Biển và chim bói cá 3
IV
Bà Phương đi cơ sở, hay đi liên đoàn, hay vào nhà trẻ... hoặc
đi đâu đó, hoặc khi ngồi bàn làm việc, bao giờ trên bàn cũng có một quyển sổ bà
tự đóng, để nguyên cỡ thếp giấy học trò có dòng kẻ. Quyển sổ ấy lúc nào cũng để
mở, bà đã kẻ thành biểu với những mục: Số thứ tự, họ và tên, đơn vị với những
tiêu đề SKSS (Sức Khỏe Sinh Sản) mà anh em xuyên tạc là Sau Khi Sung Sướng, và
KHHGĐ (Kế Hoạch Hóa Gia Đình) được mọi người đọc thành Không Hối Hận Gì
Đâu. Trang ghi tên chị em đăng ký hoãn đẻ con thứ hai, trang ghi danh sách
nữ công nhân là lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, những tổ viên tổ lao động
xã hội chủ nghĩa toàn nữ (do Toàn cung cấp, một năm vài lần nhà thi đua được
bà mời sang làm việc về những danh sách này để báo cáo lên cấp trên hoặc chuẩn
bị cho các hội nghị công đoàn, nữ công - chính vì vậy mà Toàn luôn có tên trong
số ít những người được thưởng mạng lưới của công đoàn, phần thưởng là
những cái khay sắt tráng men tròn đựng chén tách, vợ Toàn tích lại được một chồng,
đem đựng bún, đựng rau sống những hôm ăn tươi, nhưng cũng có một lần mạng
lưới được thưởng mỗi người một cái cặp lồng, vợ Toàn dùng mang cơm đi ăn
trưa ở chỗ làm, bỏ được cái ca sắt tráng men ở nhà, trong thời văn hóa cặp
lồng thật là giá trị).
Thường thường biểu được điền trên dưới chục dòng gì đó và rất
ít khi kết thúc, rất ít khi cộng biểu. Cũng như bao giờ biểu cũng được để mở giữa
bàn, khi bà đi vắng có một cái thước to chặn ngang. Nắng nóng lâu ngày, những tờ
giấy mở dù có thước chặn vẫn quăn cả lại.
Còn trên bàn Xuân trố chỉ có một chồng báo. Đủ các loại. Hàng
ngày. Hàng tuần. Chuyên san chủ nhật. Nhân Dân. Quân Đội. Lao Động. Tiền
Phong. Tuần tin tức. Thể thao Văn hóa. Bảo thành phố. Bảo An Ninh. Xuân đi
đặt báo và xin cho mình một tiêu chuẩn. Xuân coi đây như một thắng lợi to lớn về
mặt chính trị. Được tiêu chuẩn báo riêng đầy đủ như thế có thể đếm trên đầu
ngón tay: Tổng giám đốc, các phó tổng, bí thư đảng ủy, chủ tịch, phó chủ tịch
công đoàn, chánh văn phòng. Toàn phụ trách thi đua tuyên truyền cũng chỉ được
hai tờ báo hàng ngày: Tờ Nhân Dân và tờ báo địa phương.
Chồng báo ấy nâng cao uy tín của Xuân trước anh em đi tàu.
Anh em gọi Xuân là trưởng ban tuyên giảo và xin báo về tàu đọc. (Mỗi
tàu chỉ được một tờ Nhân Dân thôi. Tờ báo về tới tàu là biến đi đâu mất
tăm, có khi chưa ai kịp đọc đã đem đi gói. Mà dưới tàu có nhiều thứ cần gói lắm.
Thấp nhất là con cá. Rồi đến bộ quần áo. Loại cao cấp hơn là bánh xà phòng
thơm, chiếc xích xe đạp, quả táo tây, thứ quả ở Việt Nam ít người được trông thấy,
được sờ vào, thứ quả hình dáng màu sắc hương thơm thật kỳ diệu như quả táo ở
thiên đường mà ông Adam và bà Eva nhìn thấy mà cầm lòng chẳng đậu).
Số báo cũ này khiến Xuân được anh em dưới tàu mến, có lợi cho
Xuân trong đại hội công đoàn tới nếu Xuân được các sếp coi là cán bộ kế cận, giới
thiệu cơ cấu chấp hành. (Xuân rất hiểu tầm quan trọng của cơ cấu và hay lẩm nhẩm
một danh ngôn: "Cả đời phấn đấu không bằng cơ cấu một giây"). Đó là
chưa kể có báo, anh em không quên Xuân. Tàu về thế nào cũng có tí quà. Có cán bộ
tàu thuộc loại chiến hữu của Xuân còn được Xuân cho hàng ki lô báo về gói cá,
gói quà nữa cơ mà. Đấy là cả một kho báo cũ của chủ tịch công đoàn mà tình cờ mở
tủ tài liệu của đồng chí chủ tịch, Xuân đã phát hiện được. Thì ra đồng chí chủ
tịch không đọc một tờ báo nào. Chính tay Xuân đưa báo cho sếp, Xuân biết. Trên
cùng là tờ Nhân Dân, rồi tờ Quân Đội, thứ ba là tờ báo địa
phương. Ba tờ báo hàng ngày Xuân xếp đúng thứ tự như vậy. Rồi đến những báo định
kỳ cũng theo thứ tự: Lao Động, Thể Thao Văn Hóa, Tuần Tin Tức, An Ninh. Té
ra cụ không đọc. Cũng không giở ra. Gấp đưa cho cụ thế nào
vẫn cứ y xì thế ấy. Đúng thứ tự thế ấy.
Triệt để phát huy thế mạnh của mình là báo, Xuân chịu khó đọc
và nhớ (Xuân có trí nhớ tốt) những mục Chuyện lạ đó đây, những con
chó Ăng lê được thừa hưởng một gia sản kếch sù hàng chục triệu bảng, những cuộc
thi ăn ở Mỹ, những tin tức thời sự về Ceausescu, về Gorbachev, Yeltsin và Liên
Xô đang khôi phục chủ nghĩa tư bản. Anh em tàu, những người vốn rất lạc hậu với
tình hình chỉ biết há mồm nghe.
Kế hoạch lọt vào hàng ngũ kế cận của Xuân còn một việc nữa:
Xuân không quên khối trên bờ. Dăm bữa nửa tháng một lần, Xuân lên sở văn hóa mượn
những phim bị tịch thu, bị cấm về chiếu hẹp cho cán bộ chủ chốt đơn vị xem.
Ngày ấy những phim xếch nặng xếch nhẹ đều là của lạ, của độc. Và việc
được nằm trong số ít người đóng cửa lại xem những phim cấm, tạo cho người ta một
cảm giác được tin cậy, một sự hơn người và có cảm tình với Xuân.
Ngoài ra Xuân còn có một quyển sổ dày. Bây giờ người ta toàn
dùng sổ lịch, bìa ni lông in ảnh tuyệt vời, Xuân vẫn dùng quyển sổ thời nảo thời
nào, bìa các tông cứng dày đã sờn mòn, trong đó Xuân ghi những dòng chữ nhỏ li
ti và họa hoằn Xuân giở quyển sổ ra tra cứu rồi lại gấp vội cho vào tủ, khóa
kêu canh cách. Không ai biết Xuân ghi những gì. Quyển sổ ấy Xuân giữ kín như
đàn bà thấy tháng vậy.
° ° °
Hôm nay Toàn lại lảng vảng qua văn phòng công đoàn. Liếc nhìn
vào, chỉ có một mình Vân. Thế thì phải rẽ vào thôi. Ngồi với Vân còn có cái yên
tâm khi các thủ trưởng đi qua, cứ như mình đang trao đổi công việc vậy. Ai chả
biết giám đốc là chủ tịch hội đồng thi đua, còn công đoàn là phó. Cùng cánh
phong trào ngồi với nhau, trao đổi, xin ý kiến, ai dám bảo mình ngồi chơi, ai
dám bảo mình không phải là làm việc! Chưa ngồi ghế vội, hãy đứng xem cái bảng Đi
bảo việc về báo công treo trên tường cái đã. Rồi quay lại hỏi Vân:
- Lên Liên đoàn lao động thật đấy à?
Vân biết Toàn nói tới ai và chỉ tay về phía cầu cảng:
- Về rồi. Nhưng xuống tàu ngay. Tàu 19 về hôm qua. Phải xuống
để hỏi xem chủ nghĩa tư bản giãy chết như thế nào chứ.
Rồi cười. Lại lắc đầu:
- Sắp về đấy. "Lên Liên đoàn lao động" lâu rồi.
Quả nhiên một lúc sau Xuân trố xuất hiện ở một đầu hành lang.
Tay phía trong giáp bờ tường, nơi trổ một dãy cửa sổ của các phòng làm việc lúc
nào cũng có những cặp mắt lơ đãng hau háu nhìn ra, cánh tay phía trong ấy vung
vẩy hơi mạnh, hơi quá mức bình thường để che đi cánh tay phía ngoài thõng xuống
xách cái túi ni lông màu hồng in hoa rất đẹp, vai phía ngoài cũng lệch đi để hạ
thấp túi xuống dưới bậu cửa sổ, dưới tầm quan sát của những người đang nhìn ra
cửa sổ. Bình thường Xuân trố có dáng đi rất đặc biệt. Nhanh. Tay vung vẩy. Bàn
chân sệt sệt đất hơi đá ra phía trước, nghe rõ tiếng dép lê quét đất sệt, sệt,
sệt, sệt. Và mắt bao giờ cũng nhìn thẳng. Rất thẳng. Như đang có việc rất gấp.
Rất bận.
Lúc này Xuân càng đi nhanh hơn. Tới cửa sổ phòng mình, Xuân
liếc nhìn, chuyển cái túi về tay giáp tường, để nó ở vòng cua phía trong kín
đáo hơn, lượn qua cửa và đi thẳng tới chiếc tủ đứng của Xuân. Toàn và Vân cúi đầu
như đang chăm chú vào chén trà, không để ý gì đến chung quanh. Xuân móc túi quần,
lấy chìa khóa xoay hai vòng cách cách, mở tủ vất túi vào, rồi xoay hai vòng
cách cách khóa lại và tất bật ra đi không nói một lời. Sệt, sệt, sệt, sệt.
Vân và Toàn rời chén nước trà nhìn thẳng vào mắt nhau. Cười.
Khẽ thôi. Nhưng thành tiếng. Vân bảo:
- Thế là biết tư bản giãy chết thế nào rồi đấy.
Ai cũng biết cái túi Xuân xách về là quà của tàu HL19. Ngoài
túi quà chung cho từng đơn vị mà cô Phòng cực lực lên án là bình quân chủ
nghĩa, còn có những suất quà riêng như vậy. Có thể của tàu. Có thể của một người
nào đó quen mình, thông cảm với khó khăn của mình. Cũng có thể là một món bố
thí để tống khứ những vị khách không mời mà đến cứ ngồi ám suốt cả buổi trong
khi mình còn không biết bao nhiêu hàng phải bồng lên, phải bông hoa nhỏ, phải
đối phó với hải quan với công an, phải làm việc với họ... Trong những
túi như vậy có thể có bánh xà phòng, lon bia, cái líp, cái xích xe đạp, hoặc lọ
dầu xanh. Cũng có khi là món quà đặc biệt giá trị làm mọi người phát thèm: Một
đôi giày da cũ. Đôi giày ấy xỏ vào chân đi dọc hành lang, rõ ràng mình đã thay
đổi hẳn về chất, trở thành một người sang trọng, lịch sự, có văn hóa, đi đứng rất
tự tin, ai cũng phải nhìn: "Giày Hong Kong đấy hở. Đẹp quá nhỉ?"
Xuân đi được một lúc có tiếng gõ của cá sắt xuống nền đá hoa
từ xa vọng lại. Tiếng gõ nhanh, nhẹ, trong, dòn, đập vào thính giác nghe hơi
ghê ghê. Cốp, cốp, cốp, cốp. Tiếng guốc có cá sắt quen thuộc của bà phụ trách nữ
công. Cả hai biết bà đã đi cơ sở về. Xuân trố và bà Phương cùng đi nhanh như
nhau, mắt cùng nhìn thẳng về phía trước như nhau nhưng bước chân của Xuân trố sệt
đất, còn bà Phương nhấc chân cao nên mới có tiếng cốp cốp đanh giòn như thế.
Hai người bạn ngồi nhìn nhau làm ra vẻ khiếp hãi. Khác với
Xuân khi vào cũng như khi ra không nói một lời, vừa đặt chân tới cửa, bà Phương
đã nói to:
- Học sinh tiên tiến ba năm liền được thưởng đây!
Tiếng vang lanh lảnh như tiếng rao tào phớ đây! vậy.
Không thấy ai nói gì, bà lại nói to và vẫn trống không như thế:
- Năm nay là năm chín tư nhỉ.
Vẫn im lặng. Toàn lịch sự trả lời:
- Vâng. Năm nay là năm chín tư.
Bà ngồi xuống bàn, nhấc cái thước chặn ngang quyển sổ, lật
sang trang, kẻ một cái biểu mới, vừa kẻ vừa nói:
- Niên học 91-92, 92-93, năm nay là niên học 93-94 nhỉ. Đúng
rồi.
Tay viết. Miệng méo đi theo từng nét chữ. Rồi lại vừa viết vừa
hát khe khẽ: "Trèo lên quản dốc ngồi gốc ơi a cây đa rằng tôi lý ới a cây
đa. Rằng tôi lới ới a cây đa. Ai xui ý a tính tang tình rằng cho đôi mình gặp,
xem hội cái đêm hôm rằm..." Và buông bút nhìn hai người:
- Này. Tôi mới mua băng dân ca quan họ Bắc Ninh. Nghe thích lắm. Người
ơi người ở đừng về này. Tình bằng có cái trống cơm này. Rồi Trèo
lên quán dốc. Nghe thích lắm.
Thế nghĩa là trong số những tài sản có giá trị ở nhà bà đã có
cái cassette. Không biết một cửa băng hay hai cửa băng nhưng rõ ràng là một tài
sản giá trị. Đó là mơ ước của Toàn và của không biết bao nhiêu người. Là thi
đua, Toàn đã được sử dụng một cái để phát thêm ca nhạc vào buổi phát thanh và đến
khổ vì nó. Hãng Sharp, một cửa băng. Đám cưới nào cũng có người hỏi mượn, mà nội
quy là không được cho ai mượn. Toàn chỉ một lần cho Vân mượn dùng trong đám cưới
cậu em vợ và một lần liều mang qua cổng bảo vệ về nhà, để vợ con được nhìn thấy
sáng chế xinh đẹp gọn gàng kỳ diệu này của người Nhật. Cả nhà quây quần xúm xít
quanh cái đài. Đêm ngủ, Toàn để ở đầu giường trong màn, hai vợ chồng nhỏm dậy
nhìn những đốm sáng màu đỏ tươi trong như hồng ngọc nhấp nháy. Rồi nghe Thanh
Tuyền nho nhỏ nỉ non. Mỗi năm đẽn hè lòng man mác buồn. Chín mươi ngay qua
biết bao tình thương. Màu hoa phượng thắm như máu trong tim... Không biết
cái cassette của bà Phương nhãn hiệu gì? Bà Phương cắm cúi viết. Im lặng. Miệng
chúm lại. Chưa được một dòng đã ngẩng lên hỏi to:
- Con chú Vân năm nay là học sinh tiên tiến à? Tên gì nhỉ? Trịnh
Thị Thu Hương à? Lớp 6 hở? Ba năm liền hở?
Rồi vừa ghi vừa lẩm bẩm:
- Ba năm liền. 92. 93. 94.
Lại nói to như người đang phát biểu trong hội nghị, nói với tất
cả mà không nói với một ai:
- Xuống cơ sở làm việc xong, tranh thủ ra bưu điện lấy báo
cho cậu Mẫn. Con nó ốm. Nó xin phép Vân rồi hở. Nhưng báo Nhân Dân hôm
nay chưa về. Báo chí phải được đọc ngay chứ để vài hôm mới đọc một thể còn nói
làm gì. Thế nào gọi là tin sốt dẻo.
Bỗng bà hạ giọng như tâm tình một chuyện gì thích thú lắm,
không thể để trong lòng:
- Hai ông này. Bưu điện bây giờ diện lắm nhé. Ôi giời ơi. Má
phấn môi son hết. Họ có tiêu chuẩn cả đấy. Được may áo dài quần trắng. Được cấp
tiền son phấn. Lên bưu điện chính lịch sự lắm. Các cô quần chùng áo dài duyên
dáng lắm. Chỉ ở bưu điện chính thôi. Còn bưu điện quận đây chưa đâu. Vẫn bình
thường thôi. Tôi bảo ở đây triển khai sau cũng được. Bây giờ đang mùa hè nóng bức.
Đường thì bụi. Bụi thế, nóng thế mà phải áo dài, son phấn cũng gay.
Rồi vẫn sôi nổi như vậy:
- Đường bụi nhá. Con đường xuống chỗ mình chỉ còn một khúc
thôi mà không sửa nốt nhỉ. Sửa gần xong. Chỉ còn một tí thì hết kinh phí, để đấy.
Thật chẳng ra làm sao. Lại định bắt các xí nghiệp đóng góp nữa đây. Lần trước
xí nghiệp mình phải đóng góp bao nhiêu Vân nhỉ?
Vân trả lời cho qua chuyện:
- Bốn mươi triệu.
- Xí nghiệp mình bốn mươi triệu. Các xí nghệp khác cũng phải
hai ba chục triệu chứ. Nhà nước và nhân dân cùng làm mà chẳng tính toán gì. Bây
giờ còn một khúc để gần hai năm nay rồi. Cứ đến đấy là phải xuống xe, dắt lên vỉa
hè, chen chúc nhau, toàn bùn với đất. Nắng còn đỡ. Mưa bẩn hết quần áo xe cộ.
Hôm nào cũng có tai nạn ô tô. Chỗ ấy như cái ao rồi. Vừa nãy tôi đi qua thấy một
cái ô tô chở kính lật ngược. Kính vỡ hết. Phải điều xe cần cẩu đến cẩu. Một xe
kính biết bao nhiêu là tiền.
Lúi húi ghi chép đâu được hai, ba dòng trong tờ biểu KHHGĐ Không
Hối Hận Gì Đâu, bà lại:
- Chỉ thiệt nhà nước. Tiền đóng góp bốn chục triệu, không biết
đầu tư vào công trình bao nhiêu. Hay là vào túi các ông ấy quá nửa. Chỉ chết những
người lương thiện như anh em mình. Chỉ chúng mình là nghèo. Lương thiện là chết.
Có chức có quyền giàu ngay. Mà người ta bảo không gì kiếm bẫm bằng làm đường
đâu các ông ạ!
Toàn chêm vào một ý kiến ngang cành bứa, trêu ngươi:
- Bà này mất tin tưởng ở trên rồi. Chúng ta có cả một đội ngũ
đầy tớ đông đảo như thế làm sao mà khổ được. Bà không nghe họ nói trên tivi à?
Chúng ta muốn khổ cũng không được.
Bà Phương nhìn Toàn cười, hạ thấp giọng, thân tình hơn:
- Họ ăn kinh lắm. Từ dưới lên trên. Từ trên xuống dưới. Không
ai không ăn. Thằng con tôi chơi với con ông chủ tịch quận, hai đứa cùng học lớp
6 với nhau. Thằng con ông chủ tịch mở tủ lục đồ chơi. Thế nào một hộp rơi xuống
đất. Toàn nhẫn vàng lăn ra khắp nhà. Hai đứa chui cả vào gầm giường nhặt. Tôi
nghĩ đấy chỉ là chỗ lẻ thôi, mới để sơ sài thế chứ...
Toàn đứng lên, cất giọng đanh thép, mắt nhìn về phía xa:
- Chúng ta phải đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ, xây dựng con
người mới. Chống mọi biểu hiện tiêu cực, bè phái, tham nhũng, lời nói không đi
đôi với việc làm. Cái sợ nhất là chúng ta nói mà không làm. Phải rèn luyện, tu
dưỡng vươn lên ngang tầm thời đại. Nhiều vấn đề mới lắm các đồng chí ạ. Như tin
học...
Bà Phương cười trước tiên:
- Đúng. Đúng. Công nhận ông này nhớ thật đấy.
Toàn nghiêm mặt:
- Ngày nào cũng nghe trên tivi. Ngày nào cũng đọc trên báo.
Không muốn nhớ cũng phải nhớ.
Vân đã định không tham gia vào đề tài muôn thuở ấy nữa, cũng
phải phì cười:
- Em nói các bác nghe. Chuyện thật một trăm phần trăm. Một
hôm em đi làm về muộn, về nhà đã bảy giờ hơn, đúng chương trình thời sự. Dắt xe
đến cửa thấy vợ em đang đứng giữa nhà vái lia vái lịa. Nhà em vốn chăm chỉ
hương khói. Người ta thắp hương ngày rằm mồng một. Còn nhà em sáng nào cũng thắp
hương. Em nghĩ bụng quái lạ. Sao hôm nay cô ấy lại thắp hương cả buổi tối nhỉ.
Có giỗ chạp gì đâu. Mà lại quay lưng về bàn thờ, vái đi đâu ấy. Đến lúc bước
vào mới biết thì ra cô ấy đang vái cái tivi. Trên tivi một ông đang nói về nâng
cao đạo đức cách mạng. Ông kễnh ấy nhà em biết quá rõ. Khi còn hàn vi, sáng nào
cũng một chảo cơm rang. Bây giờ không biết bao nhiêu biệt thự.
Ba người cười ầm. Vân trừng mắt:
- Mà nhà em đứng rất nghiêm, thẳng người, vái rất cung kính.
Toàn bảo:
- Chắc là bà ấy vái thần tài. Mong thần tài phù hộ để lộc chảy
vào nhà mình.
Câu chuyện đang có vẻ vào guồng thì Liêu, chủ tịch công đoàn
từ phòng bên bước sang. Một người cũng kém tuổi Toàn, vốn là tổ trưởng sản xuất,
chiến sĩ thi đua nhiều năm liên tục mà lên. Trình độ, năng lực có hạn, giờ đây
nằm trong hàng ngũ lãnh đạo xí nghiệp, cái khổ của Liêu là cuộc họp nào cũng phải
nhân danh công đoàn phát biểu ý kiến. Từ phương hướng sản xuất kinh doanh, xét
duyệt lao động tiên tiến chiến sĩ thi đua, tổ chức học tập nghị quyết, giải quyết
những rắc rối trong khu tập thể,... nói làm sao để vẫn là ý kiến riêng trong
khi mình không có ý kiến riêng nào cả, chẳng lẽ cuộc họp nào cũng chỉ một câu:
Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của đồng chí tổng giám đốc. Đó là điều băn khoăn
trăn trở nhất của Liêu. Điều băn khoăn thứ hai của chủ tịch công đoàn là làm thế
nào cho cái bụng to to lên một tí. Liêu vốn gầy, lại cao, bụng lép. Mà cả ban tổng
giám đốc ai bụng cũng to, ngay chánh văn phòng cũng vậy. Đứng giữa những người ấy,
Liêu trông chẳng có dáng dấp lãnh đạo tí nào. Toàn đã bắt gặp mấy lần chủ tịch
công đoàn đứng trước tủ gương, ưỡn người lấy hai tay xoa xoa bụng, ngắm mình
trong gương, rõ ràng đang khuyến khích động viên cái bụng to lên.
- Hai ông ngồi uống nước hay đang có việc gì đấy?
Với Liêu cùng cánh phong trào thì không cần giấu và không thể
giấu.
- Chúng tôi ngồi chơi thôi.
- Ông Vân sang bên này tôi nhờ một tí.
Hai người đi ra. Toàn định về văn phòng. Bà Phương bảo:
- Ngồi đây đã. Vân nó sắp chuyển rồi. Sắp thoát khỏi đây rồi.
Sang chính quyền. Tôi bảo nó từ năm ngoái, từ mấy năm nay rồi cơ. Mày còn trẻ.
Còn có điều kiện. Tao già rồi. Năm nay hưu. Sang năm hưu. Vài ba năm nữa hưu.
Nhường cho lớp trẻ. Tao chịu. Mày còn sức bật. Ớ đây ăn cám à? Rách lắm. Ai người
ta để ý đến mình. Cứ sang chính quyền, sang kinh doanh là khá. Ông Thường đấy.
Mới sang liên doanh, cửa hàng một năm. Xây nhà ngay. Sắp xong rồi. Chứ lọ mọ ở
xưởng sửa chữa làm gì được. Sáng nào cũng cơm rang mì luộc. Tôi bảo ông Liêu:
Vân nó còn trẻ. Cho nó đi. Công tác tư tưởng ông Liêu mãi đấy. Nói chung ai có
điều kiện thì cho người ta đi. Cả thằng Mẫn nữa. Tìm chỗ mà đi dần đi.
Bà lại thủ thỉ:
- Như mình về là hai bàn tay trắng. Lương mình tất cả các khoản
hơn trăm nghìn. Gạo, rau, chất đốt, tiền điện, tiền nước, bao nhiêu thứ... Tất
cả vào ăn không đủ. Lấy đâu ra xe máy. Cứ bảo chống tham nhũng. Trừ những đứa
trắng trợn lộ liễu thì bị thôi. Còn làm sao chống được. Nó đã thành dây thành
nhợ, thành bè thành đảng có mà giời chống.
Điều ấy đứa bé con cũng biết. Kể cả mấy ông hô hào chống tham
nhũng cũng biết. Nhưng Toàn chỉ cười. Không nói gì. Khi bà Phương mở máy, Toàn
chỉ nghe chứ không góp chuyện, có chăng chỉ là phản đề như vừa nãy.
Bởi Toàn đã bị với bà Phương một vố. Năm ngoái bà có gặp nhà
thi đua bàn việc xin tiền thưởng cho phong trào phụ nữ. Toàn ủng hộ thôi.
Vì thi đua là việc của Toàn. Bà Phương làm một tờ trình, xin trích quỹ khen thưởng
của tổng giám đốc, thưởng phụ nữ xuất sắc, thưởng phụ nữ tiên tiến, thưởng các
tổ, thưởng sinh đẻ có kế hoạch, thưởng mạng lưới (mạng lưới là có cả Toàn đấy).
Tổng số tiền thưởng lên đến ba triệu đồng. Toàn đưa trình tổng giám đốc. Bận
nhiều việc, tổng giám đốc chưa xem ngay. Hôm sau tổng giám đốc vào văn phòng,
ném lên bàn Toàn tờ giấy của bà Phương và quạt Toàn một trận nên thân:
- Ông làm thi đua mà không biết gì cả. Phụ nữ xin tiền thưởng.
Thế thanh niên xin ông có cho không? Thanh niên được, công đoàn phải được. Còn
Đảng thì làm sao? Quần chúng được, đảng viên không được à? Quỹ nào cho xuể. Sản
xuất như thế. Kinh doanh như thế. Thưởng cái gì? Tiền lương còn lo méo mặt đây
này.
Lúc ấy ở văn phòng có mặt bà Phương. Bà đang ngồi trước bàn
chánh văn phòng Điều, xin Điều duyệt văn phòng phẩm. Bà đứng lên giơ tay chém
vào không khí, hưởng ứng chân lý tổng giám đốc vừa nói:
- Đúng! Đúng!
Toàn thấy ơn ớn nơi họng, một cảm giác muốn ói. Khi tổng giám
đốc ra, Điều bảo Toàn:
- Đâu. Đưa xem nào?
Điều xem qua tờ trình, cười:
- Nhảm rồi bà Sau Khi Sung Sướng ạ. Bà có hối hận
gì không hay Không Hối Hận Gì Đâu?
Bà Phương nhận lại tờ trình cười hì hì:
- Cái ông này chỉ nói bậy thôi. Thì cũng tưởng dễ dàng, xin
trích quỹ một ít động viên phong trào. Mình có xin bỏ túi mình đâu mà sợ. Với lại
vẫn thấy khách khứa về là ra Đồ Sơn tơi tới thì tưởng xí nghiệp vẫn có nhiều tiền.
Tiền động viên thi đua sản xuất chẳng hơn tiền ra Đồ Sơn ăn chơi à?
Điều chán ngán:
- Tôi chán cho bà quá. Tiền ra Đồ Sơn ăn chơi còn đẻ ra tiền,
gấp mấy lần chứ không như đồng tiền để các ông bà trao cho hội thi đôi bàn tay
vàng đâu.
Rồi lại bảo:
- Mà ai bảo bà chúng tôi ra Đồ Sơn không dự hội thi hai bàn
tay vàng? Hát karaoke mà không phải dùng đến hai bàn tay vàng à?
Thực sự cùng cánh hoạt động phong trào, Toàn không ghét gì bà
Phương. Toàn chỉ ghê ghê cái dáng đi pắp pắp pắp pắp như máy khâu Mitsubishi
(theo so sánh của Vân), cái cách nói nhanh, nói hết những điều mình nghĩ, từ
đâu xông đến, bất chấp những người có mặt đang nói chuyện gì, đang làm gì, bà
phải xổ ra những ý nghĩ đầy ắp trong đầu, vợi nó đi ngay. Cái hôm Toàn đang cắm
cúi ngồi nháp bảng tin, bà bước vào vừa cười thành tiếng vừa hỏi:
- Ông Toàn này. Tôi đố ông biết người già có sợ chết không
nào?
Bà cười và cố nén những điều làm bà buồn cười lại. Bà còn chờ
Toàn phát biểu đã. Toàn bị cắt ngang dòng suy nghĩ vì lịch sự phải trả lời:
- Có chứ.
Bà cười ngặt nghẹo:
- Hì hì. Già cũng vẫn sợ chết. Về hưu rồi. Bảy mươi tuổi rồi
vẫn còn muốn sống. Ông Sanh già xí nghiệp mình về hưu rồi, ốm nặng ở bệnh viện.
Tôi với anh Thu bí thư lên thăm. Ông ấy đang nằm. Tôi vào bảo: Anh Sanh này,
các anh ấy đến thăm anh đấy. Thế là ông ấy vùng dậy khóc tu tu. Đến buồn cười.
Buồn cười chết được. Thế mới buồn cười. Bảy mươi rồi còn sợ chết.
Và nói sau khi chùi nước mắt, vẫn là trong cái nức lên của sự
buồn cười:
- Hay là đến lúc ấy mình cũng sợ chết nhỉ.
Đấy. Tính cách bà Phương là như thế. Bà rất được anh em tàu
có cảm tình. Thương nữa. Chồng bà cũng là một thủy thủ kỳ cựu, một trong những
người có mặt đầu tiên ở xí nghiệp từ khi mới thành lập. Bà cũng vậy. Bà hay nhắc
đến những ngày đó. Cái thời đi đến xí nghiệp vui như hội, cái thời làm thêm giờ
vì miền Nam ruột thịt chẳng cần nhận thêm lương. Cái thời tập tự vệ bò lăn lê
toài dưới nắng, họp thanh niên ca hát thâu đêm. Cái thời tàu vỏ gỗ ra khỏi bờ mấy
hải lý thôi, buông mẻ lưới nào cũng trăm con cá hồng, thủy thủ mổ cá kêu như vạc.
Những thuyền trưởng thuyền phó nhiều thâm niên ở xí nghiệp vẫn
còn nhớ chuyện chồng bà hy sinh ở Hạ Mai. Hai tàu đỗ liền nhau sát vách núi đá,
máy bay Mỹ bắn cháy tàu đỗ bên ngoài. Nước tràn vào, tàu từ từ chìm, kéo
nghiêng cả tàu bên trong. Một người vọt từ trong khe núi đá nhảy xuống tàu,
dùng rìu chặt phăng dây cáp chằng giữa hai tàu và gục xuống mặt boong. Một tàu
chìm, còn một tàu được cứu thoát. Người thủy thủ gan dạ, dũng cảm ấy là chồng
bà Phương. Anh không bao giờ trở dậy nữa. Một viên đạn xuyên vỡ toang lồng ngực.
Tất cả gánh nặng cuộc sống đè lên vai bà mấy chục năm rồi. Bà
làm hết sức mình nuôi ba đứa con trai, "ba ông hoàng Lào" như cánh
thuyền viên vẫn gọi đùa. Làm thêm giờ. Nuôi lợn. Mua cá vét hầm tàu làm mắm,
đem bán. Xuống tàu xin cá. Anh em tàu bao giờ cũng dành cho bà những con cá
ngon nhất đem về nấu cho ba ông hoàng Lào. Các tàu đi nước ngoài về bến
thấy "chị Phương" xuống "thăm tàu" bao giờ cũng có quà: xà
bông, dầu xanh, cả áo gió, áo rét cho các cháu. Bà còn dành dụm được vài chỉ
vàng gửi mua quạt máy, cassette, tivi... Bây giờ các con bà đều đã tốt nghiệp
trung cấp, đi làm.
Là một người hiếu động, nay không có việc làm, bà rất khổ
tâm. Cố gắng thuyết phục mãi phân xưởng đông lạnh - một phân xưởng lao động chủ
yếu là nữ - mới tổ chức được hội thi hai bàn tay vàng. Lập ban chấm thi. Toàn ở
ban thi đua xuống lấy tin tức thông báo kịp thời từng giờ một trên hệ thống
truyền thanh. Rồi tổng kết, khen thưởng. Nhưng phong trào chỉ lên được một ngày
hôm ấy. Vì nguyên liệu phải dồn mấy ngày mới đủ cho một ngày thao diễn!
Cũng chẳng thể suốt ngày suốt tháng nắm tình hình kế hoạch
hóa gia đình, sức khỏe sinh sản. Cũng chẳng thể suốt ngày lên Liên đoàn lao động.
Thật may, ở xí nghiệp có một việc ai cũng ngại. Đó là những
đám ma! Đám ma ở thành phố thì đơn giản thôi. Nhưng đa phần ở những nơi xa:
Ninh Bình, Hà Bắc, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh... Nó thường đến bằng
những bức điện rất đột ngột. Cái chết của đích thân cán bộ, thuyền viên. Của bố,
mẹ, vợ một đồng chí cán bộ tàu hay cán bộ phòng ban. Không thể không đi. Mà phải
chuẩn bị xe đi ngay kịp dự tang lễ. Bên cạnh việc chuẩn bị tiền trợ cấp theo
quy định của xí nghiệp, chuẩn bị xe, điều khó khăn nhất là ai đi? Hành trình
xa, lại phà đò, lại đột xuất, chưa biết đường biết lối. Ai cũng ngại. Trong hoàn
cảnh ngặt nghèo, bị động ấy, bà Phương nổi lên như một ngôi sao sáng. Chỉ bà
Phương đi. Nằm trong bộ tứ, bà đủ tư cách đủ cương vị thay mặt lãnh đạo xí nghiệp.
Và bà đến rất kịp thời, đúng lúc.
Tại nhà đám, bà được tiếp đón, được kính trọng, được quý mến
vì xa xôi như thế xí nghiệp cũng vẫn đến chia buồn và dự tang lễ với gia đình.
Bà nói nghĩa tử là nghĩa tận, dù bận bịu đến đâu xí nghiệp cũng có nghĩa vụ phải
đến viếng (ông, anh, chị hoặc bà) và chia buồn với gia đình. Anh (hay chị ấy)
công tác ở xí nghiệp lâu năm có nhiều đóng góp. Một tổn thất lớn cho gia đình
và cũng là cho xí nghiệp. Mặc dù đi xa hàng trăm cây số, ê ẩm cả người, ăn cỗ
nhà đám nguội tanh nguội ngắt, ruồi bay vù vù, suốt đêm chập chờn trong tiếng
kèn đám ma, bà Phương vẫn cứ tươi tỉnh. Bà hiểu rằng mình đã làm được một việc
hữu ích. Và bà có một vị trí nhất định trong xí nghiệp.
Khi trở về xí nghiệp, bà tươi tỉnh gấp đôi dù bà mệt gấp đôi.
Tổng giám đốc, bí thư đảng ủy, chủ tịch công đoàn, trưởng phòng tổ chức xúm lại
quanh bà, hỏi han tình hình đi đường, sức khỏe của bà, tình hình đám xá... Bà
báo cáo lại và còn nói cả những nhận xét của mình về gia đình nhà đám:
- Nhà ông Tuyên nghèo lắm. Ông ấy ở đây ăn diện thế. Thuyền
trưởng bao năm rồi. Đi Hong Kong mấy chuyến mà nhà chẳng có gì. Nhà tranh vách
đất, kém nhất xóm ấy. Thì ra ông ấy gửi về ít lắm. Bây giờ bà ấy chết rồi mấy đứa
con mới gay đây.
Đừng nghĩ rằng cái sự đám xá như thế họa hoằn mới có. Không.
Xảy ra luôn đấy. Có tháng tới hai ba đám. Nhưng cũng nhiều khi nửa năm chẳng
đám nào. Những lúc ấy bà Phương buồn. Bà nhớ những chuyến đi xa. Một lái xe với
một mình bà là thủ trưởng. Đúng là thủ trưởng. Bà nhớ những cái rạp dựng ở sân
nhà đám. Nhớ các bà bổ cau têm trầu. Nhớ người đi ra đi vào mặt mũi nghiêm
trang và bận rộn. Bà được ngồi ở vị trí danh dự, nhưng bao giờ cũng tìm cách xuống
ngồi với cánh đàn bà... Bà nhớ mùi hoa huệ, mùi nhang đám ma, nhớ tiếng kèn đám
ma quen thuộc và ảo não... Chính bà Phương đã một lần thổ lộ với Toàn:
- Lâu lâu đi xa một tí nó cũng thay đổi không khí ông ạ.
Toàn biết nội dung chữ đi xa ấy. Và cũng không phải
vì thế mà Toàn đánh giá thấp bà trong những chuyến công du. Hãy nghĩ tới những
chuyến đi hàng trăm ki lô mét trên con đường nắng chảy nhựa đường, chờ phà mấy
tiếng đồng hồ. Hay gió bấc cắt ruột, hay mưa dầm đường làng lầy lội. Hãy nghĩ tới
những bữa cỗ nhà đám, những đêm thâu nằm úp thìa với những người không quen biết,
tiếng kèn đám ma ngay bên tai...
Toàn rất kính phục bà Phương. Toàn nghĩ mình không làm được
việc ấy, không thể nào làm được việc ấy.
° ° °
Thời tốt đẹp đã qua rồi! Cho đến bây giờ những người rách việc
thỉnh thoảng vẫn ôn lại thời kỳ vàng son ấy. Thời kỳ chênh lệch giàu nghèo chỉ
là sự chênh lệch giữa những người đi bộ với nhau, chả đáng là bao. Có hơn nhau
cũng chỉ là cái áo pha lon, cái quần xa tanh, hay thỉnh thoảng nấu một nồi chè,
múc ra mỗi người một bát. Không như bây giờ, sự chênh lệch giữa những người đi
bộ với những người đi xe máy, đi ô tô, đi máy bay trên con đường thiên lý. Thời
kỳ còn đánh cá, thời kỳ còn phong trào. Thời kỳ con người cốt sao chỉ có miếng
ăn. Và mỗi tàu mất hàng tạ cá, hàng tấn cá - toàn cá ngon - một chuyến biển.
Cô Phòng bao giờ cũng cười chảy nước mắt mỗi khi nhắc đến những
gói cá toát mồ hôi hột. Xin được cá, cho vào túi ni lông, bọc giấy báo bên
ngoài thật vuông vắn rồi mới cho vào túi xách. Nhưng túi đổ mồ hôi cá lạnh. Đi
qua cổng bảo vệ ra vẻ nghiêm nghị nhìn thẳng. Bảo vệ cũng ra bộ mải mê đắm chìm
trong suy nghĩ nội tâm, mắt nhìn tận đâu đâu.
- Cái bố gì ở bộ về chứ. Cặp da đen bóng loáng, oai vệ lắm. Nắng
tháng sáu chang chang mà cái cặp ướt đẫm. Thế bố hỏi con chứ cái cặp chứa tài
liệu gì mà ghê thế?
Cô lấy mùi xoa lau nước mắt nói tiếp:
- Anh Tí này. Hôm ấy tàu đánh tôm về. Em xách túi xuống tàu.
Lối đi xuống tàu đã chật thì chớ. Người đứng như nêm. Lại mất điện. Tối như hũ
nút. Em cứ chen bừa. Mãi mới đến được cửa nhà tắm 1 . Em gọi: "Anh Hùng lùn ơi. Lại Hùng
lùn ơi mới kinh chứ! Túi của em đấy nhé. Nhớ đấy". Nghển cổ nhìn vào,
thấy ông Hùng đại phó quần áo bảo hộ lao động đứng trong nhà tắm. Dưới chân bao
nhiêu là túi. Có một lồ toàn cá song với cá tráp, ngon lắm. Chắc là để biếu các
sếp. Mấy người nữa đến sau, vất túi vào. Ông Hùng nhặt túi, bắt đầu bốc mỗi túi
một ít. Rồi nói to: "Thôi nhé. Không nhận túi nữa đâu đấy". Lại cười
khì một mình: "Thật cứ như là mậu dịch ấy".
Cô cất tiếng cười lanh lảnh và tiếp:
- Công nhận ông Hùng ông ấy tốt thật đấy.
Trước đây con người đối với nhau còn tốt như vậy. Dù là lấy của
nhà nước đi cho. Nhưng cũng vẫn là còn nghĩ đến nhau, vẫn còn thương nhau. Khi
mới bắt đầu chuyển một số tàu đánh cá đi vận tải nước ngoài, cái tình cũ vẫn
còn. Cô Phòng và nhiều người khác vẫn được quà (ngoài suất quà tập thể trong
túi ni lông). Thuốc lá ngoại, xà phòng thơm, xích líp xe đạp. Dùng và bán. Thêm
vào nuôi con. Ngày ấy ở xí nghiệp có biết bao loại tình thương. Anh em nhân
viên phòng ban sống nhờ vào tình thương đó. Và cả khối phòng ban đều phục cách
phân loại tình thương của anh chàng Lập, kỹ sư lưới thuộc phòng kỹ thuật:
- Tình thương lạnh lẽo (cả ướp đả)
- Tình thương băng giá (cá ướp đông)
- Tình thương thối nảt (tôm nảt)
- Tình thương sắt thép (xích líp xe đạp)
- Tình thương mây khói (thuốc lả ba số, Capstan)
- Tình thương thơm tho (xà phòng thơm)
Hầu như tất cả cán bộ công nhân khối trên bờ đều được hưởng
tình thương ấy, không ít thì nhiều. Mỗi người có một con đường riêng của mình để
đến được với những tình thương trên, nhất là đến với ba loại tình thương lạnh
lẽo, băng giả và thối nảt, nghĩa là đến với hầm cá.
Giờ đây tình người bạc bẽo. Có người chuyến trước đi đánh cá
còn vui vẻ với Toàn, chuyến sau đi tàu vận tải ngoại thương về, gặp Toàn trong
xí nghiệp, giả cách không nhìn thấy hoặc chỉ gật đầu chào nhạt nhẽo. Toàn cảm
thấy như mình bị xúc phạm. Thật là giở mặt như bàn tay vậy. Bây giờ người ta chẳng
cần thành tích, chẳng cần chiến sĩ thi đua, bằng khen huân chương. Bây giờ là
tiền.
Chính Toàn đã nói hài hước:
- Tôi cũng phải xin đi nước ngoài một chuyến, xem cán bộ thi
đua các hãng Hitachi, National hoạt động ra làm sao.
Và anh em tàu vận tải ngoại thương vỗ vai Toàn cười ngất:
- Bên ấy không có thi đua đâu, bố!
Với các tàu vận tải nước ngoài, thời đại thi đua đã qua. Và
cũng qua luôn cái thời xách con cá về nhà. Chở cá tôm đấy nhưng không ai thèm lấy.
Toàn biết mình chẳng là cái đinh gì nữa. Chẳng ai cần đến
Toàn nữa. Ngay anh em trên bờ, những giám đốc lạnh đông, những giám đốc cơ khí
sửa chữa cũng chào Toàn, nửa đùa nửa thật: "Chào nhà thua đi". Ừ,
thôi, không cần là đúng thôi. Chẳng trách được họ. Nhưng dù sao cũng còn tình
người cả chục năm nay chứ. Sao họ hà tiện lời chào đến thế? Thử mời xem Toàn có
xuống tàu không? Những người như thế Toàn khinh. Dù có giàu đến mấy Toàn cũng
khinh. Toàn thể hiện sự khinh bỉ của mình bằng cách có giáp mặt nhau, cũng làm
như không nhìn thấy họ.
Thế rồi tiên trách kỷ hậu trách nhân. Toàn cho rằng nếu trước
đây họ lợi dụng Toàn để được tiếng tăm, để được thỏa mãn lòng tự ái (con gà tức
nhau tiếng gáy), để được đề bạt tăng lương thì Toàn cũng lợi dụng họ để kiếm miếng
ăn nuôi vợ nuôi con. Đôi bên lợi dụng lẫn nhau thôi. Tình nghĩa gì đâu. Nếu
mình được đi nước ngoài mình cũng làm như họ. Mưa sao được khắp. Nhất là việc
buôn bán làm ăn ngày một khó. Có người đáp số bằng không. Có người đáp số bằng
âm. Có người chết hẳn. Cơ số đạn ít. Mà có nhiều đạn chăng nữa cũng chẳng thể bắn
vung vãi. Phải lựa chọn mục tiêu. Và đã bắn là phải trúng.
Ba loại tình thương sắt thép, mây khói và thơm
tho không còn cũng không ảnh hưởng gì lắm. Gay go ở chỗ ba loại tình
thương lạnh lẽo, băng giả và thối nát cũng đã ra đi. Vẫn có
người còn được hưởng nhưng số đó là rất ít. Cùng làm ở phòng kỹ thuật nhưng
Khoa vẫn được thương. Còn Lập thì nguồn thương gần như đã cạn. Vì
Khoa là kỹ sư cơ khí. Khoa vẫn có việc phải xuống tàu. Các đơn đặt hàng sửa chữa
đều phải qua Khoa. Khoa vẫn có cửa. Thuyền trưởng, máy trưởng, anh em tổ máy thế
nào chả có quà mỗi khi tàu về bến, Khoa xuống khảo sát sửa chữa. Lập thì trều.
Vì Lập là kỹ sư lưới. Có ai đặt hàng sửa chữa lưới, cân chỉnh lại tâm của ván
và tính góc tống an pha của ván nữa đâu. (Mơ thì đã từ lâu rời xa những
công thức ấy. Và cũng không ở xí nghiệp nữa. Mơ đã toại nguyện, đã trở thành một
sếp, chuyển sang làm giám đốc công ty xuất khẩu thủy sản của thành phố và vẫn
phòng không. Chẳng biết có ai đến với Mơ không, để Mơ tuyên bố bắt đầu việc ấy: "Nào,
ta sinh hoạt nào anh!") Ngay các tàu còn đánh cá cũng không cần đến Lập.
Họ tự làm. Với lại tính Lập rất tự trọng. Dù đói nhưng rất tự trọng. Từ khi
trong hội nghị công nhân viên chức có thuyền trưởng phát biểu: Tàu cả về,
người xuống như dòi thì Lập chỉ xuống tàu khi có người mời. Lập nhất quyết
không chịu là dòi dù có đói đến đâu!
Một dạo Lập đã tưởng nghề lưới của mình rồi lại được trọng dụng.
Ây là khi xí nghiệp có chủ trương thí điểm phát triển thêm nghề lưới đèn. Nếu
thắng lợi sẽ làm cả nghề lưới vây ánh sáng nữa. Được giao trách nhiệm chủ nhiệm
đề tài, Lập lao vào công việc. Lập tính toán thiết kế. Lập ra xưởng lưới. Chị
em xưởng lưới quây lấy Lập. Họ bảo Lập:
- Thầy ơi. Chúng em quên hết cả nút chân ếch đơn với nút chân
ếch kép rồi.
Đó là các cô nhắc lại với thầy giáo Lập những câu Lập hỏi họ
trong kỳ thi nâng bậc do phân xưởng tổ chức. Không chỉ làm vợt và một vàng lưới
rê để thả kết hợp thí điểm, là chủ đề tài Lập còn lao vào thiết kế thuyền, mua
sắm đèn măng sông, lập danh sách thuyền viên lấy ra từ đám lực lượng dự bị để tổ
chức duyệt, ra quyết định. Phạm Cương được chỉ định làm thuyền trưởng lưới đèn.
Ông chủ nhiệm đề tài và ông thuyền trưởng mới phong này gặp nhau ở một điểm:
Cùng muốn phá thế độc nghề lưới vét. Cái nghề lạc hậu tàn phá hủy diệt môi trường,
hiệu quả kinh tế rất thấp. Cả hai cùng mơ tưởng đến thành công. Mà thành công
chứ sao lại không. Chi phí thấp, chất lượng cá lưới đèn chắc chắn cao. Các tàu
lưới vét già cỗi rồi, có muốn vét cũng không vét được. Nước lên thuyền lên. Đó
là mong ước của Lập, chỉ của Lập thôi. Còn Phạm Cương không. Anh thuộc trường
phái bi quan, vả lại anh đã có hướng: Về làm thuyền trưởng cho một hãng vận tải
tư nhân mới thành lập ở quê. Cái chính là phải có tên trong danh sách thi thuyền
trưởng kỳ này. Đoàn tàu thuyền hùng dũng ra đi. Đích thân Lập xuống thuyền nhỏ,
thắp măng sông, nụ thuyền cùng với những thuyền viên khác. Say như cá say ánh
sáng đèn. Đã lâu lắm mới lại nhìn thấy cảnh ấy. Những con cá giương mắt đờ đẫn,
hai vây mang gần như trong suốt chỉ hơi động đậy như bị thôi miên. Những con mực
liên tục đổi màu thật đẹp, nhất là khi toàn thân nó chuyển sang một màu đỏ rực,
vây lườn mềm mại như sóng lượn. Chỉ việc cho vợt xuống xúc đổ lên thuyền. Người
xúc, người nụ. Đèn măng sông sáng rực. Dù giữa biển, vẫn cảm thấy sức nóng của
những chiếc đèn tỏa ra. Da vừa ra mồ hôi đã khô ngay. Chỉ một đêm đầu tiên, tất
cả đều thấy mình óp đi. Tóp đi. Lập động viên anh em. Và lại xuống một thuyền
khác. Nhưng ngay đêm thứ hai anh biết rằng thất bại rồi. Cái nghề dân chài cá
thể hay hợp tác làm rất hiệu quả thì anh em trong "đề tài" của Liên hợp
Biendongfiscom này không thể làm được! Nó quá vất vả. Sự chịu đựng, cường độ
lao động bỏ ra gấp vài chục lần đi đánh cá. Lính quốc doanh xài lưới vét quen rồi.
Nhàn nhã, công tử quen rồi. Thả lưới xong là nghỉ, là ngủ, là bài bạc, mặc cho
con tàu kéo lưới. Chờ ba tiếng sau, khi chuông gọi kéo lưới mới "quần đẹp
áo đẹp" đi ra. Nhiều cá, ít cá không cần biết, thả lưới muối ướp cá xong lại
vào cabin nằm dài hay đứng trên boong hút thuốc lá ngắm trời ngắm biển. Rách lưới,
xúc bùn, sự cố cũng vất vả đấy. Nhưng không thể so sánh với lưới đèn, suốt đêm
nụ thuyền, suốt đêm đứng trong hơi nóng của những chiếc đèn măng sông trên con
thuyền nhỏ nhấp nhô đầu ngọn sóng... Và còn một điều căn bản nữa là đồng lương
chẳng thể phá khung, chẳng hơn lương đi đánh giã là bao. Sau hai tuần thử nghiệm,
các thuyền viên của anh gần như lãn công. Ôm. Ôm la liệt. Người sốt. Người ỉa
chảy. Người kiết lỵ, người không bệnh gì nhưng nói kiệt sức rồi... Việc chuyển
nghề lưới đèn kết thúc sau lần ra quân thứ hai. Khi tất cả anh em đều báo cáo tổ
chức xin nghỉ phép, nghỉ bù, hoặc nói thẳng ra là sức khỏe yếu không theo được.
Lập biết anh đã thất bại hoàn toàn. Bởi chính lãnh đạo cũng
không quyết tâm. (Anh đâu biết tổng giám đốc sốt sắng duyệt phương án này cũng
chỉ để chặn họng bọn "thối mồm" ganh ghét đi đâu cũng nói ông không tập
trung vào đánh cá, không chịu phát triển ngành nghề mới, chỉ chú ý đến những
tàu vận tải ngoại thương và bây giờ ông đã có câu trả lời bọn họ). Muốn chuyển
đổi ngành nghề phải thay đổi ít nhất một nửa thiết bị và quan trọng hơn, phải
đào tạo cả một đội ngũ thuyền viên mới. Phải đầu tư thời gian dăm bảy năm là ít
mà các sếp đâu có tính chuyện lâu dài. Ai biết mình sẽ còn ở đây bao lâu. Cái
chính là với một lực lượng thiết bị và con người sẵn có như vậy, anh sử dụng nó
như thế nào, bóc nó như thế nào để cầm cự và vừa cầm cự vừa biến thiết bị, tàu,
cầu cảng, kho lạnh thành tiền, thành vàng, thành đô la của mình, những thứ dễ cầm,
dễ mang theo, dễ cất trong túi, trong tủ gia đình hay tủ phòng làm việc, nếu phải
có quỹ đen, tránh sự giám sát của các phu nhân.
Những người có điều kiện đều biết chiết suất sắt thép, bê
tông thành tiền thành vàng đút túi, chẳng cứ gì các sếp. Các phân xưởng biết.
Anh em đi tàu biết. Các cửa hàng biết. Biết và làm. Nhiều người biết nhưng
không có điều kiện làm. Như đám công nhân phân xưởng. Như xưởng lưới đang thất
nghiệp. Như đám nhân viên phòng ban. Như Lập. Bây giờ Lập xác định được rồi. Cứ
là khốn nạn thôi. Khốn nạn đến bao giờ không biết. Có lẽ cho đến khi lũ con lớn
lên đi làm thêm cặp vào với Lập. Bấy giờ mới đỡ gay go. Đến lúc ấy Lập đã sáu bảy
mươi rồi.
Hoàn cảnh gia đình Lập rất gay. Bốn đứa con đang tuổi học
trò. Vợ Lập lại bị tâm thần. Lúc nào cũng phải có người trông. Vay giật, chạy vạy
mãi đưa được đứa con gái lớn sang Tiệp Khắc lao động, mới gửi về được hai chuyến
hàng thì nước Tiệp Khắc xã hội chủ nghĩa tan, phải về nước. Số tiền con gái được
bồi thường do về nước sớm đủ mua chiếc máy khâu cho nó may gia công, và thả một
đàn lợn. Chẳng có việc gì làm, Lập hay ôn lại chuyện ngày xưa. Lập mà kể thời
các tình thương còn đang tràn trề lai láng thì ghê lắm. Thật là một thời thần
tiên. Lập chẳng phàn nàn kêu ca cuộc sống nửa lời. Lập biết chẳng ai thương
mình, nên Lập cứ cười. Lập bảo mọi người:
- Thằng út nhà tôi mới đổi tên. Làm lại giấy khai sinh nhưng
công an không cho.
- Sao? Sao lại đổi tên? Vẫn thấy gọi là thằng Tiệp cơ mà. Tên
hay thế còn gì nữa.
- Đấy. Chính vì thế mà phải đổi đấy. Bây giờ làm gì còn Tiệp
nữa. Cả nhà tôi đều gọi nó là thằng Séc Và Slôvác. Họ Séc, chữ đệm là Và, tên
Slôvác.
Người Lập ngày càng gầy. Da Lập càng tái xanh. Nhưng Lập lúc
nào cũng hài hước. Lẽ ra Lập cũng là thuyền trưởng thuyền phó gì rồi. Bạn bè học
khóa sau cũng đã có người là thuyền trưởng. Thời học phổ thông, Lập chỉ mê nghề
đánh cá. Tốt nghiệp về đây, Lập đã đi đánh cá, làm lưới trưởng tàu 1000 mã lực.
Một lưới trưởng có năng lực. Lập được điều về phòng kỹ thuật, chuyên theo dõi
ván lưới. Lập đã giảng cho Toàn nghe một cách rất "oanh liệt":
- Công thức về ván dài mấy trang giấy. Nó dựa trên nguyên lý
của thủy động học như máy bay dựa trên nguyên lý của khí động học.
Bây giờ các tàu nằm bến cả. Đúng mùa vụ mới có dăm ba tàu
nhúc nhắc đi đánh cá. Khi về bến kêu như cha chết. Dù nhặt từng con cá ót liệt
bé bằng đồng xu, mỗi chuyến cũng nợ tiền dầu, tiền đá non chục triệu đồng. Phân
xưởng lưới, nơi Lập đặc trách theo dõi đóng cửa im ỉm. Năm năm đèn sách. Thôi rồi
những góc tống an pha, những dây giềng lực, những dây giềng hông, những lưới 8,
lưới 6, những ma ní móc mở, những độ mở cao, độ mở rộng của miệng lưới và cũng
thôi luôn những tình thương lạnh lẽo, băng giá, thối nát và tanh tưởi... Cái
nguy ở đấy. Giờ Lập chỉ còn mỗi niềm vui là nghe mọi người nhắc lại bản tổng kết
các loại tình thương mà Lập đã sáng tạo ra, đã tổng kết lại, trong đó Lập thích
nhất, hay nhắc đến nhất là tình thương thối nảt. Bởi trên đời này lắm
tình thương thối nát thật. Đâu cũng sực mùi thối nát. Gặp Toàn ngoài hành lang
trong những lúc đi vẩn vơ, Lập bắt tay Toàn cười toe toét:
- Anh em mình xuống tàu kiếm tí tình thương thối nát đi.
Nói vậy nhưng lại kéo Toàn về phòng mình, mời Toàn ngồi xuống
chiếc ghế dựa đối diện, lấy bút giấy ra vẽ, vừa vẽ vừa giảng:
- Đây. Miếng đất nó như thế này. Chỗ này là đường cái đi vào
cổng. Khu nhà ở, em sẽ làm ở chỗ này vì nó trông ra hướng Nam. Em chỉ làm hai tầng
thôi. Nhưng nhiều phòng. Mỗi tầng bốn phòng. Em chúa ghét làm nhà cao tầng. Leo
mỏi chân. Với lại cũng còn phải tính đến tuổi già chứ. Leo làm sao được? Phòng
nào có toa lét của phòng ấy riêng. Nhưng hóa ra phải làm hai tầng rưỡi cơ đấy.
Vì phải mở cầu thang lên sân thượng. Bể nước cũng đặt ở trên ấy. Vừa có áp lực
nước mạnh, vừa chống nóng. Chỗ này em đào cái ao, kè đá bốn chung quanh, thành
một cái hồ. Giữa hồ là một căn nhà bát giác, toàn tre nứa lá hết, có cầu bắc từ
bờ ra. Để bè bạn đến chơi, câu cá, uống rượu. Chỗ này em làm một con đường hơi
cong, tạo thành một vòng cua để xe máy lượn. Hai bên đường đi vào cổng em trồng
toàn bạch đàn. Bây giờ em hỏi ý kiến anh về vấn đề mấu chốt nhất: Nhà giữa hồ
nên làm bát giác hay lục lăng? Vòng cua xe máy nên làm rộng hay hẹp?
Nói đến đâu, cây bút bi của Lập lia đến đấy. Một dinh cơ hiện
ra với cả phối cảnh, cây cối trời mây. Lập đưa tờ giấy ra xa nheo mắt nhìn với
vẻ trầm ngâm, suy tư nhất trên đời. Toàn cũng bắt chước vẻ mặt ấy, ngập ngừng:
- Mây cứ ở chỗ ngọn cây này?
- Cứ ở chỗ ngọn cây này! Lập nói chắc như đinh đóng cột.
- Không bay?
Mặt xám ngoét, má hóp nhưng Lập cười rất tươi:
- Nó bay đi rồi nó lại bay lại.
Toàn như cất được gánh nặng, thở phào:
- Thế thì được!
Rồi anh rụt rè hỏi:
- Nhà trên hồ có thể làm hình bầu dục được không?
- Ừ. Bầu dục. Bầu dục. Sao lại không bầu dục nhỉ?
Lập thu tờ giấy về, khoanh một vòng bầu dục ở giữa "hồ",
và lại đưa tờ giấy ra xa, mắt nheo nheo:
- Nhà bầu dục, hơi tốn một tí nhưng ăn chơi đâu sợ tốn kém.
Còn chỗ vòng cua?
Toàn nói chắc như đinh đóng cột, giọng nói của những người
sành điệu:
- Vòng cua phải rộng! Để xe máy đi vào, nghiêng một tí nó mới
sướng.
Lập khuỳnh hai tay làm bộ đang nghiêng đi và tán thưởng:
- Đúng! Vòng cua phải rộng! Sau này còn có ô tô nữa chứ.
Lập cúi xuống bàn lấy bút nguyệch ngoạc mở rộng đường cua, lẩm
bẩm:
- Vấn đề tầm nhìn của em vẫn còn hơi kém.
Và cười ha ha. Điệu cười của một tỉ phú đang nghĩ cách tiêu
tiền, bắt đồng tiền phục vụ sở thích, niềm vui của mình và của bạn bè.
Lập cho tờ giấy phác thảo ngôi biệt thự tương lai vào ngăn
kéo trong khi Toàn vẫn làm ra bộ suy nghĩ đăm chiêu:
- Còn chuồng chó béc giê đặt ở đâu? Nhà thế này phải nuôi chục
con béc giê giống Đức chứ ít à? Không nuôi chó thì nó thịt!
Lập kéo Toàn đứng lên, giải đáp cho Toàn nỗi băn khoăn ấy:
- Em sẽ làm béc giê. Tự làm béc giê. Anh bảo có được không? Tốt
quá đi chứ lại.
Hai anh em cùng cười ngặt nghẹo. Lập bảo:
- Thôi hãy để phương án xây nhà lại. Đấy là cái thì
tương lai sán lạn. Phải giải quyết thì hiện tại gay go này đã.
Xuống tàu với em xem có chút tình thương nào không?
Thấy Toàn tỏ vẻ ngần ngại, Lập động viên:
- Cứ xuống chơi. Tàu 12 mới về hai hôm nay. Vui vẻ, ngồi. Nhạt
nhẽo, lên ngay. Vào chỗ thằng An thuyền phó một. Tàu cũ của em mà. Giá cứ ở đấy
đâu đến nỗi thế này. Em lên thì thằng An xuống thay em làm lưới trưởng. Rồi nó
lên thuyền phó. Cái thằng đi bước nào trúng bước ấy. Mình đi bước nào hỏng bước
ấy. Nhưng cũng chẳng phải. Thằng An là em con chú con bác với ông sếp chánh.
Ông ấy sắp xếp nó vào bộ khung đi nước ngoài ngay khi còn đang đánh cá. Mình
đâu biết. Với lại có biết cũng chẳng làm gì được. Làm sao mà chống được ý trên.
Nói rồi Lập nắm tay Toàn, kéo Toàn ra cầu cảng. Trên đường
đi, Lập rủ rỉ:
- Lứa lợn này của em không ăn thua gì. May mà gỡ được tiền giống.
Có con lợn to nhất thì tự nhiên lăn đùng ra chết. Mà có phải không chăm đâu. Trời
nóng ba bảy độ, vợ chồng con cái chỉ có một cái quạt cóc với chiếc Hoa sinh bài
cũ tàu 19 mua hộ. Còn cái Hitachi to, nhờ thằng An mua tuốc năng cẩn thận dành
cho đàn lợn. Nước khó khăn là thế mà ngày nào cũng phải tắm cho lợn. Người tắm
lợn cũng tắm. Có kém cạnh gì đâu!
° ° °
Lần đầu tiên Toàn xuống một tàu vừa đi nước ngoài về. Còn trước
đây Toàn chỉ dám đứng xa xa, hoặc mạnh bạo lắm là đi lướt trên cầu tàu, qua gió
thổi ngửi cái hơi hướng nước ngoài từ tàu đưa lên thôi. Bởi vì dưới ấy là một
thế giới khác, là những người Việt thật đấy nhưng là những người Việt khác. Bởi
họ đã đến Hong Kong đã tới Kobe, đã nện gót chân trên đường phố Singapore sạch
như lau như lai, nghe chim hót điếc cả tai. Quần áo họ khác, đồng hồ họ khác. Họ
đeo kính American. Họ đeo nhẫn vàng to như con đỉa sít ngón tay. Là đàn ông
nhưng họ đeo cả dây chuyền vàng to như cái xích. Họ lại còn đi những đôi giày
da bóng loáng. Họ mặc những chiếc áo có rất nhiều túi, nhiều phéc mơ tuya trông
rất sừng sộ, họ khoác trên vai những chiếc xắc rất nhiều màu, dù to
dù nhỏ đều rất gầm ghì, họ phóng xe máy nhanh hoặc chầm chậm áp tải
những chiếc xích lô trên đó nghễu nghện những tủ lạnh, những quạt cần, những
tivi, những dàn cassette, những thùng giấy chẳng biết bên trong chứa gì nhưng
chắc chắn không phải giẻ rách, họ đốt thuốc lá ngoại thơm phức, họ bật lửa bằng
những chiếc bật lửa đẹp như những đồ trang sức, họ mở nút những lọ dầu xanh nhỏ
xíu thơm lừng xoa xoa lên mũi mỗi khi họ hắt hơi, họ nói chuyện với nhau bằng
nét mặt dáng điệu của những người ở một thế giới khác... Nhìn họ mà buồn. Mà
thèm. Mà thấy họ sao sung sướng thế. Và tất nhiên vợ con họ cũng có cuộc sống
khác hẳn vợ con mình. Họ, gia đình họ là một lớp người ưu việt, lớp người đã tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội, trong khi tuyệt đại đa số đám chúng sinh nghèo đói
non trăm triệu người Việt còn đang trong giai đoạn dân chủ nhân dân.
Những con tàu từ nước ngoài về đặc vẻ một thế giới khác còn ở
chỗ có công an, hải quan mặc sắc phục lên xuống canh gác con tàu. Như lúc này
Toàn theo Lập đi qua chiếc xe ô tô đỗ phía boong lái và cần cẩu trên tàu đang bốc
những kiện mì chính từ hầm lên ô tô (sao mà lắm mì chính thế hở giời! mì chính
người ta đếm từng hạt khi tra vào nồi canh mà ở đây chất cao như núi!), rồi bước
lên cầu thang xoai xoải (nước đang xuống) từ cầu cảng lên tàu Hạ Long 12, có
hai nhân viên hải quan ngồi trên hai chiếc ghế nhựa đặt ở chỗ băng chuyền cá.
Ngồi ở đó có thể bao quát tất cả con tàu. Cả hai còn rất trẻ buông tờ báo đang
đọc, nhìn Toàn và Lập rất nhanh rồi lại chăm chú vào tờ báo, bên cạnh là hai
lon Coca Cola uống dở đặt ở cái ghế thứ ba cùng với bao ba số.
Cửa phòng đại phó An có rất nhiều dép, những đôi dép lê bẩn
thỉu, chiếc nọ chồng lên chiếc kia. Điều đó nói rằng An đang có nhiều khách mà
toàn khách trong xí nghiệp. Toàn chững lại, ngần ngừ định quay lên, nhưng Lập gần
như lôi anh bước vào. Khói mù mịt trong buồng. Người ngồi chen nhau trên đi
văng, trên giường. Những lon bia, lon nước ngọt màu sắc óng ánh đã bật, đã uống.
Trong phòng mấy thứ đồ dùng chỉ trông đã kính trọng rồi: Một chiếc quạt có hẹn
giờ cánh vàng chóe, một chiếc tivi màu Philip và một tủ lạnh Toshiba trắng toát
hai cánh đứng lầm lì ở một góc không nói không rằng, đầy tự tin ở giá trị của
mình. Ai cũng biết đấy là những thứ được coi như mua để dùng trên tàu và không
phải thuế. Thấy có khách mới, An đang ngồi nép trên giường sát cửa sổ đứng lên,
niềm nở:
- Hai bác. Mời hai bác ngồi.
Rõ ràng không còn chỗ nào ngồi nữa. Thấy vậy, một vị khách -
đồng chí Lâm, tổ trưởng tổ điện thuộc phân xưởng sửa chữa - đứng lên:
- Thôi anh em chúng tôi ngồi đã lâu rồi. Xin phép đại phó.
Nhiều người lục tục kéo ra theo Lâm. Toàn để ý: Mọi người đều
ra về tay không. Và mừng thầm: Đông thế, của đâu mà rải cho thấu. Họ về hết chỉ
còn mình và Lập ở lại có thể sẽ có chiến lợi phẩm, có quà. Nhưng họ không ra hết.
Vẫn còn hai người ở lại. Một chị công nhân xưởng lưới, và Bính, phó quản đốc xưởng
lạnh. Lập đón hai lon bia An đưa, cười tươi như ở nhà mình, như chính mình là
chủ:
- Uống đi anh Toàn.
Toàn uống một ngụm và hỏi:
- Sao? Chuyến này đi suôn sẻ chứ ông bạn?
Vừa nhấp một ngụm bia mặt Toàn đã đỏ bừng. Đỏ bừng không phải
vì bia mà vì câu hỏi ấy. Câu hỏi ấy là thừa. Ai chả biết chuyến đi suôn sẻ.
Không suôn sẻ thì đã ầm cả xí nghiệp rồi. Chở hàng của xí nghiệp đi. Mua hàng
cũ ở Hong Kong về. Làm luật với công an, hải quan. Đem hàng lên bán. Có khám
tàu, có tịch thu hàng của ai đâu mà không suôn sẻ. Với lại ai cần sự quan tâm của
anh. Tôi với anh là cái gì đâu mà anh quan tâm đến tôi như thế. Xuống tàu xin
cá đã là một sự ê ẩm. Cũng may, về cái sự đi xin cá, Toàn là người danh chính
ngôn thuận, có công có việc xuống tàu chứ không như thế này. Lấy tin tức thi
đua. Về phát thanh. Viết bảng tin. Thế mà cũng không cất nổi mồm xin cá. Cứ ghi
chép xong rồi ra về, thuyền trưởng thông cảm thì bảo: "Bốc cá xong xuống
nhé". (Thuyền trưởng nào quên cũng đành chịu, cũng đành phải giở trò chuyến
sau tàu về, Toàn cũng quên không xuống lấy tin, quên luôn chuyện phát thanh về
chuyến biển vừa kết thúc). Được lời như cởi tấm lòng rồi, thế nhưng khi xuống lấy
cá mà phòng thuyền trưởng có khách cũng vẫn thấy cám cảnh cho cái nghề ăn xin
ăn mày ăn cắp của mình. Và nguyền rủa những người khách còn cứ ngồi mặt dạn mày
dày, con cà con kê, cười cười nói nói.
Toàn ngồi im lặng uống bia, nguyền rủa hai người khách, một
bà xưởng lưới, một ông xưởng lạnh ngồi từ bao giờ rồi mà vẫn cứ còn ngồi. Cả bốn
người khách đều không biết nói chuyện gì. Người này xụp xoạp, người kia xụp xoạp.
Không khí đông cứng lại. Cuối cùng Lập lên tiếng:
- Bia ngon thật.
Toàn đế theo:
- Ngon.
Chỉ hai câu ấy rồi thôi. Khốn nạn. Bia ngoại mà không ngon
còn bia nào ngon nữa. Không thể nghĩ được chuyện gì mà nói cho tự nhiên. Thật
may, An là người nhanh mồm nhanh miệng. An hỏi Toàn:
- Thế nào, ở nhà có gì mới không thủ trưởng?
Toàn cười gượng. Chẳng biết trả lời ra sao. Bởi vì đấy cũng
là một câu hỏi để mà hỏi. Hỏi vì chẳng lẽ cứ im lặng mãi. Lại một điều may tiếp
liền sau đó: Tiếng động cơ cần cẩu bỗng im bặt. Không chờ khách trả lời, An thò
đầu ra ngoài cửa sổ, nói một mình:
- Sao đang bốc lại dừng thế này?
Một anh thủy thủ bước vào buồng nói với An:
- Cần cẩu đánh tia lửa. Đang sửa. Phải dừng bốc một lúc.
An bảo người thủy thủ:
- Này. Bảo Chải lên gặp tôi một tí nhé.
Anh thủy thủ ngần ngừ. An cười:
- Gặp tin mừng đấy.
Anh thủy thủ tỏ ý nghi ngờ:
- Khốn nạn thì có.
- Đã bảo tin mừng mà lại.
Rồi An quay lại nói với bốn vị khách:
- Tôi phải xin cho nó đấy, cậu Chải ấy. Bọn hải quan cú thằng
này lắm. Tàu về là đóng cửa chặt. Lên bờ. Trốn. Mấy lần rồi. Nó bảo tôi:
"Anh xem sao, giúp đỡ em với". Giúp đỡ cái gì? Giúp thế nào? Chỉ nói
thế thôi bố ai dám làm! Ngộ nhỡ mình bảo chặt. Nó lại bảo không. Của
em chỉ chi một triệu hay hai thôi. Anh làm dày quá. Mình lấy đâu mình đền. Lại
còn mang tiếng ra.
Câu chuyện có vẻ đã được khai thông. Đỡ cứng đơ. Đỡ đỏ mặt.
Bính hỏi:
- Thằng nào phụ trách khám tàu?
- Thằng Tụ. Tụ béo.
- Thằng ấy nghe nói được.
- Nó cứ ngồi một chỗ thôi. Bọn quân nó chỉ xuống cái hầm: Hầm
này khám chưa? Nó gạt đi: Thôi.
Rồi An cười lớn:
- Tôi mong nó khám hầm ấy. Hầm ấy đéo có gì. Nó thu hết của
ông Chải. Thu hết. Cũng chỉ có mấy cái đài thôi. Thế mà chả chết à? Tôi phải
nói: Địt mẹ các ông. Ăn ở làm việc cũng phải để lại cái đức cho con chứ. Cũng
phải để cho người ta cửa sống với chứ.
Lập hỏi:
- Là cái số để trên phòng chứ không phải đem xuống câu lạc bộ
phải không?
Toàn biết những thứ đem xuống tập trung ở câu lạc bộ là những
thứ mang tính tự giác, ít ỏi, có tính chất mua về dùng, chưa bao giờ bị thu. An
trừng mắt:
- Là cái thứ mang xuống câu lạc bộ ấy chứ. Thì đã bảo hải
quan nó cú ông này mà lại. Mẹ kiếp, ông ấy buôn thì muốn buôn to, nhưng về bến
là run. Chạy. Khóa cửa trốn. Hải quan nó cú. Ông này toàn thế thôi. Tôi phải
nói đỡ: Nó không trốn đâu. Vợ nó mới ở Thanh Hóa ra. Nó đưa vợ đi thu xếp ít
công việc.
Chải. Toàn biết Chải. Một người không bao giờ cho ai một thứ
gì. Luôn nhìn mọi người bằng nửa con mắt. Coi khinh tất cả. Có một anh bạn bạn
học lại cùng quê với Chải làm ở phòng đời sống gửi Chải nửa chỉ vàng mua cái áo
lông cho con gái lưng lửng đến đầu gối mà mãi năm chuyến sau mới nhận được một
cái áo gió cho con trai chỉ đến thắt lưng, mua ở Hải Triều cũng chưa đến nửa chỉ.
Vẫn với niềm vui chất chứa trong lòng, (chắc là chuyến này An
thắng, cả tàu cũng thắng) đại phó tàu 12 tiếp tục:
- Khám cậu Bê xong, ông Tâm phó ba bảo: Thằng ấy may thật. Chẳng
bị thu lần nào cả. Tôi mới bảo: "Ông có muốn khám không?" Thế là im.
Nó định khám bếp. Bố Tâm cứ ngồi im thin thít. Tôi với ông Hồ phải nói vội nó mới
thôi, chứ không ông ấy toi rồi. Hàng của bố ấy để hết trong phê ôn 2 nhà bếp. Bảo bố ấy trực là bố ấy chuyên bỏ.
Mình đi bố ấy cũng đi. Đã thế bố ấy còn bảo: Tao cứ thế lại không việc gì. Còn
các ông quan trọng hóa lại hay bị sự cố. Ngán cho ông Tâm quá. Nó xuống khám
tàu phải cho nó ăn cơm chứ. Tôi ngồi chết ở đây tiếp khách liên miên rồi. Anh
nuôi hỏi ông Tâm cơm nước cho hải quan thế nào. Ông ấy bảo lên hỏi ông Hồ thuyền
trưởng với ông An. Tao chỉ lo thuyền viên ăn thôi. Khách tao không biết. Nói thế
có chán không cơ chứ.
Suốt câu chuyện Toàn vừa muốn đứng dậy ra về vừa muốn ngồi lại
và lo sợ có người nào trên bờ nữa xuống "thăm". Rồi lại nguyền rủa chị
công nhân xưởng lưới và anh cán bộ xưởng lạnh, vừa nguyền rủa vừa kính phục họ
kiên trì. Nhìn vẻ mặt nhẫn nại của Lập, Toàn biết Lập không chịu về tay không.
Không. Toàn thề sẽ không bao giờ xuống tàu vận tải nước ngoài nữa. Không bao giờ!
Lựa lúc cần cẩu đã sửa xong, tiếng máy rì rì ngay ngoài phòng, tất cả nhỏm dậy
nhìn qua cửa sổ, câu chuyện bị cắt ngang, anh đứng lên:
- Thôi. Cám ơn đại phó đã cho uống bia. Lập ở lại nhé. Mình
có tí việc bận, về trước đây.
Thật không ngờ. Chính câu nói ấy là chìa khóa thắng lợi cho tất
cả những ai còn kiên trì bám trụ. An giơ tay:
- Thủ trưởng chờ một tí. Có tí quà biếu thủ trưởng. Gọi là của
ít lòng nhiều.
Anh cẩn thận mở tủ lấy ra bốn chiếc xích Trung Quốc Ngũ
Dương, và bốn bao thuốc lá Capstan, chia làm bốn suất cho bốn khứa. Thế
là tất cả các khứa cùng đứng lên, bước theo Toàn sau khi đã cẩn thận
cho quà vào túi quần.
Lên bờ, Toàn rẽ vào phòng Lập như một sự cảm ơn và chia sẻ niềm
vui thắng lợi. Toàn rút chiếc xích đưa lên mũi hít hít:
- Thơm quá. Toàn mùi xà phòng thơm thôi ông ạ.
Lập cười toe toét:
- Hôm nay ra ngõ bước chân trái. Thật may. Xe em xích phải lộn
mà cũng đã đi gần hai năm rồi. Thế là hôm nay chúng ta vừa được hưởng tình thương
sắt thép lẫn tình thương mấy khói!
Rồi lại cười hi hí:
- Hôm nào tàu cá về, hai anh em lại đi kiếm tí tình thương
băng giá với tình thương thối nát.
Một lon bia San Miguel vào bụng rồi mà nước da Lập vẫn chẳng
thấy hồng lên tí nào. Vẫn cứ là xám ngoét.
° ° °
Khối phòng ban cũng đã có người được xuống tàu vận tải ngoại
thương. Điều ấy thổi một luồng không khí phấn khởi trong các hàng chức sắc - chỉ
trong hàng chức sắc, nghĩa là trưởng phó phòng ban, những người gọi là cán bộ
chủ chốt mà sự khác biệt với những người không phải chủ chốt là được phát không
hai chai nước mắm trong dịp lễ tết. Ít nhiều họ đều thấy một tương lai hứa hẹn
đang chờ trước mặt. Nhất là khi sếp chánh tuyên bố: Rồi đây không cứ gì trên bờ
dưới nước, bất kỳ ai công tác lâu năm trong xí nghiệp có nhiều đóng góp sẽ lần
lượt được xuống tàu đi nước ngoài. Người bảo lãnh đạo đã có một tư duy mới, người
bảo thật có lý có tình, người bảo chắc sếp cũng thấy bất công quá, chướng quá,
anh em kêu quá... nên mới có chủ trương như vậy. Chẳng biết do đâu nhưng tất cả
đều có quyền hy vọng. Thật không ai ngờ người đầu tiên thuộc khối phòng ban xuống
tàu đi nước ngoài lại là Nông Đức Bá, vị bác sĩ trưởng phòng y tế, người đã cấp
cho Quân rỗ và Lê Mây tám chai canh kí na để hai bợm rượu đỡ cơn thèm.
Nhận hộ chiếu và quyết định xuống tàu, sau khi bàn giao công
việc cho phó phòng, Bá lao vào việc chạy tiền. Người ta bảo tối thiểu cũng phải
có mười lăm, hai mươi vé. Một món tiền khổng lồ. Đào đâu ra bây giờ. Bá về Thái
Nguyên, gặp mẹ, năm ấy cũng đã già lắm rồi. Vụng Thanh Giang trên dòng sông
máng ngày xưa nước đầy ăm ắp nay cạn tới đáy, cỏ mọc xanh um. Qua ấp. Rẽ vào một
con đường mòn dọc theo thung lũng giữa hai ngọn núi cao, tới một quả đồi xoai
xoải... Bước vào ngôi nhà thuở nhỏ. Vẫn như xưa. Nhưng hình như tất cả đều bé
đi. Từ nhà, đến vườn, đến sân và cả cái giếng ở góc sân cạnh bếp. Đất cũng bạc
màu hơn. Nương sắn bên nhà còi cọc khẳng khiu trên những luống đất trơ sỏi. Mẹ
đã già lắm. Vợ chồng anh Vận, anh cả cũng già. Còn lũ trẻ con anh Vận, Bá không
thể nhận ra. Đứa nào cũng cao, cũng đen, bẩn thỉu và gầy nhẳng. Bá nhớ đến một
bài báo anh đọc trong đó có câu: Chúng ta làm rất nhiều cho nông dân, nhưng
nông dân vẫn không hiểu chúng ta đã đem lại cho họ những gì. Anh đã cười thầm
khi đọc bài báo ấy. Ớ đâu không biết chứ tại Phú Bình này cuộc sống chẳng khác
trước là bao. Đúng là nhà anh bây giờ đã có màn che chắn muỗi, nhiều nhà có loa
truyền thanh, có xe đạp, những thứ trước cách mạng không hề có. Nhưng hãy nhớ rằng
đã hơn bốn mươi năm trôi qua rồi. Chẳng lẽ để thấy được sự ưu việt của hôm nay
lại cứ phải so sánh với nạn đói khủng khiếp năm 1945, khi nước ta phải chịu hai
tròng áp bức là Pháp và Nhật, mà cái nạn đói năm ấy cũng chỉ là đỉnh điểm của một
giai đoạn cực kỳ tăm tối.
Năm nào giỗ bố Bá cũng về quê. Khi đi một mình. Khi cả vợ.
Năm nào anh cũng chuẩn bị sẵn, đem về mấy cân cá khô (quê anh gọi là cá mắm) và
nhiều ít thế nào cũng phải có dăm lạng, một cân mực khô, những thứ mà dân cả
vùng, dễ đến cả huyện, chưa ai được nếm qua. Anh biết đó là những món quà cực kỳ
giá trị, không những thế còn là nguồn dinh dưỡng, nguồn đạm tăng cường sức khỏe
cho những người thân. Ngoài ra còn mấy gói bánh kẹo mua ở phòng đời sống xí
nghiệp để mẹ anh chia ngay cho trẻ nhỏ, trẻ nhỏ nhà anh và trẻ nhỏ hàng xóm. Lần
về phép này Bá có thêm một thứ quà đặc biệt văn minh khác: những vỏ đồ hộp nước
giải khát các loại. Các màu xanh, đỏ, hồng, da cam, vàng, lon Heineken, lon
Coca Cola, Pepsi, những lon Tiger, San-Miguel, những lon nước ngọt đã uống cạn
mà trong những lần xuống tàu đi nước ngoài anh lượm được cho vào túi ni lông
mang về. Không. Không chỉ có vỏ. Có một lon nước ngọt còn nguyên. Dành cho mẹ.
Và một lon bia dành cho anh Vận. Kết quả của hai lần xuống hai tàu vận tải ngoại
thương, khi thuyền trưởng đem bia và nước ngọt ra mời, anh đã làm ra vẻ rất tự
nhiên, cười rất vô tư và khảng khái: hôm nay bị đầy hơi, chỉ xin thuyền trưởng
chén trà thôi. Còn cái này xin phép thuyền trưởng mang về, lúc khác uống. Thực
ra có phải bụng dạ làm sao đâu. Mà nó nằm trong kế hoạch của anh. Phải đem được
ít nhất một lon bia, một lon nước ngọt về cho mẹ, anh Vận và lũ cháu.
Anh mở lon nước ngọt, rót ra cốc. Cả nhà tròn mắt nhìn những
bọt nước thẫm màu nảy lên lách tách như mưa trong cốc. Mẹ uống một ngụm. Mẹ bảo
ngon rồi đưa cho cả nhà nếm mỗi người một ngụm. Còn khoản bia. Anh Vận nhăn mặt.
Anh Vận bảo khai. Khó uống lắm. Mấy đứa cháu uống thử. Đứa bảo ngon. Đứa bảo giống
nước đái bò. Cái sự uống nước trong lon chỉ là để cho biết thôi. Điều chính là
những cái vỏ lon cơ. Những cái vỏ lon óng ánh với những chữ in đẹp như tranh vẽ.
Anh Vận chọn ra những vỏ đẹp nhất, mỗi loại một chiếc, không móp, không méo,
đem ra giếng súc rửa sạch rồi bày vào tủ. Và nhặt bốn vỏ lon khác, mỗi chiếc một
màu bảo lũ trẻ con mài trên nền xi măng trong nhà. Mấy đứa trẻ lao vào mài theo
đúng hướng dẫn của anh. Tiếng sào sạo ghê người. Chẳng mấy chốc, cái nắp hộp rời
ra. Anh xếp bốn chiếc vỏ hộp lên bàn, nở nụ cười mãn nguyện:
- Làm cốc uống nước. Hôm nọ lên tỉnh thấy người ta uống, đang
ao ước...
Những chiếc vỏ hộp trên bàn, trong tủ, những dấu vết ấy của
văn minh làm nhà anh cứ sáng trưng lên, khác hẳn mọi nhà chung quanh. Nhà anh
đã có hơi hướm của một thế giới khác, một thời đại khác khi các nhà chung quanh
vẫn còn đang triền miên thời làm nương, thời lúa nước. Và đến khi lũ trẻ được
thoải mái chơi nghịch những vỏ lon còn lại mới thật tưng bừng. Đúng là một ngày
hội. Chúng lăn trong nhà. Rồi chúng đem ra sân. Những chiếc lon rỗng khi lăn
phát ra những tiếng động chưa từng được nghe thấy bao giờ. Lăn cho cái xanh chạm
vào cái đỏ. Cho cái đỏ chạm vào cái vàng. Cho cái vàng vấp vào một hòn sỏi dựng
đứng lên xoay mấy vòng rồi đổ kềnh. Lăn từ góc sân này sang góc sân kia. Lăn
chán thì bóp ngang hộp. Lạ quá. Bóp ngang nó móp lại.
Bóp cái nữa nó lại phồng ra. Khi móp lại hay phồng ra nó đều
kêu răng rắc. Nó kêu mới to chứ. Như người bắn súng. Như người vỗ tay. Tiếng
kêu khi lăn, khi bóp cùng với tiếng reo hò chỉ trong chốc lát kéo lũ trẻ con cả
xóm lại, đứng chật một đầu sân. Như xem một buổi biểu diễn văn công. Như xem một
nhà giết lợn. Chúng đứng đấy nhìn. Thèm. Không một đứa nào dám ngồi xuống chạm
tay vào những cái vỏ đồ uống như vàng như ngọc lấp lánh ánh mặt trời cả một lượt
kia. Còn mấy đứa trẻ nhà anh cứ vênh mặt lên, đến nỗi Bá phải bảo: Các cháu ơi!
Cho các bạn chơi với.
Anh Vận giết một con gà sống thiến làm cơm cúng bố. Bá ở nhà
một đêm. Tất nhiên là đêm ấy anh chẳng thể nào ngủ được. Anh biết trách nhiệm của
anh sắp tới thật nặng nề. Ngoài trách nhiệm đối với vợ con vẫn chưa thoát khỏi
khó khăn vất vả nhưng cũng còn hơn nhiều lần cuộc sống hiu hắt của mẹ, của anh
chị Vận và lũ cháu ở quê. Phải làm sao để mẹ được hưởng một chút gì đó trước
khi nhắm mắt, không phải chỉ là mấy con cá khô, gói bích quy, hoặc cân đường. Bố
chết, anh biết ngày mẹ ra đi theo bố gần lắm rồi. Mỗi ngày qua là khúc đời còn
lại của mẹ ngắn đi một ngày. Phải giúp anh chị các cháu thoát khỏi cảnh nghèo,
cảnh lạc hậu này. Sau khi bố mất, anh Vận đã bỏ học ở nhà, làm công điểm cho hợp
tác để anh tiếp tục theo học. Mảnh bằng anh có được đâu phải của riêng anh. Mảnh
đất này với anh là ơn sâu nghĩa nặng. Đêm nằm, anh thầm thì với vong linh bố mà
anh cảm thấy như đang ở đâu đây: Con là Nông Đức Bá may mắn được xí nghiệp
cho xuống tàu đi nước ngoài hôm nay về quê thăm mẹ. Con cầu xin bố là Nông Đức
Thắng sống khôn thác thiêng phù hộ độ trì cho con gặp nhiều may mắn. Con đi kỳ
này là tìm đường cứu gia đình. Mẹ, anh chị Vận, các cháu sống khổ quá. Phận làm
con, con không giúp đỡ được mẹ già, thật là bất hiếu...
--------------------------------
Nơi để tôm cá ngoại giao. |
|
Phòng lạnh, chứa thức ăn của bếp tàu, thuyền phó 3 quản lý. |
V
Trở về Hải Triều, anh và vợ bàn nhau giải quyết một vấn đề thật
đau đầu. Lấy đâu ra hai chục vé bây giờ. Người ta nói đấy là số tiền giắt lưng
tối thiểu. Còn những người làm ăn lớn phải năm mươi bảy mươi vé. Vợ anh, cô Mận,
một cô dân quân xinh đẹp người Thủy Nguyên, đảng viên, kiện tướng làm bèo hoa
dâu một thời ấy thì họ hàng có ai buôn bán mà hỏi, mà vay giật. Nhưng cả hai vợ
chồng thật không ngờ. Chưa phải đi vay đâu cả đã có trong tay hàng cây vàng!
Toàn là của những người gửi nhờ mua đồ. Người nửa chỉ, người một chỉ. Người nhờ
mua cái quần bò cho con giai. Người nhờ cái áo lông cho con gái. Người mét
nhung bò liếm cho vợ. Người bạo dạn, liều lĩnh thì nhờ mua cái quạt cũ, thậm
chí một cái radio cassette một cửa băng... Toàn những người thân. Toàn những cảnh
rách. Những tài sản tích cóp được không biết từ bao giờ, bằng cách nào. Nhận mà
lo. Bởi nhẩm tính ra những hàng phải mua hộ này đã chiếm gần hết tiêu chuẩn của
một chuyến rồi. Nhưng ai gửi cũng nhận. Nhận đã. Sau sẽ tính. Nhận và ghi cẩn
thận. Để khỏi nhầm, khỏi quên. Đang cần vốn. Thấy Bá dễ dãi, người gửi xuýt xoa
cám ơn. Bá chỉ cười: Phải một vài chuyến đấy nhé. Người gửi chứa chan hy vọng:
Vâng. Bao giờ cũng được. Anh nhận cho là quý rồi. Chưa xuống tàu, Bá đã thấy cuộc
sống của mình thay đổi. Trước đây nhà anh có ai lui tới mà nay người ra người
vào tấp nập.
Có vẻ nhiều nhiều nhưng khi kiểm lại vẫn chẳng được bao nhiêu
so với con số hai mươi vé phải có. Bá gặp Đay, người cũng được quyết định xuống
tàu cùng một đợt, than thở. Vốn mang ơn Bá khi thằng út bị viêm phế quản, sốt
cao, thở khò khè được Bá cứu sống, Đay cười:
- Có việc cỏn con thế mà không giải quyết được thì làm ăn cái
gì. Đi buôn quốc tế sao nổi. Ông cần bao nhiêu?
Bá lúng túng:
- Gần hai mươi vé.
- Sao lại gần hai mươi?
- Nhà cũng chuẩn bị được mấy vé rồi.
- Cứ cho là nhà có năm trăm đi. Thế định chỉ đem đi hai mươi
vé thôi à? Có mà ăn cám. Riêng tiền đóng góp đã năm trăm rồi.
Bá giật thót:
- Sao bảo mỗi chuyến chỉ ba vé?
Đay xùy:
- Ba trăm là đi Sing, đi Hong Kong. Đi Nhật tối thiểu phải
năm vé. Tối thiểu đấy.
Bá hoang mang. Năm trăm đô la. Năm triệu. Buôn cái gì lãi năm
triệu để đóng góp? Vậy mỗi chuyến phải lãi tối thiểu mười triệu. Đóng góp gì
ghê gớm thế? Năm
triệu là một năm tiền lương của anh. Tàu gần ba chục người. Mỗi
chuyến ngồi chơi nhận trên trăm triệu.
Như đoán được ý nghĩ của Bá, Đay giải thích:
- Không phải sếp ăn cả chỗ ấy đâu. Rải nhiều nơi lắm. Công
an, hải quan. Rồi tiếp khách. Rồi tổ chức. Rồi ông bí thư. Tất nhiên là những đồng
chí này ít thôi. Nhưng cũng là tiền. Còn bộ. Còn ủy ban... Liên khúc mà. Cứ phải
ba mươi vé là ít bố ạ!
Bá không giấu được vẻ lo lắng:
- Thế ông mang đi bao nhiêu?
Đay lắc đầu:
- Ông không bì với tôi được. Bọn chúng tôi có cả một hầm máy.
Còn vệ sinh viên như ông ít nhất cũng ba mươi vé.
- Nhưng vay đâu ba mươi vé bây giờ?
- Vay lãi mấy nhà buôn trên phố. Lãi mười phân thôi. Nhưng
căn bản có hàng là phải bán cho họ. Càng tốt chứ sao. Chúng nó buôn lớn lắm.
Tôi cũng đã định vay giật mỗi thằng tổ máy dưới tàu một ít nhưng nghe chừng các
con giời ngại. Thắng đã vậy. Mất thì mình lấy đâu ra mà giả chúng nó. Nên cứ
vay lãi trên phố là tốt nhất.
Bá đi với Đay lên phố. Cũng chỉ định vay hai nghìn thôi. Xem
thế nào đã. Đay bảo tùy ông. Chuyến này đi Nhật đấy ông ạ. Cứ làm ba nghìn đi.
Bá nghĩ đến số tiền lãi phải trả. Ba nghìn. Mỗi tháng mất đứt ba trăm tiền lãi.
Ba trăm lãi. Năm trăm đóng góp. Tám trăm đô tất cả. Một tài sản khổng lồ. Buôn
cái gì cho lại? Anh cố tự động viên mình: Có người có ta. Người ta đi tàu nước
ngoài nên người cả đấy thôi. Phải đi mới biết. Chuyến này tàu 19 đi
Nhật. Bá biết mình gặp may. Năm bảy chuyến Hong Kong mới có một chuyến đi Nhật.
Và một chuyến đi Nhật hiệu quả kinh tế bằng năm, bằng bảy chuyến đi Hong Kong,
Singapore cộng lại. Trúng số hên. Nhiều người bảo với anh như vậy. Anh viết giấy
vay người quen của Đay ba nghìn đô và lùng bằng được quyển hội thoại Anh - Việt
và hội thoại Nhật - Việt nhưng cả Hải Triều không đâu có. Anh viết thư cho một
người bạn cùng học một khóa trường Y nay làm ở bệnh viện Từ Dũ thành phố Hồ Chí
Minh, và thật may, người bạn đã tìm được một quyển gửi ra cho anh. Suốt ngày
anh nghiền quyển sách bỏ túi nhàu nát dù mới xuất bản vào thời gian đổi mới.
Sau nhiều ngày lẩm nhẩm tiếng Nhật những sambashi (cầu tàu, bến tàu),
những benjo (cầu tiêu), tetudatte kudasai (xin ông giúp đỡ
tôi) Osakayuri no kippu o kudasai (xin ông cho tôi vé đi Osaka) lại đến
tiếng Anh show window (cửa hàng), let me have a look at that (để
tôi coi cái kia), how much (giá bao nhiêu)... đến mụ cả đầu óc rồi
đêm đêm cùng vợ bàn tính về những thứ sẽ mua sao cho có lãi nhất, về những gì sẽ
đến với họ, về cái điều gần như chắc chắn: Họ sẽ đổi đời. Và không thể không ôn
lại những gì đã trải. Biết bao khó khăn nhưng hai vợ chồng nhớ nhất cái đận cả
nhà cùng bị sốt xuất huyết. Vay giật, thuốc men, bồi dưỡng, người lớn đã vậy
còn thằng bé con. Ôm vẫn thay nhau thức suốt đêm trông con, may mà có bà ngoại
và cô em vợ ra trông nom nhà cửa, lợn gà, cơm nước, rồi đến khi khỏi bệnh lại
đón thằng bé về quê, nếu không chẳng biết xoay xở ra sao... Rồi những khi có
con gà, miếng thịt, chồng nhường vợ, vợ nhường chồng cho đến khi anh nổi cáu thực
sự: "Em trông lại mình đi kìa. Gió thổi cũng bay. Mặt cắt không còn giọt
máu! Nói phải nghe chứ!" Mận mới chịu ăn... Cái thời ấy sắp qua rồi. Mận
nghĩ vậy, còn Bá nói ra miệng:
- Chắc chắn sắp tới có về quê chúng mình không phải gò lưng
trên chiếc xe đạp cọc cạch nữa. Anh sẽ mua một cái xe máy, sẽ mua biếu ông bà
ngoại mấy con sâm...
Mận vội gạt đi:
- Đừng nói trước. Em lo lắm. Bên Vosco đấy, nhiều người đi nước
ngoài sạt nghiệp.
Nhưng không thể nào ngăn cản được nhưng mơ ước đang quẫy cựa
trong lòng Bá:
- Ngay chuyến này mua một chiếc tivi màu 19 inch để hai mẹ
con ở nhà xem, còn mình thì một chiếc mini hai dóng, một ít thuốc bổ, một chiếc
áo gió, áo lông để gần rét mới mua, thằng Cò thì chiếc xe đạp ba bánh để cu cậu
đạp...
Rồi lại:
- Hai con lợn đang nuôi liệu gọi người bán thôi. Non cũng
bán. Mình vất vả quá rồi. Từ rầy sáng ra không rang cơm nữa. Đạp xe lên Ngã Năm
ăn phở. Cho nó có tí chất vào người.
Và:
- Đi mấy chuyến nếu thắng thì bỏ tiền ra bắc cái máy nước, khỏi
phải gánh gồng, phá cái chuồng lợn đi, xây bể ngầm ở đấy.
Cứ như vậy, đêm đêm hai vợ chồng bàn tính, khi lo lắng, khi
náo nức, phải gọi giấc ngủ đến bằng chuyện chăn gối, một việc mà mấy năm gần
đây Mận vốn thờ ơ, gần như phải cố gắng hết mình để chiều anh. Lúc nào chị cũng
thụ động, không nói ra miệng nhưng anh biết chị chỉ mong anh kết thúc sớm phút
nào hay phút ấy. Và ngay sau khi kết thúc, chị lăn ra ngủ, ngủ mê ngủ mệt, ngủ
không nhóc nhách như chưa bao giờ được ngủ. Anh rất buồn về chuyện ấy. Về mỗi
khi anh vòng tay qua người chị, đan năm ngón tay anh vào năm ngón tay chị, gác
một chân lên giữa hai chân chị thì chị lặng lẽ gỡ tay anh ra hoặc quay nghiêng
vào phía trong nằm co như con tôm, im lặng ngủ. Anh sợ chị mắc chứng lãnh cảm
và lùng tìm những thứ thuốc kích thích nội tiết tố để chị uống nhưng sự việc
cũng chẳng khá hơn. Anh, chính anh cũng phải vặn nhỏ ngọn lửa ham muốn để phù hợp
với chị, để khỏi làm khổ mình, làm khổ vợ và quen với nó bao giờ không biết.
Giờ đây chị bỗng trở thành một người khác hẳn và đồng thời
cũng biến anh thành một người khác hẳn, anh đã là chính anh ngày trước như chị
là chính chị ngày trước. Đam mê, cuồng nhiệt, ẩm ướt, lúc nào cũng sẵn sàng hé
mở. Anh không nhận ra chị nữa. Còn hơn cả tuần trăng mật xa xưa. Chị chủ động,
khám phá anh và sung sướng đón nhận anh khám phá. Lần đầu tiên anh được hưởng
những tư thế lạ, những cảm xúc chưa bao giờ có, những lúc vợ chồng đang khăng
khít, bỗng nhiên chị rời anh, đứng thẳng trên giường hoặc cúi lom khom, cong
người hay bước hẳn xuống đất đi quanh phòng để anh nhìn ngắm, để anh đưa tay vẫy
rồi ngoan ngoãn bước tới ghé ngồi xuống cạnh giường, nghiêng người chống một
tay qua người anh, cúi nhìn anh như nhìn một người tình, vừa hồn nhiên vừa điêu
luyện để anh phải kéo chị nằm ấp lên anh, những sáng kiến như không bao giờ hết
trong chuyện ái ân của chị. Anh biết chị không cố làm ra thế. Là một bác sĩ,
anh quá hiểu chuyện ấy. Cũng như trước đây, anh quá hiểu những lúc chị quằn quại
hay rên lên khe khẽ chỉ là những cố gắng quá sức của chị, những cố gắng chỉ để
làm vừa lòng anh. Anh càng thương chị. Anh nghĩ có lẽ vì chị vất vả quá. Nhóm
lò. Xếp hàng gánh nước. Tắm rửa cho thằng bé con. Đánh thức nó dậy sớm, rửa mặt
mũi cho nó. Cho nó ăn rồi hớt hải đạp xe đưa nó đi nhà trẻ. Xếp hàng đong gạo,
mua thực phẩm. Mua rau lợn. Nấu cám. Cho lợn ăn. Dọn chuồng lợn. Đổ rác. Thức
khuya soạn giáo án, rồi ra máy nước công cộng giặt giũ vì chỉ thật khuya vòi nước
mới vắng, nước mới chảy mạnh. Đã đành anh giúp chị trong mọi việc, nhưng trách
nhiệm chính vẫn đổ lên vai chị. Suốt năm suốt tháng lo lắng, chi li keo kiệt
tính toán và mong ước... Khi hai vợ chồng lên giường, chị nằm dài như một người
kiệt sức và chỉ muốn ngủ. Giờ đây cũng vẫn những công việc ấy, có bớt đi chút
nào đâu, có khi còn tất bật hơn, lo lắng hơn, nhưng nằm bên anh, chị cựa quậy
như một đứa bé, đôi mắt long lanh, hai chân tách ra chờ đợi... Vì sao thế nhỉ.
Vì sao chị bỗng trở thành người đàn bà mặn nồng đến thế? Điều gì đã làm chị
bùng nổ? Chẳng lẽ chỉ một tờ quyết định xuống tàu đi nước ngoài của anh thôi đã
thay đổi hẳn con người chị, nó nói với chị về một tương lai tốt đẹp đang chờ chị,
sắp đến cùng chị và hồi sinh trong chị sức sống đã cạn kiệt, đã rời bỏ từ lâu?
Anh đặc biệt xúc động khi nhìn chị khỏa thân đi lại trong phòng như người
nguyên thủy. Một câu hỏi bỗng đến cùng anh lúc đó: Không hiểu vì sao con người
ăn lông ở lỗ ngày xưa sau hàng triệu năm tiến hóa trở nên mịn màng đến thế, tuyệt
vời đến thế văn minh đến thế lại vẫn lưu giữ những dấu vết nguyên thủy ấy. Mà lại
rậm rạp đúng nơi mịn màng nhất, nõn nà, thầm kín nhất. Phải chăng đó là lời thú
nhận bản năng không thay đổi, bằng chứng tố cáo một đam mê giấu kín, che đậy và
giờ đây không còn che đậy nữa. Như mời gọi. Như khiêu khích. Lại như sẵn sàng
dâng hiến. Chính ngọn lửa đam mê tổ tông ấy đã thổi bùng ngọn lửa trong anh.
Bá xuống tàu với chức danh phục vụ viên, một chức danh thấp
kém nhất dưới tàu nhưng là niềm mơ ước của biết bao người bởi đó là sự đổi đời.
Bưng cơm. Lau bàn ăn. Vệ sinh buồng ăn. Cầm bùi nhùi lau hành lang. Cọ nhà
xí... Bá hoàn thành nhiệm vụ một cách miễn chê. Sóng to. Người lử khử nhưng
không nôn. Và dù mệt đến đâu cũng cố ăn hết suất cơm. Trong một lúc cọ nhà xí,
anh tự thấy thật buồn cho công lao học hành của mình, và những câu chuyện tưởng
đã quên đi, bỗng vụt trở lại trong óc làm anh bật cười, lại thấy phấn chấn
trong công việc. Đó là câu chuyện một cô gái đinh ninh mình lấy được một anh
xích lô như lời anh ta khai nghề nghiệp cùng cô. Cô mừng như bắt được vàng. Thu
nhập của anh ta sẽ bảo đảm được đời sống của cô. Nhưng té ra cô đã bị lừa. Một
kẻ lừa đảo, dối trá, làm hại một đời con gái. Anh ta chính là một phó tiến sĩ,
một phó tiến sĩ chính hiệu, tu nghiệp ở nước ngoài, có bằng đỏ trong tay cùng với
đồng lương chết đói. Và cô đã đâm đơn li dị. Đấy là chuyện bịa. Chuyện tiếu lâm
tân thời. Còn đây là chuyện thật. Thật một trăm phần trăm. Một người bạn anh, một
thầy giáo đại học bách khoa có uy tín sang Algerie dạy học hết hạn trở về gặp
anh trò chuyện và đến lúc ấy, anh mới biết người bạn anh sang đấy chỉ dạy trung
cấp. Đoán được sự ngạc nhiên của anh, bạn anh nói tên một vị giáo sư lừng danh
khác, đã từng đi hội thảo với các nhà khoa học quốc tế nhiều lần, cũng chỉ dạy
trung cấp ở Algerie. Bạn anh đã khuyên vị giáo sư nọ: "Chúng tôi vô danh
tiểu tốt đi còn được. Anh đi, quốc tế biết anh dạy trung cấp, nó cười
cho". Và vị giáo sư đáng kính đã chân thành nói với bạn anh: "Tôi
nghĩ kỹ rồi anh ạ. Sang bên ấy dạy mẫu giáo tôi cũng đi". Mà ngày ấy sang
Algerie bao nhiêu năm, khi về cũng chỉ đủ tiền mua được chiếc xe máy Honda DD
Nhật còn trong hộp xốp và vài thứ lặt vặt khác.
Tách bến được ba ngày, vừa mệt vừa buồn. Sóng to. Lử khử. Tiếng
Anh không vào. Tiếng Nhật không vào. Tivi Việt Nam không bắt được. Tivi Nhật
cũng không. Toàn ruồi. Anh em mở video. Phim sex. Sex nặng. Xem mãi
cũng chán. Phim nào cũng mấy khuôn mặt ấy "những gương mặt thân quen"
như Đay nói. Mãi mấy hôm sau mở tivi bắt được đài Nhật. Đang chiếu một phim gì
đó. Người Nhật, thành phố Nhật hiện ra. Náo nức như săp đặt chân lên một hành
tinh khác. Không ngủ được. Đất Nhật gần lắm rồi. Cái đất nước thần kỳ. Nó làm
cho những người bình thường khi tới đó trở về bỗng biến thành những người khác
hẳn. Osaka đâu? Cảng Osaka to hay nhỏ. Thành phố Osaka thế nào nhỉ. Chắc là
giàu có, điện sáng trưng mọi ngóc ngách và sạch như li như lai. Chắc là người
nào cũng đẹp đẽ, lịch sự và sang trọng. Osakayuri no kippu o kudasai. Bá
lẩm nhẩm lại bài học. Tàu đến phao số 0 vào tối thứ năm. Mỗi người được phát một
giấy lên bờ và được đổi một ít tiền đô sang tiền yên. "Đổi một ít tiền yên
tiêu vặt thôi. Bên này tiền đô tiêu thoải mái". Anh em bảo Bá như vậy.
Sáng thứ sáu cập cảng Osaka. Bá cùng anh em không phải trực
ca bước xuống cầu thang, lần đầu tiên đặt chân lên đất Nhật. Còn đang đứng ngắm
trời ngắm đất, bỗng thấy mọi người nhất loạt chạy rầm rập cùng một hướng trên cầu
tàu. Chạy đi! Đay thét lên giục Bá. Cũng chỉ một câu ấy rồi co cẳng chạy. Ngơ
ngác không hiểu chuyện gì, Bá cũng chạy. Chạy theo và nghe tiếng Đay vọng lại:
"Nhanh lên! Vào thành phố mua hàng không họ mua hết!" Về sau này Bá mới
biết dân Osaka chỉ bán hàng ngày hôm nay. Ngày mai thứ bảy, ngày kia chủ nhật
nghỉ. Mà thứ hai tàu đã tách bến rồi. Cảng Osaka rộng quá. Dễ chừng chạy hai ba
cây số mới ra tới cổng. Trình giấy. Bước ra đường. Không còn một ai. Cả Đay
cũng biến rồi. Không có cả taxi. Lo quá. Giở quyển hội thoại xem lại một lần nữa
cho chắc chắn rồi nói với người gác cổng: Takusi o yonde kudasai. (Xin
ông gọi xe taxi cho tôi). Người gác mặc sắc phục như cũng hiểu tâm trạng anh,
tươi cười: Chotto matte kadasai (Chờ một tí). Chờ. Phải chờ thôi. Chẳng
còn cách nào khác. Nhưng cái kiểu chạy như ma đuổi của anh em thuyền viên và
câu nói vọng lại của Đay Nhanh lên vào thành phố mua hàng không họ mua hết làm
anh bồn chồn. Kia rồi. Một chiếc taxi màu vàng chanh đi ngang. Giơ tay vẫy. Lên
xe. Người lái xe nói một câu tiếng Nhật, anh không hiểu. Rồi lại một câu tiếng
Anh. Anh cũng không hiểu. Nhưng cứ gật. Sực nhớ mấy tên phố đã nghe anh em nói,
Bá nói đại một tên. Hóa ra đúng. Chẳng ngắm nhìn đường phố Nhật thế nào, chỉ
chăm chăm vào những cửa hàng. Đến khi thấy mấy cửa hàng bày xe máy cũ, anh ra
hiệu cho người lái xe dừng lại. Arigatou. Người lái xe nhận tiền cười
rất tươi đáp lại: Arigatou.
Rất nhiều xe. Mấy cửa hàng liền nhau. Trời ơi. Của nả đây rồi.
Sự đổi đời đây rồi. Một chiếc Cub 81 bảy mươi phân khối màu ốc bươu đời chót
kim vàng giọt lệ kia rồi. Đó là mơ ước của anh, mục tiêu của anh. Đó là điều
anh ao ước và đã nhiều lần nói với vợ là sẽ mua một chiếc xe như thế. Một chiếc
xe được giá nhất, dễ bán nhất. Chưa dám dùng đâu. Chưa. Chưa có tiêu chuẩn. Còn
phải quay vòng vốn đã. Hai vợ chồng đèo nhau, chồng trước vợ sau, lượn phố ít
ngày rồi bán. Xe loại ấy đang lên ngôi. Một chiếc xe như thế bán vất đi cũng phải
được trên mười vé.
Good morning.! Phấn khởi, Bá chào người chủ quán, chào
to như bạn bè lâu ngày gặp lại, nhưng rõ ràng ông ta không hiểu Bá nói gì. Chỉ
giơ tay về phía trong, gian nhà thênh thang xếp chật những xe máy là xe máy.
Anh bổ tới chiếc xe ngoài cùng, chiếc 81 chót chét kim vàng giọt lệ của
anh và đứng sững: Trên yên xe đã ghi tên người mua. Anh nhìn sang những xe
khác. Gần như tất cả đã có tên ghi trên yên, đã có người mua. Những tên lạ,
không phải người của tàu anh. Thất vọng, hoang mang, anh bước sang gian hàng
bên cạnh. Vẫn như vậy. Sang đến gian hàng thứ ba, cũng vẫn vậy. Anh biết có nhiều
tàu Việt Nam cập bến Osaka. Thuyền viên các tàu ấy đã mua trước cả rồi. Sau này
khi trở về tàu anh còn nghe anh em nói có những người đánh dấu sẵn, trả tiền
trước để chuyến sau sang lấy. Ớ cửa hàng thứ ba vẫn còn nhiều xe chưa đánh dấu
nhưng toàn là loại hai ống xả, 500 phân khối, 1000 phân khối, thấp nhất cũng là
250 phân khối. Xe này mang về khó bán, không có giá trị kinh tế, lờ lãi chẳng
là bao. Mỗi chuyến được một xe máy không thuế thì phải mua xe nào hiệu quả nhất.
Tìm mãi. Tìm mãi. Vớ được cái Chaly 70 phân khối. Nhưng vay những ba nghìn cơ
mà! Ba trăm tiền lãi và năm trăm tiền đóng góp. Làm sao vợi bớt số tiền này. Lại
lùng sục. Sâu mãi vào gian trong. Gian trong nữa. Nghiêng người mà lách. Trèo
lên mà đi. Đứng im trên yên xe mà phóng mắt ra bốn chung quanh quan sát. Rồi bò
qua những chiếc xe xếp sát nhau tới một góc. Lấy tay lau lớp bụi bám dày trên
các bộ phận một chiếc xe đen đủi. Lớp bụi rơi ra để lộ một nàng công chúa,
không, một chàng hoàng tử đen bóng, còn nguyên nước sơn và lớp mạ ánh lên.
Hoàng tử đen! Một chiếc CD. Một chiếc Honda một trăm phân khối đang là mốt của
những thanh niên ăn chơi thời thượng! Vua và hoàng tử của các giống loài xe
máy! Lòng anh như múa lên. Hello! Hello! Anh vừa bước ra gian ngoài vừa
gọi ông chủ hiệu. Sau khi dẫn ông ta vào tận chỗ chiếc xe và viết tên mình lên
yên, Bá trả tiền. Chủ hàng đưa cho anh giấy biên nhận và nói chiều sẽ cho xe chở
đến tận cầu tàu. Anh yên tâm giao tiền không ngần ngại, bởi khi còn đang hành
trình, anh đã nghe các bậc tiền bối nói kiểu mua bán với người Nhật là như vậy.
Họ nói sao làm vậy. Chưa một lần lừa đảo. Đã định bước ra nhưng không hiểu trời
xui đất khiến thế nào lại đi sâu vào góc, tận xó xỉnh trong cùng, đứng ngoài
nhìn vào giống như một chỗ trống, lật mấy tấm bìa các tông chênh chếch lên: Anh
reo to khiến người chủ hiệu đứng đó cũng cười, vui niềm vui của anh: Một chiếc
81 chót chét kim vàng giọt lệ! Mơ ước của anh! Thôi rồi Lượm ơi. Lượm trúng quả
rồi. Lượm thắng rồi Lượm ơi! Chắc là bố phù hộ đây. Bán con CD. Với cái 81 này.
Giữ lại cái Chaly cho vợ đi tạm đã. Rồi sẽ thay sau. Sẽ thay bằng một chiếc 81
chót chét kim vàng giọt lệ sau. Không phải là Hoàng tử đen, xe nam Mận không đi
được. Cái Chaly coi như được biếu không. Tiền lãi một cái CD đã thừa cái Chaly
này rồi. Nhưng thôi, việc ấy tính sau. Nếu cần cứ cho đi ở cả ba cái. Trả bớt nợ
chừng nào hay chừng ấy, để khỏi chịu lãi. Chắc cô ấy đồng ý thôi. Mà sao bỗng
nhiên nàng tuyệt vời đến thế. Đúng là nhờ có cái quyết định xuống tàu. Hơn mọi
thứ thuốc mình mua. Chuyến này về chắc chắn trên cả tuyệt vời.
Việc quan trọng nhất đã hoàn thành vượt mức. Giờ đây là lùng
mua loa thùng. Loại loa thùng 200 watt. Thứ hàng đang được trong nước mến mộ. Takusi
o yonde kudasai. Taxi ghé sát vỉa hè. Chở tới cửa hàng bán loa cũ. Có mặt
khá đông anh em tàu. Kho rộng mênh mông. Bụi cũng bám đầy trên các thùng loa.
Cũng là lưu cữu từ đời nảo đời nào rồi. Len lỏi. Chui rúc. Lôi. Đẩy. Moi móc. Bẩn
thỉu nhem nhuốc đến phát xấu hổ lên. Mỗi người một ngóc, một ngách, im lặng thở
và tìm tòi lùng sục. Vừa trông thấy ở một góc khuất có hai thùng loa ưng ý, vội
bước tới thì không biết ở đâu vọt ra một người lao từ phía sau chen Bá ngã ngửa.
Người ấy vượt lên phóng đến chỗ thùng loa, tay nhăm nhăm viên phấn viết rất
nhanh tên mình vào đấy rồi ghé vai vác từng chiếc một ra ngoài. Đay! Pha Ra
Đay! Bá đứng dậy nhìn Đay sù sì to lớn, mặt mũi chân tay quần áo đầy bụi im lặng
nghiêng đầu vác chiếc loa thùng 200 oát bước qua, không thèm nhìn anh. Anh rất
giận Đay. Nhưng rồi lại nghĩ đến chuyện Đay đã đứng ra bảo lãnh việc vay tiền
cho anh, nghĩ đến buổi sáng khi đứng trên cầu tàu, mọi người rùng rùng chạy,
không ai nói với anh một lời. Chỉ có Đay là người duy nhất đã bảo anh. Cuộc sống
là như vậy. Khắc nghiệt quá. Giành giật.
Ước lượng. Xác định chất lượng, định giá tiền khi về nước.
Không còn chút tình cảm nào lúc mua hàng mặc dù ở dưới tàu anh anh em em thân mật.
Cuối cùng Bá cũng mua được hai đôi loa thùng ưng ý, mấy cái cassette mô nô, mấy
cái xít te 1.
Mua thì cứ mua. Nhưng không được thử. Ông chủ người Nhật nói rằng loa tốt. Thì
chắc loa tốt. Nói cassette tốt là cassette tốt. Người Nhật rất thật thà. Giao
tiền cho họ rồi hẹn giờ, họ cho xe chở đến tận tàu. Anh em bảo vậy. Bá cũng tin
như vậy. Với lại họ giàu có thế, ai lại nỡ đi lừa đám người khố rách áo ôm!
Hôm sau thứ bảy. Gay. Vì Osaka không bán hàng cả hai ngày thứ
bảy và chủ nhật. Hai ngày không mua được hàng. Mà sáng thứ hai tàu đã tách bến.
Mà trong túi còn hơn nghìn đô la. Khi xuống tàu bụng nghĩ ba nghìn này đi Nhật
cố gắng làm sao lãi được gấp đôi. Ba nghìn thành sáu nghìn, chí ít cũng là năm
nghìn rưởi. Năm nghìn rưởi! Nghĩa là mình có trong tay năm mươi lăm triệu, mà
hai mươi lăm triệu là của mình. Chỉ nửa tháng thôi mình đã là triệu phú, đã có
trong tay hai mươi lăm triệu làm vốn, trừ tiền lãi và tiền đóng góp cũng còn mười
bảy triệu. Chuyến này về sẽ trả nợ mười vé, thế là bớt được mỗi tháng một trăm
đô tiền nợ lãi. Cọ rửa nhà xí, lau hành lang, phục vụ bữa cơm xong Bá định tìm
Đay bàn tính xem sao nhưng Đay đã biến tự bao giờ. Anh em bảo chỉ còn mỗi cách
đi Motomachi cách 250km. Motomachi là thành phố nhỏ, buôn bán suốt mọi ngày
trong tuần. Những người không phải trực đã biến hết. Không biết họ đi đâu. Chỉ
còn một mình Bá. Thì một mình đi. Không được phép ngại ngần. Vì đây là nước Nhật.
Đây là nơi định đoạt cuộc đời mình, số phận mình, số phận gia đình mình. Phải
chiến đấu. Dù chỉ một mình. Dù tiếng Nhật không biết. Dù phải đi xa hai trăm
km. Đơn thương độc mã cũng chiến đấu. Một mình ra cổng cảng. Xem lại sổ hội thoại
Nhật - Việt, cái gậy dò đường để xông pha trên đất Nhật, chiến đấu đổi đời. Lúc
mới cầm quyết định xuống tàu cứ nghĩ phải học tiếng Anh. Nhưng không. Dân buôn
bán đồ cũ của Nhật không biết tiếng Anh. Chỉ cần quyển hội thoại Việt - Nhật. Vẫy
taxi. Giở hội thoại chỉ vào chữ ga tàu điện ngầm, miệng nói Motomachi. Anh lái
xe hiểu. Lên xe. Kéo dây an toàn. Ớ Nhật bước chân lên xe là phải kéo dây an
toàn. Xe chạy nhanh đến mức khó hiểu. Đến ga tàu điện ngầm. Xuống xe. Mất một
ít yên. Theo cánh tay chỉ của người lái taxi, Bá bước xuống một cầu thang sâu
và rộng. Gió từ phía dưới hút lên mát rượi. Người đông. Nhộn nhạo. Đi lại. Lên
xuống. Như một siêu thị. Lại phải dùng đến Hội thoại Việt - Nhật. Tìm
đến một ông già. Lễ phép cúi đầu chào. Chỉ chữ: Phòng bản vé.
Đến phòng bán vé giơ ngón tay trỏ lên (ý rằng một vé) cộc lốc:
Motomachi. Cầm chiếc vé tàu điện ngầm trong tay, ngồi trên một chiếc ghế bắt
vào sát tường đợi tàu, lúc ấy Bá mới để ý quan sát chung quanh. Anh ngước nhìn
cái mái vòm cong trên đầu, hai bên tường cũng cong đầy hình vẽ quảng cáo.
Không. Không phải hình vẽ mà những tấm ảnh, hoặc nếu có phải hình vẽ thì cũng
là những hình vẽ cực công phu giống ảnh như hệt. Những cô gái Nhật váy ngắn,
chân dài nghe điện thoại, hoặc vắt vẻo trên những chiếc xe máy, những chiếc ô
tô bóng lộn, những chiếc giường trải khăn đệm trong căn buồng rèm buông rủ...
Xe điện đến. Tất cả đứng lên. Bá cũng đứng lên. Xe chạy trên đường sắt đặt sâu
dưới nền. Cửa lên xuống chỉ cao hơn nền khoảng gang tay. Nhiều toa. Toa nào
cũng đông người. Anh vừa tìm được một chiếc ghế ngay cửa lên xuống, xe đã chuyển
bánh. Điều làm anh ngạc nhiên là xe khởi động và tăng tốc rất nhanh. Chỉ mấy
giây đã đạt tốc độ tiêu chuẩn. Mọi người trên tàu ai cũng ngồi chúi mũi vào những
quyển sách. Trong toa gần như không có tiếng to nhỏ chuyện trò. Tò mò. Ngó bên
nọ, ngó bên kia. Vịn cả thành ghế đứng lên nhìn. Thì ra họ đọc tranh truyện.
Tàu cứ lao đi trong đường hầm. Hai trăm năm mươi ki lô mét tưởng lâu. Khi đi lo
thời gian. Đường xa. Rồi mua bán. Lại chỉ độc một mình, không ai giúp đỡ, không
ai bàn bạc trao đổi. Lại còn trở về tàu. Nhưng chỉ một tiếng đồng hồ đã đến
nơi. Một giờ đi. Hai giờ đến. Chạy thẳng một lèo không đỗ. Mới thiu thiu ngủ một
tí, đã nghe tiếng chuông. Dậy. Khoác túi leo cầu thang theo mọi người từ đường
hầm bước lên. Chợ kia rồi. Cuốc bộ vào một chợ nhỏ. Đói. Bây giờ thấy đói. Thì
lúc mọi người ăn, anh còn bận chạy bàn, có ăn đâu. Chỉ kịp nhét vào túi cái
bánh mì, chai nước uống phòng xa. Bá nghĩ bụng ăn uống trước rồi vào chợ to. Có
thực mới vực đạo. Cái chợ nhỏ anh đến giống chợ Việt Nam, hàng hóa bày trên sạp
như Chợ Con, chợ Sắt. Nhưng rất ngăn nắp. Mỗi khu bán một loại hàng. Thứ nào
cũng đề giá. Ngay cả chiếc bút chì. Rất rõ ràng, không sợ bị hớ. Bá tìm đến khu
hàng ăn. Định vào một cửa hàng bán cơm giống cơm Việt Nam. Nhưng nhìn bảng giá,
anh sững lại. Nhẩm đổi rất nhanh sang tiền Việt. Một bữa cơm xoàng xĩnh như vậy
ở Việt Nam chỉ 10 nghìn. Nhưng ở đây là hai trăm nghìn. Thôi không vào hàng ăn
nữa. Ăn thế mất toi cái tivi. Một bữa cơm xoàng mất một cái tivi. Cực vô lý. Dù
có đói cũng còn phải đắn đo, nữa là trong túi có bánh mì. Thế là đứng giữa lối
đi trong chợ, lấy bánh mì ra ăn. Ăn xong, móc chai nước ra uống. Thật may, lúc
còn ở tàu anh đã cẩn thận mang theo chai nước. Tuy nhiên khi đi ngang quầy bán
nước giải khát tự động, Bá không nén được sự cám dỗ. Không phải anh thèm nước
ngọt mà chỉ muốn xem cái máy vận hành như thế nào, nó phục vụ anh ra sao. Thật
đơn giản. Không có tí trục trặc nào. Bỏ đồng tiền xu vào máy là nó thòi ra một
chai Coca Cola. Uống và nhìn sang bên cạnh. Quầy bán hoa quả. Những quả táo tây
nhiều màu sắc từ tím đỏ, tới phơn phớt hồng hoặc vàng nhạt mịn màng căng mọng
anh chưa nhìn thấy bao giờ. Nhìn lên bảng giá và lại nhẩm tính rất nhanh: tám
mươi nghìn ba quả táo. Cũng thừa mua một chiếc radio cassette một cửa băng cũ đấy.
Không. Đây không phải là thứ dành cho mình. Đến khi nào lên bờ, hoặc đi vài ba
chuyến nữa cũng cố mua lấy mấy cân, nghỉ phép đem về cho mẹ, cho vợ, cho anh chị
Vận và các cháu. Trên đường sang chợ chính, Bá ngạc nhiên không hiểu vì sao ở
đây lại có nhiều cửa hàng bán cần câu đến thế. Rất nhiều cửa hàng bán cần câu.
Từ hiện đại nhất tới thô sơ nhất. Nhiều cái đẹp lắm. Có cái giá tới ba trăm đô.
Sao người ta có thể bỏ ra ba triệu để mua một cái cần câu nhỉ?
Giờ Bá đã có mặt ở chợ chính, khu chợ bán đồ cũ. Hàng hóa xếp
bạt ngàn như núi, thượng vàng hạ cám không thiếu một thứ gì. Có lẽ chỉ không có
xe tăng với máy bay thôi. Đầu máy khâu, nồi cơm điện, loa, dàn máy. Tranh.
Khung tranh chạm trổ. Khung tranh thiếp vàng. Bàn ghế gỗ, bàn ghế kim loại, xa
lông bọc vải, xa lông bọc da, quần áo cũ, hay chính xác hơn là quần áo đã qua sử
dụng, còn rất đẹp, nhiều cái còn rất mới. Com lê. Áo lông, áo choàng, váy ngắn,
váy dài với bao màu sắc quyến rũ. Bá hoa mắt trước cảnh hàng hóa ê hề đến thế, nhiều
màu sắc rực rỡ đến thế, nhìn mà ngợp đi, nhìn mà mê mẩn, nhìn mà biết người ta
sống như thế nào. Nhưng những thứ đó không hấp dẫn nổi anh. Anh chỉ nghĩ đến những
thứ có giá trị kinh tế, những thứ mang về Việt Nam bán ra tiền. Đẹp đến đâu mà
về nước không bán được hoặc bán được ít tiền, ít lãi cũng không thiết. Không thể
mua những đồ bày biện, những thứ chỉ để mặc vào người cho đẹp. Nhưng khi đứng
trước những hộp đồ lót nữ anh không chút đắn đo suy tính: Mua ngay một tá quần
lót đủ các màu sắc kiểu dáng, cái viền đăng ten, cái thưa như tấm lưới, cái nhỏ
xíu chỉ bằng một góc chiếc lá nho, cái nào chạm vào cũng mát rượi nơi tay như
chạm vào da thịt. Anh đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác bởi cả đời chỉ
quen với những chiếc quần lót diềm bâu của vợ ố vàng cứng đơ rộng thùng thình tự
tay vợ anh khâu bằng vải bao bì, xác xơ nơi đũng còn nguyên những dấu nẹp sắt gỉ
han không thể nào giặt sạch. Anh nghĩ tới lúc chị đứng trước anh và trước
gương, lần lượt thay ra mặc vào cả mười hai chiếc quần lót này, nghiêng bên nọ
ngó bên kia quay đằng trước quay đằng sau nhìn ngắm, và nghĩ tới nơi ấy của chị
rậm rạp trơn ướt và thăm thẳm. Trả tiền ngay dù có thoáng qua ý nghĩ đây là cả
một chiếc tủ lạnh mà nếu đi làm bình thường có tích cóp bao nhiêu năm cũng
không mua được. Tiếng thì thầm của vợ như ngay bên tai, nhí nhảnh nghịch ngợm:
Anh cứng rắn còn em khóc nhè đây này. Đúng là giờ đây lúc nào chị cũng ướt át,
và có lẽ phải đẻ một đứa nữa thôi. Thằng Cò đã năm tuổi rồi còn gì. Nếu không
xuống tàu, bao giờ mới dám đẻ thêm?
Anh đã tới một gian hàng bày bán những thứ chỉ một màu xám
đen. Và đây mới là những thứ anh cần. Gian hàng bán đồ điện tử cũ. Hết omisete
kuremasenka (ông cho tôi xem), Takai desune (giá đắt quá) rồi lại Sukoshi
makete kureba kaimasu (nếu bớt một ít tôi sẽ mua)... Bá mua một lúc mười đầu
video. Hai chiếc một vé. Nặng. È cổ. Rã rời hai cánh. Nhưng ý nghĩ khi mang về
bán cất cho dân phe cũng vé rưỡi, hai vé một chiếc tiếp thêm sức mạnh cho anh.
Như một con lừa thồ hàng, anh lê tới cổng chợ, lòng như múa lên vì nghĩ tới số
tiền sẽ thu về. Cứ một thành đôi. Một thành ba. Rồi dừng lại thở.
Không thể trở về Osaka bằng tàu điện. Không thể hai tay hai
túi xách kềnh càng khệ nệ nặng như đá thế này xuống cầu thang để tới ga tàu điện
ngầm. Rồi còn lên cầu thang ga đầu bên kia. Buôn bán thì phải chi phí thôi.
Không phải mình ngại khó. Khoản này sẽ hạch toán vào giá thành. Anh vẫy một
taxi. Chìa giấy lên bờ ra để anh ta biết mình về Cảng Osaka. Anh lái taxi gật đầu.
Cũng chỉ hơn một tiếng đến nơi. Anh tần ngần nuối tiếc khi trả một trăm đô la
cho người lái xe dù đã nghĩ đây là chi phí kinh doanh. Giá anh cố đi tàu điện
ngầm thì chỉ hết năm nghìn đồng tiền Việt, một số tiền chẳng đáng là bao!
Ngày thứ ba ở Nhật là chủ nhật rồi. Các cửa hàng Osaka vẫn
đóng cửa. Không mua được gì. Leo lên boong đứng vơ vẩn, gặp Đay to sù như một
con gấu nhô từ cầu thang lên cùng với một thủy thủ. "Sáng nay trực à, bác
sĩ?" "Không. Các ông đi đâu đấy?" "Lên phố xem có cái gì
không? Nằm mốc ở tàu làm gì". "Chờ tí. Tôi đi với". Bá chạy vội về
buồng khoác cái túi giả da tòn ten một bên vai chạy ra. Niệm, tên anh thủy thủ,
cười: "Mua được nhiều hàng chưa mà bình chân như vại thế?" Bá bảo:
"Đã mua được gì đâu. Tiền còn một đống". "Cũng kha khá đấy. Hôm
qua thấy bố ấy rước về mười cái đầu. Thắng lớn rồi". Đay nói. Bá nghĩ thầm:
Chẳng cái gì qua được mắt Đay. Ba người đi. Đi xem phố xá, xem người Nhật sống
như thế nào. Và cũng cầu may, biết đâu mua được thứ gì đó. Gọi là lang thang
nhưng đâu phải vô mục đích. Và vẫn cứ dán mắt vào các nhà hai bên phố. Người ta
cũng mở cửa đấy nhưng không bán hàng. Và nhà nào cũng có một túi ni lông đen để
ở lòng đường sát với vỉa hè. Túi đựng rác. Bá tò mò nhìn trước nhìn sau không
có ai ngoài hai người bạn, cúi xuống mở một túi ra xem: Ba chiếc cốc pha lê cực
đẹp có chân, hoa văn vàng óng, và những mảnh vỡ của chiếc cốc thứ tư. Rác là
như vậy đấy. Anh đút ba chiếc cốc vào túi, mặc cho hai người bạn đồng hành chế
giễu: Thưa bác sĩ, sao bác sĩ mất vệ sinh thế. Nhặt ở túi rác đem về uống. Bá
cười: Đẹp thế mà chỉ vỡ một chiếc họ đã vất đi thì phí quá. Đem về bày tủ li.
Đúng là vậy. Anh không tham. Chỉ thấy không thể để ba chiếc ly pha lê vỡ vụn
trong đống rác. Một sự lãng phí chẳng thể nào tha thứ.
Bỗng nhiên hiện ra trước mắt ba người một bãi rác khổng lồ.
Thứ bãi rác Bá chỉ nghe nói đến, bây giờ mới được tới tận nơi, nhìn tận mắt. Tủ
đứng, tủ nằm. Xa lông. Giường hộp. Đệm. Máy lạnh. Máy giặt. Nồi cơm điện... Rồi
ghế xoay. Bá ngồi ngay lên chiếc ghế xoay. Xoay một vòng. Năm bánh xe dưới chân
đưa anh đi một quãng. Chà chà. Thật mê ly. Có cái ghế xoay này đặt trong nhà ngồi
thư giãn, xem sách, đọc báo hay nghe nhạc thật tuyệt vời. Mận ngồi xoay cũng
tuyệt vời. Thằng Cò ngồi lên mà xoay hẳn chẳng có gì thích hơn. Bảo đảm cả
thành phố không ai có. Đang thả tâm hồn bay bổng, nhìn theo Đay và Niệm đi sâu
hơn nữa vào bãi rác, bỗng nghe tiếng reo, anh giật mình đứng lên bước nhanh về
phía họ: một đống quạt bàn hiện ra trước mắt. Cái nào cũng còn nguyên bảo hiểm,
cánh, cả dây và phích điện dù có chiếc bảo hiểm đã gỉ và bầu đã tróc sơn. Chỉ
nhìn nét mặt họ, anh cũng biết anh không có phần ở đống quạt cũ này. Vì lúc họ
tìm ra, anh không có mặt, anh còn đang đu đưa với chiếc ghế xoay. Cái ghế xoay
chết tiệt! Đay cùng anh thủy thủ nhặt quạt bàn xếp thành một hàng rồi tìm ra một
chiếc gậy gỗ xâu gần chục chiếc quạt lại. Thật sung sướng khi nghe Niệm nói:
"Phần ông Bá một chiếc, thôi, cứ xâu cả vào đây, khiêng về tàu, ông ấy lấy
sau". Thật là một tấm lòng vàng. Cái quạt tai voi nhà anh cũ quá rồi. Khi
chạy cứ long sòng sọc như muốn rời ra. Hai người khiêng quạt đi trước, Bá vác
cái ghế xoay đi sau. Phải mang chiếc ghế này về. Vì nó quá sang trọng, quá tuyệt
vời. Hơn nữa nó còn là nguyên nhân làm anh thất bát ít ra hai chiếc quạt!
Khiêng vác trên vỉa hè, gặp người Nhật và cả những người mắt xanh mũi lõ sải bộ
trên hè, không ai bảo ai cả ba đều cúi gầm mặt. Niệm kêu to, trấn an bạn và
cũng là để trấn an chính mình:
- Làm đéo gì mà xấu hổ. Họ biết mình là ai.
Rồi trừng mắt hỏi Bá:
- Ông là người nước nào. Tôi là người Malaysia. Quốc tịch
Malaysia chính hiệu.
Đay cười nhạt:
- Thôi. Cứ nói Campuchia cho xong. Dân Mã lai nó đếch thèm những
thứ này đâu. Sang đây mới thấy mình là cuối hạng người. Có phải không bác sĩ?
Bá gật đầu:
- Đúng là cuối hạng người.
Đay tuôn ra một tràng:
- Cuối hạng người một trăm phần trăm, không chệch đi đâu được.
Bác sĩ nhìn kia kìa. Người ta đi nghỉ mát, picnic kia kìa. Ô tô nối nhau chở vợ
chồng con cái trong xe kia kìa. Xe đạp cài trên ô tô chỗ ba đờ sốc, dựng đứng
trên nóc xe là để đến chỗ nghỉ đạp chơi cho khỏe cẳng đấy. Còn anh em mình đi
nhặt từng cái quạt cũ ở bãi rác, từng cái máy khâu ghẻ, cả mấy cái cốc vất đi
mang về bày tủ cho nó sang, vác cả cái ghế cũ. Không cuối hạng người là gì. Ây
thế mà khi về đến Việt Nam chúng mình lại là nhất. Chúng mình là đầu hạng người.
Ai nhìn chúng mình cũng nể. Ai cũng thèm được như chúng mình. Chúng mình chon
von chót vót. Càng chịu khó cuối hạng người ở đây về nhà càng chót vót chon von
đầu hạng người đấy bố ạ. Khinh người như mẻ đấy bố ạ. Con gái đẹp mê tít đấy bố
ạ. Bố mẹ được nhờ, vợ con thương quý, vênh mặt lên đấy bố ạ!
Một chùm bố ạ dồn dập vừa như công phẫn vừa như tự
hào, vừa như chân lý không cho chối cãi. Xoay xở chiếc ghế nặng như cùm trên
vai, Bá thấy đúng như Đay nói. Khi anh có quyết định xuống tàu vận tải nước
ngoài, dù vẫn còn ở trên bờ, dù anh vẫn y xì là anh, chưa có tí gì thay đổi,
anh đã thấy mọi người nhìn anh bằng con mắt khác rồi, anh đã là một con người
khác, chính anh cũng cảm thấy mình đã là một con người khác (và vợ anh càng
khác nữa). Ngay chuyến này thôi, với những ngày vắng mặt ở Việt Nam để đi sang
nước Nhật này, trở về với mấy món hàng cũ trong tay, anh thực sự ở một mặt bằng
khác, một nấc thang giá trị khác, một tầng lớp khác, một tầm cao khác. Đúng. Chỉ
cần vắng mặt ở Việt Nam ít ngày thôi rồi trở về, anh đã là một con người khác.
Mà chẳng riêng gì Nhật. Cứ vắng mặt ở Việt Nam đi tới bất kỳ nước nào ít ngày
thôi, khi trở về mọi người đã nhìn anh bằng con mắt khác.
- Cho nên cố gắng càng cuối hạng người được nhiều được lâu
càng tốt. Anh em mình trúng số độc đắc. Bao nhiêu người thèm được làm cuối hạng
người đấy.
Niệm động viên anh. Vác. Khiêng. Đi. Nghỉ. Mồ hôi. Cực nhọc
nhưng hăm hở. Thế rồi tới lúc rẽ ngang vào một phố nhỏ cả ba cùng kêu trời. Một
cảnh tượng huy hoàng kỳ vĩ không ngờ đến, không tơ tưởng đến hiện ra trước mặt.
Một gian hàng nhỏ mở cửa, bên trong chất đầy xe đạp cũ. Đây là một quả đấm thép
trong chuyến đi tìm đường cứu gia đình mà anh em gọi là "tìm đường cứu nước",
cuộc chiến để nên người hôm nay. Đây là lộc trời cho, là trúng số hên, là thần
tài đãi kẻ ngẩn ngơ. Tưởng rằng chỉ đi chơi phố, may ra nhặt được cái gì ở bãi
rác thôi, ngờ đâu lại được thế này! Ba người đánh gọn, hót trọn hai mươi sáu
chiếc xe đạp. Sạch bách. Bởi ai cũng biết xe mini Nhật đang là thứ hàng được
chuộng, lãi chỉ đứng sau xe máy và còn dễ bán hơn xe máy vì hợp túi tiền, việc
đăng ký cũng không phức tạp. Thứ xe của những người sành điệu, của những bà những
cô, những chàng trai, những người cũng là người thời đại, dù chỉ là người thời
đại bậc hai. Trong nước rặt một giống xe miền Nam, xe khung dựng, sang lắm là
xe Thống Nhất. Tột cùng là chiếc Phượng Hoàng hay chiếc Mifa. Hai mươi sáu chiếc.
Lần này cả ba người cùng đi, cùng nhìn thấy, nên Bá cũng có một suất như hai
người kia. Chia ba. Bá tám chiếc. Tính Bá hay nhường nhịn, chịu phần kém. Con
hai người kia mỗi người chín chiếc. Tính xô, tốt xấu, màu ngọc hay da đồng, đỏ
hay vàng chanh, đổ đồng mỗi chiếc bốn mươi đô. Thắng lớn rồi. Xe này về vất đi
cũng hơn trăm đô một chiếc. Chủ hàng biên giấy nhận tiền, hẹn tối cho xe chở đến
cầu tàu.
Chiều nào xe ô tô chở hàng cũng tới cầu tàu tấp nập. Người Nhật
quả thật thà. Hàng không thiếu một chiếc. Hàng từ xe xuống cầu. Những hàng nhỏ
như đầu máy khâu cũ, cassette, đầu video, tivi, máy tính bỏ túi, đồng hồ đeo
tay, xà phòng thơm, thuốc kháng sinh, thuốc nhuộm... từ cầu tàu chạy vào các
phòng. Chất trên boong như núi là những thứ hàng to: xe máy, xe đạp, tủ lạnh,
máy giặt... Đó là chưa kể một xe đồ uống, thuốc lá, hoa quả để tiếp khách của
tàu và của các thuyền viên gửi tàu mua hộ (vì thời gian quá hạn hẹp, thuyền trưởng
có sáng kiến để tàu mua hộ anh em thuyền viên, chắc tay quản lý cũng kiếm được
ít nhiều). Hàng của thuyền trưởng thuyền phó, chính ủy nhiều hơn hết. Toàn là
thuyền viên mua hộ hoặc đặt trước, com măng trước với các cửa hàng. Mà toàn
hàng đẹp. Hàng xịn, gần như mới. Các ông ấy có đi phố chỉ là đi chơi, "dạo
quanh thị trường" thế thôi. Còn mình phải chạy ma ra tông mà mua mà đánh dấu,
ghi tên. Nhìn đống hàng trên tàu, Bá lo. Khi mua, ham mua được nhiều. Bây giờ
lo. Hàng nhiều thế này khi về đánh thuế chết. Xe máy, mỗi người chỉ được mua một
chiếc xe không thuế, quá tiêu chuẩn phải chịu thuế 100%. Tiêu chuẩn một người
hai xe đạp. Thế mà có người bốn xe máy. Hơn chục xe đạp. Lại còn không biết bao
nhiêu máy lạnh, máy giặt, tivi cassette, đầu video, loa thùng, và những túi phồng
căng rất bí mật, không biết là loại hàng gì. Bá là lính mới, mua được ít mà
cũng ba xe máy, mười đầu video, tám xe đạp, mấy cặp loa thùng, gần chục cái
cassette, thử hỏi dân cũ quen thuộc, dày dạn kinh nghiệm mua biết bao nhiêu! Suốt
đêm, nằm trong cabin, nghe tiếng lục cục, lịch kịch ở hai buồng bên cạnh, tiếng
chân người đi lại ở hành lang, không sao ngủ được. Họ đang giấu hàng. Bá đi
sang phòng bên, cũng một anh phục vụ viên như Bá, nhưng là phục vụ viên đích thực,
đã đi dăm chuyến. Anh ta đang dùng tuốc vít tháo vách tàu ra. Thấy Bá, anh nhăn
răng cười. Bá cầm một chiếc ốc vít lên, nhìn chăm chú vào cái chữ thập lõm xuống
trên đầu ốc vít. Hiểu ý, anh ta giải thích:
- Yên tâm. Chốc nữa giấu hàng xong, vặn lại đâu vào đấy chỉ cần
hòa tí nước muối, lấy giẻ xấp chấm vào là lại y như cũ. Chẳng còn dấu vết tuốc
vít nữa đâu mà sợ.
Rôi nói đầy vẻ thèm thuồng:
- Chỉ mấy ông thợ máy là sướng. Dưới buồng máy tha hồ yểm. Chẳng
biết đâu mà lần. Vặn bu lông, lật sàn hầm máy lên, có đến năm chục cái xe cũng
xong hết. Rồi hòa một xô nước muối đặc, rẩy trên sàn, bôi lên các bu lông, bôi
vào chân máy, rẩy vào mặt bích, chỉ một đêm rỉ sét kín hết, chẳng ai phát hiện
được.
Đó là điều hoàn toàn bất ngờ đối với Bá. Thảo nào anh thấy
Đay lúi húi ở bếp với cái xô, thò tay vào xô khoắng khoắng rồi xách xô xuống hầm
máy. Anh cứ tưởng Đay đem xuống lau chùi cái gì dưới ấy.
- Sướng nữa là thằng cấp dưỡng với ông phó ba, phó gạo. Người
bạn nói tiếp trong cơn hào hứng. Kho bếp, kho thực phẩm là của họ. Phó gạo được
sử dụng là đúng rồi. Người ta là sĩ quan, nhưng thằng cấp dưỡng cũng được ăn
theo. Trên tàu nhiều kho nhiều buồng lắm. Không có bản đồ không biết hết được
đâu. Chỉ dành cho ban chỉ huy tàu. Với lại chẳng bao giờ khám đến các buồng của
thuyền trưởng, thuyền phó với chính ủy.
Lại cười:
- Giấu cho phải phép đấy thôi. Họ đã định khám thì không cái
gì lọt. Giấu ở đâu cũng lòi ra. Đây này. Anh ta lấy ngón tay gõ gõ vào vách
cabin ở những chỗ chưa giấu hàng. Đấy. Bên trong rỗng biết ngay. Có hàng biết
ngay. Giấu sao được họ. Cái chính là phải...
Và chìa bàn tay, miết miết những ngón tay vào nhau:
- Đếm.
Rõ ràng anh ta đang phấn khởi. Bá chỉ muốn hỏi người đồng cấp
rằng anh ta có những thứ hàng gì mà phải giấu cả trong vách cabin nhưng không
dám.
Sáng thứ hai, ngày đầu tuần, tàu rời bến. (Bá cũng đã nhờ tàu
mua hộ một két bia, một két nước ngọt và một cây thuốc lá để dùng đến khi cập cảng).
Loa phóng thanh vang lên: Mời tất cả các đồng chí tới câu lạc bộ họp.
Không biết có việc gì. Bá là người tới đầu tiên. Nhưng hóa ra
chỉ có một nội dung: Mỗi người đóng năm vé ngoại giao. Lệnh ban ra được tất cả
thực hiện ngay tức khắc. Vui vẻ nộp tiền. Không ai thắc mắc. Không ai kêu ca.
Ai cũng biết đó là những điều không thể thiếu. Không những thế nộp xong tiền,
Bá còn cảm thấy phấn khởi, có một cái gì đó bảo đảm làm anh yên tâm. Ớ câu lạc
bộ bước ra, anh leo lên boong, toan nhìn lại Osaka một lần nữa thì tàu đã ra tới
phao zero rồi. Trên boong, ngay bên cạnh đống hàng đã gọn đi nhiều vì chỉ còn
xe đạp, xe máy, mấy thuyền viên bắt đầu khuân đồ nghề, những cờ lê mỏ lết, những
kìm, những búa, những giẻ, những tuốc vít ra làm việc: rã xe. Tháo rời những xe
máy xe đạp ngoài tiêu chuẩn thành từng bộ phận để tiện việc cất giấu và khai
báo. Đó là những thợ máy và một vài thủy thủ học thêm nghề, trưởng thành qua những
chuyến đi, sẵn sàngphục vụ để thêm thu nhập. Trên tàu gọi là nhóm rã
xe. Còn nhóm rã hàng điện tử làm ở một khu khác, bên kia băng
chuyền cá. Hai chiếc xe máy và sáu chiếc xe đạp của Bá được Đay rã. Rất
nhanh. Phải chi. Theo đúng lệ làng. Một số tiền không đáng kể được Bá hạch toán
vào chi phí. Trên boong chỉ còn la liệt những khung xe. Phụ tùng đóng vào bao.
Để trong phòng. Chật quá thì để trên boong. Coi như không có xe máy, xe đạp mà
chỉ là những khung xe. Khung với ít phụ tùng nhặt về thay thế. Cũng là phù phép
cả thôi. Cái chính là ban chỉ huy tàu làm việc và mình đếm. Mười
đầu video của Bá cũng được tháo rời. Vẫn cái vở không có đầu video mà chỉ có vỏ
và một ít linh kiện rời. Trước khi rã "đầu", anh em cơ công
báo vụ đều thử con sống, con chết. Thật mừng là cả mười con của
Bá con nào cũng sống, nghĩa là đều tốt. Người Nhật đúng là tuyệt
vời. Nói một là một, hai là hai, không gian dối.
Yên tâm được một việc. Mua hàng. Đưa hàng xuống tàu. Bây giờ
chỉ còn chuyện đưa lên. Nghĩ đến lại lo. Không biết có trót lọt không. Đã đành
đếm. Nhưng đếm nhiều thì lờ lãi chẳng còn được bao nhiêu. Cái bản hạch toán nhẩm
trong đầu hóa ra không đúng. Nhiều khoản chi phí lắm. Đầu vào chưa tổng kết được.
Và không biết tàu có bị khám không? Có khi mình trâu chậm uống nước đục cũng
nên. Đếm làm sao được hết. Bên Vosco đấy. Nuôi hải quan tốt thì công an khám.
Nuôi công an hải quan quận tốt thì công an thành phố, hải quan thành phố xuống
khám. Rồi lại tự động viên mình: Có người có ta không sợ. Nhất là khi nằm trên
tàu từ Nhật về, lênh đênh cả tuần lễ, nghe những thông tin rò rỉ, biết có người
mua tới năm xe máy, mấy trăm chiếc đồng hồ Seiko, cho vào túi ni lông gói chặt
thả xuống hầm dầu, hàng thùng thuốc con nhộng, hàng trăm máy tính bỏ túi rải dưới
buồng máy, hàng trăm cân thuốc nhuộm thì Bá cũng bớt đi một phần lo lắng:
- Người ta đi nhiều người ta biết. Phải chắc ăn như thế nào họ
mới đánh to thế chứ.
° ° °
Cảnh "chuyên viên phụ trách vấn đề cỏ" của văn
phòng tổng giám đốc cũng có nước da tái mét và hai má hóp như Lập nhưng rất
khác Lập. Lập lúc nào cũng toe toét còn Cảnh chẳng mấy khi cười. Cảnh thường
xuyên trong tình trạng suy nghĩ lao lung. Hệt nét mặt người kị sĩ mặt bi thảm
Don Quixote. Căng thẳng trên từng xăng ti mét vuông da mặt, căng thẳng trên từng
chi tiết, từ đôi môi mỏng mím lại khi đang đi trên đường, dẩu ra như cái mỏ khi
lúi húi ghi chép. Từ đôi mắt sáng rực lúc nào cũng hết sức tập trung. Từ cái
trán với cặp lông mày luôn nhíu lại hoặc nhướng lên, từ cái cổ gầy có những đường
gân giật giật và yết hầu luôn đưa lên hạ xuống... Cảnh còn giống Don Quixote ở chỗ
quần áo lôi thôi lếch thếch, bẩn thỉu, chân đất chân dép mà không hề để ý đến
những lời trêu chọc hiện trạng ấy, bỏ ngoài tai tất cả, khinh bỉ tất cả và vẫn
tiếp tục dòng suy nghĩ lao lung. Bởi vậy dù Cảnh thấp nhỏ, gầy gò, không có con
ngựa Rốt xi năng dưới đít cũng không có ngọn giáo cầm tay, nhìn Cảnh người ta vẫn
nghĩ ngay đến Don Quixote.
Theo sự phân công của chánh văn phòng, cứ sáng sáng, Cảnh lại
xách hai chiếc phích sang căng tin lấy nước sôi (chị Nhuệ Lào giáp Cămpu
che đã về hưu, tổng giám đốc giao luôn việc nấu nước phục vụ khối phòng
ban cho căng tin, bớt đi được một biên chế), một phích cho phòng Điều, một
phích cho phòng đánh máy văn thư. Thế là buổi uống trà đầu giờ ở phòng đánh máy
văn thư được tổ chức. Phòng, Nhạn, Thám, Cảnh, Toàn và đôi khi một vài khách
vãng lai như Lập, Vân, Vinh, cả Tuyên, Thịnh, Thu bên văn phòng đảng ủy. (Cũng
cần nói rõ thêm Thu đây là cô Lã Thị Kim Thu, theo dõi hồ sơ và giữ dấu, chứ
không phải ông Thu bí thư đảng ủy. Chính vì sự trùng tên này mà khi Quân rỗ báo
vụ chuyển từ tàu nọ sang tàu kia, lấy giấy giới thiệu chuyển sinh hoạt Đảng, cầm
tờ giấy bí thư Trần Ngọc Thu vừa ký xong, chưa bước ra khỏi cửa đã nói to cốt để
ông bí thư Thu ngồi trong nghe tiếng: "Bác Thu giai ký rồi. Bây giờ đi gặp
bác Thu gái đóng cái dấu nào!" Tất nhiên bảc Thu giai nghe rõ.
Bác cũng chỉ góp một tiếng cười vào tiếng cười rộ lên của mọi người).
Trong những bữa uống trà đầu giờ tất cả thường tập trung trêu
Cảnh. Ví như vừa mở phích rót nước, Thám bảo:
- Nước này không sôi rồi.
Cảnh đáp rất có lý:
- Cũng tùy. Ớ đây không sôi nhưng đem lên đỉnh Fansipan lại
là nước sôi.
Thấy Cảnh mặc cái áo xét tô măng, Nhạn bảo:
- Lấy vợ già nó cho mình diện, thích thế đấy Cảnh ạ!
Cảnh rung đùi:
- Cũng có thể.
- Vợ Cảnh trẻ không?
- Không biết.
- Trẻ không hở?
- Còn xem đã.
Và đánh trống lảng:
- Hôm qua sếp Điều hỏi tôi có đi Hà Nội không? Tôi hỏi đi nhiệm
vụ gì. Đúng không? Có phải cứ đi là đi đâu. Chiều qua sếp đi, không thấy hỏi gì
nữa.
Thám lại hỏi:
- Cảnh cưới vợ đi mấy xe ô tô?
- Hai xe.
- Sướng nhỉ.
- Chả sướng.
- Mình làm mình ăn. Vợ làm vợ ăn.
- Còn nhiều chuyện lắm. Kể viết cũng được một quyển sách dày
đấy.
Thám lại làm ra bộ thân mật:
- Thế đứa lớn làm sao chết?
Cảnh im lặng. Tất cả im lặng. Câu hỏi quá ác. Đó là một câu
chuyện thương tâm. Cảnh cho con ăn bột, đứa trẻ bị sặc bột. Sợ quá, Cảnh đặt
con xuống chiếu rồi đạp xe đến cơ quan, xin ý kiến bố cách giải quyết. Khi Cảnh
và ông bố phóng ô tô vội về đến nhà thì đứa bé đã tắt thở, người tím ngắt lại.
- Nó là con gái hay con giai?
- Con giai.
Vẻ mặt Cảnh cố làm ra vẻ bình thản, nhưng vẫn thoáng đau đớn.
- Lúc ấy chỉ mỗi mình nó ở nhà thôi à?
- Ừ
- Lâu rồi nhỉ.
Lại một câu trả lời mang tính triết học:
- Cũng là tùy từng góc độ. Với người này là lâu. Với người
khác là không lâu.
Cô Phòng thấy cần chuyển đề tài khác. Nói chuyện như thế thật
nhẫn tâm. Cảnh không dở hơi đâu. Cảnh trả lời thế nghĩa là với Cảnh câu chuyện
như chỉ mới xảy ra thôi. Và Cảnh vẫn còn đau đớn lắm. Anh em hỏi chẳng qua là
phản ứng với ông Sinh, một trong những vị lãnh đạo thành phố, cái gì cũng phải
xin ý kiến ông rồi mới được giải quyết. Cô làm ra vẻ tươi cười:
- Công nhận vợ Cảnh xinh thật.
Cảnh chỉ tủm tỉm cười. Nhạn nhắc nhở:
- Cảnh không đi kê lại bàn ghế hội trường à? Chiều nay họp rồi
đấy.
- Làm phải có lệnh chứ. Tự nhiên làm, sao được. Mỗi cuộc họp
kê một kiểu. Phải có sơ đồ. Cứ đúng sơ đồ mà làm. Lễ giao nhận vốn kê khác. Họp
cán bộ chủ chốt kê khác. Hội nghị công nhân viên chức kê khác.
Suy nghĩ một lát, Cảnh ao ước:
- Giá có cái máy bấm một cái, bàn ghế tự động chạy đi theo ý
mình thì thích nhỉ.
Tất cả cùng cười như muốn nói với nhau: "Lười lắm. Vua
lười đấy. Cứ làm là ngại". Thám chỉ vào một cuộn ống ni lông, bảo Cảnh:
- Giả đây nhé. Chiều qua mượn về nhưng không bơm được. Chầu
chực cả ngày không lấy được tí nước nào. Nhà bây giờ chỉ còn nửa thùng nước
thôi.
Cô Phòng bảo:
- Nhà em hôm qua cũng không có. Em nghĩ nhà mình không có thì
nhà ông Thám gay go rồi.
Thám lắc đầu:
- Có. Nước chảy nhiều nhưng không sao tranh được. Mấy chục
cái máy bơm cùng nổ, chỉ một tí là cạn bể. Quần áo một chậu đầy còn để đấy. Hôm
nay về lại nửa chậu nữa.
- Sao không mang vào xí nghiệp mà giặt?
- Có lẽ mai phải mang đến đây thôi.
Nhạn bảo Cảnh:
- Cảnh kiểm tra lại ống đi. Thế nào ông Thám cũng cắt mất một
đoạn rồi. Trùm mổ đấy. Rồi đi bơm nước đi.
Cảnh bảo:
- Chiều nay có mưa.
- Ai bảo? Ai bảo?
- Đài nói hay sao ấy. Chiều nay có dông.
Thám:
- Không bơm hở? Không bơm tớ đèo về, mượn ống đến thứ bảy mới
giả đấy.
Cảnh đứng dậy, lăn ru lô, giở cuộn ống, bắt một đầu vào vòi
nước. Lát sau từ vườn hoa vào, tủm tỉm cười bảo Thám:
- Ông ngắn thật. Trước nó dài tới chỗ treo pa nô mà bây giờ
chỉ đến giữa vườn hoa thôi.
Nhạn cười:
- Đã bảo mà. Trùm mổ đấy. Cảnh chưa biết à?
Cảnh lại ra tưới vườn hoa một lúc rồi trở vào. Bàn trà đã giải
tán. Mỗi người một việc. Chỉ còn Toàn. Cảnh ngồi xuống cạnh Toàn:
- Cỏ màu xanh không đẹp. Cỏ màu vàng đẹp hơn.
- Cỏ màu xanh đẹp chứ. Người ta vẫn nói cỏ xanh mà.
- Màu vàng mới đúng. Màu vàng mới là màu rản cả.
-??
Cảnh lấy ngón tay trỏ chấm vào chén cặn nước vẽ lên bàn hai
hình thoi trồng cỏ ở giữa vườn hoa:
- Hai cây đại đây. Đây là cây tùng. Còn đây là cái đụt cá.
Chú có nhận ra không.
Cảnh chấm chấm chung quanh hai hình thoi, miệng thuyết minh:
- Đây là biển xanh. Còn đây là hai con cá. Cháu đã xây cái vườn
hoa này, sau lại phải phá đi cháu biết. Chính sếp bảo xây lại. Cháu thấy đây
đúng là một tác phẩm. Chỗ hai con cá cỏ phải hơi vàng một tí mới là màu cá rán.
Còn cỏ bên ngoài màu xanh, màu nước biển đúng rồi.
- Sao hình thoi lại là con cá.
- Cái ấy là tùy cách tiếp nhận. Cái ấy còn phù hợp với từng
gia đình, điều người ta đang lên án.
Thấy Toàn ngồi ngây ra không hiểu, Cảnh cũng ngồi ngây ra một
lúc. Và đã tìm được cách diễn đạt chính xác:
- Không phải điều người ta đang lên án mà điều người ta đang
cổ động tuyên truyền: Mỗi cặp vợ chồng chỉ có một đến hai con. Không làm nhiều
con cá ở vườn hoa là vì thế. Chỉ hai con. Mỗi cặp vợ chồng chỉ có từ một đến
hai con. Mỗi người một nhận thức. Nhận thức của cháu là vậy.
Toàn nhìn Cảnh, không ngờ Cảnh lại nghiền ngẫm tìm ra ý nghĩa
của hai ô hình thoi trồng cỏ ở vườn hoa một cách sâu xa đến thế. Lại càng không
ngờ khi Cảnh biết hết mọi chuyện của sếp chánh. Ây là mấy hôm sau, khi Toàn
trang trí hội trường chuẩn bị đại hội Đảng bộ toàn Liên hợp. Cảnh được chánh
văn phòng giao nhiệm vụ phụ giúp Toàn. Bê bức tượng Hồ Chủ tịch bằng thạch cao
đầy bụi ra, Cảnh lấy khăn dấp nước cho ẩm vừa lau vừa rủ rỉ với bức tượng:
- Chúng nó toàn nghĩ việc kiếm tiền, mua xe máy, xây biệt thự,
bỏ mặc Bác bụi bậm thế này. Chỉ có cháu nhớ đến Bác thôi. Hôm nay cháu tắm rửa
cho Bác. Bác phù hộ cho cháu.
Hai chú cháu đang lụi hụi thì tổng giám đốc mở cửa bước vào
kiểm tra. Đứng ngắm hội trường một lúc, ông vừa cười vừa đọc câu khẩu hiệu giấy
vàng dán trên nền vải đỏ căng ngang:
- Nhiệt liệt chào mừng đại hội đảng bộ thành công tốt đẹp. Có
đại hội nào không thành công tốt đẹp!
Đó là dấu hiệu sếp hài lòng về cái hội trường. Về cái phông
màu xanh cánh trả nổi bật lên tiêu đề đại hội và bức chân dung Karl Marx, Lenin
sát vai nhau hình bầu dục, về dãy chậu cây đặt bên dưới, về những tấm khăn trải
trên bàn chủ tịch đoàn, thư ký đoàn...
Thế là khi sếp bước ra, câu chuyện giữa hai chú cháu lại xoay
quanh về sếp. Cảnh rủ rỉ với Toàn như rủ rỉ với bức tượng:
- Ông Thắng có một ô dù to lắm. Ông ấy phải đấu với bao nhiêu
người mới được về đây làm giám đốc. Nhưng đại ca của ông Thắng cũng có nhiều kẻ
thù lắm. Thì càng cao gió cả càng lay mà phải không chú. Chuyện đại ca của sếp
có đến năm cái nhà trong đó có ba cái là biệt thự ở Hà Nội bị các cụ về hưu viết
đơn tố cáo chú có biết không? Lại còn mua tàu cũ mà đắt hơn cái đóng mới...
Ngạc nhiên. Vậy là anh chàng này chẳng điên đâu. Chuyện gì
cũng biết.
Hôm khai mạc đại hội Đảng bộ, chánh văn phòng Điều tuyên bố:
- Hôm nay chúng mày phải mỗi người làm việc bằng hai nghe
không?
Ai cũng hiểu hôm nay thả sức chơi, gẫu một cách tự tin mà
không phải mắt la mày lét. Toàn mò sang chỗ Mẫn. Thấy Toàn, Mẫn nhờ ngay. Anh
trông thư viện giúp em. Em đi đằng này tí nhé. Toàn ngồi xem sách. Một lúc sau
Cảnh tới. Hai chú cháu lại rù rì. Câu chuyện thỉnh thoảng bị ngắt quãng vì
Thám, vì Nhạn và cả cô Phòng, lúc người này, lúc người khác sang. Cô Phòng cười
bảo Toàn:
- Hôm nay lại trực thư viện đấy cơ nhi.
Cô Phòng cũng không hay trêu Cảnh. Chỉ có cái Nhạn và Thám là
hay trêu thôi. Nhạn hỏi Cảnh:
- Chiều hôm qua không mưa à?
Cảnh cười, nói toạc cái ý Nhạn không nói ra:
- Tưới rồi còn mưa làm gì.
Cô Phòng nhìn chiếc xe đạp dựa cạnh giá sách bảo Toàn:
- Hôm nay lại đi xe mini nữa đấy rư.
Toàn bảo:
- Xe đạp của bà xã đấy. Xe mình lúc đi, sờ đến thì bẹp lốp.
Cảnh cười triết lý:
- Chẳng cái gì là của riêng ai.
Thám trừng mắt:
- Thật không? Vô lý.
Cảnh giảng giải một cách rất bề trên:
- Đây nhé. Như cái chén uống nước này có phải của ai đâu?
Toàn cười:
- Chú bỏ tiền mua cái chén thì cái chén là của chú chứ?
- Một giai đoạn nào đấy thôi.
Thám reo to:
- A! Thế là vợ thằng Cảnh không phải của riêng thằng Cảnh rồi.
Ha ha.
Cảnh ớ ra, mãi mới nói:
- Chuyện ấy khác.
Rồi gật gù, chúm môi cười hóm hỉnh:
- Cũng tùy. Hoài nghi. Hoài nghi tất cả.
Khi Thám, Nhạn, Phòng đã trở về phòng làm việc, chỉ còn hai
người, Cảnh lại tiếp tục câu chuyện về đại ca của sếp, về đứa con trai của sếp
đi tàu nước ngoài đánh bạc nợ mấy chục nghìn đô. Và thật ngạc nhiên cả việc văn
phòng lẽ ra bị thanh tra về chuyện khách đến trong những ngày tết: Ít nhất cũng
phải mấy chục chứ đâu lại chỉ có bảy đoàn với bảy túi quà tết phải không chú...
Rồi buồn bã thở dài rút ra kết luận:
- Năm nay xí nghiệp kim lâu chú ạ! Làm ăn không ra làm sao!
Toàn bật cười về kết luận ấy của Cảnh. Ớ nhà, Toàn luôn nghe
vợ và con gái nói về những năm không tốt với những người trong gia đình. Năm
nào ai kế đô, năm nào ai kim lâu, năm nào ai thái bạch, tóm lại năm nào nhà
Toàn cũng có người bị những ngôi sao quả tạ chiếu vào và vợ con Toàn năm nào
cũng dâng sao giải hạn. Người thái bạch, người kế đô, người kim lâu, nhưng đấy
là người, còn xí nghiệp kim lâu thì thật lạ tai, chưa từng nghe ai nói.
Thấy Toàn cười, Cảnh chìa bàn tay bấm đốt, rất nghiêm chỉnh:
- Một. Ba. Sáu. Tám. Thật đấy chú. Năm nay xí nghiệp vừa kỷ
niệm 35 năm thành lập đấy thôi. Chú quên à? Không tảm là gì?
Chẳng biết có phải xí nghiệp kim lâu thật không, nhưng quả là
từ đầu năm đến nay thật gay go. Tàu sắt đi lạc vào nước bạn bị giữ, nộp thuế
hai trăm triệu, còn
đấm bao nhiêu thì không biết. Sắt xây dựng nhập về lỗ vốn
hơn một tỉ...
Từ việc khẳng định xí nghiệp kim lâu, làm ăn thất bát, Cảnh
chuyển sang công việc của Toàn: Lẽ ra chú phải có ca mê ra, có máy ảnh ghi lại
những hình ảnh hôm nay để lưu lại cho thế hệ sau. Và sôi nổi:
- Những hình ảnh hôm nay là bình thường nhưng mấy chục năm nữa
sẽ vô giá, đúng không chú?
Toàn thương Cảnh. Hình như ở cái văn phòng này chỉ có Toàn và
chánh văn phòng thương Cảnh. Như chuyện hai mươi nghìn đồng tiền phòng mừng tuổi
cho anh chị em ngày làm việc đầu tiên sau tết nguyên đán. Ai cũng đến đúng giờ.
Họp mặt. Chúc mừng năm mới. Bánh, mứt kẹo, trà, thuốc lá thơm. Kể cho nhau nghe
chuyện mấy ngày tết, mình ăn tết như thế nào. Hồ hởi. Vui vẻ. Mỗi người một
phong bì. Rồi rồng rắn kéo nhau sang các phòng ban khác chúc tết. Lại rượu. Lại
kẹo bánh, thuốc lá... Cảnh đến muộn. Mãi chín giờ mới ló mặt vào phòng văn thư.
Nhạn giữ phong bì tiền mừng tuổi của Cảnh, nhất định không đưa. Dù Cảnh phân trần
dậy sớm nhưng còn phải tập thể dục nên đến muộn. Lý do thật "chính
đáng", Nhạn vẫn tuyên bố: Đến muộn thì không phát.
Thám cười:
- Nó bảo đầu năm nó gặp con chim nhạn ác lắm.
- Cháu mới bảo ông không được nói thế nhé. Ông cứ nói thẳng
ra là gặp cái Nhạn nó ác. Ông cứ nói thế cho nó xong đi. Còn dễ nghe hơn.
Nhạn cười tít mắt, hai má hồng lên.
Toàn và chánh văn phòng phải nói mãi Nhạn mới đưa tiền lì xì
cho Cảnh.
Khi Cảnh mới từ ban "Kiếm tiền chơi bời" chuyển về
văn phòng, Toàn không ngờ đấy là con ông Sinh. Một cán bộ chủ chốt trong thành
phố. Một người có tài tổ chức và nhất là có tài hùng biện. Đúng như Vinh, anh
cán bộ thanh tra chuyển sang làm bảo vệ nói: Cũng phải là những người thế nào mới
được nghe ông Sinh nói chuyện. Toàn chưa được nghe ông Sinh nói, nhưng đã được
nhìn thấy ông trên tivi, to béo, mặt mũi đầy đặn, dáng đi đường bệ. Còn vợ ông,
Toàn không chỉ nhìn thấy trên tivi mà còn trực tiếp gặp một hai lần. Ớ nhà ông
giám đốc sở công nghiệp. Lần đầu tiên, Toàn cứ lặng đi trước vẻ duyên dáng,
tươi tắn, tự tin của người thiếu phụ xinh đẹp, ăn mặc sang trọng mà Toàn không
biết là ai. Thật đúng là một mệnh phụ. Mãi tới khi bà chủ nhà ghé vào tai Toàn
nói nhỏ: "Chú không biết à? Bà Sinh đấy". Toàn mới biết đó là một gái
sắc xứng với một trai tài. Rồi dần dần Toàn còn biết bà có cả một vườn cam bên
Nhạn An, bà là một phụ nữ có năng lực... Thế mà không hiểu sao hai ông bà tài
giỏi xinh đẹp lại cho ra đời một sản phẩm là Cảnh.
Thám và Trâm, hai người đã từng ở Ban kiến thiết cơ bản cùng
với Cảnh lại có nhận định khác:
- Con ấy không ngớ ngẩn đâu. Ớ kiến thiết cơ bản có khoản tiền
nào không chia cho con ấy là không xong. Đấu tranh thắc mắc đến nơi. Tiền xi
măng công trình,
nó không dính dáng gì cũng phải chia cho nó. Nhận tiền thì nhận
nhưng bảo ký nhất định không ký.
- Quái lắm. Lười lắm. Không chịu làm một việc gì. Bảo đi giám
sát thi công thì chỉ ngủ thôi. Đấy. Ớ văn phòng thế nào bá biết rồi đấy.
- Lẽ ra nó có khốn nạn như anh em mình đâu. Tốt nghiệp trung
cấp xây dựng, bố nó xin cho nó về đây là để xuống tàu nước ngoài đấy chứ. Nhưng
đi thử sóng không được. Lại hâm hâm như thế bố ai dám cho đi tàu. Tàu toàn hàng
lậu, oan gia có ngày. Thế là về kiến thiết cơ bản. Chứ không bây giờ nó ghê lắm
rồi. Con ông Sinh chứ có phải đùa đâu. Dù đã hưu nhưng cũng vẫn còn ghê lắm. Vẫn
cứ xuất hiện trên tivi đều đều. Hội nghị nào cũng có mặt, ngồi hàng ghế trên
cùng. Rụng răng cũng thể kễnh. Không thì thằng Cảnh chết rồi. Không biết cái gì
mà dám cho đi giám sát thi công. Liều không. Nhổ cỏ còn không xong kia kìa.
Có lẽ tất cả những điều ấy đều đúng cả, nhưng không nên lấy Cảnh
ra làm một thứ trò cười, giải trí. Nó tàn nhẫn thế nào. Toàn hay tâm sự, trò
chuyện với Cảnh, nhưng thật buồn cười, càng tâm sự trò chuyện, anh càng thấy
thích vì chính anh được giải trí, chính anh được dãn thần kinh. Ví dụ một hôm
đang ngồi ở bàn uống nước phòng văn thư (không dám ngồi uống nước một mình ở xa
lông phòng mình bao giờ, sếp hay đảo qua lắm), Cảnh ở đâu vào, kéo ghế ngồi bên
cạnh:
- Chú. Lâu lắm cháu không được nói chuyện với chú. Cháu hỏi
chú cái này.
Cảnh lấy ra viên phấn vẽ lên bàn hình nhà xí nghiệp. Thám và
Trâm cùng gắt:
- Không được vẽ lên bàn. Bẩn.
Cảnh cứ vẽ và hỏi Toàn:
- Sao lại bố trí các buồng như vậy? Sao không bố trí phòng họp
ở chỗ này? Sao không bố trí phòng thanh niên ở đây?
Trâm nói to như nói với người điếc:
- Văn thư sắp chuyển sang bên này rồi.
Cảnh sung sướng kêu lên:
- Đúng. Văn thư phải chuyển sang bên này. Đêm qua tôi không
ngủ được. Thấy phải như vậy mới đúng. Bởi vì phòng thanh niên là gì? Đó là kết
quả của phòng đầu tư cộng với chính nó.
Và Cảnh lại vẽ:
- Đây là phòng tổng giám đốc. Đây là phòng họp. Sao không để
phòng phó tổng giám đốc thứ nhất ở đây?
Trâm lại nói to như nói với người điếc:
- Các ông ấy không muốn ngồi gần nhau!
Cảnh xùy một tiếng đầy vẻ khinh bỉ:
- Cùng làm lãnh đạo mà không muốn ngồi gần nhau, không muốn
nhìn mặt nhau là không được. Sự nghiệp không cho phép. Công việc, tình đồng chí
không cho phép. Văn phòng tổng giám đốc là gì? Là kết quả của các phó tổng giám
đốc cộng với chính nó.
Mặt Cảnh nghiêm trang. Có một cái gì cao cả lớn lao trên
khuôn mặt gầy, xanh xao, đôi mắt sâu và cặp môi
mỏng đang mím lại. Nhất là đôi mắt. Long lanh ánh lửa của những
bậc vĩ nhân phát hiện ra chân lý vĩ đại cộng với chiều sâu nội tâm của những đấng
cứu thế. Thoạt đầu là cảm giác buồn cười phải cố mà nén lại, nhưng khi nhìn vào
khuôn mặt hóa đá của Cảnh, Toàn lắp bắp như bị thôi miên:
- Đúng. Cộng với chính nó.
° ° °
Công việc sản xuất của Liên hợp Biển Đông ngày một khó khăn.
Tàu nằm bến hàng loạt. Khối tàu nhỏ có một vài chiếc nhúc nhắc hoạt động, dù bị
lỗ. Còn khối tàu 1000 mã lực không thể đánh cá được, chuyển sang chở hàng nhưng
hàng ngày một hiếm. Sau một thời vàng son độc chiếm nguồn hàng, giờ đây gần như
địa phương nào có biển cũng có tàu đông lạnh. Tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng
nghĩ nát óc và tìm ra một phương cách giải quyết. Khoán trắng cho các tàu đông
lạnh 1000 mã lực: Tự chạy lấy hàng đi hàng về. Tự chi phí, tự trang trải. Các
tàu tùy theo năng lực thiết bị, phải nộp khấu hao, quản lý phí cho xí nghiệp
theo mức độ khác nhau. Sửa chữa chuyến các tàu tự lo. Xí nghiệp chịu trách nhiệm
sửa chữa định kỳ. Các tàu đều kêu mức quản lý phí và nhất là mức khấu hao quá
cao, những con tàu đã hoạt động trên hai mươi năm, hết khấu hao từ lâu rồi,
nhưng cuối cùng đều vui vẻ chấp nhận. Tuy vậy không phải ai muốn xuống tàu cũng
được. Đó cũng vẫn là một cửa tuyệt vời.
Một cửa bao nhiêu người mong ước. Vẫn phải lựa chọn. Bộ khung
tàu tất nhiên do giám đốc duyệt. Lãnh đạo tàu, đặc biệt là thuyền trưởng giờ
đây lại càng quan trọng hơn bao giờ hết, đúng là một ông chủ tàu, toàn quyền
kinh doanh, toàn quyền hoạt động. Anh em thuyền viên vẫn do tổ chức xét duyệt,
lãnh đạo quyết như mọi khi dù có dễ dàng hơn đôi chút. Huy đã thay Nguyên, lên
làm thuyền trưởng tàu HL19, con tàu vận tải đông lạnh thật sự chứ không phải
tàu đánh cá mã lực nhiều chạy chậm, tiêu hao dầu lớn; con tàu nhận sau cùng,
thiết bị còn tốt, con át chủ bài của Liên hợp. Con tàu chắc thắng, con tàu bảo
đảm an toàn vì có Trần Đắc Khương, con ông phó giám đốc công an làm thủy thủ.
Đó là kết quả một nước cờ liều của Huy. Năm ăn năm thua. Nhưng Huy nghĩ phần thắng
nhiều hơn. Qua những lần gặp tổng giám đốc, trò chuyện cởi mở vì quan hệ giữa
hai người từ lâu đã được bôi trơn bằng nhiều cách, một hôm Huy đưa cho sếp mấy
đĩa phim sex, nói với sếp như nói với một người anh, rất thân tình:
- Những lúc căng thẳng quá, sếp xem cái này để thư giãn sếp ạ.
Với lại sếp cũng phải biết bọn nước ngoài nó ăn chơi ra làm sao. Nhưng cẩn thận
không sếp bà biết đấy.
Tổng giám đốc biết ngay đấy là những phim gì. Ông đỏ mặt vì
có người biết rõ những ý nghĩ thầm kín không hé lộ với bất kỳ ai của mình và vội
cho vào ngăn kéo bàn làm việc khóa lại. Sau cái vụ lòng thòng với Hoa gây dư luận
ầm ĩ, ông Thắng tự thấy mình thật ngu xuẩn. Suýt nữa mất hết. Bao nhiêu kẻ ghen
ăn ghét ở, kể cả ngồi lê đôi mách khiến câu chuyện loang ra khắp Hải Triều và cả
Hà Nội. Thật phúc cho ông, có đại ca che chắn. Với lại ngày ấy việc vận tải nước
ngoài đang lên, đang là một trong những đơn vị dẫn đầu toàn ngành về ngoại tệ,
việc khai thác cá còn chưa đến nỗi. Cũng may, lãnh đạo Liên hợp toàn là những
người biết mình biết người. Bí thư đảng ủy nguyên là một máy trưởng, trình độ
chỉ là sơ cấp về mọi mặt không thể sánh được với học vị phó tiến sĩ của ông,
ông bảo gì nghe nấy. Các phó tổng đều hiểu sau lưng ông là đại ca. Rằng dù có
thế nào ông cũng vẫn vững như bàn thạch. Chống lại ông chỉ có rước họa vào
thân. Tuy nhiên ông cũng thấy phải điều chỉnh ngay tắp lự lối sống. Giữ mình
như giữ lửa. Ông chuyển vợ và cô con gái về Hải Triều cùng ở với ông. Tiếp
khách, ông cử cấp phó đi. Không bia rượu, không thuốc lá, không nhà hàng...
Trong những ngày nêu cao đạo đức trong sáng ấy, ông luôn nghĩ tới một tấm
gương: Chuyện một ông chủ tịch thành phố nọ trong tết nhậm chức đầu tiên đã nộp
lại tài chính gần 10 tỉ đồng tiền mừng tuổi, nêu một ví dụ tuyệt vời chưa từng
có về sự liêm khiết để rồi sau đó thả sức tung hoành, ký biết bao nhiêu quyết định
về đất đai, về đầu tư, về nhà, về dự án, về bổ nhiệm, đề bạt, thuyên chuyển, và
cả những quyết định thuộc phạm vi tố tụng, chữ ký nào cũng ra vàng, ra đô la...
Tuy nhiên nhiều lúc ông vẫn thấy mình đang làm một việc quá sức. Ông tự bảo: Sống
thế này khác gì đi tu. Tiền nhiều để làm gì. Ông lại nghĩ tới ông chủ tịch
thành phố, tấm gương sáng của ông để tự động viên: Đời còn dài. Bây giờ chưa phải
lúc. Cầm mấy đĩa hình Huy đưa, ông thoáng chút ngần ngừ nhưng rồi lại tự trấn
an: Thằng này tin được. Nó còn đưa cả vợ nó lên cho mình cơ mà. Với lại nó chẳng
thể làm gì được mình với mấy thứ này. Mà mình cũng có biết mấy đĩa này là đĩa
gì đâu. Ông nhớ tới một tối đang phóng xe máy trên đường, thấy một người bán
băng đĩa ngồi dưới gốc cây vỉa hè chung quanh chẳng có một ai, ông đã dừng lại
hỏi mua, ông nhấn mạnh đĩa sex đấy nhé (nói mà đỏ mặt lên, mà sợ có người thứ
ba nào nghe thấy, nhìn thấy) và người đàn bà bán hàng cẩn thận moi từ hốc cây
ra một chiếc đĩa, cả quyết với ông là sex, sex nặng và bán cho ông với cái giá
đắt gấp mười lần. Mang về giấu giấu giếm giếm, đến sáng hôm sau mong con bé con
đi học, mong vợ đi chợ, để mở xem nhưng khi bật lên vừa tức vừa buồn cười: Toàn
nhạc đỏ là nhạc đỏ!
Hôm sau, Huy xách lên một cái đầu video.
- Em về nghĩ mãi, thấy tốt nhất là đem lên cho thủ trưởng cái
này. Chứ xem ở nhà có thủ bà bất tiện. Tivi phòng thủ trưởng có rồi phải không?
Đấy chính là điều ông Thắng đang nghĩ tới, đang băn khoăn.
Cái thằng đại phó này thật trên cả tuyệt vời. Cả xí nghiệp chỉ có nó biết ông
đang muốn gì. Ngay buổi trưa hôm ấy, về nhà ăn cơm xong, ông đến xí nghiệp
ngay. Cài trái cửa. Bật máy. Đến lúc ấy ông mới được xem những phim như thế. Những
phim ông đã nghe nói tới nhiều, nhưng chưa một lần được xem và trở thành một tò
mò ám ảnh. Ông coi Huy như một thằng em khi chuyến sau tàu 19 đi Hong Kong về,
Huy lại đến thăm ông với một món quà: một cái gì tròn và dài màu nâu khoanh lại
trong túi ni lông dán kín trong suốt. Huy thân mật:
- Đố thủ trưởng biết cái gì?
Chỉ nhìn dáng vẻ, cách hỏi đầy tự tin và thích thú của Huy, tổng
giám đốc đã biết món quà này cực kỳ quý giá. Ông nắn nắn cái vòng tròn cuộn
khoanh trong túi ni lông, cười cười:
- Chịu. Cái gì thế mày?
- Cái món kia của con hổ đấy thủ trưởng ạ. Hai hòn tinh hoàn
của nó đây. Sấy khô rồi. Thủ trưởng xem phần trên của nó có ghê không? Có gai
như xơ mướp. Vua chiến trường đấy.
Ông sếp giật mình:
- Thật à?
- Tuyệt lắm. Em đã thử một chiếc rồi. Ngâm rượu. Với vài lạng
vây cá mập, chén thuốc bắc, ít mật ong. Hôm nọ ông bác em bảy mươi tuổi ở thành
phố Hồ Chí Minh ra chơi. Em biếu một chai. Ông già mang về dùng, nửa tháng sau
điện ra: Tuyệt vời. Tao bây giờ như một thanh niên. Để dành cho tao một chai nữa
nhé.
Hai người cùng cười.
- Nhiều tiền không? Đắt lắm nhỉ?
- Đắt. Nhưng thủ trưởng không phải nghĩ. Thứ này cải lão hoàn
đồng đấy. Về mặt tăng cường hàng tiền đạo thì vô địch. Em thấy thủ
trưởng mải mê công việc quá
hình như quên mất món ấy rồi. Không được đâu. Cứ thế rồi hỏng
mất người đấy.
Lần đầu tiên nghe thấy những tiếng lạ tai tăng cường
hàng tiền đạo nhưng ông cũng hiểu ngay nội hàm của nó. Ông có quên chuyện ấy
đâu. Nhớ lắm. Nhưng ông đang sắm vai một người đạo đức. Một người mẫu. Còn bà vợ
ông đã hoàn toàn quá đát. Nhất là sau khi bà cắt bỏ cả hai buồng trứng. Ông biết
bọn phó tổng, bọn trưởng phòng chúng nó chơi bời rất ghê, ngay cả khách khứa đến
đây nữa, đều được đến những chốn vui vẻ ấy. Nhưng ông thì không thể. Ông là một
người mà nhà báo Duy Thông đã viết trên mặt báo: Không bia rượu, không thuốc
lá, không nhà hàng, tiếp khách là chỉ cử sếp phó đi, tổng giám đốc Hoàng Quốc
Thắng suốt ngày vì công việc, nêu một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng,
giữ vững phẩm chất. Vai diễn của ông là như vậy. Ông đã sắm vai ấy quá nhuần
nhuyễn quá thuần thục. Mọi người quen nhìn ông như ông vẫn diễn, vẫn sắm vai và
đã quên hẳn chuyện ầm ĩ ngày trước. Nhiều lúc ông thèm được từ bỏ vai diễn, sống
như bọn cán bộ dưới quyền. Rồi tự nhủ: Thôi. Đành để đến lúc nghỉ hưu. Cũng chỉ
còn năm, hơn năm nữa thôi. Thả sức ăn chơi. Thả sức tung hoành. Cái chính là phải
chuẩn bị tiền. Phải có quỹ đen. Không thể nộp hết cho bà ấy. Ông đã để nhiều tiền
lại trong ngăn kéo bàn làm việc. Nguyên trong phong bì. Trên mỗi phong bì tự
tay ông viết tên người, tên tàu, tên đơn vị gửi biếu. Dưới nước toàn tiền đô.
Chiếc một nghìn. Chiếc hai nghìn. Chiếc ba nghìn.
Chiếc một trăm. Hai trăm. Năm trăm. Các cửa hàng và đơn vị
trên bờ thì tiền Việt. Một triệu, hai triệu. Năm triệu, mười triệu. Nhiều. Ghi
tên lên phong bì để phòng xa. Cẩn thận hơn, ông còn lập một danh sách những người
đưa phong bì, dưới tiêu đề: "Số tiền nộp lên Bộ". Để khi có sự cố,
ông có thể nói những phong bì này ông chuẩn bị nộp lại nhà nước. Để trên thấy
ông là người liêm khiết và hiện nay tiêu cực đang hoành hành như thế nào. Ông
phòng xa như vậy sau cái vụ một ông vụ trưởng trên Hà Nội bị trộm mở khóa phòng
làm việc cuỗm đi hai trăm nghìn đô quỹ đen giấu vợ, may sao công an bắt được
ngay khi bọn trộm vừa vượt khỏi tường bao, phải chia cho công an một nửa, chuyện
kín lắm nhưng rồi cũng cứ ầm lên. Nhiều lúc ông thèm một người tâm phúc. Để được
nó đưa ông đến những chốn ăn chơi. Ông đã để ý tìm. Nhưng toàn một bọn khả
nghi. Khó tin. Còn đi một mình, ông sợ. Bao tai họa có thể xảy ra. Mặc dù biết
gần như tất cả các sếp đều đốt tiền ở những hộp đêm, ông bấm bụng làm người mẫu
mực. Bấm bụng chờ đợi cơ hội. Rồi cơ hội cũng đến với ông. Một đối tác cũng là
một tổng giám đốc tại thành phố Hồ Chí Minh đã dắt ông đi những bước đầu tiên
vào thế giới "ăn chơi tàn bạo" như chính ông ta nói ra miệng sau khi
cả hai bên đã ký một hợp đồng mà mỗi người có thể rút ra năm chục nghìn đô. Ông
bạn đối tác thân lái xe đưa ông đi. Một khách sạn sang trọng. Một khách sạn ông
ta cũng là người nhà, quen biết từ cô reception, tới anh chàng lễ tân mặc sắc
phục, cả cái buồng ăn cũng là quen thuộc.
Máy lạnh chạy. Rèm buông. Rượu ngon. Thức ăn tuyệt vời. Hai
tiếp viên xinh đẹp ngồi bên cùng uống cùng ăn. Rồi cài trái cửa. Rồi hai em ra
múa, vừa múa vừa tháo bỏ xiêm y. Rồi một cô tới ngồi bên ông, rót rượu đưa lên
môi ông, bón cho ông ăn, quàng tay qua vai ông, kéo tay ông đặt vào chỗ hồng
hoang ấy. Ông ngượng đỏ mặt nhưng khi liếc sang ghế đối diện, ông bình tĩnh lại
ngay. Hai người bên kia đang để hết tâm trí vào công việc của họ, không biết đến
chung quanh. Như hiểu nỗi lòng ông, người bạn đối tác nói với cô bé ngồi cạnh
ông:
- Anh Hai anh ngoài Bắc dô, chưa quen đâu. Cưng làm sao để ảnh
hổng quên cưng nghe.
- Dạ.
Tiếng dạ ngọt cong lăn tròn vào lòng tổng giám đốc. Một lúc
sau, lại tiếng ông bạn chủ xị:
- Hai nhỏ để bọn anh ăn chút xíu. Hai nhỏ biến mất nhưng
không ra khỏi phòng được không?
Ông còn chưa hiểu gì, những tiếng dạ mềm cong đã cất lên, hai
cô gái đã vén chiếc khăn bàn màu trắng và ẩn dưới gầm bàn. Rồi một cô gục mặt
vào giữa đùi ông...
Cái lần đầu tiên ấy đã để lại ấn tượng rất mạnh trong ông, gần
như choáng váng. Cũng như ông nhớ sáng hôm sau, từ biệt khách sạn, từ biệt cô
gái qua đêm cùng ông, ngồi trên xe ô tô, ông bạn tổng giám đốc đối tác vừa lái xe
vừa nói với ông:
- Ăn chơi là phải tàn bạo anh Hai. Trong này là dậy.
Ông nghĩ tới việc phải đáp lễ người bạn tuyệt vời mà lo:
- Anh ra ngoài ấy tôi không chiêu đãi được như thế này đâu.
Thành phố của tôi không được như trong này, nhỏ lắm mà.
- Đâu cũng có. Đâu cũng dậy. Hà Nội còn kinh hơn.
Ông thấy tốt nhất là tỏ ra mình nhà quê, tỏ ra mình
thành thật:
- Ớ ngoài ấy tôi chưa đi như thế này bao giờ. Tiếp khách là
chỉ để cho bọn phó nó đi.
Ông bạn như tìm thấy một tâm hồn đồng điệu, cười lớn:
- Nhập dai đạo mạo nghiêm túc rồi anh Hai. Tôi cũng dậy. Mình
ăn chơi nhưng mình còn phải nói. Khổ dậy đó anh Hai.
Và nói trúng phóc cái nguyên nhân chính:
- Anh Thắng chưa lái được xe hở. Học đi anh Thắng. Dễ ợt mà.
Những lần sau vào thành phố Hồ Chí Minh, bao giờ ông cũng gặp
người bạn quý mến của mình. Có những bận chẳng công việc gì nhưng nhu cầu được
sống trong không khí mình là thượng đế, được các em coi là một sếp ăn chơi tàn
bạo, được chơi cái trò chơi thân thể, ông bảo tài vụ, văn phòng chuẩn bị tiền,
vé khứ hồi cho ông để ông bay vào thành phố Hồ Chí Minh giải quyết công việc.
Nhưng chẳng thể cứ bay vào trong ấy xoành xoạch. Dô trỏng mà không đến
văn phòng đại diện là không được. Mà chẳng lẽ tháng nào cũng đến đại diện một
hai lần. Phải là hậu cần tại chỗ. Phải ngay tại đây. Tại Hải Triều này.
Ông thấy không có lúc nào thuận tiện hơn để nói với Huy như
nói với một người bạn tâm phúc, bởi người tâm phúc ấy đây rồi, người tâm phúc ấy
rõ ràng đang ngồi trước mặt ông. Ông chỉ vào chiếc dương vật hổ nửa đùa nửa thật:
- Ông cho tôi thứ này là ông hại tôi. Tôi có dám đi đến đâu
đâu. Mà bà ấy nhà tôi ngày trước hăng hái lắm nhưng bây giờ không có nhu cầu nữa.
Ông ông tôi tôi, chỉ nguyên cách xưng hô ấy Huy đã biết mình thắng
rồi.
- Em biết. Em biết chứ. Thủ trưởng cứ ngâm uống đi. Chuyến
này đi Nhật về, em sẽ đi với sếp. Sếp lớ nga lớ ngớ, có khi nguy hiểm ấy chứ.
Em sẽ là người dẫn chương trình cho sếp.
Ông Thắng vừa ngắm cái vòng tròn khoanh lại màu nâu ứa mật của
bộ sinh dục hổ vừa nghe Huy nói, từ luận cứ khoa học nếu công việc ấy không tiến
hành đều đặn con người sẽ hỏng, tới chuyện phó tổng của ông, Phí Đức Lâm phụ
trách cơ khí sửa chữa có một hũ rượu ngâm đúng một trăm bộ pín chó để
ở tủ đứng phòng làm việc. Lâm có bồ là con một ông bán thịt chó ở Bờ Sông, cô ấy
ngâm cho Lâm, chính Huy đã được uống, nhưng thứ ấy ăn thua gì, lại rất khó uống,
"cỏ rả, như mùi nước cá kho kinh lắm, thủ trưởng yên tâm đi, thứ này uống
lại ngon nữa, nhưng mỗi ngày cũng không nên dùng quá một chén con".
- Em có thể khẳng định với đại ca tất cả các cán bộ thân tín
của đại ca đều làm việc ấy, chỉ trừ mỗi đại ca thôi.
Tổng giám đốc nghi ngờ:
- Ông Thu bí thư thì sao?
Huy cười như thở hắt ra:
- Ông Thu mới vô địch. Bà ấy quản rất kỹ. Cả thời gian lẫn tiền
bạc. Ông ấy đã có cách. Thằng Viễn, con rể ông Thu giáo viên trường Ngô Sĩ Liên
đến nhà mời bố vợ đi uống bia. Làm sao mà bà ấy nghi ngờ được. Con rể bảo lãnh
cho bố vợ thì mẹ vợ tin quá còn gì. Bố vợ bảo lãnh cho con rể thì con gái chỉ
có tin sái cổ.
Rồi Huy khuyên ông một điều như người bạn tổng giám đốc trong
thành phố Hồ Chí Minh đã khuyên:
- Thủ trưởng phải học lái xe thôi thủ trưởng ạ. Đi xa, Hà Nội,
Thái Bình thủ trưởng để thằng Phi lái. Còn đi trong thành phố, hay quanh quanh
ngoại thành, ra Đồ Sơn thủ trưởng tự lái. Nguyên tắc lái xe cho thủ trưởng là
phải tốt nghiệp trường câm điếc, sau đó còn phải thêm ba năm chuyên tu tại trường
Nguyễn Đình Chiểu. Có thế mới đảm bảo.
Mãi ông Thắng mới hiểu điều Huy nói có nghĩa là lái xe cho thủ
trưởng phải hội tụ đủ ba tiêu chuẩn: có mắt như mù, có tai như điếc, có mồm như
câm. Ông bảo:
- Thằng lái xe của mình được cái cũng kín mồm kín miệng.
- Không kín mồm kín miệng sao được. Để thủ trưởng thay, nó
đói à? Thằng Phi dựa uy thủ trưởng kiếm ăn khá đấy. Những thằng lái xe khác xuống
tàu chúng em cùng lắm là được lon bia. Nhưng thằng Phi bao giờ cũng có suất.
Chuyến này các anh mua hộ em cái quạt,
chuyến sau các anh mua hộ em cái cassette. Tuần chay nào
không có nước mắt. Nó trung thành với thủ trưởng còn hơn trung thành với bố nó.
Nhưng bố cũng nhiều lúc chỉ muốn một mình bố, không muốn có con nào bên cạnh chứ.
Cả hai cùng cười. Đúng là Huy đã dạy ông nhiều điều. Mỗi
ngày một chuyện bổ ích và lý thú. Phải học lái xe. Ông có thể ra Quảng
Ninh, phóng về Hà Nội, tới Đồ Sơn, thậm chí vào Sầm Sơn Thanh Hóa với biết bao
thú vui chờ đợi. Khi về hưu rồi, nghỉ rồi, cũng phải có xe ô tô. Để đưa vợ con
đi chơi, đi nghỉ mát. Để tiếp tục đến những nơi cần đến.
Ông biết mình phải làm việc gì cho Huy để trả cái ơn này, cái
tình người chân thật này. Đưa Huy lên làm thuyền trưởng tàu HL 19 thay thuyền
trưởng Nguyên lên bờ nghỉ ba tháng chế độ trước khi về hưu, mặc dù Nguyên làm
đơn tha thiết xin phục vụ cho đến ngày cầm quyết định.
Rồi ông học lái ô tô. Học vào ban đêm.
Và đặt hàng Huy một chiếc dương vật hổ nữa để đem lên nhà Đại
Ca. Những tin đồn về việc Đại Ca gay go thật láo toét. Đại Ca vừa được đặt lên
một chức vụ cao hơn. Và có tin Đại Ca còn lên cao nữa.
--------------------------------
Stereo. |
VI
Ông Thắng đến nhà Đại Ca vào lúc 9 giờ tối. Khoảng thời gian
khách đã van vãn (nhà Đại Ca tối nào cũng đông khách). Đinh ninh món quà độc này
sẽ làm đại ca bất ngờ vui vẻ và nhất là tăng thêm tình thầy trò, một chút mỏng
manh còn lại của nghi thức sẽ tan vụn, từ nay hai ta là một. Như Huy đã làm với
ông vậy. Phố sấu um tùm, vắng vẻ. Xe dừng lại cách nhà Đại Ca một quãng khá xa
để hai thầy trò, ông và lái xe đi tiểu. Vừa bước chân xuống xe, lên vỉa hè, định
đi vào sát tường, nơi có bóng tối của các cây cổ thụ ven đường và nhất là các
cây leo xòe ra trên tường các ngôi biệt thự có cắm những cọc sắt nhọn hoắt
"làm việc giải thoát cho cái bong bóng" thì giật thót, rụt lại. Hai
người, một đàn ông, một đàn bà ăn mặc quê mùa, bụi bậm bật dậy từ vạt cỏ ngay
trước mặt:
- Hai ông ơi! Nhà các ông to ở đâu. Hai ông làm ơn...
Vẫn còn kịp nhận ra những nét đau đớn mệt mỏi
trên mặt họ. Chưa kịp trả lời thì đã rùng rùng những người xuất
hiện từ bóng tối sát tường bao những ngôi biệt thự dọc phố như những âm binh.
Ông Thắng lắc đầu quầy quậy:
- Tôi không biết. Tôi cũng là khách đến đây. Đang hỏi thăm.
Ông biết đấy là những người dân từ các tỉnh cơm đùm cơm gói kéo
nhau lên Hà Nội ăn chực nằm chờ, vạ vật vỉa hè quán chợ đưa đơn khiếu kiện. Nín
đái, hai người bước vội lên xe ô tô phóng thẳng đến nhà Đại Ca, ngoặt lên vỉa
hè dừng trước hai cánh cửa sắt đóng im ỉm. Người lính từ bốt gác bước ra, thấy
ông Thắng ló sau cửa xe, nhận ra người quen, anh ta gật đầu, ấn nút chuông trên
trụ cổng.
Cửa mở. Xe từ từ lăn bánh trên những hòn sỏi nhỏ rào rạo của
khuôn viên ngôi biệt thự và dừng cạnh hai chiếc xe ô tô khác.
Đại Ca thân ra tiền sảnh đón khách. Bước vào phòng khách, ông
Thắng ngạc nhiên khi thấy Quán Mèo và một người nữa. Ông phó giám đốc công an
thành phố Hải Triều! Bố thằng Khương thủy thủ tàu 19. Người đã nhiều lần ông tiếp
xúc và đang ầm lên khắp thành phố là sẽ bị khởi tố về chuyện bảo lãnh cho một
đường dây buôn ma túy. Báo đã đưa tin. Rồi chính một trưởng phòng thuộc sở công
an cũng nói với ông như vậy. Rằng nếu ông giám đốc công an thành phố về hưu thì
hồ sơ Trần Thạc được giở ra ngay. Còn nói chắc như đinh đóng cột:
- Sẽ xử Trần Thạc. Nhưng chầm chậm mới xử. Để tách ra khỏi vụ
Xuân Trường cho khỏi ầm ĩ.
Câu chuyện giữa chủ và khách, giữa khách và khách gượng gạo.
Ông Thắng hiểu ngay sự có mặt của mình là không đúng lúc. Ông biết Đại Ca đang
dở dang công việc. Nhìn thái độ tự tin của Quán, ông hiểu giờ đây trong quan hệ
với Đại Ca, Quán Mèo đã đứng trước ông, sát gần Đại Ca hơn ông, cái thằng ông vẫn
khinh bỉ cứt chó bón vườn hành ấy; còn ông chỉ là kẻ đứng ngoài rìa.
Nhưng sao lại là Quán Mèo? Sao lại là Trần Thạc? Ông lờ mờ hiểu. Và biết mình
phải làm gì.
- Thủ trưởng cứ tiếp khách đi. Em vào trong này xem con chó
Rockefeller 1 của
thủ trưởng mới mua. Tí nữa em ra.
Không biết là giống chó gì. Cứ nói đại là Rockefeller như
nghe Đại Ca trong điện thoại. Tháng trước, ông điện hỏi Đại Ca có muốn nuôi chó
cảnh không thì được Đại Ca trả lời là anh em trong thành phố Hồ Chí Minh vừa gửi
ra cho con chó Rockefeller nặng tám mươi ki lô, cái giống này ăn khỏe lắm, mỗi
ngày cân thịt, giá những bốn nghìn đô, nhưng một mình nó bằng cả một tiểu đội bảo
vệ, giống chó này xé xác cả trẻ con, người lớn, đêm thả ra là cực yên tâm...
May mà nghĩ ra con chó ấy để lánh đi. Suốt lúc ngắm con chó như con bê trong
chuồng rồi vẩn vơ ngoài vườn nhìn cây cối um tùm, ông suy nghĩ và đã lý giải được
sự có mặt của Quán và Thạc.
Suy luận được thời gian chứng minh là đúng khi Quán xây cái
biệt thự lớn ngay tại quê, sát con đường liên tỉnh mới mở. Có cả ga ra ô tô. Có
bốn toa lét. Có cả máy fax. Có cả máy lạnh, máy phun sương. Và Trần Thạc sau một
thời gian bị đình chỉ công tác lại được giữ nguyên chức vụ cũ dù phải chuyển từ
thủ trưởng cơ quan điều tra sang thủ trưởng cảnh sát hình sự.
Suy luận càng được củng cố khi Cứt chó bón vườn hành nói
với ông vừa đi dự khánh thành hai khách sạn mười tầng của Thạc, một chiếc ở Hà
Nội, một ở Quảng Ninh. Rồi một hôm giáp Tết, Quán bảo ông:
- Sáng mai cả gia đình Đại Ca về nhà em ăn cơm với vợ chồng
em đấy. Sếp sang nhà em nhé. Chỉ có ba anh em mình thôi. Em hỏi Đại Ca có mời mấy
ông thành phố không thì Đại Ca bảo không. Đại Ca bảo chỉ mời một mình sếp thôi.
Ông Hoàng Quốc Thắng nhìn Quán từ đầu đến chân như nhìn một
con cóc bỗng biến thành hoàng tử. Ông biết giờ đây, Quán là người ông phải nể sợ,
phải coi chừng kể cả phải nhờ vả. Quán không còn là Quán vẫn "kính biếu"
ông như trước nữa. Hiểu được cái nhìn của tổng giám đốc, mặt tỉnh bơ, Quán tiếp:
- Mai sếp đến nhé. Khoảng mười giờ. Nhà em dưới quê chứ không
phải ở khu Bãi Cát đâu.
Ông tin. Bây giờ ông tin ngày mai Đại Ca sẽ về nhà Quán. Ông
hiểu cái sợi dây tình thâm thắt chặt giữa Đại Ca và Quán là sợi dây gì. Những
ngày giáp tết thế này là những ngày gặt hái. Đại Ca bỏ hẳn một ngày gặt hái để
xuống đây với Quán. Một ngày gặt hái của Đại Ca đâu phải là một ngày gặt hái
bình thường? Xuống Hải Triều nhưng không gặp bất kỳ một chức sắc nào trong
thành phố. Ông nghĩ đến Trần Thạc. Đến Quán. Đến chuyện bất kỳ xe ô tô nào chạy
trên đương 5 bị giữ cứ nói là đàn em của Quán là xong hết. Đến chuyện Trần Thạc
vẫn vững như bàn thạch, dù báo đã đăng tin, dù đã có lúc bị đình chỉ công tác.
Rồi nghĩ đến tình thân của Đại Ca với Quán vượt cả tình thân với ông. Giờ thì
ông khẳng định những suy luận của mình là đúng. Chỉ không hiểu Quán quen Đại Ca
từ khi nào. Làm thế nào
Quán quen Đại Ca? Những người như Quán thật đáng kính nể và
đáng sợ. Muốn là được. Dù khó khăn đến thế nào chăng nữa.
° ° °
Khi tổng giám đốc giao cho các tàu tự tìm hàng đi hàng về, tự
kinh doanh tự trang trải, ai nấy đều biết xí nghiệp sắp đến hồi kết rồi. Tất
nhiên là khó khăn hơn nhưng anh em thuyền viên đều biết mình phải làm gì để vượt
qua khó khăn ấy. Và càng phải khẩn trương vì thời gian đâu có đợi. Dễ thôi. Đó
là việc bóc lột con tàu, bắt con tàu phải làm việc đến rã rời thân xác, vắt kiệt
nó, hạn chế thấp nhất việc sửa chữa. Mưa lúc nào mát mặt lúc ấy, được chuyến
nào biết chuyến ấy, nay ở mai lên, hơi đâu tính chuyện lâu dài. Dăm mười tấn
hàng cũng tách bến đi. Có khi đi tàu không. Đem tiền, đem đô la đi. Mua hàng từ
Nhật về bán ở Hong Kong. Mua hàng từ Nhật về Việt Nam. Muốn có lãi sau khi trừ
các khoản chi phí cống nộp phải là hàng cấm, hàng lậu thuế. Lại được lựa chọn cập
cảng nào ngon nhất, không bắt buộc phải về một cảng nhất định nếu không có hàng
về. Tổng giám đốc không phải không biết điều ấy. Nhưng đây là tình huống bất khả
kháng, chẳng còn cách nào khác, ông tự nhủ. Với lại chỉ còn năm, hơn năm nữa
thôi là ông đến tuổi hưu. Sẽ có người khác lo. Lại còn điều này: Các tàu đông lạnh
đều sắp đến ngày giải bản cả rồi! Hơn nữa cả nước này như thế, đâu phải mình
ông.
Chuyến đầu tiên thực hiện chính sách mới, các tàu đại thắng.
Ây là nhờ một trận động đất 7,5 độ Richter ở Nhật Bản. Không phải mua. Cứ việc
lên bãi mà khuân mà vác, mà thuê xe chở về tàu. Hàng chất cao như núi. Tủ lạnh,
tivi, xe máy, máy giặt, bàn ghế, xa lông, máy điều hòa không khí, nồi cơm điện.
Không chở về Việt Nam mà chở về Hong Kong. Khỏi phải khai báo, khỏi phải chịu
thuế, dù giá bán chỉ được già nửa so với chở về nhà. Cái quan trọng nhất là an
toàn, không lo dính dáng đến pháp luật. Cũng chỉ được một chuyến ấy. Những chuyến
sau lại phải tính bài. Lại cậy vách cabin. Lại cho đồng hồ Seiko 5 vào túi ni
lông bó chặt thả xuống hầm dầu. Lại cho thuốc con nhộng xà phòng thơm, máy tính
bỏ túi, đồng hồ điện tử, quạt bàn xuống hầm máy, vặn lại ốc vít rồi rẩy nước muối
lên trên để tất cả là một màu rỉ sét mà chẳng hề mảy may xót máy xót tàu.
Lê Mây được xuống tàu HL12 với chức danh thuyền phó 3 trong
thời kỳ khó khăn mà cũng là vàng son ấy. Ba chuyến đầu thắng lợi. Những tưởng sẽ
mang lại cho vợ con một cuộc sống khá giả hơn. Những tưởng sẽ làm nên một cuộc
đổi đời. Ông thuyền trưởng già nóng tính, say cá, say biển, giờ đây là ông thuyền
phó 3 một tàu vận tải nước ngoài, nghĩa là phó gạo, chuyên trông nom sinh hoạt
ăn uống cơm áo gạo tiền, học cách buôn lậu và cúc cung tận tụy phục vụ cánh hải
quan trẻ chỉ bằng tuổi con ông. Không chỉ giờ chính quyền, nửa đêm họ đập cửa
cabin ông:
- Mây ơi! Dậy bảo cái này.
Họ vào phòng ông kiếm tô mì, lon bia để ra câu lạc bộ đánh bạc.
Đang ngủ ông choàng dậy. Cố nén sự bực bội khó chịu và sau này là sự kinh tởm,
ông nhẫn nhục nặn ra một bộ mặt tươi cười chào đón họ. Một đêm, hai đêm. Một
chuyến, hai chuyến. Cho đến khi không chịu được tiếng đập cửa thình thình, tiếng
"Mây ơi! Mây ơi!" xách mé, láo xược ấy nữa, ông mở cửa quát vào mặt họ:
- Mây mây cái gì cũng phải để sáng mai nhá! Cũng phải để người
ta ngủ nhá!
Rồi ông đóng sập cửa lại.
Ông bị giết. Hai chuyến liền ông bị giết. Cả
tàu thắng, chỉ mình ông bị giết. Tịch thu sạch. Một thùng thuốc con
nhộng. Năm chục cái Seiko. Xà phòng thơm bị thu hết, chỉ còn một "đố"
và một bánh đang dùng dở. Tivi, cassette không còn cái nào. Cái quạt ghẻ cũng
thu. Suốt đêm ông đứng vịn lan can nhìn xuống dòng sông nước chảy. Dòng sông cứ
miệt mài chảy mãi, chảy mãi. Ông nghĩ đến vợ con, đến món nợ ông vay để đi buôn
bao giờ trả được?
Câu chuyện Lê Mây cùng với nhiều thuyền viên bị giết càng
lâm ly khi chính An kể lại. (An đã lên bờ sau khi đi tàu vận tải ngoại thương mấy
năm ròng). Kể lại cho mọi người nghe ở thư viện. Kể lại khi tàu HL02 đang bị
khám ở cầu cảng. Câu chuyện bắt đầu từ những thông tin của Lập về tàu 02.
- Tàu đã làm việc với hải quan đâu vào đấy rồi. Đã đưa cho thằng
Cam thiếu tá công an mười triệu rồi. Nhưng nó chê ít. Nó cho quân phục kích
rình bắt được một thủy thủ mang lên một cái tivi. Thế là kết luận tàu có hàng lậu.
Bố trí canh gác tàu ngay. Đầu tiên là làm tự khai, mỗi người 5 máy (cassette,
tivi) đem ra câu lạc bộ. Nhưng không khám. Cứ án ngữ. Lơ lửng con cá vàng. Vỏ
bia ngập câu lạc bộ. Ăn. Uống. Hút. Vẫn không khám. Cứ treo. Thế mới chết. Ba
hôm sau mới khám. Khám cả ống khói. Ra hàng trăm cassette, tivi, đầu video.
Khám mấy hôm rồi. Hôm nay vẫn còn đang khám. Các ông có biết mấy đứa con gái
Chùa Đỏ vẫn ăn cướp dầu không? Chúng nó nhanh lắm. Có tàu xuống dầu nó biết
ngay. Làm mấy xô ngay. Tôi gọi là phượng hoàng vồ mồi. Nó đã ngoáy bảo
vệ đấy. Ngoáy xong vẫn ngang nhiên ra vào xí nghiệp. Một con phượng
hoàng bay đứng nhìn khám tàu hai. Tay công an đuổi. Nó bảo: Tàu
không phải của các anh. Xí nghiệp không phải của các anh. Đuổi cái đéo gì. Người
ta không đuổi thì thôi. Việc đéo gì đến các anh. Rồi nó cứ vừa đi vừa nói một
mình: Địt mẹ. Người ta đi vất vả, sông nước kiếm miếng ăn, lại kéo đến ăn hớt
tay trên của người ta, cướp miếng cơm của con người ta.
Rồi Lập cười:
- Nó cứ nói thế mà không dám làm gì nó đấy. Mình nói thế bỏ mẹ
ngay. Nó đang đứng ngoài kia kìa!
Toàn hỏi:
- Hôm nay vẫn còn khám cơ à? Tưởng xong rồi.
- Kia kìa. Hải quan đứng dạt ra kia kìa. Đang khám đấy. Hạ
Long là chùm khế ngọt. Công an, hải quan trèo hái suốt ngày...
- Hôm qua ô tô chở hàng thu được về sở công an. Hải quan
không cho đi. Bắt phải dừng xe kiểm tra. Công an đưa giấy viết tay. Hải quan không
nghe. Phải đếm từng chiếc. Đếm xong thừa ra mấy chục cái tivi cassette. Lập
biên bản, ký vào rồi mới cho đi.
Lập reo:
- Đúng. Đúng. Hàng từ tàu lên phải qua hải quan.
An cười:
- Dạo tôi còn đi tàu, hàng hóa công an thu mang lên, hải quan
yêu cầu đếm từng bánh xà phòng. Nhiều xà phòng quá. Công an không nghe. Hải
quan kiên quyết không cho lên.
- Sau rồi sao?
- Công an đem vào câu lạc bộ. Đầy nửa câu lạc bộ. Khóa cửa
niêm phong. Công an cắt người gác. Hải quan cũng gác. Hai bên cùng gác. Một tuần
lễ liền. Chỉ chết mình. Các ông bảo còn làm ăn gì được nữa. Anh em thì cũng còn
tí tỉnh phải bông hoa nhỏ chứ. Hôm nào cũng phải nấu thêm một nồi cơm
cho các ông ấy. Bia. Rượu. Thịt. Nhìn nhau muốn chết.
- Sau rồi sao?
- Công an đem ra. Không phải kiểm tra gì.
Tất cả ngớ ra. An giải thích:
- Hội công an bên trên dàn xếp với hội hải quan bên trên. Các
sếp. Các sếp ra tay là xong thôi. Chỉ anh em chết. Tôi nhớ xong xuôi rồi có người
không ăn được.
Nhiều người. Nhiều người đứng suốt đêm trên boong, vịn lan
can nhìn sông Sài Gòn, như ông Mây này này. Ông Mây cũng khổ. Đứng từ tối đến
sáng. Mưa ướt áo không biết. Nghiện rượu như thế mà mấy ngày liền không đụng một
giọt. Cơm không ăn. Mưa không biết. Nắng không hay. Như người chết rồi. Ông Mây
nợ nhiều lắm. Có làm đến cả đời cũng không trả hết nợ. Thấy bảo ông ấy đang xin
lên bờ về đánh cá. Đánh cá bây giờ có ăn thua gì nữa đâu...
Nói rồi chỉ tay vào Đay đang ngồi lật lật mấy tờ báo ở bàn
bên cạnh:
- Ông Đay đây này, chuyến ấy cũng mất gần hết.
Thấy nói đến mình, Đay, Pha Ra Đay rời tờ báo ngẩng
lên, lúc lắc cái đầu:
- Mình thì được nó nuôi béo rồi mới giết. Còn ông Thuấn thanh
tra, ông Mây, nó giết ngay lúc còn gầy. Nguyên tắc chung là nuôi béo rồi mới giết.
Ông Thuấn thì vạ lây. Còn ông thuyền trưởng cũ của tôi quên mất nguyên tắc tối
cao: Hải quan là bố mẹ.
Ngừng một lát rồi vung tay:
- Ây thế mà có lần tớ dọa bọn hải quan chúng nó sợ đấy. Tớ chỉ bông
hoa nhỏ năm đôi giày, hai cái máy tính bỏ túi mà chúng nó phạt hai bìa.
Xách hàng đi qua chỗ chúng nó ngồi ở đầu cầu gần băng chuyền cá. Nó bảo anh có
giày cho em mua một đôi. Nó nắn giày, thấy có máy tính. Thế là nó bắt quay lại
phòng, không cho lên bờ nữa. Ngồi một mình trong phòng, nghĩ lo quá, không biết
rồi ra làm sao đây. Thì có tiếng đập cửa. Tớ không mở. Bên ngoài cứ đập. Hóa ra
ông Hồ, thuyền trưởng. Ông Hồ vẫy ra cửa dặn dò: Chúng nó vừa vào gặp tôi. Bao
nhiêu ông cũng phải chiều chúng nó. Chúng nó mà lập biên bản khám tàu, ông phải
lên, chết cả nút. Một lúc sau hai thằng ấy vào phòng đòi bốn vé chứ không phải
hai như trước nữa. Tớ bảo: Tao nói cho chúng mày tao chỉ mua hai mươi cái máy
tính thôi. "Ai biết anh mua bao nhiêu. Anh muốn nói hai cái, hai mươi cái,
hai trăm cái, hai nghìn cái cũng kệ anh. Bốn vé là bốn vé". Tớ nhất định
chỉ hai vé. "Anh không chịu bốn vé thì thôi. Cũng được. Chúng tôi lập biên
bản, khám tàu. Anh em tàu sẽ giết anh. Anh phải lên bờ mà cũng chẳng còn gì nữa".
Tớ vẫn cứng: Cũng được. Các chú cứ lập biên bản đi. Lên thì lên. Khám thì khám.
Các chú không thương tao đành chịu. Chết cũng được. Một thằng bảo tùy ông anh
thôi. Đừng oán chúng tôi. Một thằng viết biên bản. Mình ngồi mở bia hộp uống,
không mời. Hai thằng kia cũng vớ lấy bia, bật nắp uống. Tớ thấy mừng. Lúc chúng
nó mới vào mình mời bia, chúng nó không uống. Bây giờ uống là có vẻ êm rồi đây.
Mình dấn thêm: Các chú nhớ mặt tao. Các chú cướp bát cơm của con tao. Tao chẳng
chịu chết mà không làm được việc gì. Một thằng hỏi: Anh làm gì? Ít nhất tao
cũng nói với cấp trên của các chú là các chú đòi bốn vé, tao chỉ có hai, nên
các chú mới làm biên bản, khám phòng. Việc ấy tao làm được. Thế là thằng ngồi
hút thuốc lá nói với thằng làm biên bản: Thôi anh ấy đã nói thế thì...
Tất cả cười ầm:
- Xoa đấy. Xoa đấy.
Đay gật đầu:
- Xoa. Thằng đấm, thằng xoa. Nó đồng ý hai vé, bắt đưa ngay.
Mình chơi bài rắn, không đưa: Tao làm gì có tiền. Tàu vừa về. Tao vừa bông
hoa nhỏ thì chúng mày bắt. Chúng nó nhất định không nghe. Cứ đòi đưa ngay.
Mình móc túi đưa hai nghìn Hong Kong. Nó bảo tiền gì thế này. Mình bảo tiền
Hong Kong. Tờ bạc đỏ đấy. Đổi tiền nhưng không mua hết đấy. Buôn bán
gì. Có thật không đấy. Tiền thật hở. Anh chịu trách nhiệm nhé. Hóa ra chúng nó
chẳng biết tiền gì vào tiền gì. Mình bảo nhận tiền làm tin, chiều tao giao hai
vé ở hàng nước Ngã ba Đông Dương. Nói vậy nhưng buổi chiều mình không ra. Chúng
nó đón. Gọi. Mình bảo làm gì đã có. Phải để tao bồng hết máy tính bán mới có chứ.
Chúng nó nhất định không nghe. Mình đưa, nhưng từ bấy cho đến hết chuyến, những
bông hoa nhỏ mình không đưa cho hai thằng một đồng nào nữa.
Lập hỏi:
- Vẫn hai thằng ấy à?
- Vẫn hai thằng ấy. Sếp của nó chơi trò hai thằng một tàu từ
đầu chuyến đến cuối chuyến. Vì ca kíp đổi nhau thì ca này bảo ca em ít người
lên bờ, không có mấy, ca sau cũng thế. Sếp phèo.
Lập cười:
- Tức là khoán gọn. Chơi trò khoán gọn.
- Hai thằng ấy đánh bạc mới khiếp. Đánh với thủy thủ. Trong
câu lạc bộ. Có lúc thằng đánh, thằng gác. Có lúc hai thằng cùng đánh. Chúng nó
thua hết. Đến khi về lại tay trắng.
Lập vẫn đầy ấn tượng về cách quản lý của các sếp hải quan,
xuýt xoa:
- Khoán gọn. Hay. Công nhận.
Đay bảo:
- Khoán gọn là không chạy đi đâu được với sếp. Vì thế chúng
nó rất dễ tính, để anh em mang hàng lên nhiều. Càng mang lên nhiều càng thu nhập
nhiều. Mô nô hai mươi nghìn. Xít te bốn mươi nghìn. Tivi: tám mươi nghìn. Đầu
video một trăm nghìn. Hoa nhỏ thì một bánh xà phòng cộng một bao thuốc,
hay một lọ dầu xanh cộng một lọ dầu gội đầu. Mà làm rất thô. Đi qua chỗ chúng
nó gác cứ tự giác bỏ vào túi du lịch của chúng nó mở toang hoác để ngay bên.
Lập vẫn gật gù khen khoán gọn hay. Đay bảo:
- Ngày hải quan còn chia ca kíp gác, đến tối chúng nó chia
nhau ở câu lạc bộ mới buồn cười. Anh nọ bảo anh kia thăn thiến, suýt đánh nhau.
Chúng tớ đi qua vẫn đù mẹ đù cha chẳng ý tứ gì.
Chuyện van vãn, Lập kéo Toàn đi ra cầu cảng xem khám tàu
HL02. Đay cũng ra theo. Nước xuống. Trên boong tàu không một bóng thủy thủ.
Boong lái rộng lọt thỏm mấy chiếc tủ lạnh, máy giặt, tivi (đều có ghi tên người,
viết bằng mực tím) một chiếc đi văng bọc da nhàu nát bạc phếch ố loang. Toàn
hàng tầm tầm. Chỗ cầu thang bắc từ cầu cảng xuống tàu, một anh công an quân hàm
nghiêm chỉnh, ngồi trên ghế dựa, khuôn mặt tròn căng, bình thản. Một anh công
an khác từ trong hành lang giữa tàu bước ra xách hai cái cassette, một chiếc quạt
bàn đã tháo rời cánh và bảo hiểm trông càng thảm hại. Lập bảo Toàn:
- Cassette kia là cassette mô nô đời 1951. Quạt kia là
Mitsubishi từ thời Napoléon cởi truồng.
Đay hỏi:
- Các ông có biết vì sao nó làm lâu thế không? Năm hôm rồi
chưa xong.
Lập lắc đầu. Toàn đáp:
- Chịu. Về mặt này tôi rất dốt.
- Vì chưa có bấu đít.
Thấy Toàn đứng ngây ra, Đay bấu mạnh vào mông Toàn:
- Tức là thế. Bấu đít mà. Ông không hiểu à. Một cái mặt bích.
Sáu con bu lông. Tháo năm rồi, còn một con nữa. Nhưng anh xuống bấu đít một
cái. "Anh Cam đấy à?" "À. Anh Thích". "Các anh cứ làm
đi. Làm triệt để vào". "Các cậu làm đi nhé. Bảo đảm nhé". Nhưng
cái bu lông thứ sáu ấy không tháo đâu. Bấu đít rồi. Xong rồi. Ngã giá rồi.
- Tàu vẫn còn hàng cơ à? Tưởng hết rồi.
- Còn. Còn nhiều.
Và chỉ tay sang chiếc tàu HL12 đỗ gần đó, vắng tanh vắng ngắt
không một bóng người, như một con tàu hoang, một con tàu chết, chỉ một anh hải
quan ngồi gác ở đầu cầu thang bắc xuống mặt cầu:
- Thằng Mười hai mới khốn nạn. Về ba hôm rồi. Chưa
làm thủ tục. Cứ nhìn thằng bên này bị khám bị thu. Hàng thì đấy ắp. Quá ôm một
quả bom nổ chậm.
- Tưởng tàu nào cũng có đóng góp và làm việc rồi.
- Làm việc với quận thì thành phố khám. Làm việc với
thành phố thì trung ương khám. Làm việc với hải quan thì công an
khám. Sao cho xuể được.
Toàn như ngộ ra được một điều, nghĩ thầm: Nguy hiểm căng thẳng
như thế, nó chẳng cho mình cái gì cũng phải thôi. Đó là xương là máu.
Anh bảo Lập vẻ tuyệt vọng:
- Chẳng hy vọng gì. Hết sạch tình thương rồi Lập ạ.
Có nhiều người nữa bước ra cầu cảng, Thám, Cảnh,
Nhạn, Liễu, Vinh, Thu. Xem. Nhìn. Ngắm. Cả hai phượng
hoàng bay... Nhiều người đứng ở ban công phía sau dãy nhà làm việc nhìn
ra. Một lúc lại vào. Cầu tàu vắng ngắt.
° ° °
Cuộc sống cứ như vậy trôi theo dòng thời gian. Tàu về, tàu
đi. Người đại thắng, người bị giết. Những người rách việc trên bờ cũng vậy. Người
gặt hái. Người trều. Cũng có những biến đổi quan trọng với một vài người.
Chẳng hạn như Vân đã chuyển sang phòng xuất nhập khẩu, mua xe
máy, trong túi lúc nào cũng có Capstan, ba số, thỉnh thoảng lại đưa văn phòng
phô tô hoặc đánh máy những vận đơn, những quota, những công văn mở
LC. Còn bà Phương vẫn chẳng già đi vì tuổi bà đã đứng lại rồi. Bà vẫn tuyên bố:
"Hai năm nữa tao hưu. Quá một ngày cũng không ở lại. Nhường cho lớp trẻ".
Và thỉnh thoảng bà vẫn đi công tác xa, tới những vùng có tiếng kèn đám ma và
mùi hoa huệ. Thấm nhuần câu "Cả đời phấn đấu không bằng cơ cấu một
giây", Xuân trố lại mở một đợt phấn đấu mới, vì đại hội công đoàn vừa qua,
Xuân vẫn chưa được cơ cấu, đứng trong hàng ngũ kế cận, chưa được giới thiệu vào
chấp hành. Và vẫn tiếp tục chiêu độc: Ngoài báo và những chuyện thời
sự, chuyện lạ đó đây ra, là những buổi chiếu phim video hẹp. Chỉ những cán bộ
chủ chốt mới được xem. Đóng cửa. Nội bất xuất. Ngoại bất nhập. Rời phòng kín bước
ra trước mặt đám nhân viên lặng lẽ nhìn một cách tò mò, ai cũng thấy mình là
người quan trọng. Triển vọng Xuân là cán bộ kế cận thật nhỡn tiền.
Cánh văn phòng, ngoài hội xin đểu vẫn tiếp tục hoạt
động (nhưng ngày một ít hiệu quả) đã mở thêm hội nấu rượu lậu, có cả
nhóm phụ nữ phòng tài vụ cùng tham gia. Chả là một hôm Toàn thấy trên ghi đông
xe đạp mình có treo một túi quần áo ướt đã giặt (phòng văn thư rộng nên xe đạp
của anh chị em văn phòng được để cả vào đấy dù đã có quy định tất cả các xe đạp,
xe máy phải gửi ở nhà xe), Toàn kêu to:
- Đứa nào ném bã rượu lậu vào nhà tao thế này?
Cô Phòng cười:
- Em đấy. Rượu của nhà em đấy.
Thế là danh từ cất mẻ rượu được khai sinh và trở
nên thông dụng.
- Khiếp. Hôm nay em cất mẻ rượu to quá.
- Con mụ Thúy một mất một còn, mẻ rượu nhà nó mới
ghê chứ. Hai cái màn. Một cái vỏ chăn.
Nước hiếm, cánh phụ nữ ngày nào cũng có vài ba người cất
rượu. Được cái phòng toa lét nữ có chữ Lady, thấy cửa đóng là chả
ai dám vào, kể cả chánh tổng và phó tổng.
Toàn cũng đã hoàn thành một nhiệm vụ lớn lao: Làm xong việc đề
nghị tặng thưởng huân chương độc lập hạng ba và tổ chức lễ đón nhận huân
chương. Nhưng chính vì việc ấy mà Toàn buồn. Ý định về hưu non cũng nảy sinh từ
đó. Xin được huân chương cho xí nghiệp, Toàn đã vượt qua bao khó khăn với bao
nhiêu cố gắng. Lên Bộ. Lên Hội đồng thi đua thành phố. Lên Viện Huân chương.
Lúc đầu đến đâu cũng suông thôi. Nghe chừng có những hứa hẹn rồi phải có tí
quà. Mà quà gì? Toàn thì có thể dám xin mua quà gì. Công việc thi đua bây giờ lạc
lõng. Chạy vạy mãi và cũng là có áp lực, có giấy của chủ tịch công đoàn, Toàn mới
mua được hai cái phích Đại Thủy Nông Trung Quốc, và xuống tàu đi nước ngoài
xách lên được một hộp bát sứ Giang Tây, những thứ hàng đặc biệt giá trị mà hoàn
toàn không phải chuyện đút lót biếu xén, mang lên Viện huân chương. Còn anh thi
đua Bộ, các chiến hữu ở Hội đồng thi đua khen thưởng thành phố lại phải có cách
khác. Ai cũng muốn xuống nghe báo cáo và trực tiếp làm việc, xem xét. Cái thứ
nhất là được đi dã ngoại, thay đổi nếp sinh hoạt hàng ngày, thoát khỏi không
khí tù đọng giữa bốn bức tường, ngồi nhìn nhau mà chẳng có việc gì làm, thứ hai
là được tham gia vào một cuộc tham quan, rồi còn được nghe báo cáo, thăm cơ sở,
xuống phân xưởng, xuống tàu, được tiếp xúc với người lạ, cảnh lạ rồi ăn uống
bia bọt, và thế nào mỗi người chẳng được một cái phong bì bằng cả tháng lương.
Khoản tiền này, Toàn viết giấy đề nghị nhưng cũng không dám đưa tổng giám đốc
ký, mà đưa cho chủ tịch công đoàn. Chủ tịch công đoàn không chỉ duyệt chi trích
từ quỹ khen thưởng mà còn thân hành cùng Toàn xuống phòng tài vụ gặp cô
Thúy một mất một còn để cô lệnh cho nhân viên viết phiếu chi. Đã xong
đâu. Thủ quỹ hết tiền. Lại phải chờ...
Cũng phải nói thêm không phải cứ mời là trên Ban 2 xuống
ngay đâu. Cả thành phố nhiều nơi mời lắm. Ban chỉ xuống những nơi trọng điểm,
những nơi có máu mặt, có chiến hữu, gặt hái kha khá một tí. Đã từng một thời
gian công tác ở Sở công nghiệp nên Toàn quen biết gần hết mọi người trên Ban và
được coi là chiến hữu. Tấm huân chương Độc Lập hạng Ba coi như tiết mục không
thể thiếu trong dịp kỷ niệm bốn mươi năm thành lập xí nghiệp. Toàn biết trách
nhiệm của mình. Anh đã lên Ban, và được các chiến hữu trên ấy nhận lời về nghe
lãnh đạo xí nghiệp báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm. Nhưng phải chờ tổng
giám đốc đi Thái Lan về đã. Khi tổng giám đốc về đã được một tuần, đã họp hành,
đã trao đổi, đã chuyện vui, đã nắm tình hình xí nghiệp đâu ra đấy, lựa lúc sếp
ngồi xa lông chỉ có một mình, Toàn mới khẽ khọt:
- Báo cáo anh, về việc đề nghị huân chương Độc Lập của xí
nghiệp, các anh Hội đồng thi đua thành phố muốn nghe tình hình thực hiện kế hoạch
năm. Các anh ấy đã xuống xí nghiệp từ trước khi anh đi Thái Lan. Anh Điều chánh
văn phòng có hẹn họ để đợi anh về. Còn cái công văn hiệp ý của Bộ gửi Hội đồng
Nhà nước thì Bộ không gửi cho ta mà chỉ gửi thành phố. Tôi mượn được trên Ban
Thi đua thành phố để biết và để báo cáo với các anh. Thưa anh, các anh trên Ban
đề nghị thứ bảy tới sẽ xuống làm việc với ta. Nghe báo cáo kết quả thực hiện kế
hoạch cả năm của xí nghiệp, kết hợp giải quyết trường hợp huân chương lao động
cho anh Thu, bí thư luôn thể.
Đó là bài bản của Ban. Làm như vậy là có thể dứt điểm được
ngay việc tặng huân chương vì Bộ đã có công văn hiệp ý với Viện Huân chương rồi.
Kết quả của bao nhiêu cố gắng, sự quen biết để đi thẳng tới đích, những tưởng
được sếp khen, chí ít cũng gật đầu ngay tắp lự, không ngờ sếp nổi giận đùng
đùng:
- Sao việc gì anh cũng dồn đến tôi? Trăm thứ việc đều vào tôi
cả. Tôi đã đề ra hướng. Các anh ở nhà cứ thế mà làm. Lại phải chờ tôi về. Anh
làm việc hay không làm việc? Các anh chẳng chịu tự động làm một việc gì cả!
- Thưa anh. Đến bây giờ ta vẫn chưa làm báo cáo tổng kết
xong. Tình hình chung cả năm phải là tổng giám đốc mới phát biểu được.
Toàn định nói: Tổng giám đốc là chủ tịch Hội đồng thi đua xí
nghiệp nhưng không dám vì nó có vẻ quy trách nhiệm cho sếp.
Tổng giám đốc càng tức giận. Chưa bao giờ Toàn thấy sếp như vậy:
- Anh lúc nào cũng lễ phép. Thưa anh. Thưa anh. Gặp
tôi là thưa anh thưa anh. Công việc thì cứ chờ tôi. Tôi ốm, tôi chết
ai làm. Ăn chia có gọi tôi không? Tôi đi vắng đã có phó chứ!
- Vâng. Nếu anh ủy nhiệm thì để anh Phiên gặp các anh trên
Ban.
Phiên là phó tổng giám đốc thứ nhất. Toàn đã gặp Phiên khi sếp
còn đang ở Thái Lan, và Phiên đã cho Toàn một trận tơi bời: "Ông chẳng hiểu
gì cả. Thi đua là tổng giám đốc chứ không phải tôi. Tổng giám đốc đi vắng thì
chủ tịch công đoàn chịu trách nhiệm. Ông làm thi đua bao năm mà không biết
à?" Toàn gãi đầu gãi tai: "Thưa anh, anh Liêu chủ tịch công đoàn nói
báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch cả năm phải là tổng giám đốc".
"Thế thì anh gặp tổng giám đốc chứ sao lại gặp tôi?" Toàn cứng họng.
Sếp chánh tiếp tục trận lôi đình:
- Anh có mỗi việc lên Bộ lấy cái giấy cũng không được. Quá vô
trách nhiệm!
- Thưa anh. Về nguyên tắc, công văn hiệp ý họ không gửi cho
mình. Mà chỉ gửi cho Uy Ban nhân dân thành phố. Tôi đã ghi số công văn, ngày gửi.
Các anh trên Ban thi đua bảo đảm với tôi thế là được.
Sau cuộc gặp ấy, Toàn ngồi ngay ở bàn làm việc ghi vào quyển
sổ công tác những cảm xúc ập đến đầy ắp trong lòng. Nhục quả. Thật đau khổ
và nhục nhã cho tôi. Bản rẻ nhân cách để có thêm cái phần mềm. Thêm được năm chục
nghìn một thảng. Thì đã vào mồm mình ba mươi nghìn rồi. Vì phải ăn sảng. Vợ con
phải hầu hạ. ơ nhà thì chỉ cơm rang. Quần ảo đỡ hại. Đỡ tốn xà phòng hơn. Chỗ
hai chục dôi ra cũng có còn nguyên đâu. Vậy mà phải chịu nhục. Tôi cứ đối thoại
một mình với sếp: Tôi và anh cùng là sản phẩm của cải cơ chế này. Nó đẻ ra anh
và sinh ra tôi. Tuy hai cực nhưng cùng phản ảnh một bức tranh, một thực trạng.
Tôi bị đẩy xuống đảy vì tôi trung thực vì số tôi nó thế. Anh lên chót vót vì
anh dối trả và cũng vì số của anh. Tôi có gì mà ăn chia. Xã hội là thế đấy. Thằng
ăn chia bẫm lại bảo thằng đói rạc: An chia anh có gọi tôi không? Cải đặc điểm
chung của bọn làm sếp này là không biết xấu hổ. Là vô liêm sỉ.
Toàn cười nhạt và một ý nghĩ đến bất chợt: Hôm nào xin được
cân cá sẽ gọi Thắng vào ăn chia. Thế là cu cậu từ nay hết đường nói mình.
Quăng quật, nhục nhã thế mà cuối cùng khi đã được huân
chương, khi Toàn đã lên nhận huân chương trên Ban mang về xí nghiệp và đã đến
ngày lễ trao huân chương sếp lại nổi cơn thịnh nộ.
Có lẽ chỉ vì cái lớp học tiếng Anh ban đêm. Hội trường đã được
quét dọn, bàn ghế đã được kê từ buổi chiều. Nhưng buổi tối, lớp học tiếng Anh
do phòng xuất nhập khẩu tổ chức đã làm hỏng hết cả. Bàn ghế xô lệch. Đầu mẩu
thuốc lá vung vãi. Buổi sáng phát huân chương, tổng giám đốc xô vào bắt gặp
Toàn và Điều đang ngồi xa lông. Thế là:
- Các ông lên mà xem. Nhà cửa bẩn quá. Không khác gì một cái
chuồng lợn. Tí nữa khách đến rồi. Lẽ ra các ông phải cho thằng Cảnh quét từ hôm
qua. Các ông làm cái gì tôi không hiểu được. Đúng là thợ nói. Làm ăn như vậy!
Bây giờ nó mới quét bụi mù lên.
Việc tổ chức buổi lễ, quét dọn hội trường, kê bàn ghế, giải
khăn rồi ấm chén uống nước và sau đó cỗ bàn ăn uống là trách nhiệm của Điều.
Nhưng Toàn cũng giật thót người. Toàn và Điều cùng đứng dậy. Tổng giám đốc lắc
đầu chán nản:
- Thôi. Bây giờ còn lên làm gì. Nó đang quét rồi.
Còn ai có thể ngồi xa lông được nữa. Thế nhưng vẫn cứ phải ngồi
mà chịu trận thôi.
- Khay đâu? Không cái khay, để huân chương lên đâu? Phải có
khăn phủ lên khay nữa. Ông Điều về nhà tôi lấy cái khăn nhung lên đây.
Nhà sếp vẫn ở đấy, tầng hai cái biệt thự dùng làm nhà khách ấy.
Mấy năm nay nhà sếp có sếp bà. Sếp bà làm văn thư một cơ quan ở Hà Nội đã về
hưu non đưa cả cô con gái về ở Hải Triều. Và tất nhiên Hoa được trả về phòng đời
sống. Việc cơm nước, giặt giũ phục vụ sếp ông đã có sếp bà và cô con gái đang học
lớp bảy. Những ngày sếp bà mổ khối u buồng trứng nằm bệnh viện, Hoa cũng không
đến phục vụ mà là căng tin mang cơm đến tận nhà. Chà! Những ngày sếp bà nằm bệnh
viện gần như cả xí nghiệp trên bờ dưới nước đến thăm cùng với hàng núi quà.
Toàn cũng đến. Đến tay không. Lại được đi xe ô tô cùng với sếp và Điều. Lẽ ra
cô Phòng cũng ngồi ô tô đến bệnh viện nhưng lại phải đi xe đạp vì cái con Ky nhảy
lên xe và cứ nhất định ngồi yên trên đó, chễm chện, đương nhiên, cái đuôi ve vẩy,
lưỡi thè ra dài và đỏ. Đó là một con béc giê to lớn, ngồi chống chân, thẳng
lưng ở ghế ngay phía sau lưng sếp. Sếp quát:
- Ky! Xuống!
Đáp lại lệnh sếp, nó chỉ vẫy đuôi. Mấy lần như vậy, sếp cười:
- Nó biết chúng mình đi đến bệnh viện thăm bà ấy nên nhất định
không xuống. Cái con này ghê thế. Thôi cô Phòng đi sau vậy.
Toàn toan xuống nhường chỗ cho Phòng nhưng cô Phòng bảo Toàn
cứ đi vì cô sợ chó lắm. Thế là Toàn được đi. Điều ngồi một bên. Con Ky một bên.
Toàn ngồi giữa. Đầu nó cao hơn đầu Toàn. Thì cái giống chó ngồi cao đứng thấp,
đứng thấp ngồi cao mà lại.
Trong khi Điều đạp xe đến nhà sếp lấy khay, Toàn hứng đủ cơn
lôi đình của sếp:
- Không có khay ông định để huân chương lên đâu?
Toàn khẽ khàng:
- Báo cáo anh, để tất cả lên bàn. Huân chương phát cho xí nghiệp,
không gắn vào người nên tôi đã cho vào khung kính, cùng với bằng khen luôn...
Tổng giám đốc càng tức giận:
- Các ông không hiểu ý tôi. Hết sức vô trách nhiệm. Thật xấu
hổ’.
Toàn ngồi ngây người cố tìm ra ý sếp để hiểu mà không được.
Điều về mang theo cái khăn nhung, chưa kịp nói gì, sếp đã gắt:
- Ông Điều ra ngay phòng đời sống xem họ làm ăn đến đâu rồi.
Gượm. Bảo cái Tám mang ra đây mười chai sâm banh và toàn bộ ly cốc.
Cũng may các quan khách kẻ trước người sau đã đến. Nếu không
chẳng biết sự việc sẽ ra sao. Khi thấy đông đủ các vị quan chức trong thành phố,
các xí nghiệp bạn và vị thứ trưởng trên Bộ đã về, Điều định bước lên bục nói mấy
lời mào đầu như thường lệ thì sếp đã đứng dậy, không lên bục mà nói tại chỗ,
thân mật cám ơn sự chỉ đạo giúp đỡ của bộ, của thành ủy, các ngành và sâm banh
được mở. Nâng cốc. Chuyện trò thật vui vẻ. Toàn thở phào, cứ lo phải đứng lên
hô nghiêm khi chánh văn phòng đọc quyết định theo đúng nghi thức như văn bản hướng
dẫn, nhưng sếp đã bỏ qua tất cả.
Bữa ăn tại căng tin cũng thật ngon. Gồm toàn cán bộ đầu
ngành, bộ tứ các đơn vị và quan khách. Còn công nhân viên, đơn vị nào ăn tại
đơn vị ấy.
Sau lễ và tiệc đón huân chương, những tưởng cơn giận của sếp
sẽ dịu đi nhưng hóa ra lại có phần tăng thêm ít độ.
- Tại sao có một việc như thế mà các anh không làm từ hôm
qua. Tôi không muốn nói cũng phải nói. Anh đưa cho tôi xem bản chính quyết định
tặng thưởng huân chương chứ không phải bản sao anh đưa cho tôi đâu.
Toàn rụt rè giải thích với tổng giám đốc rằng mình không nhận
quyết định. Hôm qua cô Phòng đã tra lại sổ văn thư, quyết định gửi về trao cho
anh Thám công văn. Anh Thám đưa cho cái Tám. Cái Tám không nhớ đã đưa cho phó tổng
nào. "Tôi có báo cáo anh Điều tôi làm quyết định theo "gốt" cũ.
Ngày, tháng, số và người ký thì căn cứ chữ ghi trong bằng huân chương mà điền
vào. Đành phải làm như thế. Nhưng báo cáo thủ trưởng là tôi làm rất chính xác,
không sai một chữ". Toàn cứ tưởng mình đã lập công chữa cháy cho xí nghiệp.
Thì quyết định tặng thưởng huân chương nào chẳng bắt đầu bằng câu: Điều I:
Căn cứ vào điều 100D của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chệch
đi đâu được!
Thật không ngờ:
- Thế mà sao y bản chính à? Đấy là giả mạo. Có thể bị truy tố
về tội giả mạo giấy tờ.
Toàn cố vét kiệt sự kiên nhẫn, bình tĩnh và nhẫn nhục:
- Tôi không nhận quyết định. Thời gian đó tôi nghỉ phép. Quyết
định cô Phòng chuyển cho anh Thám, anh Thám chuyển cho cái Tám. Tôi đã báo cáo
anh Điều căn cứ nội dung ghi trên bằng, viết lại theo mẫu cũ.
- Anh viết thế mà được à? Tôi sẽ có quyết định chính thức và
lúc ấy anh sẽ thấy anh làm láo. Anh phải biết xấu hổ chứ!
Toàn đột ngột đứng lên, ép hai tay vào đùi như kiểu người
lính đứng nghiêm:
- Báo cáo tổng giám đốc. Tôi hoàn thành mọi nhiệm vụ do chánh
văn phòng giao.
- Về điều ấy, tôi, anh, anh Điều sẽ phải ngồi lại với nhau.
Tôi yêu cầu anh thu thập hết huân chương, bằng khen kể cả huân chương kháng chiến
của xí nghiệp đưa cho tôi.
- Tất cả đều có. Riêng huân chương chiến công tôi không biết
vì anh Tín thi đua cũ không bàn giao.
Tổng giám đốc cười nhạt:
- Đấy, anh thấy không? Nói đến huân chương kháng chiến, anh bảo
anh T ín không bàn giao. Rồi nay mai huân chương lao động anh cũng bảo không được
bàn giao.
- Thưa anh khi xí nghiệp nhận huân chương chiến công tôi đang
nằm bệnh viện ở Trường Sơn.
Toàn quyết không lùi nữa. Không chịu nhục hơn được nữa. Đến đấy
là giới hạn rồi. Thà về hưu ngay. Nhưng sau đó anh buồn. Anh làm tổng kết cuộc
đời mình mà thấy sao nó buồn đến thế. Cũng may lũ con anh đã lớn. Hai đứa đã đi
làm... Anh đem chuyện cáu giận gần đây của sếp ra hỏi Điều. Điều là người anh
có thể tâm sự, trò chuyện, dò hỏi. Điều là chánh văn phòng. Biết nhiều chuyện
thâm cung bí sử.
Điều bảo:
- Ông còn bị ít đấy. Tôi mới lĩnh đủ. Chẳng qua là cái ghế.
Ông hiểu không? Ghế của sếp lung lay rồi. Bắt đầu là từ vụ tàu Ba (HL03) ông biết
rồi chứ gì. Hoàng Quốc Thắng cho thằng Robert Lee thuê hẳn tàu Ba chở hàng cho
nó từ Hong Kong, từ Singapore về Trung Quốc. (Thằng Robert Lee cũng chỉ là thằng
làm thuê cho một thằng chủ Mỹ thôi. Thằng chủ này sang Hà Nội đéo thèm đi máy
bay chở khách. Nó đi máy bay riêng của hãng. Chuyên cơ hẳn hoi. Một trăm năm
mươi nghìn đô chứ ít đâu). Mọi chuyến không sao. Chuyến vừa rồi Trung Quốc giở
trò khám tàu. Lộ ra hàng lậu. Nó giữ tàu. Nguy cơ mất tàu là cái chắc. Rồi còn
vụ cá thối tàu bảy. Lỗ hơn tỉ. Rồi đánh cá đá xuất thẳng với thầy trò ông
Robert Lee. Xuất được đâu. Muốn xuất được phải có tàu mẹ ở ngay ngư trường. Các
tàu con đánh được đến đâu thì chuyển sang cho tàu mẹ. Được vài chục tấn là đi
luôn. Đằng này tàu nào đánh tàu ấy xuất, ít nhất cũng phải mười ngày trở lên.
Cá vỡ bụng quá nửa. Cái thằng gì to béo dự bị bạn với Robert Lee lên giồng bảng
tin với ông nhỉ.
- Thuyền.
- Chỉ thằng ấy là bở. Đi được hai chuyến Sing. Nhưng đi Sing
cũng chẳng ăn thua gì. Sing rất ít đồ cũ. Toàn đồ mới. Mà đồ mới đắt quá Việt
Nam. Xàng xê mãi mua được cái xe máy lượn vè vè. Mà xe máy cũng là mua lại của
mấy thằng tàu 19 đi Nhật. Xí nghiệp sắp vỡ rồi.
Toàn bảo:
- Xí nghiệp mình dù sao cũng vẫn còn đỡ. Vốn liếng tiền tỉ.
Xí nghiệp bên vợ tôi mới gay go. Nghỉ năm mươi phần trăm. Mà bên ấy nó quản ác
lắm. Ai không buôn bán làm ăn được thì nó cho nghỉ. Ai buôn bán được, có cửa,
có thu nhập nó bắt đi làm.
Điều bật cười:
- Địt mẹ. Quản lý kiểu Pol Pot như thế quá bằng giết người
ta.
Toàn không cười được. Toàn đã định xin nghỉ không ăn lương một
thời gian nhưng vợ anh thuộc diện về nhà có thể mở hàng nước chè chén kiếm ăn
nên vẫn phải đi làm. Và vẫn phải đèo cân thay lương về nhà rồi đem ra chợ bán tống
bán tháo lấy tiền chi dụng. Không. Phải cắn răng mà chịu thôi. Sức dài vai rộng
ăn bám vợ là điều không thể chấp nhận. Đã mấy năm sống nhờ vợ rồi. Nhưng Toàn gặng
hỏi để cái hy vọng vẫn le lói không tắt hẳn:
- Anh bảo ghế sếp lung lay à. Lung lay làm sao được. Sếp có đại
ca to như thế ai làm gì được sếp.
Điều xùy:
- Đại Ca của sếp cũng đang gay. Sau vụ duyệt bán cầu cảng bán
tàu ở trong kia, Đại Ca cũng sắp toi rồi. Một con tàu của người ta tiền tỉ, duyệt
bán ba trăm triệu. Rẻ hơn sắt vụn. Với lại ông ơi! Không hy vọng gì đâu. Sếp
này về sếp khác lên. Quan phủ đi quan tri nhậm. Y chang cả thôi.
Có vẻ là như thế thật. Thôi, cứ được đến đâu hay đến đó. Còn
đang nẫu người thì gặp Cảnh giữa lúc đang
ngồi xổm ở hành lang phía sau nhìn ra cầu cảng. Cảnh reo lên,
kéo Toàn vào phòng văn thư:
- Chú vào đây. Chú vào cháu hỏi cái này.
Hai người lại ngồi bên cái bàn uống nước ở phía sau tủ, gần
bàn đánh máy của cái Nhạn. Cảnh chấm tay vào cặn nước trong chén và lại vẽ:
- Chú biết cái ô này chứ gì? Sân bóng chuyền ở trước vườn
hoa, đầu xưởng đá vẩy Đan Mạch. Đây là lối ra cổng cảng. Cháu nghĩ ra cái này,
cháu nói chú nghe xem thế nào nhé.
Lại trò gì nữa đây? Nhưng chắc là rất thú vị. Ôi. Giá anh
cũng có những ý nghĩ như nó. Không biết có lúc nào nó chán đời như mình bây giờ
không? Anh cảm thấy quý Cảnh vì lúc nào Cảnh cũng tin cậy anh. Và chắc chắn anh
là người đầu tiên được nghe những điều Cảnh sắp thổ lộ.
Cảnh vẽ tiếp lên bàn với vẻ mặt nghiêm túc nhất trên đời:
- Chỗ này là chỗ vẫn ngồi xem đấu bóng chuyền. Sẽ làm một cái
ghế dài ở đây. Đây chỉ là vẽ thôi. Nhưng trên thực tế là giồng bốn cây. Bạch
đàn cũng được. Phi lao cũng được. Trên ghế là hai người ngồi. Một đàn ông. Một
đàn bà. Hay hai đàn bà cả cũng được. Đắp bằng đất xong đem nung. Hai người ngồi
xem. Đắp từ chân đắp lên. Phải có cốt xương sống. Làm bằng cây que thôi. Căn bản
là mái tóc phải xõa xuống chạm đến ghế. Như vậy ở cổng vào cũng trông thấy ngay
mà dưới bến lên cũng trông thấy ngay. Rất đẹp. Nó toát ra một hình ảnh
không gian Liên hợp Hải Sản. Rồi đắp một con tàu đặt ở chỗ
cây dâm bụt.
Câu chuyện có vẻ mới mẻ và hấp dẫn đến nỗi Nhạn cũng ngừng
công việc, bước ra nhìn vào sơ đồ loằng ngoằng trên bàn. Và khác hẳn mọi lần,
không cáu gắt, dè bỉu còn hỏi Cảnh:
- Tàu cũng làm bằng đất à?
- Vật liệu gì cho rẻ. Cái này phải hỏi ông Kích kiến thiết cơ
bản cũ, chuyên sâu về vấn đề này. Tượng thì phải tìm mẫu là một bà ở Cảng,
không phải bà Mít đâu.
Nhạn vẫn chăm chú lắng nghe và hỏi:
- Cái bà vẫn vào xin nước gạo á?
Cảnh reo lên:
- Đúng. Đấy. Má nhăn. Căn bản là má phải nhăn. Tóc xõa chạm đến
ghế.
Nhạn lắc đầu:
- Ai lại làm tượng thế. Lưng còng gãy gập. Chí ít thì cũng phải
như tớ này này. Hay như cái Tám.
- Không. Phải bà già. (Mắt Cảnh lại long lanh. Môi lại dẩu ra
trước khi phát âm chứng tỏ Cảnh đã suy nghĩ rất lung, rất chín rồi). Thế mới thấy
được quá khứ. Và thấy tương lai. Còn bể bơi làm ở bãi sắt vụn.
Nhạn như tham gia vào cuộc thảo luận nghiêm túc:
- Nó để đổ sắt vụn. Ai cho ông xây.
Cảnh xùy:
- Hết sắt vụn từ bao giờ rồi còn đâu.
- Tất cả các tàu trong xí nghiệp sắp thành sắt vụn hết kia
kìa.
Toàn thấy cần nói cho Cảnh biết sự thật:
- Con Nhạn nó trêu mày đấy.
Cảnh cười độ lượng:
- Vừa rồi lau ghế mây. Nhạn làm ầm lên, có tiếng nói không
hay. Và cả trong tương lai cũng không có gì xấu xa cả.
- Cái gì xấu xa? Nhạn hỏi.
Cảnh ngẩng đầu, chỉ ra phía cửa:
- Con đường kia kìa tốt đẹp biết bao! Từ nhà ông Thắng tới cổng
xí nghiệp. Từ cổng xí nghiệp tới nhà ông Thắng. Tốt đẹp biết bao!
Vẻ mặt Cảnh mơ màng như đắm chìm vào một tương lai. Có lẽ vẻ
lãng mạn cách mạng của Cảnh quyến rũ quá khiến Nhạn bỗng bật ra một ý nghĩ. Nhạn
đặt một tay lên vai Cảnh, rủ rê:
- Tớ với mình bắt bồ với nhau đi.
Cảnh ngơ ngác vì thấy đề tài thảo luận chuyển quá nhanh, trả
lời rất nghiêm túc:
- Cám ơn cậu. Nhưng tớ không có tiền. Bắt bồ phải có tiền.
Bây giờ đồng tiền quyết định. Xã hội đồng tiền mà.
Toàn, Nhạn cùng cười. Cảnh cũng cười theo. Cảnh cười mà không
biết mình sắp bước vào những ngày vinh quang tột đỉnh, những ngày Cảnh tự thấy
mình là quan trọng, những ngày Cảnh ở một tầm cao mới và có thể khinh khỉnh
nhìn đời. Ây là khi có một vị khách mới
xuất hiện ở xí nghiệp. Một nhà khoa học. Một chuyên gia về
kinh tế, một cán bộ giảng dạy tại một trường đại học lớn về hoàn chỉnh luận án
phó tiến sĩ. Ông về đây là do một vị hàm bộ trưởng giới thiệu với sếp. Toàn biết
vậy vì Điều gọi điện đi các nơi báo trước với các đơn vị chương trình làm việc
của khách. Tiếng Điều oang oang:
- Anh ấy sẽ giúp chúng ta về giá tôm xuất khẩu đấy. Anh Đạt
là một nhà khoa học. Anh ấy đang nghiên cứu về tôm đông lạnh. Tổng giám đốc đã
nói với anh rồi. Hôm nay chỉ nhắc lại thôi. Sáng nay anh ấy làm việc ở ngoài
này với phòng xuất nhập khẩu. Đầu giờ chiều anh Đạt sẽ vào trong ấy.
Gặp một cán bộ xí nghiệp lạnh đông, Điều dặn đi dặn lại:
- Về nói với các thủ trưởng chuẩn bị nhé. Anh ấy sắp vào.
Giám đốc đi vắng thì bố trí phó giám đốc tiếp nhé. Anh Đạt là một nhà khoa học,
bạn thân với chủ nhiệm Ủy ban vật giá nhà nước đấy.
Những ngày đầu ông Đạt được đón tiếp rất chu đáo, nồng hậu.
Nhưng sự đón tiếp ấy chuyển rất nhanh sang hướng ngược lại. Có lẽ bởi hình thức
bên ngoài. Và cả những gì thuộc về bên trong nữa.
Những thứ ông mang trên người, tức y phục của ông là những gì
quý giá nhất thời bao cấp ngày xưa mà ông được hưởng và còn giữ tận tới hôm
nay: Cái mũ len đan hết tuyết xác xơ có lưỡi chai và có thể trùm xuống tới cổ,
áo vét tông cũ nhàu và không thể đoán được màu sắc ban đầu của nó, cái sơ mi
cũng cũ nhàu như vậy, cái áo len màu tím than xác xơ như cái mũ, đôi giày đen
có cổ từ đời nảo đời nào mà người ta vẫn gọi là giày Kosygin 3 . Râu ria lởm chởm, da mặt xám ngả vàng,
xách cái túi giả da hai quai chéo đã sờn mòn lộ cốt vải luôm nhuôm, cái túi
oanh liệt một thời phân phối hoặc tặng phẩm trong một hội nghị long trọng nào
đó, một thứ nửa túi nửa cặp, trông ông thật thảm hại và gầy quá, gầy đến mức
cái ống quần may hẹp thế mà cũng chẳng nhìn thấy cẳng chân đâu.
Ông nói với Điều:
- Em nghiên cứu giá tôm. Tôm của mình tốt. Không có chất độc
mà giá rẻ quá. Tháng sau em bảo vệ đề tài trước hội đồng.
Một hôm ông Đạt đến trước bàn Toàn lễ phép:
- Thủ trưởng làm việc ở đây ạ?
Đang lúi húi đọc báo, Toàn không ngẩng lên. Lần đầu tiên
trong đời được gọi như vậy, bằng một giọng cung kính như vậy, Toàn nghĩ rằng
người ta đang nói cùng ai đó chứ không phải với mình. Ông Đạt mở cái túi phồng
căng, rút ra một xếp giấy, lễ phép, khúm núm, nhờ cậy:
- Báo cáo thủ trưởng. Thủ trưởng photo cho em một bản để thủ
trưởng đọc và một bản nhờ thủ trưởng chuyển cho tổng giám đốc.
--------------------------------
Thực ra là giống chó Rottweiler. Rất hung dữ. Thích xé xác
trẻ con vì coi trẻ con cũng là một động vật. Ở Úc có thời gian có bang đã cấm
nhập. |
|
Ban thi đua khen thưởng thành phố. |
|
Giày Kosygin: Giày da do Liên Xô viện trợ thời chống Mỹ.
Dành cho các sĩ quan quân đội. Kosygin là tên thủ tướng Liên Xô lúc đó. |
VII
Đó là lời xin của kẻ khó. Vì lịch sự, Toàn đỡ xếp giấy trong
tay ông, giở ra xem qua: Trên tờ giấy khổ A4 kẹp đè lên xếp pơ luya đã đánh máy
là dòng chữ viết tay nắn nót:
Kính gửi Thủ Trưởng Chánh Văn Phòng.
Vì sự phồn vinh của Tổ Quốc, đề nghị Thủ Trưởng cho photocopy
làm hai bản.
Kính.
Nguyễn Tiến Đạt.
Toàn phải giải thích cho khách biết anh không có quyền đưa
photocopy mà phải chờ Điều.
Sang đến ngày thứ ba, Điều đã chán ông khách lắm. Điều bảo:
Ông ta ăn một bữa cơm năm nghìn ở căng tin hết hơn một tiếng đồng hồ. Ngâm nga.
Ngon quá. Mình thì giờ đâu mà thù tiếp ông ấy thế được. Chiều, căng tin không nấu.
Đưa năm nghìn để cụ tự lo bữa chiều. Cụ tươi tỉnh hẳn lên. Thế là không ngủ nhà
khách nữa. Về nhà người quen ngủ và ăn bữa chiều.
Buổi sáng hôm ấy vừa đi cơ sở về, trong lúc chờ kẻng tan tầm,
ông Đạt hỏi Điều với vẻ mặt của một người năng động, rất am hiểu thời cuộc, một
người đi đầu trong tư duy mới:
- Báo cáo thủ trưởng, em hỏi thủ trưởng là ta có cái hội trường
nào hai trăm chỗ ngồi không nhỉ. Em có sáng kiến này.
- Chúng tôi có cái hội trường bảy trăm chỗ cơ. Nhưng nay đã rỡ
hết bàn ghế đi rồi.
- Tưởng còn em sẽ tổ chức cho xí nghiệp một buổi biểu diễn ca
nhạc. Mời hẳn các danh ca thành phố xuống phục vụ tại chỗ.
Giọng ông ngân nga khi bộc lộ những ý nghĩ tuyệt vời ấy. Điều
gần như thở hắt ra:
- Ối giời ơi! Công nhân chúng tôi đến Thanh Hoa, Nhã Phương
ra hát nó còn hét: Vào đi! Vào đi! kia kìa.
Không nản, ông Đạt lại tiếp tục gợi sang một ý khác:
- Các anh có phòng tiếp khách nước ngoài không nhỉ. Phòng ấy
phải trang trí nội thất cẩn thận. Chỗ đàm phán trang trí khác. Chỗ ký kết trang
trí khác.
Điều chỉ tay vào một ngôi nhà đang được đập ra, xây lại:
- Chúng tôi đang làm cái nhà kia. Tiếp khách nước ngoài ở đấy.
- Tưởng làm rồi, ông anh em làm nội thất cho. Ông ấy làm cái
phù điêu gò đồng ở bệnh viện thành phố đấy.
Ông không ngờ người làm cái phù điêu gò đồng ở bệnh viện lại
là bạn của Điều. Điều hỏi:
- Ông ấy tên là gì?
- Ông Bắc. Xuân Bắc.
Điều lạnh tanh:
- Tôi tưởng ông Thọ. Họa sĩ Nguyễn Thọ.
Sau buổi trò chuyện ấy, Điều luôn miệng kêu dởm, dởm. Và có một
quyết định tuyệt vời: Cử Cảnh đi tháp tùng nhà khoa học. (Cũng là làm vắng mặt
sếp thôi.
Sếp chánh vào thành phố Hồ Chí Minh công tác một tuần lễ).
Không thể diễn đạt được niềm vui, vẻ thỏa mãn, sự sang trọng
và nghiêm túc của Cảnh. Để xứng đáng với những ngày lên tới đỉnh vinh quang, Cảnh
diện bộ đồ sang trọng nhất, cũng những thứ từ hồi bao cấp, rất hợp với y phục
ông khách. Áo bông xanh còn tươm, quần pho tả, dép nhựa Tiền Phong trắng
có quai hậu. Cả hai đều cũ kỹ lạc điệu, xanh xao má hóp trang trọng đi cạnh
nhau. Chưa bao giờ Cảnh tươi tỉnh như thế. Tươi tỉnh từ nét mặt, từ dáng đi, từ
cách vung tay. Hớn hở, rạng rỡ, nhìn đời khinh khỉnh, Cảnh hoàn toàn là một nhà
khoa học. Qua cổng bảo vệ, qua nhà gửi xe, đến nhà cân, qua vườn hoa có hai
hình thoi trồng cỏ màu cả rản, bước vào sân, cái sân láng xi măng phủ
những mảnh đất nâu mỏng cong như bánh đa, dấu vết của triều cường, tới bậc tam
cấp, vào văn phòng, họ ngồi ngả người trên xa lông, vẻ mệt mỏi vì làm việc trí
óc căng thẳng. Chủ khách đối diện. Cảnh pha nước và rút từ trong túi áo bông ra
bao Vinataba, tiêu chuẩn Cảnh được nhận để tiếp khách hằng ngay. Chủ khách hút
thuốc và nâng chén sụp soạp. Ông Đạt nói về tình hình khai thác tôm và thị trường
tiêu thụ tôm trên thế giới. Cảnh kéo ông ta ra xem bản thiết kế câu lạc bộ thủy
thủ không bao giờ được xây dựng treo trên tường. Vốn con nhà xây dựng, Cảnh
thuyết trình rất say sưa. Ông khách vẻ khinh bỉ ra mặt: 1
- Lạc hậu. Lạc hậu mất mười năm.
- Lẽ ra phải đấu thầu. Thiết kế cũng phải đấu thầu. Xây dựng
cũng phải đấu thầu.
Hai người lại ra xa lông. Cảnh nói về cái máy gọi tôm của Nhật,
gọi tất cả tôm về biển Nhật Bản khiến mình hết cả tôm. Khách rất tâm đắc điều ấy
và đang định thuyết trình về một chương quan trọng trong luận án nhằm đối phó với
tình trạng suy kiệt môi trường là phát triển tôm nuôi, một việc các địa phương
đã làm gần chục năm nay, nhưng chủ lại chuyển sang một đề tài khác: T ính vĩnh
cửu của bê tông kết hợp với tăng nhanh nguồn thủy sản xuất khẩu:
- Qua thực tế nhổ cỏ, vất cỏ xuống rãnh sẽ có tác dụng tốt.
Và lại lấy tay chấm vào nước trong chén như thói quen vẫn làm
bao năm nay, vẽ trên mặt bàn nước, vừa vẽ vừa thuyết trình:
- Đây là mặt cắt của rãnh. Ớ đây có bùn, nước mưa, nước thải.
Rãnh này sau một thời gian sẽ sinh ra lươn. Một năm cứ một trăm mét sẽ thu hoạh
năm mươi ki lô lươn. Và sẽ nảy sinh một vấn đề tất yếu quan trọng khác: Tính
vĩnh cửu của bê tông. Bê tông được ngâm nước là vĩnh cửu.
Ông khách reo lên:
- Thật tuyệt! Nếu tất cả các cống rãnh đều được nuôi lươn,
chúng ta sẽ có một nguồn xuất khẩu khổng lồ! Một ý nghĩ táo bạo cần được phổ biến
rộng rãi.
Mặt Cảnh dãn ra. Hai chân rung tít, châm một điếu Vina, Cảnh
phát một câu mang tính triết học:
- Đúng! Không cái gì là của riêng ai. Mô da đã nói như vậy.
Ngồi ở bàn đọc báo theo dõi câu chuyện, Toàn vội bước nhanh
ra ngoài, vào phòng văn thư để xả một trận cười. Ớ đó gặp Vân. Vân đang đóng dấu
vào sổ một công văn gửi lên Bộ Thương mại. Toàn bảo:
- Này. Ông Đạt đang làm luận án về đề tài xuất khẩu tôm đấy.
Vân vẻ nghiêm túc:
- Luận văn của ông ấy em đọc rồi. Ông ấy định kéo giá tôm
toàn thế giới xuống. Kéo làm sao được khi sản lượng tôm xuất khẩu của nước ta đối
với thế giới chưa đến một phần trăm.
° ° °
Những ngày oanh liệt nhất trong cuộc đời Cảnh nhanh chóng qua
đi. Ông khách đã về Hà Nội, khẩn trương chuẩn bị cho buổi bảo vệ luận án trước
hội đồng khoa học. Toàn cũng đã xác định: Không về hưu. Dù khó khăn gian khổ
chán ngán đến đâu cũng cứ đi làm. Bây giờ khối người dôi dư. Chẳng riêng gì
mình. Về hưu thu nhập giảm trăm ngàn mỗi tháng ngay. Lấy gì bù vào. Cứ đi làm.
Bao giờ các ông ấy bảo về thì về. Cứ nhẫn nhục. Ai chửi cũng mặc. Hãy xác định
mình là con sâu cái kiến. Bây giờ Toàn ít tụ bạ (chữ của cô Phòng)
bên thư viện, sợ sếp bắt gặp. Sếp sẽ để ý. Phải cẩn thận. Thế nhưng sếp không
chú ý tới Toàn mà lại hướng mũi dùi vào Cảnh.
Hôm ấy sếp Thắng chuẩn bị đi Hà Nội (Toàn cũng như nhiều người
khác chỉ mong sếp đi công tác vắng thôi). Đã vào phòng phó tổng thứ nhất dặn dò
công việc, đã ghé vào phòng tài vụ lấy tiền, ô tô đã đỗ ngay ở sân chỗ đặt bảng
tin, từ phòng tài vụ sếp đã bước qua hành lang ra sân, ai cũng tưởng sếp lên
xe, nào ngờ đâu sếp quặt lại văn phòng, mặt hầm hầm giận dữ:
- Ông Điều! Ông Nhương! Thằng Cảnh phải cho nó nghỉ! Không thể
thương được thằng này!
Tiếng quát ầm ầm. Tất cả khu vực phòng ban im phăng phắc.
- Tệ hại! Tệ hại! Cái thằng...! Không chịu làm một việc gì hết!
Bảo nó nhổ cỏ nó không làm.
Ông chỉ tay vào Cảnh đang thập thò ở cửa phòng văn thư. Thì
ra sếp quay lại chỉ vì trông thấy nó đứng đó.
- Mày làm thế có xứng đáng với đồng lương của mày không?
- Thằng này không thể xài được. Mình thương nó, nó có thương
mình đâu. Không thể hiểu được thằng này ra làm sao nữa. Cứ ngồi chơi ở phòng đọc
sách.
- Ông Điều! Ông Nhương! Cho nó nghỉ từ ngày mai! Tôi không thể
nhìn được mặt nó! Ngày mai nếu nó còn đi làm thì hai ông nghỉ!
- Không làm cái gì cả. Mà lương gần bằng lương ông này (sếp
chỉ vào Toàn làm Toàn cũng thấy mát ruột). Có bất công không? Mình làm chết cha
đi. Lo ngày lo đêm. Tôi hỏi nó: Mày làm thế có xứng đáng đồng lương mày lĩnh
không?
- Cho nó nghỉ từ ngày mai! Ngày mai tôi đến đây là phải không
trông thấy nó nữa!
Sếp đi. Cảnh cũng biến. Nhưng lại có Mẫn từ thư viện sang. Mẫn
cười:
- Em sợ quá. Ông ấy vào thư viện xách cổ thằng Cảnh ra, túm
áo xoắn tai. Như con chó. Ông ấy bảo nó nhổ chỗ cỏ trước cửa nhà ông ấy. Suốt
ngày nó không nhổ được một tí.
Buổi chiều lĩnh lương. Không thấy mặt Cảnh đâu. "Công tử
Nhương", phó văn phòng nói:
- Thôi để sáng mai nó đến, truyền đạt ý kiến của sếp với nó.
Sáng hôm sau Cảnh đến. Cô Phòng phát tiền lương và động viên Cảnh:
- Thôi em ạ. Đi làm mười ba ngày mà được lương nửa tháng là tốt
rồi.
Cảnh trầm ngâm:
- Vấn đề cũng khá nan giải đây.
Đó cũng là câu nói nổi tiếng của Cảnh. Như câu "dù sao
trái đất cũng cứ quay" vậy.
Nhận tiền lương rồi, Cảnh vẫn cứ lờ vờ ở xí nghiệp. Mấy anh
chàng "giặc lái" hỏi:
- Sao không về nhà, còn ở đây làm gì?
Cảnh đáp thản nhiên:
- Đã hết giờ đâu mà về.
Nói rồi đi ra ngồi dưới gốc cây cột điện. Và lạ là sáng hôm
sau Cảnh vẫn đến. Rồi những hôm sau nữa. Đúng giờ. Như mọi cán bộ công nhân
viên khác. Chỉ không xách phích ra căng tin lấy nước như mọi khi. Cũng không
vào phòng làm việc. Không ra bãi cỏ. Bóng Cảnh gầy nhỏ, quần áo xám bạc xộc xệch
khi ẩn khi hiện lúc ở cầu cảng, lúc ở nhà gửi xe, khi ngồi im lìm dưới gốc cây
ba giăng cổ thụ trồng từ ngày thành lập xí nghiệp, gốc đã mục ruỗng.
Đến kẻng tan tầm, người ta thấy Cảnh trong đám cán bộ công
nhân viên đạp xe đăm chiêu mệt mỏi ra về.
Rút kinh nghiệm Cảnh, Toàn tìm mọi cách tránh mặt sếp. Có lúc
nào lỉnh được Toàn hay ra cuối cầu cảng ngồi. Chỗ ấy có một cây phi lao to gãy
ngọn, cành lá tỏa rất mát. Ngồi đấy lại còn kín nữa. Gần như không bao giờ sếp
đi tới. Ngồi đấy nhìn ra sông, tàu thuyền xuôi ngược, hải âu bay... Khi nước xuống
bãi phù sa hiện ra thì vui mắt hơn. Những con cáy chạy lăng xăng, chui ra chui
vào lỗ. Những con cá lác vùi mình trong phù sa, đột nhiên nhảy lên, phóng những
bước nhảy dài theo hình ngoằn ngoèo.
Một lần đang mải mê ngắm những sinh vật bé bỏng ấy hoạt động,
Toàn thấy một người đi đến chỗ mình: Cảnh quần áo bẩn thỉu, chân tay mặt mũi
lem luốc, ngồi xuống cạnh Toàn, thở dài:
- Thư cháu gửi chắc bây giờ đến nơi rồi đây.
- Cháu làm đơn gửi sếp à?
Lại một tiếng thở dài nữa:
- Không.
Toàn nhớ rằng chưa bao giờ Cảnh thở dài ở xí nghiệp. Anh quay
lại nhìn Cảnh. Lần đầu tiên anh thấy vẻ mặt Cảnh như vậy. Một khuôn mặt chùng hẳn
lại. Tất cả sự căng thẳng hàng ngày biến đâu hết. Một khuôn mặt chảy ra chùng
xuống như sụp đổ. Trên khuôn mặt lạ lẫm ấy, một nỗi đau khổ đến tột cùng hiện
ra, nỗi đau đớn không có cơ cứu vãn làm Toàn hoảng sợ. Anh bỗng thấy Cảnh khác
hẳn mọi ngày, gần gũi và đáng thương lạ lùng.
- Thư gửi cho ai?
- Gửi bố cháu. Cháu đem ra bưu điện gửi tối hôm qua. Chắc bây
giờ đến nơi rồi. Bố cháu nhận được rồi.
Thật không còn hiểu ra sao nữa, nhưng nhìn vẻ mặt Cảnh, Toàn
biết không phải chuyện điên dại mọi ngày, hẳn là một việc rất nghiêm trọng mà
anh không dám hỏi.
- Không có cách nào khác, cháu phải viết thư cho bố cháu... Vợ
cháu bảo cháu nói với bố cháu tiện hơn. Nhưng suy đi nghĩ lại, cháu thấy viết
thư là tốt nhất, nói được đầy đủ ý mình. Thế này chú ạ. Vợ cháu ở nhà, ngoài việc
trông nom cửa hàng còn cơm nước, giặt dũ, phục vụ bố cháu. Con cháu đi học, ở
nhà chỉ có hai bố con. Mùa rét vừa qua, bố cháu tắm, lần nào cũng gọi vợ cháu
đem thêm nước nóng vào buồng tắm cho bố cháu, lại còn bắt kỳ lưng nữa. Vợ cháu
cũng không dám nói gì, không dám nói cả với cháu. Nó giấu cháu, sợ cháu làm lôi
thôi. Thế rồi đến tối hôm kia. Nó mắc màn cho bố cháu. Hôm ấy lại mất điện. Bố
cháu bảo nó cầm đèn dầu soi bắt muỗi trong màn. Bố cháu cũng lấy tay bắt muỗi,
không biết vỗ vỗ thế nào, ôm lấy vợ cháu. Nó giằng ra, đổ cả đèn. Rồi nó xuống
nhà dưới chỗ chúng cháu ngủ, nằm khóc. Hỏi mãi nó mới nói. Bực quá chú ạ. Chỉ
có chú, cháu mới nói. Nó bảo cháu: "Anh nói với bố tiện hơn". Viết
thư tốt hơn chứ chú nhỉ?
Toàn hỏi:
- Thế mẹ cháu đâu?
- Mẹ cháu vào thành phố Hồ Chí Minh với em gái cháu lấy chồng
ở trong ấy gần một năm nay rồi.
Im lặng. Một lúc sau lại Cảnh:
- Bây giờ có lẽ bố cháu đã đọc thư rồi đây.
Giọng Cảnh bồn chồn. Chẳng biết nói gì, Toàn nắm chặt bàn tay
Cảnh đang run rẩy. Sắp tan tầm chiều rồi. Sắp qua được một ngày rồi. Nước xuống
kiệt. Những con cáy vẫn lăng xăng. Những con cá lác vẫn vùi mình trong phù sa
thỉnh thoảng lại nhảy lên phóng những bước nhảy dài.
VĨ THANH
Sự kiện biển khơi và chim bói cá
Đó là đầu đề tập nhật ký theo bố đi đánh tôm khi học hết cấp
hai của một chàng trai bạn với con tôi tên là Phong, Ngô Xuân Phong. Cập kè với
Phong và con tôi còn có một thanh niên khác: Lê Chí Sỹ. Đó là những thanh niên
thời @ chính hiệu: xe máy SH, mỗi người sử dụng vài chiếc điện thoại di động,
chiếc dùng cho công việc, chiếc dành cho những người thân, chiếc chỉ vài người
thật thân thiết mới biết số, đồng hồ Thụy Sĩ, giày da Ý, còn quần áo lại rất
bình thường. Con tôi nhiều bạn, nhưng thân nhất là Phong và Sỹ. Trong bộ ba Tướng,
Sỹ, Tượng (còn gọi là Lưu, Quan, Trương) ấy, con tôi lớn tuổi nhất còn Sỹ là
người trẻ nhất bọn. Chúng đến nhà tôi, chuỵên với nhau về những đề tài làm ăn,
về những tài sản khổng lồ của các ông to bà lớn nào đó, về những bữa nhậu, về
công việc sắp tới, về những ngôi sao bóng đá, những lô đất ở Sóc Sơn, Tam Đảo,
những tỉ phú còn giấu mặt, những ngôi sao âm nhạc thời thượng, những bộ phim,
những đạo diễn và những diễn viên đoạt giải Oscar... Tôi nhìn chúng như nhìn một
thế hệ mình không sao hiểu nổi, như khi nhìn những vi mạch, những phần mềm, bộ
vi xử lý trong máy tính điện tử vậy. Thế rồi một hôm Phong cầm đến nhà đưa tôi
tờ báo có in một truyện ngắn kèm theo ảnh của tôi:
- Bác là nhà văn hở bác? Thế mà thằng Tùng không nói gì với
chúng cháu cả.
Thằng con tôi chỉ cười. Tùng biết chẳng vinh dự gì khi có bố
là nhà văn, càng không muốn nói về bố với bạn bè khi bố đã mấy năm trong vòng
lao lý. Nhưng ngược lại, việc ấy đối với Phong và Sỹ như một sự phát hiện, hai
người tỏ ra rất quý mến tôi, càng quý khi tôi cho họ biết những gì tôi đã trải
qua. Câu chuyện chuyển sang những vấn đề văn học, họ muốn biết sự đánh giá của
tôi về những tập sách này nọ, về những tác giả già trẻ, về những nhà thơ... Té
ra họ khá quan tâm đến văn chương, nghệ thuật. Phong nói:
- Thầy dạy toán của cháu một hôm nói với bọn cháu về một truyện
ngắn của Nam Cao và kết luận: Anh chồng đọc nhiều sách văn học mới hiểu được vẻ
đẹp của ánh trăng, còn với chị vợ, ánh trăng chỉ là để tiết kiệm được mấy xu dầu.
Và nhấn mạnh:
- Đấy là thầy dạy toán nói đấy bác ạ.
Tôi nghe mà mát lòng mát ruột cho các nhà văn và cảm ơn ông
thày dạy toán nào đó của Phong. Thế rồi một hôm Phong, Sỹ lại cùng con tôi tới
nhà tôi. Rất hào hứng, cởi mở, Phong trao cho tôi một quyển vở học sinh:
- Cháu ghi chép lâu lắm rồi. Vất đi thì phí. Cháu vừa soạn lại
giấy tờ sổ sách, đọc lại thấy đường được. Cháu đưa bác xem có dùng vào việc gì
không.
Tôi đọc. Đọc đi đọc lại. Xúc động trước một tâm hồn non trẻ
đang mở ra với thế giới, với biển cả, những bài học vỡ lòng về cuộc sống, về
con người. Một tâm hồn trong veo, một đôi mắt vạn hoa trước cuộc đời nhuốm bẩn.
Chẳng có chút liên hệ nào giữa cậu bé học sinh ngày ấy với chàng trai cao lớn,
điện thoại di động có trong các túi, đi xe SH hôm nay. Lại càng xúc động bởi
Liên hợp Biển Đông với tôi cũng đã có những kỷ niệm, nơi lâu lắm rồi tôi đã đến
làm việc để quay một cuộn phim tài liệu về những người đánh cá biển, đã đi theo
các tàu tới Bạch Long Vĩ, đã vào tận Hòn Khoai và cũng biết một số người. Tôi bảo
con tôi chuẩn bị một bữa rượu ở nhà, mời Phong, Sỹ đến nhưng con tôi gạt đi:
- Ra tiệm thôi bố ạ.
- Không. Bố muốn nói về tập nhật ký của Phong cơ mà. Ở nhà
thoải mái hơn.
- Khách sạn cũng tự do thoải mái thôi bố ạ. Một phòng riêng
cho bố con mình với chúng nó. Muốn ngồi đến bao giờ thì ngồi.
Chúng tôi đến khách sạn. Một khách sạn mười tầng hiện đại.
Khi thang máy đưa bố con tôi lên tầng 9, một cô gái mặc đồng phục khách sạn đã
đứng chờ ở cửa thang máy, đưa chúng tôi vào một buồng nhỏ, có cửa sổ mở rộng
nhìn thẳng ra một khoảng trời mênh mông, Phong và Sỹ đã ngồi chờ sẵn, đứng dậy
chào tôi. Tiệc rượu được bày lên bàn rất nhanh. Cửa đóng kín. Cô phục vụ bắc ghế
ngồi bên ngoài cửa chờ lệnh. Rượu
John xanh đã rót. Chúng tôi chạm cốc. Ăn xong bát xúp khai vị,
tôi bảo Phong:
- Cháu đi viết văn được đấy.
Phong cười thành thật:
- Cháu cám ơn bác. Nhưng nghề của các bác cháu sợ lắm. Nghèo
mà chẳng được tích sự gì. Có khi còn nguy hiểm nữa. Như bác đấy.
- Bây giờ cháu làm gì? Thuyền trưởng hay đại phó?
Anh ta ngượng nghịu, không trả lời. Thằng con tôi bảo:
- Nó làm hải quan. Cả thằng này nữa - Con tôi chỉ vào Sỹ - nó
cũng làm hải quan, quân của Phong.
Tôi ngạc nhiên:
- Không đi lái tàu mà lại đi khám tàu à? Thời đi học thích
hàng hải thế cơ mà.
- Một thời mơ mộng bác ơi. May mà cháu tỉnh ngay khi chọn trường
thi đại học. Đấy, bác xem nghề đánh cá của bố cháu có ra làm sao đâu.
Con tôi đóng vai người phản bác:
- Ông cứ nói thế' chứ. Ông Huy đấy. Khách sạn Huy Hoa mười một
tầng bên kia đường kia kìa. Ông ấy còn một khách sạn nữa ở Hà Nội đấy. Cũng mười
tầng chứ có xoàng đâu. Quận Hoàn Kiếm đàng hoàng.
- Cả xí nghiệp mới có một ông Huy. Có hai ông Huy đâu.
Sỹ bỗng lên tiếng:
- Bố cháu tai nạn vì nghề đánh cá đấy.
Tôi hỏi:
- Bố cháu cũng đi đánh cá à?
- Bố nó là ông Lê Mây, thuyền trưởng số một của Liên hợp Biển
Đông.
Trí nhớ mụ mẫm của tôi vụt loé sáng:
- Có phải bố cháu là thuyền trưởng tàu VT250 không?
Sỹ ngạc nhiên:
- Sao bác biết?
Chuyến đi Bạch Long Vĩ làm phim cùng ông lập tức hiện về từng
chi tiết. Biển nhuộm một màu hoàng hôn đỏ. Chúng tôi yêu cầu Lê Mây quay đuôi
tàu về phía Tây, nơi mặt trời sắp lặn. Đụt cá phồng căng vừa cẩu lên lơ lửng
trút nước ào ào. Ánh mặt trời buổi chiều tà sáng rực viền quanh đụt cá, anh thủy
thủ giật dây thắt đụt, hàng tấn cá xổ ra trên boong giãy dụa. Lê Mây bước đến gần
sàn dốc, cúi xuống lấy ngón tay miết vào tấm lưới xanh dính bùn đất. Rồi Lê Mây
tác nghiệp hải đồ, tính toán. Và Lê Mây đứng ở mũi tàu khi biển động. Đó là cảnh
quay đẹp nhất trong phim: Bóng dáng Lê Mây ngược sáng như một bức tượng đồng bất
động giữa khuôn hình. Lúc những đám mây trên trời vần vụ chạy thẳng xuống, biến
mất dưới chân ông, lúc biển nghiêng hẳn dâng cao đẩy bầu trời xô lệch. Tiếp đến
là một đặc tả khuôn mặt ông sạm nắng gió và muối mặn, vuông vức, râu ria, mắt dữ
dội nhìn thẳng trên một nền trời biển điên đảo phía sau. Và đây Lê Mây đang đứng
trước boong lái, giữa trời xanh. Biển lặng trải tới chân trời. Ông thanh thản
ngửa cổ đưa chai rượu lên cao...
- Bố cháu khỏe không? Tôi hỏi Lê Chí Sỹ.
- Bố cháu mất lâu rồi bác ạ. Hơn chục năm rồi. Bác có biết
bác Đặng Việt, chú Thích không? Chết cả rồi. Lớp thuyền trưởng
với bố cháu ngày ấy chỉ còn vài người trong đó có bác Đáng bố
anh Phong đây.
- Tại ông già em uống rượu nhiều quá. Phong bảo.
- Là thế nhưng cũng không phải thế. Khi còn đi đánh cá ông
già cháu đã uống nhiều rượu. Đến lúc đi tàu nước ngoài, trắng tay, nợ đìa ra,
lên bờ lại càng uống dữ. Trở về đánh cá không ăn thua, khi các tàu sắp giải bản
bán sắt vụn, ông già cháu tính nước về hưu trước tuổi, được mấy chục triệu đem
giả vẫn chưa hết nợ. Từ bấy ông già cháu suốt ngày rượu. Trước còn lang thang
các quán, uống với người nọ người kia, hôm nay người ta trả, hôm khác mình trả,
sau thấy tốn quá, quay ra uống ở nhà. Ngày nào cháu cũng phải đạp xe đi mua rượu
cho bố cháu. Lúc nào bố cháu cũng say. Say rồi cứ một mình trên giường lẩm nhẩm
những gì không ai biết. Cũng có khi bắc ghế ra sân ngồi im lặng suốt buổi. Đặc
biệt bố cháu không thở dài bao giờ. Không làm gì cũng không đi đến đâu nữa. Tất
cả lương hưu vào rượu hết. Chỉ khổ mẹ cháu. Hưu mà có được nghỉ đâu. Chần lưng
ra làm. Lau nhà, dọn dẹp cho các gia đình người ta thuê. Làm theo giờ. Sáng sớm
đã xách xe đi, trưa về mang theo mớ rau con cá lao vào bếp. Cháu với anh Dũng
còn đi học. Bố cháu không động chân tay. Rửa nắm rau cũng không. Nhóm cái lò
cũng không. Chỉ rượu. Ăn cơm xong mẹ cháu lại đạp xe đi, tối mịt mới về. Buổi tối
nào có được nghỉ. Buông bát buông đũa, mẹ cháu xách can bia, con mực khô, chai
chíu chương, mấy cái cốc ra ngồi ở Ngã Năm đến nửa đêm, lấy tiền nuôi hai con
ăn học. Cháu cằn nhằn bố cháu với mẹ cháu thì mẹ cháu gạt đi: "Bố con khổ
quá, mẹ thương lắm. Các con hãy thương lấy bố". Có một lần bố cháu đưa mười
nghìn bắt cháu đi mua rượu, ngày nào cũng rượu với rượu, điên lên, cháu chỉ mua
năm nghìn, rồi pha nước lã vào cho đầy chai đem về đưa cho bố cháu. Vừa uống một
hớp bố cháu biết ngay. Bố cháu gọi cháu, bắt đứng ở đầu giường lấy roi đánh.
Đánh như đánh quân thù. Cả đấm, cả đá. Cháu hét lên: "Bố chết đi! Chết đi
cho mẹ đỡ khổ!" Bố cháu điên lên, càng đánh khỏe. Thì bác tính năm ấy cháu
mới có hơn mười tuổi. Ăn trận đòn của ông già, cháu không đứng dậy được, cứ nằm
ở giường khóc. Sau trận ấy, bố cháu càng uống nhiều hơn. Uống từ sáng đến trưa.
Từ trưa đến tối. Thế rồi bác ạ, tự nhiên bố cháu bỏ rượu. Lại đi chơi nhà này
nhà khác. Rồi mua về một chiếc mâm nhôm mới tinh. Nhà cháu có mâm đâu. Cái mâm
cũ rách quá phải lấy mấy miếng gỗ thông ghép lại làm mâm. Lại mua cho hai anh
em cháu mỗi người một bộ quần áo, mua cho mẹ cháu cái khăn quàng, cái áo len. Cả
nhà cháu đều mừng. Vui hẳn lên. Nhưng đấy là điềm báo trước sự ra đi của bố
cháu. Một hôm bố cháu gọi cháu:
- Lê Chí Sỹ. Lại đây bố bảo.
Đã lâu lắm bố cháu mới gọi cháu bằng một giọng âu yếm như thế,
gọi cả họ cả tên như thế. Như ngày cháu còn bé. Ngày ấy, mỗi khi đi biển về bố
cháu lại cho cháu đến xí nghiệp, hai bố con nắm tay nhau đi dung dăng dung dẻ
trong sân, ra cầu tàu, tới căng tin, ai gặp cũng hỏi bố cháu: "Thằng Lê
Chí Sỹ đây phải không?" Bố cháu cũng gọi cháu là Lê Chí Sỹ. Cả những lúc nằm
ngủ, bố cháu cũng ôm cháu gọi Lê Chí Sỹ. Hai bố con nằm võng đu đưa. Bố cháu dạy
cháu hát: "Đoàn quân Việt Minh đi chung lòng cứu quốc. Bước chân dồn vang
trên đường gập ghềnh xa..." Bố cháu chỉ biết mỗi bài hát ấy. Chỉ dạy cháu
mỗi bài ấy. Quanh đi quẩn lại mỗi bài Quốc ca thôi.
Cháu bước tới chỗ bố cháu. Bố cháu nắm tay cháu:
- Hôm nào bố với con về bà ngoại đi. Thăm mộ ông ngoại, xem
bà ngoại có khỏe không. Bà ngoại già lắm rồi. Lâu lắm bố không gặp...
Mẹ cháu lúc ấy cũng có mặt, rơm rớm nước mắt. Nhưng bố cháu
có về bà ngoại được đâu. Tối hôm ấy vẫn ăn uống bình thường, xem hết chương
trình thời sự trên tivi, kêu nhức đầu rồi mắc màn đi ngủ và không dậy nữa. Đến
lúc bố cháu chết cháu mới thấy thương bố cháu, mới thấy thế nào là một đứa mồ
côi. Còn cha gót đỏ như son...
Câu chuyện thật buồn. Phong bảo:
- Không phải một mình ông già em đâu. Hình như cái nghề đi biển
đánh cá không ai thọ lâu hay sao ấy. Ông Thích nhé, ông Đặng Việt nhé, ông Lê
Uy, ông Trần Ngọc Châu nữa. Đều đi cả. Toàn trên dưới sáu mươi. Ông Quân còn sống
nhưng tai biến mạch máu não, ăn đấy, ỉa đấy, liệt giường bao nhiêu năm nay muốn
chết mà không chết được. Ông Đay khá hơn, làm lại được cái nhà ở quê. Như ông
già anh thôi.
Phong quay lại tôi:
- Xí nghiệp bố cháu không còn cái tàu nào. Cả xí nghiệp lụn bại.
Chỉ ông Thắng và mấy sếp trên bờ giàu. Thời đánh cá, thời đi tàu nước ngoài hết
rồi. Cháu đã tổng kết. Mỗi giai đoạn có một ngành nghề lên ngôi bác ạ. Bắt đầu
là nghề mậu dịch viên. Rồi nghề lái xe. Đến nghề Vosco tức là nghề đi tàu nước
ngoài. Rồi nghề ếch (ex), tức là nghề xuất nhập khẩu. Bây giờ là thời của các sếp.
Cháu chỉ làm một suất ăn theo thôi.
- Thế là đời bố đi làm đời con đốt sách. Đúng như lời ông
thuyền trưởng nào đó đã nói.
- Bố cháu! Bố cháu nói vậy. Nét mặt Sĩ đã vui lên một chút.
- Rút kinh nghiệm các cụ, chúng cháu quyết không chịu nghèo.
Nghèo đi với hèn bác ạ. Vấn đề là phải tỉnh.
... Tập nhật ký của Phong gợi cho tôi biết bao kỷ niệm thôi
thúc tôi đạp xe xuống Liên hợp Biển Đông. Tất cả đã thay đổi, từ cầu cảng, nhà
cửa, và nhất là những con người. Không một nét mặt quen, không một con tàu cá.
Hơn ba chục con tàu với hàng vạn mã lực đã biến mất không để lại một dấu vết
gì. Như những người đã từng một thời làm việc nơi đây, nói cười, vui sống, yêu
ghét, giận hờn, mưu toan, dối trá, trung thực... đều không còn có mặt nơi đây.
Thấy tôi lụi cụi với tập nhật ký, con tôi bảo:
- Thằng Phong "được" lắm bố ạ. Có biệt thự rồi. Ba
tầng. Mười buồng. Buồng nào cũng lát gỗ lim hẳn hoi. Nội thất thì thôi rồi. Mới
mua một cái BMW. Lại còn gần nghìn mét đất ở Sóc Sơn nữa. Nó nói với con: Nhìn
tấm gương các cụ đấy, phải tư duy mới thôi. Nếu không sẽ bị đào thải. Nó bảo phải
tàn bạo. Muốn sống được phải tàn bạo. Làm việc với nó không mặc cả bằng miệng
mà bằng máy tính. Bấm số. Giơ lên. Nó xem rồi lắc hay gật. Không nói một lời...
Viết trong những ngày xót thương con gái Giáng Hương.
Ngã Sáu 2005-2007
Chú thích:
1. |
Vải ốc pho màu cứt ngựa, dùng để may quân phục cho sĩ quan
cấp tá. |
Phụ Lục
Tiểu sử
Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng trong một
gia đình mà ông gọi là "địa chủ nhỏ" vì dường như cha mẹ có hơn 10 mẫu
ruộng, theo hồi tưởng của nhà văn. Là con trai út sau ba người anh, thuở nhỏ
ông học giỏi: thi tiểu học, ông đỗ đầu Liên khu Việt Bắc trong những năm đầu của
cuộc chiến chống Pháp, khi tản cư cùng cha mẹ lên Bắc Giang, Thái Nguyên.
Thời gian học trung học, Bùi Ngọc Tấn tiếp tục học giỏi nhất
lớp và được nhận học bổng toàn phần. Gần bảy chục năm sau, nhà văn ở ngưỡng bát
thập còn nhớ rằng, phần thưởng đầu đời dành cho ông vì học lực xuất sắc cũng
liên quan tới văn học: đó là một chiếc cặp da do thầy Hoàng Ngọc Phách - tác giả
"Tố Tâm", được coi là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam - khi đó
là Giám đốc Sở Giáo dục Liên khu tặng.
Năm 1954, Bùi Ngọc Tấn có mặt trong Đội Thanh niên Xung phong
về tiếp quản Hà Nội. Cuối năm, ông từ chối đi học kỹ thuật ở nước ngoài để về
báo "Tiền Phong" trên cương vị một phóng viên. Những sáng tác đầu
tiên của ông bắt đầu từ đó, và sau này đã được in rải rác ở nhiều nhà xuất bản
đương thời như "Văn học", "Lao động", "Thanh
niên", "Phổ thông"...
Cuối năm 1959, dưới ảnh hưởng những dư chấn của cuộc đàn áp
Nhân văn Giai phẩm diễn ra cùng thời đối với giới văn nghệ sĩ Bắc có tư tưởng cởi
mở, Bùi Ngọc Tấn được chính quyền "khuyên" hãy về quê Hải Phòng để
"thâm nhập công nông", nhằm "viết tác phẩm của đời mình".
Ông chuyển về làm biên tập viên ở báo "Hải Phòng Kiến thiết" và tập
trung viết báo để chăm lo cho gia đình sáu người.
Cũng trong thời gian này, Bùi Ngọc Tấn có dịp làm quen và
thân thiết với nhà văn đàn anh Nguyên Hồng của đất Cảng, cùng một lãnh đạo đảng
ở Hải Phòng là ông Hoàng Hữu Nhân, người có lòng và quan tâm đến giới sáng tác,
về sau trở thành ân nhân của họ Bùi trong những năm tháng cơ cực sau khi ra tù
và không có công ăn việc làm.
Tính đến cuối năm 1968, tức là 15 năm đầu của đời sáng tác,
Bùi Ngọc Tấn "in được một số truyện ngắn, có ba tiểu thuyết sắp sửa trình
làng, hai kịch bản phim chưa quay nhưng đã ký hợp đồng với Cục Điện ảnh và đã
được tạm ứng một phần ba nhuận bút", theo hồi tưởng của ông. Đó là những
sáng tác mà như ông thú nhận: "Đều theo trường phái "tụng ca",
bây giờ nghĩ lại thấy xấu hổ. Nhưng đó là sự ngây thơ chân thành của một thời".
Tháng 11 năm ấy, đột ngột nhà văn bị bắt với tội danh "tuyên
truyền phản cách mạng", rồi bị đưa đi tập tập trung cải tạo trong vòng năm
năm. Kỳ thực, ông là nạn nhân của cái gọi là vụ án "Xét lại, chống Đảng,
làm tay sai cho nước ngoài", một vụ thanh trừng đại quy mô diễn ra trong nội
bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, dẫn tới hậu quả nhiều văn nghệ sĩ không liên quan
cũng trở thành những "người tù không án".
Không biết có tội gì và cũng không hề được đưa ra xét xử, Bùi
Ngọc Tấn bị giam cầm trong hoàn cảnh cùng cực, chứng kiến vô số cảnh đời bi thảm
trong hệ thống tù ngục Bắc Việt Nam cho đến tháng 4-1973 mới được thả. Về sau,
ông tâm sự: "Thật chẳng ngờ tôi đã phải sống cạn một kiếp tôi để rồi viết
về chính nó", và lời cảm thán ấy của ông đã được đăng trên tờ báo "Tiền
Phong" ở trong nước sau đó hơn sáu chục năm.
Gần một ngàn năm trăm trang bản thảo của Bùi Ngọc Tấn đã bị
thu khi ông bị bắt giữ, và sau này ông cũng không được trao trả lại. Thời gian
ông trong các trại cải tạo lao động, vợ ông bị đuổi khỏi trường đại học - kẻ
làm điều này, theo nhà văn, cũng chính là người đã ra chỉ thị bắt ông, và sau
đó cấm ông làm việc khi đã được ra tù: Giám đốc Công an Hải Phòng.
Ra tù mùa xuân 1973, nhà văn bị thất nghiệp trong hai năm và
đã trải qua nhiều nghề để kiếm sống như bốc vác, thợ sắt, buôn bán, kéo xe bò
và cả… viết chui, như ông thuật lại. Đến tháng 5-1975, nhờ sự giúp đỡ của ông
Hoàng Hữu Nhân, khi đó là Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, Bùi Ngọc Tấn mới
được trở lại làm việc chính thức tại một cơ sở đánh cá ở Hạ Long, trong vai trò
nhân viên theo dõi thi đua khen thưởng.
Ròng rã trong suốt hai thập niên kể từ khi ra tù cho đến những
năm chuẩn bị hồi hưu, Bùi Ngọc Tấn đã buộc phải gác bút. Như những gì ông thuật
lại sau này, thời gian đó không chỉ không được phép viết, mà ông còn luôn bị
công an văn hóa sách nhiễu, theo dõi, lục lọi, khám xét liên miên, ngay cả những
trang nhật ký cũng bị thu giữ.
Phải đến năm 1993, tức là tròn một phần tư thế kỷ kể từ ngày
bị bắt giữ rồi đưa đi cải tạo, cái tên Bùi Ngọc Tấn mới tái xuất hiện trên tạp
chí "Cửa Biển" (Hải Phòng) với bài viết "Nguyên Hồng, thời đã mất".
Những hồi ức về nhà văn đàn anh thân thiết ấy, cũng như những văn sĩ thế hệ ông
còn trở lại trong tập hồi ký "Một thời để mất" (năm 1995), là cuốn
sách đầu ông được in sau "kiếp nạn".
Trong hai chục năm cuối đời, Bùi Ngọc Tấn đã ra thêm được chừng
năm đầu sách, trong đó đáng chú ý là những chân dung văn học trong tập "Rừng
xưa xanh lá", cùng nhiều truyện ngắn rất sắc nét. Ngoài các giải thưởng
trong nước, năm 2012, tiểu thuyết "Biển và chim bói cá" của ông được
tặng thưởng giải thưởng lớn cho tác phẩm đề tài biển tại Liên hoan "Sách
và biển" được tổ chức hàng năm ở Pháp.
Tuy nhiên, nếu có một tác phẩm khiến Bùi Ngọc Tấn được
"lưu danh hậu thế", trở thành một tác gia lớn của văn học Việt Nam,
thì đó chính là "Chuyện kể năm 2000" đã nhắc tới ở đầu bài. Cuốn tiểu
thuyết mang tính chất tự sự và ghi dấu ấn những năm tháng tù đày, cải tạo của
tác giả, được Bùi Ngọc Tấn khởi viết tháng 6-1990 tới tháng 11-1991 thì xong bản
thảo đầu tiên và tới cuối năm 1997 thì hoàn tất với nhiều sửa chữa, chỉnh lý.
Theo lời kể lại của tác giả, do đã "hết sức ngấm đòn"
vì từng bị thu hàng ngàn trang bản thảo nên ông đã phải viết "Chuyện kể
năm 2000" trong hoàn cảnh bí mật tuyệt đối - nếu bị phát hiện, bản thảo có
thể bị tịch thu bất cứ lúc nào. Nhà văn đã không thể cho bất cứ ai xem bản thảo
trong thời gian chấp bút, và đến khi hoàn tất cũng chỉ dám đưa hai người bạn
văn nghệ chí cốt là Lê Bầu và Dương Tường đọc và góp ý.
Bùi Ngọc Tấn hồi tưởng: "Tôi viết trong khi vẫn đi làm ở
một xí nghiệp đánh cá, viết trong lúc rỗi ở xí nghiệp, viết trong những ngày chủ
nhật, ngày nghỉ lễ, viết đêm, nghĩa là tranh thủ mọi thời gian. (...) Viết được
mấy chục trang đầu tiên, tôi đưa (nhà văn) Nguyễn Quang Thân đọc. Anh nói với
tôi một câu tôi không chờ đợi, thật bất ngờ, có sức động viên tôi rất lớn:
"Cái này của toàn nhân loại mày ạ".
Sau khi thử đưa bản thảo ở một hai nơi và bị từ chối, tháng
2-2000, sách được ra mắt ở NXB Thanh Niên trong sự ngỡ ngàng của chính tác giả.
Nhưng chỉ một tháng sau, chính quyền đã ra quyết định "đình chỉ, thu hồi
và tiêu hủy" sách, và trong vòng mười bốn năm từ bấy tới nay, theo nhà
văn, sách vẫn chưa hề có quyết định được phép tái bản hay lưu hành, mặc dù ông
đã nhiều lần đưa ra đề nghị thảo luận về điều đó.
Tuy nhiên, "Chuyện kể năm 2000" với nội dung làm
lay động lòng người và sức mạnh ngút ngàn của sự thật, đã nhanh chóng vượt khỏi
vòng kiềm tỏa và cấm đoán của chính quyền. Sách được in chui, được sao chép và
lưu hành rộng rãi như chính tác giả cho biết, và điều rất đáng kể là nó đã vượt
biên giới Việt Nam, sang các xứ sở xa xôi với hơn mười ấn bản Việt ngữ ở nhiều
quốc gia trên thế giới như Mỹ, Canada hay Đức.
Dày hơn 600 trang, "Chuyện kể năm 2000" thuật lại
cuộc sống tù ngục của nhân vật chính - nhà văn Nguyễn Văn Tuấn, hóa thân "gần
như không thêm bớt" của tác giả, cùng những bạn tù được khắc họa rất sắc
nét, như Ngọc hay Già Đô, người mà tác giả cho hay là sự tổng hợp của nhiều người
trong tù và ngoài đời, như triết gia Trần Đức Thảo, hay nhà văn Tuân Nguyễn,
cũng là một nạn nhân bi thảm của vụ án "Xét lại, chống Đảng".
Nhưng điểm khác biết và có lẽ nổi trội hơn nhiều tác phẩm
kinh điển khác của dòng văn học phản án thế giới tù ngục, trại tập trung cải tạo,
là ở chỗ "Chuyện kể năm 2000" đã cho thấy nỗ lực nhân văn của người
tù trong cảnh cùng cực để không đánh mất mình, và thông qua đó, đem lại niềm tin
cho con người. Như chia sẻ của Phạm Tường Vân, người đã thực hiện trong ba năm
ròng những cuộc phỏng vấn kỳ công nhất về Bùi Ngọc Tấn:
"Điều lớn nhất tôi nhận được từ cuốn sách ấy
là gì? Phải chăng là một niềm tin vững chắc để dấn bước vào những
vùng u tối nhất của đời sống, rằng nếu hấp lực của việc viết có
đẩy mình tới đâu, thì vẫn có cách đi xuyên qua nghịch cảnh mà không
đánh mất phẩm giá. Dẫu có phải đối diện và trở thành nạn nhân của
sự u tối và tàn bạo đến thế nào, thì nhất quyết không để sự ngu
dốt vô minh nuốt chửng để trở nên cay nghiệt, hằn thù".
Với góc nhìn rất nhân bản ấy, có lẽ không ngạc nhiên, khi
tình yêu được mô tả hết sức nguyên sơ và thánh thiện giữa người tù và người phụ
nữ anh yêu cũng là một nét động lòng và để lại dư vị mạnh mẽ trong lòng người đọc.
Một độc giả có dịp tương giao với tác giả trong những năm cuối đời của ông đã
nhận xét, Bùi Ngọc Tấn vẫn giữ nguyên vẹn "những gì đẹp đẽ nhất trong con
người - yêu và được yêu":
"Điều ngạc nhiên nhất đối với tôi là khi gập cuốn sách lại,
những căm phẫn nghẹn ngào về chế độ xã hội dường như lại nhường chỗ cho tình
yêu.
Những chương viết về tình yêu của Bùi Ngọc Tấn với người phụ
nữ dịu hiền, luôn nâng niu, đi bên ông suốt chặng đường đời, hay một chút lãng
mạn với người phụ nữ bí ẩn gìn giữ những trang bản thảo đánh máy của ông là
minh chứng về tình yêu như lẽ tự nhiên, đẹp giản dị, mà người ta nương náu vào
đó để tìm nguồn sống trong tận cùng của khổ sở đớn đau, để có sức mạnh đối chọi
với bạo lực và cường quyền.
Những tháng năm ngục tù không giết chết yêu thương trong ông,
mà ngược lại nó làm ông thêm yêu tự do, và tiếp tục viết như khẳng định quyền tự
do của mình, mặc dù nhiều năm trong tù và khi ra khỏi ngục tù, quyền tự do ấy bị
cướp đoạt. Trong một bản nhạc buồn, đen tối, không lối thoát, đâu đó có những nốt
nhạc tình được êm ái cất lên...".
Những nốt nhạc long lanh ấy, chắc chắn sẽ còn được lưu giữ và
âm vang trong từng trang viết của Bùi Ngọc Tấn, về con người, tình yêu, về quyết
tâm vượt qua nghịch cảnh gian nan và đen tối, vượt qua mọi tàn ác và phi nhân của
bất cứ thể chế toàn trị nào... Kể cả khi, tác giả của nó, đã giã từ dương thế
trong một ngày giáp lễ Giáng sinh - ngày hội của tình yêu thương - năm 2014 đầy
biến động này...
Và kể cả khi, đại đa số báo chí trong nước, khi đưa tin về sự
ra đi của ông, đã phải bỏ trống khoảng thời gian ông bị tù tội và đày ải như thể
nó chưa từng tồn tại, cũng như, buộc phải "lờ" đi tác phẩm chính yếu
của một đời người - "Chuyện kể năm 2000" - trong danh sách những sáng
tác tiêu biểu của "người tù không án" Bùi Ngọc Tấn…
Nguyễn Hoàng Linh
Một sử thi của tan rã
Dương Tường
Trong số năm tiểu thuyết Bùi Ngọc Tấn đã viết, Biển và
chim bói cá là cuốn duy nhất đến được với công chúng mà không gặp trục trặc
gì. Ba cuốn đầu, hoàn thành trong những năm 1960, bị tịch thu từ lúc còn ở dạng
bản thảo, do đó không bao giờ được chào đời. Cuốn thứ tư, Chuyện kể năm
2000, tác phẩm đã khiến ông được mệnh danh là Soljénetsyne Việt Nam, bị
thu hồi và tiêu hủy một tuần sau khi phát hành.
Biển và chim bói cá, mà một số nhà phê bình văn học chào
đón như xuất bản phẩm hay nhất của mùa sách này, là câu chuyện rã đám của một
công ty quốc doanh đánh cá biển. Với một cấu trúc dứt khoát phi tuyến tính,
không cốt truyện cũng chẳng có nhân vật chính, cuốn tiểu thuyết khoảng 500
trang này bày ra hỗn độn tung tãi những mẩu đời vụn của những người làm công ăn
lương cố sống cố chết bám lấy cái xí nghiệp đang ngoi ngóp trong nguy cơ
"đắm tàu". Những câu chuyện kỳ cục khiến ta vừa phì cười vừa muốn
khóc. Những con người cùn mằn tội nghiệp - nhân viên văn phòng, cạo giấy, thủy
thủ... - chạy ngược chạy xuôi đôn đáo, dùng mọi mánh xoay xở thảm hại để kiếm đủ
sống qua ngày... Một chồng chất hỗn độn những nhân vật tuy khắc họa sắc nét, thậm
chí đôi khi nổi bật như tác phẩm điêu khắc, nhưng hòa trộn thành một khối vô dạng
hình, qua đó lấp ló sự suy tàn không tránh khỏi của cả một hệ thống.
Một sử thi của tan rã, tôi những muốn nói thế.
Những con "chim bói cá" của Bùi Ngọc Tấn
- Châu Diên
Tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn có
thể được nhìn dưới hai góc độ, như một phóng sự dài, và như một tiểu thuyết. Hoặc
cũng có thể nói thế này, đó là một tiểu thuyết viết bởi một bàn tay viết báo kỳ
tài với văn phong báo chí điêu luyện. Thế nhưng, như chủ đích của tác giả, đó
căn bản là một cuốn tiểu thuyết. Và hẳn là ta nên xem xét những đóng góp của
tác phẩm này với tư cách thể loại tiểu thuyết, và đó chính là mục đích của bài
viết này.
° ° °
Trước hết, có tên gọi "chim bói cá". Bùi Ngọc Tấn gọi
một cách đầy trìu mến ngồn ngộn hàng mấy chục nhân vật của cái Quốc doanh đánh
cá ở một thành phố biển nước ta - cả những người "trực tiếp sản xuất"
trên biển lẫn những người "ăn theo" trên bờ - là những con chim bói cá.
Sách chia làm hai phần.
Phần thứ nhất nói về những thân phận chim bói cá trên biển,
trong đó có cả những con chim thuộc biên chế trên biển nhưng vì những lý do thuộc
cơ chế nên phải về nằm bờ chờ việc, ăn lương thất nghiệp dài dài. Đọc xong phần
thứ nhất này, người đọc sẽ vương vấn một câu hỏi trong lòng mình: những con người
này, những con chim bói cá này, chúng có hạnh phúc không, và liệu rồi có bao giờ
chúng có nổi hạnh phúc hay không?
Phần thứ hai nói về những con chim bói cá "ăn
theo" tại vô số phòng ban bệ trên bờ. Phần thứ hai của sách nói về những
con chim bói cá làm việc ở bản doanh của "quốc doanh đánh giậm" - họ
tự giễu mình như vậy - kể về những cung cách sống toát lên cả một thể chế đang
lụn bại, đang trên bờ vực phá sản, song cũng lại đang vùng vẫy cựa quậy cố công
cố sức tự thay đổi trong một cuộc "cải cách" tuyệt vọng chế độ kinh
doanh. Một cuộc cải cách của những người rủ nhau đi biển đầy nắng và sóng gió
nhưng lại mang màu sắc ảm đạm của những kẻ đi vào con đường hầm không lối
thoát.
Trong phần thứ nhất, Bùi Ngọc Tấn kể những câu chuyện rành rọt
về những con chim bói cá trực tiếp đi "đánh giậm" trên biển. Có bao
nhiêu nhân vật cả thảy? Mười? Hai mươi? Ba mươi? Có nhân vật nào chính? Dường
như có một nhân vật tên Cương. Nhưng cũng không hẳn thế. Dường như có một nhân
vật tên Bôn. Nhưng cũng không hẳn thế.
Người đọc sẽ thấy mình bị mất hút trong đám nhân vật có tên
nhưng dường như không tên, những gương mặt trong tầng tầng lớp lớp gương mặt
thì đúng hơn. Nhưng các gương mặt ấy không đủ để bạn đọc nhớ được câu chuyện -
một câu chuyện dường như chẳng có chuyện gì gắn bó "một cách tiểu thuyết"
các nhân vật với nhau. Nhưng ta sẽ nhớ được câu chuyện nếu ta đặt chung các
gương mặt của bức tranh vẽ theo lối "luật viễn cận Trung Hoa'; nhân vật ở
xa cũng như ở gần đều hiện trên bức tranh với độ lớn nhỏ như nhau, với sự rõ
nét như nhau, bắt ta cứ phải bám theo từng gương mặt cho tới khi nó nhường chỗ
cho gương mặt khác.
Cách kể chuyện đó của Bùi Ngọc Tấn, ta được thấy cả
trong Chuyện kể năm 2000. Cách kể chuyện đó cũng nằm trong các truyện
ngắn của Bùi Ngọc Tấn - trừ ba truyện ngắn có kết cấu thực sự "truyện ngắn Khói,
Người chăn kiến và Cún ở đó bố cục truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn có từ
bỏ cái "lan man" phóng túng để trở lại với cái cổ điển gọn ghẽ vẫn
quen được coi là đặc trưng của thể loại này. Cách kể chuyện đó hiện ra một cách
như thể đùa bỡn và thật đắc địa trong Rừng xưa xanh lá và trong những
ghi nhớ khác về bạn bè. Cách kể chuyện đó lại hiện trở về trong câu chuyện về
những con chim bói cá - đặc biệt trong phần những con bói cá "lực lượng sản
xuất chính" trên biển, không phải lũ chim ăn theo trên bờ.
Ta sẽ dễ dàng theo dõi các gương mặt (hoặc nhân vật)
"chim bói cá" ấy, nếu ta để ý đến cái khát vọng chung được sống hạnh
phúc của họ, những chàng trai, nhưng trung niên, những người chờ việc và những
người "đánh thuê", những cấp trên và cấp dưới, những người đồng cấp
thân thiết nhau hoặc đang có chuyện ngủng ngoẳng mất đoàn kết với nhau... tất cả,
không loại trừ ai, họ đều tạo thành một nhân vật chung mang tên Khát Vọng Hạnh
Phúc.
Cái hạnh phúc đến là giản dị. Ông thuyền trưởng Bôn tàu vừa mới
vệ sinh sạch sẽ về bến, đã vội nhảy lên bờ, quẳng tất cả đó, cũng không màng cả
một con cá đem về cho vợ con, nhảy ngay lên xe, chỉ kịp ngoái lại dặn "các
ông ấy có hỏi thì bảo mình lên trạm xã một chút rồi về ngay. Đấy. Bây giờ lại
đau. Có lẽ dạ dày dở chứng thật rồi". Người bạn cũng rất tâm lý, đứng
ra bảo đảm cho sự vắng mặt của thuyền trưởng của mình tại một "cuộc họp
quan trọng" như là có lý do rất tự nhiên, rất chính đáng: "Báo
cáo, thuyền trưởng câm y bạ đi khám bệnh rồi ạ". Thêm thắt bịa đặt
tình tiết cầm y bạ cho ai ai cũng phải tin.
Trần Bôn đi đâu? Thì cũng là cái chuyện đi như mọi anh em. Đi
cho nhanh vì nhớ vợ. Nhớ người yêu. Nhớ đàn bà. Hạnh phúc với lũ chim bói cá
này là nỗi thèm khát được sống đều đặn với đàn bà. Mỗi gương mặt chim bói cá đều
dính líu đến một thân phận đàn bà, một cuộc tình, mà thường là không bao giờ thỏa
mãn. Chuyện thơ mộng như câu chuyện của bác cấp dưỡng già dưới tàu tên là Tích
cho cánh thủy thủ trẻ "... Chúng mày biết gái Thủy Nguyên đập lúa rồi
chứ gì. Khàn mỏ quạ bịt kín mặt chỉ để hở hai con mắt, chằng biết già trẻ xấu tốt
ra sao. Đập xong, tất cả ra về, chỉ còn tao và một cô ở lại quét dọn, về sau. Đến
khi ra cầu ao, cô ấy cởi khăn ra giũ. Ôi trời! Đẹp quá. Má hồng rực, tóc mai
dính bết, mắt bồ câu long lanh. Hai đứa xắn quân lội xuống bậc gạch bên dưới.
Cô ấy cúi xuống. Tao cũng cúi xuống nhưng chưa vục nước ngay mà còn nhìn sang
cô nàng. Hai bắp chân trắng như cá chép ngâm dưới nước. Cô ấy cũng nhìn lại tao
cười, má cứ rực lên rồi lại cúi xuống ao, hai bàn tay khum khum định vốc nước
lên mặt. Tao mới đưa tay sang xoa xoa vào mặt nước chỗ khuôn mặt cô ấy. Cô ấy
cười tủm tỉm, rồi nắm lấy tay tao, giữ chặt không cho tao khỏa nước nữa. Lại
còn đưa một tay sang xoa chỗ ao tao đang soi xuống. Trả miếng đấy. Có đi có lại
đấy. Ăn chết rồi! Tao cũng nắm lấy tay cô ấy, giữ tay cô ấy lại, bóp một cái thật
mạnh. Cô nàng nhăn nhó há miệng ra chiều đau. Chỉ há miệng chứ không kêu thành
tiếng. Chà! Cái nhăn mặt ấy mới chết người".
Đời như thế mà phải đi biển những ngày dài biền biệt, nếu
không nhớ nhung, nếu không sôi lên vì nhớ, thì chẳng hóa ra họ là phỗng hay
sao?
Vì thế mà, một tỷ trọng khá lớn của tác phẩm hình như đã được
Bùi Ngọc Tấn dùng để cho ngọn bút và con mắt quan sát cùng những kinh nghiệm
trường đời của... mọi người được cố định trên những trang giấy.
Những chàng trai ấy thực tình cũng đáng được hưởng tình yêu đàn bà con gái của họ. Vì những ngày đằng đẵng họ ở dưới tàu, chỉ có trên là trời và dưới là nước. Vì những ngày đêm họ làm việc cật lực cho xí nghiệp...
Một "xã hội" sống chen chúc trong tiểu thuyết mà
thiếu những đường dây cổ điển các nhân vật chính và phụ, các xung đột và những
nút thắt... mà ta dùng khái niệm tiểu thuyết tư liệu để đặt tên, liệu
khái niệm ấy có thể chứa đựng một phong cách khả dĩ đứng vững không?
Trước hết, cần nói rằng dạng tiểu thuyết tư liệu chẳng phải
là sáng kiến của Bùi Ngọc Tấn; ông chỉ viết theo thói quen mà thành phong cách
đó, đơn giản thế thôi. Trước Bùi Ngọc Tấn, Emile Zola đã từng đề cập đến khái
niệm "tiểu thuyết thực nghiệm" 1.
Và trước Zola, trong lịch sử sáng tác văn xuôi, cũng đã có dạng tiểu thuyết tư
liệu ít nhất là từ năm 1849 ở Canada. Đó là cuốn "Ký họa cuộc sống
Canada" của W. S. Darling, một cha đạo Tin Lành ở quận Toronto. Tác
phẩm của Darling viết như một tập phác họa cuộc đấu tranh của Canada sao cho
các thiết chế xã hội, chính trị và tôn giáo của mình, duy trì được tính chất và
tinh thần Anh quốc, cố sống cố chết sao cho không bị lăn theo vết đi cộng hòa
như ở nước Mỹ. Nhưng người đọc sẽ được thấy cả một tiến trình xã hội Canada
chao đảo rồi xa dần những tập tục châu Âu để ngả vào con đường mới vạch ra ở nước
Mỹ: con đường cộng hòa và dân chủ không sao cưỡng lại được ở Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ.
Ta hãy trở lại với dạng tiểu thuyết tư liệu được coi như mẫu
mực (kinh điển), tiểu thuyết Germinal ("Tháng gieo mầm" như
cách đặt lại tên tháng theo lịch cách mạng) của Emile Zola. Đó là cuốn tiểu
thuyết được Karine Montais và Elise Tropet 2. coi
là có tính thời sự. Người đọc có thể thấy tình cảnh nước Pháp thế kỷ
19 "khi cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao động đến hồi càng thằng" và "đặc
biệt sôi sục là những tai nạn lao động (nhất là tai nạn trong hâm lò)" Và
nhà văn Zola đã bỏ ra sáu tháng đi khảo sát các cuộc đình công của thợ mỏ miền
Bắc và vùng Pas-de- Calais rồi từ đó viết nên toàn bộ câu chuyện 3 .
Ngay từ những dòng đầu của chương đầu tiểu thuyết Germinal, Emile
Zola đã để ta bắt gặp ngay nhân vật hệt như người đi điều tra tình hình công
nhân. "Tôi là thợ máy, tôi đi tìm việc đây... Ở đây có nhà máy
không?... Hàng ngày bà con ta có thịt àn không?... Có bánh mì mà àn đã
phúc!..." Tương tự như vậy, cuối mỗi chương trong phần 1 về những con
"chim bói cá'; Bùi Ngọc Tấn lại cho một chú bé trong tưởng tượng ghi lại
nhật ký xuống tàu đánh cá với "bố" - một sự thơ mộng hóa, vì hình như
nhà văn Bùi Ngọc Tấn vẫn có chút e thẹn không muốn để bạn đọc "hiểu nhầm"
vì sao tác giả lại có nhiều hiểu biết về cái nghề "đánh giậm" hiện đại
này đến thế? Bùi Ngọc Tấn chẳng cần bỏ đi thực tế những sáu tháng để điều tra
tình hình công nhân miền Bắc nước Pháp cuối thế kỷ 19. Trước khi viết Chuyện
kể năm 2000, "A Tấn" từ Phố Lu về thành phố Cảng, được phục hồi
không xét xử, và được cử về làm công tác thi đua tuyên truyền ở xí nghiệp đánh
cá Hạ Long. Và khi một nhà văn có máu báo chí đặt chân tới đâu, con mắt nhà báo
và trái tim nhà văn của họ tất yếu sẽ giúp cho cuộc đời này dựng được một tấm
bia.
Nếu như Zola được chứng kiến và ghi lại cảnh đời công nhân
Pháp, thì hơn là vậy, Bùi Ngọc Tấn còn thấy cả sự tan rã của hệ thống đánh cá
mang cái tên đẹp đẽ là "quốc doanh" và được công nhân chế biến đi
thành "Quốc doanh đánh giậm"
Xin đừng nghĩ Bùi Ngọc Tấn đã bắt chước Zola! Cũng giống như khi Bùi Ngọc Tấn cho ra mắt Chuyện kể năm 2000 người viết bài này có nói với tác giả "ông viết đau như Ngôi nhà người chết của Dostoevsky ấy" Khi ấy, Bùi Ngọc Tấn đã phản đối lại: "mình chưa bao giờ đọc tác phẩm đó". Bây giờ cũng vậy, chắc là Bùi Ngọc Tấn cũng chưa đọc Zola - Tháng gieo mầm vẫn chưa thấy nằm trên kệ sách Việt.
Chúng ta hãy trở lại với Chim bói cá...
Ở phần thứ hai của cuốn tiểu thuyết, Bùi Ngọc Tấn dồn sức và
dồn tư liệu phác họa thật tài tình sự tan rã của một thiết chế vô cùng
thiếu tự nhiên, gửi thân trong hệ thống đánh cá "quan liêu bao cấp" -
ta chẳng còn cách gì hơn là dùng cái định ngữ đã thành sáo mòn ấy!
Chỉ bằng vài nét mô tả cô Phòng và những người cán bộ hành
chính - những con chim bói cá "ăn theo" trên bờ - và ta có ngay ấn tượng
không thể nào quên về một khái niệm cơ bản: định nghĩa sinh động thế nào là hiện
tượng vô văn hóa.
Những người "cán bộ" ấy cả nam lẫn nữ cả già lẫn trẻ
đều xưng với nhau là bố, các bố và gọi người khác là con, các
con (trừ gọi cấp trên, vì quan hệ của họ với lối xưng hô quái đản ấy chỉ
diễn ra khi vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm, như chính họ thú nhận).
Chỉ bằng những phác họa ngắn gọn, Bùi Ngọc Tấn cho ta thấy sự
giả dối của những con người đó - những con người buộc lòng phải sống giả dối trong
một thiết chế giả dối. Tủ "tài liệu" của họ được dùng để cất giấu cá,
đem về nhà cải thiện đời sống, có khi chỉ một bọc cá cũng đáng giá bằng cả một
tháng lương. Họ xin cá của các tàu đánh cá như những kẻ hành khất sang trọng! Xin
được nhiều, ăn không hết, đem bán. Ai cũng là con mẹ hàng cá. Từ câu cảng về,
nhìn trước nhìn sau không thấy sếp, cánh phòng ban, người trước kẻ sau sách túi
cá nặng vào buồng làm việc, mở tủ đứng hay tủ bàn dúi vào, và khép nhanh cánh tủ
lại, đi ra ngoài cửa đứng nghênh ngó xem có ai nhìn thấy mình vừa xách cá về
không, rồi trở vào kéo ghế ngồi trước bàn làm việc, giở tài liệu ra xem như người
trách nhiệm nhất trên đời... Và họ phải tránh mặt không đem cá về khi còn
thấy mặt cấp trên lảng vảng ở cơ quan. Họ đành lòng chăm chỉ ở lại làm việc,
thực hiện tám giờ vàng ngọc (mà đúng là tám giờ vàng ngọc thật) hơn thủ trưởng".
Bên cạnh những nhân viên nhan nhản ở các phòng ban, Bùi Ngọc
Tấn vẽ ra chân dung một trưởng phòng nhân sự cứ mỗi lần bọn chim bói cá đi biển
về, cả đi đánh cá lẫn đi vận tải biển, đều lảng vảng xuống tàu, nói bóng gió về
"thay đổi nhân sự". Và thế là đã đánh đi một tín hiệu để các con đến
nhà các bố mà dâng vật phẩm hối lộ. Tiếp đó, Bùi Ngọc Tấn chỉ cần vẽ
phác một gương mặt con ông cháu cha khác đang phạm tội đấy nhưng lại được
"đẩy nhanh" xuống tàu cho đi nước ngoài - những hành trình tương
đương với những chiến lợi phẩm nhặt nhạnh từ các bãi rác tư bản chủ nghĩa nước
ngoài đem về nhà lại đảo chiều trở thành hàng hóa mới.
Cuộc sống ngột ngạt thế ấy sẽ khiến ta không chịu đựng nổi nếu
thiếu những trang viết đầy u-mặc của nhà văn tinh quái Bùi Ngọc Tấn. Đó là những
trang chim chuột nhau. Đó là những lời lẽ xen kẽ kỳ tài chỉ thấy ở Bùi Ngọc Tấn.
Đó là anh nhân viên được cử đi mua đồ ăn tiếp khách đã dừng lại "nếm"
vài miếng rồi say sưa quên mất và bắt cả khách lẫn chủ chờ vàng mắt. Đó là anh
cán bộ thiết kế vườn hoa đã trồng cỏ màu vàng để "thể hiện" màu cá
rán. Đó là một anh cán bộ "dư dôi" làm công việc nhổ cỏ ở cửa phòng
làm việc của sếp cũng lẩn thẩn suy tưởng về việc tạo ra những cái cống đầy cỏ
thối để nuôi lươn, biến cái giấc mộng thủy sản thành sức mạnh của toàn dân!
Nhưng ta đừng nghĩ Bùi Ngọc Tấn chỉ biết đùa bỡn cười cợt chớt
nhả. Đoạn kết tác phẩm Biển và chim bói cá có thể khiến người đọc đầm
nước mắt qua giọng văn tưởng như đùa bỡn của tác giả.
Nhưng để thấy hết "chất" Bùi Ngọc Tấn, không gì hơn
là ta hãy trở lại với Emile Zola trong Tháng gieo mầm để nếm đoạn kết
của sách này:
"Giờ đây, trên trời cao, mặt trời tháng tư đang rạng rỡ
hết mực, sưởi nóng trái đất đang sinh sôi. Từ thân những cây củ cải trắng, mầm mọc
ra thành lá xanh giữa những run rẩy cỏ xanh cũng đang ngoi lên. Khắp nơi, các hạt
giống đang càng phồng lên, vươn dài ra, lấy mầm phủ khắp cánh đồng, ngoi lên mặt
trời mang sức nóng và ánh sáng. Nhựa tràn trề cùng với những giọng thì thâm, tiếng
mầm nảy nở thành tiếng nụ hôn dài. Dân dân, mỗi lúc một hiện ra rõ nét, những hạt
mầm như những bước chân bè bạn đồng chí râm rập bước. Dưới nhứng tia mặt trời
nóng bỏng, tiếng ồn ào làm mặt đất mang thai. Tựa hồ như bao nhiêu con người
đang đi ngang, một đội quân đen đúa, một đạo quân báo thù, đang chầm chậm vươn
mầm trong các luống đất, đang lớn lên cho những mùa gặt của cả thế kỷ mai sau,
những mầm xanh đang làm cho trái đất vỡ tung".
Còn Bùi Ngọc Tấn đã lại có đoạn kết riêng của mình. Tác giả
đã chọn nhân vật Cảnh để mô tả sự chấm hết tất yếu trong cuộc tan rã vĩ đại của
quốc doanh đánh giậm. Cô Phòng, người đáng bị đuổi việc hơn cả, lại phát tháng
lương cuối cùng cho Cảnh, một thanh niên bị xếp vào loại "dư dôi":
- Thôi em ạ. Đi làm mười ba ngày mà được lương nửa tháng
là tốt rồi.
Cảnh trâm ngâm:
- Vấn đề cũng khá nan giải đây.
Đó cũng là câu nói nổi tiếng của Cảnh. Như câu "dù sao
trái đất cũng cứ quay" vậy.
Nhận tiền lương rồi, Cảnh vân cứ lờ vờ ở xí nghiệp. Mấy anh
chàng "giặc lái" hỏi:
- Sao không về nhà, còn ở đây làm gì?
Cảnh đáp thản nhiên:
- Đã hết giờ đâu mà về.
Nói rồi đi ra ngồi dưới gốc cây cột điện. Và lạ là sáng hôm
sau Cảnh vân đến. Rồi những hôm sau nữa. Đúng giờ...
Cậu Cảnh của Bùi Ngọc Tấn không biết đi đâu về đâu cả. Không
một "mầm xanh" hy vọng như của Zola dành cho cậu.
So với Emile Zola, người vẫn được các sách giáo khoa "tiến
bộ" chê là "tự nhiên chủ nghĩa'; hình như Bùi Ngọc Tấn còn bi quan
hơn nữa.
Bi quan hơn hay lạc quan hơn hay trung thực hơn hay cay đắng
hơn?
Ta chẳng có quyền bắt Zola không được hy vọng.
Ta sẽ chỉ ngậm ngùi vì những lời răn của những bề trên văn học
(trong đó đích danh có M. Gorki) vẫn thường tiện mồm dạy những người viết văn
hãy "lãng mạn cách mạng".
Bùi Ngọc Tấn là tên học trò hư của chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa.
Bùi Ngọc Tấn không biết nói dối.
Bùi Ngọc Tấn vẽ lên một cậu Cảnh thất nghiệp y hệt như những
người thất nghiệp khác mà thân phận họ chưa bao giờ nằm trong một bản thống kê
có giá trị nào.
Bùi Ngọc Tấn thuộc về số người viết vàn nhắc ta một cái quyền,
quyền được sâu sắc. Có ai đó đã viết thế ở trang bìa 4 tiểu thuyết Biển
và chim bói cá.
Hà Nội, 14-3-2009
Sum suê và khúc khích
(đọc Biển và Chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn)
- Nguyễn Xuân Khánh
Khi nào cũng vậy, mỗi khi cầm một quyển sách mới trên tay để
đọc, lòng dạ tôi xốn xang náo nức. Cứ như thể sắp sửa một chuyến đi vậy. Mỗi một
chuyến lang thang, ta lại được gặp những cảnh khác lạ, những tập tục mà ta chưa
biết, những con người mà ta chưa quen.
Đọc tiểu thuyết cũng vậy, đó là những chuyến phiêu lưu. Chỉ
có khác là ta vẫn ở nguyên một chỗ. Đọc tức là cuộc viễn du đi tìm cái đẹp, cái
mới lạ trên trang sách. Cái đẹp cái mới ở đây có thể ở ngôn ngữ, ở cấu trúc...,
ở những ý tưởng sâu sắc của tác phẩm. Sách đưa ta vào những thế giới mới mẻ.
Mỗi người là một thế giới. Mỗi nhà văn là một thế giới phong
phú mà một quyển sách không thể nói hết được. Ở cuốn sách trước Bùi Ngọc Tấn đã
dẫn ta vào sự oan trái bi thương. Nhưng thế giới của Tấn không chỉ có vậy. Lần
này, với cuốn tiểu thuyết Biển và Chim bói cá, anh đã dẫn chúng ta ra
đại dương bao la. Thời gian xảy ra trong cuốn sách là cuối thời gian bao cấp,
và chớm vào thời đổi mới. Với không gian, thời gian ấy, chắc cuộc viễn du của
người đọc sẽ gặp nhiều điều thú vị.
Bùi Ngọc Tấn sinh ra ở Hải Phòng và đã lăn lộn ở Hải Phòng từ
năm 1959 cho tới hôm nay. Anh đã từng làm phóng viên báo Hải Phòng nhiều năm, rồi
đã có thời gian dài làm việc tại Quốc doanh Đánh cá Hải Phòng. Năm 1962, anh đã
in cuốn truyện ký Người gác đèn biển - xem thế đủ biết Bùi Ngọc Tấn
thân thuộc với biển nhường nào. Vì vậy, tôi rất háo hức đi vào thế giới của
anh.
Nếu người đọc nào thích những chuyện ly kỳ gay cấn, thích câu
chuyện có đầu có đuôi, có cốt truyện, thì đọc Biển và Chim bói cá sẽ
khó "vào". Chỉ những người đọc sách kiên nhẫn, từ tốn, thích suy ngẫm
thì mới thích đọc sách này. Sở dĩ như thế vì cuốn sách đầy ắp những chi tiết,
những sự kiện, những câu nói, những nhân vật. Có thể nói chi tiết nhiều vô kể.
Hàng nghìn. Đang chuyện này lại chuyển ngay sang chuyện khác. Đang nhân vật này
lại bắt ngay sang nhân vật khác. Cứ tưởng như hỗn độn, nhưng không phải. Khi
người đọc đã nhập cuộc thì khu rừng rậm rạp ấy sẽ hiện ra hoàn toàn mạch lạc,
rõ ràng.
Trung tâm câu chuyện là một xí nghiệp đánh cá biển Đông. Tuy
nhiên, không chỉ khoanh tròn ở đấy. Quan hệ với nó còn có những bộ phận trên bờ;
và quan hệ với các thủy thủ là những người vợ, con cái ở các làng quê; rồi tàu
còn đi vào tới Lạch Trường miền Trung, tới Cà Mau miền Nam, rồi khi bước vào đổi
mới tàu còn làm công việc giao thương với nước ngoài sang tận Singapore, Nhật Bản.
Do vậy, liên quan tới con tàu và nhân vật trên tàu, ở nhiều vùng đất khác nhau,
ở nhiều hoàn cảnh khác nhau sẽ có biết bao nhiêu tình huống xảy ra, tha hồ có đất
để cho nhân vật bộc lộ và qua đó, đằng sau nó là những xúc cảm, nỗi niềm của
tác giả.
Những chi tiết của Bùi Ngọc Tấn có đủ loại. Những chi tiết
nghề nghiệp như tàu cập mạn thế nào, đánh tôm ra sao, thắt đụt ra sao, rồi tàu
trong bão, trong sương mù... Những chi tiết sinh hoạt như thủy thủ thèm khát
đàn bà, lên bờ trông thấy đàn bà nào cũng đẹp, thủy thủ uống rượu, uống bia ra
sao, những trò ăn cắp cá, những chuyện ái ân quan hệ với đàn bà, rồi nịnh nọt,
chạy chức chạy quyền vv... Nói tóm lại, nếu phải làm một bản liệt kê, thì chắc
nó sẽ dài lắm.
Có thể nói Bùi Ngọc Tấn là người nắm bắt các chi tiết rất giỏi.
Anh là người thợ săn chi tiết tài tình. Anh là người đam mê chi tiết. Sự sinh động
hấp dẫn của cuốn sách là ở chỗ ấy.
Nhân vật của cuốn sách chừng vài chục người. Không có nhân vật
nào chính hơn nhân vật nào. Nhân vật nào cũng được chú ý ngang nhau, bình đẳng
với nhau. Đó là những thủy thủ thô tháp, chân thực, ăn sóng, nói gió, vất vả
lam lũ, có người bản năng tục tĩu nhưng đầy tình người. Họ là những con chim
bói cá trên biển Đông. Những thân phận người có những phút hạnh phúc, có những
lúc cay đắng. Người nông dân ở nước ta thì "cái cò lặn lội bờ sông".
Đó là biểu tượng. Còn với biển thì Tấn đã tìm ra cái biểu tượng con chim bói
cá. "Tàu cá về, người bâu đến như dòi" Người ta nén nhân cách mình xuống
để ngửa tay ra ăn xin, để tìm mọi cách mà ăn cắp. Thân phận con chim bói cá mà.
Ai chẳng có vợ có con. Mà ở cái thời kỳ bao cấp ấy đói khát là cái thường tình.
Cũng xin thể tất một câu nhân tình. Trong các con người này, chúng ta gặp một
Lê Mây người dân chài nghèo miền Trung khi chưa vào làm nhà nước đã từng săn được
một con cá mập khổng lồ. Cũng hoành tráng chẳng kém gì ông già trong tiểu thuyết
của Hemingway. Khi còn đánh cá Lê Mây đã uống nhiều rượu. Đến lúc đi tàu ra nước
ngoài, rồi trắng tay, nợ đầm đìa, lại càng uống khỏe hơn. Về hưu, càng uống tợn.
Uống như điên như dại. Đến lúc chán không thèm uống nữa, cũng là lúc ông sắp trở
về với đất. Chết mà không làm được việc ước muốn cuối cùng: Về thăm mẹ vợ. Chúng
ta còn gặp Chơn một thủy thủ luôn đi biền biệt trên biển... còn vợ ở nhà ngoại
tình. Trường hợp Nhâm mới thảm. Hai lần lấy vợ. Lần thứ nhất vợ biến thành mụ Hến
trong làng. Lần thứ hai thì bị lừa ở Vũng Tàu. Mất toàn bộ tiền bạc bao nhiêu
năm tích cóp...
Những nhân vật phản diện thời bắt đầu mở cửa nhà văn cũng
quan tâm. Ta gặp ở đây những nhân vật như Đại Ca, giám đốc Thắng, Huy, Quán
mèo, Tín giò v.v...
Về sự sum suê chi tiết của tác giả, tôi còn trở lại ở dưới
bài viết.
Bùi Ngọc Tấn có nhiều năm làm báo (báo Tiền Phong, báo Hải
Phòng). Dấu vết làm báo ấy ta cũng tìm thấy nhiều trong tiểu thuyết của
anh. Rất nhiều đoạn như những bài tường thuật, điều tra, phóng sự. Ví dụ những
đoạn: khu nhà tập thể và mênh mông cứt bao quanh, đánh tôm trên biển Lạch Trường,
tàu áp mạn, hải quan và công an ăn chặn hàng của những tàu đi nước ngoài trở về
v.v... Khuynh hướng đưa những thể loại khác xâm nhập vào tiểu thuyết là khuynh
hướng của tiểu thuyết thời hiện đại.
Tác giả còn có một biệt tài làm cho văn anh có một nét riêng.
Đó là tính hóm hỉnh, tếu táo, hài hước. Cái đó hợp với môi trường anh miêu tả.
Thế giới lao động, nhất là những người lao động biển, thường ưa thích cách nói
toạc, nói thẳng, nói trắng trợn, lắm khi rất tục tĩu. Người ta không có thì giờ
mà để vòng vo tế nhị. Người ta thèm tiếng cười. Cái ngôn ngữ suồng sã, thô tháp
ấy đầy rẫy trong sách của tác giả. Ai đọc sách cũng vậy. Người ta thường phải dừng
lại vì một từ, vì một đoạn văn, vì một cảnh nào đó, để mà cười rúc rích một
mình. Nào là "anh ngồi như ông Thế Trường đi", nào là "hạt thóc
nảy mầm'; nào là đoạn Bôn vừa mới lên bờ, bỏ cả cuộc họp định về ái ân với vợ
mà không được, nào là đoạn cô Mơ bí thư chi bộ nói với người tình câu nói bất hủ:
"Nào, ta sinh hoạt đi anh', rồi cả cái đoạn đi xin "tình thương"
(tức là đi xin quà) của tàu biển về cảng: đi xin cá ướp đá thì gọi là xin tình
thương lạnh lẽo, xin tôm nát gọi là tình thương thối nát, rồi có cả tình thương
sắt thép (xích líp), tình thương mây khói (thuốc lá) v.v...
Dân ta thích cười. Dân gian rất nhiều truyện tiếu lâm. Tuy
nhiên, viết tiểu thuyết để cười được, và cười một cách thú vị là rất khó. Ít
người làm được việc ấy. Mới chỉ có Vũ Trọng Phụng làm được cái đó trong Số
đỏ và Vũ Bão trong một số truyện ngắn. Nay tiểu thuyết của anh Tấn tuy
không phải là tiểu thuyết cười hoàn toàn nhưng đã có nhiều nét cười. Đó cũng là
cái đặc sắc của tiểu thuyết này.
Có người bảo rằng Bùi Ngọc Tấn viết Biển và chim bói
cá theo kiểu truyền thống. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi nghĩ cuốn sách mang
tính hiện đại rất nhiều.
Cốt truyện ở đây bị phá vỡ, nó lỏng lẻo.
Ở trên tôi đã nói tới sự sum suê của chi tiết. Sự sum suê đó
không phải ngẫu nhiên. Nó đã được biến thành một thủ pháp nghệ thuật. Thế giới
hiện đại phong phú đa dạng. Đi trong thế giới hiện đại, ta như lạc vào một khu
rừng rậm rạp, ở đó mọi thứ đều ê hề: ê hề sự vật, ê hề ý tưởng. Cảm giác như gặp
sự hỗn độn. Lẽ dĩ nhiên văn chương cũng chịu ảnh hưởng của sự ê hề ấy.
Tác giả đã tung sự ê hề ấy ra trước mắt người đọc. Độc giả đã
bị những chi tiết sum suê ấy liên tục bắn phá vào bộ não. Chúng sẽ gây ra cảm
giác độ rườm. Sự ê hề ấy sẽ trở thành sự ám ảnh trong tâm trí chúng ta. Đó là một
thủ pháp tiểu thuyết của hiện đại.
Có người bảo trong sách này anh Tấn ít sử dụng hư cấu. Tôi
nghĩ rằng hư cấu nhiều lắm chứ. Tôi biết rằng viết quyển sách này hầu như anh Tấn
đã sử dụng những kinh nghiệm của cả đời anh lăn lộn đất Hải Phòng. Cả một đời
bên biển sẽ gặp biết bao nhiêu chuyện, cảnh, người. Chỉ riêng việc lựa chọn các
chi tiết cả đời ấy cái nào bỏ, cái nào dùng, rồi sắp xếp chúng sao cho có nghệ
thuật. Điều ấy cũng là hư cấu hiểu theo nghĩa rộng.
Nhà văn hiện đại vốn sợ sự tả thực. Nhưng Albert Camus lại
cho rằng nhà văn không thể chịu được cái thực, tuy nhiên không ai bỏ qua được
cái thực. Ông nói:
"Sự sáng tạo tiểu thuyết đích thực sử dụng cái thực và
chỉ sử dụng nó với cái nồng nàn của nó, dòng máu của nó, những đam mê hoặc tiếng
thét của nó.
Chỉ có điều, sự sáng tạo ấy phải thêm vào đó một cái gì đó để
làm biến đổi cái hiện thực đó đi".
Bùi Ngọc Tấn cũng đã thêm "cái gì đó" của riêng
mình để làm biến đổi cái thực đi rồi chứ. Đó là sự chồng chất, cái sum suê ê hề
chi tiết. Đó là tiếng cười sảng khoái của người nông dân quê anh - Đó cũng là sự
ngậm ngùi cay đắng với số phận những nhân vật của anh.
Bùi Ngọc Tấn không phải là người ăn to nói lớn. Anh không
thích đại ngôn. Ít thấy những lời nói của riêng anh trong cuốn tiểu thuyết. Anh
chỉ làm công việc của người kể chuyện, hóm hỉnh, khách quan bằng cách trình bày
tầng tầng, lớp lớp những chi tiết. Cứ tưởng như chỉ là chuyện tào lao, bông
phèng. Nhưng rồi, sau cái cười, ta bỗng thấy lòng trĩu nặng.
Không hiểu sao, cuốn sách của anh bỗng gợi cho tôi nhớ tới từ
"cơ chế". Tôi đi tra tự điển tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Việt. Nói
chung, cách định nghĩa đều tương tự như nhau. Cơ chế nghĩa là sự tổ hợp các
cách thức và phương pháp, theo đó một quá trình thực hiện.
Và tôi nghĩ lan man tới cơ chế bao cấp, tới chủ nghĩa thành
phần. Rồi bệnh thành tích, bệnh tủ kính, bệnh giáo điều rồi cả cách sử dụng người
tài, người trí thức... Kéo theo sau những cái đó, là điều kiện thuận lợi cho lũ
cỏ dại đua nhau mọc. Nào xu nịnh, nào sa đọa, nào tham nhũng, bè cánh v.v...
Cái cơ chế ấy diễn ra một thời gian khá dài, đủ để tạo thành
thói quen. Nó thủ tiêu sự sáng tạo. Nó gây ra một quán tính, sức ì. Cơ chế có
thể dứt rồi mà nó vẫn còn tồn tại.
Hình như tất cả những điều tôi kể ra đều có trong sách của
Bùi Ngọc Tấn. Chả trách đọc sách của anh cười đấy mà vẫn cứ buồn. Chợt nhớ tới
cái Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh kể về cái xóm nghèo nhếch nhác
cạnh công viên Thống Nhất Hà Nội. Cũng là chuyện đời thường thời bao cấp. Cũng
là chuyện những mảnh đời han gỉ, mòn mỏi. Nghèo nàn tạo ra như thế. Cơ chế tạo
ra như thế. Những con người đói khát sinh ra ăn cắp rồi tự hủy hoại nhân cách
mình thành những kẻ ăn mày. Đấy là chưa kể, nhờ cơ hội, lũ sâu mọt, lũ lưu manh
đua nhau đục khoét...
Đọc đến đoạn bác sĩ Bá về thăm cha mẹ ở Thái Nguyên, đem một
đống vỏ lon bia về biếu họ hàng, tôi vừa buồn vừa tủi. Người ta hí hửng mài vỏ
bia để làm cốc. Người ta xếp vỏ bia trong tủ kính để trang hoàng... Ở đây có sự
ngây thơ nhưng cũng có sự thèm khát, sự ao ước thay đổi.
Ở Trung Trung Đỉnh, đó là cái ngõ nghèo thủ đô thảm hại. Còn ở
Bùi Ngọc Tấn, đối tượng miêu tả là cả đại dương bao la phóng khoáng, thế mà
cũng thảm hại. Chợt nhớ tới câu thơ của anh nhà báo Thông trong tiểu thuyết:
Biển ơi biển bạc làm chi
Biển vàng mà rất nhiều khi không vàng.
Biển vàng, đại dương mênh mông phóng khoáng của Bùi Ngọc Tấn
tưởng chừng như đã biến thành một khu rừng nguyên thủy, ở đó luật rừng thống trị.
Ở đó những kẻ như Đại Ca, giám đốc Thăng, rồi Huy rồi Quán Mèo là những ông vua
con. Cơ chế đã tạo ra những hôn quân địa phương...
Tuy nhiên, khi gấp sách lại, người ta vẫn không mất hy vọng.
Bởi vì đằng sau sự rậm rạp hỗn độn ấy, người ta lại cảm nhận được một sức sống
phồn thực mạnh mẽ. Chỉ có điều nó giống như một dàn giao hưởng thiếu nhạc trưởng.
Khi được điều khiển nhịp nhàng, chắc là sức sống ấy sẽ phát huy tác dụng.
Cuối cùng, để kết thúc tôi không thể không nói tới những đoạn
ghi chép hay nhật ký của cậu bé 16 tuổi tên là Phong. Cậu thiếu niên đã theo
cha là thuyền trưởng đi một chuyến viễn du dài ngày trên biển.
Đó là những ghi chép của một tâm hồn rất trong sáng và tin cậy
vào những điều cao thượng của cuộc đời. Đó là những trang viết trữ tình của một
tâm hồn ngây thơ, ngưỡng mộ biển cả và ngưỡng mộ cả những con người lao động nhọc
nhằn trên biển. Những trang viết trữ tình ngắn gọn đan chen vào những trang viết
gồ ghề, trắng trợn có khi tục tĩu của đời sống thủy thủ suốt mấy trăm trang
sách như một đối trọng, như để hé lộ cho chúng ta những tia nắng, để nói với
chúng ta rằng cuộc đời tuy xù xì như thế nhưng không phải là những nét ngây thơ
trong sáng đã mất đâu. Những trang viết ấy là cái lương tri buồn buồn của cuộc
đời. Chỉ có điều nó chưa thức dậy.
Chú thiếu niên ấy nhìn ông thuyền trưởng, cha mình như một
ông thánh, như một vị anh hùng: "Bố tôi là người thuyền trưởng, là
người lãnh đạo, là người chịu trách nhiệm về toàn bộ con tàu. Khi con tàu lâm nạn,
bố tôi là người rời khỏi tàu cuối cùng". Nhưng rồi cuối cùng chú bé
cũng nhìn ra sự thật. Dù là ông thánh, một vị anh hùng chăng nữa, bố chú bé
cũng là một con người bình thường với những yếu hèn và sai lầm. Khi thấy cô
Nguyệt nằm trên giường của ông bố thần tượng, cậu bé nghĩ:
"Thế là mọi chuyện đổ sụp. Bố tôi không còn là thân tượng
của tôi nữa. Bố giống hệt mọi người. Thế mà, trước kia chúng tôi đã tự hào về bố
biết bao. Vậy là từ lâu chúng tôi vân sống với những điều dối trá mà không biết" Rồi:
"Quá thất vọng, tôi tự nhủ: 'Có lẽ phải quan niệm lại thế
nào là bố chăng?'"
Lời nói của một cậu bé đã quá thất vọng, khi nhìn ra sự gồ ghề
phức tạp của cuộc sống, khi cái màu nhung lụa màu mè của cuộc sống được vén
lên. Nhưng khi cậu bé nghĩ được như vậy tức là cậu đã lớn, đã trưởng thành.
Hình ảnh cậu bé ấy là những tia nắng, là lương tri; cho nên khi gấp cuốn sách của
Bùi Ngọc Tấn, lòng tôi thấy ấm áp vô cùng.
° ° °
Biển và chim bói cá - "sử thi của thời hiện tại"
- Khánh Phương
Sáng tạo tiểu thuyết thể hiện quan niệm văn chương của Bùi Ngọc
Tấn toàn vẹn và sâu sắc hơn cả, khi những triết lý đượm màu sắc hài hước cùng
khám phá ý vị về tâm lý đời sống, tâm lý sáng tạo, từng mang lại thành công độc
đáo cho ông trên lĩnh vực truyện ngắn và tùy bút, đã nhường chỗ cho một
"cái nhìn sử thi" vượt ra khỏi ranh giới của sự phản ánh, miêu tả và
khái quát thông thường. Người ta vẫn cho rằng tiểu thuyết được định hình bởi phạm
vi phản ánh đời sống xã hội rộng lớn của nó, thực chất lại không phải vậy. Một
sáng tạo bằng ngôn ngữ văn xuôi chỉ được xem là tiểu thuyết khi nó biểu đạt
thành công ý tưởng cá nhân, quan niệm cá nhân của người viết về "hiện thực
đời sống rộng lớn" mà thôi. Và quan niệm cá nhân của Bùi Ngọc Tấn trong
các tiểu thuyết của ông là sự chứng nghiệm cũng như hồ nghi những giá trị tồn tại
tưởng chừng ổn định, vững vàng bất biến nhưng thực ra lại đang hàm chứa cơn bão
táp khốc liệt của sự phân hóa, biến tướng và hủy hoại, một sự chứng nghiệm phê
phán sắc bén tựa như cái nhìn của các tiểu thuyết gia hiện đại nửa đầu
thế kỷ 20, để làm nên thứ sử thi văn chương mới, sử thi của thời hiện tại. Nếu
sử thi của thời anh hùng thiên về ngợi ca, tự khuyếch trương giá trị con người,
thì "sử thi của thời hiện tại" lại là cảm hứng hồ nghi sâu sắc.
Biển và chim bói cá, cuốn tiểu thuyết đồ sộ tập trung
vào khoảng hai mươi nhân vật, được miêu tả như những hình tượng đa phương, có
phần lỏng lẻo trong một tác phẩm sắp đặt của loại hình nghệ thuật thị giác, nói
bằng thứ ngôn ngữ trực quan của mồ hôi, nước mắt, máu và cả tiếng thở dài... với
vài chục ngàn chi tiết lớn nhỏ, chi tiết nào cũng hóm hỉnh khiến người đọc phải
bật cười tức khắc hoặc lay động những cảm giác sâu kín của lòng trắc ẩn, lương
tri...
Khắc họa đời sống thực thể và tinh thần éo le, sóng gió, trôi
dạt của anh em thủy thủ, công nhân viên tại một cơ sở đánh cá quốc doanh, Bùi
Ngọc Tấn muốn đào xới đến kiệt cùng cái hiện thực nhọc nhằn của sinh tồn, bao gồm
cả sinh kế và nhân sinh. Mỗi hành động sống đều như bị đẩy đến ranh giới của một
tồn tại khác, thứ tồn tại buộc người ta phải tự vấn đến cùng, để soi lại vị trí
của bản thân trong những thang bậc của tính người, của tư cách con người. Một
anh chàng Nhược thợ lạnh "nổi tiếng" vì kéo bạn... ăn vụng hết cả mâm
cơm tiếp khách của giám đốc mà anh ta được giao nhiệm vụ bưng về. Một đôi vợ chồng
thủy thủ mòn mỏi trong cảnh thiếu thốn giật gấu vá vai bỗng dưng trở lại
"hồi xuân" yêu đương nồng thắm, cuộc đời mở ra đầy hi vọng, sinh khí
và tư cách, kể từ khi anh chồng nhận lệnh chuyển sang làm việc trên tàu vận tải
viễn dương...
Cứ như vậy, những góc khuất của đời sống và con người tại một
Liên hiệp đánh cá biển Đông lẫy lừng thành tích và cũng chứa chất những trái
ngang... bỗng hiện ra trước bạn đọc như vật chứng không thể chối từ của một thời
đại, đồng thời thể hiện một năng lực quan sát, ghi nhớ và miêu tả hiện thực tỉ
mỉ đến từng chân tơ kẽ tóc của nhà văn.
Cuốn tiểu thuyết còn được trần thuật từ góc nhìn của"người
trong cuộc" bên cạnh lối kể chyện khách quan từ ngôi thứ ba. Người trong
cuộc ở đây là cậu bé Phong, lần đầu được theo cha đi biển, cha cậu là thuyền
trưởng. Cùng trong chuyến đi đó, niềm vui bước vào thế giới người lớn của cậu
nhanh chóng chuyển thành sự chấn động, cay đắng và chấp nhận buông xuôi trước
những sự thật trần trụi tầm thường của cuộc đời. Sự đa dạng về điểm nhìn trần
thuật khiến cho Biển và chim bói cá mang dáng vẻ lạ lẫm, vượt ra
ngoài khuôn khổ, đa tạp trong sự hòa thanh.
Có thể xem Bùi Ngọc Tấn là một người kể chuyện thuần theo lối truyền thống, kể bằng sự kiện, nhưng lại không thể gán cho ông là một nhà văn bị lệ thuộc vào hiện thực ở cái vỏ diễn tiến bề ngoài của nó. Ông viết văn như người thiền quán tưởng từng hơi thở, mỗi chi tiết của cuốn sách óng lên một nỗi suy tư day dứt và cả tình cảm mãnh liệt của người viết đối với quê hương, với những nghịch lý thản nhiên đến lạnh lùng của hiện thực vượt khỏi những tiêu chí đạo đức và làm người vẫn được mặc nhiên thừa nhận. Bùi Ngọc Tấn thuộc số người viết văn để nhắc ta một cái quyền, quyền được sâu sắc. Và trong khi hiện thực có thể được tiếp cận bằng nhiều cái nhìn khác nhau, trong và ngoài văn chương, thì điều xác tín khả dĩ đối với bạn đọc chính là cái sâu sắc, mãnh liệt của con người tác giả, điều này làm nên sức sống cho tác phẩm và làm nên tính trung thực, phẩm chất hàng đầu của nhà văn...
Các Bài Phỏng Vấn
Tôi mắc nợ Biển
- Phong Hằng thực hiện
1- Xin chúc mừng tiểu thuyết Biển và chim bói cá vừa đoạt giải
thưởng quốc tế tại Pháp trong cuộc thi viết về biển. Biển và chim bói cá đã đến
với cuộc thi này ra sao? Ban tổ chức đã đánh giá như thế nào về tác phẩm này?
Biển và chim bói cá là quyển tiểu thuyết thứ 5 của tôi, quyển
tiểu thuyết duy nhất được in và phát hành suôn sẻ. Ba quyển đầu bị tịch thu khi
còn là bản thảo từ những năm 60 thế kỷ trước khi tôi bị mắc vào vòng lao lý.
Còn quyển thứ tư, Chuyện kể năm 2000 in xong, chưa phát hành đã có lệnh thu hồi
tiêu hủy. Chỉ riêng Biển và chim bói cá là được in, được tái bản, được các báo
đưa tin. Lại còn được đọc trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam từ đầu đến cuối,
và được trả 800.000 đồng tiền "nhuận đọc". Tưởng thế đã là may mắn tột
cùng rồi, nhưng nó lại được dịch ra tiếng Pháp và xuất bản tại Pháp tháng 10
năm 2011. Và được giải thưởng tại Festival Sách và Biển (Livre et Mer) tại Pháp
năm 2012. Có lẽ 4 anh chị sinh trước nó bị vất vả nên số phận đã cho nó một sự
đền bù chăng?
La mer etle martin-pêcheur (tên tiếng Pháp của Biển và chim
bói cá) đã lọt vào mắt xanh của bạn đọc Pháp, là một trong sáu tập sách vào
chung khảo. Và cuối cùng Biển và chim bói cá đã chiến thắng. Trang web của
Festival có ghi mấy dòng in trên bìa 4 Biển và chim bói cá bản tiếng Pháp: Với
lời vàn đẹp đẽ đây chất thơ, nhà vàn Bùi Ngọc Tấn đưa ta đến nơi mà chúng ta
chưa bao giờ đến. Sau khi gấp lại tập sách chúng ta đã thay đổi. Và cũng trở
nên tốt hơn.
2- Ông đã viết Biển và chim bói cá trong bối cảnh và tâm trạng
nào?
Tôi đã làm một nhân viên ở một xí nghiệp đánh cá quốc doanh
20 năm. Là một thành viên, một tế bào của cái cơ thể phập phông hơi thở có một
đối tượng lao động là biển cả này, tôi vui niềm vui của những ngày biển lặng
gió êm, những chuyến biển tàu về đầy ắp cá, tôi lo lắng cho những người bạn của
tôi đang chịu gió mùa, tránh bão, tôi chia sẻ nỗi buồn với những thủy thủ khi
những chuyến biển bị gãy...
Và tôi hiểu những khó khăn về phụ tùng thay thế, về dầu đốt,
về thiếu am mô ni ác chạy máy lạnh, về mỗi khi Sở "điên nặng" cúp điện...
Tôi cũng đã nhiều lần đi biển. Reo hò khi đụt cá căng phồng
ào ào trút nước xuống boong, buồn lo nhìn đụt lép kẹp vừa lôi lên sàn dốc. Chọn
tôm, nhặt cá, luộc tôm tít ăn khuya cùng các thuyền viên. Tôi yêu họ, tôi yêu biển.
Tôi mắc nợ với biển và mắc nợ với họ. Năm 1977 (hay 1978?)
nghĩa là chỉ hơn 2 năm sau khi về làm ở xí nghiệp tôi đã viết và in truyện vừa
Thuyền trưởng dài hơn 100 trang, tất nhiên là viết chui (ký tên khác) do nhà
Lao Động xuất bản.
Là nhân viên thi đua làm trên bờ, tôi vẫn tận dụng mọi cơ hội
đi biển và chăm chỉ ghi chép. Viết Biển và chim bói cá, tôi cố diễn đạt được cuộc
chuyển mình trong tư tưởng, trong quan hệ giữa người với người, giữa người với
biển, một cuộc vật lộn gian khổ và đau đớn...
Tôi đã dành ra 3 năm, viết đi viết lại nhiều lần và cuối cùng
nó có hình dạng như các bạn thấy.
3- Theo ông, người nước ngoài có thể tìm thấy điều gì thú vị ở
Biển và chim bói cá?
Lời tuyên dương Biển và chim bói cá của ông chủ tịch danh dự
của Festival có câu: Quyển sách của Bùi Ngọc Tấn hoàn toàn làm chúng tôi thỏa
mãn. Và sau đó ông nhắc đến những điều cụ thể hơn: Bùi Ngọc Tấn kể về đất nước
mình và về thế giới đánh cá mà ông từng biết. Một quyển tiểu thuyết hấp dân về
lịch sử một hải cảng, về một xí nghiệp đánh cá quốc doanh, về một cộng đồng người
đánh cá can đảm và ranh mãnh vật lộn để nuôi sống gia đinh, vét biển đến cạn kiệt.
Trước khi bị cuốn vào những quanh co khúc khuỷu của toàn câu hóa...
Về mặt nghệ thuật, Biển và chim bói cá cũng được đánh giá cao:
Các báo chí đã dẫn nhiều nhận xét của những thành viên ban giám khảo, ban tổ chức
Festival như cấu trúc của tiểu thuyết, rồi một giọng văn phảng phất Dostoevski,
một quyển tiểu thuyết magnifique (tráng lệ, tuyệt vời)... qua đó thấy được hồn
thơ pha lẫn với sự hóm hỉnh của một Vaclav Havel, hay một Milan Kundera...
Tôi rất hạnh phúc khi đọc thư của bà giám đốc Festival gửi dịch
giả Tây Hà: "Chắc chắn ở Việt Nam còn nhiều áng văn hay cần được tiếp tục
giới thiệu ra thế giới".
4- Còn ở trong nước Biển và chim bói cá được đón nhận ra sao?
Ngay khi mới xuất bản lần đầu công ty Nhã Nam đã tổ chức giới
thiệu sách. Nhiều báo lớn đã đưa tin, và có bài nhận xét. Trong một số báo Tết
một tờ báo coi việc xuất bản Biển và chim bói cá là một trong những sự kiện văn
hóa trong năm.
Và như trên đã nói: Nó được đọc trên đài phát thanh Tiếng nói
Việt Nam trong nhiều tháng.
5- Đã suýt soát 80 tuổi, ông vẫn tiếp tục viết chứ ạ?
Năm nay (2012) tôi đã 79 tuổi. Sự chuyển biến theo hướng đi
xuống diễn ra rất nhanh. Nhưng vẫn phải làm việc. Viết báo kiếm tiền để sống.
Và viết văn.
6- Nghe nói ông từng có đơn đề nghị cơ quan có thẩm quyền tổ
chức thẩm định lại quyển tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của ông. Thực hư thế
nào?
Vâng. Tôi đã làm nhiều đơn. Lên Ban Văn hóa Tư tưởng Trung
ương. Lên Bộ Văn hóa. Và Hội Nhà văn. Đề nghị tổ chức hội thảo. Và kêu oan cho
sách. Nhưng không được giải quyết. Trong khi đó, rất nhiều bạn đọc vẫn về Hải
Phòng gặp tôi mang theo những bản photo Chuyện kể năm 2000 để tôi ký tặng.
Vậy là sau 12 năm, người ta vẫn tìm đọc Chuyện kể năm 2000.
Và tôi vẫn tạo nên công ăn việc làm cho một số người. Chỉ có tác giả là không
được đồng nhuận bút nào. Còn nhà nước thất thu tiền thuế.
° ° °
Vẫn sống để kể lại
- Dương Phương Vinh thực hiện
- Thưa nhà văn Bùi Ngọc Tấn, dạo này sức khỏe ông ra sao?
Cảm ơn chị. Năm nay tôi 76 tuổi. Thất thập kê nguyệt. Các cụ
nói vậy nhưng tôi chẳng tính ngày tính tháng, tính năm. Nghĩa là cứ sống. Sống
vui. Làm được đến đâu thì làm. Tôi bằng lòng với sức khỏe của tôi. Cuộc sống
gian nan vất vả là thế, cả đời bị ức chế, lĩnh đủ, vẫn giữ được thân xác như thế
này là tốt rồi. Tôi cố giữ lấy cái đầu. Cũng suy thoái nhiều đấy. Nhiều lúc cứ
lẩm bẩm một mình. Như lão già câu cá Cuba Santiago. Lại còn quên nữa. Cái xa
thì nhớ, cái gần thì quên. Nhưng chưa đến nỗi hỏng hẳn. Vẫn còn nhúc nhắc ngày
ngày gõ máy được chữ nào hay chữ ấy.
Một thành tích đáng khoe là đã cai được thuốc lá. Viêm họng
quá. Đành phải từ bỏ lý thuyết: Đời còn cái gì nữa ngoài điếu thuốc.
- Ít gặp, nhưng mỗi khi gặp ông tôi lại nhớ một câu của Nguyễn
Khải trong cuốn nào đó, hình như trong Thượng Đế thì cười: "Già mà biết sống
già thì cũng hay lắm chứ". Nghĩa là một tuổi già an nhiên, trầm tĩnh đôn hậu
mà vẫn hài hước. Ông có thật sự thanh thản sau nhiều năm không bình yên?
Với tôi sống già hay sống trẻ cũng vậy thôi. Giống nhau và đều
hay cả. Miễn là biết sống như một người phải sống. Trung thực. Nhân ái. Hài hước.
Và làm việc...
Còn sống già, sống lâu với tôi là để thấy niềm tin của mình
thành sự thật, để yêu đời hơn. Tôi nhớ vào khoảng năm 91, 92 Phùng Quán xuống Hải
Phòng thăm tôi, chia tay lần trước tóc còn xanh, gặp lại nhau sau đó tóc cả hai
đều bạc. Biết bao sóng gió đã đến trong quãng thời gian ấy. Chúng tôi nói với
nhau: Phải sống dai. Nhưng chỉ năm sau Phùng Quán ra đi. Tôi cũng đã nói với
Nguyễn Khải: Phải sống dai. Khải còn nói thêm: Sống dai là thắng. Cái lần gặp đại
tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp tại Hải Phòng tôi cũng chúc Đại tướng sống
lâu, sống dai để... thắng.
Tôi không chỉ thanh thản trong tuổi già, mà còn không ngờ
mình lại có được một tuổi già như đang có. Một tuổi già vẫn còn nhiều nghi kỵ
nhưng đầy sẻ chia, có thể nói một tuổi già hạnh phúc.
- Biển và chim bói cá có thể là nối dài của Chuyện kể năm
2000 về nội dung và hình thức (Chuyện kể năm 2000 kết thúc ở chỗ nhân vật chính
tìm được việc làm ở Quốc doanh Đánh cá Hạ Long. Còn thủ pháp của Biển và chim
bói cá cũng được cho là không mới so với Chuyện kể năm 2000)?
Đứng về phương diện nào đó thì đúng như vậy. Người kể chuyện
vẫn là tôi. Tôi kể cuộc sống tôi đã sống, tôi đã chiêm nghiệm. Còn thủ pháp của
hai quyển giống nhau nhưng cũng có những cái khác nhau, những bước phát triển đấy
chứ. Giống nhau ở chỗ không thể kể lại được mà phải đọc nó, nghĩa là một thứ tiểu
thuyết không có cốt truyện. Nhưng Chuyện kể năm 2000 còn có nhân vật chính (anh
tù Nguyễn Văn Tuấn) Biển và chim bói cá không có nhân vật chính. Tất cả đều
bình đẳng. Nhiều người bảo tôi đã dùng thủ pháp cắt dán, rồi mảnh vỡ, rằng tôi
đưa phóng sự vào tiểu thuyết, một thủ pháp hiện đại. Lại có người nói tiểu thuyết
của tôi khó đọc...
Thực sự tôi chỉ muốn viết sao cho sát gần cuộc sống. Và mong
người độc đọc tôi không theo cách đọc cũ.
- Trong tọa đàm về Biển và chim bói cá, ông nói không có gì lỏng
lẻo mà chặt chẽ như cuộc sống. Và quan hệ giữa con người với nhau vừa gắn bó vừa
rời rạc. Ông có thể nói thêm về điều này?
Cuộc sống như chúng ta đang sống, hoặc như tôi chứng kiến và
viết về nó là cuộc sống của những người bình thường, không chia thành tuyến này
tuyến nọ như trong các phim hình sự, hay như các tác phẩm cổ điển có lago bên
này Othello bên kia, có Javert và có Jean Valjean. Cuộc sống phổ biến của những
người lao động hôm nay không rạch ròi tuyến tính. Nó nhờ nhờ, nó co giãn, những
con người khao khát một cuộc sống tối thiểu, thụ động, quanh quéo cò con để có
thể tồn tại, để nhích lên một vài cm và chờ đợi một ngày mai mà họ không mấy
tin tưởng. Điều gắn bó là cùng một mẫu số chung như vậy. Và rời rạc vì ai cũng
loay hoay và bằng lòng với kết quả xoay xỏa của mình. Lỏng lẻo mà chặt chẽ cũng
là thế. Thật rất khó viết.
- Có nhà phê bình nói việc ông quá nhiều vốn sống quá nhiều
hiện thực đâm ra lợi bất cập hại với trường hợp Biển và chim bói cá, ông thấy
sao?
Biển và chim bói cá dài trên 500 trang chữ nhỏ. Hấp dẫn bạn đọc
suốt 500 trang không có cốt truyện, không có những pha rượt đuổi gay cấn hồi hộp,
không có những cuộc tình tay ba tay tư éo le ngang trái, không có những mưu mô
hãm hại nhau trong nhà nghỉ, những trang sến mủi lòng người... là điều không dễ.
Phải có một vốn sống dày dặn, để có thế kéo người đọc đi theo mình. Phải có rất
nhiều chi tiết. Phải làm người đọc thích thú khám phá thế giới mình mời họ bước
vào. Như họ đang chứng kiến một miền sống mới lạ khi đi du lịch. Trong du lịch,
người ta không nghe kể một câu chuyện có đầu có đuôi. Người ta theo chân guide.
Người ta nhìn, nghe. Người ta cười. Và người ta suy ngẫm.
Thật đáng mừng là rất nhiều bạn đọc đã trực tiếp hoặc gọi điện
thoại chia sẻ với tôi cách viết đó. Họ thích thú đọc tôi. Có bạn đọc nuôi con mọn
mà vẫn chong đèn đọc dù cho phải nhiều lần dừng để dỗ con ngủ. Có bạn đọc gọi
tôi là người chép sử xã hội.
Tôi nghĩ trước tôi, ở Việt Nam chưa ai viết một tập tiểu thuyết
không cốt truyện không nhân vật chính dày như vậy.
- Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh thì nói Bùi Ngọc Tấn là thợ săn
chi tiết tài tình. Có phải vì mải săn mà ông chỉ thấy cây, không thấy rừng? Có
phải việc say mê chi tiết của ông xuất phát từ việc ông thấy nhà văn Việt Nam
đa số nghèo chi tiết?
Tôi đặc biệt say mê chi tiết. Nhớ lại tập truyện ngắn đầu
tiên in năm 1962, nhà văn Lưu Quang Thuận làm biên tập thích thú nhắc đi nhắc lại
mãi cái chi tiết trong truyện ngắn Hòa cả làng của tôi: Một cô gái nông thôn gặp
người yêu vội vàng quá không kịp nhấm tí quế chi cho thơm miệng như những lần
trước, chạy một mạch ra cây đa gù. Một chi tiết có thể khắc họa một tính cách,
một thời đại, một hoàn cảnh, một tấm lòng. Chi tiết là cây. Nhưng chi tiết cũng
là rừng.
Tôi kể chuyện bằng chi tiết, cùng lắm mới phải phân tích tâm
lý, kể lể hoàn cảnh... Tôi muốn lưu giữ rừng rừng chi tiết, những chi tiết ấy
nói lên thời đại đầy sức thuyết phục, không thể chối bỏ. Chi tiết là vàng của
các nhà văn (nó làm nhà văn không phải viết bằng khái niệm) điều các nhà văn
đúng là có hơi ít trong tác phẩm.
- Năm 2000 ở đại hội nhà văn, ông là người được chú ý nhất.
Có kỷ niệm nào ông nhớ ở đại hội này? Nghe nói ông chủ tịch Hội Nhà văn Việt
Nam hôm đại hội trù bị đến phòng ông mang theo chai rượu và có lời với nhà văn
Bùi Ngọc Tấn rằng đến đại hội, ông không họp báo, cũng không phát biểu, không
tham luận.
Đại hội Nhà văn Việt Nam năm 2000 thật sự làm tôi xúc động
không thể nào quên.
Chuyện kể năm 2000 bị thu hồi tiêu hủy tháng 3 thì giữa tháng
4 họp đại hội, nghĩa là có một quãng thời gian vừa đủ để dư luận đến độ nhất. Từ
chỗ là con số âm đối với văn chương, trong phút chốc tôi có lại tất cả.
Tôi chỉ xin kể hai kỷ niệm trong đại hội này:
Một buổi tôi đang ngồi trong hội trường theo dõi một bản tham
luận nào đó, một bàn tay phụ nữ từ phía sau đặt trước mặt tôi một tờ thiếp bằng
giấy trắng in hoa nổi, trên tờ thiếp là những dòng chữ: "Anh Bùi Ngọc Tấn.
Sao hôm nay trông anh buồn buồn. Đừng buồn. Tất cả chúng tôi đứng bên anh. Anh
đã làm được một việc có ích, Hãy vui lên". Tờ thiếp không ký tên. Tôi vội
quay lại. Một phụ nữ áo dài đang đi về phía sau, chỗ chị ngồi, cách 5, 6 hàng
ghế.
Lại một lần nghỉ giải lao, tôi đang đứng vẩn vơ ngoài hành
lang hội trường, một tốp nhà văn nhà báo còn trẻ quây lấy tôi trò chuyện. Lát
sau lại một tốp khác đến với tôi. Những người đến trước đứng dẹp sang một bên,
những người mới tới một bên. Tôi đứng giữa và thật khó trò chuyện trong hoàn cảnh
như vậy. Thế rồi các bạn đến trước nói: "Thôi, chúng mình chiếm hữu anh Tấn
quá lâu rồi. Nhường cho các bạn mới đến".
Trước đại hội, có tin tôi bị tước quyền đại biểu, nhà thơ Hữu
Thỉnh phó tổng thư ký Hội Nhà văn xuống Hải Phòng thăm tôi, cho tôi một chai
vang Pháp, 1 chiếc phong bì 100 nghìn đồng, chính thức thông báo với tôi rằng
tôi vẫn là đại biểu đại hội (sau này Bằng Việt có nói với tôi là dự kiến không
cho tôi họp đại hội là có thực) và yêu cầu tôi ba không như chị nói ở trên. Tôi
bảo Hữu Thỉnh: Những điều muốn nói, sách mình viết nói cả rồi. Mình đi họp chỉ
với mục đích lớn nhất là gặp lại bạn cũ. Nếu không, có thể đến lúc chết cũng
không gặp được nhau.
Xin nói thêm về ba không, nhà văn Nguyễn Khải có nói một câu
rất hay: "Mười không cũng được, sự có mặt của Bùi Ngọc Tấn ở đại hội đã là
bản tham luận hay nhất đại hội". Thế nhưng thật lạ là năm 2001, gặp Nguyễn
Khải ở thành phố Hồ Chí Minh với mấy người nữa tôi cảm ơn anh về câu nói ấy,
anh ráo hoảnh: Không. Mình có nói câu ấy đâu!
- Ông có thể nói thẳng thắn về tình đồng nghiệp trong giới
nhà vàn, nhất là khi ông nổi tiếng vì Chuyện kể năm 2000?
9,9% là tuyệt vời, là chia sẻ, là niềm vui chung. Nhưng cũng
có những phản ứng thật không thể hiểu. Có người đặt điều, bịa chuyện nói xấu
sau lưng, có người không thể nhìn mặt tôi... chỉ vì tôi có Chuyện kể năm 2000.
Đó là những người khi nhà anh mới sắm một chiếc ti vi cũng đồng nghĩa nhà anh
ta mất cắp một chiếc ti vi. Nhưng thôi nói tới những người này làm gì. Tôi
thương họ, bởi họ rất khổ vì lòng đố kỵ hành hạ họ.9
- Trước kia ông từng nói không kỳ vọng vào những giải thưởng
chính thống, nhất là của Hội Nhà vàn Việt Nam, nhưng rồi cuốn Rừng xưa xanh lá
của ông lại nhận được giải của Hội Nhà vàn Việt Nam. Điều này chứng tỏ gì?
Chứng tỏ việc xét và trao giải không hoàn toàn sai lầm. Thật
ra trong các tác phẩm được giải thưởng có những tác phẩm rất xứng đáng mà tiêu
biểu là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, một quyển tiểu thuyết làm vinh dự
cho văn chương Việt Nam. Thế' mà đã có thời người ta mở cuộc vận động để rút lại
giải thưởng đó.
- Trong nhiều cuốn sách của mình, ông thường kể lại những
ngày làm phóng viên báo Tiền Phong (1954-1959) như những ngày hạnh phúc nhất.
Có phải vì hồi đó ông đang tuổi 20...
Tuổi 20 bao giờ chẳng đẹp. Đất nước lại mới hòa bình. Xã hội
tốt đẹp. Người ta đang được làm công việc mình khao khát. Người ta mơ ước. Người
ta tin tưởng. Người ta yêu nữa. Một thời đã qua đẹp ngang thời thơ ấu....
- Hồi đó (làm phóng viên báo Tiền Phong) ông viết về cái gì?
Đó có phải là những bài báo hay không? Theo nhà vàn Vũ Thư Hiên nhận xét trong
hoàn cảnh hồi ấy, đó là những bài báo tầm phơ, nhưng công việc làm báo và đi
nhiều đã cho ông và các bạn vốn liếng để làm vàn và đó mới là cái được nhất.
Hồi đó tôi viết về nông thôn. Đi nhiều. Ghi chép nhiều. Tập
truyện ngắn đầu tiên Đêm Tháng Mười (1962) của tôi là kết quả của những năm
tháng ấy. Nhưng đấy chỉ là kết quả phụ. Cái chính tôi "được" khi làm
phóng viên Tiền Phong là sống giữa những người bạn cùng lứa tuổi, cùng cách sống,
cùng khát vọng đam mê, những Tất Vinh, Mạc Lân, Nguyễn Trĩ Tình, Vũ Lê Mai...
Những ngày ấy, những người bạn ấy đã góp phần tạo nên tôi hôm nay.
- Bây giờ ông có đọc và quan tâm tới báo Tiền Phong? Ông thấy
cách làm báo, viết báo của giới trẻ so với thời của ông như thế nào?
Tôi thường xuyên mua báo Tiền Phong. Cách làm báo cách viết
hiện nay khác xa thời chúng tôi làm báo. Tôi thèm được làm báo như các bạn ngày
hôm nay. Và khâm phục các bạn. Mới nhất là loạt bài điều tra về đất đai Hà Đông
trước khi sát nhập vào Hà Nội đã thu hút tôi và đông đảo bạn đọc.
- Ông từng nói lẽ ra không nên rời Hà Nội, đã ở thủ đô thì
hãy "Sống mãi với Thủ Đô"? Giống như trường hợp Nguyên Hồng đang ở Hà
Nội đùng đùng đưa vợ con về Nhã Nam. Giờ đây ông còn tiếc nuối điều gì?
Thủ Đô bao giờ cũng là Thủ Đô dù có thế nào chăng nữa.
Nghe theo lời khuyên của Đảng, của các nhà văn đàn anh, tôi rời
Hà Nội về Hải Phòng để thâm nhập thực tế, thâm nhập công nông, viết tác phẩm của
đời mình. Tôi đâu ngờ phải sống cạn một kiếp tôi để rồi viết về chính nó. Nhưng
thôi, hãy coi tất cả là số phận.
- Phạm Xuân Nguyên nói Bùi Ngọc Tấn là nhà văn của sự thật.
Liệu đó có phải là lời xưng tụng mà ông hài lòng nhất?
Vâng, đây là một trong những đánh giá làm tôi vui. Có nghĩa
là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ khi viết trở lại.
- Ông nói: ông viết đúng như những gì mình nghĩ, không pha chế,
không thêm xi rô. Trong Chuyện kể năm 2000, ông cũng nói điều ông ghét nhất
trên đời này là sự giả dối. Vương Sóc, nhà văn và nhà phê bình hiện đại Trung
Quốc, mô tả bức tranh xã hội Trung Quốc là "nói dối đi nói dối lại, không
biết thành thật là thế nào". Ông nghĩ xã hội ta hôm nay, liều lượng giả dối
nhiều hơn hay ít hơn thời của ông?
Liều lượng nói dối thời trước ít hơn bây giờ, nhưng nó chính
là căn nguyên của bệnh nói dối trắng trợn hôm nay. Trong Chuyện kể năm 2000,
tôi đã viết: "Chúng ta đã quen nghe những lời dối trá để qua đó biết được
sự thật".
- Ông có nghĩ ngày này đã bớt đi "những người phụ trách
cuộc sống" (chữ của Trần Dần). Và nhưng bi kịch kiểu như Bùi Ngọc Tấn chỉ
còn là chuyện mông muội của quá khứ?
Tôi mong rằng nó bớt đi.
- Ông là người "Sống để kể lại". Sau đây còn có điều
gì mà ông muốn kể? Có điều gì mà ông muốn kể nhưng sẽ chẳng bao giờ dám kể?
Còn nhiều điều muốn kể lắm. Và tôi đang... kể. Tất nhiên là kể
rất thật. Hy vọng nó sẽ được đến với bạn đọc trong thời gian tới. Hiện nay tôi
chưa thấy điều gì muốn kể mà chưa dám kể. Khi viết tôi hoàn toàn tự do.
- Cảm ơn nhà vàn Bùi Ngọc Tấn.
Bùi Ngọc Tấn viết văn như người thiên quán tưởng từng hơi thở.
Có thể đó là sự cân bằng lại với thời ông viết truyện ngắn, thoải mái và dư giả
trong từng ý tưởng tinh tế, hóm hỉnh, mà nhiều khi dung dị như người chẳng hề cố
ý lập tứ, viết văn. Cuốn tiểu thuyết đồ sộ với khoảng hai mươi nhân vật chính,
thứ chính, vài chục ngàn chi tiết Iớn nhỏ, chi tiết nào cũng hóm hình khiến người
đọc phải bật cười tức khắc hoặc lay động những cảm giác sâu kín của lòng trắc ẩn,
lương tri... tất cả thể hiện một năng lực quan sát, ghi nhớ và miêu tả đời sống
tỉ mi đến từng chân tơ kẽ tóc. Có thể xem Bùi Ngọc Tấn là một người kể chuyện
thuần theo lối truyền thống, kể bằng sự kiện, nhưng lại không thể gán cho ông
là một nhà văn bị lệ thuộc vào hiện thực ở cái vỏ diễn tiến bề ngoài của nó. Từng
chi tiết của cuốn sách óng lên một nỗi suy tư day dứt và cả tình cảm mãnh liệt
của người viết đối với quê hương, với những nghịch lý thản nhiên đến lạnh lùng
của hiện thực vượt khỏi những tiêu chí đạo đức và làm người vẫn được mặc nhiên
thừa nhận. Bùi Ngọc Tấn thuộc số người viết văn để nhắc ta một cái quyền,
quyền được sâu sắc. Và trong khi hiện thực có thể được tiếp cận bằng nhiều cái
nhìn khác nhau, trong và ngoài văn chương, thì điều xác tín khả dĩ đối với bạn
độc chính là cái sâu sắc, mãnh liệt của con người tác giả, điều này làm nên sức
sống cho tác phẩm và làm nên phẩm chất hàng đầu của nhà văn: lòng trung thực...
"... Bùi Ngọc Tấn kể về đất nước mình và về thế giới
đánh cá mà ông từng biết Một quyển tiểu thuyết hấp dẩn về lịch sử một hải cảng
về một xí nghiệp đánh cá quốc doanh, về một cộng đồng người đánh cá can đảm và
ranh mãnh vật lộn để nuôi sống gia đình, vét biển đến cạn kiệt Trước khi bị cuốn
vào những quanh co khúc khuỷu cùa toàn cầu hóa...
Chan chứa yêu thương và ngộ nghĩnh... Đầy chất thơ... Bùi Ngọc
Tấn tặng chúng ta một quyển tiểu thuyết nhân văn... cấu trúc rất đặc sắc. Không
chút áp đặt ông dẫn chúng ta đến một vĩ thanh để chúng ta tự do suy ngẫm... Bùi
Ngọc Tấn biết cái giá của tự do. Tiểu thuyết cùa Bùi Ngọc Tấn là cuốn sách
không thể nào quên. Thậm chí có lẽ là... một quyển tiểu thuyết làm người ta tốt
hơn. ’’
- Lời tuyên dương Biển và chim bói cá của ông
François Bourgeon, chủ tịch danh dự Festival Sách và Biển của Pháp năm 2012.
Chú thích:
1. |
Xin coi mục Emile Zola trong Từ điển Văn học (bộ mới), Đỗ Đức
Hiểu soạn. |
2. |
Xin coi đường dẫn:
http://www.bmlisieux.com/litterature/gambier/ gambie08.htm |
3. |
Havelock Ellis, lời giời thiệu Germinal trong bản dịch sang
tiếng Anh, xuất bản năm 1894; xin coi đường dẫn:
http://www.ibiblio.org/eldritch/ez/gin.html. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét