lợn hay ướp chượp. Dọn hầm là công việc nặng nhọc. Nhất là cái nước la canh. Mùi nó khó ngửi hơn mùi phân tươi, mùi cóc chết. Trên sân thượng ngoài lợn, phân lợn còn có sáu cái chum chượp nhơ nhỡ bốc mùi khủng khiếp. Dòi bò rơi xuống hành lang, chỉ nằm ngất một lúc lại tỉnh, lại tiếp tục bò. Bò dọc hành lang. Mon men bò vào các nhà. Bò ra cầu thang rơi xuống bất động và lại tiếp tục bò. Tầng nào cũng có dòi. Bậc thang nào cũng dòi. Chiếu nghỉ nào cũng dòi. Không nhiều thì ít. Bởi tầng nào cũng có người làm mắm, chẳng phải một mình Khoa. Dòi và than tổ ong. Những ngày đồng khởi nấu mắm mới thật là khiếp khủng (đó là chữ của Khoa, Khoa công nhận là khủng khiếp nhưng không bao giờ nói khủng khiếp mà cứ là khiếp khủng). Mùi chượp, mùi mắm nấu lan tỏa ướp đượm ngào ngạt, át mọi thứ mùi thường nhật đã ngửi quen. Rồi còn vấn nạn hố xí tự hoại đã thành hố xí tự hại. Nước thiếu. Hệ thống bơm nước hỏng từ thời nảo thời nào. Người đi vệ sinh không chịu giội. Tắc. Chọc. Vỡ ống tiêu. Phải xuống đi ra mãi dãy nhà vệ sinh công cộng hố xí thùng mới xây gần bãi rác. Đấy là những người lớn, những người tử tế. Còn cái món ấy của trẻ con, của những người đau bụng đột xuất, và của một vài ông độc thân hộ A1 gặp khi trời mưa là chỉ có bay theo một đường cong parabol từ trên nhà xuống dải đất phía sau. Cái ngày trưởng phòng tổ chức chưa mua đất xây nhà, còn ở tầng hai, sáng dậy mở cửa thấy một gói giấy báo đựng toàn phân đặt ngay ngắn ngay bậu cửa, bên trên có viết chữ Kính gửi... cẩn thận. Chẳng biết ai mà trị. Cứt ở đây thì nhiều. Cũng phải nói đôi chút về bãi rác của nhà máy đồ hộp gần đấy, nơi có dãy hố xí thùng của Liên hợp Biển Đông mới xây. Công nhân bên đồ hộp thường xuyên được mua xương lợn, đầu lợn. Những khúc xương ống, những dẻ xương sườn trắng hếu như đã được lạng bóc bằng manh xơ lam. Những chiếc thủ lợn lột hết thịt và da, chỉ còn trơ sọ đầu lâu mắt trắng dã nằm giữa hai vành lông mi cứng và đen. Xương ống, xương vè lủng lẳng treo ghi đông xe đạp đi trên đường khiến bao người thèm khát hỏi han xin mua lại, bởi ai cũng biết còn bao nhiêu chất béo bổ trong tủy, trong xương, trong sụn sẽ tiết ra khi cho lên bếp than ninh nhừ. Ninh nấu ăn xong, tất cả quẳng ra bãi rác. Cả một bãi xương trắng mênh mông như tha ma bị sét đánh. Mùi thối khẳn theo gió thốc đi các nơi. Chân trần dẫm vào đó chỉ có què. Dưới đất thì thế. Trên đầu, một thứ khiếp khủng khác. Dây điện. Dây điện lòng thòng, lằng nhằng như mạng nhện. Mỗi nhà một đường dây. Công tơ tổng cháy lâu rồi. Nhà Bôn ba quạt hai bóng đèn, một tủ lạnh trả sáu tư nghìn tiền điện, nhà Khoa bốn bếp điện chỉ phải trả hai nhăm nghìn. Mà máy lạnh có mấy khi chạy đâu. Điện sụt áp. Hai trăm hai mươi mà chỉ còn tám chín mươi thôi. Nhà máy điện không thu được tiền điện đe dọa cắt điện. Giám đốc đồng ý cắt, nhưng công đoàn có ý kiến: Khu tập thể là sân sau của xí nghiệp và đây là vấn đề do lịch sử để lại. Giám đốc đồng ý trước mắt xí nghiệp bảo trợ tiền điện song song với việc trích quỹ phát triển sản xuất và công đoàn trích quỹ phúc lợi hợp đồng với sở "Điên nặng" kéo dây mắc công tơ đến từng nhà. Từ bấy mới có điện ổn định. Các gia đình loại bỏ hẳn bếp điện. Cánh chè chai xe đạp cọc cạch hết chuyến này tới chuyến khác chở không biết bao nhiêu bếp điện từ khu tập thể tỏa đi các nơi.

Điện đã được giải quyết nhưng chuyện vệ sinh vẫn chẳng nhúc nhích. Vẫn dòi, phân, rác, khói than tổ ong. Đi về nhà, bao giờ Bôn cũng gần như chạy. Vừa vì sợ gặp người như đã nói ở phần trên. Vừa để bảo đảm an toàn, không bị hắt nước vào đầu, ném gói giấy đựng rác, hất bô đựng phân vào người. (Nhưng thật lạ. Bên ngoài bẩn thế mà mở khóa - các loại khóa - khóa nổi, khóa chìm, khóa từ tính, loại khóa hiện đại nhất do những người đi tàu nước ngoài mang về, bước vào nhà là cả một thiên đường sạch sẽ. Sạch không một gợn nơi bàn chân trần, mát lạnh. Tivi, cassette, tủ lạnh, dàn nhấp nháy đều không một hạt bụi. Lau. Lau suốt ngày. Sàn nhà. Mặt bàn, mặt xa lông...)

Đấy là nỗi khổ chung. Riêng nhà Bôn và các gia đình trong dãy nhà B còn một nỗi khổ khác: Những lời đối đáp, chửi nhau của vợ chồng một chị bán bia mới dọn đến hơn năm nay. Họ mua lại căn hộ của trưởng phòng tổ chức, khi trưởng phòng tổ chức chuyển đến ngôi nhà ba tầng mới xây ở Cầu Tre. Nghĩa là vợ chồng chị bán bia ở sát ngay nhà Bôn. Ban ngày ngôi nhà gần như hoàn toàn yên ắng. Chỉ có một thằng con giai đang học lớp 5. Anh chồng đã hai lần vượt biên sang Hong Kong, nhưng đều bị trả về, không được định cư ở nước thứ ba. Anh làm thợ xây tự do, khi đi khi về im như bồ thóc, lúc nào cũng khép cửa, xóm làng chỉ biết anh có nhà khi thấy thằng con anh cầm chai đi mua rượu. Cho đến khi chị vợ ở cửa hàng bia ngoài cổng cảng chính về, thường là mười một mười hai giờ đêm, nghĩa là buổi sum họp bắt đầu khi một ngày lao động mệt nhọc đầu tắt mặt tối kết thúc. Các nhà đã tắt đèn buông màn đi ngủ. Lúc ấy đèn nhà nọ sáng trưng. Và bỗng nhiên, tiếng quát của anh chồng vang lên:

- Sáng mai bố mày cứ nấu cơm ăn bình thường, mày không muốn ăn với bố mày thì mày đi chỗ khác. Nhà này là nhà của bố mày. Bố mày báo trước cho mà biết.

- Rất tiếc là bố mày chưa được uống máu lồn nhé.

- Đừng có mà dọa bố mày. Mày lồn sành ghe đá thì bố mày buổi vá xi măng nhé. Bố mày báo trước cho mà biết.

- Bố mày lấy mày. Bố mày không biết mày đĩ như thế nào à?

- Còn gạo là sáng mai bố mày nấu cơm ăn. Bố mày chậm lương chứ không phải bố mày không có lương nhé. Báo trước cho mà biết.

- Bố mày không bỏ mày. Bố mày cứ ám. Báo trước cho mà biết. Thách cả họ nhà mày cũng không bỏ được bố mày đâu.

Thường là nghe tiếng của anh chồng. Còn tiếng chị vợ chỉ văng vẳng tít mãi phía trong bếp. Thoảng khi chị vợ ở gian ngoài, những lúc ấy Bôn nghe rõ tiếng chị vợ đối đáp:

- Địt mẹ mày. Tao chửi mày đấy.

Anh chồng gầm lên:

- Địt mẹ đồ đĩ.

- Con mẹ mày đĩ. Đĩ cái thằng bố mày.

Im lặng một lúc rồi lại tiếng chị bán bia:

- Li dị. Không ghen tuông làm gì. Không hợp nhau thì li dị. Tao với mày không thể hợp được. Tao lấy mày từ lúc lấm tấm, bây giờ chấm kheo. Tao còn lạ gì mày.

Anh chồng gầm lên:

- Bố mày không li dị. Bố mày cứ ám. Mai bố mày có chết bố mày cũng không cần cơ mà. Tí nữa bố mày có chết bố mày cũng không cần cơ mà. Bố mày đang điên đây. Báo trước cho mà biết.

- Điên thì làm đéo gì phải báo trước.

Cứ như vậy, những câu chữ tục tĩu nhất được văng ra trong đêm khuya lúc vang vọng cả dãy nhà, lúc ôn tồn trầm bổng như một cuộc tâm tình. Cứ tưởng sẽ đánh nhau đến nơi. Sẽ đập phá đến nơi. Nhưng bỗng nghe tiếng anh chồng hạ giọng:

- Thôi. Bây giờ bố mày đi ngủ nhé.

Tiếng "nhé" nhẹ hẳn đi, gần như âu yếm.

Nằm bên này vợ chồng Bôn nghe những cuộc chửi nhau thường xuyên tối tối, mới đầu buồn cười, nhưng sau lại thấy buồn. Cuộc sống như vậy là địa ngục. Nhưng vẫn phải sống thôi. Bôn tự hỏi không biết nghe bố mẹ chửi nhau như vậy, thằng con giai của họ nghĩ gì. Nó có học được không? Thằng bé rất kháu khỉnh và lễ phép, gặp Bôn đâu là khoanh tay cúi đầu chào. Rồi anh lại nghĩ đến hai đứa con anh. Đêm nào cũng những cuộc đối thoại như vậy, hẳn sẽ ảnh hưỏng đến chúng nó. Và anh lại thấy cần phải nhanh chóng rời khỏi khu sân sau của xí nghiệp. Tìm mọi cách sớm rời khu sân sau của xí nghiệp. Anh chi tiêu rất tiết kiệm. Là một người chừng mực anh không sa lầy vào những cuộc nhậu, những cuộc chơi thâu đêm như một số cán bộ tàu khác hay như một số thuyền viên chính tàu anh. Đã có lần anh theo anh em thuyền viên tàu anh lên bờ khi cập cảng Vũng Tàu. Chưa tới cảng, không khí đã nhộn nhạo hẳn lên. Anh em buôn bột mì gièm pha cánh đảnh hàng sữa. Anh em buôn sữa trêu chòng trở lại: Bột mì kỳ này toi. Đi buôn là phải theo cái lỗ. Chuyến trước, buôn sữa bị lỗ thì chuyến này lại phải buôn tiếp sữa vì ai cũng sợ sữa lỗ rồi đổ xô vào buôn bột mì. Vì thế bột mì chuyến này nhất định ế. Và bắt chước giọng con buôn õng ẹo: "Anh ơi. Anh có sữa chúng em mua. Còn bột mì để chuyến sau anh nhé!" Tuy trêu nhau như đùa cợt nhưng ai cũng lo. Giá cả lên xuống thất thường. Bôn cũng lo. Khi đi đánh cá ở Vịnh Thái Lan, tàu to tàu nhỏ, tàu nào chả đầy ắp một bụng hàng. Hàng trong cabin, hàng trong hầm cá, hàng trong kho bếp, hàng trong nhiều ô, nhiều khoang ngóc ngách. Nhiều khi nhầm lẫn đi đến cãi nhau.

Mọi chuyến cập Vũng Tàu, anh đều ở lại tàu. Anh em lên bờ gần hết. Cả tàu gần như vắng không. Chỉ còn anh, cấp dưỡng Tích tay nải thân yêu và hai người trực ban, một máy, một boong. Tích bưng từ bếp lên chiếc mâm nhôm trên có một con gà luộc còn nghi ngút khói, một đĩa hoa, một chai Lúa Mới và gọi anh. Anh xách cái ghế đẩu nhựa xuống boong. Tích đặt mâm cúng lên ghế đặt sát mũi tàu, gần chỗ tơi neo. Anh thắp hương, kính cẩn vái năm vái. Anh không biết khấn. Phần khấn bao giờ cũng là anh nuôi Tích. Anh im lặng lắng nghe tiếng rì rầm của Tích. Chẳng thấy gì ngoài những tiếng xuýt xoa. Giữa trời nước mênh mông vắng lặng lúc chiều tà, trong khói hương bay, những tiếng xuýt xoa rì rầm của ông già Tích đầy vẻ thiêng liêng. Rồi sau đó, bốn người (cả hai đồng chí trực ban boong, máy) về câu lạc bộ thụ lộc. Uống. Ăn thịt gà. Xôi. Đã có lần Bôn hỏi T ích khấn những gì. Tích nghiêm chỉnh trả lời à thì cũng xin Hà bá, Thổ thần phù hộ cho tàu gặp may mắn, biển lặng gió êm, khai thác được nhiều, an toàn hàng hải, an toàn ván lưới, hài hòa ba lợi ích, hàng họ anh em mang vào lãi nhiều, một vốn bốn lời...

Bôn có cảm giác những lúc tàu vắng vẻ khi vừa cập bến Vũng Tàu, tất cả kéo nhau lên bờ chỉ còn lại bốn người như thế này là những lúc đặc biệt thanh thản trong lòng người cấp dưỡng già. Cắt tiết con gà, thổi nồi cơm nếp, bày đĩa hoa, mở nắp chai rượu, Tích đúng là người anh cả trên tàu, là người chủ một gia đình trong những ngày giỗ chạp tết nhất. Và sau bữa rượu như thế, Tích thường ngồi lại nói với Bôn biết bao nhiêu chuyện. Chuyện T ích đi bộ đội chống Pháp ngày trước. Chuyện Tích về nhà ở Thanh Miện. Chuyến về bắc được cái cầu ao. Chuyến làm được cái chuồng lợn, bỏ chuồng được đôi lợn con. Bố Tích có hai bà. Tích là con bà cả. Nhưng bà trẻ lại ở với vợ con Tích. Gọi là trẻ thôi cũng ngoài bảy mươi cả rồi. Tôi dặn nhà tôi, có nấu bát canh thì cứ cho thêm tí nước vào, rồi thêm tí mì chính, tiêu chuẩn mì chính của tôi lúc nào cũng có, bà không phải lo, cua vẫn thế, rau vẫn thế mà có thêm bát canh, bữa ăn bưng sang biếu bà già một bát. Thế là các cụ vui, thì tính người già ấy mà. Có gói kẹo cho trẻ cũng đừng đưa cho chúng nó. Đưa cho cụ nói là con biếu bà, bà nào ăn một mình. Với lại kẹo cứng các cụ chỉ ngậm thôi. Mà cũng đừng đưa cho một cụ. Phải mỗi cụ một gói. Nếu chỉ có một gói thì phải san đôi. Rồi Tích kể đến cái đận có tivi mới khổ. Tối nào cũng phải đun một nồi nước vối rõ to, một bó đóm để hút thuốc lào. Tối nào cũng phải thức khuya, khách về hết mới đi nằm. Mà nào có được đi nằm ngay đâu. Còn phải đem vồ gõ lại giường. Còn phải đổ xỉ ở bát điếu, còn phải quét nhà. Tất cả là thằng lớn hết. Bây giờ thằng lớn đã đi học trường công nhân kỹ thuật, thì đến ông thứ hai. Ông này tôi đang tính phải làm sao chứ như thằng anh thì chán quá. Tôi bảo cháu cố gắng con ạ, phải vào được đại học mới mát mày mát mặt được. Cháu học khá. Chỉ hơi kém môn toán. Tôi bảo bà ấy nhà tôi không bắt cháu làm lụng đồng áng, cơm nước. Để cháu tập trung vào học. Ưu tiên bồi dưỡng cho cháu để có đủ sức khỏe... Biết cá heo là loài cá đặc biệt thông minh, hễ đánh được con cá heo, thế nào Tích cũng cắt lấy cái đầu, cất vào kho lạnh, để khi cập bến đèo về quê cho con ăn óc cá...

--------------------------------

1

Tiết mục Những bông hoa nhỏ dành cho trẻ em mở đầu chương trình truyền hình buổi tối.

2

Đồng tiền của chúng ta giá trị lên xuống thay đổi không ngừng theo năm tháng. Xin hiểu theo ý nghĩa văn học.

3

Tử hình.

VII

Chuyến ấy tới Vũng Tàu buổi tối, Bôn không ở lại tàu với Tích. Anh em chèo kéo, với lại anh cũng muốn đi một lần với các thuyền viên, tận mắt thấy những gì anh em làm khi lên bờ, những điều anh vẫn nghe anh em hào hứng kể lại. Vũng Tàu anh vẫn lên. Nhưng là lên vào ban ngày ban mặt. Để dạo chơi. Để ngắm thành phố. Để uống một cốc nước mát thư giãn. Đây là lần đầu tiên anh đi với mọi người, mà lại đi vào buổi tối...

Khi tời khởi động, chiếc xuồng cứu sinh được đưa ra khỏi be và hạ nhẹ nhàng xuống mặt nước, khi chiếc thang dây được móc chặt vào thành tàu, anh cùng mọi người lần lượt xuống xuồng. Và khi xuồng cập bến dốc đá xoai xoải, nhảy lên bờ, anh lom khom toan té nước rửa hai bàn tay đen bẩn vì vừa nắm thang dây, Chiêm, một máy hay vui tính nghịch ngợm trẻ trung và đẹp trai kéo tay anh:

- Không phải rửa thủ trưởng ạ. Bao nhiêu lồn đĩ nó chịu hết. Hôm nay thủ trưởng phải đi với em. Em làm hướng dẫn viên du lịch cho thủ trưởng.

Chiêm kéo anh đi như kéo tay một đứa trẻ. Anh gỡ ra và bước chậm lại phía sau. Bãi Trước. Những hàng dừa tối, vắng vẻ. Ánh điện đường hoe hoe lốm đốm. Thế mà lạ thay, từ trong bóng tối rặng dừa, từ các khay thuốc lá vỉa hè, tiếng những cô gái vang lên:

- Anh Chiêm!

- Tàu Hạ Long 414! Các anh tàu 414 đã vào!

- Em chào anh Mai!

Những tiếng chào cất lên trên dọc đường họ đi. Nhưng không ai dừng lại. Đến khi một đám con gái từ phía bờ biển chạy ra cản đường, Chiêm thay mặt các thuyền viên, hỏi các em:

- Bọn anh vừa vào đến đây. Tiền không có. Sữa chưa bán được. Các em có đồng ý cho chơi chịu không? Mai bọn anh bán được sữa sẽ trả.

Một cô bảo:

- Được chứ. Các anh Hạ Long có bao giờ lại quịt bọn em.

Vẫn Chiêm:

- Giá cả thế nào, có thay đổi gì không?

- Vẫn thế. Các anh làm phát một hay cả đêm?

- Hãy để bọn anh kiểm tra máy móc cái đã.

Chỉ cố gắng được đến thế, Bôn bước sang bên kia đường gần như chạy. Anh không thể hình dung được người ta có thể nói với nhau như vậy. Vẫn biết cánh thuyền viên là những người nói năng tục tĩu bỗ bã sống sượng nhưng đến mức ấy thì quá thể. Nhất là người ấy lại là Chiêm. Máy phó, một máy phó rất có trách nhiệm của anh. Một thanh niên cao lớn, đẹp trai đã có vợ, một con. Vợ Chiêm cũng là một cô gái nhan sắc, nước da trắng mịn, đôi mắt trong sáng mở to, hai má bầu bĩnh ưng ửng hồng như xoa một lượt phấn mỏng, làm nghề dạy học. Dù không nói ra nhưng ai cũng biết Chiêm tự hào về vợ. Là con một ông vụ vị gì đó ở Hà Nội, Chiêm nói năng từ tốn nhẹ nhàng, thỉnh thoảng lại chêm một vài câu bông phèng làm tất cả bật cười, nhưng chưa bao giờ Chiêm nói tục. Hình như hôm nay Chiêm cố làm ra vẻ bụi, ăn chơi bạt mạng, lọc lõi trên tài dân ăn chơi Vũng Tàu để được các em kính nể và nhất là không bị các em cho vào xiếc. Kìa! Chiêm đang thọc tay vào quần một cô gái và duề một cái rõ to ngụ ý chê bai, du mạnh cô gái ra, rồi tách khỏi đám đông, chạy sang bên kia đường với Bôn, vừa thở vừa cười:

- Làm thế để chúng nó sợ. Để chúng nó khỏi xả quác. Thủ trưởng thông cảm cho em.

Biết thuyền trưởng không muốn tham gia vào những trò chơi như vậy, nhưng đi đâu bây giờ? Nhìn nét mặt khó đăm đăm của thuyền trưởng, Chiêm khoác tay anh, reo lên:

- Hay là anh em mình đến nhà ông Nhâm đi.

Bôn tươi tỉnh hẳn lên:

- Phải đấy. Linh hai cũng mới từ Hong Kong về. Đang đỗ đây. Cuối bãi.

Anh không muốn sự có mặt của mình cản trở cuộc vui của anh em. Thủy thủ là vậy. Làm việc. Vật lộn với công việc. Hết mình. Nhưng cũng chơi hết mình. Cuộc đời họ gắn với biển, với các cảng, các bến sông, trôi nổi như sóng như nước, tàu là nhà, nhà là quán trọ, quanh quẩn mấy chục mét vuông, từ cái giường hẹp ra ngoài hành lang, từ hành lang ra boong, từ boong xuống hầm cá, xuống buồng máy, lúc nào bàn chân cũng dẫm lên sắt thép, lúc nào cũng trong nhịp tàu rung, trong tiếng rền rền của tiếng máy tàu, khi làm việc, cũng như khi chơi, khi đánh bài, khi ăn khi ngủ. Nhịp rung và tiếng rền của máy tàu đã là cuộc sống nhưng vẫn cứ giục giã làm người ta không yên, căng thần kinh, căng da đầu da mặt, thúc vào bụng vào ngực, bám vào từng tế bào như một chất keo dính nhớp không rời. Chỉ đến khi tắt máy mới thấy à, cuộc sống bình thường là như thế đấy. Mặt bằng bàn chân dẫm lên im lặng, bình yên, mặt bằng dưới lưng im lặng bình yên, bữa cơm bình yên, giấc ngủ bình yên, chiếc ghế mình ngồi lặng im ngoan ngoãn... Bỗng thấy một cuộc sống khác hẳn, một cuộc sống không có tiếng máy tàu. Tất cả dịu lại, chùng lại.

Những người đi tàu, kể cả Bôn, là những người sống giản đơn với những gì gần bản năng và cũng là những người lạc hậu. Quanh quẩn trong căn buồng hẹp. Đi trong hành lang hẹp. Rồi xuống buồng máy nếu là thợ máy, đi ra boong lái boong mũi nếu là thủy thủ. Cái boong lái giống như mảnh sân trong một gia đình. Làm việc ở đấy. Gieo trồng ở đấy. Thu hoạch ở đấy. Giữa trưa hè nắng đổ cũng là ở đấy. Mưa dầm gió bấc buốt xương hay trời mưa rào sầm sập trút nước cũng là ở đấy. Và khi trăng lên, nghỉ ngơi cũng là ở đấy. Người thủy thủ phải tranh thủ tất cả vì công việc. "Ăn nhanh lên!" Hoặc "Rồi hãy ăn!" Đó là những câu nói thường nghe thấy trên tàu cá. "Ăn nhanh lên!" hoặc "Rồi hãy ăn!" để có lưới đánh, để thả xong mẻ lưới, để cho cá vào khay, để cho cá xuống hầm, để kéo lưới. Đã ăn lưng lửng rồi thì "ăn nhanh lên!" Mới bưng bát cơm lên lùa vài miếng thì "rồi hãy ăn!" Để đến khi về câu lạc bộ, cơm canh nguội ngắt và đã quên hẳn bữa ăn rồi. Cứ như vậy cộng với bài bạc, đánh cờ ăn tiền (không thể đánh suông được. Nhạt phèo!). Và nói tục. Tục như tàu cá. Mở miệng là các từ tục tĩu văng ra. Như sắp điên đến nơi, sắp đánh nhau đến nơi. Cuộc sống là tối thiểu. Sợi dây liên hệ với gia đình không còn. Sợi dây liên hệ với xã hội chỉ là chiếc radio, những tin tức phát đi qua chiếc loa treo ở trụ đèn chính trên boong thượng. Loa kêu đấy, nói đấy, truyền đi tin tức đấy nhưng thật ít người nghe. Vì vậy khi lên bờ họ sống bù lại những tháng ngày lênh đênh trên biển. (Tàu cá còn khổ hơn tàu buôn nhiều. Tàu buôn trên biển là chỉ hành trình. Chẳng tàu buôn nào cày cuốc lao động ba tháng liền trên biển như tàu cá). Có người còn không biết Tổng bí thư Đảng, Chủ tịch Nước là ai.

Bôn biết chẳng thể gò anh em vào khuôn phép. Nhưng anh cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa anh với những người ở đất liền. Nếu không có gì cản trở, anh nghe không bỏ sót một buổi phát thanh nào. Mỗi chuyến biển anh đều lên thư viện mượn một hai quyển sách và tranh thủ đọc. Trên tàu có hai thủy thủ giống anh: mượn sách. Giáp và Mai. Mai mượn sách văn nghệ: Quy luật của muôn đời. Rừng xà nu. Chiếc lược ngà. Giáp mượn sách lý luận, sách chính trị. Chủ nghĩa Lenin và vấn đề dân tộc. Đấu tranh giai cấp động lực của phát triển. Toàn sách nặng. Mai bảo Giáp: Cẩn thận đấy. Bên Viện Triết mà biết họ điều sang là ngành đánh cá mất toi một nhân tài đấy. Giáp cười: Mất một nhà đánh cá nhưng lại có thêm một nhà lý luận. Thỉnh thoảng Bôn hỏi Giáp: Đọc đến đâu rồi. Giáp cười: Đọc nát cả bộ óc dân chài mà chẳng hiểu gì. Dù sao Bôn cũng quý Mai quý Giáp. Họ cũng đánh bạc, khi điên lên cũng rặt một giọng gai cá gúng, đuôi cá đuối, sẵn sàng đi đến ẩu đả nhưng vẫn dành thời gian đọc sách. Những người đọc sách bao giờ cũng hơn những người không đọc sách. Qua cơn nóng giận, họ biết mình phải làm gì và thế nào là lẽ phải. Anh chẳng thể bắt mọi người trên tàu đều đọc sách. Anh chỉ đòi hỏi họ điều tối thiểu: Phải bảo đảm nội quy, đảm bảo chế độ trực ca, phải hoàn thành chức danh nhiệm vụ. Như Chiêm đây, tếu táo thế nhưng là một máy phó miễn chê.

Anh bước bên Chiêm như một người em bước theo một người anh, vì đất vỉa hè Vũng Tàu này là đất của Chiêm. Anh cám ơn Chiêm vì Chiêm đã giải thoát cho anh khỏi một tình huống khó xử: Đi đến nhà Nhâm. Nhâm cùng quê với vợ anh: Cẩm Giàng Hải Dương và có họ xa với vợ anh, vai vế còn là chú vợ anh nữa. Nhâm cũng đã một thời gian làm thủy thủ trưởng cho anh. Người nhỏ thó, nhưng công việc luôn hoàn thành. Các thiết bị trên boong luôn được vệ sinh, che đậy, chăm chút. Bôn nhớ nhất cái lần đi ngang qua vùng biển Quy Nhơn, gặp bão. Buổi sáng trời vẫn đẹp. Gió chỉ hây hẩy. Những con cá chuồn bay thành đàn qua tàu, nhiều con lao xuống boong, lao vào vách cabin như những viên đạn. Thế nhưng đến chiều trời chuyển. Bôn cho tàu chạy tiếng ba, cố vượt qua cơn bão. Nhưng không kịp. Gió về nhanh quá. Chập tối gặp bão. Tàu nghiêng ngả. Mấy chục chai gió, mỗi chai nặng non tạ xếp trên boong lái đã chằng buộc bằng dây cáp cẩn thận, xô vào nhau kêu rầm rầm. Nếu nó hất tung dây chằng thì thật nguy hiểm. Những bình thép như những quả bom sẽ lăn trên boong, xô vào nhau, thúc vào miệng hầm cá, nguy hại hơn là đâm thủng be tàu và đến lúc ấy tất cả sẽ bó tay, bởi không ai có thể bước ra giữa những bình thép lăn lóc, lao điên cuồng trên mặt boong nghiêng ngả. Bôn cùng anh em xông ra, trong ánh đèn pha mọi người dùng tay ghì lại sợi cáp chằng đang lỏng dần. Những hạt mưa chéo quất rát mặt.

Gió thổi nghiêng người.

Tàu tròng trành khiến nhiều người trượt ngã. Cái chính là phải có những sợi dây mềm như dây ni lông, dây manila. Dây cáp cứng quá. Khó ghì. Lạt mềm buộc chặt. Các cụ đã nói vậy. Vừa nghĩ đến sợi dây mềm thì Nhâm ở đâu chạy ra với một tấm lưới ni lông cũ. Nhanh như chớp, tấm lưới được tung ra choàng lên toàn bộ mấy chục bình thép. Rồi từng mối dây được buộc, được cột chặt vào be, vào trụ ván, vào bệ tơi, vòng quanh cả miệng hầm cá. Tàu chạy dăm hải lý thì ra ngoài vùng bão. Căn cứ vào dự báo của nha khí tượng, Bôn đã tính toán tàu sẽ qua vùng biển ấy bão mới đến, nhưng bão đã đi nhanh hơn dự báo nên tàu anh chỉ chịu bão có nửa tiếng đồng hồ. Âu cũng là một bài học kinh nghiệm. Cũng chỉ bởi Bôn không muốn chạy vào đảo trú gió. Nửa ngày vào, nửa ngày ra. Lại phải chờ ít nhất một, hai ngày cho bão tan...

Là người hiền lành chịu khó, Nhâm được nhiều người mến. Nhâm không thắc mắc với ai, kèn cựa với ai. Kiểu gì cũng xong. Anh em bảo thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Vừa chuyển sang tàu 2 được mấy tháng, đã được cùng cả tàu chụp ảnh làm hộ chiếu đi nước ngoài. Đi ngay từ những chuyến đầu tiên. Nhâm đã lấy một cô vợ ở Vũng Tàu. Đã mua nhà. Cha mẹ mất cả. Bốn nhăm tuổi vẫn độc thân. Cũng đã một lần lấy vợ ở quê, nhưng lấy phải người chẳng ra gì. Chồng đi biền biệt, ở nhà một mình, vợ Nhâm trở thành mụ Hến của đám nghêu sò ở xã, đẻ ba năm hai đứa, chẳng biết con ai nhưng chắc chắn không phải con Nhâm. Từ bấy Nhâm không về làng nữa. Biết Nhâm buồn, muốn có vợ, có một gia đình, anh em chia sẻ với Nhâm bằng cách của những người thủy thủ:

- Vợ con làm gì. Cứ đâm bậy một thương rồi bỏ chạy.

Thế là mọi người thương Nhâm đấy. Bởi họ biết rằng Nhâm chẳng bao giờ "đâm bậy một thương rồi bỏ chạy" như họ. Nhâm không chơi bời. Nhâm ăn tiêu đúng kế hoạch, cố gắng dành dụm. Tàu sửa chữa, bao giờ Nhâm cũng cùng anh em nhận một công việc gì đấy như gõ gỉ, vệ sinh hầm la canh, dưới khẩu hiệu giải phóng tàu nhanh nhưng thực chất là để có thêm thu nhập. Chẳng biết số tiền Nhâm dành dụm được bao nhiêu, chỉ biết khi được đi nước ngoài, mọi người kể cả thuyền trưởng, máy trưởng đều phải đi vay tiền và nhận vàng từ những người thân gửi mua cái áo lông, cái quạt cũ, cái đầu máy khâu làm vốn buôn ban đầu nhưng Nhâm thì không. Có đánh hàng Nhâm cũng chỉ làm vừa phải. Nhiều lắm là gấp hai lần tiêu chuẩn. Mà chủ yếu là những hàng như thuốc lá, thuốc con nhộng, xà phòng thơm, xích líp, máy tính bỏ túi, những thứ gọn, nhẹ, qua mặt hải quan được, những thứ bông hoa nhỏ được. Những bông hoa nhỏ là danh từ anh em chỉ việc mang hàng ít một lên bờ, nói theo tên gọi chương trình truyền hình dành cho các cháu thiếu nhi hồi đó. Trong những lần hoa nhỏ ở Vũng Tàu, Nhâm đã gặp người sau này sẽ là vợ Nhâm: Một cô bán thuốc lá vỉa hè. Đang xách túi đi tìm người bán hàng quen thì có tiếng gọi "anh có gì bán đấy, cho em coi nào". Tiếng gọi ngọt ngào, dễ thương gần như nũng nịu. Nhâm bước lại. Một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi. Son phấn, xinh tươi, người miền Nam mà da trắng thế. Thuốc lá, xà phòng, máy tính,... cô mua hết. Khi Nhâm về, cô đứng lên chỉ tay vào ngôi nhà tối ngay sau lưng:

- Em ở đây nè. Tầng hai. Có hàng anh mang đến cho em, bao nhiêu em mua hết. Em trả như người ta, không để anh thiệt. Không thấy em ngồi đây, anh cứ vô nhà. Hỏi em ai cũng biết. Em kêu tên Huệ. Dễ nhớ lắm mà.

Thế là tất cả những hàng bông hoa nhỏ chuyến ấy và những chuyến sau Nhâm đều bán cho Huệ. Rồi Huệ mời Nhâm lên căn buồng xoàng xĩnh độc thân của Huệ. Rồi chuyện mua đô la Nhâm cũng chẳng phải lo nữa. Đã có Huệ. Nhâm thấy Huệ là người hiếm có ở chỗ trong việc mua bán Huệ rất thật thà. Mua hàng của anh, Huệ chưa bao giờ trả thấp hơn những anh em thuyền viên khác, cũng như Huệ tính giá đô la với anh chưa một lần cao hơn.

Tất cả mọi chuyện ấy, Nhâm giấu kín. Anh em dưới tàu không một ai biết. Nhâm chỉ kể khi hai người quyết định lấy nhau. Cả tàu đã lên thăm căn buồng của Huệ giờ đây là căn buồng hạnh phúc của hai người. Cô ấy chính quê An Giang, chẳng hiểu làm sao lại lấy chồng Vũng Tàu. Nhà này là nhà thuê của nhà nước. Thằng chồng quá khốn nạn suốt ngày rượu chè, đánh đập cô ấy. Không chịu được, cô ấy đã li dị. Đã có một đứa con, nhưng nó chết vì sốt xuất huyết cách đây ba năm. Đại khái cái lý lịch trích ngang của vợ do Nhâm kể là như vậy.

Lấy vợ được mấy tháng trông Nhâm thay đổi hẳn. Hoàn toàn là một người khác. Béo đỏ, da căng. Mặt mày tươi tắn sáng sủa mỡ màng, không còn làn da khô khốc đen sạm trên khuôn mặt khó đăm đăm lúc nào như cũng đang suy nghĩ căng thẳng, tính toán một điều gì. Tàu về, không phải trực là lên bờ, về với Huệ. Là những bữa ăn ngon, bổ, những gà ác tần hạt sen, là chim hầm thuốc bắc, là rượu thuốc (cưng uống bia ít thôi, uống thứ ấy chỉ tội nặng bụng, không được việc gì cho em là em bắt đền đó nghe cưng) là cô vợ trẻ thơm nức từ gót lên đến đầu với những bộ váy áo mỏng manh quyến rũ hết lòng chăm sóc chồng, sẵn sàng chiều chồng bất cứ lúc nào, lúc nào cũng thương chồng vất vả. Là những buổi xe máy thong thả đèo vợ đi lượn phố hay vào các hiệu may chọn mặt vải đo cắt cho Huệ. Căn buồng của Huệ chật cứng những đồ đạc đắt tiền. Cái tivi màu 19 inch mua ở Nhật. Chiếc tủ lạnh Toshiba hai cánh 250 lít cũng là của Nhật. Rồi dàn loa, rồi quạt máy, rồi điều hòa, cả đến cái tủ trang điểm của Huệ cũng là đồ Nhật xịn. Chiếc tủ đứng cũ kỹ được thay bằng chiếc tủ gỗ cẩm lai mới cứng. Rồi xa lông. "Vợ Nhâm phải đúng là vợ Nhâm chứ!" Anh em đến chơi nhà đều mừng cho Nhâm, khen Nhâm tốt số. Cũng lại là thần hoàng đãi kẻ ngẩn ngơ! Rõ ràng Nhâm đã đổi đời. Và cũng rõ ràng căn buồng trên gác hai này đã trở nên quá chật. Huệ bàn với Nhâm mua một căn nhà khác. Một ngôi nhà hai tầng mặt tiền của một gia đình chuẩn bị vượt biên. "Cùng lắm mới phải chịu ở thế này thôi cưng. Em muốn chuyển từ lâu rồi nhưng không có tiền phải chịu. Rồi còn sinh con nữa chứ cưng. Hình như em mang bầu rồi đây nè..." Huệ kéo chiếc váy mỏng lên rồi cầm tay Nhâm day day xoa xoa vào bụng mình, nũng nịu. Khi Nhâm đồng ý mua ngôi nhà ấy (ai cũng công nhận rẻ được một cây) Huệ đánh đu lên cổ Nhâm làm Nhâm loạng choạng đổ xuống giường, và thế là một cuộc ngẫu hứng bất chợt ngoài dự kiến đưa hai người tới thiên đường...

Nhâm làm tất cả cho ngôi nhà mới mua thêm đẹp. Chăm chút từ màu sắc tường, màu sơn cửa, tấm rèm tới bức tranh treo tường, chiếc đèn ngủ. Và luôn miệng: Vợ Nhâm phải đúng là vợ Nhâm chứ. Mọi người bảo Nhâm tốt số, từ bé đến giờ không được ai thương yêu chăm sóc, bây giờ như vậy chẳng qua là luật bù trừ. Chiêm lắc đầu:

- Ông Nhâm vất vả quá. Cứ đâm bậy một thương rồi bỏ chạy có phải nhàn nhã hơn không.

Thế nghĩa là Chiêm mừng cho Nhâm đã nên người. Bôn cũng vậy. Cánh tàu khối người bồ bịch, có người có cả vợ hai. Điều ấy Bôn phản đối. Ái tình phí nhiều đã hẳn, cắt hẳn một khoản trong ngân sách lẽ ra của vợ đem cho bồ là phạm vào đạo đức, chưa kể nhẫn tâm lừa dối người vợ cùi cụi nuôi con cho mình ở nhà khi mình đi biền biệt và vẫn tin rằng chồng chung thủy với mình.

Mà khốn nạn. Trừ những anh đi nước ngoài nhiều ít thế nào không biết, anh em đánh cá tiền có được là bao! Tàu anh, anh nghiêm cấm điều đó. Nhưng kiểu ăn bánh trả tiền hay nói theo cách của Chiêm đâm bậy một thương rồi bỏ chạy thì anh coi là cũng được. Cuộc đời thủy thủ tàu cá nào có mấy niềm vui. Hơn nữa, anh cũng chẳng thể cấm đoán anh em.

Kìa. Cái ngã tư có ngôi nhà chung quanh trồng toàn hoa giấy đã hiện ra. Qua đó rẽ phải là đến.

- Không biết ông Nhâm có nhà không.

- Tàu về hai ngày rồi. Chắc tối nay thế nào người cũng bông hoa nhỏ.

- Đến không gặp ông ấy thì ngồi với bà Huệ một lúc.

- Nghe nói ông Nhâm chỉ đi chuyến này rồi lên bờ có phải không.

Bôn gật đầu:

- Chuyến này xong là lên. Hôm nọ nghe Thục tổ chức nói thế. Lên là đăng ký rồi tổ chức cưới đấy.

- Hai năm đi nước ngoài. Ông ấy trúng số độc đắc còn gì. Có nhà. Có vợ. Lại được cô vợ đảm, chiều chồng hết ý. Lên bờ xin hưu non mở cửa hàng cà phê giải khát sống đỉnh đương. Chẳng phải đi đánh cá làm gì.

- Mình cũng nghe Nhâm nói sẽ nghỉ ngơi một năm rồi mở cửa hàng giải khát.

Cửa nhà Nhâm mở rộng, đèn tuýp sáng choang hắt ra hè. Chắc ông Nhâm có nhà rồi. Ngồi một tí thôi. Làm lon bia rồi về. Cảnh thủy thủ về bờ. Chẳng nên ám lâu.

Bôn bảo Chiêm. Chiêm đồng ý ngay, nhưng lại nói: "Bao giờ thấy mụ Huệ lườm nguýt mới về. Cho mụ ấy tức một trận. Mụ ấy là ngấu lắm rồi".

Thế nhưng vừa bước tới nơi, hai người sững lại ở cửa. Ngồi xa lông ngay phòng khách là một người đàn ông to béo, cởi trần bụng phệ, trên mình, trên hai cánh tay không chỗ nào không vằn vện những hình xăm trổ, cái quần xà lỏn màu cháo lòng, vừa rít thuốc lá vừa dán mắt vào màn hình tivi có hai người một nam một nữ đang ngửa cổ ca cải lương. Ghế bên kia là hai đứa trẻ, hai chị em, đứa lớn khoảng mười tuổi còn thằng em kém con chị chừng một hai tuổi. Một đứa hỏi:

- Ba! Sao ảnh lại bỏ cô Thúy, ba?

Người đàn ông gắt:

- Cứ coi tiếp đi rồi biết. Con Nhẫn! Mở tủ lạnh lấy cho ba lon bia nữa!

Hai người khách - vốn dĩ nhút nhát khi đến nhà một người lạ, lại càng thận trọng hơn trước những gì đang xảy ra, nép vội vào bóng tối vỉa hè. Không. Đúng là nhà Nhâm. Chiếc tủ lạnh Toshiba 250 lít hai cánh, bộ xa lông, cái rèm treo cửa sổ, bộ đèn chùm. Lại bức tranh hai con dê gặp nhau trên chiếc cầu bắc ngang suối sâu. Đúng là nhà Nhâm. Không nhầm mà. Nhưng ba bố con người đàn ông này là ai? Chỉ nhìn cách họ ngồi xem tivi, cách uống bia của người bố, cách mở tủ lạnh của đứa con gái thì rõ ràng họ là chủ ngôi nhà này. Kia rồi! Huệ! Huệ với chiếc váy liền áo, tóc búi cao từ phòng trong bước ra. Hình như vừa tắm xong. Tươi tắn, mát mẻ, rạng rỡ và thỏa mãn. Vẻ thỏa mãn của những người đạt được ước mơ.

- Chị Huệ.

Theo phản ứng bản năng, Chiêm cất tiếng gọi. Cả bốn người trong nhà quay ra. Người đàn ông đứng lên, khệnh khạng bước tới. Cao lớn, tay chân nung núc thịt, gườm gườm nhìn hai người. Rồi Huệ. Huệ với nét mặt thay đổi hẳn, đanh lạnh, cáu kỉnh, nhăn lại ghê tởm như trong thấy một ổ vi trùng lúc nhúc. Hai đứa trẻ lại dán mắt vào tivi, chiếc tivi màu 19 inch thời đó là cả một sự mê mẩn. Quá bất ngờ, nhưng thôi, đành phải hỏi thôi, chẳng thể nào rút lui được nữa.

Bôn bước lại sát bậc cửa. Chiêm theo sau. Nhìn cảnh này Chiêm đã đoán ra cơ sự rồi. Nhưng vẫn phải bước theo để có gì còn chia lửa với thủ trưởng. Người đàn ông không giấu vẻ giận dữ:

- Huệ. Người ta hỏi em nè.

Bôn lịch sự khe khẽ:

- Chị Huệ à. Anh Nhâm có nhà không chị?

Huệ tròn mắt miệng há hốc như đột nhiên đứng trước những quái thai quái gở nhất trên đời, không thể nào hiểu nổi:

- Nhâm nào? Ớ đây làm chi có ai tên Nhâm. Kỳ quá à!

Và quay ngoắt đi vào phía trong, ném một cái nguýt dài. Người đàn ông bước xáp tới Bôn, mắt long lên:

- Vớ vẩn! Xéo! Biến! Lần sau đừng có đến đây giở trỏ vớ vẩn ra nữa nhé. Hối không kịp đó. Nói trước cho biết!

Chiêm tươi cười:

- Vâng. Chúng tôi xin lỗi.

Hai người lặng lẽ bước tới ngã tư, nơi có ngôi nhà trồng toàn hoa giấy.

- Đau quá. Ông Nhâm đau quá.

- Cú lừa này mới là cú lừa thế kỷ.

- Ky cóp cho cọp nó xơi.

- Cao thủ. Đại cao thủ. Cho vợ mình làm vợ người ta một năm trời để chiếm toàn bộ dinh cơ. Đúng là đại cao thủ.

Cả hai đều hiểu ngay tất cả đầu đuôi câu chuyện. Cái mỹ nhân kế ấy phải nhằm đến đích mua một ngôi nhà. Và ngôi nhà ấy mang tên Huệ là chủ sở hữu. Nhâm không thể đứng tên hoặc đồng đứng tên bởi một lẽ giản đơn: Nhâm không có hộ khẩu. Lại không có đăng ký kết hôn.

- Suốt một năm vừa rồi không thấy thằng chồng với hai đứa con lai vãng đến đây. Thế mới sợ.

Hai người đều thương Nhâm và cảm thấy hận thay cho Nhâm. Giá Nhâm chơi bời trai gái đĩ bợm lại khác. Lừa những người ấy là khốn nạn nhưng vẫn có thể chấp nhận được. Còn đây là Nhâm. Một người độc thân. Ngoài bốn mươi nhưng vẫn chưa biết thế nào là tình yêu. Chiêm nói thành lời suy nghĩ của mình:

- Khổ thân ông ấy. Hai lần lấy vợ đều bị vợ lừa cho nên sếp thấy triết lý của tôi có đúng không! Cứ là đâm bậy một thương rồi bỏ chạy.

Chiêm cố cười. Còn Bôn không sao cười được.

° ° °

Trên bảng đen trong bếp chú Hùng ghi:

15 giờ 15 TL (thả lưới)

17 giờ 45 KL (kéo lưới)

Bên cạnh đó không biết ai đã vẽ hình con tàu của chúng tôi nom rất giống.

Trong thời gian tàu dắt lưới tất cả ngủ, chỉ trừ chú Lượng và chú Hùng đi ca hàng hải. Dưới buồng máy cũng có một thợ máy, tôi không biết là ai. Cuộc sống trên tàu thật đơn điệu. Những cái máy ăn. Những cái máy ngủ. Nhìn bố nằm ghếch chân lên thành giường mệt nhọc, những ý nghĩ giận hờn, hụt hẫng thất vọng tối hôm qua trong tôi có dịu đi phần nào. Tàu trở lại hoang vắng. Biển càng hoang vắng.

Một ngày một đêm tưng bừng phấn khởi. Toàn tàu linh hoạt hẳn lên. Bố linh hoạt hẳn lên. Bố gọi chú Hùng đang ở buồng lái vào, hai người cặm cụi trên hải đổ, đo đo tính tính. Mẻ nào cũng đạt trên một tạ tôm. Và rất nhiều cua. Những con cua bể giơ càng lởm chởm răng cưa dữ tợn. Nhặt tôm, muối cá và buộc cua. Có mẻ lưới không có thời gian ràng cua mà cứ lấy xẻng xúc vào lổ đổ vào nhà tắm rồi đóng chặt cửa lại. Những lúc mở cửa nhà tắm bỏ thêm cua vào, nhìn đống cua lổm cổm bò mà sướng mắt, mà phát khiếp: Chúng đổng loạt giơ càng lên cao như một rừng giáo mác. Trong lúc ngổi nhặt tôm với các chú thủy thủ, một con cua không biết từ đâu bò đến cắp vào mông tôi xuyên qua lượt quần lót máu chảy ròng ròng. Tôi đứng lên, con cua treo mình lủng lẳng càng cắp mạnh. Tôi cố gắng không kêu, không chảy nước mắt. Bác Sĩ vội xỏ găng tay vải bạt bẻ cái càng còn lại rồi ghé mồm cắn nát một gọng kìm của chiếc càng đang cắm sâu vào thịt tôi. Tôi phải vào buồng lấy dầu xanh xoa vào vết thương. Đúng là vết thương. Cái quần đùi bị thủng hai lỗ và ở mông tôi hai vết trũng rỉ máu như hai vết răng chó.

Tôm vàng. Cua bể và cá. Sáu mẻ lưới liên tiếp thắng lợi. Mọi người nhìn bố đầy vẻ kính phục. Họ nói với nhau: Ông Đáng bám tôm như ông Uy bám cá mối, không chạy đi đâu được. Và hát: "Không cho chúng nó thoát. Không cho chúng nó thoát. Chúng bay vào sẽ không có đường ra". Niềm vui từ đáy lòng nên thật là đồng cảm. Bây giờ tôi hiểu những mẻ lưới được nhiều tôm cá làm mọi người mệt nhưng vui vì những lý do gì rồi.

Đêm qua ngủ ngoài boong mũi. Chăn dạ trùm kín dù đang giữa mùa hè. Mơ mơ màng màng thấy tàu đến gần những con tàu ngoại quốc lớn đang buông neo. Ánh điện trên tàu sáng chói một vùng trời một vùng biển. Rồi lại thấy hàng măng sông lưới đèn sáp lại, lấp lánh. Biết rằng mình ngủ được vì từ những con tàu ngoại quốc buông neo chờ vào cảng đến những vàng lưới đèn cách nhau xa lắm.

Sáng làm tôm xong, mặt trời vẫn chưa mọc. Biển hiền lành. Trời dịu, biển dịu. Nhưng khi có một mảng hồng đầu tiên trên trời, biển đổi màu ngay. Từ đó là một sự đổi màu liên tục của biển vì trời đổi màu liên tục.

Mẻ lưới buổi trưa chỉ được mấy con cả dưa, một đống cả ngảc. Một chú thủy thủ cầm con dao nhọn rạch một nhảt vào bụng con cả dưa, moi ra cái bong bóng ròng ròng mảu, vặn nước rửa sạch rồi đem phơi. Còn cả ngảc thì xịt nước cho giạt ra be xuống biển. Bố bảo: Chuyển về Vạn Sơn thôi. Đàn tôm vàng hết hoặc tan rồi.

Tàu lại cẩu lưới chuyển về Vạn Sơn. Là nói vậy thôi chứ tôi thấy vùng biển nào cũng giống vùng biển nào. Cũng sóng cũng nước và nhìn về phía tây thỉnh thoảng lại thấy vệt xanh mờ của cây cối thì biết phía ấy là bờ, là đất liền.

Vạn Sơn. Đêm. Trăng chênh chếch. Chuông kéo lưới. Mảy giảm tốc độ. Đèn tối lại. Quạt chạy chậm lại. Mẻ lưới được ít nhưng nhiều tôm he. Những con tôm he râu và vi bụng đỏ như mảu tươi nom thật thích mắt. Bảo đảm mẹ tôi cũng như cả làng chưa ai nom thấy những con tôm như thế. Tôi nhặt năm con tôm he to định đem xuống bếp nướng, nhưng chú Hồng gọi lại: Cho vào ống xả. Một lúc là chín thôi cu ạ. Chờ chú. Chú Hồngxảch một con cả chim trắng to như cái quạt đi cùng với tôi lên chỗ ống khói. Hơi nóng tỏa ra. Chú xỏ một sợi dây vào mang con cả chim, rồi kẹp mấy con tôm của tôi lại, cho vào ống xả. Chú Lượng đổ cả một rổ tôm tít vào nồi bắc lên bếp luộc. Làm xong mẻ lưới, mọi người tụ tập cả ở boong lải. Bảc Nhớn xảch can chíu chương đã vơi vơi, một can rượu còn đầy lên. Tôi bóc con tôm he nướng thơm phức mời bảc Suất, mời bảc Sĩ, mời bố, nhưng tất cả bảo nhường tôi. Con tôm he to chấm tương ớt cắn một miếng đẫy mồm đẫy miệng. Vị tôm ngọt thơm, vị chíu chương cay cay. Cố gắng lắm tôi cũng chỉ ăn hết hai con. Ba con còn lại được bác Nhớn, chú Hùng, chú Quẹn tương trợ. Rượu rót ra chén ra cốc nhựa. Tôi cũng có một chén rượu đầy. Nhưng bố bảo:

- Thằng Phong không được uống rượu.

Tôi lại đặt chén xuống, mặc dù không muốn vâng lời chút nào, không muốn bị coi là trẻ con chút nào.

Nhưng bác Sĩ nói giúp tôi:

- Hôm nọ bên tàu ông Việt nó đã uống rồi đấy. Uống được. Con trai là phải biết uống rượu. Nam vô tửu như kỳ vô phong. Bác xin phép bố cho mày rồi. Uống đi. An những thứ này mà chiêu nước chè còn ra cái quái gì.

Tôi uống. Không bị sặc nữa. Nhưng vẫn cay quá. Nước mắt muốn chảy ra. Đúng là có hớp rượu, lại thấy muốn ăn. Tôi bóc một miếng cá chim. Rồi quay sang rổ tôm tít. Cái giống tôm bé, đầu to, có hai càng giống như hai càng cua này ăn rất mát ruột. Trăng sáng. Gió đã nhẹ đi nhiều. Sóng êm hơn. Chén rượu đầy để trên mặt boong chỉ sóng sánh chứ không nghiêng đổ ra ngoài. Đó là những giờ phút thư dãn đầm ấm dễ chịu nhất trên tàu, trong cuộc đời thủy thủ. Chú Hồng cười:

- Cứ thế này thì đi biển muôn năm!

Rồi lại:

- Biển này là biển hiền hòa. Biển này là bạn phương xa!

Bác Sĩ mỉa mai:

- Thuận buồm xuôi gió chén chú chén anh. Lên thác xuống ghềnh buồi anh dái chú.

Bố tôi bảo:

- Cố gắng đảnh được tấn rưỡi tôm thì về.

Rượu làm tôi lâng lâng. Các chú các bác rất cởi mở vui vẻ. Con cá chim đã biến mất hoàn toàn. Xương, vây, đầu cũng không còn. Rổ tôm tít chỉ còn lại vỏ. Bác Sĩ vào phòng đem ca chè trứ danh cùng phích nước ra. Tôi đứng dậy đi ra vịn lan can nhìn biển. Trăng chênh chếch lấp lánh. Những gợn sóng đẫm trăng rượt theo nhau như đã hẹn nhau đi tới một nơi nào đó, không dừng lại. Tàu vẫn đi, nhưng dù có quay ngược, quay xuôi thế nào cũng vẫn là một vệt trăng vàng bám đuổi không rời. Dòng nước phía đuôi tàu lõm xuống rồi cộn lên, hệt như biển đang đùn lên một dòng nước bằng vàng. Tiếng dây cu roa tải máy điện (bây giờ tôi biết những cỗ máy nhỏ vuông vức dưới buồng máy là máy điện rồi) tành tành, tành tành. Nhiều người cũng đứng dậy bước ra mạn, vịn lan can nhìn biển. Bố tôi bảo:

- Hồng ơi. Có nhớ Nam Cao không? Trăng chiếu trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng.

Bỗng ở phía xa trước mũi tàu một ngọn đèn lắc đi lắc lại rối rít. Bác Sĩ kêu lên: "Thuyền lưới rê!" Bố vặn vô lăng về phía phải. Bác Sĩ bảo:

- Thuyền nó ở cuối gió. Bao giờ cũng vậy. Lưới ở trên. Thuyền ở dưới. Rẽ ra là dính lưới đấy.

Bố cho tàu rẽ trái. Một lát sau, khi chúng tôi đang quây quần quanh đám tá lả ở buồng ăn, có tiếng thét của chú Hùng lùn: Lưới! Lưới rê! Bố vội nhảy lên buồng lái. Khi tôi lên còn nhìn thấy một cái cờ nửa đỏ nửa trắng nhấp nhô xa dần.

Tàu giảm tốc độ. Bố cho kéo lưới. Sợ bị quấn chân vịt.

Con tàu đã dừng hẳn dù mảy vẫn nổ. Khi trục tơi quay tròn kéo những mét dây cáp đầu tiên, nhìn những mảng lưới cước trắng quấn chung quanh cáp, một sự im lặng ghê gớm bao trùm tất cả. Không ai nói một câu. Nét mặt mọi người đầy lo lắng trừ bố. Tất cả im lặng làm việc. Không một lời nhắc nhở. Làm nhanh, làm dứt khoát. Làm vì biết nhiệm vụ phải làm. Làm để sớm xua đuổi nỗi ám ảnh: Gỡ cho nhanh những miếng lưới rê này để khỏi lôi thôi. Và cũng để biết rằng tàu có bị quấn chân vịt không. Ai cũng lo như vậy nên không ai dám nói ra. Nhìn nét mặt lạnh tanh của bố, tôi biết bố đang nghĩ ngợi rất lung. Nếu quấn chân vịt, máy không hoạt động được thì biết làm sao đây. Ba sợi cáp bị quấn chặt vào với nhau. Một lá cờ nhỏ đỏ trắng dắt ở ròng rọc đầu tăng gông. Những con dao nhỏ đầu nhọn sắc như nước được mang ra. Cắt lưới. Im lặng xẻo cắt. Trèo ra tăng gông. Tụt xuống ván. Ngồi hẳn trên giềng phao, ngâm chân xuống biển. Gỡ. Cắt. Xẻo. Rồi tất cả lên boong. Bố hạ lệnh tơi hoạt động để kéo đụt. Cái đụt đã ở ngay sát ván mà sao kéo không lên. Tang tơi cuộn từng vòng. Pu li rít ken két. Dây kéo đụt bằng ni lông trắng ngà to ngang chuôi dao căng thẳng. Đụt vẫn không nhúc nhích. Một chú nhấc dây cáp đặt lại trên be. Tơi lại rít ken két. Tàu hơi nghiêng đi. Mãi mới nhổ lên được cái đụt bê bết đất. Đụt bên kia cũng vậy. Lèo tèo vài kí tôm. Làm xong là mười một giờ đêm. Mọi người đã tưởng thôi không đánh nữa. Và đã có tiếng khe khẽ:

- Về đây là đè lưới rê ngay thôi mà.

- Cứ ở Lạch Trường lại hơn.

- Quyết đạt một tấn rưỡi tôm để làm gì nhỉ.

Không biết bố có nghe thấy không. Bố lên buồng lải giật chuông. Mảy nổ. Tiếng mảy giòn giã. Những bọt nước quạt lại phía sau trong ảnh đèn pha lúc này sao đảng yêu đến thế. Nó chứng tỏ tàu vẫn bình thường, khôngphải thả trôi. Không phải nhờ tàu đến cứu. Tiếng bố:

- Chuẩn bị thả lưới nhé!

Nhiều tiếng ngạc nhiên hỏi lại:

- Thả lưới à?

- Ừ. Thả lưới. Bố đảp nhẹ nhàng.

Đám người vừa lao động khẩn trương căng thẳng ôm đống lưới mới được buộc lại xốc xuống biển. Bố lại ra đứng chỗ chân cần cẩu nhìn xuống. Bảc Sĩ nhìn theo chiếc lưới còn chưa duỗi hết đang quấn vào nhau trong nước biển phía đuôi tàu dưới ảnh đèn pha, hốt hoảng:

- Sao thế kia.

Bố ôn tồn:

- Tốt. Không việc gì đâu.

Tàu đi. Dưới nước, lưới duỗi xuôi đẹp xa dần, chìm dần. Xong mọi công việc lúc ấy mới thấy trăng vàng vẫn chênh chếch mặt biển. Nhưng thôi ăn mì đã. Mặc dù đã ăn cả chim nướng, tôm tít luộc và cả tôm he nữa, bảc Nhớn vẫn nấu nồi mì tôm phục vụ mọi người đêm nay vất vả.

Đêm tôi lại ngủ trên boong thượng. Boong mũi vẫn còn mùi tanh của bữa ăn bốc lúc tối. Mơ mơ màng màng. Nghe có tiếng quảt. Và tiếng chú Hùng: "Không. Không có gì đâu". Ngồi nhỏm dậy thấy trong ảnh đèn hành trình hai cảnh buồm mở rộng, một chiếc nhô lên ngay mũi tàu. Và những người đứng trên thuyền lố nhố. Những người đi tìm lưới rê, tìm con tàu đã làm mất lưới của họ. Họ khua tay ra hiệu tàu dừng lại. Tiếng quát to:

- Tàu làm mất lưới rê của chúng tôi. Cho chúng tôi lên tàu.

Chú Hùng thét:

- Chúng tôi không biết lưới rê lưới kéo gì cả. Tránh ra, tàu đâm chúng tôi không chịu trách nhiệm.

Những người trên thuyền vẫn huơ tay ra hiệu. Sóng làm hai cánh buồm lúc hút xuống lúc nhô lên ngay bên mạn. Chú Hùng giật chuông. Máy tăng tốc độ, rùng rùng rướn tới bỏ lại chiếc thuyền buồm chở những người đánh cá mất phương tiện sinh sống trong bóng tối biển cả mênh mông. Tôi nằm, không ngủ được. Tôi ghét chú Hùng. Tôi ghét bố. Bây giờ tôi càng hiểu vì sao khi tàu quấn lưới rê, cả tàu phải cắt lưới và làm mọi việc nhanh như thế. Tôi thương những người đánh lưới rê. Trong bữa ăn tôi đã được nghe mọi người nói về lưới rê. Đó là thứ lưới thả nổi, dài hàng mấy trăm mét, rất nhiều tiền. Cuộc sống thật gian nan, vất vả, cực nhọc đầy rẫy những chuyện đau lòng.

Bố đã thức dậy đi ra buồng lái: Cái gì thế? Chú Hùng trả lời: Không có gì đâu. Họ đi tìm lưới rê đấy mà. Bố nhắc: Giảm tốc độ đi. Chú Hùng kéo tay chuông: Vừa nãy họ cứ chắn mũi tàu. Tăng tốc dọa họ tí thôi. Đã định nếu không tránh là mang súng ra bắn chỉ thiên. Bố nghiêm mặt: Đừng. Súng ống rách việc.

° ° °

- Buông dây lái cho xà lan dầu! Buông dây lái cho xà lan dầu!

- Mở van nước không vỡ ống bây giờ! Mở van nước ngay!

- Xông hết dây mũi, chỉ để lại một tao thôi!

- Xông từ từ dây mũi ra!

- Xông từ từ dây lái ra!

- Thu hết dây lái về! Thu hết dây lái về!

- Chuẩn bị dây lái để ném dây lái!

- Thu nhanh dây lái nếu bắt được dây lái!

- Ném lại đi! Chỉ ném một đoạn dây mồi cũng không xong!

- Ném dây lái lại đi!

Những tiếng loa vang động cả xí nghiệp rồi tắt hẳn khiến người ta biết ngay là tàu ông Chơn đang ở bến. Và sau những mệnh lệnh khi nghiêm khắc, khi càu nhàu gắt gỏng ấy là những tiếng còi tàu chứ không phải Đi mô chừ cũng nhớ về Hà Tĩnh thì người ta biết tàu ông Chơn tách bến đi sản xuất chứ không phải từ ngư trường về cập bến.

Trên buồng lái, Chơn nắm vô lăng, mắt căng ra nhìn về phía trước. Tất cả một màu trắng sữa. Trời mây sông nước, trước mặt, phía sau, bên phải bên trái, trên đầu dưới chân đều một màu trắng đặc như có thể lấy tay vốc được. Sa mù. Trời này gọi là tầm nhìn hạn chế đây. Có cả một chương về sa mù trong bài học hàng hải: "Khi đó chỉ được cho tàu hành trình với tốc độ vừa phải". Chung chung quá. "Vừa phải" nghĩa là khi phát hiện ra mục tiêu thì tớp máy sao cho trớn tàu đi chớm đến mục tiêu là dừng lại. Thế đấy. Chẳng cụ thể tí nào. Anh phân công hai thủy thủ mạn phải, hai thủy thủ mạn trái, hai người trên boong lái. Nhìn. Căng mắt ra nhìn. Đứng ở mũi tàu nhìn không thấy lái. Chỉ thấy bóng cái cần cẩu mờ mờ chênh chếch chỗ hầm cá và bóng người thủy thủ đứng bên mạn, đốm thuốc lá thỉnh thoảng lại đỏ lên. Phát hiện tàu bạn phải tốp máy dừng lại quan sát. Đến khi thấy rõ hướng đi của họ mới dám cho tàu mình chạy. Còi mù liên tục. Còi mù không dứt. Còi mù như lạc bạn cất tiếng gọi. Tôi đang ở đây. Tôi đang ở đây. Với Chơn hôm nay, tiếng còi còn như tiếng chào Hòa vẫn đang đứng trên bến nhìn theo. Chào em. Cám ơn em. Anh đi. Hai tuần nữa anh về. Thông cảm với anh. Tu tu. Hòa nhé. Tu tu. Tu tu. Tu tu. Anh em bảo kính coong đấy. Giống xe đạp đi vào chỗ đông người. Kính coong. Kính coong. Tàu chạy tiếng một. Máy xình xình một nhịp. Tiếng máy cũng như nhẹ đi. Sóng được bọc trong một lớp bông xốp êm đềm. Tàu như rẽ lớp bông xốp mà đi. Bồng bênh. Bồng bênh. Tiếng còi đều đều. Như gọi. Như chào. Chơn biết trên cầu cảng Hòa vẫn đứng trong sa mù dõi theo bóng tàu anh, nghe tiếng còi tàu anh cất lên rời bến, nhưng anh không dám quay đầu lại. Với lại có nhìn thấy gì đâu mà quay đầu với chẳng quay đầu. Sao lúc này anh muốn có Hòa đứng bên đến thế. Để lại được ôm Hòa, cảm thấy hết chiều dày, chiều cao, hơi nóng rừng rực tỏa ra từ tấm thân Hòa. Để lại được gục đầu vào ngực Hòa thơm mùi sữa. Để cùng Hòa đi ra biển. Kể ra có thể lùi giờ tách bến lại chờ tan mù.

Nhưng như thế thì chậm mất so với tính toán của anh. Và nhất là chậm mất giờ tách bến đã được đại phó Lừng nghiên cứu kỹ. Hơn nữa biết đến bao giờ mới tan mù. Anh cũng không muốn phá vỡ kế hoạch đã định: Ghé vào Vụng Ngọc, đưa lên tàu con lợn non một tạ, làm một bữa lòng lợn tiết canh ra quân để tăng thêm khí thế. Mấy tháng nằm bờ sửa chữa kham khổ quá rồi. Lại còn phải bảo đảm thả mẻ lưới đầu tiên vào lúc hoàng hôn. Hừng đông, tắt quản, đó là hai mẻ lưới quan trọng nhất trong cả một ngày. Đây là một chuyến đi biển thực hiện theo cơ chế khoán mới: Lời ăn, lỗ chịu. Có thể nộp cá cho xí nghiệp nhưng cũng có thể nộp tiền. Nghĩa là có thể bán cá ngoài biển, bán cá ở cảng. Nộp tiền cho xí nghiệp theo định mức. Một chuyện rất khó nhằn. Đánh lưới vét là lọc nước lấy cái. Càng lọc nhiều nước càng được nhiều cái. Mà tốc độ tàu giảm, dù mới trung tu xong. Bởi có phụ tùng thay thế đâu. Dầu tiêu hao vượt định mức, nói theo cánh thợ máy "tàu uống dầu hơn voi uống nước". Đó là chưa kể mấy chục năm nay chà đi xát lại, Vịnh Bắc Bộ có còn như trước nữa đâu. Nghề lưới vét là một nghề tàn phá môi trường, khai thác có tính hủy diệt, gần như chẳng còn nước nào duy trì. Chỉ mỗi Việt Nam... Khó khăn. Nhưng anh quyết chuyến ra quân thắng lợi. Không phụ lòng tin của anh em. Cố gắng đem lại thu nhập dù chỉ là tối thiểu. Thực hiện chính sách khoán trắng của xí nghiệp, trách nhiệm của thuyền trưởng thật nặng nề. Anh chỉ mong tàu đừng xảy ra sự cố...

Tối qua, buổi tối trước khi tách bến, như mọi thủy thủ khác, anh lên nhà xe, lấy xe dạo phố. Đi lang thang. Như những buổi tối trước khi tách bến, chỉ có mấy người trực ban ở lại tàu, còn tất cả lên bờ. Đi từ biệt đất liền. Đi để nghe nhìn. Nghe những âm thanh muôn hình muôn vẻ của cuộc sống. Nhìn những người giặt giũ, lấy nước ở vòi nước công cộng vỉa hè. Nghe tiếng ô tô lăn bánh trên đường nhựa. Để xa nó, ra biển. Người thủy thủ có lẽ là người có nhiều cuộc chia tay nhất. Đang vẩn vơ cảm nhận những cành lá ven đường ngay trên đầu mình, bỗng nghe có người gọi tên anh. Hòa. Thì ra anh đang lang thang ở phố Phan Bội Châu, ngay trước cửa nhà Hòa.

Đã lâu lắm mới gặp lại Hòa. Hòa luôn gợi cho anh những tình cảm tốt đẹp, tin cậy, chân thật đến mức cảm động. Hòa còn làm anh nghĩ tới thời gian đi sao thật nhanh, và con người ta biến đổi biết chừng nào bởi trước mắt anh không phải cô Hòa vừa là trẻ con vừa là người lớn năm nào. Một cô Hòa anh vẫn nhận ra ngay nhưng đã hoàn toàn khác. Một cô gái trưởng thành như muốn khoe tất cả sức sống bừng dậy trên khuôn mặt, trên cơ thể. Một cô Hòa khỏe mạnh, rực rỡ tươi tắn quyến rũ làm anh bất ngờ, gần như choáng ngợp. Hòa chạy ra sát lòng đường, nắm tay anh, kéo anh về nhà. Đã lâu lắm anh mới bước chân lên cái hè phố này. Nhà Huyền kia. Đứng ở trước cửa là những cô gái lạ mặt. Chắc mẹ Huyền cũng đã chuyển nhà rồi. Anh bước theo Hòa. Lại đi vào cánh cửa ngách ấy, lối đi hẹp ấy. Cái ô làm buồng tắm đã được chữa lại. Như đoán được những gì trong lòng anh, và cũng giống bà mẹ trước đây, Hòa dừng lại trước cửa gian buồng tắm, bật điện. Cửa gỗ mở, nhưng bên trong không còn xô chậu, gáo múc nước với cô gái bé nhỏ khom người bối rối lấy tay che chỗ kín nhìn anh. Một nhà tắm với đầy đủ các la va bô, bệ bệt, vòi hoa sen, bình nóng lạnh giữa những bức tường ốp gạch men trắng muốt.

- Mới chữa lại đấy anh ạ.

Hòa nói và nhìn anh. Anh cũng nhìn vào mắt Hòa và thấy ở đó có gì như giễu cợt, như trêu chòng lại như thách thức, một vẻ thách thức đầy tự tin. Đôi mắt nói hẳn anh còn nhớ em đã tắm ở trong ấy và anh đã nhìn thấy tất cả con người em không giấu giếm không che đậy. Ngày ấy em là một con bé con vừa sung sướng vừa sợ hãi và xấu hổ, nhưng sợ hãi nhiều hơn vì em còn là con nít trong khi anh đã là người lớn, mà người lớn bao giờ cũng mạnh mẽ bí ẩn, lũ trẻ con chúng em không hiểu được. Còn bây giờ anh xem em đã là như thế nào. Em cũng là người lớn như anh, hiểu những gì thuộc về người lớn như anh. Hòa lại nắm lấy tay anh, cái nắm tay thân thiết làm anh xao xuyến.

- Mẹ xem con đem về cho mẹ ai đây này.

Mẹ Hòa đang ngồi ở giữa nhà, ôm một đứa bé chừng sáu, bảy tháng, đứng vụt dậy:

- Anh Chơn. Sao lâu thế không thấy anh lại chơi.

Chơn nhìn đứa bé trong tay mẹ Hòa rồi lại nhìn

Hòa. Hai má Hòa ửng đỏ:

- Con em đấy. Cháu trai.

Thật quá bất ngờ. Anh đứng ngây người nhìn thằng bé giơ hai tay về phía mẹ đòi bế. Hòa bế con và chìa nó về phía Chơn:

- Bác bế con nào.

Thấy người lạ, thằng bé nép vào người mẹ. Chơn giơ tay xốc lấy nó, vô tình anh chạm vào ngực Hòa vừa mềm lại vừa căng. Nhưng nó nhất định không chịu, cứ ôm chặt lấy cổ mẹ.

Bà mẹ rót nước rồi quay lại hỏi anh:

- Đã vợ con gì chưa. Con Hòa nó cứ hỏi thăm anh mãi đấy.

Câu ấy cứ như một lời trách móc, như muốn nói lẽ ra anh đã là chồng Hòa và Hòa lúc nào cũng nhớ đến anh.

- Con ế bà ạ. Vẫn cứ lấy tàu là nhà, biển cả là quê hương thôi.

- Để tôi làm mối cho một đám. Thật đấy. Giá ngày ấy anh đồng ý em Hòa, bây giờ cũng đã con bồng con bế thế này rồi.

Anh cười. Hòa cũng cười. Cả hai cùng đỏ mặt. Thằng bé cứ rúc vào ngực Hòa đòi bú. Hòa bảo mẹ:

- Mẹ bế cháu ra ngoài kia chơi một chốc nhé.

Còn anh và Hòa. Hai người ngồi nhìn nhau. Gái một con trông mòn con mắt. Trước mắt anh là một phụ nữ xinh đẹp và quyến rũ. Dù quần áo rộng vẫn thấy được một cơ thể căng đầy, nở nang, hơi xổ ra càng làm nổi tấm thân tràn căng nhựa sống. Da sáng mịn, dưới ánh đèn vàng vọt vẫn thấy sắc hồng nơi gò má. Nổi bật nhất là khuôn mặt đầy đặn và hai bầu ngực tròn mà anh biết vừa rắn lại vừa mềm. Ớ hai chỗ nhô xa nhất nơi ngực ấy, sữa thấm ra làm ố chiếc áo hoa. Không còn là cô bé Hòa nhỏ xíu năm nào dù khỏa thân vẫn chỉ gợi cho người ta ý niệm đứng xa xa nhìn ngắm. Anh cố tìm những mối dây liên hệ giữa cô gái như vầng trăng non mát dịu ngày trước với người mẹ một con như một mặt trời tỏa ra biết bao năng lượng có thể thiêu đốt người khác đang ngồi trước mặt anh:

- Hòa đẹp quá. Khác hẳn trước. Hòa trông anh có già nhiều không?

Hòa cũng chăm chú nhìn anh:

- Trông anh trẻ ra thì có.

Đến lúc ấy anh mới biết trước khi cưới, Hòa đã mấy lần xuống xí nghiệp tìm anh đưa giấy mời, nhưng tàu anh đi biển. Chồng Hòa cũng là dân đi biển, thủy thủ trên một con tàu vận tải Bắc Nam.

- Sao lâu thế anh không đến chơi. Hòa nói như trách móc. Mẹ em cứ nhắc đến anh luôn. Nói thật với anh mẹ em quý anh lắm. Chỉ muốn anh làm rể thôi.

Đó là một lời thú nhận Hòa yêu anh, vẫn yêu anh. Chơn vừa sung sướng vừa như đánh mất một cái gì. Anh cố lấy giọng bông đùa để át đi sự xúc động:

- Mẹ là một chuyện. Chủ yếu là em chứ.

- Thì đã có bao giờ em nói không bằng lòng anh đâu.

Rồi như một ý nghĩ vụt đến, Hòa bước lên thang gác lửng:

- Anh chờ em một tí nhé.

Từ trên gác lửng đi xuống là một Hòa khác. Không mặc bộ quần áo vải hoa thông thường khi ở nhà, Hòa khoan thai từng bước với bộ váy liền áo mút xơ lin mỏng màu đen. Đã thon thả lại càng thon thả. Đã nở nang lại càng nở nang. Trông rõ chiếc nịt vú như hai cánh bướm xòe trên ngực. Trông rõ đường cong nơi eo chạy xuống cặp chân dài. Vừa lồ lộ lại vừa bí ẩn. Anh kêu lên:

- Hòa đẹp quá.

- Anh chỉ khéo nịnh em thôi.

- Đẹp lắm ấy. Ít người có được cái dáng như em.

Hòa cười hồn nhiên:

- Ngày ấy anh chê em bé chứ gì?

- Không. Không phải chê em bé, mà em hãy còn là trẻ con. Anh lấy người lớn. Như em bây giờ. Anh không lấy trẻ con.

Cả hai cùng cười. Hòa bảo:

- Như em bây giờ anh có lấy không?

Không trả lời, anh đặt bàn tay để mở lên bàn, chìa về phía Hòa và đăm đắm nhìn Hòa. Hòa cũng nhìn anh rồi cúi đầu. Anh vẫn kiên nhẫn để yên bàn tay mời gọi. Một lúc sau Hòa nhẹ nhàng đặt bàn tay mình vào đấy. Anh nắm nhẹ bàn tay Hòa mát lạnh, rồi ấp cả tay kia lên tay Hòa. Anh đứng lên bước sang phía ghế đối diện. Hiểu ý anh, Hòa ngoan ngoãn đứng lên. Hai người song song sát nhau. Anh cảm thấy hơi nóng từ người Hòa tỏa ra bao bọc lấy anh. Anh ôm Hòa nhè nhẹ. Hòa đứng nguyên trong vòng tay anh. Anh hôn Hòa nhưng Hòa quay mặt đi:

- Không được. Em bảo không được mà.

Chơn nói lắp bắp:

- Anh yêu em.

Dù không cho anh hôn, Hòa vẫn đứng nguyên trong vòng tay anh. Anh cảm nhận hết cơ thể dày dặn của Hòa song song với cơ thể anh đang bốc cháy.

Khẽ gỡ tay anh, Hòa quay lại ghế ngồi. Chơn cũng trở về ghế của mình, ngồi nghe Hòa nói. Chuyện Hòa lấy chồng và đau khổ là những bất ngờ liên tiếp đối với anh. Với những tình cảm vừa bùng lên trong lòng, anh nghe Hòa với tất cả sự chăm chú pha lẫn xót thương tiếc nuối. Chồng Hòa tên là Minh, bố mẹ ở cả Thái Bình nên khi lấy nhau Minh dọn đến nhà Hòa. Chó chui gầm chạn như bạn bè trêu chọc. Chính vì vậy mới phải làm thêm cái gác lửng, chứ trước đây anh đến có thấy đâu. Cái gác này là do công sức của Minh. Minh mua ống thép. Minh mua gỗ. Minh kéo mấy người bạn dưới tàu đến làm. Hai người đã có những ngày hạnh phúc. Chỉ sau khi đẻ, Hòa mới biết mình bị lừa dối. Do mấy con gà. Những con gà mẹ mua về nuôi để Hòa tẩm bổ khi sinh đẻ. Có một con đẻ. Nó nhảy tìm ổ’. Mò vào đống than. Chui vào gầm chạn. Lên cả nhà trên. Cuối cùng nhảy lên gác bếp, chỗ để những kìm búa, cuộn dây điện cũ, những túi, những gói của Minh, những rổ rá, linh tinh chẳng ai đụng đến bao giờ. Khi nó từ trên ấy nhảy xuống cục ta cục tác điếc cả tai, Hòa xuống bếp định nhặt quả trứng con so mới đẻ. Trước mắt Hòa, trên nền bếp, những chiếc phong bì rơi tung tóe. Phong bì nào cũng đề "Anh Nguyễn Hoàng Minh, công ty vận tải biển 2". Phong bì nào cũng những nét chữ nắn nót con gái. Và bên trong là những lời lẽ nhớ nhung yêu đương, những kỷ niệm không quên. Từ nhiều địa chỉ. Những địa chỉ, những bến cảng tàu Minh đã ghé vào ăn hàng hoặc bốc hàng. Có những bức thư trước ngày cưới và nhiều bức gửi sau ngày cưới...

- Thật không ngờ. Đã bao nhiêu ngày đêm em mong anh ấy. Mong anh ấy bước vào nhà. Mong anh ấy nằm bên em. Thì ra em chỉ là chỗ để anh ấy đi về, khi anh ấy không có ai. Em đã bị lừa dối, phản bội trước cả khi cưới. Mà anh biết đấy. Em trong trắng như thế nào.

Chơn không biết nói gì. Còn Hòa im lặng. Rồi chính Hòa bước tới bên anh, đặt hai tay lên vai anh. Anh đứng lên, một nỗi xót xa khiến anh ôm chặt lấy Hòa.

- Chỉ tại anh đấy. Không. Anh đừng sợ. Mẹ chưa về đâu. Biết anh đến chơi với em là mẹ không về đâu. Đến với em luôn anh nhé.

Nét mặt Hòa vừa đau đớn vừa tin cậy. Anh không hôn Hòa, chỉ lấy tay vuốt dọc lưng Hòa:

- Bảy giờ sáng mai anh đi biển rồi. Nửa tháng nữa mới về. Anh sẽ đến em luôn.

Rời nhà Hòa, anh đi như người mộng du. Có lẽ anh là người về tàu sau cùng. Trằn trọc không ngủ được. Lại phải nhờ đến rượu. Trong giấc ngủ anh mơ. Không mơ thấy Hòa. Mà mơ thấy vợ. Hai người yêu nhau. Như chưa hề li dị. Sáng dậy quên ngay. Chỉ đến khi thấy đũng quần ướt mới nhớ là có giấc mơ đó. Nhớ tới giấc mơ đó và nhìn ra ngoài trời thấy sa mù trắng xóa. Những ngọn đèn trên cầu cảng hoe hoe đỏ giữa những làn bụi nước trắng sữa khi đứng im, khi quẩn quanh kéo tới rồi lại nhẹ nhàng êm ả uốn lượn trườn đi. Anh vùng dậy, vào nhà tắm tắm rửa rồi lên nhà xe lấy xe đạp ra phố. Sương mù thôi thúc anh. Câu chuyện với Hòa thôi thúc anh. Giấc mơ vừa qua thôi thúc anh. Không thể nằm một mình trong phòng được.

Anh đạp xe chầm chậm trong sương. Sương như bột ẩm rắc lên da mặt, lên hai bàn tay nắm ghi đông mát dịu. Đèn hai bên phố cũng chỉ một quầng hoe hoe trông rõ những hạt bụi li ti. Như bơi trong bụi nước. Như bơi trong sương. Như đi vào một thế giới trong mơ, không có thực. Một thoáng kỷ niệm mong manh ẩn hiện, hư ảo như khói bếp của một ngày đã qua nào xa lắm. Một ngày đầm ấm nào của tuổi thơ, hay mơ mộng của tuổi trưởng thành. Và một điều gì chờ đợi anh trong tương lai. Có phải Hòa không? Hòa vẫn nghĩ đến anh từ ngày mới lớn. Hòa đau khổ trong vòng tay anh như trách móc lại như tìm thấy một niềm an ủi. Và sương mù. Sương mù huyền diệu như làm dịu lại tất cả căng thẳng của cuộc đời. Sương phơi phới từng làn qua cửa sổ ùa vào căn phòng gác nhà ai để mở, ngọn đèn tròn treo thõng trên trần cũng chỉ hoe hoe. Sương khuyên con người hãy yêu cuộc sống, hãy sống tốt hơn. Sương giục con người bơi trong sương, xê dịch, di chuyển trong sương. Giá bây giờ có Hòa cùng đi, hai người đạp xe bên nhau trong thế giới mỏng manh như không có thật này. Những ngôi nhà từ từ hiện ra và nối tiếp nhau trôi về phía sau. Trên bãi Máy Tơ, chiếc cần cẩu nhẹ quay cánh tay thép trong sương. Những chiếc ô tô đỗ trong bãi, xám và mảnh, hiền dịu nhẹ nhàng như một thứ đồ chơi con trẻ. Những người đi trên đường không có trọng lượng ẩn hiện. Như trong mây. Như rẽ mây mà đi. Chầm chậm đạp xe trong sa mù, mải mê với những ý nghĩ lộn xộn nhưng biết bao cảm xúc, khi nhìn đồng hồ anh giật mình vội đạp xe về bến. Và thật không ngờ: Hòa đang đứng ở cầu tàu! Bên cạnh là Lừng đại phó. Anh xúc động reo lên và tự lên án mình là một thằng vớ vẩn, đi lang thang trong khi Hòa đứng trên cầu cảng chờ anh:

- Em đến lâu chưa.

Lừng tươi cười, chỉ vào Hòa:

- Người đẹp chờ anh lâu rồi.

Anh sốt sắng:

- Xuống tàu. Vào cabin đi!

Anh muốn kéo Hòa xuống tàu trò chuyện và cũng để Hòa xem căn buồng chật hẹp của anh, ngôi nhà của anh, để Hòa thấy anh cần được thay đổi cuộc sống biết chừng nào, nhưng Lừng ngăn lại:

- Để khi khác thuyền trưởng ạ. Tàu sắp tách bến không cho phụ nữ xuống tàu đâu. Tôi là cứ nói thật.

Chơn và Hòa cùng cười. Nhất là Hòa. Cô coi như một câu nói đùa. Nhưng Chơn biết đấy là câu nói nghiêm túc nhất của người thuyền phó nhiều tuổi hơn anh, chỗ dựa đáng tin cậy của anh, lúc nào cũng mong muốn điều tốt đẹp đến với anh. Sống trong một gia đình cả nhà đi biển, sinh ra trên sóng, Lừng có thể kể không biết bao chuyện về những điều kiêng kỵ mà Lừng tận mắt chứng kiến hay nghe nói lại và kiên quyết thực hiện những điều kiêng kỵ ấy. Chính tàu anh đã bị một vố mà Lừng lấy làm bài học nhãn tiền. Chuyến ấy đang sản xuất thì bị quấn chân vịt, thả trôi gần một ngày trên biển. Mãi mới có một tàu đi đến gần. Còi liên tục. Nhưng nó không để ý. Bắn bốn phát pháo hiệu về phía nó. Nó rẽ sóng tới bên. Quăng cáp cho nó. Nó kéo. Bốn lần đứt cáp. Sóng to quá. Lần thứ năm mới kéo được vào vịnh. Anh em thay nhau lặn, cắt lưới. Đúng một ngày, tàu mới nổ máy cơ động được. Lại còn hai ngày hàn, trít lại tàu. Đó là chưa kể mất tấn cá ngon cho tàu vận tải gọi là chi trả tiền dầu. Chưa kể phải ngừng sản xuất hơn bốn ngày tất cả. Lên tàu tắm rửa xong, trong bữa cơm anh em tập trung ở câu lạc bộ, Lừng quát:

- Chuyến này trước khi tách bến có phụ nữ nào xuống tàu không?

Tra hỏi vặn vọ nhau mãi cuối cùng là có. Cô Lữu làm ở căng tin được anh nuôi nhờ mua hộ một can tương ớt, xách xuống lúc tàu sắp tách bến!

Anh nuôi Phiệt bị một mẻ nên thân. Mắng anh nuôi chán, Lừng quay ra nói với mọi người: Từ nay trước khi tách bến không ai được đưa phụ nữ xuống tàu. Nếu người ta xuống phải tìm mọi cách cản lại. Người quen của ai người ấy chịu trách nhiệm. Tôi biết các bố duy vật, không tin nhưng rồi các bố phải tin. Đấy rồi xem!

Không chỉ cấm ngặt phụ nữ xuống tàu trước khi tách bến, mà trên đường ra cửa sông, nếu có chiếc thuyền nào, con tàu nào có phụ nữ ngồi trên chạy cắt vát mũi tàu, thế nào Lừng cũng làu bàu tức giận rồi vào bếp lấy con dao làm cá ra mũi, ngồi thụp xuống, chém chéo bên nọ chéo bên kia đúng chín nhát, miệng lẩm bẩm đúng chín lần vía lành thì ở, vía dữ thì đi này! Tối qua, khi đi dạo phố và đến nhà Hòa, Chơn biết Lừng ở lại tàu nấu xôi, giết gà thắp hương cầu xin Hà bá, Thủy thần phù hộ cho chuyến đi kết quả. Lừng cũng đã xem lịch thủy triều, cũng như tra sổ định giờ tách bến như người trên bờ xem giờ xuất hành. Và giờ ấy là không thể thay đổi. Nhất là chuyến đầu tiên sau trung tu. Anh xem lại đồng hồ, bảo Hòa:

- Còn ít phút nữa tách bến. Đi với anh một lát trên cầu tàu.

Lừng nói thêm một câu chân tình:

- Cái nghiệp đi biển phải thế. Sóng nước chẳng biết thế nào. Cô thông cảm. Nửa tháng nữa tàu về bến mời cô xuống tàu chơi lâu lâu với anh em tôi.

Hai người nắm tay nhau đi trên cầu cảng đặc sương. Chỉ mươi bước chân đã chẳng thấy Lừng đâu, chẳng thấy tàu đâu. Đã lạc vào sương. Đã tất cả là sương dày. Họ đứng lại, nhìn nhau, nhìn sương che phủ bao bọc họ. Chỉ còn hai người giữa một vực sương trắng quây bốn chung quanh. Không ai bảo ai, anh và Hòa ôm choàng lấy nhau. Hòa hôn anh. Hòa hôn anh trước. Sôi nổi cuồng nhiệt, môi Hòa gắn vào môi anh, anh chỉ kịp nhấc hai hàm răng, lưỡi Hòa đã tràn sang quẫy cựa trong khoang miệng. Khi tưởng chừng ngạt thở, Hòa rời anh ra, thở gấp:

- Suốt đêm qua em chỉ nghĩ đến anh.

Choáng ngợp trước tình cảm Hòa dành cho mình, Chơn lắp bắp:

- Anh yêu em. Cám ơn em...

- Đến với em anh nhé. Chỉ có anh an ủi được em thôi. Em không đòi hỏi gì ở anh đâu.

Trong sương mù, anh thấy cặp mắt Hòa long lanh như van nài. Anh nhìn những giọt sương đọng li ti trên mái tóc Hòa, trên vai áo Hòa rồi ép má anh vào gò má nóng bừng của Hòa:

- Anh sẽ đến. Nhất định anh sẽ đến...

Hai người lại ép vào nhau. Bỗng anh thấy ươn ướt nơi ngực áo sơ mi. Sữa. Sữa từ ngực Hòa chảy thấm qua áo Hòa sang áo anh. Anh chậm rãi cởi khuy áo Hòa rồi cúi xuống, ngậm lấy bầu vú nóng hổi căng mọng vì ứ sữa. Những tia sữa ngọt thơm tưới vào anh hương vị tuổi thơ. Như đứa trẻ tham lam, anh vục đầu sang bầu vú bên kia. Hòa khẽ đẩy đầu anh ra:

- Nhẹ thôi. Đau em.

Nói thế nhưng chính Hòa lại kéo đầu Chơn vào ngực mình, lấy ngón tay ép vào bầu vú để sữa từ đó tia vào miệng Chơn. Trong sương mù, họ cảm thấy hai lần tự do. Cõi trần ngừng tồn tại. Chỉ còn họ. Trời sương này là dành cho họ. Để có thể đứng giữa trời mà ôm nhau. Để có thể có nụ hôn giữa trời này. Cho đến khi có tiếng còi tàu gọi Chơn. Hòa và Chơn càng ghì nhau chặt hơn. Dứt hồi còi thứ ba, hai người mới rời nhau, tay nắm tay đi về phía tàu đỗ.

Thế rồi cầu tàu được kéo lên. Những mệnh lệnh của Chơn vang trong trời mù. Tàu tách bến. Đứng trên cầu, Hòa nhìn theo HL 412, nhìn theo Chơn trong buồng lái với người thủy thủ lái tàu, hy vọng Chơn sẽ quay lại nhìn mình, nhưng không, anh đã đặt hết tâm trí vào công việc. Con tàu với những người trên tàu, tất cả như những chiếc bóng, nhẹ như đang tự động nổi trôi. Cần cẩu, dây cẩu, mũi tàu xám trên dòng sông mờ mờ giữa những gợn nước như đi trong một bức tranh thủy mạc. Tu tu. Tu tu. 412 mỏng dần, mờ dần rồi biến mất trong sương như chưa từng có nó trên khúc sông này, bến cảng này. Nhưng nghe tiếng còi của nó, Hòa biết nó vẫn đang ở đâu đây gần lắm, đang gọi cô trong bến sương ngay đây thôi. Nó chỉ ở bên kia bức màn sương, vừa quá tầm nhìn nhoè trong sương đặc thôi. Tu tu. Tu tu. Trong sa mù, tiếng còi tàu như tiếng kêu gọi bạn giữa bồng bềnh tiền sử. Tu tu. Tiếng gọi kiên nhẫn thiết tha. Tu tu. Tiếng gọi nhỏ dần. Nhỏ dần. Vọng lại từ phía sa mù đặc ngoài cửa biển. Vọng lại chỗ Hòa như còn cố gửi một lời chào, một lời hò hẹn.

Rồi không nghe thấy tiếng còi sương nữa.

Hạ Long 412 đã đi xa rồi.

Hòa vẫn đứng im lặng trên bến cảng nhìn vào cầu tàu nơi Hạ Long 412 vừa tách bến. Ớ chỗ ấy là một khoảng trống. Và một khoảng trống còn lớn hơn thế trong lòng Hòa.

° ° °

Mẻ lưới sáng sớm. Một con cả ngựa. Vài con cả ó. Những con cá ó trông hệt những con chim bị thương nằm xõa cánh. Chúng cố bật đôi cánh lên. Đôi cánh rộng, khỏe đập xuống mặt boong. Rồi lại cố đập. Mẻ lưới chẳng được mấy tôm mà bao nhiêu khó khăn. Lần đầu tiên tôi thấy kéo lưới mà đuôi lưới ở phía mũi tàu (lưới trái). Lưới phải thì chỉ nhìn thấy một sợi cáp chéo ngang thân tàu. Bây giờ mới thật là nguy cơ bị quấn chân vịt.

Thế nhưng tất cả dửng dưng. Hôm qua quấn lưới rê, lo lắng, làm như điên. Hôm nay mọi người thản nhiên ngồi xổm giữa boong hoặc chống tay vào be nhìn xuống biển. Bình chân như vại. Tất cả đã có bố. Là thuyền trưởng, bố phải chịu trách nhiệm tất cả. Chú Hùng cũng chỉ trách nhiệm rất ít. Một chú uể oải cầm cái sào vươn ra móc dây kéo đụt nhưng không tới. Sào chỉ đập xuống nước. Đầu gần nhất của sợi dây là gần chiếc ván. Nước chảy mạnh, đánh bật cả lưới cả đụt ra mãi xa. Bác Sĩ trèo lên tăng gông. Lại chiếc blu dông xanh dài quá khổ, chiếc quần xanh bạc mà bác xắn gấu lên, lộn phía trong ra ngoài màu xanh thẫm. Không giấu được vẻ bực dọc, vừa leo bác vừa lẩm bẩm:

- Mẹ kiếp. Về thì không về. Cố làm tấn rưỡi tôm cơ. Chết cả nút.

Bác trèo ra đầu mút tăng gông, tụt xuống ván, kéo dây đụt ném mạnh về phía tàu. Chú thủy thủ giơ lèo ra đón nhưng không được. Mấy lần như vậy. Cuối cùng cũng kéo được đụt, cái đụt trôi ngược trước tàu lép kẹp toàn nước bùn đục đổ xuống ào ào.

Còn lưới bên trái. Chú Đỉnh đứng tơi. Tơi gầm lên quay. Sợi cáp căng thẳng nhưng không nhích dù chỉ một xăng ti mét. Sợi cáp kéo lưới biến mất ở sườn tàu. Mọi người lại trở lại thái độ dửng dưng. Im lặng. Không nói. Nhìn ra biển. Nhìn xuống nước. Bố cũng im lặng. Tôi lo cho bố quá. Bố vào buồng kho, lục lọi, lấy ra một sợi dây ni lông to lồng vào sợi cáp, rồi bảo ba thủy thủ kéo cáp vòng qua đuôi tàu. Bố lại lấy một cây sào dài bước ra be, cắm xuống biển. Rồi đo: Hai sải. Bố bảo chú Hùng lên buồng lái giật chuông. Máy nổ. Cuồn cuộn nước. Bố reo to: "Chân vịt không việc gì! Nó chỉ cạn. Nhưng nước đang lên". Rồi bố nghiêm mặt:

- Anh em đứng lại tôi có mấy ý kiến đã.

Bố nói. Mỗi lúc một căng thẳng.

- Tàu chúng ta có những biểu hiện mà tôi cho rằng phải chấn chỉnh. Đó là thái độ của một số đồng chí không được đúng mực lắm. Tôi cứ nói thẳng ra rằng chúng ta làm cho chúng ta. Vì cuộc sống, vì gia đình vợ con. Là thuyền trưởng tôi chịu trách nhiệm trước xí nghiệp, nhưng tôi cũng chịu trách nhiệm trước anh em. Thế nào là hài hòa lợi ích. Không thể nặng về một vế. Nước có lên thuyền mới lên được. Chúng ta muốn có quỹ tàu để chia thì chúng ta phải có tôm, phải có kết quả thăm dò khảo sắt nộp cho xí nghiệp. Tất cả trách nhiệm dồn lên vai tôi. Nếu phải đi tù, tôi là người đi tù đầu tiên. Điều ấy chắc các đổng chí hiểu quá rõ. Mà tôi hoàn toàn công khai vấn đề này. Tôi được chia tỉ lệ một phẩy năm. Anh Hùng, bác Suất một phẩy ba. Có đổng chí nào muốn được một suất một phẩy năm một phẩy ba như chúng tôi không? Chúng tôi xin nhường ngay. Suất này là suất xương máu đấy. Thế mà khi tôi quyết định ở lại đánh lấy một tấn rưỡi tôm rồi gặp sự cố, các đổng chí tỏ thái độ ngay. Cứ như là tôi làm mọi việc vì cá nhân tôi ấy. Tôi làm vì quyền lợi của toàn tàu. Tôi làm mà lo ngay ngáy. Nếu cuộc sống chúng ta được bảo đảm, chúng ta nhất định không làm cái việc như thế. Có đổng chí nói rất đúng rằng con chó khi trời mưa cũng biết chạy vào nhà. Nói ngay hai con lợn của tàu thôi. Trời mưa là tìm chỗ trú. Còn chúng ta trời mưa, chuông kéo lưới vẫn phải ra boong. Đổng lương ký sổ không đủ sống. Năm trăm nghìn, ăn cũng không đủ. Mà đâu chỉ lao động tám tiếng. Hai tiếng rưỡi một lần kéo lưới. Ngủ thì lắt nhắt chập chờn. Đổng chí nào chán cảnh làm việc ở đây cứ xin chuyển. Tôi ủng hộ. Sang tàu vận tải nước ngoài càng hay. Tôi nhiệt liệt hoan hô. Tôi chỉ mong các đổng chí giữ sao cho nội bộ thật đoàn kết. Tôi cũng nói rằng số tiền phần trăm ngoại giao của tàu tôi chi hết. Không tơ hào một xu. Kinh nghiệm là mọi sự mất đoàn kết rồi đi đến tố cáo nhau đều bắt đầu từ việc ăn chia.

Tất cả im lặng. Nói rồi bố lên buồng lải, trực tiếp cầm vô lăng. Bố cho tàu rẽ phải, lựa đuôi tàu xoay theo chiều lưới. Nước ở đuôi tàu đục ngầu. Một xoáy nước tròn đục cuồn cuộn, ào ào. Chúng tôi đứng nhìn xoáy nước. Chú Đài VTĐ bảo:

- Người xuống đó chỉ có chết.

Tàu còn sản xuất thêm hai ngày nữa. Tôi thấy nhớ nhà quá rồi. Tôi nhớ cây me ở góc vườn. Tôi nhớ cái giếng sâu thăm thẳm cạnh sân. Nhớ con đường đất núi, những vụn đá đỏ au từ nhà ra trường học. Nhớ mẹ. Nhớ cái Ngàn. Nhưng những người chung quanh tôi không thấy ai nói gì về nỗi nhớ của họ. Kể cả bố. Vẫn bình thường như có thể kéo dài cuộc sống trên biển thế này đến bao giờ cũng được. Có lẽ mọi người quen rồi. Công việc đơn điệu đều đều. Đi ra đi vào quanh quẩn trên con tàu kéo lưới giữa biển hoang vắng. Hơn mười mẻ lưới nữa. Chẳng mẻ nào giống mẻ nào. Mọi công việc đều diễn ra ở boong lái. Mẻ được nhiều, mẻ được ít. Mẻ kéo lưới lên rồi thả lưới được ngay. Mẻ phải buộc lại dây, vá lại lưới cả tiếng đồng hồ mới thả. Nhưng có một mẻ lưới thật thú vị. Mẻ lưới sáng sớm sau cái hôm tàu bị sự cố sợ quấn chân vịt. Bốn đụt tôm. Đụt nào cũng phinh phính phồng phồng. Giật dây thắt đụt. Tôm xổ ra tràn trên boong. Những con tôm tươi xanh nhảy búng loạn xạ. Râu đỏ rực. Vi bụng đỏ rực quạt đều đều phát ra một âm thanh rì rào rì rào nhè nhẹ. Những giọt nước li ti bắn lên mặt chúng tôi như một cơn mưa nhẹ. Mặt trời vừa nhô lên khỏi mặt biển, chiếu ánh sáng tới chỗ chúng tôi ngồi nhặt tôm trên boong.

Một dòng vàng nhẫy từ chân trời chạy tới nơi tàu thả trôi, hai bên là biển xanh trong. Tàu khẽ nâng lên hạ xuống. Gió chỉ phây phẩy. Chúng tôi ngồi xung quanh đống tôm vừa kéo từ biển lên. Những giọt nước mát rượi vẫn bắn lên mặt, lên đầu tóc, quần áo chúng tôi. Một chiếc cầu vồng mọc lên từ đống tôm ấy. Chúng tôi vừa nhặt tôm vừa nhìn nhau qua chiếc cầu vồng.

Phần thứ hai



I

Ấnh thi đua Đỗ Trung T ín được chuyển về phân xưởng lạnh làm thống kê. Là một anh giã giò, đầu óc ngu si tứ chi phát triển, như chánh văn phòng nói, Tín "không làm được một việc gì". Bản tin không viết được. Báo cáo lại càng không. Chỉ giỏi rượu. Với lại những lúc rỗi việc, ngồi ở bàn, anh ta có cái tật chép miệng khan, không chép miệng như người ta, tiếng chép miệng của anh kêu to như pháo nổ, có thể làm ai yếu bóng vía giật mình. Anh ra đi khi vẫn chưa ai phá được câu chào của anh ta:

- Xin chào ở như các cụ.

Hai tiếng ở như kéo dài, quai hàm trẹo bên nọ sang bên kia, cằm dưới đưa ra, lúc ấy trông anh rất tươi tắn đáng yêu. Vào phòng thanh tra, tới văn phòng công đoàn, lên đảng ủy, tới phòng hàng hải hay đi đâu trở về văn phòng, thấy đám nhân viên cùng phòng, có khi chỉ toàn phụ nữ, những cô Phòng văn thư, bà Nga chạy văn phòng phẩm hay cái Nhạn đánh máy, cái Tám tiếp tân, anh cũng nở nụ cười rất tươi, hai mắt long lanh, cái cằm râu ria đưa ra xin chào ở ở ở như ư ư các cụ! Mãi sau khi anh đi được một tháng, cô Phòng, vâng chính cô Phòng dân bánh chưng đất, văn thư đã nghĩ ra câu đối đáp lại.

Ây là vào cái hôm cả hội vừa ăn ốc luộc xong (hôm ấy sếp đi họp trên thành phố - vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm) thì Giò Tìu từ phân xưởng lên ghé vào văn phòng có việc gì đấy, vừa bước vào cửa, đã đưa cái hàm dưới ra:

- Xin chào à ở như các cụ!

Đang dương dương tự đắc và nở nụ cười thỏa mãn vì biết người ta không thích mình, không thích cả câu chào độc đáo của mình mà vẫn phải cắn răng chịu, bỗng anh ta tái mặt.

- Để mời à các cụ ngồi chơi!

Đó là cô Phòng! Phút xuất thần của cô Phòng! Chánh văn phòng Điều vỗ tay trước tiên:

- Con này giỏi! Con này giỏi! Khá! Tao sẽ xin giám đốc tăng cho mày một bậc lương con ạ.

Tất cả cười ngặt nghẹo và đều công nhận câu đáp của cô Phòng hay. Cái Tám hỏi:

- Chị nghĩ ra từ bao giờ đấy?

Cô Phòng hai gò má đẫm nước mắt, tính cô hễ cười nhiều là nước mắt cứ chảy ra:

- Vừa nghĩ xong. Tức quá. Tự nhiên bật ra thôi.

Chánh văn phòng đưa cằm ra phía trước:

- Xin a chào à ở như các cụ.

Cả hội đồng thanh, trừ Tín:

- Để a mời à các cụ ngồi chơi.

Và cười ầm. Tín cung cúc bước ra cửa đi về xưởng lạnh trong tiếng cười giòn tiễn đưa của anh chị em đơn vị cũ. Chánh văn phòng còn nói thêm một câu đủ để Tín nghe thấy:

- Cho hết cái thói nhăn nhăn nhở nhở như mồm lở sơn...

Người về thay Tín làm thi đua cờ đèn kèn hoa là một người ít nói nhưng lại có khiếu hài hước. Một người nhiều tuổi hơn cả chánh văn phòng, văn hay chữ tốt, hơn thế, một người từng trải, nếu có thể nói được như vậy. Toàn, Nguyễn Đức Toàn, hơn tuổi chánh văn phòng, đã từng làm trợ lý giám đốc sở công nghiệp thành phố, đã đi thanh niên xung phong Trường Sơn, đã ba lần được là đối tượng kết nạp Đảng nhưng cả ba lần đều hoãn kết nạp vì những lý do khách quan. Một lần ở thanh niên xung phong. Chi bộ đã định ngày kết nạp thì Toàn bị trúng bom. Nằm bệnh viện nửa năm, khi ra viện về một đơn vị khác, làm công việc nhẹ hơn cho phù hợp với sức khỏe. Thế là lại bắt đầu lại từ đầu. Lại phấn đấu. Lại được đi học lớp cảm tình. Lại nghe giảng về đấu tranh giai cấp, về chủ nghĩa tư bản giãy chết, chủ nghĩa cộng sản văn minh. Và lại được đứng trong hàng ngũ đối tượng phát triển. Bỗng có chủ trương tạm ngừng công việc phát triển Đảng một thời gian để tập trung vào nhiệm vụ củng cố Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên. Hết thời gian đó Toàn đã xin được về Hải Triều, thành phố quê Toàn và cũng là nơi vợ con Toàn sinh sống. Làm tổng hợp cho đồng chí giám đốc sở công nghiệp thành phố. Có trí nhớ tốt, được việc, trở thành người thân cận của giám đốc, lại một lần nữa, Toàn được là đối tượng kết nạp nhưng giám đốc chuyển đi sau một vụ đấu đá, phó giám đốc - người mâu thuẫn gay gắt với giám đốc, người thắng cuộc - lên thay. Hiển nhiên là ông không dùng Toàn làm thư ký tổng hợp. Việc kết nạp Đảng càng không thể đặt ra. Từ ấy Toàn gạt hẳn mục tiêu vào Đảng ra khỏi đầu óc. Và Toàn cũng hiểu con đường tiến lên của anh thế là hết. Ý chí phấn đấu của anh bị giáng một đòn căn bản, bởi anh biết không vào Đảng thì khó lòng được thăng tiến. Chẳng những thế anh còn phải tạm nghỉ để chờ tổ chức phân công công tác. Hơn một năm sau vẫn chẳng được giao việc, anh gặp giám đốc mới xin tự liên hệ công tác và được giám đốc chấp nhận. Các xí nghiệp trong sở không ai dám nhận anh. Họ đều biết anh bị giám đốc cho ngồi chơi xơi nước cùng với một số cán bộ trong ê kíp cũ. Thế mà trong khi anh còn đương chức, họ tiếp đón anh nhiệt tình đến thế. Phải gần một năm nữa, giám đốc mới (nay đã thành cũ) mới cho anh liên hệ công tác ở ngoài ngành. Đó là một việc bất đắc dĩ vì đồng chí không muốn ngành thất thoát cán bộ! Được về Liên hợp Hải sản Biển Đông - Biendong Fiscom, anh coi như mình trúng số độc đắc và lao vào công việc với tất cả hào hứng, phấn khởi. Nghĩ lại hai năm trời thất nghiệp dở mà rùng mình. Hai năm trời chợ búa nấu cơm, giặt giũ trước bao con mắt tò mò dò xét, những lời xầm xì vào ra của những người trong khu tập thể. Hai năm trời không làm tròn trách nhiệm người chồng, người bố. Vẫn có đồng lương nhưng đó là lương thất nghiệp, bảy nhăm phần trăm lương cơ bản. Tất cả gánh nặng chi tiêu dồn vào vai vợ. Mà nào vợ anh có dễ dàng gì cho cam. Công nhân một xưởng sản xuất cân, sản phẩm không tiêu thụ được, xí nghiệp phát lương bằng các loại cân, từ cân bàn, đến cân móc, cân treo. Về nhà, tháo những dây chằng buộc, những túi đựng quả cân, đĩa cân, méo mặt vì lo, vợ anh vẫn còn hài hước:

- Phóng xe ra tới cổng bảo vệ, tất cả cán bộ công nhân hét to: "Nhấc ba de lên cho chúng tớ đèo lương về đây này!" Giám đốc còn định gán lương bằng cân tạ cho bọn em, ba bốn người chung nhau một chiếc vì cân bàn tồn kho quá nhiều. Chúng em kêu lên sếp có lĩnh lương loại vĩ mô ấy thì lĩnh, chứ chúng em không nhận đâu. Sếp quen các thủ trưởng, sếp bán được cân vĩ mô. Chúng em chỉ có thể mang cân vi mô ra chợ đổ cho mấy bà buôn hay gạ bán cho mấy nhà hàng xóm thôi.

Bán cân. Xí nghiệp tính theo giá của xí nghiệp, còn mình làm sao bán được như đầu ra tính trên giấy ấy. Đồng lương đã kém lại càng kém. Toàn đã đi ra chợ bán cân. La cà dãy các bà bán cá, bán tôm, buôn gà vịt, bán hàng khô. Và gặp nhiều người cũng ra bản lương ở các xí nghiệp khác. Người ta cũng mang bán sản phẩm của xí nghiệp gán thay lương nhưng có lẽ chẳng ai khổ như vợ chồng Toàn, chẳng ai khổ như những người làm xí nghiệp cân. Công nhân xi măng lĩnh lương bằng xi măng rời quá ư dễ bán. Hợp tác xã xe đạp, lương trả toàn bằng poóc ba ga, gác đờ bu, cũng khó bán đấy nhưng cũng còn dễ hơn cân. Hay như cái Liên hợp Biển Đông này mới sung sướng làm sao! Được phát lương bằng cá. Cá băng, cá đông. Cá đóng túi ướp đá. Sau này khi anh đã đi làm thi đua ở Biendong Fiscom, cùng anh chị em văn phòng ôn lại cơ đận ấy, cô Phòng cười khanh khách bảo anh:

- Chúng bố lĩnh lương bằng gạo, gạo các tàu chở từ miền Nam ra. Chúng bố lĩnh lương bằng cá. Thật danh giá. Đạp xe ra Ngã Ba là con buôn đã ơi ới ơi ới gọi rồi. Chỉ có cái chán là cá xí nghiệp tính cao. Bán cho con buôn có được thế đâu. Mỗi cân thế nào cũng mất mấy giá.

Và cô tiếp luôn:

- Nhưng chúng bố không sợ. Chúng bố tát nước theo mưa. Lấy mùa bù chiêm. Xuống tàu xin cá. Trà trộn cá xin với cả lương. Đem qua cổng bảo vệ thoải mái.

Cô Phòng có kiểu nói như vậy. Khi mới đến công ty làm thi đua, về sinh hoạt ở văn phòng, ấn tượng mạnh nhất đối với Toàn là cô Phòng. Cô trạc ba nhăm ba bảy tuổi, có biệt hiệu là "bánh chưng đất" vì quê Hải Dương. Con một gia đình trí thức. Bố là một ông giáo già đã về hưu, học trò ông có những người là tướng, là bộ trưởng. Cô có một anh là phó tiến sĩ, còn một cô em gái là nhà văn đã được giải thưởng Tảc phẩm tuổi xanh. Cô cũng có phải dân văn thư chuyên nghiệp đâu. Báo vụ có hạng được đào tạo chính quy đấy. Trong các cuộc thi tay nghề cô luôn nằm trong danh sách năm người đứng đầu. Chỉ đến khi lấy chồng có con (cái con bé bây giờ đã học lớp 5, thỉnh thoảng vẫn theo mẹ ra văn phòng mà cô gọi là con mảnh sành cong này này), không thể làm ca kíp được, cô mới xin chuyển từ đài thu phát trung tâm về công đoàn làm công tác thư viện, rồi khi anh chàng Trần Minh Mẫn ở đâu lù lù về văn phòng công đoàn phụ trách bổ túc văn hóa kiêm thư viện, cô lại chuyển về làm văn thư. Nước da nâu mịn màng, má lúm đồng tiền, mỗi khi cười gò má lại đỏ lên, một thời từng làm chết mệt bao chàng trai kể cả thuyền trưởng Trần Nhân Chơn, cuối cùng lại rơi vào tay anh chàng Nghiêm, kỹ sư vỏ tàu quê xứ Bọ, hiền như đất.

Toàn hòa nhập rất nhanh với công việc ở đơn vị mới. Hai công việc đầu tiên phải làm là căng lại dây loa truyền thanh và viết phiếu đặt hàng đưa chánh văn phòng ký đề nghị xưởng cơ khí làm một bảng tin bằng sắt, chôn dưới gốc bàng. Anh đề nghị phòng tổ chức điều cho một thủy thủ dự trữ cùng anh kéo lại những đoạn dây loa bị đứt. Cậu thủy thủ dự trữ này là người đầu tiên thuộc khối dưới nước mà anh tiếp xúc. Trước tiên anh ngạc nhiên về những gì anh ta mang trên người. Còn rất trẻ. Nhưng diện ngất trời. Quần áo, kính, mũ, đồng hồ, nhẫn vàng và lạ nhất là túi áo túi quần, túi nào cũng có ba số và cứ nhất định ấn một bao vào túi áo Toàn. Mà quần áo anh ta nhiều túi lắm.

- Chú cầm lấy hút.

Đó là món lộc đầu tiên của Toàn ở Liên hợp Hải sản Biển Đông:

- Ớ đâu ra lắm thuốc lá thế.

- Bọn tàu 19 mới về. Mỗi thằng cho vài bao.

Toàn ước tính trên người anh thủy thủ dự bị này phải đến hai cây thuốc lá. Nếu Toàn có chỗ ấy, đó là cả một khoản thu nhập. Anh bóc bao thuốc, lấy một điếu hút. Đã lâu lắm mới đàng hoàng bóc bao thuốc ba số như thế này. Từ ngày còn làm tổng hợp cho giám đốc sở công nghiệp...

Mới kéo được một đường dây từ xưởng lạnh ra phòng đời sống, cậu thủy thủ đã bảo:

- Vào căng tin nghỉ một tí đã chú ạ. Chú ăn sáng chưa? Ăn rồi cũng cứ vào với cháu. Cháu chưa ăn. Đói lắm rồi.

Mới hơn chín giờ. Toàn chưa đói. Nhưng rõ ràng chẳng thể bắt cậu dự bị công tử này làm việc tiếp, bởi cậu đã cố gắng hết sức cũng như cậu rất nể và kính trọng Toàn, hơn nữa cũng chẳng thể một mình làm cái việc căng dây. Chưa đến giờ cao điểm, căng tin còn vắng. Một bàn bốn thuyền viên đang ăn phở. Cô căng tin béo núc, cúc áo chật căng, da rất trắng bưng cái khay có bốn bát phở nghi ngút khói lên.

- Sao bát vơi thế em Lan?

- Thế này mà năm nghìn à?

- Đắt thế, anh bắt đền em đấy.

Một giọng ồ ồ của người thứ tư, cất lên:

- Đắt rẻ là phụ thuộc vào mình: Ăn nhiều ớt hay ít ớt.

Tất cả cười ầm. Đúng là ớt năm ấy quá đắt. Và chỉ ngoém một cái, bốn người bốn cái sẻ, đĩa ớt hết veo. Người có giọng ồ ồ chìa đĩa không về phía cô căng tin:

- Cho thêm đĩa ớt đây em. Nếu hết ớt thì thay bằng thịt cũng được. Giá tiền cũng tương đương nhau ấy mà.

Cánh thuyền viên không biết Toàn, nhưng biết chàng lính dự trữ:

- Khương! Tàu bao giờ đi?

Chàng thủy thủ kéo dây cười:

- Chào các anh. Em lên bờ rồi anh Chất ồ ạ.

Chất ồ, người có giọng nói ồ ồ, tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Đã lên à? Mới đi được hơn hai chục chuyến chứ mấy?

Lại cười đồng loạt. Khương cười khẩy:

- Chính xác là hai bốn chuyến, mười chín chuyến Hong Kong, hai chuyến Sing, ba chuyến Nhật. Kể thì nhiều nhưng cũng không nhiều.

- Càng nhiều càng ít.

Toàn chỉ biết nghe. Khương gọi bia Heineken, một đĩa bò xào. Nâng lên đặt xuống. Bia sủi bọt mát lạnh. Thịt bò mềm. Ba số thơm. Lại thêm hai bát phở. Ăn xong, Khương bảo Toàn nghỉ thôi chú ạ. Ăn xong nặng bụng leo trèo mệt lắm. Chiều chú cháu mình làm tiếp.

Thế là nghỉ. No. Ca cơm mang theo có mấy viên lạc rang mỡ mắm, không dùng đến, không phải vào bếp đặt ghé bên bếp than chung quanh thùng nước của bà Nhàn, vần vần xoay xoay cùng với bao nhiêu người, bao nhiêu ca, cặp lồng khác. Toàn lang thang. Đứng nhìn cầu cảng. Chầu rìa mấy ván tiến lên. Chiều chẳng thấy cháu đâu. Chú đến phòng tổ chức. Không thấy cháu. Lại ra cầu cảng thì thấy cháu từ trên tàu 19 bước xuống. Toàn rảo bước tới gặp Khương: Chiều không làm à? Chú cứ chờ mãi. Mặt Khương đang bừng bừng tức giận: Chú xin người khác đi. Cháu không làm nữa đâu. Rồi Khương trèo lên một chiếc xe máy đen kềnh càng những ống thép mạ kền, hai ống xả sáng chói mắt, ghi đông thì vểnh lên xòe cong ra hai bên, ấn nút khởi động. Xe không nổ. Mấy lần xe không nổ. Co chân đạp. Chỉ rồ lên được một tí lại tắt lịm. Một thanh niên còn rất trẻ đứng cạnh chiếc xe DD đỏ chót mới cứng dựa trên chân chống sát cầu, cạnh mũi tàu HL19 cười:

- Xe gì thế. Vất đi thôi!

Khương quắc mắt nhìn anh thanh niên:

- Mày nói gì thế thằng Duy? Nói lại tao nghe xem nào!

- Thay xe đi! Giọng anh thanh niên tên Duy đã có vẻ dìu dịu.

- Được rồi! Nhớ đấy! Nhớ lấy nhé thằng con giời ạ!

Đám người rải rác trên cầu tàu dừng cả lại chăm chú theo dõi câu chuyện đang có chiều căng thẳng. Duy - cũng là người sang trọng từ đầu đến chân, phủ lên người anh ta là toàn những thứ đồ ngoại đắt tiền - cười cười đùa vui cho bớt căng:

- Đạp như thế một chân to một chân nhỏ về vợ nó không nhận ra đâu!

Không ngờ câu ấy càng làm Khương tức hơn. Đỏ mặt tía tai, lấy hết sức bình sinh đạp cần đề. Xe nổ. Khương điều chỉnh ga, tiếng máy gầm lên nhức óc:

- Tao cho cái xe của mày xuống sông đây này. Mày muốn không?

- Dám à?

Khương dận số, chiếc xe lao tới chỗ Duy. Quá hốt hoảng, Duy nhảy vọt ra, tránh được chiếc xe máy đang phóng thẳng vào mình. Không giảm tốc độ, Khương cho xe lượn sát chiếc xe DD đỏ, co chân đạp mạnh vào thân xe, chiếc xe máy đỏ chót bóng loáng rơi xuống lòng sông. Tất cả kêu lên. Không quay lại, đang đà phóng, anh chàng thủy thủ thuộc lực lượng dự trữ phụ việc căng dây truyền thanh cho Toàn tăng ga phóng ra phía cổng xí nghiệp.

Có lẽ sau khổ chủ Duy, Toàn là người sửng sốt nhất về việc ấy. Mà sao lúc đi căng dây với anh, Khương một điều chú hai điều cháu, ngoan ngoãn, lễ phép, hiền lành đến thế. Nó cả gan đạp chiếc xe máy của người ta xuống sông. Không suy nghĩ đắn đo. Không thương tiếc. Chiếc xe máy có giá trị bằng cả một gia tài. Chiếc xe máy có thể làm bất kỳ ai sở hữu nó, hay chỉ ngồi phía sau ôm eo lượn quanh phố thôi, tăng thêm hàng chục nấc thang giá trị. Cả cầu cảng náo động. Mấy chiếc máy hàn của cánh thợ sửa chữa thôi hoạt động, những tiếng hú inh tai của máy hàn tắt hẳn. Rồi đến tiếng gõ gỉ từ phía đà nổi cũng tắt. Chị em gõ gỉ quần áo, khăn trùm đầu, khẩu trang găng tay một màu gỉ sắt lệt sệt giày ủng đứng xa xa. Tạm ngừng mọi công việc. Người ở các tàu kéo ra cả boong. Chỗ chiếc xe máy rơi đông đặc người. Toàn cũng ra đứng đó, nhìn xuống sông. Chẳng thấy gì. Chỉ có dòng nước đang ròng, trôi ra phía cửa sông, kéo theo rến rác, lá sú, mấy miếng xốp trắng bập bềnh cùng những giọt dầu loang...

Đã qua cơn bất ngờ, bình tĩnh trở lại, khổ chủ Duy ngồi bệt xuống nền bê tông cầu cảng, rồi đứng phắt dậy, chạy tới chiếc xe máy dựng gần đấy, thét lên:

- Anh Thu ơi! Chìa khóa xe anh đâu! Cho em mượn. Em phải sống chết với thằng này.

Bao nhiêu người lên tiếng can ngăn Duy. Hãy bình tĩnh. Việc đầu tiên là lo vớt cái xe lên đã. Ngâm lâu dưới nước mặn là hỏng hết. Chiếc xe nặng thế không trôi đi đâu. Ngay dưới này thôi. Một người bước tới chỗ Duy đang đứng bên chiếc xe máy:

- Chìa khóa đây. Nhưng mày định đánh nhau với nó à? Đánh nhau tay đôi với nó mày thua hay nó thua? Lo tìm người vớt xe đi. Ông Chín lặn tốt đấy. Nói cảng vụ cho mượn cái cần cẩu thiếu nhi. Rồi làm đơn lên giám đốc, lên tổ chức. Tre có chỗ chẻ chứ. Vừa nãy ở trên tàu anh đã thấy nó điên điên. Con giời đang cú. Lên bờ mấy chuyến rồi. Bố nó làm đơn gửi tổng giám đốc xin đi tăng nữa. Nhưng chưa được giải quyết.

Bao nhiêu người bày tỏ sự phẫn nộ về hành động của Khương. Qua những lời bàn tán, đến lúc ấy Toàn mới biết Khương là con ông Nguyễn Thạc, phó giám đốc công an thành phố. Học mãi thi mãi không đỗ phổ thông, đàn đúm ăn chơi với đám bạn bè toàn những đứa như mình, bố mẹ làm sếp, lắm tiền nhiều của, Khương là một trong những thanh niên sành điệu nhất Hải Triều. Con đường hư hỏng đối với Khương khó mà tránh được. Chỉ còn là thời gian thôi. Biết tin Liên hợp Hải sản Biển Đông mới tổ chức cho mấy tàu đánh cá chuyển sang vận tải nước ngoài, ông phó giám đốc công an vội xuống gặp tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng. "Không được đâu anh ơi. Con anh cũng như con tôi.

Nhưng xuống tàu phải có chức danh. Phải qua đào tạo. Giá cháu có một cái chứng chỉ đào tạo ở một trường nào đó, công nhân thôi cũng được thì tốt quá. Anh làm gì không kiếm được cái chứng chỉ ấy". Ngừng một lát ông cười: "Có thằng cháu nhà anh xuống tàu, chúng tôi càng yên tâm. Anh em có gì sơ suất đã có các anh trên ấy giúp đỡ". Con anh cũng như con tôi. Tổng giám đốc đã nói rất thực lòng. Ông cũng đã chịu biết bao khổ sở đắng cay vì con cái. Không biết bao nhiêu đêm, ông đạp xe đi (không dám một mình đi xe máy ban đêm) các nơi tìm con. Đến nỗi những người bán hàng đêm khuya các đầu cầu đã quen mặt ông. Họ biết cả con ông và băng đảng của nó. Những đêm tìm con, ông hiểu thêm thế giới ban đêm và càng thấy sự nguy hiểm đã ập đến gia đình ông. Ông đã nhìn thấy nhiều đứa con trai và cả con gái còn trẻ hơn con ông từ đâu ào vào một quán hàng ở bờ sông ăn uống, cười nói, rồi lại ầm ầm phóng xe đèo nhau đi vào lúc hai giờ đêm. Thằng ngồi sau giơ cao kiếm, mã tấu, côn, chùy... hoa múa trên đầu, hò reo như những đoàn quân xông lên giao chiến trên phim ảnh. Ông vội chạy vào hàng nước gọi điện cho cảnh sát 113. Bà hàng nước cười bảo ông: "Chỗ này bao giờ chả có cảnh sát trực. Họ chỉ giải quyết hậu quả thôi chứ không can thiệp đâu. Có hỏi thì bảo: Cho chúng nó giết nhau bớt đi". Đêm khuya, trong mùi phân hoai nồng nặc ven đê, ông đã mò mẫm gần như nằm rạp xuống đất, nhìn vào sát gầm cầu, bấm đèn pin và thấy một lũ nằm nghêu ngao hát cải lương. Ông đã thấy một cái xác nằm co trên bãi sông, một đàn chuột đang xúm vào gặm đầu và cổ. Theo lời chỉ dẫn của một người hàng nước tốt bụng, ông xông vào một chiếc lều bỏ hoang, kéo tung những cái lõi chăn bông bẩn thỉu, hôi hám thủng rách phủ trên ổ rơm và thấy gần chục đứa còn rất trẻ hoàn toàn trần truồng ngồi bật dậy co rúm vào nhau, trong đó có hai đứa con gái chỉ mười bốn mười lăm đẹp như thiên thần và ông đã lôi được thằng con ông về nhà. Nhưng rồi nó lại bỏ đi. Ông lại đi tìm và lại một lần nữa xông vào nơi tụ tập của chúng nó nhưng lần này không có con ông ở đó và ông bị bọn chúng đuổi đánh, suýt mất mạng, nếu không có một người đàn ông cũng đi tìm con như ông phóng xe máy đến... Ông giám đốc Liên hợp cũng rất thành thật khi nói: Có con anh xuống tàu chúng tôi càng yên tâm. Anh em có gì sơ suất đã có các anh trên ấy giúp đỡ. Ông phó giám đốc công an cũng rất cởi mở và thân mật: Điều ấy anh không cần phải nói. Nhưng cũng phải bảo anh em làm cái gì cũng vừa vừa thôi, giới hạn thôi. Rồi ông chép miệng than thân: Đến khổ vì con vì cái. Ngay hôm sau ông phó giám đốc công an đã đích thân cầm hồ sơ của con trai ông có cả chứng chỉ đã tốt nghiệp khoa boong của trường công nhân kỹ thuật. Và Khương xuống tàu. Khương xuống tàu, đi hơn hai mươi chuyến. Hơn hai mươi chuyến tàu 19 an toàn. Không bị khám. Không bị thu. (Tất nhiên đối với hải quan công an vẫn phải thu xếp cống tiến như đã thỏa thuận trong hợp đồng ngầm). Không xảy ra một hiện tượng đáng tiếc nào, một trục trặc kỹ thuật nào.

Đưa Khương lên dự trữ sau hơn hai mươi chuyến đi nước ngoài là ý kiến của trưởng phòng tổ chức Nguyễn Văn Thục. Lý lẽ của trưởng phòng tổ chức khiến giám đốc thấy thật có lý có tình, khó bác bẻ. Hơn nữa chính ông cũng nghĩ như vậy: Khương là một thanh niên ở đâu đến đây, chưa có một đóng góp nào cho xí nghiệp thế mà được xuống tàu đi nước ngoài ngay, đi liền hơn hai năm nay. Trong khi ấy bao nhiêu cán bộ công nhân cả khối dưới nước lẫn trên bờ cống hiến cho xí nghiệp từ thời còn tàu vỏ gỗ, đánh giã đôi, cho tới thời chiến tranh bắn phá vẫn còn phải xếp hàng chờ đợi. Như thế đã là ưu tiên quá rồi. Hẳn ông phó giám đốc công an cũng nhận thấy điều ấy. Tổng giám đốc nghĩ vậy. Với lại thằng con ông cũng đi tàu vận tải nước ngoài. Hai thằng như vậy đi nước ngoài là không ổn. Lại còn cái mối ân tình với bác sĩ Bá nữa... Để Khương lên bờ dự trữ rồi ta hãy định liệu sau. Tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng gật đầu, bảo Thục:

- Cậu làm quyết định đi. Mình tán thành.

Ông không biết mỗi chuyến tàu đi nước ngoài về cập bến, trưởng phòng tổ chức đều xuống thăm tàu, tươi cười tay bắt mặt mừng với mọi cán bộ, thuyền viên. Sau khi hỏi thăm sức khỏe, là một câu nói xanh rờn, thản nhiên như chẳng có gì quan trọng:

- Tàu chuẩn bị nhé. Chuyến này có một số thay đổi về nhân lực đấy.

Thế là cả tàu nháo nhào lên. Xôn xao. Hoang mang. Lo lắng. Và người ta không ai bảo ai đều tìm tới nhà trưởng phòng tổ chức. Không đến người không. Hẳn rồi. Cũng không đến với những thứ cồng kềnh, những quạt máy, đầu máy khâu, tivi hay tủ lạnh. Những thứ ấy sếp có đủ rồi, thừa rồi. Mà đến với cái phong bì, mỏng thôi bởi không phải phong bì tiền Việt. Mọi chuyến lời báo trước của trưởng phòng tổ chức "tàu, chuẩn bị nhé, sẽ có một số thay đổi về nhân lực đấy " chỉ là lời báo trước. Nhưng chuyến vừa qua, lời báo trước ấy đã biến thành sự thật. Bởi Thục thấy cần phải biến thành sự thật. Vì đã có những dư luận đến tai Thục. Những dư luận không hay. Nào là thằng ấy luôn khủng bố tinh thần anh em, xóc như xóc cua trong giỏ để gặt hái. Nào là cái thằng đi biển say sóng không chịu được giờ lên bờ tác oai tác quái. Xuống tàu làm thủy thủ không xong... Với lại cái thằng Khương này chưa một lần đến nhà Thục, chưa một chút quà, nó làm như đã là con phó giám đốc công an thì có thể qua mặt tất cả, coi thường tất cả. Thục cũng biết giám đốc muốn đưa bác sĩ Bá xuống tàu. Chính giám đốc nói với Thục điều ấy. Thu xếp cho ông bác sĩ người dân tộc đi một vài chuyến. Phục vụ viên. Ông ấy kêu quá. Gặp đâu cũng nhăn nhó, xin xỏ, mè nheo. Sốt cả ruột. Bác sĩ Bá thì chẳng lấy đâu ra tiền rồi. Nhưng cũng chẳng phải vì sốt ruột mà sếp cho đi. Mà vì cái chứng thần kinh tọa của sếp. Đủ các thứ thuốc. Các thứ bệnh viện không khỏi. Bá chỉ châm cứu và bó mấy lần bằng thuốc gia truyền. Thế là cái bệnh đau nhói từ hông xuống đến mắt cá chân của sếp biến đi lúc nào không hay. Tổng giám đốc và trưởng phòng tổ chức đã gặp nhau ở một điểm.

Trưởng phòng tổ chức viết quyết định đưa giám đốc ký nhưng giám đốc bảo đã phân cấp rồi, ký quyết định điều thủy thủ là trưởng phòng tổ chức. Có lẽ sếp đã quên. Quy chế là trưởng phòng tổ chức chỉ ký quyết định điều động thuyền viên tàu đi đánh cá. Còn thuyền viên đi tàu vận tải nước ngoài là sếp. Sếp trực tiếp quản. Sếp trực tiếp ký. Càng hay. Càng chứng tỏ vị trí của mình, Thục nghĩ vậy. Thế là quyết định điều động lên khỏi tàu thủy thủ Trần Đắc Khương có chữ ký trưởng phòng tổ chức T/L giám đốc (thừa lệnh giám đốc) được thi hành.

Tưởng thế là xuôi. Nào ngờ lại xảy ra sự cố, ầm ĩ cả xí nghiệp. Chiếc Honda DD nhanh chóng được vớt lên. Xí nghiệp không tính tiền cẩu. Nhưng Duy phải trả tiền cho thợ lặn. Phải đem xe lên phố bảo dưỡng... Tất cả căm phẫn hành động của Khương. Duy thề sẽ trả mối thù này. Chí ít là đưa ra hội đồng kỷ luật. Nhưng thật không ngờ. Duy có quyết định lên bờ về lực lượng dự trữ ngay chuyến ấy. Chính ban chỉ huy tàu lên gặp giám đốc đề nghị đưa Duy lên. Nếu không cả tàu sẽ chết. Cả tàu sẽ bị giết. Xí nghiệp cũng gay chứ chẳng riêng tàu. Duy lên. Khương xuống. Ngay. Không chậm trễ. Khương xuống tàu với quyết định do đích thân tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng ký.

° ° °

Suốt thời gian kéo dây loa, đặt hàng bảng tin rồi giồng bảng tin, Toàn chỉ nghe người ta nói về chuyện ấy.

Khương đã xuống tàu vận tải nước ngoài. Phụ cho Toàn không phải Duy (Duy đã xin nghỉ phép) mà là Nhược, anh chàng đã đánh chén cả suất cơm của giám đốc Trần Công Bằng ngày nào. Rồi khi cần phải thêm nhân lực để giồng cái bảng tin bằng sắt dài sáu mét dưới gốc cây bàng ở giữa sân thì có thêm cả Thuyền, người thủy thủ to béo đã đi tù về tội buôn bốn ki lô đá lửa. Cả hai đều là thuyền viên của đại phó Phạm Cương, thủ trưởng tàu 307, con tàu có số chuột nhiều hơn toàn bộ số thuyền viên của Liên hợp Biển Đông. Buổi chôn bảng tin lại xảy ra một sự cố nhỏ nhưng vui. Khi Toàn, Nhược, Thuyền đang de chân chèo, cố dựng chiếc bảng tin nằm dưới đất đứng thẳng lên sao cho sáu chân cọc của nó vào đúng sáu cái lỗ đã đào sẵn, giám đốc ở đâu xộc tới:

- Ông Toàn! Chánh văn phòng không nói gì với ông à?

Toàn ngơ ngác:

- Báo cáo tổng giám đốc, không ạ!

- Để đấy đã! Ông vào đây với tôi!

Toàn xoa xoa hai bàn tay đất cát (thật phúc là lúc này lại có hai bàn tay đầy đất cát), bước theo sau giám đốc, vào buồng văn phòng tổng giám đốc, ngơ ngác không hiểu có chuyện gì. Buồng văn phòng tổng giám đốc cũng là buồng làm việc của Toàn. Mặc dù là buồng làm việc của mình nhưng Toàn không dám ngồi mà cứ đứng vịn tay vào chiếc ghế dựa đặt sau bàn làm việc của anh. Giám đốc bừng bừng tức giận bước thẳng tới bàn Điều:

- Ông Điều! Ông Toàn! Hai ông ra đây với tôi! Ra đây!

Điều vội xếp các giấy tờ trên bàn, đặt chiếc cặp ba dây đè lên, rồi đứng dậy theo tổng giám đốc ra ngoài. Toàn đi sau cùng. Tổng giám đốc dẫn hai người tới toa lét.

- Các ông không ngửi thấy gì à? Tôi đã bảo các ông từ hôm qua là cho vệ sinh thật sạch sẽ cái toa lét này cơ mà? Sao các ông không làm? Rồi cho kẻ ngay hai cái bảng đóng lên cửa để phân biệt bên dành cho nam bên dành cho nữ mà các ông không chịu làm gì cả. Việc nhỏ như thế mà các ông không làm được, hỏi còn làm việc gì nữa. Tôi đến chết với các ông mất thôi. Các ông đúng là những thợ nói.

Toàn im lặng. Còn Điều phân trần:

- Báo cáo giám đốc toa lét chiều qua trước khi về đã cho cọ rửa kỹ rồi. Khai thế này là mới từ sáng. Sáng nay nước lại bị cắt...

Tổng giám đốc lắc đầu chán nản:

- Mới từ sáng đến giờ đã khai nhức óc lên thế này. Phòng ban nào cũng vậy. Làm việc thì ít. Uống chè thì nhiều. Uống chè rồi đi đái. Đúng là ăn hại đái khai. Chỉ lo tiền mua chè với đun nước sôi cho mấy ông cũng đủ chết. Ông cho người gánh nước từ bên bể xưởng lạnh về đây. Cọ ngay cho tôi. Ông Toàn vẽ ngay cho tôi hai cái biển. Như ở các khách sạn ấy. Một cái dành cho nam. Một cái dành cho nữ. Ông hiểu ý tôi chứ? Ông đã đến khách sạn bao giờ chưa?

Toàn lí nhí:

- Rồi ạ.

- Bên dành cho nam vẽ cái đầu đàn ông dưới viết Gentleman, bên nữ vẽ cái đầu đàn bà dưới đề Lady. Đây. Ông có biết tiếng Anh không? Tôi viết ra cho ông đây. Cứ thế mà làm. Hay là thôi, để sau cũng được. Trước mắt lo cọ ngay cái toa lét. Đi mãi xa, chưa vào đến sân đã ngửi thấy mùi khai rồi. Không ra làm sao cả. Bước vào xí nghiệp là thấy mùi khai. Mũi các ông điếc hết cả rồi à? Ông biết khách sắp đến rồi chứ. Cái toa lét là bộ mặt của xí nghiệp ông hiểu chưa? Khách quốc tế đến một xí nghiệp thực phẩm, ngửi mùi nước đái người ta đã khiếp còn nói gì chuyện làm ăn.

Ông giơ tay xem đồng hồ:

- Thằng cha Robert Lee sắp đến rồi đấy.

Sếp lên phòng sếp. Điều làu bàu:

- Có cái toa lét chứ cái đếch gì đâu mà cứ nhặng lên. Thôi ông Toàn, ông bảo hai thằng dự bị ngừng việc chôn bảng tin lại, để đến chiều, lên đây lấy xô, cọ nhà xí. Còn ông đi lĩnh sơn, kẻ bảng treo ngay lên cho tôi.

Phải nói sếp rất quan tâm đến cái toa lét. Nó nằm sát ngay cửa văn phòng tổng giám đốc và ăn hoắm vào chân cầu thang, bên dưới chỗ chiếu nghỉ, lối lên tầng hai, trên ấy là nơi tổng giám đốc và các phó tổng giám đốc làm việc. Cái toa lét mới được sửa lại, nền lát gạch men, tường ốp gạch men trắng muốt, với những bàn cầu, những trang bị tiểu tiện gắn vào tường cho nam và những nơi vệ sinh cho nữ. Có đèn tuýp, có gương, có la va bô rửa tay. Và cũng có cả vòi nước để rửa chân. Đúng là chỉ trông thôi cũng thấy mát mẻ, hiện đại. Khác hẳn cái nhà toa lét cũ, cũng là cái này nhưng tường gạch, nền láng xi măng, cặn nước giải bám trên rãnh cáu khú vàng khè, cọ rửa thế nào cũng chẳng hết mùi.

Chánh văn phòng nói tiếp:

- Hôm qua sếp bảo kẻ hai cái biển ở toa lét thì cứ nghĩ lúc nào kẻ mà chẳng được. Hôm nay ông dựng bảng tin. Mai kẻ. Nào biết đâu phải có biển ngay để đón thằng cha Robert Lee. Nó đến để bàn kế hoạch làm ăn chứ nó đi vào xem toa lét làm gì. Nhưng thôi, ông cứ kẻ ngay đi.

- Nó đầu tư cái gì hở anh?

- Thằng này quốc tịch Mỹ chuyên buôn bán cá. Nó gặp ông sếp nhà mình ở Singapore. Cái dự án xuất cá ướp đá thẳng từ ngư trường sang Sing mà ông Thắng đề ra là sau buổi gặp nó. Nó muốn sang khảo sát các thiết bị phương tiện đánh bắt của mình. Cách thức muối ướp. Phương tiện vận tải. Nếu cần nó sẽ đầu tư cho mình tàu thu gom muối ướp đá trên biển. Dự án lớn lắm. Ông Thắng rất hy vọng. Nếu thành công thì đây sẽ là cứu tinh của xí nghiệp.

Nghe biết vậy thôi. Mãi sau Toàn mới hiểu được những con tàu đang vận tải cá ra nước ngoài kia là chỉ chở cá đông lạnh. Mà năng lực sản xuất của xí nghiệp chủ yếu lại là những con tàu đánh cá ướp đá. Tàu đánh cá ướp đông thiết bị ngày một kém, càng đánh càng lỗ, đã tìm được lối thoát là vận tải hải sản đông lạnh cho các công ty hải sản xuất khẩu, trong khi ấy các tàu đánh cá ướp đá cũng trong tình trạng thiết bị xuống cấp, ngư trường ngày càng ít cá, càng đánh càng lỗ nhưng vẫn chưa tìm được lối thoát. Và bây giờ một hy vọng được nhen lên là ông khách người Mỹ Robert Lee, cái ông khách sắp đến xí nghiệp.

Dưới sự hướng dẫn của chánh văn phòng, Thuyền, Nhược, hai người vớ hai cái xô trong kho cái Tám và mượn hai cái nữa của phòng công đoàn, xách nước từ xưởng lạnh băng qua sân huỳnh huỵch, huỳnh huỵch vào trong toa lét cọ dội ào ào.

- Làm thật sạch hộ tôi các bạn nhé. - Chánh văn phòng vào tận nơi chỉ trỏ - Tí nữa ông sếp ông ấy vào kiểm tra đấy. Tính ông ấy là cứ phải làm ngay như thế.

Và quay lại nói với đám nhân viên các phòng ban đang lượn lờ gần toa lét:

- Tôi xin các bố các mẹ có đi đái chịu khó sang xưởng lạnh mà đái nhé. Chỗ này cọ sạch là để làm mẫu đấy, không phải chỗ toa lét đâu. Các bố các mẹ đái còn tôi lĩnh đủ đấy.

Có tiếng cười:

- Thế thì ông Toàn phải kẻ dòng chữ vào đây: Cấm đái.

Một người gầy gò da xám ngoét răng nâu xỉn, cười cười nói với một phụ nữ cao lớn, xinh đẹp hai má ửng hồng rừng rực khí thế:

- Liễu ơi. Có sang xưởng lạnh toa lét cho anh gửi một bãi nhé. Xa lắm anh không đi được đâu.

Cô gái tên Liễu, nhân viên phòng tài vụ lườm nguýt:

- Anh rủ thêm người nữa đi. Hai người mới đầy. Mình anh chỉ được một góc thôi.

Càng cười giòn giã. Chánh văn phòng bảo với anh chàng gầy gò xám ngoét vừa nói:

- Thằng Lập mà vào đây đái tao cắt dái. Gửi được ai cứ gửi.

Khi công việc dọn nhà xí đã xong, đám đông đã giải tán, chánh văn phòng đã vào tận nơi hít hít, gật đầu tỏ vẻ hài lòng, không những thế còn bảo cái Tám tiếp tân xịt thêm một ít nước thơm, hai anh thủy thủ dự trữ sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chưa muốn trở về quan tài sắt ngay, còn đang ngồi cả ngoài hành lang xem Toàn lúi húi vẽ hình một người mặc váy, bên dưới đề chữ Lady (Quý Bà) thì khách đến. Tổng giám đốc đã ngồi chờ ở sa lông trong văn phòng. Một chiếc ô tô sáng bóng, lượn vào và dừng ở giữa sân. Lái xe mở cánh cửa phía sau, nghiêng người, giang tay nhìn vào trong xe. Một người từ trong xe bước ra. Như chỉ đợi có vậy, tổng giám đốc đứng bật dậy, tươi cười sải những bước dài ra sân, cái sân mới được phủ một lớp xi măng cát, láng một lớp phù sa, dấu vết của những ngày nước lớn tràn vào lếnh láng một nửa sân hơi dốc.

- Chào ông Robert Lee.

Hai người ôm lấy nhau vỗ vỗ vào vai nhau như những chiến hữu lâu ngày mới gặp. Khách là một người nhỏ nhắn, ăn mặc giản dị, da nâu, có cái trán bị bóp lại, khuôn mặt càng xuống phía dưới càng to ra, điểm cực đại là chỗ bắt đầu xương quai hàm dưới, từ đó cái cằm đưa ra, môi dưới dày hơi bị thưỡi trong khi môi trên lại mỏng. Trông rất bình thường nếu không nói là bẩn tướng, ấy thế mà lại là một nhà tư bản kếch sù, buôn bán xuyên quốc gia.

Chủ khách dắt tay nhau lên gác. Chánh văn phòng Điều cắp cặp theo sau.

Toàn, Thuyền, Nhược cùng nhìn theo ba người đang vui vẻ lên từng bậc thang. Bỗng Toàn nghe thấy tiếng Thuyền bên tai:

- Quen quá. Lạ quá nhỉ? Hay là...

Thuyền đứng thẳng lên, ngây người lẩm bẩm:

- Robert Lee à? Đúng rồi. Không chệch đi đâu được. Sao lại có thể thế được nhỉ?

Toàn hỏi anh thủy thủ to béo:

- Anh quen à?

- Quen. Nhưng không biết có đúng không.

Nhược cười:

- Thấy người sang bắc quàng làm họ. Người ta là một nhà tư bản bên Mỹ, còn mình là thằng thủy thủ dự bị mà cứ nói quen. Thôi về tàu đi bố.

Nhược về. Thuyền không về. Thuyền ở lại xem Toàn kẻ chữ Lady và chờ ông khách Robert Lee xuống. Dù có phải chờ đến trưa. Nhưng Thuyền không phải chờ lâu. Có tiếng giám đốc cười nói:

- Mời ông đi thăm quan xí nghiệp. Có thể nói xí nghiệp chúng tôi là xí nghiệp đầu đàn trong ngành. Ta mời khách ra xem cầu cảng, xem tàu trước đã ông Điều nhỉ.

Khi tổng giám đốc, ông khách Mỹ và chánh văn phòng trịnh trọng xuống hết bậc thang cuối cùng, đi qua cửa toa lét không còn tí mùi khai nào và bước dọc hành lang, tiến về chỗ Thuyền, Thuyền buột kêu lên khe khẽ:

- Đúng rồi! Nhọ...

Và đứng lên nhìn thẳng vào Robert Lee. Ông khách Mỹ sững lại:

- Ai như... Ôi! Anh Thuyền! Thuyền Lồn!

Hai người ôm lấy nhau. Ghì chặt. Đẩy nhau ra. Nhìn vào mặt nhau. Rồi lại ghì chặt. Đấm vào lưng nhau. Ép má vào nhau. Thuyền thì thầm rất khẽ vào tai Robert Lee chỉ đủ để một mình Robert Lee nghe thấy:

- Lý Sinh Keng! Nhọ mõm. Nhọ mõm!

Và Robert Lee đáp lại cũng bằng những tiếng thì thầm:

- Thuyền Lợn! Thuyền Lợn!

Họ nhìn vào mặt nhau cười lớn.

- Anh làm ở đây à? Chiều gặp nhé. Bây giờ tôi còn phải theo ngài Tổng giám đốc đi làm việc đã. Thế nào chiều cũng gặp đấy. Anh cứ chờ tôi ở sân này.

Nói rồi Robert Lee chạy tới ô tô, mở cửa xe, lấy ra một cây ba số đưa cho Thuyền:

- Cầm lấy hút tạm. Chiều nói chuyện nhiều. Thật không ngờ gặp anh ở đây. Chiều nhé. Cuộc sống ổn không?

Thuyền chỉ cười ổn ổn.

Khách đã đến rồi. Sếp đã cùng khách xuống tàu rồi. Chẳng cần làm cấp tập cái hình người đàn ông với chữ Gentleman nữa. Toàn thu dọn đồ nghề, bút lông, mấy hộp sơn màu đem vào cất ở góc phòng, đi ra hành lang phía sau nhìn ra cầu cảng. Thuyền cũng đứng đó. Cũng nhìn về phía ba người chủ và khách đang leo lên cầu thang dốc ngược bước vào cabin tàu HL 406 sơn đỏ đỗ áp cầu, nổi dềnh lên để lộ gần hết mạn tàu vì tàu đã bốc hết hàng, vì nước lớn. Ôm cây ba số, Thuyền vẫn còn chưa hết xúc động, nắm tay Toàn, gần như kéo Toàn đi:

- Ra căng tin uống cái gì thôi chứ sếp?

Hai người ra căng tin. Bia ướp lạnh nhưng vẫn bỏ thêm đá. Thuyền bóc bao ba số, ấn một bao vào tay Toàn:

- Sếp cầm lấy hút, sếp mới về xí nghiệp à? Thảo nào lên trên phòng ban bao nhiêu lần hôm nay mới gặp sếp. Cái thằng cha Robert Lee này chính tên là Lý Sinh Keng. Trời ơi cứ tưởng đón ông Robert Lee mắt xanh mũi lõ nào cơ. Cọ rửa nhà xí tí chết. Khớ khớ. Không còn tí mùi nước đái nào. Xách nước bại cả tay. Lại xịt thêm dầu thơm nữa. Nếu tôi biết nhà doanh nghiệp Mỹ Robert Lee chính là Lý Sinh Keng thì tôi đã đề nghị tổng giám đốc huy động thêm một số anh chị em đái thêm một chập nữa. Thì thế. Khớ khớ. Điều đó rất có lợi cho xí nghiệp. Có thể vì vậy mà hợp đồng được ký kết cũng nên. Khớ khớ. Bởi vì doanh nhân Mỹ Robert Lee này đặc biệt thích mùi nước đái. Thế. Thì thế mà lại. Khớ khớ. Thật mà. Ớ trong tù chúng tôi gọi là Keng nhọ mõm. Vì mồm lúc nào cũng như nhọ, cũng như vừa ăn sắn nướng xong mà không chùi mép. Còn tôi to béo nên anh em gọi là Thuyền lợn. Gọi vui thôi không ác ý gì đâu. Với lại cái tên ghép ấy mà. Hai thằng tù với nhau mãi. Bố ấy lại không có tiếp tế. Vợ bỏ. Tôi thì nhận tắc đều đều. Có gì tôi cũng chia, cũng cho ăn chung. Thì sếp tính cả toán chỉ có hai anh em người Hải Triều thôi, nhiều nhặn gì cho cam. Tù lâu hơn tôi. Mà bây giờ khá thế đấy. Thủy thủ bên Vosco. Cũng buôn lậu. Tôi ra, tay ấy còn tù. Mà bây giờ nên người. Ha ha. Sướng. Ai ngờ đâu mình lại quen với thượng khách của tổng giám đốc. Khớ khớ. Lại nghĩ đến cái nhà xí. Cái nhà xí trong tù ấy mà, không thể tả được đâu. Khai chảy nước mắt nước mũi. Thế mà chẳng mấy tối tôi với Lý Sinh Keng tức là cái ông Robert Lee này này không đun đun nấu nấu ở trong ấy. Mà đâu chỉ mình mình đun. Bao nhiêu người nữa chứ. Khói không mở được mắt. Mồ hôi mồ kê. Thế. Thì thế mà lại... Ai ngờ lúc vượt biển ra đi là đồ phản quốc mà khi trở về lại danh giá thế!

Suốt từ ấy cho đến trưa gần như chỉ một mình Thuyền nói. Thuyền nói hai người gặp nhau ở trại Tân Lập. Rồi cùng chuyển lên trại Phố Lu. Được cái không bị quản chế. Mà là tù tự giác. Tự giác có đỡ hơn nhưng cũng đói lắm. Thích nhất là gánh phân hay lấy lá làm phân xanh. Nhổ được sắn. Nhổ của trại. Nhổ của đồng bào. Thuyền cười lớn:

- Một hôm tôi với ông Robert Lee này này đang cùng anh em ngồi nhổ cỏ vườn rau của trại, nắng quá, nắng hơn hôm nay, có mấy bà người dân tộc địa phương đi qua, tự nhiên Nhọ mõm lại ngẩng lên rền rỉ: Bà ơi! Bà thấy chúng tôi tù thế này bà có thương không hở bà? Một bà trả lời đốp chát: Thương gì mà thương. Có nương sắn của chúng tôi các anh nhổ hết còn thương cái nỗi gì? Thế là tất cả chúng tôi cười ầm. Khớ khớ. Nhưng có cái này phải công nhận. Gầy gò nhỏ bé, làm việc nặng không được, thường xuyên phải ăn mức mười ba cân (gạo), nhưng Lý Sinh Keng à không phải Robert Lee khơ khớ khớ cứ quên thôi này cái tên Robert Lee nghe hay nhỉ, nghe rất Mỹ mà dễ gọi. Lại vẫn giữ được cái họ Lý của mình. Lý là họ phải không sếp. Còn Robert là tên. Phương T ây người ta để tên trước họ có đúng không sếp. Ây là tôi cũng nghe nói thế chứ chữ Tây chữ Tàu là tôi mù tịt. Đang nói cái gì nhỉ? À. Nhớ ra rồi. Đang nói đến trong tù Lý Sinh Keng yếu nhưng rất nhanh. Rất tháo vát. Tôi chưa từng đi đến một bản làng nào, một nhà dân nào thế nhưng Keng nhọ mõm đâu cũng biết. Trùm phe đấy. Anh muốn mấy quả trứng gà bồi dưỡng? Có ngay. Một chai con con mật ong? Nói sáng là chiều có. Kể cả rượu cũng có. Bỗng dưng thấy đã là mùa mít, thèm mít và cần chục múi ư? Có ngay. Cứ vải mưa đem đi là khi về cái gì cũng có. Không vải mưa thì tiền mặt cũng được. Tiền mặt chứ không phải tiền âm phủ đâu. Còn những bánh mì, thịt kho, thuốc lá là những thứ có sẵn trong trại không nói làm gì. Những thứ ấy có thể mua bằng tiền âm phủ 1 .

Và Thuyền cười sảng khoái:

- Khớ khớ khớ. Thật là hay! Tự nhiên sáng nay lại được điều đi giồng bảng tin cho sếp mới được gặp bạn cũ. Chiều nay ta cố gắng hoàn thành sớm nhé. Để anh em tôi có thời gian hàn huyên tí chút. Chắc chẳng thể tránh được một chầu lên bờ xuống ruộng.

Buổi chiều ba người, cả Nhược nữa kết thúc công việc sớm. Lúc Toàn và Nhược đang mỗi người một đầu bảng tin giữ cho nó đứng thẳng và Thuyền đang ngắm lại một lần nữa trước khi chèn gạch vỡ, đá vụn vào sáu cái chân cột dưới tán lá gốc bàng và chờ Robert Lee thì tổng giám đốc bước tới. Ông hất hàm về phía Thuyền:

- Đồng chí... gì nhỉ?

- Báo cáo thủ trưởng tôi là Thuyền. Lê Văn Thuyền ạ.

- Đồng chí quen Robert Lee đấy à?

- Vâng ạ.

- Lâu chưa?

- Khoảng hai chục năm rồi ạ.

- Ông ấy vượt biên năm nào?

- Năm bảy chín.

- Ớ nhà ông ấy làm gì?

- Báo cáo thủ trưởng. Thủy thủ bên Vosco.

- Tôi mời ông ấy đi ăn cơm tối. Nhưng ông ấy nói đã hẹn với đồng chí rồi. Có gì trong bữa ăn, đồng chí nói thêm vào dùm nhé. Ông ta còn ngại khoản máy lạnh trên tàu 600 mã lực. Hơi bị cũ. Nếu ký được hợp đồng, mình sẽ phải đầu tư phục hồi sửa chữa chứ. Đồng chí đang là lực lượng dự trữ à? Bao lâu rồi? Được. Được. Để rồi sẽ tính...

Chẳng biết giám đốc sẽ tính cái gì. Mà có tính cái gì chắc cũng là điều tốt đẹp thôi. Với lại khi sếp chưa nói thì mình chưa thể hỏi. Buổi tối với Robert Lee rồi cuối cùng cũng đến. Ô tô đón Thuyền từ sân xí nghiệp.

Thuyền bước lên xe trước con mắt ngạc nhiên, thèm thuồng của bao nhiêu người đang thập thò ở cửa buồng làm việc, chờ kẻng tan tầm. Một bữa ăn sang trọng tại nhà hàng. Hai người trong phòng nhỏ. Xúp vây cá khai vị. Rượu uyt ki. Tôm hùm nướng. Thịt nhím xào sả. Một cô phục vụ váy ngắn đứng chờ ở phía ngoài cửa phòng sẵn sàng bước vào khi có lệnh của thực khách. Cuối tiệc còn có một phong bì với ba tờ đô. Họ không nói chuyện làm ăn. Mà nói chuyện tù. Bắt đầu là câu chuyện sếp Thắng quát tháo về cái toa lét khai mù, chính Thuyền phải xách nước từ xưởng lạnh lên cọ rửa để đón ngài Robert Lee. Rồi đến cái nhà mét trong tù. Ông khách Mỹ gốc Việt ngả ưỡn người trên ghế làm ra vẻ mơ màng:

- Ôi! Cái mùi khai đến cay mắt ấy.

Và cười rinh rích:

- Ông về nói với tổng giám đốc là tổng giám đốc làm hỏng hết việc rồi. Nếu còn cái mùi khai nhớ nhung thân thương ấy thì hợp đồng đã được ký ngay buổi chiều. Ông tư bản Mỹ gốc Việt này đặc biệt thích mùi khai. Sở dĩ hợp đồng còn lằng nhằng chưa ký là vì không có mùi khai đấy.

Lại cười:

- Mai tôi phải vào toa lét xem thế nào mới được.

Một lúc sau Robert Lee như nói một mình:

- Giờ đây nghĩ lại vẫn rợn người. Giá ngày ấy ông nghe tôi, đi với tôi có phải bây giờ khác rồi không?

Thuyền như đã suy nghĩ rất nhiều lần chuyện ấy:

- Ngày ấy đi là không có ngày về. Đi là mắc tội phản quốc. Mà tôi còn bố mẹ già. Đâu biết đi rồi lại được về, trở thành Việt kiều yêu nước, đón tiếp trọng vọng thế này. Với lại con người tôi ông biết. Chỉ ăn no vác nặng thôi. Đâu tháo vát nhanh nhẹn được như ông.

Rồi Thuyền kể những ngày lao vào kiếm sống sau khi mãn hạn tù. Mình thì xí nghiệp đã cho trở lại đi làm. Nhưng bữa đực bữa cái không đủ sống. Còn bốn cái tàu há mồm nữa phải lo. Tối đêm, tôi với thằng nhớn ra bờ sông khiêng về nhà một miếng sắt không biết nằm ở đấy từ bao giờ. Đục khuôn dép. Khuôn dép trẻ con. Vì tôi đã nghiên cứu trẻ con là hay đánh rơi dép nhất. Người ta chỉ làm khuôn hai chiếc một, giỏi lắm là hai đôi bốn chiếc, tôi chơi cái khuôn tám chiếc. Thế rồi bốn đứa con lớn bé chặt băm dép cũ, màu xanh để riêng, màu đỏ để riêng, màu nâu để riêng, hòa xà phòng bột rửa sạch, xếp vào khuôn nướng trên bếp than. Khổ lắm. Vất vả suốt đêm. Mùi nhựa khía vào hai lỗ mũi, bật máu. Kiếm ăn được. Đàng hoàng. Nhưng ông phòng thuế đến. Thì cũng chỉ mất bữa rượu thịt chó thôi. Nhưng ông công an đến, truy hỏi nguồn gốc của miếng thép làm khuôn thì gay rồi. Đòi xuất trình hóa đơn chứng từ của công ty kim khí hóa chất. Đây là mặt hàng nhà nước độc quyền quản lý. Ông thấy khó sống không? Miếng thép vất ở bờ sông không sao. Mình đem về làm một việc có ích cho xã hội thì lôi thôi. Biết các ông vòi đây, muốn ăn đây. Lại phải một chầu thịt chó nữa thêm vào mỗi ông hai đôi dép trẻ con. Làm được mấy năm, khi hàng nhựa Trung Quốc vào, phải chuyển sang làm máy xay xát.

Ông Việt kiều yêu nước chia sẻ với bạn:

- Tôi sang bên ấy những ngày đầu cũng vất vả lắm. Vất vả không kém trong tù. Nhưng rồi lại nghĩ phải làm sao mở mày mở mặt với đời. Thế là lại cố. Lúc nào thư thái tôi kể cho ông nghe.

Nhấp một ngụm rượu, ông tiếp:

- Vấn đề là phải có nhiều tiền ông Thuyền ạ. Tôi đã rút ra được điều ấy. Ai có tiền người ấy là chủ xã hội. Tiền mua được tất cả. Cái gì tiền không mua được thì nhiều tiền sẽ mua được. Có tiền, người ta sẽ phải phủ phục dưới chân ông. Không có tiền ông chỉ là cục cứt. Trước khi về đây, tôi đã nằm ở Hà Nội nửa tháng. Gặp nhiều kiều khác cũng về tính nước làm ăn. Gặp nhiều quan chức cỡ bự. Tôi biết. Không gì mạnh bằng tiền. Người ta nói thế này thế nọ nhưng ai cũng thích tiền. Nói một đằng nhưng nghĩ và làm một nẻo. Nói cách mạng nhưng thích tiền. Đô la là nhất. Tiền Việt cũng không đứng hạng nhì đâu. Bởi thế bạn ơi, bạn phải có tiền. Tôi có thể biếu ông dăm ba trăm thậm chí một nghìn đô. Nhưng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Cái chính là tạo ra công việc cho ông để ông kiếm được tiền. Nếu việc mua cá đá của công ty Biển Đông suôn sẻ, ông sẽ là đại diện cho tôi ở đây. Được không?

Một điều Thuyền chưa hề nghĩ tới. Một điều trên cả tuyệt vời cầu mong thành hiện thực. Cầm cái phong bì ba trăm đô của bạn, Thuyền nghĩ ngay tới cái máy xay xát cọc cạch đặt ở nhà, không ngày nào không giở chứng. Thằng Trịnh con nhớn anh luôn miệng kêu ca cằn nhằn, chân tay bê bết dầu mỡ vì sửa chữa. Kỳ này phải thay một cái máy mới hoàn toàn. Mô tơ ngoại. Đi lại đường dây điện. Thay mới cái cầu dao điện ba pha. Thiếu thì lấy tiền bán máy cũ bù vào...

--------------------------------

1

Tiền âm phủ: Số tiền được ghi trong một tờ giấy có xác nhận của giám thị trại tù.

II

Hôm sau, xuống chiếc tàu bẹp, đưa cho Phạm Cương bao ba số, vừa mới giải thích đôi điều về lai lịch của bao thuốc lá với Cương, đã có người trên văn phòng xuống gặp Thuyền:

- Anh lên ngay giám đốc gặp.

Dường như giám đốc rất hy vọng vào việc xuất cá đá này. Ngồi thẳng người trên xa lông, đối diện với giám đốc, nhìn cái Tám, cô gái thon thả trẻ trung phục vụ tiếp khách cho giám đốc bưng ấm trà ra, ngón tay cong cong rót nước vào chén sứ, rồi khẽ khàng đi sang buồng bên, anh cảm thấy mình như đã là đại diện của một công ty nước ngoài, một đối tác với Liên hợp Biển Đông rồi.

- Sao? Hôm qua tốt chứ hả?

Thuyền thuật lại tất cả, kể cả ý định của Robert Lee muốn anh sẽ làm đại diện tại Việt Nam khi công việc trôi chảy. Tổng giám đốc tươi cười:

- Được thế càng tốt. Trước mắt tôi sẽ nói tổ chức chuyển đồng chí xuống tàu sản xuất. Xuống ngay tàu 600 làm chế biến trưởng. Đánh cá đá xuất thẳng. Ngay chuyến đầu tiên. Có đồng chí, chắc Robert Lee sẽ không làm khó dễ. Hộ chiếu đồng chí có chưa nhỉ. Để tôi bảo tổ chức làm ngay cùng đợt với tàu. Tàu đang làm đấy.

Chỉ ngày hôm sau, anh đã nhận quyết định xuống tàu 600 mã lực với chức danh chế biến trưởng, rồi đi chụp ảnh làm hộ chiếu, đúng như giám đốc nói, chấm dứt chuỗi ngày tháng lê thê nằm canh quan tài sắt.

Cương, Nhược, Thuyền, Kích bốn người làm một bữa liên hoan chia tay. Không căng tin, không nhà hàng. Làm ngay tại tàu. Vừa ăn. Vừa nằm. Vừa ngồi. Nó mới sướng. Chúc cho một thằng thoát kiếp dự trữ thường xuyên. Chúc cho một thằng nhờ tận đâu đâu đã thoát khỏi kiếp thủy thủ dự trữ nhọc nhằn. Và có thể sẽ nên người.

° ° °

Từ khi Toàn về thay Giò Tìu, công tác thi đua đã có những thay đổi đáng kể. Sau một thời gian quá dài không được làm việc, Toàn lao vào công việc với một nhịp độ "như điên". Sau khi giồng bảng tin và căng xong dây truyền thanh, Toàn mời một nhà nhiếp ảnh về chụp toàn bộ cầu cảng, làm một cái panorama bốn kiểu ảnh ghép lại lồng khung kính treo ở văn phòng giám đốc, chỗ Toàn và chánh văn phòng ngồi làm việc. Trưởng phòng điều độ trông thấy thích quá, đề nghị phóng thêm một bộ treo ở điều độ, rất tiện lợi trong việc theo dõi cầu bến, xếp tàu. Toàn còn lên đài phát thanh thành phố ký một hợp đồng mua ăm li, mắc thêm loa. Rồi gửi tàu đi nước ngoài mua micro mới... Cũng có trục trặc kỹ thuật đôi chút. Ây là khi bàn giao, anh kỹ thuật cơ công nhất định đòi bản vẽ mà anh cán bộ kỹ thuật đài truyền thanh nói là không có, chúng tôi đã làm hàng trăm hệ thống loa đài cho các xí nghiệp không thấy nơi nào đòi bản vẽ cả, bên A chỉ cần biết hệ thống loa chúng tôi mắc song song. Anh kỹ thuật cơ công nhất định không chịu chấp nhận, không thể đồng ý với cách làm việc thủ công như thế. Cuối cùng Lê Xuân Vân, phó thư ký công đoàn phải đến giải quyết. Vân hỏi Toàn về số loa đã mắc, vị trí các loa, về công suất ăm li. "Bác bật công tắc tôi xem". Vân bảo Toàn. "A lô a lô. Chúng tôi thử hệ thống loa. A lô. A lô". Tiếng loa trên các nóc nhà vang khắp xí nghiệp.

Vân quay lại nói với anh cán bộ kỹ thuật đài truyền thanh:

- Tôi nghiệm thu. Hệ thống loa vận hành tốt. Cám ơn các đồng chí.

Buổi nghiệm thu kết thúc. Nhưng còn bữa cơm liên hoan tại căng tin đang chờ đợi. Anh cơ công chắc tự thấy không có đóng góp gì cho buổi nghiệm thu, không những thế lại còn gây khó khăn, và cũng để phản đối cách làm ăn luộm thuộm, thiếu khoa học nên là người ra về đầu tiên. Anh cán bộ đài phát thanh đã nổi cơn tự ái, cũng nhất định ra về. Bốn suất ăn với đầy đủ bia, thịt gà, chả cá thu, sườn ninh khoai sọ, tim gan xào thập cẩm giải quyết sao bây giờ. Toàn sang văn phòng công đoàn mời Vân đi ăn, Vân lắc đầu quầy quậy. "Ai lại thế. Giá không có cái chuyện ông Nhự hâm bên cơ công cứ nhất định đòi bản vẽ để em phải sang giải quyết thì em đi với bác ngay. Đằng này mình giải quyết, rồi mình đi ăn. Hơi thô, bác thông cảm". Toàn báo cáo khó khăn ấy với chánh văn phòng Điều. Điều cười: "Yên tâm. Để tôi giải cho. Kiếm người làm khó chứ kiếm người ăn dễ ợt". Chánh văn phòng vận động cô Phòng văn thư. Phòng giãy nảy: "Không đâu. Nhét. Khơ ra sô!" Chánh văn phòng cười ngặt nghẹo: "Lào giáp Căm-pu-che!" Đấy là câu chào của chị Nhuệ, tạp vụ nấu nước ngày trước. Cái dạo tàu Liên Xô vào nhiều, gặp thuyền viên Liên Xô nào chị cũng cười rất tươi, để lộ mấy chiếc răng vàng lấp lánh: Dờ-đáp-tơ-vui-che. Và Huy, chính Huy, đại phó HL 19 bây giờ đã Việt hóa lời chào tiếng Nga ấy bằng một câu thật dễ nhớ: "Lào giáp Căm-pu-che". Lào giáp Căm-pu-che cô Phòng xong, đi tìm bà Nga. Bà Nga đồng ý ngay. Toàn gật gù: Đúng. Bà Nga là cộng tác viên tương lai của đài. Khi đọc phải có giọng nam giọng nữ chứ. Người thứ ba là trưởng phòng điều độ Đức. Cũng lại rất chính xác. Điều độ là đầu mối của mọi tin tức trong xí nghiệp. Toàn và Điều sang điều độ. May Đức vừa từ ngoài cảng về, theo sau là ba người khách. Đức ngồi vào bàn, những người khách kéo ghế ngồi quây phía đối diện. Tặng phó phòng ngồi ở bàn phía ngoài nhưng tất cả không ai để ý đến, coi như không có Tặng ngồi đấy. Dường như họ đang tiếp tục cuộc tranh luận dở dang. Đức giơ tay chém chém vào không khí, giọng oang oang, gay gắt:

- Tôi phản đối cách làm như thế. Yêu cầu các thuyền trưởng Lát phải ký vào biên bản. Tàu phải có người trực chứ! Tàu Lát nào cũng phải có người trực.

Một người khách tóc bạc trắng lễ phép:

- Tôi đã báo cáo giám đốc của tôi rồi. Cái này lỗi không phải của chúng tôi. Giám đốc của chúng tôi sẽ sang thưa chuyện với anh sau.

Đức dường như vẫn đang cơn say máu:

- Các anh cứ bảo một Lát vào làm ma nơ hết hai triệu đắt quá. Nhưng các anh làm ăn như vậy, chúng tôi làm sao bốc được hàng.

Những người khách tỏ vẻ biết lỗi. Họ đứng lên nắm tay Đức ân cần:

- Chúng tôi sẽ rút kinh nghiệm. Lần đầu tiên. Mong anh thông cảm.

Lúc họ vừa bước ra, Đức như chợt nhìn thấy chánh văn phòng và Toàn, anh cười rất tươi, vẻ mặt thay đổi hẳn:

- Chào các chiến hữu. Có việc gì đấy. Làm ăn như thế này chết cả. Sao? Tan tầm ra căng tin à. Xong rồi.

Và giật giọng gọi một thanh nhiên đi ngang qua:

- Tuyến ơi. Vào đây. Các bồ chờ tôi một tí. Ngồi đây. Ba số đây. Mấy thằng Lát vừa biếu đây. Tuyến. Tình hình thế nào mày?

Tuyến là một thanh niên to lớn, đội trưởng đội bốc xếp, một tổ chức đánh thuê cho xí nghiệp, tay chân đắc lực của Đức.

- Cháu mở máng từ một giờ đến giờ chưa có xe.

- Xe của nó đâu? Phải hỏi chủ hàng chứ!

Điều và Toàn mỗi người châm một điếu ba số rồi trở về phòng sau khi đã dặn lại Đức một lần nữa: Đúng năm rưỡi nhé!

Thấy thái độ kính phục của Toàn về cung cách làm ăn của trưởng phòng điều độ, Điều cười:

- Ông không biết. Thằng này siêu đấy. Chỗ dựa vững chắc của sếp đấy. Cảng bây giờ là cảng tổng hợp, không chỉ là cảng cá. Tàu gạo, tàu xi măng, tàu sắt thép... Chở đến. Chở đi. Hợp đồng làm ba ngày thì đỗ năm ngày. Tàu dài một trăm mét, bảo tàu dài năm mươi mét. Đội quân cửu vạn của thằng Tuyến phải nộp đều đều. Cống cho bố Đức. Bố Đức lại cống cho bố Thắng. Thằng Đức giở mặt như bàn tay. Ông Vệ, giám đốc cũ ở đây, nghỉ hưu chuyển về Quy Nhơn, đi đánh thuê, hôm nọ đưa tàu ra đỗ ở cảng, không có hợp đồng, nó yêu cầu làm hợp đồng, ông ấy không làm, nó đuổi đi ngay. Ông Vệ trước khi tách bến còn lên đứng giữa sân, gọi nó ra chỉ tay vào mặt nó: "Mày là thằng ăn cháo đái bát. Mày thừa biết chính tao là người đề nghị đề bạt mày. Mày cũng biết chính tao xây dựng cái cầu này. Thế mà bây giờ cầu rộng tao đỗ có một ngày, mày cũng đuổi tao à?" Bây giờ ông Thắng thử về hưu xem nó coi không bằng con tép.

Ngừng một lát, Điều tiếp:

- Còn cái chuyện ở phòng điều độ vừa rồi là thằng Đức nhận thêm một Lát của Nga vào bốc hàng. Nhưng thằng Tuyến không kham nổi ba dây cùng bốc. Thằng Đức cáu. Chắc cái Lát của Nga này thằng Đức vớ bẫm. Tàu Nga là nó tính giá thuê cầu bằng đô đấy. Nó cứ làm như nó tích cực lắm. Qua làm sao được mắt tôi.

Nghe Điều nói Toàn mới biết được đầu đuôi câu chuyện ở phòng điều độ. Khi anh sang để nhắc lại với

Đức về thời gian ra căng tin, vẫn còn thấy Đức và Tuyến đang trao đổi với nhau. Bàn ngoài, phó phòng Tặng ngồi im như một pho tượng dửng dưng vô cảm, không tham gia vào câu chuyện.

- Chú thông cảm với cháu. Cháu không có đủ người để bốc.

- Nhưng cái này liên quan đến thằng Ivan Tuyến ạ.

- Ivan thì Ivan chứ. Nó cũng là người chứ.

- Thế xe của nó đâu.

- Ớ ngoài cổng. Xếp lốt kẹt cứng ngoài cổng. Mở cửa là nó ùa vào.

- Mày cứ mở máng cho chú.

- Máng mở từ một giờ đến giờ.

Đức cầm cái chìa khóa xe máy trong tay Tuyến:

- Thôi. Mày để chú giải quyết. Cái này dính đến thằng Ivan. Để chú lo.

Đức bước ra sân, mở máy phóng xe đi. Tuyến nói như phân bua với Tặng:

- Tôi không thích những ai coi người nước ngoài hơn người mình. Nước ngoài cũng là người thôi chứ.

Ngừng một lát Tuyến tiếp:

- Mà thực tế bọn Ivan này chỉ là Bế Văn Đàn cho bọn chủ người Việt Nam thôi. Chúng nó kiếm ăn nhưng dưới danh nghĩa thằng Ivan cho dễ bề hoạt động. Ivan thì Ivan. Cũng là người thôi chứ.

Tặng chỉ cười. Nụ cười như muốn bảo: Tao biết quá rõ, kể cả mày nữa. Chúng mày làm ăn với nhau thế nào

tao biết hết. Không qua khỏi mắt tao. Tuyến bước ra, Toàn định nói với Tặng một câu gì đó bỗng chuông điện thoại đổ hồi. Tặng vẫn ngồi yên không nhúc nhích. Một hồi. Hai hồi. Ba hồi... Giòn vang. Thúc giục. Tặng vẫn ngả người ngó ra phía ngoài sân. Toàn nhắc:

- Điện thoại. Anh Tặng.

Tặng thản nhiên:

- Điện thoại gọi ông Đức đấy. Mình có nhấc máy thì cũng chỉ "cho tôi gặp anh Đức". Ông Đức đi vắng là cúp máy ngay. Chỉ làm việc với ông Đức thôi mà.

Và xem đồng hồ:

- Sắp hết giờ rồi. Hôm nay phải về sớm. Có "ông trưởng" ra chơi. Đưa ông ấy ăn cơm tiệm. Ông ấy chỉ thích thế thôi. Mười ba tuổi mà uống bia rất giỏi. Tôi bảo hơn bố rồi. Bố mười ba tuổi đi học về còn phải chăn trâu bạc áo ở đồng đất Thái Bình kia kìa. Tiếp đãi ông ấy cẩn thận không có ông ấy lại nói xấu mình với mẹ ông ấy. Lần trước ông ấy ra chơi, khi về ông ấy mách mẹ: Con thấy hai con đĩ phi dê đến chơi nhà thầy.

Tặng cười phá lên trước ông con giai ghê gớm. Rồi lấy xe đi. Tan tầm Đức về. Đúng hẹn. Đức đã giải quyết được việc bốc ba dây. Sang bên cảng chính thuê hẳn một dây. Đức đúng là người năng động tháo vát, hơn thế còn là một người dễ gần, thoải mái với tất cả. Một mẫu người Toàn rất thán phục. Công việc cứ vui vẻ và nhẹ tênh tênh. Lúc sắp ăn, một cô căng tin đến, ghé sát vào người Đức. Một cô gái béo núc, sơ mi trắng cúc chật căng, da rất trắng, mặt bầu bĩnh dễ thương, vai chạm vai Đức, cố

tình liếc Đức tình tứ cứ như một đôi tình nhân thực sự vậy. Đáp lại cú liếc chỉ còn hai lòng mắt trắng giã, Đức cầm bàn tay múp míp của cô đưa lên miệng hôn.

- Em Lan. Lấy ghế ngồi xuống đây.

Lan cười:

- Nhớ quá hả?

- Ly hôn đi.

- Ly hôn là gì hở anh?

- Là cái hôn không khít.

Rồi cầm cốc bia lên miệng uống một hơi, và đưa cho cô căng tin:

- Cạn. Uống đúng chỗ này.

Chỗ này là chỗ Đức vừa đặt môi mình vào. Lan vẫn đứng, ngoan ngoãn làm theo lời Đức. Uống xong, cô cúi xuống tì cả hai khuỷu tay lên bàn, nghiêng người về phía Đức. Đức mở khóa chiếc túi treo trên ghế, rút ra một xếp tiền 5000, đếm. Đây. 200 nghìn. Đây 35 nghìn nữa. 235 nghìn. Viết giấy cho anh nhé. Tiền bữa trước chiêu đãi mấy thằng Ivan đây.

Trong bữa ăn, Đức bảo:

- Làm ăn bây giờ cứ chờ là chết.

Toàn lấy câu nói đó làm đầu đề cho bài viết về sự năng động sáng tạo của phòng điều độ. Buổi phát thanh kết thúc, về phòng, gặp Điều, Điều bảo:

- Con nhà Đức ngồi im lặng nghe. Con ấy phổng mũi. Nhưng mà ông hơi đề cao con ấy quá đấy.

Toàn thanh minh:

- Tôi có nói cá nhân nào đâu. Toàn là biểu dương phòng điều độ thôi.

° ° °

Toàn đã có một thời oanh liệt. Ngắn thôi nhưng oanh liệt. Từ trong phòng bả âm toa lét (phòng truyền thanh đặt trong một cái toa lét cũ làm từ thời Tây đã hỏng, không dùng nữa) Toàn bật ăm li, khẽ gõ vào micro mấy cái nhè nhẹ:

Đây là buổi truyền tin Liên hợp Hải sản Biển Đông.

Đây là buổi truyền tin Liên hợp Hải sản Biển Đông.

Buổi phát tin hôm nay có những tin chính sau đây...

Những tiếng ấy vang lên ở tất cả các cơ sở của công ty Hải sản Biển Đông. Khi hai ngày một lần, khi một tuần hai lần, tùy theo có nhiều tin hay ít. Tin ít thì đọc thêm chỉ thị nghị quyết của đảng ủy, giám đốc, công đoàn, những văn bản của nhà nước, hỏi đáp sinh đẻ có kế hoạch, thông báo tổng vệ sinh chiều thứ bảy của phòng y tế gửi tới. Mời cả bà Nga lên đọc có giọng nam giọng nữ như đã định.

Toàn sang đài thu phát trung tâm lục sổ điện báo, ghi lại toàn bộ những bức điện của các tàu hoạt động trên biển báo cáo về xí nghiệp (mỗi tàu phải điện về hai lần trong ngày) viết thành tin. Cũng có khi phát lại nguyên văn những bức điện để thấy rõ cuộc vật lộn của anh em thuyền viên trên biển như sửa chữa sự cố đột xuất về máy móc thiết bị, tinh thần khắc phục khó khăn khi đi biển dài ngày, thiếu cả nước ngọt tắm rữa, phải hứng nước ngưng từ các dàn lạnh chảy ra để dùng... Anh có quyển sổ theo dõi sản lượng các tàu sát đến mức nhiều khi phòng kế hoạch phải mời Toàn sang đối chiếu số liệu... Tàu vừa cập bến, anh em thủy thủ còn đang làm dây, hầm cá chưa mở, chị em bốc cá còn đang chuẩn bị cần cẩu, xe chở cá chưa đến, đã nghe loa truyền thanh vang vang truyền đi khắp xí nghiệp bài viết chào mừng chuyến biển vừa kết thúc, với những khó khăn vừa vượt qua, những chuyện anh em thuyền viên vừa trải, những sóng gió cấp năm, cấp sáu, những bơm nước làm mát bị hỏng, những ly hợp máy chính "ly không ly hợp không hợp", những mẻ lưới lép kẹp, những mẻ lưới trúng tim luồng cá... Còn gì phấn khởi hơn. Nghe mà mát cả ruột. Nghe mà cứ thấy như giám đốc và phòng tổ chức sắp chuyển mình sang tàu đi nước ngoài đến nơi.

Toàn không quên khối trên bờ. Toàn mời đồng chí quản đốc đà nổi lên trực tiếp phát biểu trước micro. Toàn viết tin tổng hợp về xí nghiệp sữa chữa, xí nghiệp lạnh đông (hai phân xưởng này đã lên xí nghiệp cả rồi, xí nghiệp cơ khí sữa chữa hạch toán độc lập, còn xí nghiệp lạnh đông hạch toàn báo sổ). Toàn biểu dương phòng cung tiêu đã chạy đủ am mô ni ac trong tình hình khan hiếm... Ngày ấy người ta gọi Toàn là nhà báo. Dù tòa soạn và phòng bá âm đặt ngay trong cái toa lét hỏng.

Nhà báo đến đâu cũng được yêu quý. Không phải lòng yêu quý suông. Sơ kết sáu tháng, tổng kết cả năm được mời ăn. Hoặc ở căng tin. Hoặc lên khách sạn. Bia

bọt lu bù. Khi về mỗi đại biểu còn được một món quà gói trong giấy báo. Một mảnh vải pô-pơ-lin may áo. Hay mảnh xa tanh đen. Những thứ cực quỳ quý hiếm, mặc vào phẩm giá được nâng lên, tuy không bằng cưỡi trên chiếc DD, hay Cup - 81 - chót - chét - bảy - mươi - phân - khối - kim - vàng - giọt - lệ - màu - ốc - bươu nhưng cũng là oanh liệt.

Các tàu thì không đợi đến sơ tổng kết. Mỗi tàu cập bến kết thúc chuyến biển thi đua xuống ngay. Bao giờ thi đua cũng là một trong những người đầu tiên xuống thăm tàu, cùng với Đức đen, trưởng phòng điều độ và anh chàng Thơ bắt dây, quân của Đức.

Sau những buổi phát thanh, những tin tức trên bảng đen, tàu nào cũng coi Toàn là người nhà, người thân. Thuyền trưởng hoặc đại phó bảo:

- Bốc cá xong, xuống nhé.

Nghĩa là khi bốc cá xong, khi tàu trở lại vắng vẻ, Toàn xuống tàu nhận suất cá của Toàn.

Rặt những thứ ngon. Mực nang, mực ống, chim, thu, song, tráp, cá khế, cá cam. Cá to tươi nguyên, đem về nhà mổ, máu tươi còn chảy ròng ròng. Nhà Toàn được cải thiện một cách căn bản. Cả nhà bận rộn nấu rán rồi quây quần quanh bữa cơm ngon. Hạnh phúc hẳn lên. Hòa thuận hẳn lên. Trong thời buổi thực phẩm cao hơn nhân phẩm như nhà báo Duy Thông đã nói này, Toàn thấy thật đúng là con người ta có số. Hóa ra bị đẩy đi khỏi ngành công nghiệp lại hay. Vợ Toàn nước da tái mét nay có sắc ửng hồng nơi gò má. Uống chén rượu nhìn vợ thấy yêu yêu. Lũ con Toàn mạnh khỏe, hoạt bát, thông minh, đứa nào đứa ấy mắt đen lay láy. Chả bù cho ngày trước, chen chúc nửa ngày cắt phiếu mua được mấy lạng cá nục muối mặn đắng. Giờ thì cá rán, cá riêu, cá xốt cà chua cả nhà ăn thoải mái. Lại còn khi tàu tôm về mới thích. Một túi tôm nát. Gọi là nát vì đầu nó bị dập, vỏ nó bị sầy khi mắc trong đụt lưới, không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, chứ thứ ấy là tuyệt vời nhất, chất lượng nhất. Mà cái món tôm tẩm bột rán, tôm bóc nõn xào xu hào cần tỏi mới tuyệt làm sao!

Cũng có khi cả nửa tháng không có một con tàu nào về bến bốc cá. Cầu cảng vắng tanh. Bữa ăn đạm bạc. Mòn mỏi đợi chờ. Nhưng sau đó sẽ là tàu về dồn dập. Bốc hai giây. Bốc ba giây. Ô tô chở cá xếp hàng. Người đen cầu cảng. Lúc đó phải tăng cường độ hoạt động. Đi đi về về. Lên lên xuống xuống. Điều nhìn đám nhân viên của mình tất bật, cất lời than:

- Lúc thì lồn ra. Lúc thì ba váy!

Xin được nhiều, ăn không hết đem bán. Ai cũng là con mẹ hàng cả. Từ cầu cảng về, nhìn trước nhìn sau không thấy sếp, cánh phòng ban, người trước kẻ sau xách túi cá nặng vào buồng làm việc, mở tủ đứng hay tủ bàn dúi vào, và khép nhanh cánh tủ lại, đi ra ngoài cửa, đứng nghênh ngó xem có ai nhìn thấy mình vừa xách cá về không rồi trở vào kéo ghế ngồi trước bàn làm việc, giở tài liệu ra xem như người trách nhiệm nhất trên đời. Cô Phòng còn nói to khi Toàn sang hỏi cô về chiến lợi phẩm cô vừa cho vào hộc tủ:

- Hôm nay nước nủi, bán cá hạ đây.

Bán cá lấy tiền mua lạng mỡ. Lấy tiền đóng tiền học, mua sách vở cho con (đủ tiền mua cả vở ô ly đấy). Kha khả thì đổi hột, bản gạo mậu hút hùn hụt (tiếng nhà quê của cô Phòng) đong gạo quê. Chỉ mỗi việc đem cá ra khỏi chỗ giấu trong phòng là phải cẩn thận. Phải chờ các sếp về đã rồi mới xách ra. Phải tia các sếp cho thật chắc. Các sếp có thấy cũng giả cách quay đi thôi, nhưng nó vẫn rợ rờ rờ (vẫn tiếng nhà quê của cô Phòng). Thành ra những ngày bốc cá, đám nhân viên đều chăm chỉ ở lại làm việc, thực hiện tám giờ vàng ngọc (mà đúng là vàng ngọc thật) hơn thủ trưởng.

Cho tới khi giám đốc có văn bản cấm tiệt các tàu cho cá tươi và chỉ thị phòng bảo vệ kiểm tra thật kỹ các túi xách khoác trên ghi đông xe đạp cũng như các gói đèo sau pooc ba ga, toàn xí nghiệp ngao ngán, cánh trên bờ thở hắt ra. Chánh văn phòng và Toàn đã bàn nhau cách đối phó. Toàn định nói cách của mình nhưng Điều xua tay:

- Không được. Mỗi người một cái bút viết vào tay rồi cùng xòe ra cho nhau xem.

Hai người ngồi đối diện ở bàn chánh văn phòng, nhìn nhau long trọng rồi đầy tự tin, cầm bút bi viết vào lòng bàn tay biện pháp của mình. Khi cả hai cùng xòe ra, lòng bàn tay người nào cũng cùng có một chữ khô (nghĩa là các thứ đã phơi khô - mực khô, cá khô) to đùng và cười lớn. Cười như Gia Cát Khổng Minh và Chu Du bàn kế đánh Xích Bích, cùng ghi một chữ Hỏa vào lòng bàn tay vậy.

Toàn nghĩ mình thật may mắn được về đây. Ngoài việc có một nguồn cung cấp thực phẩm, nguồn đạm cực kỳ, giá trị gấp mấy lần tiền lương, còn có một người thủ trưởng trực tiếp khá thông cảm với mình. Mà bằng kinh nghiệm cuộc đời đã sắp chiều, Toàn biết có một sếp trực tiếp thông cảm với mình là quan trọng biết chừng nào. Chánh văn phòng rất hợp với Toàn, có lẽ là do cùng trải qua nhiều đận cơ hàn ba chìm bảy nổi, đặc biệt là chuyện kết nạp Đảng. Tuy đứng trong hàng ngũ chức sắc nhưng Điều có phải là đảng viên đâu! Điều cũng đã ba lần suýt được kết nạp Đảng, giống hệt Toàn. Dạo xa xưa Điều làm cán bộ sở thủy sản tỉnh Q. đã được vào diện đối tượng. Nhưng sếp chánh sếp phó đấu đá nhau. Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết. Điều là người của sếp chánh. Đến khi bỏ phiếu, toàn chi bộ đều ủng hộ trừ sếp phó. Không đủ trăm phần trăm số phiếu nên không được kết nạp. Rồi Điều về làm giám đốc một xí nghiệp nước mắm. Một hôm gần tết có ông vụ vị từ bộ về thăm huyện. Ông chủ tịch huyện cho người sang gặp Điều lấy một bình 5 lít nước mắm ngon biếu ông để ông đem về ăn tết. Điều thân hành đi lấy loại nước mắm cá quẩn nguyên chất 25 độ đạm đưa lên huyện. Nào ngờ ông vụ trưởng lại cho đo độ đạm trước khi sử dụng. Và tai họa đã xảy ra. Một hôm ông chủ tịch huyện về thăm xí nghiệp, mở cửa buồng họp thấy đông người, hỏi bâng quơ: "Các đồng chí họp gì thế này?" Và khi biết họp Đảng bàn chuyện kết nạp Điều, ông giơ tay, hét lên: "Ngừng lại ngay! Ông Hào vụ trưởng đang làm ầm lên kia kìa. Huyện ủy, ban giám đốc sở khốn đốn vì thằng Điều đấy. Thằng ấy tôi sắp đưa truy tố. Thằng phá hoại! Nước mắm cao nhất là hai muơi độ đạm mà nó làm hai nhăm độ đạm. Lãng phí của nhà nước không biết bao nhiêu tiền! Tha truy tố là phúc rồi! Lại còn kết nạp Đảng. Dừng lại ngay!" Sau này biết chuyện, Điều đã thanh minh với ông chủ tịch rằng đấy là loại nước mắm chỉ sản xuất một ít dùng để quảng cáo và đối ngoại, chứ không bán đại trà. Ông chủ tịch đã thân hành xuống kiểm tra, xác nhận đúng nhưng vẫn phê bình Điều vô nguyên tắc, phải thử thách thêm một thời gian nữa. "Dạo ấy mình mới hai mươi sáu tuổi ông ạ. Kỹ sư hiếm lắm. Cả huyện chỉ có hai kỹ sư. Vốn quý đấy. Nên dù bạch vệ mà vẫn được làm giám đốc. Rồi lại được đi học lớp đối tượng phát triển. Đã học được bảy ngày. Sang ngày thứ tám, ông trưởng ban tuyên giáo thân chinh đến giảng về chiến lược chống cộng của Mỹ qua các đời tổng thống. Đến khi ông nhấn mạnh: ‘Đặc biệt nguy hiểm là thằng Ke-tơ-ri!’ thì mình đếch hiểu là thằng tổng thống nào nữa. Ông có biết thằng Ke tơ ri là thằng nào không?" Toàn lắc đầu. Điều cười ngặt nghẹo. "Ông trưởng ban tuyên giáo nói tiếp: Thằng này còn trẻ, rất hung hăng. May mà nó đã bị nhân dân Mỹ ám sát. Ông ta còn cầm phấn viết lên bảng ba chữ Ke-tơ-ri và gạc một cái rõ dài rồi vênh mặt lên nhìn chúng mình. Đến bấy giờ mình mới hiểu. Đó là tổng thống Kennedy. Thế là mình bỏ học luôn. Nói là công việc sản xuất đòi hỏi, phải về điều hành, và xin đi học lớp sau".

- Đến bây giờ tôi vẫn oán thằng cha ấy ông ạ. Năm ngoái, ra Q. gặp ông ta, mình bảo giá anh không nói Ke-tơ-ri mà nói Kennedy thì đời tôi đã khác rồi. Đã là đảng viên rồi. Đã là ông nọ bà kia rồi. Lão ta đã nghỉ hưu, cười khì khì: "Thì mình nông dân nghèo tham gia cách mạng với tất cả nhiệt tình, có được đào tạo học hành như các ông đâu. Cái tên không quan trọng. Ke- tơ-ri với Kennedy là một. Chủ yếu là nắm được sự hiếu chiến của bọn đế quốc đầu sỏ mà nâng cao tinh thần cách mạng tiến công". Thế có tức không? Một thằng không biết cái chó gì lại dạy mình có đau không? Mà đi học có đơn giản đâu. Từ xí nghiệp đến lớp chín cây số, vừa đi vừa về mười tám cây số, đường Quang Hanh ông biết rồi đấy, toàn lên đèo rồi lại đổ dốc. Địt mẹ chính thằng ấy hại tôi. Nếu không đời mình đâu đến nỗi thế này. Còn cái ông Ân chủ tịch huyện định bỏ tù mình thì thế nào ông có biết không? Hôm đi nhậu ở Vạn Xuân, thấy lão ta lục sục trên gác lửng với em Ngà. Lúc xuống giả cách không trông thấy mình. Mình chào rõ to: Chào thủ trưởng. Thủ trưởng khỏe không ạ. Lão ta cung cúc đi ra cửa, vừa đi vừa trả lời: Điều đấy hở. Lúc nào lại mình nhé. Mình vẫn không tha: Lâu quá mới gặp thủ trưởng. Thế nào em cũng lại. Thủ trưởng ngồi uống với chúng em chén rượu đã. Lão ta bảo để khi khác hôm nay mình bận. Rồi lên xe nổ máy phóng đi mất. Bảy mấy tuổi mà đi xe máy rất tốt.

Điều cười lớn: Lại một lần đến Liễu Xanh, thấy lão ta mở cửa buồng bước ra cùng với một em mắt xanh mỏ đỏ, mũ sùm sụp, mặt bịt kín, chỉ để hở hai con mắt như ninja. Nhưng mình vẫn nhận ra. Làm sao không nhận ra cơ chứ. Mình nói một mình, nói to để lão ta nghe thấy: Trông giống ông Ân quá! Địt mẹ. Đạo đức giả mãi. Bây giờ thì lộ mặt.

Không chỉ chánh văn phòng, mà toàn thể anh chị em trong văn phòng đều dễ chịu. Cô Phòng văn thư chẳng hạn. Rất mau nước mắt, bị giám đốc mắng là rân rấn nhưng lại luôn nghĩ ra những chuyện hài hước. Chính cô đặt cho Toàn cái tên Tí cho nó có vẻ nhà quê. Và gọi tất cả thủ trưởng bằng con, gọi ngay trước mặt, tất nhiên là chừa các chánh phó giám đốc.

- Anh Tí ơi. Hôm qua con Điều con ấy trúng quả đậm. Một phong bì dày. Của đại diện ở miền Nam gửi ra. Con ấy có mời anh đi uống bia không?

Chánh văn phòng mím môi, giơ tay huơ huơ như sắp đấm vào đầu cô Phòng: "Con này láo. Bố đánh cho bỏ mẹ bây giờ". Cô Phòng giả cách giơ tay đỡ và nghiêng đầu tránh đòn. Nụ cười lúm đồng tiền, chiếc răng kênh. Rất xinh. Rồi cháu Nhạn đánh máy. Là vợ bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản, nhưng ăn nói rất kinh. Khi chánh văn phòng kể chuyện một ông sếp to tướng tận đẩu tận đâu rất liêm khiết, không nhận quà biếu, không nhận hối lộ, một cái tết ông ấy nộp cho tài chính hơn bảy tỉ tiền biếu xén, đang gõ máy rào rào như tập trung tất cả vào công việc, Nhạn bỗng dừng lại quay ra hỏi Điều:

- Thế bụng nó không có cứt à bá?

Quá bực về những văn bản của các phòng đưa đến viết cẩu thả, dập xóa nhằng nhịt, Nhạn cứ gõ như bản viết tay. Ông trưởng phòng xuất nhập khẩu nhăn nhó cầm bản đánh máy sang hỏi Nhạn:

- Sao chữ Hong Kong em lại đánh như thế này.

Nhạn hỏi lại:

- Thế anh xem bản chính chưa? Chả Honkon là gì đây.

- Nó viết thế nhưng em phải hiểu là Hong Kong chứ.

- Em đi đến đâu mà biết HonKon là Hong Kong. Nhỡ HonKon là HonKon thì chết em à. Lẽ ra anh phải bảo nhân viên của anh viết cẩn thận thì anh lại trách em.

Toàn với Điều cùng đứng đó cứ im lặng cười. Điều bảo Nhạn:

- Cái con này có chồng nằm trong bộ tứ lãnh đạo xí nghiệp mà chẳng xây dựng tí nào.

- Thanh niên với công đoàn ăn theo nói leo. Có được cái tích sự gì đâu bá.

Và Nhạn đọc luôn một bài ca dao:

Công đoàn với lại Thanh niên Hai anh rách việc đi liền với nhau An đi trước, làm đi sau Có tí công việc thi nhau họp bàn.

Anh chị em đói. Đói nên hay khùng. Khùng thì bày những trò như vậy nói những lời như vậy để giải tỏa, để vui. Điều biết anh chị em thỉnh thoảng vẫn kiếm được tí cá cả khô lẫn tươi, nhưng là một trò chơi nguy hiểm, nhất là lại mới chuyển ở đâu về một tay bảo vệ rất ghê gớm, hình như đang có ý định leo lên chức đội trưởng, trẻ không tha già không thương, có thể gây ra những sự cố chưa thể nào lường được. Đã có mấy công nhân xin cá mang qua cổng bị thu để ươn thối ra ngay cạnh chòi gác và bị ghi tên trên bảng đen cạnh đấy. Điều lập quỹ của phòng. Cũng chẳng giải quyết được gì nhưng nó là cái để đoàn kết mọi người, là chút tình trong phòng, gắn bó mọi người lại với nhau. Ngoài quỹ của phòng lại còn quỹ của từng nhóm nữa. Quỹ của phòng ra tấm ra miếng hơn, chỉ để phát cho anh chị em những ngày lễ lạt: Quốc tế lao động mồng 1 tháng 5, Quốc khánh mồng 2 tháng 9, tết Nguyên đán. Phòng xuất nhập khẩu phong bao năm trăm nghìn đồng. Cảng vụ phải nôn ra ba trăm nghìn đồng. Cửa hàng giới thiệu sản phẩm một triệu. Rồi đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh gửi ra. Các tàu thì nhỏ thôi. Nhưng đều đều. Tàu nào đi nước ngoài về cũng có một túi đựng một cây thuốc lá hoặc Ba số hoặc Capstan, mấy cục xà bông Fa hay Zest... Điều đáng trách các tàu là họ bình quân chủ nghĩa. Phòng ban nào cũng như nhau, chẳng kể đông người hay ít, đói hay no, cũng một cây thuốc lá mấy cục xà bông đựng trong cái túi ni lông hồng hồng xách đi các phòng phát như phát chẩn. Thành ra chỉ có văn phòng đảng ủy, văn phòng công đoàn, văn phòng thanh niên ít người là trúng quả. Văn phòng tổng giám đốc có tới những hăm mấy người, quá đông!

Cô Phòng có máu hài hước, bàn:

- Ta phải bảo các tàu lên xem danh sách các phòng ban ở bên tổ chức cho nó nắm vững, chứ không thế này thiệt quá. Chánh văn phòng ơi! Em xin sang văn phòng thanh niên đây. Bên ấy chúng nó chỉ có hai mống.

Nhạn cười:

- Các tàu phải làm như thời gian phân phối lốp ấy chứ. Hai nhăm người một lốp là cứ vậy mà làm.

Thời gian ấy, Toàn chưa về Liên hợp Biển Đông. Thời gian ấy Toàn còn nằm khàn ở nhà chờ phân công, ăn 75% lương cơ bản. Cô Phòng bảo Toàn:

- Ngày ấy văn phòng ta danh giá lắm anh Tí ạ. Được riêng một lốp. Chẳng phải chung chạ với thằng nào. Cứ thế đem luộc, chia nhau mỗi đứa húp một húp.

"Luộc lốp lây nước húp", "luộc quạt cóc lấy nước húp", "luộc màn lấy nước húp" "luộc quần lót lấy nước húp"... nghĩa là đem bán ở chợ đen các thứ được mua theo giá cung cấp như lốp, quạt cóc, màn, quần lót... lấy tiền lời chia đều. Cũng có khi chẳng phải đem đi đâu mà (học các cơ quan xí nghiệp trong thành phố Hồ Chí Minh) bán ngay cho người trong phòng theo giá làng. Biện pháp rất thông minh khi hàng năm mới có một đợt phân phối lốp, phân phối quạt, màn, quần lót. Hai nhăm người một chiếc lốp, nếu cứ bốc thăm lần lượt thì phải hai nhăm năm sau người cuối cùng mới được. Bây giờ tút thuốc, mấy cục xà bông cũng được đem bán lấy tiền nhập quỹ, nhưng người ta không gọi là "luộc lấy nước húp" nữa mà là "quy ra thóc".

Những món quà ấy cũng có thể do lòng tốt. Họ thương văn phòng nghèo. Nhưng có một điều chắc chắn rằng quanh năm văn phòng đã giúp đỡ họ, họ đã phải nhờ đến văn phòng. Văn phòng tổng giám đốc có một đội xe con từ Lada cho đến Toyota chạy lạnh. Văn phòng có máy photocopy, có máy chữ, có con dấu...

Anh chị em trong văn phòng có thể gây cho những đơn vị khác những khó khăn bất ngờ, lặt vặt thôi nhưng rất khó chịu. Phải chờ đóng dấu vào sổ công văn vì văn thư bận hoặc đi vắng, máy photocopy hỏng còn đang tìm người sửa, đánh máy công văn lấy ngay à, chờ đã nhé, còn một xếp ông Thăng phó tổng mới đưa đánh để làm việc với đăng kiểm đây hay là dừng của ông Thăng lại, hoãn chương trình làm việc với đăng kiểm ngày mai... Lại còn điều tối quan trọng nữa: Xe ô tô. Toyota à? Cái bốn chỗ Kháng đi Thanh Hóa chưa về. Cái Corona ông Bình vừa đi Quảng Ninh, cái bảy chỗ đang sửa, cái Mazda tổng giám đốc đi họp. Thế là đành phải đi Lada mà các thủ trưởng nhỏ chẳng ai thích đi Lada không có điều hòa đã hẳn, lại cũ quá rồi, hay chết máy dọc đường, chưa kể còn kém thớ.. Bởi thế những món tiền cứu đói cho anh chị em văn phòng đúng là "tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Hơn nữa chánh văn phòng còn là người ghê gớm. Điều nói toạc ra những điều người ta vẫn thầm thì. Điều có tài bắt các đơn vị khác phải nôn ra. Điều oang oang:

- Đây là vì chúng mày, vì anh em. Chứ tao thì bao giờ cũng có một suất riêng, một suất đẹp.

Có lần Điều gọi một thuyền trưởng đánh cá đang đi ở ngoài sân:

- Hoàn ơi! Vào đây.

Thuyền trưởng Hoàn thấp đậm, bụng to, trông giống con cá nóc, nên được gọi là Hoàn nóc, bước vào:

- Thủ trưởng bảo gì cơ?

Điều nghiêm mặt ra lệnh:

- Chuyến biển này về cho văn phòng hai ki lô mực khô, nghe chưa. Một ki lô cho tập thể. Một ki lô cho chánh văn phòng. Ki lô cho chánh văn phòng phải là hiện vật để chánh văn phòng uống bia. Còn ki lô cho tập thể thì quy ra thóc cũng được!

Quá bất ngờ trước một giọng quyền uy như vậy, thuyền trưởng Hoàn chỉ còn biết ấp úng:

- Vâng. Vâng.

Mặt lạnh tanh, Điều tiếp:

- Vâng là phải làm chứ không được để đấy. Không được quên. Nghe chưa? Có đông đủ anh em ở đây. Đừng đùa với chính quyền! Chính quyền không ưa đùa!

Không ai hiểu Điều nói thật hay nói đùa. Nhưng ai cũng biết mực khô là phải có, hoặc bằng hiện vật, hoặc quy ra thóc cũng như ai cũng hiểu chẳng chính quyền nào lại thích đùa bao giờ!

Ngoài quỹ của văn phòng, mỗi nhóm lại có một quỹ riêng. Tất nhiên mạnh nhất là nhóm lái xe con. Nhóm tạp vụ (chủ yếu là phục vụ nhà khách), nhóm văn thư đánh máy cũng có. Đó là sáng kiến của cô Phòng văn thư và cháu Nhạn đánh máy. Họ lập ra "Nhóm xin đểu" có hôm được bốn năm chục nghìn.

- Chúng bố ăn cả chả nem đấy con ạ.

Cô Phòng bảo Toàn như vậy. Anh chị em văn phòng rách việc hay trêu nhau. Và giả cách phát khùng, xưng ông và gọi người khác là con. Cách trêu chọc nhau phổ biến nhất là moi gốc gác quê hương nhau ra. Ví như Toàn thì được gọi là "Đứng bên bẽn Bính ta thề". Chả Toàn quê Thanh Nguyên. Ai cũng biết câu 8 tiếp theo câu 6 ấy là "Không lấy được cứt không về Thanh Nguyên". Do ngày trước khi nhà nước còn quản lý cả phân bắc, bà con Thanh Nguyên đêm hay đi đò (không dám đi phà, với lại phà cũng không chở) vượt bến Bính sang phố mua lậu phân bắc về bón ruộng, bón hoa màu.

Anh chàng Thám thợ điện (thay Nhược) được gọi là Lô tha ba vì người Thanh Hóa, "Khu Bốn đẩy ra khu Ba đẩy vào". Thám tiếp ngay, liến thoắng, tự họa chân dung mình một cách hoàn chỉnh: "Sát nhập sang Lào, thì Lào không nhận. Đùng đùng nổi giận, lập quốc gia riêng. Thủ đô thiêng liêng, là miền Nông Cống. Quốc ca truyền thống, dô tả dô ta.."

Toàn bảo:

- Than hoạt tính. Thuốc lá Bông Sen có than hoạt tính thật à? Than hoạt tính là gì?

Thám khẳng định:

- Nó chống được phóng xạ đấy bố!

Cô Phòng ngoài biệt hiệu "Bánh chưng đất" còn có tên "Dâu xứ Bọ" để chỉ xuất xứ quê hương nhà chồng. Cái Nhạn đánh máy quê Nam Hà có biệt hiệu "Cưỡi trâu đi họp tỉnh", đến hội nghị báo "suất cơm suất cỏ". Còn chánh văn phòng Điều quê Ninh Bình là "Lạt, không lạt" để nhớ sự tích hồi tổng khởi nghĩa, dân vùng quê Điều tập đi mốt hai mốt không phân biệt được chân trái chân phải, phải buộc lạt vào một bên ống quần, người chỉ huy hô "lạt, không lạt" thay cho tiếng một, hai...

"Hội xin đểu" chủ yếu do Nhạn và Phòng hoạt động. Bọn Toàn, Thám và cả cái Tám phục vụ tiếp tân nữa chỉ hỗ trợ. Thắng to thì nem chua, bún gà. Còn không thì bắp rang bơ, luộc ốc. Phổ biến nhất là luộc ốc. Rồi củ đậu, mít, bưởi, bánh... mùa nào thức ấy. Đối tượng xin đểu bao gồm các phòng ban (không xin tàu bao giờ, nhất là các tàu đi nước ngoài, chúng nó khinh) hội lái xe, cảng vụ, điều độ. Mà toàn đàn ông thôi. Không xin đàn bà. Thấy trưởng phòng điều độ bước vào để đóng dấu hợp đồng thuê cảng và bốc dỡ là reo lên:

- A! Con vịt béo đây rồi! Vặt lông đi chúng mày ơi!

Thế là cả bọn xúm lại. Trưởng phòng điều độ Đức

tủm tỉm cười nhìn vòng vây khép lại xung quanh. Ai cũng biết tàu vào là Đức có màu. Không thoát được. Đức tươi cười:

- Nào! Cần gì? Bao nhiêu?

- Năm sọi 1 > được không?

- Nhiều thế! Bốn sọi.

- Cũng được. Đưa đây bốn sọi.

Với hội lái xe đi đón Tây về thì hỏi khác:

- Quà đâu?

- Quà gì?

- Quà đi với Robert Lee ấy.

- Không có đâu.

- Nôn ra đi!

- Đây. Chỉ có chỗ này, xem được bao nhiêu. Cho tất. Bốc trong túi quần một nắm tiền vụn, quăn queo ném ra bàn. Nhạn vuốt thẳng, đếm và reo:

- Được ba nghìn bảy bá Toàn ơi!

Nhạn còn rất trẻ, học phổ thông với con gái Toàn nên gọi Toàn bằng bá. Trong phòng có hai người nhiều tuổi được Nhạn gọi bằng bá là Toàn và Điều. Thám ít tuổi hơn chút ít nên chỉ được gọi là anh thôi, dù đã có cháu ngoại. Một hôm Nhạn tươi cười đến nói với Điều:

- Hôm nay sếp đi vắng, luộc ốc được đấy bá ạ.

- Đứa nào luộc ốc chết với tao.

- Bá cho con xin ba nghìn.

- Ba trăm cũng không có nữa là ba nghìn. Nhăn nhăn nhở nhở.

Nhạn cười, hai má đỏ hồng, hàm răng trắng rất đều:

- Con chỉ xin bá hai cân ốc thôi. Cho vào siêu điện đun nhanh lắm.

"Hội xin đểu" chẳng tha một ai. Có lẽ chỉ chừa một tổng giám đốc. Phó tổng giám đốc được tăng lương. Phát truy lĩnh 600 ngàn và hỏi phó tổng:

- Còn 59 ngàn thủ trưởng nghĩ sao?

Phó tổng cười:

- Thôi đấy, cho mấy đứa con gái chúng mày.

Được hẳn bữa bún gà ăn trưa bia bọt đàng hoàng chứ có ít đâu. Mời cả chánh văn phòng, cả mấy chàng "giặc lái". Chợ búa nấu nướng từ chín giờ sáng, nổi lửa ở trong góc phòng kho cái Tám có đầy đủ nồi, bát đĩa, thìa, nĩa, bếp điện, siêu điện, đĩa, cốc..., nơi tổng giám đốc không đi đến bao giờ. Chỉ có mỗi trục trặc kỹ thuật là mùi nước xáo măng thả hành thơm quá. Tổng giám đốc đi ngang qua, ghé vào bảo khẽ cô Phòng:

- Nói các cháu nấu gì từ từ thôi. Thơm thế ai cũng biết bất tiện.

Suốt bữa ăn, cô Phòng cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện ấy. Vừa kể vừa cười ngặt nghẹo. Ai cũng đồng ý với cô là dạo này tổng giám đốc dễ tính đi nhiều, chứ như ngày trước, con ấy chửi cho vuốt mặt không kịp.

Nhưng hóa ra đấy là một nhận xét hết sức sai lầm.

Vừa khen tổng giám đốc dễ tính đi nhiều hôm trước, hôm sau cô Phòng đã bị tổng giám đốc quạt một trận nên thân. Và lại khóc. Chỉ vì một chuyện cỏn con. Một cái giấy triệu tập họp, sếp ghi vào công văn để phó tổng thứ nhất đi. Sáng hôm sau gặp phó tổng thứ nhất, tổng giám đốc hỏi sao không đi họp, lúc ấy mới vỡ nhẽ: văn thư không đưa giấy triệu tập. Thế là tổng giám đốc làm ầm lên, quạt cô Phòng tơi bời khói lửa. Cô lễ phép trình bày rằng cô phải đưa chồng đi bệnh viện. Cô đã bàn giao cho Thám làm thay văn thư. Thám chờ đưa công văn cho

Điều để đúng trình tự thủ tục. "Tôi không hiểu các cô làm ăn thế nào. Đu đa đu đưa. Ôm thì nghỉ. Đi làm là phải bảo đảm công việc. Phải năng động sáng tạo. Từ nay trở đi cấm tuyệt đối không được nấu nướng trong giờ làm việc. Làm ăn như thế có chết người ta không".

Tất cả im thin thít. Cả chánh văn phòng. Mãi tới khi Tổng giám đốc đã đi xa, sinh hoạt văn phòng trở lại bình thường, Toàn mới cười bảo Phòng:

- Nào. Cứ khen con ấy dễ tính mãi đi.

° ° °

Từ ngày các tàu đánh cá nằm bến hàng loạt, Toàn rất sợ giáp mặt tổng giám đốc. Bởi tổng giám đốc ngày càng bẳn tính. Bởi Toàn tự thấy mình là một người thừa. Sản xuất trì trệ, tàu nằm bẹp vì thiếu vật tư, phụ tùng thay thế, kéo theo tình trạng công nhân khối trên bờ (xưởng lưới, xưởng sửa chữa, nhà máy lạnh...) nghỉ luân phiên, ăn lương 75%. Mỗi buổi sáng đạp xe đến xí nghiệp, Toàn cứ phải khắc phục cái cảm giác mệt mỏi, uể oải, "ngại như đêm" và đã nghĩ bao giờ cho đến tan tầm buổi trưa. Dù suốt tám tiếng chẳng công nên việc xuống vất vả gì. Nhưng thà công nên việc xuống. Thà rằng vất vả. Chứ lờ vờ thế này còn mệt gấp mấy. Cũng may, ít lâu nay, trên đường tới xí nghiệp, Toàn tìm được một thú vui giải trí là "thả hồn" vào bức tường bao của cảng mới xây, một bức tường bao bổ trụ, gạch chỉ, trát vữa rất đẹp, hơi lùi vào bên trong, cách mặt đường ba bốn mét (chắc là vì quy hoạch mở rộng đường bao trong tương lai), dài suốt chiều dài của cảng, gần như vô tận. Thành ra liền với đường nhựa là một con đường đất bỏ hoang mọc đủ các loại cây dại, cỏ dại. Nhiều người đã tranh thủ dựng quán dựa vào tường bao bán hàng quà, hàng nước, sửa vá xe, cắt tóc. Ngoài hơn chục quán đã định vị, trên bức tường dài hàng cây số đầy những mũi tên, những vạch vôi và vạch sơn các màu. Những chữ ghi trên tường thật muôn hình muôn vẻ, không một người nào có thể nghĩ ra cho được: /Có chủ//Có người//Có ông//Đã có ông đây//Có Sơn/ /Có Tích/ /Lồn/ /Có bố/ /Có rồi/ /Có ông Hải/ /Có tất/ /Buồi/ /Ô này của nhà Nhớ ký tên đóng dấu/... Nhiều khi giữa hai mũi tên đánh dấu chủ quyền chỉ là những hình vẽ: Một cái sọ đầu lâu giữa hai xương chéo, hoặc một hình tam giác với những vạch đen chĩa ra chung quanh như tia nắng mặt trời... Thì các sếp đua nhau chiếm nhà chiếm đất, đua nhau ra mặt tiền, những người khố rách áo ôm cũng phải làm ra có tí đất, tí mặt tiền và công bố với bàn dân thiên hạ cho vui chứ. Vui và cũng phòng xa khi sảy chân lỡ bước.

Vừa đạp xe mệt nghỉ giữa những hàng chữ và hình vẽ khẳng định chủ quyền ấy vừa tủm tỉm cười (làm sao không cười cho được trước những hình thức công bố sở hữu, khi nhũn nhặn, khi hăm dọa, khi nghiêm trang, khi hài hước đầy sáng tạo như vậy) thế là chỉ rẽ một quãng ngắn đã đến xí nghiệp. Lại thêm vui khi cất xe đạp nhờ bên văn thư, cô Phòng hỏi:

- Thế đã đến rồi đấy như.

(Đấy là lời chào buổi sáng của cô. Còn lời chào khi tan tầm là: "Đã về rồi đấy cơ nhi". Sau khi đại thắng giò Tìu, cô Phòng càng hay nói tiếng nhà quê). Toàn nói với cô Phòng:

- Đạp xe đi làm là cứ nghĩ đến ca dao vùng mỏ thôi.

- Lại thế nữa cơ nhi. Ca dao thế nào?

- Bước chân vào mỏ như lê vào tù.

Bốn tiếng rưỡi đồng hồ buổi sáng sao mà dài. Bình thường bốn tiếng rưỡi đã dài rồi, lại còn vị trí cái buồng khiến nó dài thêm. Một giao điểm của hai hành lang vuông thước thợ có cầu thang lên gác. Nghĩa là một cái ngã ba, chẳng kín đáo khuất nẻo chút nào.

Càng thêm khốc hại là dạo này tổng giám đốc lúc đầu giờ hay đảo qua ngồi xa lông, lập tức có ngay vài người thuộc hàng chức sắc (khi một, hai phó tổng, khi chủ tịch công đoàn, hoặc bí thư đảng ủy) đến ngồi, tất nhiên có cả chánh văn phòng. Có thể chỉ vài câu trao đổi về thời tiết. Có thể bàn công việc ngay. Hay dập dạp đề cương những việc phải làm trong thời gian trước mắt. Có thể là những điều tổng giám đốc không vừa ý, những nhận xét về khuyết điểm của một người hay một đơn vị nào đó, những ý nghĩ vừa nảy trong đầu tổng giám đốc đêm qua. Thường là những lời phàn nàn chê bôi. Điều ấy đúng thôi vì cứ mười việc thì có tới bảy, tám việc trục trặc, mà trong thời buổi người khôn của khó, cạnh tranh gay gắt, việc ít người nhiều, thiết bị ngày một xuống cấp này, một trục trặc xảy ra là gượng không nổi. Mọi người kêu lương thấp. Làm như thế sao không thấp? Một cái tết, mỗi người một trăm nghìn đồng thôi, cả xí nghiệp đã mất hơn trăm triệu rồi. Kiếm một trăm triệu nào đễ dàng gì. Đổ mồ hôi sôi nước mắt, không cẩn thận vào tù như bỡn. "Suýt nữa mình nghe lời cô Dần lấy một trăm tấn tỏi về có chết không? May mà mới thử có một tấn. Xuất không xuất được. Kho không dám để, sợ có mùi. Quẳng ở chỗ tập văn nghệ. Đi qua toàn mùi tỏi là mùi tỏi. Cho nên tôi mới nói sợ nhất tham mưu dởm". "Thằng tàu 14 bục hầm hàng nằm lại Hong Kong. Tàu lên đà mới được sáu tháng. Tôi không biết mấy ông kỹ thuật làm ăn thế nào nữa". "Thằng cha Robert Lee mới phảch sang, yêu cầu hạ giá tôm. Thế có bỏ mẹ không. Làm ăn với tư bản không cẩn thận chết có ngày". (Nhân đây lại nói chuyện về ông Robert Lee tức Lý Sinh Keng nhọ mõm. Kế hoạch xuất cá đá đã khơi dậy bao nhiêu hy vọng cho xí nghiệp và nhất là cho Thuyền, thất bại thảm hại. Mặc dầu các con số đã được phòng tài vụ, phòng hàng hải khai thác tính toán rất kỹ từ số ngày đánh bắt, số ngày đi Sing bốc cá rồi về, số dầu tiêu hao, lượng đá mang đi, số phơ rê ôn chạy lạnh hỗ trợ, số cá chọn bình quân khai thác, tỉ lệ phần trăm xuất khẩu... là hòa vốn, còn mình được lãi chỗ cá 6 2 , được khấu hao, hơn thế còn duy trì được hoạt động của đoàn tàu kéo theo nó là hoạt động của khối trên bờ; trên giấy tờ là hoàn toàn chính xác nhưng vẫn thất bại. Mặc dầu chưa bao giờ cán bộ thuyền viên trên tàu và riêng Thuyền lại có tinh thần trách nhiệm như chuyến ấy, nâng từng con cá, nhặt từng con nục, con bạc má, con chỉ vàng, sơn mỡ cho vào khay, một lượt cá một lượt đá, và xếp khay nọ lên khay kia đúng quy trình, để khí lạnh thổi khắp sáu mặt khay vẫn là thất bại. Bởi thời tiết, nên chuyến biển phải kéo dài, bởi các ống lạnh trong hầm xì xoẹt, không cung cấp đủ hơi lạnh hỗ trợ như dự kiến, bởi lẽ ra phải có tàu mẹ để chuyển tải cho các tàu, con cá chỉ nằm ở tàu ba, bốn ngày là cùng, bởi vân vân, nghĩa là bởi vô vàn thứ. Con cá đưa sang không đủ chất lượng, bị ươn, bị vỡ bụng, hoặc đơn giản hơn: Mắt cá bị bạc màu. (Mẹ bố chúng nó. Chúng nó ăn gì mà sành thế. Mắt cá bạc màu đã không ăn rồi. Chúng ông cá vỡ bụng vẫn xài tốt, vẫn khỏe như vâm, con chúng ông vẫn giải nhất thi toán quốc tế, Điều bảo vậy). Đã tưởng giải quyết được công việc cho bốn tàu 600 mã lực có máy lạnh phụ trợ, xuất khẩu cá đá, mở ra một hướng sản xuất mới, tạo điều kiện cho non một trăm thuyền viên ra nước ngoài, thế là giấc mơ ấy tan thành mây khói. Chỉ bở đám thuyền viên, tàu từ Sing trở về chở đầy cá thối nhưng cũng đầy hàng. Xe máy ít thôi (không như ở Nhật, tại Sing người ta ít đi xe máy, có bói cũng chỉ tìm được vài xe máy cũ) nhưng tủ lạnh tivi, dàn loa thùng, quạt máy, máy giặt máy khâu cũ, nồi cơm điện... thì nhiều vô kể. Thuyền cũng mua được một số đồ nhưng điều may nhất cho anh là dù không được làm chế biến trưởng, không làm đại diện cho ông Robert Lee, Thuyền cũng không phải lên bờ, không phải về con tàu 307 với đại phó Phạm Cương. Anh đã được định biên hẳn ở tàu 600 mã lực).

Có khi sếp bực tức về những chuyện rất nhỏ. Tàu vào cảng bốc gạo nhiều. Xe ô tô nối nhau trong xí nghiệp, lái xe ngủ kín nhà khách. Khách lái xe chỉ ngủ ở nhà khách bình thường thôi, không phải loại nhà khách chạy lạnh - dù cũng phải trả tiền, bây giờ là dịch vụ tất, từ cầu cảng, bốc dỡ tới nhà khách - nghĩa là ngủ ở dãy nhà ngay phía sau nhà tổng giám đốc.

- Lẽ ra các anh phải biết tôi cần gì khi hết giờ làm việc trở về nhà chứ. - Vừa bước chân vào văn phòng, tổng giám đốc đã súc miệng - Khách khứa tùm lum. Ỉa đái khắp nơi. Tám tiếng làm việc nhừ người, tôi cần sự yên tĩnh. Mong ước đó là tối thiểu. Đâu có được. Cứ phải đi dọn cứt. Hai vợ chồng thay nhau dọn. Đến mức vợ tôi nó bảo: "Thôi. Hay anh chuyển đi chỗ khác ở thôi". Sau một ngày nói sa sả, làm việc như ngựa, mong muốn được yên tĩnh nghỉ ngơi của tôi là chính đáng. Mình có đặc quyền đặc lợi gì đâu mà phải chịu như vậy. Ừ, thì khách nhưng mà chọn khách mà xếp vào đấy...

--------------------------------

1

Sọi: chục nghìn.

2

Cá 6: Cá loại 6, chỉ để’ làm chượp hoặc xay bột chăn nuôi.

III

Chánh văn phòng liếc nhìn Toàn, cái nhìn đầy ý nghĩa. Toàn ngồi im thin thít tại bàn phía trong, càng ý thức được rằng mình là kẻ vô tích sự, một người ăn bám, một người thừa, một người có lỗi, không làm gì, đêm được ngủ trong yên tĩnh, không phải đi dọn cứt.

Điều làm ra vẻ bận rộn, sắp xếp lại đống công văn giấy tờ vừa nhận do cô Phòng chuyển sang, khuôn mặt như được dát một lớp kim loại rất mỏng, căng và rắn, hắt trả lại mọi tia nhìn nảy lửa của tổng giám đốc. Chờ tổng giám đốc đi ra, Điều bảo Toàn:

- Nhà khách ông Nam thì mấy thằng đi tàu nước ngoài còn ở đấy. Thằng Tuyền, thằng Bảo, mấy con ấy giàu phải ở phòng có điều hòa cơ. Ớ thế nhưng đéo giả tiền. Mình làm gì được. Nhà khách có phải của liên hợp đếch đâu. Của xí nghiệp thành viên. Địt mẹ. Chúng nó nuôi bọn nhà khách tốt thế thì làm sao đuổi được chúng nó đi.

Rồi làu bàu:

- Nói như ho vào lồn ấy mà cũng nói. Làm lãnh đạo không có đặc quyền đặc lợi làm làm cái đếch gì. Cứ tưởng người ta mù cả đấy. Chúng tôi không ngu đâu.

Toàn cũng nghĩ như Điều. Ai làm sếp mà chẳng thế. Anh vui vẻ chấp nhận tình trạng ấy như mọi người trong thế gian này vui vẻ chấp nhận tình trạng ấy (tuy nhiên cũng như mọi người, Toàn vẫn ao ước giá họ cứ ăn nhưng đừng thuyết lý rao giảng thì dễ chịu hơn nhiều, rồi bật cười nghĩ đến câu nói của phóng viên Duy Thông nói với anh trong một lần xuống xí nghiệp lấy tin: "Thiếu cái gì thì nói về cái ấy. Người ta thiếu đạo đức, người ta nói về đạo đức. Anh em mình thiếu tiền, nói về tiền).

Mỗi người có một cửa của mình. Hãy cố gắng tạo cho mình một cửa. Người làm to cửa to. Người làm nhỏ cửa nhỏ. Không thể ghen tị. Mình làm sếp cũng vậy thôi. Ai làm sếp cũng vậy thôi. Cũng vừa măm vừa dạy dỗ đạo đức. Cũng đứt dây thần kinh xấu hổ. Đã vào guồng là phải vận hành theo guồng. Nếu không sẽ bị văng ra.

Hơn nữa dạo này phát sinh hai từ dôi dư. Trong các cuộc họp, tổng giám đốc đều nói tới điều ấy. Sợ lắm. Mà đúng là dôi dư rành rành chứ còn gì. Như Toàn chẳng hạn. Đích thị dôi dư. Văn phòng tổng giám đốc khối người dôi dư. Cảnh dôi dư. Phó văn phòng công tử Nhương dôi dư. Thám mà không dôi dư à? Các phòng ban khác nhiều người dôi dư. Như Mơ khai thác. Như Lập kỹ thuật. Như Mẫn công đoàn. Như Liễu tài vụ... Buổi sáng hôm ấy, Toàn đang ngồi đọc báo ở bàn làm việc thì Liễu bước vào. Đó là một phụ nữ to béo, chẳng liễu tí nào. Cao lớn, da trắng mịn, nhìn Liễu đi dọc hành lang, hai bầu ngực núng nính nảy tưng tưng, cặp mông căng đung đưa, má cứ hồng rực lên, đôi mắt ươn ướt lấp lánh, nhiều người nuốt nước bọt. Nuốt nước bọt vì ngày ấy cả xí nghiệp chỉ có vài người như Liễu. Thiếu ăn, phụ nữ phần lớn thuộc loại đét đê mo nang, khô khốc như con cá mắm. (Liễu bảo Liễu ăn nhầm phải bột nở nên người nó thế thôi chứ nhà Liễu có gì mà tẩm bổ). Nuốt nước bọt còn vì Liễu đã li dị mấy năm nay. Ai cũng biết Liễu đang kiếm tấm chồng. Liễu đã cặp với Chiêu, một máy trưởng tàu cá. Câu chuyện gần như công khai. Cả xí nghiệp ai cũng biết. Vợ Chiêu từ Nam Định đã ra đánh ghen mấy lần. Nhưng chẳng ai có thể tách được họ ra. Chỉ đến khi Liễu tự thấy mình phải rời Chiêu. Tự thấy mình phải chấm dứt cuộc sống bồ bịch và có một tấm chồng. Không thể cứ thế mãi. Ai cũng nói Liễu ngấu lắm rồi. Người ta công khai nói với nhau về Liễu: Tốt mái hại sống. Cái Liễu li dị vì thằng chồng yếu quá, không đáp ứng được. Thằng chồng nó trước cũng không đến nỗi nào nhưng càng ngày càng gầy, khéo ho lao rồi không biết chừng. Đêm bảy ngày ba, may li dị sớm chứ không toi là cái chắc. Chính Điều còn nói sẽ làm mối cho Liễu một cụ lão thành cách mạng, bảy mươi chín tuổi, vợ chết, có hai biệt thự, mày lấy cụ ấy chỉ một tháng là cụ đi tong. Toàn bộ tài sản, tem phiếu của cụ, mày quơ hết. Thắng lớn đấy em ạ!

Chiến dịch tìm chồng của Liễu tại Hà Nội và Hải Triều thất bại. Chính Liễu kể. Liễu chẳng giấu cánh văn phòng. Chẳng làm gì phải giấu. Ăn cắp ăn trộm gì đâu mà giấu. Tiến trình tìm hiểu đang ở đoạn nào, Liễu kể lại hết. Khi năm ăn năm thua, khi được ăn cả ngã về không, khi bổ sung vào lực lượng dự trữ và cuối cùng đều phải tinh giảm biên chế thôi, không duyệt được.

Liễu là nhân viên phòng tài vụ, một cộng tác viên của Toàn, chuyên cung cấp số liệu lỗ lãi của các tàu, các đơn vị sản xuất trên bờ để Toàn viết tin. Liễu vừa nghỉ hai tháng vào Sài Gòn, thăm mẹ ốm nặng, nhưng anh em bảo Liễu vào để giải quyết dứt điểm phi vụ chồng con, Liễu cười: Cũng là một công đôi ba việc.

- Em chào chánh văn phòng. Em chào anh Toàn.

Liễu nói như quát khi bước chân vào văn phòng tổng giám đốc.

Toàn vẫn cắm cúi đọc báo. Điều hỏi:

- Quà đâu?

- Em làm gì có quà. Nghỉ hai tháng không lương làm gì có quà.

Điều đính chính:

- Nghỉ hai tháng nguyên lương chứ. Anh cũng đang mong được như em đây.

- Em chào anh Toàn! - Liễu lại hét to - Sao anh làm việc say mê thế?

Toàn buông tờ báo:

- Anh đã qua được cái cơn nhớ em rồi. Em cứ ngồi uống nước đi. Anh trở lại bình thường rồi.

Cô Phòng cũng có mặt ở đó, cười rất tươi:

- Kinh không. Công khai thú nhận tình yêu.

Liễu bảo Toàn:

- Anh cứ ra đây ngồi với em một tí, lại nhớ ngay ấy mà. Đi có hai tháng mà dỗi. Ghê chưa! Lúc em đi thế nào về vẫn nguyên thế ấy, chẳng suy suyển tí nào. Anh cứ yên tâm.

Toàn buông tờ báo, ra xa lông rót nước mời Liễu:

- Trông em trắng ra đẹp ra đấy. Đã kiếm được một thằng đàn ông nào chưa?

- Được rồi. Ớ lâu thế là được rồi. Trông cái mặt thì biết. Cô Phòng đế theo.

- Suýt nữa được. Mà cũng có thể được. Còn đang suy nghĩ đây. Phòng này. Anh Tí này. - Liễu hạ giọng. - Anh chàng này tuổi ngoài năm mươi. Mình thấy là được. Thì cậu tính mình cũng ba mươi sáu rồi chứ còn ít ỏi gì. Chánh văn phòng một quận. Người Bắc. Ly dị vợ. Thế là được chứ còn gì nữa. Con lớn hai hai. Con bé mười lăm. Thế là tương xứng với mình. Mình cũng hai con, đứa lớn mười hai, đứa bé lên mười. Mình chăm con người ta thì người ta chăm con mình. Con người ta có mẹ lo thêm thì con mình có bố lo thêm. Mới gặp mấy lần nhưng rất nhiệt tình. Cứ nói chuyện ra Hải Triều để gặp các cụ, thưa chuyện với các cụ rồi tổ chức. Chỉ mỗi chuyện hình thức hơi kém. Bụng to. To hơn bụng anh Điều này này.

Tất cả phá lên cười. Điều bước ra xa lông, cố phưỡn bụng, hai tay xoa xoa bụng:

- Bụng anh thế này mà em bảo to à? Là thủ trưởng bụng phải to, em nghe không? Bụng anh thế này hơi nhỏ đấy.

Cô Phòng đầy vẻ háo hức:

- Yên. Yên. Kể nốt đi xem nào.

- Bụng to. Hình thức kém, rõ ràng rồi. Nhưng thôi. Mấy người trước, người được cái nọ mất cái kia. Căn bản là tình cảm, là vẻ đẹp bên trong. Mình thấy cũng có vẻ được. Thế rồi một hôm em hẹn sáu giờ chiều đón em ở chỗ nọ chỗ kia. Chờ mãi. Chờ mãi. Sáu giờ. Rồi sáu giờ mười lăm. Hay là bị kẹt xe. Kẹt gì mà kẹt. Hẹn ngay chỗ đầu Nơ Trang Long, ông ấy nhà bên kia Cầu Đỏ. Sáu rưỡi vẫn không thấy, mình phóng xe đến thẳng nhà thấy chàng đang bế cháu đích tôn. Đứa cháu mười bốn tháng như cái rãi khoai khóc ngằn ngặt. Cả nhà chỉ có hai ông cháu. Thằng bé nóng như than. Thì ra thằng con giai hai hai tuổi có con với đứa nào đấy, nó đem con đến nhà trả rồi bỏ đi đâu mất. Khi mới gặp nhau chàng cũng thành thật nói với mình là đã lên chức ông nội, thì cũng cứ tưởng chúng nó có vợ có chồng có nhà có cửa, làm ăn trông nom nhau, ngoài năm mươi là ông nội chẳng có gì phải nghĩ. Ai ngờ đâu lại thế. Thằng con hai hai tuổi biết cái gì mà nuôi con. Còn con kia chắc mười sáu mười bảy biến rồi. Em mới hỏi: Bà nội cháu đâu? "Bà nội cháu mặc quần áo đẹp đi nhảy rồi!" Bà ngoại đâu? "Bà ngoại mỗi ngày đến một lần. Vừa về rồi! Bà ngoại bảo phải tiếp nước cho thằng bé". Em hoảng lên: Sao lại tiếp nước cho cháu? Tiếp nước rất nguy hiểm. Người lớn tiếp nước không cẩn thận cũng chết như chơi! Cháu bé thế này ven mạch ở đâu mà cắm kim, lại còn chằng buộc thế nào để giữ yên tay nó mấy tiếng đồng hồ? Anh phải cho cháu đến bệnh viện ngay. Thế là đưa đến bệnh viện. Thì ra nó viêm tai giữa. Đàn ông đàn ang tắm cho nó, người béo ngón tay ngắn ngủn không bịt được tai cháu, để nước chảy vào tai...

Tất cả lại cười. Liễu buồn buồn:

- Mình nghĩ thì ra ông ta không cưới vợ cho mình mà cưới bà cho cháu. Chắc chắn lấy ông ta mình phải trông nom thằng bé. Không biết thế nào chứ Phòng ạ, mình đã qua cái đận trông con thơ, sợ lắm rồi. Đã mất mười lăm năm giờ lại mất mười năm nữa còn gì là đời.

Phòng vẽ ra một viễn ảnh sáng ngời:

- Rồi để ràng buộc, thắt chặt tình cảm giữa hai vợ chồng, mày cũng phải đẻ một đứa chứ. Ba sáu tuổi còn đẻ tốt.

Và Phòng bàn một cách rất nghiêm chỉnh:

- Hay là thôi mày ạ. Cứ cặp với ông nào cho nó xong đi.

Liễu cũng thành thật không kém:

- Cặp thì tao cũng cặp rồi. Cặp với một người gay lắm. Tan cửa nát nhà người ta. Chẳng lẽ lại nay cặp người này mai cặp người khác. Thế thì mình là điếm mất rồi còn gì nữa. Cứ vui chơi cho đến khi không vui chơi được nữa à? Cứ vui chơi có thưởng à?

Buột miệng câu nói sau cùng, Liễu đỏ nhừ mặt, đỏ xuống cổ, đỏ xuống tận ngực nơi chiếc cúc áo sơ mi đính trễ. Trông Liễu lại càng duyên hơn mọi lúc.

Chờ mọi người cười xong, Toàn thở dài đầy cam chịu, như biết rằng cuối cùng việc khó khăn này lại đến tay mình thôi, rằng cái thân phận mình là như thế, bao giờ cũng là như thế, không đẩy cho ai được:

- Thôi. Để anh cố.

Liễu đỏ đến cả hai con mắt lúc nào cũng ươn ướt:

- Anh thì gươm cùn giáo gỉ rồi. Không cố được em đâu.

Phòng cười, mặt còn đỏ hơn cả Liễu:

- Chưa cùn đâu. Còn sắc lắm.

- Đấy. Có Phòng xác nhận đấy. Gươm chưa gỉ. Giáo chưa cùn. Vẫn tốt. Tất cả vì em. Với người khác thì mặc xác nhưng với em, anh phải có trách nhiệm chứ.

Phòng biết mình lỡ lời, nghiêm mặt:

- Không được huyên thuyên!

Liễu nói mà không nhìn ai, mặt rực lên như người say rượu:

- Nếu cố được cũng không đến lượt anh!

Phòng thêm:

- Đúng! Chí ít cũng phải là chánh văn phòng! Chức vụ. Rồi bổng lộc.

Liễu như nói một mình:

- Thảo nào. Mới gặp nhau mấy bận, hôn chưa hôn, chưa một lần cầm tay để xem xúc động thế nào, luồng điện chạy ra sao đã muốn ra ngoài ấy gặp các cụ rồi...

Toàn an ủi:

- Không phải nghĩ nữa. Anh cố được mà.

Như muốn chuyển đề tài, Liễu nhìn Toàn, giọng trách móc:

- Anh chỉ được cái mồm thôi. Em về mở hàng khô. Anh bảo anh chạy hàng cho em mà chẳng thấy đâu.

Cô Phòng hưởng ứng ngay cái sự chuyển đề tài của Liễu:

- Mày mà mở hàng khô con mày nó ăn hết.

Liễu vênh mặt lên:

- Tao bán ớt ờ. Tao bán cà. Ờ. Tao bán mắm tôm. Ờ ờ. Có muốn ăn cũng không ăn được. Hờ hờ.

Những tiếng ờ ờ hờ hờ như thách thức lũ con háu ăn của Liễu đang quanh quẩn đâu đây. Phòng bảo:

- Tao không về. Tao chẳng làm gì mà tao về.

Liễu tán thưởng:

- Tao cũng không về. Sao không bảo bà về từ trước. Ờ ờ. Bảo bà về từ mười mấy năm trước có được không? Ờ. Sao bây giờ mới bảo? Ờ ờ. Sao bây giờ bà về mà những đứa mắt xanh mỏ đỏ lại được vào làm? Ờ. Nó cũng không có nghề ngỗng gì. Hờ. Ờ. Ờ.

Mà đúng là thế thật. Nhiều mắt xanh mỏ đỏ mới về. Một mắt xanh mỏ đỏ về văn phòng tổng giám đốc. Chẳng biết vì sao lại được về. (Ai cũng biết phải đẽm dữ nhưng không biết chính xác bao nhiêu). Từ nước Tiệp Khắc đã đổi màu về. Lao động từ Plden về. Cùng với cái Tám làm tiếp tân. Nhưng công việc chuyên môn chủ yếu lại là đánh bóng bàn. Cắt, giật, tiu, đỡ rất giỏi. Vừa chơi vừa rất hồn nhiên khi đối thủ sắp thua: Cụ lạnh tới chân rồi này. Cụ lạnh tới ngực rồi này! Cải này thì mũi cụ vẹo về một bên, sắp đi rồi này! Vô địch giải đơn nữ toàn xí nghiệp. Tham gia thi đấu giải bóng bàn nghiệp dư thành phố, được giải ba hẳn hoi. Rồi vay tiền xí nghiệp mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở phố Bắc Ninh. Chỗ trông ra Vườn hoa Đưa Người ngày trước. Cửa hàng to. Bán nước mắm, cá ướp đá, cá ướp đông, cá khô, mực khô. Lưới, dây nhợ vá, cước, dây ni lông. Sơn. Cả đồ hộp của xí nghiệp bên cạnh. Tổng giám đốc đi thăm cửa hàng về phấn khởi kể chuyện oang oang:

- Cô Hiếu bây giờ tiền đầy túi. Đếm tiền cực nhanh, cực giỏi. Đấy! Làm ăn phải mạnh dạn bung ra như thế chứ. Tôi đã nói với tất cả mọi người rằng bây giờ phải biết kiếm tiền.

Điều lụi hụi nói với Toàn khi chỉ có hai người: "Không phải dạy khôn. Chúng tôi cũng muốn kiếm tiền như sếp lắm nhưng đâu có được". Trước mắt mọi người, Hiếu là một ngôi sao sáng. Có tiền. Được sếp hay lui tới và đánh giá cao. Một mắt xanh mỏ đỏ mới về nữa là Ngọt, cô phiên dịch tiếng Anh. Cô này ăn mặc hiện đại không kém Hiếu. Váy bò ngắn. Bít tất màu da chân cao đến gối. Sơ mi hồng chẽn. Ngọt về phòng xuất nhập khẩu. Dù ở phòng xuất nhập khẩu nhưng cũng là đề tài sôi nổi cho cánh văn phòng tổng giám đốc. Nhạn chỉ vào Điều, bảo Toàn:

- Trưa nay bá con đi sau, cô Ngọt đi trước, trông bá con rất buồn cười nhé. Mặt mũi nghiêm trọng, chăm chú đi sau cung cúc cung cúc. Con gọi: "Bá ơ ơ ơi ơi!"

Nhạn dài mồm, cất tiếng gọi thảm thiết. Toàn gật gù:

- Bá hiểu. Đó là tiếng gọi thê thảm, tăm tối, tuyệt vọng của đứa con sắp mất bố.

Chánh văn phòng Điều chỉ cười không thành tiếng. Cô Phòng nói:

- Cái Nhạn nó bảo em: "Chị mà ở đấy nhìn bá em. Buồn cười lắm".

Điều chê bôi:

- Ba mươi tư tuổi mà già cốc đế.

Cô Phòng bảo:

- Đẹp như kiều hối hả còn gì nữa. Cái Nhạn bảo nó sẽ nói với nàng là con giai bá em nhớn hơn chị rồi đấy. Con giai bá em chính là thằng Cảnh điên đấy.

Cảnh, một nhân vật hâm hâm, một kẻ rách việc nhất trong những người rách việc bỗng dưng nói một câu rất oách:

- Hay là bá sang tên cho con đi.

Điều cười:

- Bố tổ cái thằng này. Đi nhổ cỏ đi!

Cô Phòng "tố cáo" với Toàn:

- Phó văn phòng "công tử" Nhương dắt cô Ngọt đến, bảo em cấp cho cô ấy một bút bi, một thếp giấy, sếp nói trước mặt cô ấy chẳng lẽ không cho. Thế rồi một lúc sau chánh văn phòng lại đến bảo đưa tao hai cái bút bi, cho cái Ngọt, nó viết nhiều. Em bảo này không có đâu nhé. Một chiếc thôi. Thì nó một chiếc, tao một chiếc. Em bảo anh không thèm viết bút bi nội cơ mà.

Điều chỉ cười, không nói. Cô Phòng tiếp:

- Công nhận chánh văn phòng dễ tính. Anh Tí ơi. Anh đi đâu cứ đi. Xuống cơ sở. Lên thi đua thành phố. Chánh văn phòng không nói gì đâu. Công nhận khi yêu người ta dễ tính đi nhiều.

Câu chuyện cứ như vậy, vui vẻ, tếu táo. Vừa lúc ấy, Vân phó chủ tịch công đoàn vào. Cái Nhạn than thở:

- Có mỗi cô phiên dịch mới mà bao nhiêu người thương thuê, khóc mướn.

Điều làm ra vẻ sừng sộ:

- Khóc mướn cái gì nào?

- Xin bút bi hộ đấy thay. Bá còn cãi nữa hay thôi.

Cô Phòng chỉ vào Vân:

- Đây, phó chủ tịch công đoàn áo kẻ. Chánh văn phòng áo kẻ, phó tổng giám đốc áo kẻ. Cả một trường phái áo kẻ. Xem ai thắng ai nào.

Vân cười:

- Tôi là tôi múc luôn.

Đúng mọi người nhận xét mắt xanh mỏ đỏ mới nhận về cũng chẳng có nghề ngỗng gì. Cô Ngọt sếp kêu dịch kém. Còn cái Hiếu bỗng dưng làm đơn trình bày bị khách hàng chiếm dụng vốn, không còn khả năng thanh toán, xin thôi việc, ở nhà mở cửa hàng, không phải cửa hàng giới thiệu sản phẩm của xí nghiệp mà bán đồ may mặc. Thế là xí nghiệp mất toi mấy trăm triệu. Nhưng theo chánh văn phòng, tiền không rơi vào túi Hiếu cả đâu. Mà theo đúng tỉ lệ phân chia. Hiếu, trưởng phòng tài vụ, tổng giám đốc mỗi người một phần ba.

° ° °

Phòng văn thư đánh máy ngay cạnh phòng Toàn, nhưng trái ngược với phòng Toàn, nó rất khuất nẻo. Đó là khúc nhô ra khỏi cái góc vuông của hành lang, cái góc có hai buồng vệ sinh hiện đại, mà ngày nào Thuyền và Nhược đã xách nước từ phân xưởng lạnh sang cọ rửa cho hết mùi khai để đón nhà tư bản Mỹ Robert Lee. Tổng giám đốc làm việc ở tầng trên, có toa lét riêng ngay trong buồng nên chẳng bao giờ đi vào ngõ cụt ấy.

Một cái tuyệt nữa của phòng văn thư đánh máy là giữa phòng có mấy chiếc tủ đứng chắn ngang, chia thành hai phòng nhỏ. Cô Phòng, văn thư ngồi bên ngoài, cái Nhạn đánh máy ngồi bên trong vì phòng đánh máy có nhiều công văn giấy tờ quan trọng, cần phải kín đáo đôi chút.

Cũng như mọi phòng khác của cánh thước thợ phía này, phòng văn thư đánh máy có hai cửa ra vào. Một cửa nhìn ra hành lang đằng trước, nhìn ra tiền sảnh hình vòng cung có treo cái bảng mà Toàn kẻ dòng chữ tiếng Anh: "Welcom to Biendongfiscom", bên dưới là một hàng chữ tiếng Việt: "Liên hợp Hải sản Biển Đông kính chào quý khách". Và một cửa thông ra hành lang phía sau, nhìn ra cầu cảng.

Khi Toàn đi từ cái bồn dầu đã không sử dụng giáp với xưởng làm nước đá xây dựng từ thời sau tiếp quản nay đã bỏ hoang, tay xách cái ghế dựa, theo sau là Thám, anh chàng thợ điện có nhiều tài vặt, bước tới hành lang phía sau, thì Toàn đặt vội cái ghế xuống hành lang, lững thững mở cửa sau phòng văn thư, vung vẩy hai tay bước vào.

Phòng, Nhạn quay cả lại:

- Đã cắt tóc xong rồi đấy. Nhanh thế!

- Cái ghế lấy mang đi đâu? Không giả người ta à?

Toàn vội quành ra hành lang, xách cái ghế dựa vào:

- Cũng phải trinh sát xem có ai không đã. Ngộ nhỡ gặp sếp thì làm sao?

Thám bảo:

- Cắt tóc chỉ có sang kho kiến thiết cơ bản là thích nhất. Khóa cửa ngoài là yên trí. Sếp chẳng đi đến đấy bao giờ.

Cái Nhạn đi lại phía Toàn, nhìn chăm chú và kêu lên:

- Đầu bá một mất một còn hở bá?

Thám bĩu môi:

- Một mất một còn! Thế này mà một mất một còn à?

Nhạn níu lấy hai tai Toàn, giữ cho Toàn nhìn thẳng, kéo cho Toàn nhìn nghiêng rồi hỏi:

- Đây. Không bên xanh bên trắng là gì đây. Chị Phòng xem này. Con cho bá mượn cái gương. Bá soi xem con nói có đúng không. Thợ dởm.

Một anh chàng bước vào. Còn trẻ. Gầy. Mặt khắc khổ. Cảnh, nguồn vui bất tận cho anh chị em văn phòng. Cảnh nhìn Toàn, cười:

- Một mất một còn như bá không sợ. Một mất một còn như Thúy tài vụ mới sợ.

Tất cả cười ầm. Thúy là tên cô phó phòng tài vụ, vừa đi mổ vú tháng trước. Thúy được chánh văn phòng gọi là Của một đống tiền. Đi triển lãm Giảng Võ, chánh văn phòng giao cho lái xe kèm Thúy:

- Mày trông nó cẩn thận nhé. Của một đống tiền đấy.

Mà đúng là một đống tiền thật. Đoàn tham gia triển lãm Giảng Võ của xí nghiệp với đông đủ các đại diện phòng kỹ thuật, phòng cung tiêu, xưởng cơ khí, chánh văn phòng và cả thi đua Toàn cùng lái xe nữa, gần một chục người ăn trưa, bia bọt giải khát ở Hà Nội thoải mái đều được chánh văn phòng chi và Thúy nhận thanh toán, khi về đến Hải Triều đã nhá nhem, tưởng ai về nhà nấy hóa ra còn dừng lại Lưu Lang làm một chầu bia với mì xào thập cẩm và hoành thánh chiên giòn. Anh nhớ lấy hóa đơn nhé. Mai đưa em thanh toán. Khiếp. Cái món ăn gì có tên đến khiếp. Hoành thánh. Đọc cứ trẹo cả mồm. Tàn bữa Lưu Lang, Thúy bảo Điều như vậy. Từ ấy Thúy có tên là Của một đống tiền. Sau khi đi mổ về, cô có hai tên mới là Của một đống rưỡi tiền và Một mất một còn. Tùy. Ai muốn gọi thế nào thì gọi.

Cảnh còn đang đứng thưởng thức thắng lợi từ câu nói của mình thì Thám hất hàm:

- Nói với ai thế?

Cảnh cười nhạt:

- À. Nói chỉ thiên đấy.

Chưa bao giờ Cảnh có vẻ mặt câng câng như vậy. Cảnh ngồi xuống chiếc ghế dựa phía trong, đặt sau cái tủ đứng, co một chân lên, nhưng rồi lại vội vàng thõng chân xuống, xỏ vào dép. Ngồi ở một chỗ khuất và xỏ hai chân vào dép, đó là đặc điểm của Cảnh. Thám đe:

- Được. Cứ ngồi đấy mà nói chỉ thiên. Không ra nhổ cỏ đi. Cứ ngồi đấy.

Cảnh chìa hai bàn tay bẩn ra:

- Vừa nhổ về. Nghỉ giải lao một tí.

- Mày vừa nhổ phải không? Nhổ ở chỗ nào? Đưa tao ra xem.

Hai đùi Cảnh rung tít. Mặt Cảnh vênh lên:

- Đã có sếp kiểm tra. Mỗi ngày hai nhăm mét vuông. Đúng chỉ tiêu.

- Một mét vuông cũng không được. Hai nhăm mét! Thằng này rất kinh. Nó cứ ra chỗ bãi cỏ nhổ chừng hai ba cái cho tay có nhựa rồi xoa vào đất. Thế là xong. Đi vào ngồi đấy.

Cảnh càng rung đùi tít hơn, và ngước nhìn trần nhà, kiểu như muốn nói: Không thèm chấp.

Rồi bước lại cái bàn uống nước - cũng để sau tủ đứng cho nó kín đáo - lấy giấy bút ra vẽ, chăm chú, mải miết, cái mỏ thỉnh thoảng lại dẩu về bên này, dẩu về bên kia. Tất cả im lặng nhìn Cảnh. Nhạn, Thám bĩu môi đầy vẻ khinh bỉ. Cảnh vẫn say sưa vẽ, không biết chánh văn phòng đứng bên tự bao giờ.

- Nhổ cỏ đến đâu rồi mà vào đây vẽ vời đấy?

Cảnh ngẩng lên, không hề bối rối về chuyện bị thủ trưởng bắt quả tang không đi nhổ cỏ mà lại ngồi trong buồng quạt trần chạy vù vù, vẽ vời. Nó chìa tờ giấy cho chánh văn phòng, vẻ nghiêm túc nhất trên đời:

- Chú ơi. Cháu định làm cái biểu đồ biểu diễn đường găng. Chú xem cho cháu với.

Cảnh đưa cho chánh văn phòng tờ giấy có vẽ biểu đồ, những trục tung, trục hoành, những đường chéo và trong khi chánh văn phòng im lặng xem, nó cũng ngó vào đó, môi dẩu ra, đầy căng thẳng và thỏa mãn. Rồi cầm bút bi chỉ chỉ:

- Biểu đồ đường găng thế này chứng tỏ công việc suôn sẻ chú ạ.

Chánh văn phòng vất tờ giấy ra bàn:

- Đếch phải rồi. Đường găng đâu phải đường này. Đường găng là diễn đạt cùng một lúc phải giải quyết rất nhiều công việc. Chọn công việc gì làm trước, công việc gì làm sau. Như thế nào nhỉ...

Điều ngẫm nghĩ và à lên:

- Như các cụ nói đấy. Đang khi lửa tắt cơm sôi. Lợn gầm con khóc, chồng đòi...

Không đợi chánh văn phòng nói hết câu, Cảnh gật gù tủm tỉm:

- Tòm tem.

- Đấy. Thế. Đường găng là như thế. Trong ngần nấy công việc, làm việc gì trước. Phải nấu cơm đi. Chứ làm việc khác để hỏng nồi cơm là bỏ mẹ.

Nhạn cười:

- Làm việc khác là làm việc gì đấy bá?

Cảnh cầm tờ giấy biểu diễn đường găng trầm ngâm suy nghĩ, và chỉ đến khi ấy, khi nó thả chân xuống đất (không biết nó đã cao hứng co một chân lên ghế lúc nào) thì chẳng thấy một chiếc dép lê đâu nữa cả. Quên hết mọi chuyện nhổ cỏ, đường găng, quên cả chánh văn phòng đang đứng trước mặt, nó cúi cúi tìm dép. Và nó nhìn nét mặt từng người. Chẳng thể tìm thấy gì trên những vẻ mặt ấy, nhưng nó biết ai là người giấu dép của nó. Và nó biết thế là hỏng mất rồi, mất đứt mất rồi. Chánh văn phòng phì cười:

- Cái này mới thật là đường găng đây.

Thám làm như bây giờ mới hiểu câu chuyện:

- Mất dép à?

Và cười giòn tan sảng khoái. Lại nói đầy vẻ khiêu khích:

- Đứa nào lấy dép của nó nhỉ?

Điều biết đám nhân viên của mình đã đi vào đề tài muôn thuở là trêu Cảnh. Anh làm mặt nghiêm, cắt đặt công việc:

- Chú Thám tí nữa đi chặt cành cây la ra lối đi. Thằng Cảnh nữa. Hôm nay đi theo ông Thám, phụ với ông ấy.

Thám giãy nảy:

- Không. Tôi làm một mình thôi. Làm được đến đâu thì làm. Tôi không làm với thằng Cảnh đâu. Hôm nọ sếp bảo nó phụ với tôi chữa quạt. Mình đã kê bàn bắc ghế leo lên chỗ cái quạt trần, bảo nó đưa cho hộp sơn. Sếp có biết nó làm gì không? Nó lại đi bật quạt. Điện giật chết thì sao? Cánh quạt phạng vào mắt vào mang tai thì sao? May mà kịp ngồi thụp xuống tránh được.

Cảnh nói với vẻ bề trên dạy bảo:

- Khi làm phải để các thứ gọn gàng, với tay là lấy được ngay. Để xa thế là không ổn rồi.

Bị chạm tự ái nghề nghiệp, Thám gầm lên:

- Phải. Mày cái gì cũng giỏi.

Chánh văn phòng cười dàn hòa:

- Thôi. Hai anh em đi tỉa cành. Ông Thám cho nó đi chặt cùng. Để nó chặt một mình nó lại chặt trụi như lần trước cho ông sếp ông ấy giết tôi à?

Đang bực mình, Thám cũng phải phì cười. Chả là lần trước, chánh văn phòng giao cho Cảnh chặt cây. Biết được trình độ thông minh của nhân viên của mình, trước khi tan tầm chiều, Điều đã đánh dấu phấn vào những cành phải chặt, để nó khỏi phạng đi tất cả, "sáng mai đến cứ cành nào có dấu phấn thì chặt, chặt bừa là chết tao đấy".

Ai ngờ, Đức đen trưởng phòng điều độ tối hôm ấy trực bốc xếp. Rách việc, buồn tình, Đức lấy phấn đánh dấu vào tất cả các cành cây trong vườn hoa như trong tập truyện A li ba ba và bốn mươi tên cướp vậy. Thế là sáng hôm sau Cảnh ra sức phạt. Trụi một nửa vườn hoa mới biết.

° ° °

Chánh văn phòng vừa ra thì lại một người bước vào.

- Chào thanh tra.

Cô Phòng nhanh nhảu.

- Chào em gái. Anh không ở thanh tra nữa rồi.

- Anh sang bảo vệ rồi à?

- Sang rồi. Xí nghiệp có nhiều của quý phải chia nhau canh gác chứ.

Đó là Vinh, nguyên phó quản đốc phân xưởng đá cây Liên Xô. Gọi thế vì phân xưởng này do Liên Xô xây dựng ngay từ những ngày đầu tiên thành lập xí nghiệp. Phân xưởng đá cây Liên Xô có một chánh hai phó nhưng luôn luôn lục đục. Mâu thuẫn căng từ khi máy móc còn mới tinh và chỉ được giải quyết khi phân xưởng đóng cửa vì thiết bị già cỗi không hoạt động nữa, ống ga đụng đến chỗ nào là chỗ ấy xì, ba vị lãnh đạo phân xưởng chuyển đi mỗi người một nơi. Quản đốc chuyển về bộ, một phó quản đốc về nhà máy đá vẩy mới xây dựng, còn Vinh làm phó ban thanh tra. Ban thanh tra có ba người, một trưởng, một phó, hai người lãnh đạo một nhân viên. Đó là một ban hoàn toàn rỗi việc. Công việc chính của ban thanh tra là tiếp ban thanh tra thành phố, ban thanh tra bộ về làm việc định kỳ tại xí nghiệp. Không giống Toàn và một số người khác, cán bộ thanh tra rỗi việc một cách danh chính ngôn thuận, bởi sếp chánh đã nói: "Các anh thanh tra rỗi việc là mừng. Chứng tỏ xí nghiệp không có vấn đề gì. Các anh bận việc là hỏng đấy". Có lẽ sếp muốn "mừng", sếp muốn thanh tra rỗi việc nên đã mấy lần thanh tra muốn bận, muốn có việc làm đều bị sếp gạt đi. Như chuyện cho thuê cầu cảng của điều độ chẳng hạn. Thanh tra đã cho qua, nhưng cái chính là Đức không biết điều. Cứ làm như mọi người mù. Rồi coi mọi người không ra gì. Kiểu khinh người, coi tất cả là đồ mù như vậy chỉ từ cỡ nào trở lên mới làm được, chứ cái anh trưởng phòng điều độ quèn mà cũng thế thì thật quá thể. Vừa thấy trưởng phòng điều độ ngoài sân, Nghi trưởng ban và Vinh phó ban thanh tra đã gọi to, với nét mặt rõ ràng là căng thẳng, vẻ mặt của thanh tra đang làm việc thanh tra:

- Anh về phòng đi, chúng tôi hỏi anh một tí.

Ba người trở về phòng điều độ. Đức định pha nước, nhưng Nghi, Vinh đi thẳng ra cửa phía sau, nhìn qua bãi phù sa lúc này nước lên đầy ăm ắp, chỉ tay vào một chiếc tàu vận tải lớn nổi cao phía cuối cầu cảng, giáp với con tàu 307:

- Tôi hỏi anh cái tàu này hôm nay còn vào đây là làm sao nhỉ?

Đức tỉnh bơ:

- Thì hôm nay nó vào, còn sao.

- Thế hợp đồng đâu?

Đức cười rất tươi, xuề xòa thân mật:

- Hai anh vào đây. Vào đây. Tôi giải thích để các anh rõ. Các anh chưa biết cứ hỏi không sao. Chúng tôi sẽ báo cáo. Đây. Hợp đồng đây chứ đâu.

Vinh liếc qua bản hợp đồng Đức mới đưa, mặt tái đi, chứng tỏ anh đang rất cáu:

- Tàu vào cảng, thế hợp đồng đâu?

Đức thôi không cười nữa:

- Hợp đồng anh đang cầm đấy thôi.

Cái hợp đồng Vinh đang cầm đã hết hạn hơn chục ngày rồi. Vinh cười nhạt:

- Thế thì tôi đề nghị anh ghi vào bên dưới: Hợp đồng này có giả trị vĩnh viễn.

Đức tỏ ra cáu kỉnh không kém:

- Tôi nói cho các anh biết: Mình là đại lý cho nó. Vấn đề thanh toán phải để sau một chuyến.

Nghi lắc đầu, mặt lạnh tanh, giọng nhỏ nhẹ nhưng kiên quyết:

- Hợp đồng quá hạn gần nửa tháng rồi. Tiền chưa nộp. Đã thế anh còn quát nạt chúng tôi. Tôi cũng nói cho anh biết: Chúng tôi không cho xe ô tô vào.

Thế nhưng tàu vẫn đỗ ở cảng. Ô tô vẫn vào. Lệnh sếp. Được. Hợp đồng của điều độ có chuyện gì ta sẽ có ý kiến sau. Nhưng các đồng chí không được cản trở sản xuất. Bây giờ khách hàng là thượng đế. Phải tạo mọi điều kiện để thu hút khách đến với cảng của mình. Thành phố này bao nhiêu cảng. Có phải chỉ riêng mình có cảng đâu. Hoan nghênh các đồng chí đã quán xuyến, công tâm. Nhưng cũng nên uyển chuyển. Cứng nhắc là hỏng việc. Sếp bảo vậy. Và cũng chẳng thấy chỉ thị gì thêm về cái hợp đồng. Mặc dù ai cũng biết mười mươi rằng Đức vớ bẫm. Hợp đồng ký hai ngày, lại hai ngày, rồi lại hai ngày, để làm gì? làm sao như vậy? ai cũng biết. Cũng như ai cũng biết cái chiều dài chiều rộng của tàu trong hợp đồng đã được rút ngắn đi nhiều. Ai cũng biết mọi chuyện Đức làm như vậy là đã được chủ hàng "lo liệu". Chủ hàng chứ không phải chủ tàu. Mà bây giờ chủ hàng rất nhiều, rất nhiều người buôn bán từ thời gian đổi mới đến nay khi vị Tổng Bí thư Đảng đã nói Nhất bản vạn lợi.

Đức cứ như vậy mà nâng cao năng lực và chất lượng dịch vụ của cảng như bản tin Toàn viết trên bảng đen. Còn Vinh người hăng hái nhất ở thanh tra được chuyển sang bảo vệ.

Khi còn ở thanh tra, Vinh hay đi dạo các phòng, cả đảng ủy, công đoàn, thanh niên. Tới phòng nào anh cũng đứng ở cửa gõ cộc cộc, để mọi người tưởng khách, quay ra nhìn. Thế là anh cười rất tươi nhưng không thành tiếng rồi bỏ đi. Cũng có khi ghé vào nói chuyện. Toàn chuyện Gorbachev, Yeltsin. Cuối cùng là chuyện anh lấy vợ. Ai cũng khen Vinh lấy được cô vợ trẻ. Vợ anh chính là cô bán hàng phòng đời sống mà chúng ta đã nói tới khi cô bán chai rượu quít không phiếu cho Lê Mây. Cô Ngụ. Vinh đã có bốn người con với đời vợ trước. Khi vợ chết vì ung thư, anh đã định ở vậy. Nhưng chẳng hiểu duyên số thế nào anh lấy Ngụ, một cô gái tân, tuổi còn kém cả thằng lớn nhà anh. Chuyện với mọi người về cô vợ trẻ, anh lắc đầu với vẻ thán phục có pha khiếp hãi:

- Chảu Ngụ kinh lắm. Máu lắm.

Và cười. Phải nói Vinh có hàm răng rất đẹp, trắng, đều tăm tăm.

Toàn pha trà mời Vinh. Vinh chỉ vào Cảnh:

- Bố thằng này ngày xưa nói giỏi lắm đây này. Nói hay lắm. Ông ấy nói là cứ im phăng phắc.

Cảnh chân dép chân đất:

- Không bằng em.

Tất cả cười ồ. Cô Phòng bảo:

- Bố nó ngày xưa làm to lắm. Nổi tiếng ở thành phố này đấy.

Ai mà không biết tiếng ông Sinh, một người lãnh đạo xuất sắc trong thành phố, một người tổ chức tài ba và nhất là một nhà hùng biện. Hơn thế, ông còn là một nhà nghiên cứu về nhiều lĩnh vực chính trị và văn hóa. Ông thường xuất hiện trên tivi, cũng như trong những hội nghị quan trọng, giảng giải về con đường đi lên của cách mạng, kêu gọi mọi người hãy rèn luyện, cống hiến, trau dồi đạo đức, không ngừng học tập nâng cao năng lực với một giọng vang âm truyền cảm thiết tha. Toàn chưa được trực tiếp nghe ông nói. Chỉ được và nhìn ông qua tivi. Người anh nhiều khi nổi gai lên vì thán phục. Toàn cười:

- Cái thằng này nói thật hay đùa đấy. Dám hơn bố cơ à?

Cảnh nói chắc như đinh đóng cột, như nó đã làm cái sự so sánh giữa hai bố con nó nhiều lần lắm rồi, và kết luận rút ra lần nào cũng giống nhau:

- Bố cháu nói nhiều thế nhưng chỉ cháu biết là quanh quẩn vẫn mấy bài cơ bản thôi. Buổi nói chuyện nào của bố cháu cũng phải có mấy câu thuận lợi rất nhiều nhưng khó khăn cũng không phải ít. Chúng ta phải đem hết sức mình ra cống hiến, thấm nhuần lời dạy của Bác. Nếu không lại thời cơ và thách thức, hòa nhập chứ không hòa tan, đổi mới chứ không đổi màu. Phải nắm vững xê cộng vê cộng em (C+V+M)... Đấy chú cứ xem mà xem. Quanh đi quẩn lại chỉ vậy. Về nông thôn thì thêm vào mấy câu như chúng ta phải nghiên cứu vấn đề vật nuôi cây trổng, trổng cây gì, nuôi con gì. Mới đây có thêm câu con gì nuôi nhốt, con gì nuôi thả...

Tất cả cười ầm. Cả Thám, cả Nhạn những người hay châm chọc Cảnh cũng cười. Điều ấy làm Cảnh nở mày nở mặt. Lại Vinh:

- Ngồi ghế mà nói như mày, ai nói chả được. Đứng trên bục, trước hàng trăm người nghe nó khác chứ.

Toàn động viên Cảnh:

- Cảnh đứng lên, làm điệu bộ xem có hơn bố không nào. Thằng này làm tốt.

Được khuyến khích, Cảnh chân đất chân dép đứng dậy, hai tay chống trên bàn, cạnh đĩa đựng chén uống nước, mắt nhìn về phía xa hắng giọng:

- Thưa các đồng chí. Hôm nay tôi nói với các đồng chí...

Vừa xong câu mở đầu đã ngồi xuống ghế, ngượng nghịu:

- Em không nói nữa đâu.

Thám bĩu môi:

- Chỉ bốc phét. Nói thế chó nào được. Lòi mặt ra chưa!

Điên tiết, Cảnh đứng lên sừng sộ:

- Thật không? Thật không?

- Thật mười mươi! Cãi làm sao được! Thật như bố nằm với mẹ!

- Thưa các đồng chí! Giọng Cảnh sang sảng cất lên. Chúng ta phải không ngừng nâng cao cảnh giác chống mọi âm mưu của các thế lực thù địch diễn biến hòa bình. Mọi quyền lực về tay nhân dân. Một chính quyền của dân do dân vì dân. Dân biết dân bàn dân làm dân kiểm tra. Phải tăng nguồn hàng xuất khẩu. Phải thực hành tiết kiệm. Chống tham ô lãng phí. Tham nhũng đang là quốc nạn. Kiên quyết xử lý nghiêm minh. Không tắm từ vai xuống. Mà tắm là phải tắm từ đầu xuống. Không ai đứng trên pháp luật! Không ai đứng ngoài pháp luật!

Càng nói càng hăng. Càng vung tay múa chân, nghiêng người bên này nghiêng người bên kia. Nghiêm mặt. Nhìn bao quát. Khi mọi người bật lên vỗ tay tán thưởng một cách thành thực, tự đáy lòng, Cảnh không cười mà chỉ dừng một lúc, rồi cúi xuống như đang xem lại dàn bài và ngẩng lên tiếp tục:

- Bây giờ tôi xin nói kỹ hơn về vấn đề dân chủ hóa. Đây là vấn đề thiết yếu, sống còn. Chỉ có vậy mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhân dân. Bác Hồ đã dạy: Dễ muôn lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong...

Chưa bao giờ "hội trường" lại phấn khởi như vậy. Vinh reo lên:

- Thế chứ! Như thế chứ! Công nhận thằng này nói giỏi. Tiến bộ rất nhanh. Lần đầu còn ngượng nghịu mà lần thứ hai đã nhập vai thuần thục ngay. Đúng là một diễn giả tài ba. Hơn bố là cái chắc.

Cảnh bốc:

- Mà bố em còn phải chuẩn bị, phải làm đề cương. Mà cũng chỉ nói giỏi về chính trị thôi. Em không phải gì chứ, nói ngay được về bất kỳ vấn đề gì. Như đề tài nhổ cỏ em cũng nói được hai ngày.

Lần này chính Vinh công khai tỏ ý nghi ngờ:

- Bốc phét. Nói sao được? Nói gì mà được những hai ngày? Hùng biện như ông Fidel Castro cũng chỉ nói được một buổi sáng...

Đang thăng hoa, Cảnh mắt long lanh hùng hồn giải thích:

- Tôi nói được hai ngày về cỏ. Phản xạ của người ta có hai loại: Phản xạ có điều kiện và phản xạ không có điều kiện. Khi lao động, sự vật thường xuyên tác động vào suy nghĩ của mình. Không trực tiếp lao động thì chỉ có thể là khó khăn cũng lắm mà thuận lợi cũng nhiều cứ thế mà nói. Hay xê cộng vê cộng em, thế thôi. Bởi vậy nội dung bài nói của tôi sẽ là: Chương thứ nhất:

Cỏ là gì? Chương thứ hai: Vì sao có cỏ. Chương thứ ba: Nước, đất và không khí. Thế nào là nước. Thế nào là đất. Thế nào là không khí. Ớ chỗ này có thể nói thêm về sự hình thành của quả đất. Sau vụ nổ Big Bang. Về các kỷ. Về khí độc lúc quả đất mới hình thành, về loài khủng long kỷ Jura...

Vinh cười:

- Nhưng thế nào cũng phải nói khó khăn thuận lợi, thuận lợi cũng nhiều mà khó khăn cũng lắm chứ. Không có cái ấy chó nó nghe.

Cô Phòng đế thêm:

- Đúng. Đúng. Mà cũng chỉ nói được vài tiếng đồng hồ là hết. Nói sao được hai ngày.

Không thèm để ý đến những lời khích bác, Cảnh chìm vào dòng suy nghĩ, giơ ngón tay bấm đốt:

- Cỏ là gì? Vì sao có cỏ? Các loại cỏ trên thế giới...

Và reo ầm lên:

- Đúng rồi. Các loại cỏ trên thế giới. Cái này nói được một ngày đấy. Phong phú lắm. Cỏ gà, cỏ mật, cỏ may, cỏ gấu, cỏ gì nữa nhỉ, cỏ lác, cỏ ba lá... Cỏ có hại. Cỏ có lợi. Cỏ độc giết người. Cỏ cứu người, cỏ làm thuốc vân vân. Rồi còn cách nhổ cỏ, những hóa chất trừ cỏ, tội ác của Mỹ về chất độc hóa học màu da cam.

Thám bĩu môi:

- Chuyên gia về môi trường đấy.

Nhạn mỉa mai:

- Thế nào chẳng có câu: Chúng ta phải cố gắng nhổ cho hết cỏ. Nói xong vào trong phòng ngồi, quạt trần quay vù vù.

Không thèm nghe, không thèm đáp, Cảnh đang bị bài diễn văn nói vo liền hai ngày cuốn hút, ngẩng lên hỏi Vinh:

- Anh thấy đã được hai ngày chưa. Nếu chưa đủ, em sẽ nói thêm về việc trồng cỏ trong vườn hoa, trồng cỏ nuôi bò sữa, phân tích thêm ý nghĩa văn hóa, ý nghĩa kinh tế của cỏ...

Vinh nhìn cái đùi đang rung tít và cái chân thõng của Cảnh:

- Đúng rồi. Cỏ có nhiều ý nghĩa lắm. Kinh tế, chính trị, văn hóa. Nhưng sao lại chân đất chân dép thế kia?

Cảnh không giấu vẻ thất vọng khi câu chuyện bị cắt ngang đột ngột bởi một vấn đề tầm thường đến thế, trả lời chiếu lệ, coi cái chuyện mất dép vừa nãy còn là vô cùng quan trọng ấy chỉ là chuyện vặt, không đáng quan tâm:

- Mất rồi. Ai nghịch giấu đi ấy mà.

- Vừa mất xong?

- Vừa mất xong.

Phòng cười, má lúm đồng tiền rất tươi:

- Cảnh báo cáo chú bảo vệ đi.

Cảnh trình bày:

- Thế này. Em vừa đi nhổ cỏ về...

Nhạn cắt ngang:

- Nhổ ở chỗ nào? Được bao nhiêu mét rồi?

Cảnh đáp cho qua chuyện:

- Nhổ ở cổng bảo vệ. Về là vào thẳng đây.

- Lúc ấy vẫn còn hai dép?

- Vẫn còn hai dép.

- Về ngồi ở đây?

- Về ngồi ở đây.

- Vô lý. Dép ở chân làm sao mất được?

- Em ngồi cũng có văn hóa thôi. Không như Thám ngồi kia đâu.

Thám đang ngồi xổm trên ghế. Rất cáu nhưng cũng phì cười.

- Ngồi có văn hóa là thế nào?

Cảnh thở dài nói lên một chân lý phổ biến:

- Ai chả có lúc ngồi chân nọ gác lên chân kia.

- Tức là chân co chân duỗi?

- Chân co chân duỗi.

- Có lúc nào co hẳn một chân lên ghế không?

- Có.

- Lúc nào?

- Không nhớ.

- Co chân lên ghế lúc nào phải nhớ chứ?

- Không nhớ. Lúc ấy còn mải làm việc.

- Làm việc gì? Công việc là nhổ cỏ, sao lại còn việc gì ở đây nữa?

- Không. Chỉ là vẽ đường găng thôi.

Vinh làm như bây giờ mới vỡ nhẽ:

- À. Tưởng văn phòng giao nhiều việc quá thì phải báo cáo giám đốc để rút bớt. Thế cửa này mở chưa?

Vinh chỉ tay ra cái cửa thông với hành lang phía sau, lối Toàn và ông phó cúp Thám vừa đi vào khi nãy. Cảnh gật:

- Cửa mở từ sáng.

- Ớ đây có những ai?

- Có vài người.

- Đường, bí thư đoàn vào chưa?

Đường là chồng Nhạn, nên Nhạn trả lời thay Cảnh:

- Đường vào rồi. Nhưng lúc ấy Cảnh chưa về.

- Thành, phó bí thư đảng ủy vào chưa?

- Rồi.

- Điều, chánh văn phòng vào chưa?

- Rồi.

- Thế thì chỉ có hai người ấy lấy dép thôi. Thành và Điều. Tí nữa lên phòng đảng ủy, sang buồng chánh văn phòng xem sao. Tao thấy họ ra gặp tao, tay lại cứ để sau lưng. Tao không biết mày mất dép nên không để ý.

Coi như cuộc điều tra đã kết thúc và đã có kết luận, Vinh đứng dậy, bước lên gác, gõ cửa phòng đảng ủy. Cộc. Cộc. Cộc. Tưởng khách đến làm việc, mọi người quay cả ra. Anh đứng ngoài nhìn vào không nói một lời. Chỉ cười. Rất tươi. Không thành tiếng. Hàm răng trắng đều tăm tăm. Rồi đi sang phòng công đoàn liền bên. Lại đứng ngoài cửa. Cộc. Cộc. Cộc. Để mọi người quay cả ra. Lại cười rất tươi không thành tiếng. Và lại bỏ đi.

° ° °

Toàn chỉ ao ước được giao một công việc gì đó, đều đặn thường xuyên, có khối lượng cụ thể. Như cô Phòng. Như cái Nhạn. Hay như Cảnh cũng được. Bây giờ phải làm công tác phong trào. Thật là đấm vào không khí.

Cái khổ ở chỗ Toàn là một người trung thực, quá trung thực, không thể tự dối mình, không thể nhắm mắt trước sự thật, rồi cứ làm những đề cương thi đua cải tiến quản lý, xây dựng tổ đội,... không thể tràng giang đại hải về phong trào trong công nhân viên chức, cải tiến kỹ thuật, cải tiến lề lối làm việc, giải quyết khó khăn. Về lý luận, tập trung vào những việc ấy nghe chừng đúng đấy nhưng sự thật đâu phải thế.

Sự thật là với những người như Toàn (số này rất đông) đi làm chỉ để qua ngày đoạn tháng, giả vờ làm việc, giả vờ lĩnh lương, giả vờ bận bịu, giả vờ nghe, giả vờ nói và cả giả vờ... ăn nữa, vật vờ sống và mong đợi một cái gì sẽ đến, cái sẽ đến ấy là gì không biết rõ nhưng vẫn cứ mong, bởi cuộc sống như thế này khó mà chịu đựng lâu hơn nữa, phải chấm dứt đi thôi.

Sự thật là với những người như Đức, như giám đốc các xí nghiệp thành viên, những người làm ở các cửa hàng... đi làm là để tạo điều kiện, chớp thời cơ, lách qua các kẽ hở, liên kết với nhau để biến lưng vốn xí nghiệp, đồng lãi của xí nghiệp thành của riêng mình. Bản tổng kết của những người này là chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ và cả vị trí của mình đều luôn thay đổi, được ngày nào biết ngày ấy, mưa lúc nào mát mặt lúc ấy, phải biết tranh thủ, đừng bỏ phí cơ hội.

Sự thật là sản xuất kinh doanh trong xí nghiệp tùy thuộc vào sự xoay xỏa của mấy tổng và phó tổng mà thực chất là một ông tổng giám đốc, mấy trưởng phó phòng như xuất nhập khẩu, kinh doanh. Tài tháo vát, ngoại giao xoay xỏa này được gọi là "năng động sáng tạo", thực ra với động cơ duy nhất tìm mọi cách vơ vét càng nhiều càng ít.

Đánh cá không được thì chuyển sang vận tải nước ngoài. Khi có phong trào sắt vụn, nổi lên những người làm sắt vụn. Khi có phong trào làm gỗ bạch đàn thì sáng láng nhất là những người làm gỗ bạch đàn. Tổng giám đốc cười tươi săn đón họ, bắt chân bắt tay vồn vã. Họ là những ngôi sao sáng, là những người đem tiền bạc về cho xí nghiệp, dù đã lấy chai gió cắt cả chiếc cần cẩu chân đế mới tinh chưa sử dụng chuyển xuống tàu nước ngoài bán sắt vụn. Nhân viên phòng xuất nhập khẩu, phòng tàu, những người làm ra tiền, đi đứng hùng dũng nói năng to tát, thuốc lá ba số, Capstan, đưa đánh máy, đóng dấu, photo những vận đơn, những quota, những công văn mở LC, những thứ chắc chắn sẽ sinh ra đô la. Nét mặt họ hớn hở, nghiêm trọng, bước những bước dài tất bật ở hành lang, từ phòng này sang phòng khác, không thèm để ý đến những người chung quanh đang nhìn họ một cách thèm thuồng và ghen tị, rõ ràng họ đang gánh vác cả một sứ mạng thiêng liêng. Họ diện giày da, họ phóng xe máy đi về, lượn những vòng cua thật đẹp ở sân. Mà phải công nhận họ lượn tài thật. Đúng chỗ cần đỗ là khựng lại. Chiếc nọ cạnh chiếc kia đều tăm tăm, cứ như những ông coi xe xếp xe đạp vậy. Họ cười nói. Họ xộc vào phòng tổng giám đốc như gặp bạn. Thật sung sướng, bình đẳng và làm chủ. Không chỉ sung sướng vì giá trị tinh thần được nâng cao, mà chắc chắn trong túi, trong tủ họ rủng rỉnh tiền, vàng, đô la... Chứ chỉ có đồng lương ký sổ thì vất vả làm gì. Lại còn vất vả thế mà cứ tươi cười hơn hớn.

Lép vế nhất có lẽ là đoàn thanh niên và thi đua. Chứ công đoàn không. Đồng chí chủ tịch công đoàn có nhiều việc để làm: họp thường vụ, dự hội nghị giao ban, xét duyệt lên lương, ký thanh toán bảo hiểm, làm việc với các cơ sở, xét trợ cấp khó khăn, họp hội đồng kỷ luật, lên Liên Hiệp Công đoàn thành phố mà sau này gọi là Liên đoàn Lao động, mở hội nghị công nhân viên chức từ cơ sở tới xí nghiệp, đại hội công đoàn, tiếp xúc với các đồng chí về hưu... Ngay đảng ủy cũng chẳng nhiều việc bằng!

Nói đúng ra đấy chỉ là công việc của đồng chí chủ tịch công đoàn mà văn phòng công đoàn có những năm người. Một phó thư ký Vân, một trưởng ban nữ công Phương, một cán bộ Xuân trố không biết làm gì. Mỗi quý một lần đi đặt sách báo, tổ chức giải bóng chuyền nhân dịp mồng hai tháng chín, giải bóng bàn nhân dịp mồng một tháng năm (mà cô Hiếu lao động ở Tiệp về luôn được giải nhất, chỉ đến khi Hiếu mở cửa hàng và nợ xí nghiệp hơn ba trăm triệu, xí nghiệp gạch tên, khoản tiền ấy được ghi vào tài khoản nợ khó đòi; giải nhất bóng bàn nữ mới về tay người khác). Người cuối cùng là Mẫn, cán bộ phụ trách bổ túc văn hóa, có một trường bổ túc văn hóa liên xí nghiệp dành cho anh ta. Khi trường liên xí giải tán anh ta chỉ có một việc đi lấy báo (do anh chàng Xuân trố "văn thể" đặt) phát cho các phòng ban, rồi rút về phòng thư viện ngồi đọc báo và cho mượn sách. Số sách đồ sộ kín các giá sách ngày một ít dần đi.

Toàn hay lỉnh đến phòng thư viện này. Nó nguyên là một phòng làm việc của ban kiến thiết cơ bản mà trong các văn bản được viết tắt là KTCB nên cả xí nghiệp gọi là ban Kiẽm Tiền Chơi Bời. Ban kiến thiết cơ bản có quỹ riêng, nguồn kinh phí riêng khổng lồ từ trên rót xuống với những công trình mở rộng cầu cảng, những nhà máy lạnh Nhật, những tàu Đức, tàu Na Uy... Không phải bỏ tiền mà có thêm nhà xưởng, thêm tàu, trị giá hàng bao nhiêu tỉ, ban kiến thiết cơ bản được coi như một vương quốc riêng biệt không dính dáng đến hoạt động sản xuất sôi động hàng ngày của xí nghiệp. Bởi vậy nên phòng làm việc của ban cũng rất riêng biệt, rộng rãi, có một phòng lớn thênh thang, một phòng nhỏ cho trưởng ban và một nhà tắm, tất cả đều nằm trong phòng lớn, biệt lập ở một góc xí nghiệp. Ngày xưa ở đây luôn có những chiếc ô tô đỗ ngoài cửa, bóng dáng cao lớn của các chuyên gia nước ngoài, nam có nữ có, tư bản có, xã hội chủ nghĩa có, và với bất cứ chuyên gia nào khi đã đến làm việc ít lâu cũng đều có cảm tình với cái Nhạn ngày đó còn chưa lấy chồng, nhỏ nhắn xinh xắn lúc nào cũng má hồng mơn mởn và được nó dạy những tiếng Việt đầu tiên:

- Chào đồng chí.

- Chào ẳồồng chí.

- Tên tôi là Hâm. Đồng chí Hâm.

- Tên tôi là Hăm. Đồồng chí Hăm.

Mấy ngày liền ông chuyên gia mắt xanh tóc bạch kim cao hai mét com lê ca vát giày da bóng lộn nhận mình là Hâm và cúi đầu về phía Nhạn một cách rất ga lăng khi Nhạn chào đồng chí Hâm trong tiếng cười rộ lên của mọi người. Nhưng hẳn là thấy người ta cười nhiều quá nên vị chuyên gia rất lịch sự và cởi mở kia đã hỏi phiên dịch hoặc tra từ điển và sáng hôm sau khi Nhạn ửng hồng đôi má tươi cười chào đồng chí Hâm thì "đồng chí Hâm" lắc đầu quầy quậy: Không. Tôi không phải Hăm. Đồồng chí là Hăm...

Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, ô tô không đến nữa, chuyên gia không đến nữa. Ban kiến thiết cơ bản teo dần và giải tán. Trưởng phó ban, những kỹ sư công trình, những đội trưởng, những công nhân, đánh máy chuyển sang những phòng ban khác, những liên doanh với các xí nghiệp bạn, những cửa hàng... Trưởng ban được xuống tàu đi nước ngoài mấy chuyến rồi về hưu. Phó ban, một kỹ sư còn trẻ, cao gầy, tóc lúc nào cũng chải mượt, áo sơ mi cho vào trong quần, thắt ca vát, đi giày da tên là Nhương về làm phó văn phòng. Vì luôn ăn mặc tề chỉnh, nói năng nhỏ nhẹ nên mọi người gọi là công tử Nhương. Cái Nhạn cũng chuyển về văn phòng thay bà Ngọc nghỉ hưu. Cả Thám nữa. Thám chuyên trông nom về điện trong khu cơ quan thay Nhược. Cảnh cũng về văn phòng "đặc trách vấn đề cỏ". Chỉ còn vài người hoàn toàn làm theo chế độ hợp đồng với xí nghiệp để sửa chữa nhỏ và thầu các công trình xây dựng bên ngoài, chủ yếu là làm mới hay sửa chữa nhà ở, bếp núc, làm lại nhà xí thành toa lét cho cán bộ công nhân viên trong khu tập thể. Việc này đang phát triển. Như một phong trào. Nhà nhà làm toa lét. Người người làm toa lét. Cố gắng dành dụm làm toa lét. Vay giật làm toa lét. Khách đến chơi nhà, không khoe gì, dẫn khách ra khoe toa lét. Làm không hết việc. Thật may!

Thống trị cả một gian buồng rộng thênh thang quá cỡ này là một anh chàng học vị cao nhất văn phòng công đoàn nhưng lại lép vế nhất: Mẫn. Trần Minh Mẫn. Ngoài bốn mươi, râu cằm lởm chởm, quần áo bẩn thỉu, Mẫn tốt nghiệp đại học sư phạm khoa văn và là giáo viên đã hành nghề trên chục năm tận vùng Đông Bắc. Vợ con ở cả Hải Triều, Mẫn tìm mọi cách xin chuyển, nhưng mãi gần đây mới được về Liên hiệp công đoàn thành phố, rồi được về xí nghiệp, phụ trách bổ túc văn hóa, tối dạy ngày nghỉ. Mẫn thỉnh thoảng có đến xí nghiệp họp hành gì đấy, rồi được giao thêm nhiệm vụ đi lấy báo, phần việc của "Xuân lồi", để "Xuân lồi" tập trung vào giải bóng chuyền... Rồi khi tinh giảm biên chế, chuyển cô Phòng chuyên trông coi thư viện sang văn thư, Mẫn kiêm luôn thư viện, thành tích này được công đoàn báo cáo lên trên đã tinh giảm hai mươi phần trăm biên chế. Mà đúng là như thế. Một con số to đùng!

Thật may cho Mẫn, vì chỉ ít ngày sau trường bổ túc văn hóa liên xí nghiệp giải tán chứ không Mẫn lâm vào cảnh bơ vơ, không việc.

Hàng ngày Mẫn phải đem báo đến các phòng ban, riêng tổng và phó tổng thì giao cả cho văn phòng để văn phòng chuyển. Vì vậy mỗi khi đồng chí chủ tịch công đoàn lôi Mẫn từ thư viện sang bên xí nghiệp có việc gì đấy, Mẫn lẽo đẽo theo sau, trên đường đi gặp tổng giám đốc đều được tổng giám đốc cúi chào Mẫn một cách rất lịch sự vì rất ít khi đồng chí gặp Mẫn. Cử chỉ ấy được Toàn giải thích như sau:

- Chỉ thằng Mẫn là sướng thôi. Năm năm ở xí nghiệp rồi mà tổng giám đốc vẫn tưởng là người Liên đoàn lao động thành phố xuống làm việc. Gặp là cúi rạp đầu chào.

Mẫn cười rinh rích, nghi nghi hoặc hoặc không biết có đúng thế không? Nhưng từ ấy, Mẫn tự hạn chế mình, ít xuất hiện ở khu vực cơ quan và cũng từ ấy cửa phòng thư viện thường khóa luôn, chẳng biết Mẫn đi đâu.

Thế rồi một hôm Mẫn bảo Toàn, có cả bọn cái Nhạn cô Phòng "ông Thám", vẻ mặt Mẫn đau đớn:

- Lộ hết rồi anh Toàn ơi! Sếp biết em là người xí nghiệp rồi. Gặp em trên đường ra căng tin, sếp gọi lại quạt cho em một trận. Thư viện của anh tụ tập toàn những người rách việc! Đọc báo suốt ngày! Phòng ban nào cũng có báo rồi! Chỗ đó chỉ cho anh em dưới tàu ngồi đọc báo thôi! Còn phòng ban tuyệt đối không! Mượn sách xong thì về!

Mẫn vừa nói xong, cô Phòng lập tức đứng lên bắt chước sếp, đưa bàn tay phải ấp vào ngực trái, cúi gập người chào Mẫn. Mẫn bảo Phòng, vẻ đau đớn:

- Bồ ơi! Thế là bồ với anh ít được gặp nhau rồi. Bồ có muốn anh sang cũng không được nữa rồi.

Phòng làm bộ nũng nịu, ngúng nguẩy lắc lắc cái đầu:

- Em ứ sợ. Em nhớ anh, em cứ sang với anh. Em ứ sợ.

Mẫn giãy nảy:

- Đừng. Em ứ sợ là bỏ mẹ anh đấy!

Lại cười. Bỗng Mẫn tươi tỉnh hẳn lên:

- Nhưng mà sếp sắp đi rồi. Sếp chuyển về bộ. Sếp khác về, lại phải năm năm sau mới biết anh không phải là người của Liên đoàn lao động bồ ạ. Thì lúc ấy sếp mới cũng lại sắp đi rồi. Ráng chịu ít ngày thôi. Lại tha hồ nhìn nhau.

Đúng là gần đây có tin sếp sắp chuyển thật. Tin đồn thôi. Nhưng không có lửa sao có khói. Người ta nói sếp bị nhiều đối thủ công kích dữ lắm. Nào là từ ngày ông Thắng về, đoàn tàu khai thác cá gần như không hoạt động, càng khai thác càng lỗ. Nào là các tàu vận tải nước ngoài đi buôn là chủ yếu. Tàu Hạ Long 03 chở hàng thuê cho ông Robert Lee từ Hong Kong về Trung Quốc, anh em thuyền viên buôn hàng lậu, bị Trung Quốc bắt giữ mất cả tàu. Toàn bộ thiết bị dưới nước ngày một xuống cấp. Còn về chuyện khoán sản xuất kinh doanh cho các đơn vị trên bờ, chánh văn phòng Điều đi đâu cũng bô bô:

- Đéo biết còn đỡ tức. Càng biết càng điên! Vụ cá ngừ đấy. Đưa cho ông Tạp xưởng lạnh 150 triệu, mua mười tám nghìn một cân, xí nghiệp giả hai mươi hai không bán, bán cho thằng Mềm mười chín, mà đéo phải mười chín đâu. Tôi bảo thanh tra mày cần xe ô tô lên Bắc Thái, tao cho. Chuyến này phải làm cho ra nhẽ. Số cá thằng cha Tạp bán cho Bắc Thái bao nhiêu, lãi nộp Liên hợp hết. Thế là phải lòi ra. Chỉ có mỗi mình ông Tạp ăn. Địt mẹ thằng Mềm, cái thằng ngồi nhà cân. Đi đái thì ngã ở nhà đái. Bây giờ cũng xe cúp vè vè. Các ông đến nhà thằng Mềm chưa nhỉ. Xa lông sang hơn xa lông này. Tủ lạnh cực điệu. Dàn năm thớt. Như ông hoàng. Lại còn thằng Tiêu. Tôi vừa nẹt: Ông là tổ trưởng thu mua. Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo. Ông bật đèn xanh cho chúng nó làm trái quy định của xí nghiệp. Thằng này khôn lắm. Tổng giám đốc bảo gì cũng vâng. Vâng để đấy. Về làm nhảm. Năm sáu cái cửa hàng nuôi nó. Béo trắng ra. Cửa hàng con Chưng vốn chín tháng đầu năm một tỉ mốt. Thanh tra lãi mười tám triệu, trừ chi phí chín triệu còn lãi ròng chín triệu. Bây giờ khách hàng còn nợ 156 triệu, nó nợ xí nghiệp 68 triệu. Tóm lại là âm. Tỉ mốt gửi ngân hàng cứ cho lãi bốn phần trăm một tháng thôi 1 , chín tháng là bao nhiêu? Bao nhiêu lần chín triệu? Lại còn cái thằng Bính lạnh, phó giám đốc gì mà trông như thằng ăn mày. Nó bảo chỉ có bảy mươi ki lô cá xuất khẩu. Tôi bảo đéo được. Tổng giám đốc cho anh năm mươi triệu mua cá xuất khẩu sao anh lại mua cá kém phẩm chất. Mà ai xác nhận cho anh là chỉ có bảy mươi ki lô cá xuất khẩu. Địt mẹ nói thế là không xong đâu.

Không chỉ vì những chuyện làm ăn nát tươm ra, anh em nói sếp Thắng có rất nhiều đối thủ vì dù sao cái Biển Đông phí cơm (anh em gọi chệch chữ BienDongFiscom) này vẫn là một chỗ thơm, hái ra tiền, một trong những đơn vị còn có thể cựa quậy được, làm ăn được. Những đối thủ có sừng có mỏ sẵn sàng hạ gục sếp, cho dù sếp có một ô dù vững chãi: Đại ca. Nhưng Đại ca hình như cũng đang gay. Cái tin Đại ca đang gay nghe chừng mơ hồ lắm. Khó tin. Đại ca ở nấc thang vòi vọi làm sao gay được. Những người hay bàn tán thường có những dẫn chứng rất độc, đưa ra những chi tiết không ai biết, và rất thú vị khi người nghe ngồi im phăng phắc hoặc xuýt xoa:

- Đại ca của sếp có vấn đề lý lịch. Trong kháng chiến chống Pháp, bố đại ca là cai thầu chuyên xây boong ke, lô cốt cho quân đội Pháp. Năm năm tư hòa bình lập lại bố đại ca đi Nam, đại ca ghi trong lí lịch là bố mất tích. Bây giờ người ta mới phát hiện ra.

- Khuya rồi. Việc ấy khuya rồi. Ông không biết rồi. Lạc hậu rồi. Công khai lâu rồi. Mới cách đây mấy tháng bố đại ca mất. Từng đoàn từng lũ rặt các kễnh bay vào

thành phố Hồ Chí Minh viếng và đưa tang. Mấy trăm người. Một bao tải phong bì đem đi đốt. Ông thử tính xem mỗi phong bì bao nhiêu triệu?

- Không có tiền Việt đâu. Đô. Toàn đô.

- Bố đại ca mới chết à? Thật không?

- Sao lại không thật. Chính ông chú tôi làm đại sứ mới về Hà Nội cũng vào thành phố Hồ Chí Minh viếng mà.

- Đấy rồi ông xem. Đại ca cao vòi vọi thì lại có những đối thủ cao vòi vọi. Những bậc đại cao thủ không kém đại ca. Các ông cứ để ý xem. Dạo này sếp Thắng hay cáu gắt, rất khó tính.

Những chuyện ấy đến tai Toàn. Toàn nghĩ điều ấy chẳng liên can gì đến mình. Sếp nào cũng vậy. Cò con như phó văn phòng công tử Nhương đây thôi. Thanh tra đã định thanh tra quà Tết vừa rồi. Nhưng Điều gạt đi. Điều kể cho Toàn nghe tất cả:

- Tết vừa rồi ông biết đấy. Mình vào thành phố Hồ Chí Minh ăn Tết với con gái. Giao cho công tử Nhương trực. Thế đéo nào mà ông ấy báo cáo chỉ có bảy đoàn đến chúc tết, chỉ có bảy túi quà có vô lý không? Xí nghiệp đầu ngành. Vào Nam ra Bắc. Đi nước ngoài quanh năm. Thanh tra nó bảo ông Nhương với bà Nga làm giàu cái tết này. Năm chục đoàn là ít. Nó định thanh tra. Tôi bảo thôi, cho qua. Thiên hạ kiếm nhiều chứ nó kiếm mấy. Đấy là nó chưa biết cái vụ mua sắm bàn tủ cho nhà khách. Ông Nhương với bà Nga chụm đầu tính toán suốt một tuần mới xong. Có gì mà phải tính lâu thế. Mua thì lấy hóa đơn rồi thanh toán mà phải cộng cộng trừ trừ cả tuần lễ. Tha cho thì được đấy thôi. Với lại chúng nó ăn nhiều chứ hai người ấy ăn là mấy...

Đúng là hai người ấy ăn là mấy. Nhưng đấy cũng là một cửa. Một cửa làm ăn. Một cửa để sống. Có lẽ vì cái cửa của mình hẹp quá so với các trưởng phòng và cũng có thể do một ức chế nào đấy lặp đi lặp lại quá nhiều lần nên trước tết, nhận được công văn trên gửi về nghiêm cấm các đơn vị lấy tiền quỹ mua quà biếu cấp trên. Điều đọc công văn, hầm hầm nét mặt:

- Công văn nhắc nhở đây. Bố biết rồi. Không phải nhắc. Giả vờ giỏi đến thế là cùng. Năm nào cũng có công văn cấm. Năm nào cũng biếu. Năm nào cũng nhận. Rồi lại có chỉ thị cấm. Tài thật. Giả vờ siêu hạng. Giả vờ mà như không giả vờ gì cả. Thế mới thánh.

Rồi đọc to một câu đinh, một câu chốt trong công văn:

- "Nghiêm cấm các đơn vị không được lấy tiền quỹ mua quà biếu cấp trên".

Và vừa như nói một mình vừa như nói với người vô hình nào đó đang đứng trước mặt:

- Bố không lấy tiền quỹ mua quà biếu. Mà bố cho thẳng tiền quỹ vào phong bì đem biếu. Bố đéo mua quà. Bố đéo vi phạm. Bố lấy tiền quỹ cho thẳng vào phong bì.

Điều kể Điều và phó tổng thứ nhất đã bao nhiêu lần đem phong bì đi biếu như thế nào: Cho phong bì vào bó hoa. Đến nhà các sếp là chỉ có tặng hoa. Thế thôi. Bà vợ ông chủ tịch đỡ bó hoa còn cười nói với hai người:

- Đội hình các bác đẹp quá. Hai bác bác nào cũng đẹp.

Điều cười:

- Dạ. Báo cáo thủ trưởng chúng tôi là đội hình mẫu đấy ạ. Chứ anh em thì cũng gầy còm, bình thường thôi.

Điều giải thích cho Toàn: Mồng một tháng năm, mồng hai tháng chín, tết tây tết ta, năm nào cũng biếu nên thân quen, tôi cứ bỗ bã như thế cho thân mật. Con béc giê trông thấy bọn tôi còn vẫy đuôi mừng cơ mà! Thân quen đến mức thấy phòng khách đông người là cùng chủ nhà đem thẳng hoa vào bếp. Chứ đứng chờ à? Có đến đêm. Đông lắm. Xếp hàng. Nói xếp hàng thì không đúng, nhưng mặc nhiên thống nhất với nhau thằng đến sau chờ thằng đến trước ra rồi mới vào. Cứ tản ở các ngã ba, ngã tư gần đấy. Chờ. Kín nền nhà bếp toàn hoa. Ông tính xem bao nhiêu bó. Bao nhiêu cái phong bì?

Lại văng tục:

- Địt mẹ. Mình đi biếu thành phố chẳng xơ múi gì. Thằng chánh văn phòng ủy ban đi biếu các bố nó ở Hà Nội vớ bẫm. Phong bì hai nghìn đô nó bớt mẹ nó năm trăm. Ba nghìn nó bớt hẳn một nghìn. Chả lẽ mang danh các kễnh lại điện xuống hỏi à? Mà các kễnh ông đâu nhận. Chỉ các kễnh bà thôi. Mỗi lần đi, đâu ít phong bì. Một năm bao lần đi. Mà nó làm thế mấy chục năm rồi. Cũng cài phong bì vào hoa. Cũng quen hết béc giê. Ông tính xem nó có bao nhiêu tiền? Thằng con giai nó mới mua cái Mercedes mới cứng. Cũng cáo lắm. Về hưu mới cho con mua xe, xây nhà. Mình chén nước cũng chẳng được. Với lại thời gian đâu mà uống nước. Mà uống làm đéo gì. Vào nhanh còn ra để thằng khác vào chứ.

Rồi như sực nhớ ra một chuyện, Điều cười lớn:

- Hôm nọ đang ngồi uống bia ở cái quán gần nhà sếp tổng với Quân rỗ, thấy thằng cha Nguyên thuyền trưởng tàu 19 mới về, phóng xe máy đèo một túi to đi qua rồi quành vào nhà sếp. Thế là chờ lúc cha Nguyên vừa xuống, mình ập vào luôn. Sếp ông vội đút cái phong bì cầm trên tay vào túi quần, sếp bà đang giở các thứ trong gói ra xa lông. Thấy mình đến, Hoàng Quốc Thắng bảo vợ: Kiếm cái túi san cho chú Điều tí quà. Thế là trấn được của sếp. Sướng!

Toàn bật cười:

- Được những gì?

- Mấy thứ vớ vẩn thôi. Chai Remy, gói bánh, hộp sâm, cây ba số. Mình định bảo: Em không nhận những thứ này. Chỉ xin sếp một tờ trong cái phong bì ở túi quần sếp thôi ạ.

Rồi tiếp sau một lúc:

- Lão ấy cũng ngán tôi lắm. Định thay mấy lần nhưng không tìm được người. Với lại cái chức chánh văn phòng này chẳng đứa nào thiết. Lại đầu sai, bổng lộc chẳng đến lân...

Nói vậy thôi, dù sao Điều cũng còn có cửa. Toàn hay Mẫn hay đông đảo đám nhân viên khác chẳng có cửa gì. Toàn thân với Mẫn có lẽ ở chỗ Mẫn chẳng có cửa gì mà vẫn cứ tươi hơn hớn. Ớ văn phòng công đoàn Toàn thân với hai người: Mẫn và phó chủ tịch công đoàn Trịnh Vân. Vân cũng trạc tuổi Mẫn, ngoài bốn mươi. Đã lăn lộn ở chiến trường "Bê ba", ăn cả lá bèo tây non và chôn không biết bao nhiêu đồng đội. Đã làm thủy thủ, làm thuyền phó, có biết bao nhiêu hiểu biết về ngành nghề "về cái khốn nạn của nghề đánh cá". Câu chuyện làm Toàn xúc động nhất là chuyện Vân hành quân vào Nam. Đó là những ngày ngừng bắn trong dịp Tết nguyên đán. Khi sắp vượt sông, anh em tân binh móc túi ném hết tiền lại cho đám thanh niên xung phong hai bên đường. Những đồng bạc cụ Hồ, những tờ "cụ mượt" bay như cánh bướm. Những đoàn xe sang sông với tất cả khí thế hào hùng nô nức như đi trẩy hội. Vì như chính ủy đã nói: Phải ngày đêm hành quân để kịp tới chiến trường trước khi hòa bình, trước khi chiến thắng. Vào chậm, chỉ còn mỗi việc thu nhặt ống bơ gỉ, tháo gỡ dây thép gai thôi. Chẳng còn địch đâu mà đánh. Xe trước hát vang: Giải phóng miền Nam chúng ta thề quyết tiến bước. Xe thứ hai tiếp theo hào hùng: Diệt đế quốc Mỹ phá tan bè lũ bán nước. Xe thứ ba tiếp lời: Ôi xương tan máu rơi, lòng hận thù ngút trời... Cứ như vậy hành quân. Quang cảnh chiến trường ác liệt hiện rõ dần theo từng cung đường, từng cánh rừng dù vẫn bặt im tiếng súng. Những hố bom sâu hoắm. Những cánh rừng bị băm nát. Những cô thanh niên xung phong xanh xao, khô xác, áo quần tả tơi dừng mọi công việc nhìn những chàng tân binh tươi trẻ, hồng hào non mỡ, mắt sáng lên không giấu nỗi thèm khát, giơ tay làm những cử chỉ tục tĩu. Có cô còn lấy xẻng úp vào chỗ ấy. Một chàng tân binh ngỗ ngược bẻ một cành phi lao chọc mạnh vào giữa hai đùi một cô. Cô thanh niên xung phong kêu lên, ngã vật xuống đường. Người chỉ huy đơn vị thanh niên xung phong, một nam thanh niên, từ đâu chạy ra, súng lục nhăm nhăm giang tay chặn đầu ô tô, hét lên đầy căm phẫn:

- Tất cả dừng lại! Lập biên bản!

Cậu tân binh dại dột nọ mặt tái mét. Đoàn xe buộc phải dừng bánh. Thiếu tá chỉ huy bước rất nhanh lên đầu hàng quân, hạ lệnh đanh thép:

- Toàn đơn vị tiếp tục hành quân vào Nam! Tiến! Ai cản trở, bắn bỏ!

Người đi. Xe đi. Chẳng ai dám cản trở. Nhưng không một tiếng nói. Không một tiếng cười. Im lặng nặng nề. Càng im lặng hơn, nặng nề hơn khi đoàn quân nghỉ giải lao gần một nghĩa trang. Nghĩa trang đầu tiên trên dải Trường Sơn sắt thép và máu lửa. Như có một lực hấp dẫn, tất cả lính tráng tạt vào. Toàn tên con gái. Toàn lứa tuổi mười bảy, mười tám. Gần như cùng một năm sinh. Hồng, Nụ, Lan, Liên, Hà, Thương, Thoa, Hương, Hiền, Hạnh, Bấm, Mơ, Nguyệt, Nga, Ngân, Bích, Thúy, Vân, Tuyết, Trang, Hòa, Bưởi, Ngọt... Những tên dịu dàng mềm mại chỉ muốn được gọi lên, được trìu mến vuốt ve. Những tên ghi trên mộ chí ngút tầm con mắt mà nhìn nó ai cũng nghĩ đến một lớp thiếu nữ tuổi thanh xuân phơi phới từ khắp mọi miền đất nước, nằm bên dưới đang rữa nát vĩnh viễn lặng câm như đất...

Phải chăng em cô gái mở đường

Không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát

Ơi những cô con gái đang ngày đêm mở đường

Hỏi em bao nhiêu tuổi mà sức em phi thường

Em đi lên rừng cây xanh mở lối

Em đi lên núi núi phải cúi đầu...

Tiếng hát trên loa truyền thanh thời còn cắp sách đến trường vang lên bên tai Vân. Tiếng hát hào hùng thúc giục, rộn rã, tươi vui phơi phới...

- Bài hát thật hay. Có sức động viên rất lớn. Khi còn ở nhà em rất thích bài hát này. Nhưng lúc ấy em chỉ ao ước giá ông nhạc sĩ sáng tác bài hát ấy có mặt cùng với chúng em ở đó. Yêu biết bao cô gái vui ngày đêm mở đường. Rừng bao hoa thắm nở chẳng có hoa nào bằng. Em đi san rừng em đi bạt núi. Em như con suối nước chảy không ngừng...

Vân vừa nói vừa nhăn mặt, lắc đầu như mếu:

- Bác đã lăn lộn Trường Sơn mãi, còn lạ gì nữa. Chiến tranh có phải hội hè đâu. Nhìn cái nghĩa trang đầu tiên ấy, tất cả chúng em ai cũng chùng xuống, nghĩ về người, nghĩ về mình, nghĩ đến mẹ già, đến những đứa em thiếu thốn đủ thứ ở quê nhà. Trên đường hành quân còn không biết bao nhiêu nghĩa trang nữa.

Toàn đánh giá cao sự hiểu biết xã hội và nhất là sự trung thực của Vân trong đối xử với mọi người, trong sự đánh giá xí nghiệp và xã hội. Vân cũng kính trọng Toàn ở những điểm ấy và còn ở tuổi tác nữa. Mấy năm vừa rồi Vân cố cày lấy cái bằng kinh tế. Toàn động viên Vân:

- Còn ít tuổi như chú tội gì ngồi ở đây. Đói lắm! Chỉ có lỡ cỡ quá tuổi như mình mới chịu ngồi đây thúc thủ Hạ Bì thôi.

- Em cũng cố đây. Làm cái nghề phong trào của anh em mình không ra làm sao. Tháng sau thi xong. Cuối năm nhận bằng là em phới. Em đã ướm các sếp rồi. Các sếp đồng ý cả.

Toàn rất quý Vân. Có lẽ Vân là người tri kỷ duy nhất trong xí nghiệp. Vân biết rất nhiều chuyện. Thuyên chuyển, đề bạt, dây nhợ, mâu thuẫn, ai núp dưới bóng cây Kơ nia của ai. Vân bảo:

- Mau mau tìm đường thôi anh ạ. Chúng nó làm ăn tơi tới, xây nhà đi xe máy, mình cứ thế này chết cả!

Thỉnh thoảng trong những khi lang thang vô mục đích, cốt để tránh xa cái bàn hộp phủ tấm kính năm ly bóng loáng kia ít phút, Toàn lại rẽ vào phòng Vân. Ây là những lúc chỉ có một mình Vân ngồi với quyển sách học tiếng Anh hay đang cày một báo cáo nào đó cho chủ tịch công đoàn, dù đang làm gì Vân cũng dừng công việc lại, đổ bã, tráng ấm chén, pha ấm trà mới.

Có khi chẳng nói chuyện gì, chỉ nhìn nhau lắc đầu rồi cùng cười. Nụ cười đồng điệu hài hước nhưng ra nước mắt. Toàn nhìn hai cái bàn không người bên cạnh. Hiểu ý, Vân nói:
- Đi rồi. Anh lên liên đoàn. Chị xuống cơ sở.
Thế là Toàn có thể yên tâm ngồi đấy. Anh đây là Xuân trố hay Xuân lồi cũng thế, người đang hy vọng được là cán bộ kế cận. Chị đây là bà Phương, năm năm nay bà vẫn năm mươi ba tuổi nên gọi là đứng tuổi, và vẫn còn đang chuẩn bị về hưu, vẫn tuyên bố với Vân: "Hai năm nữa về hưu. Đúng tuổi là về. Nhường cho lớp trẻ. Một ngày tớ cũng không ở lại".
Chú thích:

1.

Trong những ngày lạm phát đại phi mã lên tới 3 con số những năm 90 thế kỷ trước, ngân hàng nâng cao lãi xuất để’ thu về tiền mặt.

Ngã Sáu 2005-2007
Bùi Ngọc Tấn
Dịch giả: Dương Tường
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cây nghiêng bóng thẳm

Cây nghiêng bóng thẳm Sim ngồi đầu hiên chải tóc cho mẹ mà mắt không thôi ngó cây sấu già trước nhà. Cây sấu này Sim nhổ ở hàng rào nhà ng...