Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Cõi mê 1

Cõi mê 1

Một
Rồng xanh
Cuộc đời có quá nhiều sự quyến rũ!
Xưa nay sự quyến rũ có quyền năng vô hạn. Nó có thể làm người ta bừng sáng, thăng hoa đến tót vời, nó cũng có thể đè người ta bẹp dí, nghiền nát, hoặc nhấn xuống tận đáy của sự nhơ nhớp. Nhưng quyền năng vô hạn đó không chỉ có hai mặt, mà mặt thứ ba mới là thực tế: Có những kẻ đang bị sự quyến rũ chết người nhấn xuống tận đáy của nhơ nhớp lại cứ ngỡ mình đang thăng hoa, đang vinh quang, tuyệt vời sung sướng. Thằng Thăng cháu nội ông Nguyễn Kỳ Hòa là kẻ như thế. Nó đang sung sướng lắm! Trời ban cho nó vóc dáng cao lớn, vạm vỡ, điển trai, mắt to đuôi dài rất đa tình. Hồi nó mới mười ba tuổi, đã thèm xe Honda, ông bà nội mua cho liền! Nó cúp cua đi chơi Thủ Đức, Biên Hòa, Vũng Tàu, Đà Lạt, đi bằng xe Honda, và đua với bạn. Cuộc đua nào nó cũng về nhất. Rồi nó mê bơi lội, mê tennis. Nó kiếm được chân nhặt banh trên sân tennis Tri Âm sát sông Sài Gòn. Tại đây, nó nhanh chóng học được môn thể thao này. Nó quan sát những người chơi, nghe họ trò chuyện về những chốn ăn chơi, những cô gái đẹp ở những chốn ấy và hiểu ra rằng những người đàn ông trong nhà nó không là… cái đinh gì, bởi họ không hề biết thưởng thức cuộc đời (câu mà nó thường được nghe đại ca X.O nói)! Chú Hùng Tâm của nó xem ra cũng máu ăn chơi, thế nhưng thằng Thăng ghét Tâm, nó coi Tâm chẳng ra ký lô nào bởi cái tội chảnh chọe với cháu! Chỉ có ông Ba Đào, người mà đàn em tôn vinh là đại ca X.O, và những người bạn của ông ta trên sân Tri Âm mới hiểu đời, biết thưởng thức cuộc sống…
Thằng Thăng lớn nhanh như Phù Đổng Thiên Vương sau khi được dân làng góp gạo thổi cơm cho ăn. Mười lăm tuổi mà đã có ria mép, thân hình lực lưỡng như trai mười bảy bẻ gãy sừng trâu. Sừng trâu thì nó chưa bẻ gãy, nhưng nó đã hơn một lần làm nát đời con gái người ta. Không phải nó ác, mà bởi nó đam mê, nó bị sự quyến rũ ngự trị; và nhất là tại các em choai choai thèm lăn xả với nó. Con gái nhìn nó một lần là muốn được lao vào vòng tay nó, dù có chết cũng cam lòng! Bước vô tuổi mười lăm, nó đã cao một mét bảy mươi lăm, người nở nang cân đối và rắn như thép cường độ cao. Nó thông minh, nhưng chán học, triền miên trốn học vì… bị nhiều cô gái đẹp quyến rũ, hay chính nó tạo ra sự quyến rũ không biết. Các cô gái được nó cho thưởng thức mùi đời, biến thành đàn bà thời ấy là bạn học cùng lớp, cùng trường, cùng tuổi choai choai, cùng khao khát ăn chơi, cùng biết xài tiền như nước và cùng thích tốc độ. Băng của thằng Thăng có tám cặp, chỉ có nó đang học lớp tám, còn những đứa kia học lớp mười đến lớp mười hai. Tất nhiên thằng Thăng được tôn làm thủ lãnh. Không làm thủ lãnh sao được khi mà nó chơi bạo nhất, đẹp trai nhất, to cao nhất, nhiều tiền nhất, đa tình nhất, nhiều ý tưởng sáng tạo điên rồ nhất! Ngoài những cái nhất ấy, thằng Thăng còn mang vào chốn giang hồ những tư chất của một kẻ được gia đình chăm sóc, giáo dục kỹ lưỡng: không bao giờ nói tục, không bao giờ chửi thề, ngày đánh răng ba lần, sau khi đi cầu là phải tắm rửa, sau khi đi tiểu dứt khoát dùng giấy vệ sinh thấm… thằng nhỏ, và rửa tay thật kỹ trước khi rời toilet!… Những điều vừa kể đã ngấm vào máu thằng Thăng. Nó thực hiện như một phản xạ bản năng. Bởi thế mà đám đệ tử thấy thằng Thăng như một người của thế giới khác lạ, chúng rất khâm phục.
Không biết vì sao Nguyễn Quốc Thăng lại được đám choai choai kêu bằng biệt danh Rồng Xanh? Có lẽ ngẫu nhiên chăng? Vào sinh nhật thứ mười sáu của thằng Thăng, ngày 30 tháng Tư, sau khi ăn chơi nhảy nhót từ sáng tới tối, rồi lao vào chuyện chăn gối đến rã rời cơ bắp, chúng nó vào cuộc đua mới. Không biết là cuộc đua thứ bao nhiêu rồi? Trời cũng chịu, không nhớ nổi! Đêm ấy, băng Rồng Xanh đua với băng Ó Trắng. Tất nhiên là xe phân khối lớn. Tất nhiên là tháo bỏ dây thắng. Tất nhiên là tay đua nào cũng có một em mặc mini jupe khoe cặp chân dài như chân Julia Robert ngồi quặp chặt sau lưng. Điểm xuất phát và đích là cầu Sài Gòn. Rồng Xanh về đích trước tiên. Hai giờ sáng, đúng vào lúc xe thằng Thăng bay tới điểm đích thì bất ngờ xuất hiện chiếc xe đạp của một nữ công nhân đi làm ca đêm về… Người đàn bà xấu số ấy chết không toàn thây!
Cả nhà ông Hòa như vừa bị khủng bố. Ai nấy mặt mày dớn dác, cắt không ra giọt máu.
Mùa Xuân 1985, đại tá Hòa - nổi tiếng hào hoa, giao thiệp rộng - nhận được quyết định: không trực tiếp chỉ huy đơn vị pháo binh nữa, ông được điều về giữ một trọng trách ở Quân khu. Khi nhận quyết định này, Hòa vừa khấp khởi mừng, vừa lo. Ông hy vọng cấp trên giao cho ông phụ trách thanh tra để rồi thăng lên cấp tướng?! Nhưng, nếu không phải vậy thì… ông lo vì mình đã bước vào tuổi sáu mươi rồi, không được lên tướng thì chỉ còn nước lên làng nướng mà nhậu, nghĩa là về hưu!
Quân đội luôn luôn là nguồn cung cấp cán bộ cho các ngành khác. Sau năm 1975, tại miền Nam, hầu hết những cán bộ khung của các ngành công an, kiểm sát, tòa án, thanh tra, thuế, hải quan… đều xuất thân quân đội. Trong đội ngũ ấy, có rất nhiều người là bạn thân hoặc là cấp dưới của Hòa. Hòa làm việc ở Quân khu được hai năm, lập được một vài công tích thì tiếng tăm bay tới cấp trên. Nạn tham nhũng đã và đang hiển hiện. Đại tá Hòa, chưa được lên tướng, nhưng được trên cử làm Phó Ban chống tham nhũng!
Hòa bận tối mày tối mặt vì nạn tham nhũng ngày càng hoành hành. Trên các phương tiện truyền thông đại chúng ngày nào cũng nhan nhản tin, ảnh, bài điều tra về các vụ án tham nhũng rần rần trong các ngành các cấp… Ngành nào, địa phương nào cũng có quan tham lại nhũng… Đồng tiền làm tha hóa một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên. Tham nhũng không chỉ làm suy yếu đảng và bộ máy công quyền. Tham nhũng thực sự làm băng hoại nền tảng đạo lý, văn hóa… Chống tham nhũng thực chất là chống ai? Nông dân, công nhân, những người lao động… làm thế nào có cơ hội để tham nhũng? Làm sao có thể chống tham nhũng tận gốc, triệt để? Làm sao để mọi người bình đẳng trước pháp luật? Làm sao không còn chuyện cán bộ cỡ nào thì phải ra tòa, cỡ nào thì được xử lý nội bộ? Và cỡ nào nữa thì… lơ! Hơ! Hơ! Hơ! Ông Hòa suy nghĩ rất nhiều về trách nhiệm của mình.
Đúng vào lúc nước sôi lửa bỏng của cuộc chiến chống tham nhũng, thì xảy ra chuyện cháu nội ông Hòa đua xe cán chết người. Ngó nó bự con, lừng lững thế kia, ai mà tin nó còn tuổi vị thành niên! May mà ở cương vị mới, ông có thế mạnh ghê gớm, đồng thời trước đó, ông lại quen biết rất rộng những nhân vật VIP của ngành nội chính, thế nên việc chạy chọt cho thằng Thăng khỏi lâm vào lao lý đã được thực hiện… Gia đình bà Lịch đã phải bồi thường một khoản tiền lớn để lạy van gia đình nạn nhân bãi nại!
Đó là vết nhơ đầu tiên trong lịch sử gia đình cụ Nguyễn! Sự việc tồi tệ này khiến cha con cụ Nguyễn xung khắc với nhau, cả hai đều cho rằng người kia đã chiều chuộng thằng Thăng quá mức nên nó hư đốn! Đây là lần đầu tiên hai cha con cự nhau quyết liệt. Rồi cụ Nguyễn lâm bệnh, sức khoẻ suy sụp, kỳ dị nhất là hai tai cụ thỉnh thoảng bị ù, mỗi lần vài phút, không đau nhức nhưng khiến cụ rất khó chịu. Sau mỗi lần như thế, từ trong tai đùn ra rất nhiều ráy tai như cứt dơi, đen ngòm và rất hôi… Nửa năm sau, cụ Nguyễn bị điếc hẳn một tai…
Chuyện đó xảy ra đã lâu rồi. Thăng quên lẹ lắm! Mỗi ngày nó có một sự quyến rũ mới, hơi đâu mà nhớ ba cái phọt phẹt, lẻ tẻ. Từ năm mười sáu đến năm mười chín tuổi, thằng Thăng liên tiếp lập chiến tích, chiến tích sau luôn luôn hơn hẳn chiến tích trước (ấy là nói theo ngôn ngữ của văn báo cáo)! Cái vụ đua xe gây tai nạn bể đầu vỡ sọ, gãy chân gãy tay cho người đi đường rồi bỏ chạy là chuyện vặt! Những chuyện ấy sá gì với tư thế của thằng Thăng, cháu đích tôn ông đại tá, rất có uy ở xứ này! Uy mạnh đến nỗi nó đua xe gây tai nạn, không may bị cớm tóm thì chỉ cần một cú phone của bà nội nó xưng danh ông nội nó là OK! Tự do, vô tư! Trò đời, đã bỏ học được một ngày đi chơi là muốn bỏ nữa, bỏ nữa rồi bỏ luôn! Trò đời, đã chôm tiền nhà đi chơi được một lần là còn chôm tiếp, lần sau nhiều hơn lần trước, không chỉ chôm tiền mặt vớ vẩn mà còn chôm đồ, rồi lựa cái gì quý nhất mới chôm! Trò đời, đã ở trong nhà hàng, quán rượu, quán bia ôm… bước ra, con người ngỡ như được nâng cao vị thế, oai phong lẫm lẫm! Trước đó, bọn bạn bè, đệ tử tâng bốc nó hết lời, bởi nó chi tiền, chi sộp, chi đẹp, thỏa mãn mọi nhu cầu của lũ choai choai mà! Trò đời, đã bóp v…, sờ l… con gái một lần là làm tới, làm tới, làm quá hóa ghiền, rồi lao vào tình dục như con thiêu thân, lúc nào cũng ham hố trác táng, khát khao trụy lạc…
Hai mươi tuổi, thằng Thăng nếm mùi quyến rũ của gái một con! Chuyện diễn ra sau khi nó bị đuổi khỏi nhà máy Z007, rồi nó bỏ nhà đi mướn chỗ trọ, rồi nó gặp Tiên, ngụp lặn trong vũng tình dục ngọt hơn mật, rồi nó chán. Nó chán Tiên rồi nhớ Tiên! Đến khi Tiên đổi đời, bán nhà dọn đi nơi khác thì nó đứt liên lạc. Một buổi chiều, nó đang lê gót trước khách sạn Caravelle thì, nó không tin ở mắt mình nữa: Tiên mặc áo đầm trắng, lộng lẫy như một nữ hoàng, từ trên xe hơi bước xuống, đi cùng một người châu Âu bự con, bự gấp rưỡi thằng Thăng.
Tự nhiên nó thấy buồn!
Đất nước mở cửa, người nước ngoài vô làm ăn, bỏ ra vài vé, vài tờ xanh là mua ráo trọi những kiều nữ con Rồng cháu Tiên! Không hiểu sao nó cảm thấy bị sỉ nhục! Làm như nó có tinh thần dân tộc cao lắm! Nhưng trong túi không còn một xu thì duy trì tinh thần tự tôn dân tộc bằng cách nào đây? Nó lại phải nghĩ cách xoay tiền bà nội, hoặc bắt mấy thằng ôn dịch dưới trướng nôn ra. Bằng mọi giá, nó phải có vài vé để vô động Thủy Cung, kêu một lúc ba em xinh như mộng, bắt chước phim con heo làm tình nhoay nhoáy đến vã mồ hôi hột, đến bã người ra… để trả thù đời!
Mười lăm tuổi, lần đầu tiên nó xem phim con heo, rồi ngay trong lúc xem phim, nó biết mùi con gái trinh là thế nào. Nó bị quyến rũ ghê gớm! Nó ghiền gái trinh, gái đẹp. Mười sáu tuổi, mỗi tháng nó thay một em, em nào cũng mới toanh, cũng thơm ngon! Mười chín tuổi, nó trở thành tay ăn chơi phá phách cộm cán. Ông bà nội cưng nó, cho nó phương tiện ăn chơi thì nó phải biết thưởng thức cuộc đời chứ!
- Mười chín tuổi rồi, Thăng! Ở tuổi ấy, anh ruột tao, anh hai Nguyễn Kỳ Dũng, đã tham gia Nam Kỳ Khởi nghĩa, hy sinh như một anh hùng vì sự nghiệp kháng Pháp giải phóng dân tộc. Mày hiểu chưa, thằng giặc kia! Bác Hai mày là liệt sỹ, cha mày là liệt sỹ, chết như những anh hùng! Vậy mà mày nỡ chà đạp lên truyền thống gia đình và dòng họ Nguyễn, mày đang trét c…t vào mặt tao, mặt bà nội mày là Mẹ Việt Nam Anh hùng đó, mày hiểu không?
Đại tá Hòa rống lên chứ không còn là nói! Thằng Thăng ngồi đó, mặt tỉnh queo, nó nhịp nhịp chân, miệng phì phèo thuốc lá, rồi nó bịt tai vì tiếng rống của ông nội khiến nó khó chịu. Nó muốn nói với nội rằng: Bài học truyền thống này nó nghe quen quá trời, nhàm quá trời! Có ai mang cái truyền thống ấy ra mà ăn, mà thưởng thức cuộc sống như đại ca X.O thường nói được đâu! Mấy cái bằng Tổ quốc ghi công chỉ để trên bàn thờ cho nhện giăng tơ. Thiết gì! Mấy năm qua, cứ thấy mặt ông nội là nó lại phải nghe bài ca truyền thống, trách nhiệm, dòng họ, nhân cách, đạo đức cách mạng… hệt như mỗi lần vô quán bia ôm, mấy em cave lại ca bài em ở quê lên nhà nghèo dzữ lắm mới phải đi làm như dzầy. Má em đang bệnh thập tử nhất sanh. Anh Hai bô trai ghê, em yêu anh Hai đến hụt hơi nè, nhớ bo cho em thiệt xịn nghe, em chìu hết mình… Thằng Thăng mấy lần suýt cười hộc ra khi nghe ông nội nó ca về đạo đức cách mạng! Nội ơi, con biết tỏng tòng tong từ khuya rồi, ít nhất cũng từ ngày đi bụi, lượm banh trên sân Tri Âm, cái gọi là phẩm chất, đạo đức… rồi. Nó thúi lắm lắm! Không chỉ thúi, nó còn đầy giòi bọ nữa! Biết bao ông bụng bự mặt lớn, mũ cao áo dài… mà thực ra toàn bọn đểu cáng, ăn bẩn, tham nhũng, mê gái, rồi tàn hại lẫn nhau! Người ta nói một đường mần một nẻo! Đời mà, nói dzậy chứ không phải dzậy đâu nội ơi! Nội có sống cuộc đời thực bao giờ đâu! Hổng tin, nội cứ ra sân tennis này lượm banh với con chừng vài tuần lễ là nội hay đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, từ chuyện thâm cung bí sử của trào trước, rồi trào hiện đại, đến chuyện mua bán gái tơ, các ngón nghề dành cho những vị tai to mặt lớn hết xí quách, khi được đàn em dâng cho gái tơ mọng mẩy!
Đã bao nhiêu lần cụ Nguyễn chứng kiến cảnh con trai mình cuồng nộ chửi thằng chắt nội. Cụ nhìn bàn chân nó nhịp nhịp khi nghe ông nội giảng đạo lý, ngó cái bản mặt nhâng nháo của nó… Cụ Nguyễn không thể hiểu thằng Thăng đang nghe nội nó dạy bảo hay nó đang nghĩ gì. Cụ đâu có dè nó không hề nghe, không thèm nghe mà chỉ cười vào mũi ông nội. Bằng tuổi nó, ngày trước cha cụ đã là chiến binh dưới trướng cụ Nguyễn Tri Phương phòng thủ Đại đồn Chí Hòa rồi. Ở tuổi nó, cụ Nguyễn đã thông kinh sử, đã đi làm thầy thiên hạ rồi. Bây giờ… nó sướng quá hóa cuồng, hóa phản. Cụ nhìn nó vừa giận, vừa xót xa… Ngày xưa, khi con trai đầu lòng của cụ bị giặc Pháp giết hại tháng 11-1940, cụ cũng đau khổ và xót xa như thế này. Ngày xưa, khi người vợ đầu gối tay ấp vô vàn thương yêu của cụ qua đời - bỏ mẹ để cứu con - khi sanh thằng Kỳ Khoa, cụ cũng đau khổ và xót xa như vầy…
Gia đình cụ Nguyễn rất quý người! Họ dùng mọi cách khuyên nhủ, dạy dỗ cháu đích tôn Nguyễn Quốc Thăng. Họ rất kiên trì, nhưng trễ rồi, quá trễ rồi. Ước mong cho cháu hoàn lương không thành. Càng ước mong, càng vô vọng. Đến khi thằng Thăng chôm chiếc Cub tám mốt của Phương Nam, cô ruột nó, đem cầm thì không ai còn có thể kiên nhẫn được nữa! Ông Hòa tuyên bố: Hạn trong hai tháng mà không sửa đổi tâm tánh, cải tà quy chánh thì sẽ từ nó, không coi nó là cháu nữa! Ông ra lệnh cho vợ là bà Lịch phải cắt cầu, nghĩa là không chu cấp tiền bạc cho nó nữa. Nó hận quá. Ông Hòa từ chỗ cưng chiều cháu hết cỡ, nay thường xuyên đe nẹt, chửi mắng. Nó hận quá. Hơn một lần ông Hòa đe rằng nếu mày không hối cải thì ông từ mày, tống mày đi trại phục hồi nhân phẩm ! Nó hận quá. Nó chỉ còn mỗi bà Lịch là bà nội nó lâu lâu lén nhét tiền cho nó. Nó hận lắm. Cô Phương Nam ngày trước thương nó quá trời, bây giờ cũng về hùa với ông nội. Nó hận lắm!
Thế là nó chơi ma túy, nhưng nó không hạp! Phúc đức tổ tông nhà nó để lại chắc là lớn! Kỷ niệm sinh nhật lần thứ hai mươi, bọn đệ tử trong băng Rồng Xanh bỏ tiền ra lo cho nó chu đáo. Một thằng mang đến mấy gói bột trắng. Thằng Thăng đang hận vì bị cắt cầu, bị dạy bảo, mắng chửi thường xuyên, thấy gói bột trắng, chơi liền. Sau ba lần ói mửa ra mật xanh mật vàng, nó ớn đến tận tủy. Nó bảo: Cơ địa tao không hợp thứ này! Tụi bay xài líp, tao chỉ cần gái! Nói sao làm vậy, mãi đến sau này, không bao giờ thằng Thăng rờ tới bột trắng hay bất cứ chất gây nghiện nào, trừ gái. Đối với nó, gái là ma túy! Gái có sự quyến rũ đặc biệt, tối thượng!
Đầu năm 1995, trong một chiến dịch làm sạch thành phố, thằng Thăng bị bắt khi đang cùng đồng bọn trụy lạc trong động Thủy Cung. Khi cớm ập tới, động này có bốn mươi mốt em, toàn mười bảy, mười tám, toàn khỏa thân. Trong phòng rộng chừng bốn chục mét vuông, mười thằng choai choai cùng mười hai đứa con gái không một mẩu vải trên người đang điên cuồng nhảy nhót, chúng vừa chơi nhau vừa chơi heroin. Khốn nạn cho thằng Thăng bị cớm moi từ trong túi quần nó ra ba bịch bột trắng. Nó bị chụp cho tội buôn bán heroin!
Thời điểm đó, gia đình ông Hòa làm lễ đại thượng thọ cho cụ Nguyễn, tròn một trăm tuổi. Tứ đại đồng đường, bốn đời sống trong một mái nhà, lẽ ra đại gia đình cụ Nguyễn phải là gia đình hạnh phúc nhất, nếu như không có chuyện thằng Thăng nổi loạn. Cụ Nguyễn tuyệt vọng về thằng chắt đích tôn, đau lòng nói vậy!
Bị bắt năm ngày, nó trốn, rồi lại bị bắt, lại trốn! Cứ thế, trong sáu tháng, nó trốn bảy lần tất cả. Bà nội và cô ruột nó thay nhau vô trại tiếp tế. Thương cháu đến phát rồ phát dại, bà Lịch lén chồng mang tiền đi chạy. Thằng Thăng ra trại. Thằng Thăng được về, ông nội nó rất mừng, nhưng vẫn lớn tiếng chì chiết vợ:
- Bà chiều nó quá nên nó mới hư! Đúng là con hư tại mẹ, cháu hư tại bà! Nay nó đi cải tạo mới mong hoàn lương, vậy mà bà lại tiếp tục hại cháu tôi, bà hiểu không? - Ông Hòa gầm lên, không cần giữ gìn sợ cha nghe thấy như những năm qua nữa!
Ông Hòa tuyên bố ly thân với bà Lịch! Nhưng bi kịch của gia đình này đâu chỉ dừng lại ở đó.
Thằng Thăng không thể hội nhập với gia đình. Nó đã thuộc về một thế giới khác!
Đã trở thành quy luật của dân bụi, để có tiền, thằng Thăng sẵn sàng làm liều, bất chấp tất cả. Nó đã nhiều lần ăn cắp tiền bạc vàng vòng của bà nội, rinh hai chiếc bình tỳ bà từ đời Càn Long, rinh bộ lư đồng trên bàn thờ là vật báu gia truyền, rồi đến dàn máy nghe nhạc của gia đình, rinh tiếp bộ computer của cô ruột đem bán lấy tiền quậy phá. Đến nỗi bộ đồ uống trà Thái Đức màu gan gà, vật cưng của cụ Nguyễn, cụ dùng hàng ngày, nay phải đưa vô phòng riêng, ra khóa vào mở, chìa khóa cụ Nguyễn giữ rịt! Rồi thằng Thăng bảo kiếm được việc làm. Nó ra điều kiện: cho nó tiền mua nhà ở riêng thì nó mới đi làm!
Điều kiện mà thằng Thăng nêu ra, nó không dám nói trực tiếp mà nhờ cô ruột nói. Trong lòng nó, nó rất tin cô ruột. Nó nghĩ, chỉ có cô ruột là thực sự thương và không coi rẻ nó. Nó cần tình thương yêu và sự trân trọng! Nó có mẹ mà như không! Cả hai điều đó - mẹ và tình thương yêu - chỉ có nơi người cô trẻ đẹp và giàu lòng nhân ái như nữ thánh của nó.
Phương Nam hiểu được ba má cô đã từng nuôi niềm kì vọng vào cháu Thăng, nay thì ba má thất vọng đến nhường nào. Cô cưng cháu lắm, nên khi thằng Thăng nổi loạn, cô đau khổ vô cùng, đau khổ vì bất lực, không biết làm gì để cứu cháu thoát khỏi sự quyến rũ của sa đọa, trụy lạc.
Phương Nam đẹp, có duyên ngầm khiến cho những người khó nết nhất, khi gặp cô cũng phải thầm khen ngợi: Không biết cha mẹ nào mà sinh được người dễ thương đến thế!
Người ta nói con cái hưởng phúc đức của cha mẹ. Điều đó rất đúng với Phương Nam. Cô thừa hưởng từ cha mẹ không chỉ phúc đức mà còn cả ngoại hình nữa. Ông Nguyễn Kỳ Hòa, cha cô, sanh tại Sài Gòn, hậu duệ của những người nông dân họ Nguyễn ở Thanh Hóa, theo chúa Nguyễn Hoàng vào Nam mở cõi. Ba Hòa cao một mét tám, thời còn là học sinh Pétrus Ký* đã nổi tiếng đẹp trai, hào hoa và ngang tàng. Mẹ cô là con gái xứ quan họ Bắc Ninh, cao một mét sáu lăm, mắt bồ câu, da trắng, cằm chẻ, nhân trung sâu, eo nhỏ, tóc dài. Phương Nam tuổi Kỷ Dậu, sanh tại thủ đô Hà Nội vào mùa Thu năm 1969. Bảy tuổi, Nam vô sống với ba má tại Sài Gòn, lớn lên trong đất, nước, khí trời phương Nam. Về ngoại hình, cô thừa hưởng những nét đẹp của cha mẹ. Phải chăng những điều vừa kể đã hun đúc nên vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, vô cùng quyến rũ của cô? Phương Nam có miệng rộng nhưng không rộng quá, cặp môi dày mà không dày quá, răng trắng, đều như hạt bắp, khi cười sáng bừng gương mặt trái xoan, đôi mắt đen láy và cái mũi thẳng thanh tú. Những ai đã từng một lần nhìn vào đôi mắt bồ câu của cô, hẳn sẽ chẳng thể nào quên… Đôi mắt tỏa sáng sự tinh anh, nhạy cảm của một người có nội tâm phong phú, thánh thiện. Cha mẹ sinh ra cô thật khéo: chiều cao một mét sáu tám, da trắng hồng, chân thẳng, eo nhỏ và bộ ngực bánh dầy… Những điều ấy sao lại tập trung cả vào một người hả Trời!
Trường trung học Pétrus Ký hình thành năm 1926, lúc đầu mang tên Collège de Cochinchine. Năm 1928 mang tên nhà bác học Pétrus Trương Vĩnh Ký, là trường đệ nhị cấp (cấp ba ngày nay) với trên 200 học sinh. Năm 1976 đổi thành trường Lê Hồng Phong. Năm 1995, Trường Lê Hồng Phong được chọn là Trung tâm Giáo dục chất lượng cao phía Nam. Trường đặt tại 235 Nguyễn Văn Cừ, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
Con gái út, con gái rượu đẹp vậy mà chưa khi nào ông Hòa thấy con dẫn bạn trai về ra mắt. Sao vậy cà? Hay là con mình vô duyên? Trong nhà ông Hòa, không ai hay rằng không phải vậy. Thực ra Phương Nam có rất nhiều người theo đuổi, không phải cô kén cá chọn canh, nhưng cô chưa vừa ý ai.
Rồi đến ngày cái điều ấy xảy ra. Người có diễm phúc được Phương Nam yêu là Nguyễn Thành Đạt. Đạt đang ở giai đoạn sung mãn của lứa tuổi trung niên. Vào một sáng mát trong như mùa thu, tay trong tay, họ dắt nhau vào tiệm cà phê đẹp nhất đường Đồng Khởi, lên lầu một, nơi có những phòng sang trọng dành cho việc thư giãn, tâm tình của những người tri kỷ. Đạt cúi xuống, nhìn vào đáy mắt người con gái nhỏ hơn mình mười bảy tuổi. Vẻ trân trọng, nâng niu, ngời sáng tình thương yêu hiện rõ trên gương mặt, trong từng cử chỉ của Đạt. Anh hôn suối tóc dài đen huyền. Hai bàn tay to khỏe, ấm áp với những ngón thon dài của anh âu yếm vuốt ve cái cổ cao ba ngấn trắng ngần, bờ vai mềm và cái eo nhỏ xinh như eo của thiếu nữ nước Sở. Gương mặt người con gái ngước lên, ánh mắt lóng lánh tình yêu và nỗi khát khao, đôi môi hé mở như chờ đón, như thôi thúc… Cô đứng trên mười ngón chân, gót nhón cao để có thể dán chặt bộ ngực bánh dầy nóng hổi, phập phồng của mình vào bộ ngực vạm vỡ của người yêu. Họ chỉ rời môi nhau khi cả hai đã gần như hụt hơi…
- Có nhất thiết anh phải ra mắt hôm nay?
- Không thể trễ hơn, anh à! Em đã nói với ông nội rồi. Hôm nay là sinh nhật thứ một trăm của nội! Mẹ từ Hà Nội cũng vừa bay vào. Ba, mẹ sẽ bất ngờ, nhưng không sao… Ba, mẹ, má Lịch, luôn chiều em mà anh!
- Anh e rằng chúng mình sẽ gặp phải sự phản đối quyết liệt của ba mẹ em…
- Vì sao?
- Anh vừa ra tù. Anh hơn em gần hai chục tuổi…
- Anh kỳ quá hà! Em đã nói với anh biết bao nhiêu lần rồi! Tình yêu bất chấp tất cả! Miễn là người mình yêu phải xứng để cho mình trao thân gửi phận… Anh bị tù oan chứ có phải tham nhũng đâu!
- Đành là vậy. Nhưng… đó là quan niệm của em, của anh. Còn ba mẹ em, còn má em, và cả ông nội em nữa…
- Không nói nữa anh! Chúng mình chỉ còn vài giờ nữa để chuẩn bị, nếu anh muốn mua bông tặng nội…
Vẻ kiên quyết hiện rõ trong ánh mắt thông minh, quyến rũ của Phương Nam. Cô vẫn nhón gót, ngước lên say đắm nhìn Đạt. Đạt ngồi xuống salon, ôm chặt Phương Nam. Gương mặt hồng hào với vầng trán nở đầy đặn, sống mũi thẳng, cái miệng rộng khi cười rất tươi của Đạt ngang tầm bộ ngực chắc nịch đang tỏa hương quấn quýt anh. Đạt ghì chặt người yêu. Mùi hương từ da thịt Phương Nam hút hồn anh đã gần một năm rồi. Xa em một ngày anh đã thấy nhớ da diết cái mùi hương ấy. Ba tháng trong trại tạm giam, anh nhớ đến ngẩn ngơ, nhớ đến tê tái cõi lòng khuôn mặt đẹp như tiên nữ, giọng nói trong vắt ngọt ngào và mùi hương da thịt em. Anh ao ước được có em. Nếu không có tình yêu của em, không biết anh có còn đến hôm nay hay đã chết rũ trong tù vì tuyệt vọng, vì mất niềm tin vào cuộc đời? Ơn Trời, đã ban em cho anh! Chính tình yêu của em đã giúp anh trụ vững, không nản chí, luôn yêu đời, tin tưởng vào công lý suốt một năm qua…
Hồi ấy, Đạt theo học chương trình tiếng Anh để lấy chứng chỉ C. Công ty của Đạt vừa xây dựng xong công trình kho lạnh và nhà máy đông lạnh cho Tập đoàn khai thác thủy sản Viễn Đông Liên Xô. Chỉ qua hai hợp đồng này, công ty đã thu lãi ròng hơn hai triệu đôla Mỹ. Công việc ở miền Viễn Đông nước Nga đòi hỏi Đạt bay tới bay lui nhiều lần. Anh phải nghỉ học. Mỗi lần bỏ học, anh lại phải tìm cô giáo Phương Nam để hỏi bài. Cô tốt nghiệp hạng ưu cùng lúc hai bằng: Cử nhân Anh văn và Cử nhân Ngữ văn. Vào thời điểm 1990-1991, những sinh viên học cùng lúc hai trường, hai khoa là rất hiếm hoi. Phải thật xuất sắc mới được đặc cách như thế! Phương Nam giỏi Anh văn, môn sinh ngữ thứ hai là tiếng Pháp cô cũng đứng đầu khóa. Ra trường, cô được thông báo sẽ giữ lại trường giảng dạy, rồi may mắn được chọn trong nhóm sinh viên đi tu nghiệp ba tháng tại London thủ đô nước Anh. Về nước, tưởng được ở lại trường giảng dạy, nhưng không, cái chân ấy không thuộc về cô nữa! Chưa xin được việc làm, cô vào dạy tiếng Anh ở Trung tâm ngoại ngữ đại học Sư phạm, lớp của Đạt. Buổi học đầu tiên, cô giáo kiểm tra trình độ học viên. Không hiểu sao cô lại gọi Đạt, học viên lớn tuổi nhất lớp! Đạt đáp trôi chảy những câu hỏi của Phương Nam. Từ sau lần đó, anh thấy mình như đang tương tư cô giáo trẻ! Những lần đi công tác ở Nga về, anh thường mua sôcôla làm quà cho cô giáo. Cô giáo trẻ nhiệt tình giúp Đạt luyện nghe, nói, hai kỹ năng cốt yếu của việc học ngoại ngữ để ứng dụng trong việc giao tiếp cho doanh nhân. Mãi về sau này Đạt mới nói rằng ngay từ hồi đó, anh đã đem lòng yêu thương cô giáo, là thương vụng nhớ thầm thôi, chứ người như thế ai thèm thương anh chàng quá đát, đã từng có gia đình! Cũng mãi về sau này anh mới biết: Mỗi chiều, tối cô chạy sô dạy hai lớp, để có tiền theo học chương trình thạc sỹ Văn chương Anh Mỹ của trường Harvard Hoa Kỳ. Cô không phiền đến ba má. Cô đang ở với ba má tại căn nhà trên đường Hàm Nghi. Còn mẹ đẻ của cô, bà Hải Yến vẫn ở Hà Nội.
Cha cô, ông Nguyễn Kỳ Hòa là bộ đội tập kết, mang theo đứa con trai thứ hai (tức thứ ba, theo cách gọi của Nam Bộ) là Nguyễn Trung Thành. Năm 1959, khi phong quân hàm, ông được mang lon trung úy. Trung úy Hòa sống trong cảnh ngày Bắc đêm Nam, không nguôi thương nhớ vợ và đứa con trai cùng người cha thân yêu ở Sài Gòn.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, Ba Hòa được giáo dục theo tinh thần của Khổng giáo. Nhân - nghĩa lễ - trí - tín cùngTam bất là những bài học nằm lòng: Bần tiện bất năng di. Phú quý bất năng dâm. Uy vũ bất năng khuất*. Lớn lên theo học ở nhà trường của nền giáo dục Pháp, Hòa được tiếp thu văn hóa văn minh châu Âu, từ nếp sinh hoạt đến phong cách đi đứng nói năng, lối sống… Ngày đánh răng ba lần, thường xuyên tắm rửa sạch sẽ, đi toilet xong là rửa ráy kỹ càng, trước khi ăn phải rửa tay, áo sơ mi luôn luôn bỏ trong quần, đi ra ngoài đường là mang giày, không giày thì cũng xăng đan, luôn luôn biết cám ơn và xin lỗi… Những gì là tốt đẹp nhất trui rèn nhân cách một con người, Hòa biến thành máu thịt, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng bất di bất dịch.
Tam bất: Ba không: Nghèo khổ không dời chuyển ý chí, phẩm cách. Giàu sang không vô độ. Trước uy quyền không khuất phục.
Đẹp trai, khỏe như lực sỹ, lại hào hoa phong nhã, trung úy Hòa khiến bao cô gái nơi đơn vị trú quân như Thanh Hóa, Nghệ An rồi Hà Nội mê tơi! Thời gian đầu, kỷ luật quân đội và những bài học về đạo đức cách mạng đã giúp ông Hòa đứng vững trước những khóe mắt, nụ cười tình tứ của các thanh nữ Bắc Hà. Nhưng rồi… bản tánh lãng tử hào hoa quá, cuộc sống ngày Bắc đêm Nam cô quạnh quá, cầm lòng chẳng đặng, ông đã không ít lần đáp lại sự tha thiết của các cô gái dễ thương, hiền dịu. Hòa biết rằng nếu sự việc vỡ lở, sẽ bị tổ chức kỷ luật rất nặng! Nhằm nhò chi ba cái lẻ tẻ! Ông Hòa có chính kiến riêng về lãnh vực này! Theo ông, những cuộc tình bay bướm ấy chẳng phương hại gì đến lý tưởng, đến sự nghiệp, không gây hại gì cho phe Xã hội Chủ nghĩa, và càng không ảnh hưởng gì đến hòa bình thế giới. Ông bị kiểm điểm hoài về chứng đa tình, đã hơn một lần bị kỷ luật, từng bị cảnh cáo trong Đảng và trong trung đoàn!
Còn nhớ lần đầu tiên bị chi bộ kiểm điểm, đó là thời kỳ mới ra Bắc, Hòa ngồi im thin thít cắn răng chịu trận sỉ vả suốt hai tiếng đồng hồ của các đồng chí. Toàn những người mà bấy lâu nay anh quý mến, tin cậy, thường xuyên tâm sự sẻ chia vui buồn, ăn nhậu bù khú… Vậy mà, chỉ có mỗi một chuyện anh ngủ với cô gái đẹp nhất làng, đang là Phó bí thư Xã đoàn, mà họ quay ngoắt lại mạt sát anh, quy chụp anh là tha hóa, sa đọa, trác táng, vi phạm đạo đức cách mạng, làm mất danh dự của đơn vị, làm suy yếu hàng ngũ của Đảng, rạn nứt tình quân dân vốn đang như cá với nước, và như thế sẽ làm cản trở sự nghiệp cách mạng!… Đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt rồi tức điên lên, anh muốn cho mỗi người một chưởng để họ im cái miệng nói bậy nói bạ, sỉ nhục đồng đội. Nhưng trong cái khí thế kiểm điểm đằng đằng sát khí phân rõ địch ta như vậy, anh thu mình lại như con ốc sên gặp nguy. Bí thư chi bộ là Đại đội phó của anh, người gốc Quảng Nam nhưng định cư ở Bảy Hiền từ hồi trước cách mạng tháng Tám, căn vặn anh đủ điều, toàn những chuyện không thể nói ra được. Đàn ông với nhau, sao lại kỳ cục thế! Trai gái đã bén hơi nhau thì dù chỉ một giây một phút thôi cũng là tuyệt vời rồi, cớ gì mà văn vẹo:
- Đồng chí đã ngủ với đồng chí Mơ mấy lần? Khai thiệt ra hỉ, khai thiệt thì mới mong được khoan hồng!
Anh ta là người hễ mở miệng ra là đồng chí. Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai gồm anh, em, chị, cô, bác, ông… không có trong miệng Bí thư chi bộ! Không hiểu răng mà rứa! Hễ mở miệng ra là anh ta dùng từ đồng chí. Trong sinh hoạt Đảng mà xài từ này thì quá chuẩn, còn trong sinh hoạt hàng ngày, cả chuyện riêng tư ở trên giường, anh ta cũng xài đồng chí thì rõ là man rồi! Ở Việt Nam, theo như sự đọc của Hòa, ông biết rằng người đầu tiên xài từ đồng chí là vua Minh Mạng. Năm Canh Dần 1830, trong bài Tổng thuyết, Minh Mạng viết:
“Thánh Thán bất phùng, tàn yên tản mạn,
Hoa đường dĩ viễn, phá bích tiêu điều,
Sở đương mịch kỳ di biên, cáo chư đồng chí
Truyền hình tả chiếu ly tảo trích hoa…”*
Thánh tổ Nhân Hoàng đế ngự chế
Bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm:
Thánh Thán khôn tìm, khói hương lạnh lẽo
Hoa Đường xa vắng, tường vách tiêu điều
Nên phải lượm lặt những mảnh tàn biên
Để mà cống hiến các bạn đồng chí
Truyền hình vẽ bóng thâu nhị hái hoa.
Lúc đó Nguyễn Du đã chết, mà văn bản chính thức của truyện Kiều do Nguyễn Du viết thì không còn. Vua Minh Mạng viết điều này khuyến khích bề tôi đi tìm văn bản ấy mà khắc in, phổ biến cho những người đồng chí, cùng chí hướng văn chương, cùng tâm trạng thưởng lãm!… Hòa miên man nghĩ, Bí thư chi bộ hỏi ba lần, Hòa vẫn câm như hến. Đến lần thứ tư, anh ta quát lớn:
- Đồng chí có chịu khai không? Đồng chí dám coi thường tổ chức, coi thường Đảng?
Bất đắc dĩ, Hòa phải cất lời, không muốn để anh chàng này thóa mạ mình thêm một giây nào nữa. Hòa đứng dậy, nói rõ từng lời một:
- Cô Mơ chưa chồng, cô ấy thương tôi, tôi cũng thích cổ. Nếu người ta có chồng mà tôi nhào vô thì mới là chuyện bậy bạ, vi phạm đạo lý làm người! Vợ tôi ở Nam, tôi rất nhớ vợ và rất thèm vợ… nên chúng tôi ngủ với nhau. Vậy thôi, không phương hại gì đến cách mạng, đến Đảng. Cô Mơ không kiện, gia đình cô Mơ không bắt thường, hà cớ gì các anh xía vô. Tôi nhắc lại: Tôi không bao giờ chơi bậy! Đây chẳng qua chỉ là chuyện sinh hoạt, là nhu cầu chính đáng của con người. Tùy, các anh muốn làm gì, muốn kỷ luật cỡ nào, tùy! Tôi nhắc lại: Tôi không bao giờ chơi bậy! Các anh hiểu chưa? Chắc các anh không thể hiểu điều đó! Vậy thì ráng mà hiểu!
Dứt lời, Hòa nói rằng anh đau bụng, xin phép cho anh đi… cầu! Anh không nhịn được nữa, nó ra tới nơi rồi!
Ngoài cái vụ thường xuyên bị các cô gái trẻ tia và sẵn sàng tia lại, Hòa là một trang nam nhi có nhân cách, tôn trọng nhân - nghĩa - lễ - trí - tín như bài học khai tâm, vỡ lòng cha ông đã dạy khi lần đầu tiên ông học chữ thánh hiền.
Năm 1960, ông đứt liên lạc với gia đình ở Sài Gòn. Năm 1962, ông nhận được tin dữ: Trần Thanh Lịch, vợ ông, bị bắt và bị tra tấn đến chết trong tù! Mất vợ, có lúc ông không còn thiết sống nữa! Ông dành hết tình cảm, tâm huyết nuôi dạy con trai Nguyễn Trung Thành. Ông tìm mọi cách liên lạc với cha và con trai trưởng Nguyễn Anh Trung, nhưng bặt vô âm tín. Thế rồi ông gặp Hải Yến, người xứ Kinh Bắc, làm việc tại nhà hàng Thủy tạ Bờ Hồ. Hải Yến xinh đẹp, hát quan họ cực hay. Dòng máu văn hóa Kinh Bắc, dòng máu quan họ chảy rần rật trong người cô. Gặp Hòa, cô say mê liền! Hải Yến nhận ra đây chính là người đàn ông mà cô ao ước, Hòa như là hiện thân của một tinh thần trong sạch trong một cơ thể cường tráng! Tại một bờ cỏ dày và mịn như nhung trên đê Yên Phụ, trong một đêm sông Hồng giữa mùa mưa đầy ắp nước đỏ cuồn cuộn đổ về đông, Yến tự nguyện và mãnh liệt dâng hiến cho Hòa, hết đợt này tiếp đợt khác. Nếu không vì kỷ luật sắt của quân đội thì họ đã qua đêm với nhau trên đê Yên Phụ! Quá giờ vào cổng một tiếng mất rồi! Hòa gấp áo mưa, soi đèn pin cho Yến tìm quần lót, ông mỉm cười mãn nguyện khi thấy chiếc khăn mui xoa trắng tinh có những giọt đỏ hồng. Thảm cỏ dày như thế mà bây giờ đã nát như sân Hàng Đẫy sau một trận banh nảy lửa giữa hai đội Công an Hà Nội và Thể Công! Chưa bao giờ ông được con gái mê như cách của Hải Yến!
Sau lần đầu tiên gặp cô, Hòa cứ ngỡ như mình chiêm bao, người cứ lâng lâng hệt như mới sáng bảnh mắt đã nốc hết ba xị rượu Làng Vân cháy cổ. Hồn vía Hòa bị Yến rút mất tự bao giờ! Đẹp người lại đẹp nết, thông minh, Hải Yến hết lòng yêu thương cưng chiều Trung Thành. Bé Thành quấn quýt cô Yến chẳng khác nào mẹ con ruột. Cầm lòng sao đặng? Ông yêu Yến như chưa bao giờ biết yêu! Ông quyết định gắn bó đời mình với người con gái quan họ. Cưới vợ năm 1964, năm 1965 ông có con trai, đặt tên Kinh Bắc, quê vợ. Đúng lúc đó, ông nhận được tin Thanh Lịch, vợ ông không chết mà đã được trả tự do! Thằng Hai Trung, con trai đầu, ngay sau khi vợ ông bị bắt đã bỏ học, vào biệt động Sài Gòn.
Trong đơn vị có người trùng tên Nguyễn Kỳ Hòa, chỉ khác là quê Biên Hòa, vì thế anh em đặt cho ông Hòa biệt danh Hai Sài Gòn. Thời đó, với những đồng đội quê miền Bắc, danh từ anh Hai Sài Gòn, anh Hai Nam Bộ mang ý nghĩa đẹp: bản lĩnh, ngang tàng, hiệp khách, hào hoa phong nhã, chịu chơi! Hòa là típ người ấy, ông thứ ba, nhưng anh Hai của ông đã chết, ông thành con trai trưởng, thế nên anh em kêu ông là Hai Sài Gòn. Hòa rất thích biệt danh này. Vợ Hai Sài Gòn còn sống là tin mừng, nhưng oái oăm thay lại trở thành án kỷ luật của ông! Trung úy Hai Sài Gòn bị kỷ luật vì lấy vợ hai trong khi vợ trong Nam còn sống! Bởi vậy, cái lon trung úy bám trên vai ông suốt từ năm 1959 đến năm 1969, ông xung phong vô chiến trường mới được phong đại úy. Vừa hành quân tới Khe Sanh, ông bị viêm ruột dư cấp và bị bục. May mà gặp nữ bác sỹ giỏi đã cứu ông thoát chết. Tại nơi này, ông đã để lại một hòn máu của mình trong lòng bác sỹ Thanh Việt, nhưng chiến trường hồi ấy ác liệt vô cùng, ông quên mất! Chính điều này về sau khiến ông tự giằn vặt mình, cho mình là tên đốn mạt! Vào tới B2, sau một trận đánh, tiểu đoàn ông lập công, ông mới được thăng thiếu tá. Rồi cũng vì quá đa cảm, đa tình, hay quan tâm săn sóc, chiều chuộng mấy em giao liên, cứu thương… ông cứ bị kiểm điểm hoài, đánh giặc giỏi, chỉ huy tài nhưng mãi không được thăng cấp! Năm 1975, khi kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh, ông mới được đeo lon trung tá.
Đêm trước ngày ông Hòa dắt con trai đi tập kết, ông tìm cách về thành, yêu vợ suốt đêm! Có vài tiếng đồng hồ mà ông cuồng nhiệt yêu vợ tới ba lần. Lần nào ông cũng cùng với vợ đạt tới sự… tót vời! Trong cơn khoái ngất thứ ba, bà Lịch ghé hàm răng đều như hạt bắp cắn vào hai bên vai ông, để lại trên đó hai vầng trăng non. Hòa đê mê khi vợ cắn, chợt nhớ ngày mới cưới, ông hỏi vợ:
- Vì sao em yêu anh?
- Xạo vừa thôi nghe! Biết rồi còn hỏi cầu cơ!
- Thì nói nghe chơi!
- Thì bởi… tại cái tinh thần anh trong trẻo, và anh mạnh… như cọp!
Bà Lịch rời hàm răng đều như hạt bắp khỏi vai chồng thì chuông đồng hồ điểm bốn tiếng!
- Lẹ dễ sợ! Đã bốn giờ rồi sao? - Hòa thốt lên!
Họ bật dậy! Hai vợ chồng bịn rịn mãi, cho đến khi cụ Nguyễn dắt thằng Ba Thành từ trên lầu xuống, hối như lửa cháy:
- Lẹ lên con ơi! Bộ muốn tụi mật thám xét giấy sao?
Suốt đêm qua, bà Lịch xin chồng cho đi tiễn ở miệt Năm Căn, Hòa không cho. Bốn giờ mười phút, chiếc xe thổ mộ vẫn chở mối rau tươi cho chợ Cũ dừng trước nhà, hai cha con lên xe, ngồi lẩn trong đống cần xé.
Bà Lịch ruột nôn nao như sớm mai chưa bỏ bụng chút gì mà uống liền ba cữ cà phê đen đậm đặc. Bà dò hỏi biết được vị trí chồng sẽ xuống tàu, vội vã nhảy xe đò rồi tàu đò… tới nơi thì chiếc xuồng máy đã rời bến được gần trăm mét. Nó chở cha con ông Hòa cùng hơn chục người khác ra nơi tàu Ba Lan thả neo. Hai vợ chồng cùng gào lên kêu tên nhau, tiếng họ chìm lẫn vào sông nước. Ở rừng đước xanh thăm thẳm bờ bên kia chợt bay vụt lên hai con chim mòng nước cùng tiếng kêu thất thanh, có lẽ chúng bị rắn hổ hay cá sấu tấn công. Mỗi con bay về một hướng… Hòa giơ hai ngón tay lên, hẹn với vợ hai năm sau hiệp thương tổng tuyển cử, anh sẽ trở về. Chín tháng sau, bà Lịch sanh thằng Ngọc Bảo. Đêm đêm, bà ôm con, nhẩm tính từng ngày để đón chồng về. Nào ngờ… thằng Bảo mệnh yểu, mới được mười sáu tháng, trắng như hòn bột, nặng tới mười tám ký lô, tự nhiên lăn ra bệnh, sốt cao, mẩn đỏ khắp người. Nó sốt đúng bảy ngày thì mất! Lúc ấy chú Khoa, em ruột chồng, đang đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ, các bác sỹ ở nhà thương Sài Gòn không rõ Bảo mắc chứng bệnh gì. Mãi về sau này, đến những năm bảy mươi mới biết đó là bệnh sốt xuất huyết!
Sài Gòn với Hà Nội mà muôn trùng cách trở. Bà Lịch đau nỗi mất con, xót nỗi xa chồng, sắt son chờ chồng, chăm sóc cha chồng và nuôi dạy con trai. Tiệm tạp hóa Thanh Lịch là cơ sở của cách mạng. Thực thi Luật 10/59, anh em Ngô Đình Diệm đàn áp những người kháng chiến, đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Bà Lịch bị bắt vào nhà lao vì có chồng tập kết. Không chịu chào cờ ba que, không chịu ký đơn ly khai cộng sản, bà Lịch bị đưa đi giam giữ ở Trung tâm cải huấn Phú Lợi. Sau vụ hàng trăm tù nhân Phú Lợi bị trúng độc, Ngô Đình Diệm bị dư luận trong nước và quốc tế lên án. Nhằm xoa dịu dư luận, chính quyền Sài Gòn phải thả một số tù nhân. Bà Lịch được tự do. Ra tù, bà gián đoạn liên lạc với cách mạng. Suốt từ khi bị bắt đến năm 1964, không có ai đến tiệm tạp hóa Thanh Lịch đường Hàm Nghi bắt liên lạc! Âu cũng là quy luật chiến tranh. Cảnh giác không bao giờ thừa! Bà Lịch biết vậy nên kiên tâm chờ đợi…
Má bị bắt, Trung nghỉ học ở nhà cùng ông nội trông nom tiệm tạp hóa. Năm 1966, Trung mười tám tuổi, lén ông nội và má gia nhập biệt động thành Sài Gòn. Trung hoạt động được hơn nửa năm thì nội và má mới hay. Cuối năm ấy, bà Lịch được tin chồng đã lấy vợ hai từ năm 1964! Đau đến xé ruột, hơn đau đẻ, và tủi nữa! Cụ Nguyễn rất thương con dâu, hết lòng động viên, khuyên nhủ, phân tích lẽ phải, quấy. Nhờ vậy, bà trụ vững, nén chặt nhớ thương, kiên tâm chờ đợi chồng, thay chồng chăm sóc cha. Cách mạng, thông qua con trai Anh Trung, lại tìm đến bà, tin tưởng bà, lại dùng tiệm tạp hóa Thanh Lịch làm căn cứ. Trung chuẩn bị cưới Thiên Trang, cô bạn gái dễ thương từ khi học trung học, nay đang hoạt động trong phong trào sinh viên. Nhưng duyên cầm sắt chưa thành thì… Tết Mậu Thân 1968, Trung hy sinh trong trận tấn công dinh Độc Lập. Mới bốn chục tuổi, tóc bà Lịch trắng phớ!
Nguyễn Trung Thành sống ở Hà Nội với ba, mẹ Hải Yến và hai em Bắc, Nam. Em gái út Phương Nam chào đời ngày mười lăm tháng Tám năm 1969, khi cha của Thành đang chiến đấu trong Nam. Thành là một đứa con ngoan, học giỏi, hiếu đễ. Năm 1973, Thành tốt nghiệp Đại học Tổng hợp, khoa Hóa, anh được phân công tác tại Ủy ban Khoa học Tự nhiên. Nhưng, nghe những bài ca ra trận hào hùng trên loa phóng thanh, những bài thơ từ tiền tuyến gửi về, tình yêu Tổ quốc và ngọn lửa lý tưởng sùng sục trong lòng, Thành viết đơn tình nguyện vào Nam chiến đấu. Bà Hải Yến khuyên nhủ con, van vỉ con trai mãi, nó không nghe, nó quyết ra trận sống mái với quân thù! Thành nói với mẹ:
- Mẹ ơi, hãy yên lòng cho con đi! Anh Hai con hy sinh trong Tết Mậu Thân. Em Kinh Bắc chết vì bom B52 của giặc Mỹ, bảy ngày sau mẹ con mình mới tìm thấy xác em trong đống đổ nát! Mối thù này lớn quá trời! Ông nội con, má con, cha con đang ở miền Nam, Tổ quốc gọi, con phải lên đường! Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước!
Thời ấy, thanh niên sống với lý tưởng chói sáng trong đầu! Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đại úy Nguyễn Trung Thành hy sinh ở bờ bắc cầu Rạch Chiếc, chỉ cách ngôi nhà nơi ông nội và má anh đang sống chưa đầy ba kilômét đường chim bay!
Thành cưới Hoàng Trúc mùa Xuân năm 1974. Trúc là con gái độc nhất của đại tá Bình, thủ trưởng của ông Hòa. Khi Thành ngã xuống ở bờ bắc cầu Rạch Chiếc, chính là thời khắc vợ anh sinh con trai, lúc 10 giờ ngày 30-4-1975, ở bệnh viện Nhi Hà Nội. Chồng, bố đẻ và bố chồng đều vào chiến dịch Tổng tấn công mùa Xuân 1975, Hoàng Trúc tự đặt tên con là Nguyễn Quốc Thăng.
Hai anh em Trung, Thành xả thân vì nghĩa lớn, may mắn sao Thành đã kịp để lại cho cha mẹ đứa con trai nối dõi tông đường! Thằng Thăng là cháu đích tôn của ông Hòa. Thăng thông minh nhưng lười học, ham chơi. Ông Hòa, bà Lịch vô cùng thương cháu mồ côi cha, má đi bước nữa, gặp cha dượng chẳng ra hồn người: say xỉn tối ngày, thường xuyên đánh đập vợ con tàn nhẫn. Hoàng Trúc thuộc loại mỏng mày hay hạt, nhưng phải cái chứng khó mà sống thiếu đàn ông. Chồng hy sinh chưa được đầy một năm mà Trúc đã héo hắt, má hóp, môi trắng nhợt, duy có bóng mu u yếm là vẫn mây mẩy, bộ ngực chỉ chực bật ra khỏi xu chiêng và tia nhìn thì lúc nào cũng lóe lên niềm đói khát dục tình. Làm giỗ đầu cho liệt sỹ Nguyễn Trung Thành xong, Trúc đi bước nữa. Chồng Trúc tên Trà, người Quảng Bình. Hồi chiến tranh phá hoại, Mỹ ném bom, bắn pháo hủy diệt Quảng Bình. Bởi thế, con em tuyến lửa được ưu tiên vô đại học, ưu tiên ra nước ngoài học. Thế nên tuy rằng chả thông minh tí nào mà Trà cũng giật được mảnh bằng tiến sỹ ở Lômônôxốp. Về nước, đất nước hòa bình, thống nhất, vậy mà chả nơi nào thèm nhận tiến sỹ Trà vào làm việc. Của đáng tội, cũng có nơi nhận, nhưng chỗ đó ôi, Trà không thèm! Đúng lúc vất va vất vưởng thì Trà gặp Trúc đang nhìn mình như muốn ăn tươi nuốt sống, muốn cùng Trà lên giường ngay tức khắc. Trà biết Trúc đã một lần đò, có con trai hai tuổi. Gái một con… lại khát dục, Trúc chiếm được Trà bằng tình hay bởi cái lon thiếu tướng của bố Trúc khiến Trà hy vọng? Muôn đời nay là thế, người ta lấy nhau một là vì tình (hơi hiếm!), hai là vì tiền hoặc những thứ như quyền lực, danh vị… để có thể từ đó mà kiếm ra tiền. Thế là lấy nhau, từ lúc giáp mặt lần đầu tới lúc rước Trà về nhà mình, lên giường mình, vẻn vẹn năm ngày! Hà Nội ngày ấy còn xo xúi trăm bề, cuộc sống nhếch nhác lắm! Họ làm đám cưới với sáu gói chè Hương Sơn quá đát, một cây thuốc Trường Sơn hơi bị mốc và hai cân bánh quy ỉu xìu, cho qua chuyện, rồi rinh nhau vô Sài Gòn. Đó là mùa khô năm 1977. Biết tin ấy, bà Lịch thương cháu Thăng muốn nát gan đứt ruột, bỏ cơm ba ngày, không ngủ ba đêm, rồi đùng đùng tới nhà con dâu cũ bứng cháu nội về. Một sự tính toán thoáng nhanh trong đầu viên tiến sĩ thất nghiệp. Trà hiểu rằng, còn thằng Thăng thì gia đình bà Lịch còn phải gửi tiền cung phụng cho nó! Thế là Trà ra điều thương thằng Thăng, trả lời bà Lịch, giọng chắc như cái bàn ủi Nga mà Trà thường buôn về:
- Con của vợ thì cũng là con của cháu! Cháu sẽ nuôi thằng Thăng nên người, vì cháu rất thương Hoàng Trúc! Bác không phải lo!
Trúc nghe Trà nói, lòng rưng rưng muốn khóc! Cô giữ chặt con, không cho bà Lịch ẵm, nhưng rồi tỏ ra thông cảm với cựu má chồng:
- Má yên chí đi, con còn thì thằng Thăng không khổ đâu, má lo chi cho bạc tóc!
- Tóc má còn sợi nào đen mà bạc! Con ơi, nghe má, để má nuôi thằng Thăng! Tụi bay còn trẻ, còn phải bay nhảy mần công chuyện, chớ con mọn thì bó chân bó cẳng mần ăn sao đặng!
Hai người đàn bà nói qua nói lại cả buổi chiều, không ai chìu ai. Cuối cùng, Trúc nhượng bộ cho con về ở với ông bà nội một tháng rồi đón về.
Mãn hạn một tháng, bà Lịch phải đem trả con cho Trúc. Vừa gặp cựu con dâu, bà Lịch ngỡ ngàng muốn la rầm trời khi thấy nó như vừa được lột xác, đỏ da thắm thịt như có phép tiên! Thật đúng là gái phải hơi trai như thài lài gặp c…t chó! Các cụ nói linh thiệt!
Thế mà cái sự tốt xổi của đám thài lài ấy không dài!
Một tháng sau khi vợ chồng Trúc vô Sài Gòn, nhờ bố của Trúc, nhờ ông Hòa tác động, họ làm được hai chuyện tày đình mà dễ cứ như bỡn: nhập hộ khẩu và được cấp nhà! Duy có việc làm, nghề ngỗng thì trầy trật. Trúc được làm nhân viên bưu điện, còn chồng vẫn thất nghiệp! Ăn hoài mà hổng làm thì núi cũng lở! Trúc đã bao lần phải chạy đến xin bố mẹ đẻ, nhưng lương bổng ông thiếu tướng có là bao mà bòn mãi kia chứ. Chàng tiến sỹ phần thì do ăn chơi quen rồi, phần thì thất nghiệp hoài cũng ngượng với vợ, thế là lấy rượu làm cơm để quên sầu. Vừa uống Trà vừa ca ư ử trong cổ như con chó đực vừa bị thiến, cầm trong cũi:
Chơi cho biết mặt sơn hà
Cho sơn hà biết ai là mặt chơi*
Thơ Tản Đà.
Ngày nào Trà cũng khát rượu, Trúc đi làm về là Trà đòi tiền mua rượu. Để yên cửa yên nhà, Trúc phải chiều Trà. Rồi thì cãi nhau, rồi thì choảng nhau. Sau những cuộc oánh lộn, Trà lại dỗ dành. Trà biết cái gót chân Asin của Trúc là luôn luôn khát khao được rên, được run rẩy, được hổn hển rướn cong mình bật lên tanh tách dưới thân thể hộ pháp của Trà… Trúc lại chiều chồng. Cô cầu cứu ông bố thiếu tướng:
- Bố ơi! Bố tìm việc cho chồng con. Chỉ có việc làm thì mới cứu được anh ấy, mới cứu được hạnh phúc gia đình con!
Ông thiếu tướng ra tay, nhưng nơi nào người ta cũng chỉ hứa hẹn cho qua chuyện, để rồi sau đó thì lắc đầu thật sự. Đường cùng, Trúc phải gặp ông cựu bố chồng:
- Con xin ba giúp con! Anh Trà có việc làm thì thằng Thăng mới đỡ khổ!
Thương cháu, ông Hòa quyết tìm việc cho chồng của cựu con dâu. Hòa cho đệ tử đi gõ cửa cả chục nơi, nơi nào cũng nói: Vì nể đồng chí Hai Sài Gòn nên chúng tôi mới nhận chứ cơ quan không có nhu cầu, nhưng liệu anh Trà có đồng ý làm nhân viên lao công hoặc nhân viên bảo vệ?
- Đời nào! Quềnh quàng một ông tiến sỹ chứ có phải c…t đâu mà nó bảo tao làm bảo vệ? - Tiến sỹ nhậu quát ầm lên như thế với vợ.
Tiến sỹ nhậu đã ực đã khà hết cả tivi, xe Honda, tủ lạnh… Không biết sơn hà đã biết Trà là mặt chơi hay chưa, nhưng mà ai cũng biết Trà oánh con thâm tím mặt mày. Không biết bao nhiêu lần Trà oánh vợ như đòn thù, có lần suýt gãy tay. Kẻ đang say lại bị vợ tiếng bấc tiếng chì thì tức điên lên, họa có là ông Trời cũng không nhịn nổi! Khi điên rồi, Trà oánh dữ dội, bất kể con hay vợ! Đám rau thài lài khi xưa tốt lợp chả được mấy nả, nay lại héo hắt xơ xác. Sự héo và xơ này có phần thê thảm hơn trước rất nhiều!
Trúc thương nhất thằng Thăng. Thân mình kể như… bỏ! Nhưng thằng Thăng nó có tội tình gì hả Trời! Mấy lần Trúc tính đưa con về gửi bà Lịch, nhưng bị Trà cấm đoán, đe dọa… Trúc đi vắng là cha dượng để thằng Thăng đói triền miên.
Sự việc tồi tệ ấy kéo dài hai năm. Tiến sỹ nhậu bị sưng gan, mỗi ngày phải hút ra gần ba xị nước đùng đục, vàng khè khè! Ông bà nội của Thăng tìm mọi cách đón cháu về. Từ đó, họ muốn bù chì cho thằng bé đến mức họ quá nuông chiều cháu mà không biết. Cụ Nguyễn nhiều lần nhắc nhở các con phải biết cách chiều chuộng, nếu không thì hư thằng chắt đích tôn của cụ. Nhưng nào có ai nghe! Không có sai lầm nào tai hại hơn sự nuông chiều con cháu vô mực vô thước. Thằng bé ham chơi, mới học lớp tám đã uống được rượu, uống bia đua với ông nội! Những lúc vắng ông bà nội, nó phì phèo thuốc lá! Mười sáu tuổi, Thăng bị bắt vì tội đua xe cán chết người. Ông Hòa, bà Lịch phải chạy chọt cho cháu… Nhưng, chứng nào tật ấy. Thăng trở thành nỗi đau, như là nghiệp chướng của gia đình cụ Nguyễn.
Hai
Cụ Nguyễn
Cụ Nguyễn Quang Minh là một trong số hiếm hoi những người sống qua ba thế kỷ! Cụ có ba con trai. Con trai đầu, Nguyễn Kỳ Dũng hy sinh tháng 11-1940, trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ khi vừa mười chín tuổi. Ba Hòa ra đời năm 1925. Năm năm sau, người con trai út Nguyễn Kỳ Khoa chào đời, bà mẹ chết ngay sau khi sanh. Cụ Nguyễn gà trống nuôi con từ đó. Trời cho cụ có sức khỏe hơn người. Cụ nuôi dạy các con theo tinh thần của đạo Khổng, đồng thời kế thừa bản tánh bất khuất, trung hậu, hào sảng của những người Việt đi mở cõi ở phía Nam đất nước. Cụ Nguyễn rất tự hào về cha mình: cụ Nguyễn Công. Năm nào cụ cũng làm giỗ cha rất trọng. Năm 1947, Ba Hòa mang từ chiến khu D về bài thơ Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ. Bài thơ nói đúng tâm trạng cụ. Từ năm đó, sau lễ cúng, cụ Nguyễn mở chiếc hộp sơn mài cẩn trai, trịnh trọng lấy ra tấm lụa điều có tám chữ vàng do Tổng trấn Nguyễn Tri Phương ban tặng: Nguyễn Công dũng mãnh xả thân vì nước. Bên trái có ấn tín của Tổng trấn Bắc thành. Vừa nâng niu vuốt ve tấm lụa điều, cụ Nguyễn vừa ngâm nga bài Nhớ Bắc cho con cháu nghe, lần nào cụ cũng khóc vì bài thơ ấy!
Ai đi về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long
Ta nhớ người xưa Chúa Nguyễn Hoàng
Mà nay con cháu mấy đời hoang…
Lần nào ngâm đến đó, cụ Nguyễn cũng khóc! Cụ thống thiết thốt lên: Cha ơi!
Cha cụ là Nguyễn Công, hậu duệ của ông tổ họ Nguyễn thuộc một chi khác gần làng của chúa Nguyễn Hoàng.
Mười sáu tuổi, Nguyễn Công đã tinh thông võ nghệ, là chiến binh ưu tú trong đoàn tùy tùng của Nguyễn Tri Phương, anh dũng chiến đấu bảo vệ Đại đồn Kỳ Hòa. Đại đồn Kỳ Hòa thất thủ, rất nhiều binh sỹ bỏ hàng ngũ quân triều đình để hướng theo ngọn cờ nghĩa Trương Định. Sáng ngày 20-8-1864, thủ lĩnh Trương Định hy sinh. Phong trào kháng Pháp của nhân dân và sỹ phu Nam Kỳ lần lượt bị thực dân Pháp - với sự tiếp tay của triều đình nhà Nguyễn - vô hiệu hóa: Tháng 10-1866, Võ Duy Dương (Thiên Hộ Dương) bị sát hại. Ngày 27-10-1868 Nguyễn Trung Trực bị giặc Pháp chém rơi đầu tại Rạch Giá, để lại cho đời sau ý chí bất khuất: Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì nước Nam mới hết người đánh Tây! Triều đình nhà Nguyễn ký hòa ước nhượng ba tỉnh miền Đông rồi ba tỉnh miền Tây cho giặc Pháp. Nguyễn Công tháp tùng Nguyễn Tri Phương ra Bắc giữ thành Hà Nội. Trong trận đánh mờ sáng ngày 20-11-1873, Nguyễn Công chiến đấu vô cùng dũng cảm. Khi chủ tướng bị trọng thương, Công cùng toán tùy tùng liều chết bảo vệ. Nhưng do hơn hẳn về vũ khí, quân Pháp đã bắt sống Phương. Nguyễn Tri Phương nhịn ăn mà chết chứ quyết không hàng giặc. Đến khi con trai Nguyễn Tri Phương là Nguyễn Tri Lâm tử trận, Công cùng hàng trăm binh sỹ rút lên Sơn Tây hợp quân với Hoàng Tá Viêm. Ngày 21-12-1873, quân Hoàng Tá Viêm phối hợp với đội quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc tấn công Hà Nội từ phía Cầu Giấy. F. Garnier bị quân ta chém chết. Quân Pháp hoảng sợ toan rút lui khỏi Hà Nội. Thế mà triều đình không thừa thắng xông lên, lại ra lệnh lui quân để thương thuyết! Kết quả là ngày 15-3-1874, cái gọi là Hiệp ước hòa bình và liên minh, tức Hiệp ước Giáp Tuất 1874 được ký kết tại Sài Gòn. Hiệp ước này thay thế Hiệp ước Nhâm Tuất 1862, thừa nhận chính quyền Pháp cai trị Nam Kỳ và triều Nguyễn phải giao nộp cho Pháp những người nổi loạn ở Nam Kỳ trốn ra Bắc tiếp tục chống Pháp. Cụ Nguyễn Công và đồng đội của mình đau xót trước họa mất nước, muốn ở lại Bắc Kỳ tiếp tục kháng chiến, nhưng bị áp giải về Sài Gòn. Nguyễn Công bị giam giữ năm năm. Trong tù, cụ và các chiến hữu của mình đau xót khi hay tin ngày 19-5-1875 đến lượt Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân bị giặc xử tử tại chợ Bến Tranh, Mỹ Tho! Năm 1879, Công được cho về quản thúc tại quê nhà, vùng vườn trầu Bà Điểm. Quá thất vọng, ông nuốt căm hờn, mở lò luyện võ cho trai tráng trong vùng, chờ thời… Triều đình đầu hàng giặc, sứ mạng kháng chiến chống thực dân Pháp đã thuộc về nhân dân, và trung tâm kháng chiến đã từ Nam Kỳ chuyển ra các tỉnh phía Bắc. Nhiều lần Công tìm đường ra Bắc tham gia nghĩa quân chống Pháp, nhưng không thoát khỏi sự theo dõi, kềm kẹp của mật thám Pháp. Mãi đến năm 1894, khi đã năm mươi tuổi, Công mới lấy vợ. Năm 1895, Nguyễn Quang Minh, con trai độc nhất của cụ Nguyễn Công cất tiếng khóc chào đời giữa vùng cau, trầu xanh ngắt…
Năm 1905, hay tin Đề Thám đang chống Pháp rất quyết liệt ở vùng Yên Thế, Nguyễn Công cùng với số học trò tin cậy nhất của mình tìm đường ra Bắc theo Đề Thám. Không may, chưa ra khỏi địa phận Biên Hòa, họ bị mật thám Pháp và quân triều đình rượt đuổi. Công ở lại quyết chiến để các học trò của mình thoát thân. Nguyễn Công tử trận. Năm đó, Nguyễn Quang Minh, con trai độc nhất của cụ vừa tròn mười tuổi. Vợ Nguyễn Công bị giặc bắt và bị hành hạ dã man, khi được tha, mang trọng bệnh. Năm năm sau, cụ bà qua đời. Trước khi nhắm mắt, cụ gọi Quang Minh lại, trao cho con tấm lụa điều trên đó có những chữ Hán viết rất đẹp. Đó là di vật vô giá cụ Nguyễn Công để lại – tựa như tấm huân chương bây giờ - mà Tổng trấn thành Hà Nội Nguyễn Tri Phương ban khen cho Nguyễn Công đã dũng mãnh xả thân vì nước! Cụ Nguyễn Công được ban khen chỉ hai ngày trước khi chủ tướng rơi vào tay giặc.
Mười lăm tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ, Quang Minh sống với ông bà ngoại, được học chữ Hán, chữ quốc ngữ và học võ. Quả là hổ phụ sanh hổ tử, Nguyễn Quang Minh rất thông minh. Năm 1867, Pháp thôn tính trọn Nam Kỳ lục tỉnh. Ngày 22-2-1869, đề đốc G. Ohier ra nghị định dùng chữ quốc ngữ trong các giấy tờ chính thức. Người Pháp tiến hành phổ cập chữ quốc ngữ (tiếng Việt ghi âm bằng mẫu tự Latin) trong hệ thống trường học.

Mười tám tuổi, Quang Minh trở thành thầy dạy chữ quốc ngữ và dạy võ nổi tiếng khắp vùng. Năm hai mươi lăm tuổi, thầy Nguyễn lấy vợ. Ông thầy dạy võ đồng thời là một y sỹ, rất tin yêu Quang Minh, đã gả con gái út hiền thục, nết na của mình cho cậu học trò xuất sắc nhất. Năm 1920, vợ chồng thầy Nguyễn rời vùng vườn trầu Bà Điểm vô nội ô Sài Gòn mua nhà trên đại lộ De la Somme, gần chợ Cũ. Đây là một trong những đại lộ được thành hình sớm nhất và rộng nhất từ khi người Pháp chiếm đóng Sài Gòn. Khởi thủy, nó chỉ là con rạch, nước lớn nước ròng theo dòng Bến Nghé, rất nhiều tôm cá. Đêm đêm, vào mùa uyên ương gặp nhau, người ta bảo cá sấu vẫn tụ hội về đây nô rỡn tình tang. Cả khúc rạch này vang lên những tiếng sấu khát dục và thỏa mãn! Hai bờ rạch có rất nhiều cây bông gòn, dừa nước… Năm 1870, rạch được san lấp thành đường lớn, mang tên Canton. Năm 1897, lại tách thành hai đường, ở giữa có tiểu đảo. Nhánh Bắc đặt tên là đường Krantz; nhánh Nam tên là Duparré. Tháng Tư năm 1920 hai đường trên sáp nhập thành đại lộ De la Somme. Năm 1955, chính quyền Sài Gòn đổi là đại lộ Hàm Nghi. Hàm Nghi là ông vua chống Pháp, tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, sinh năm Nhâm Thân 1872, bị Pháp đày đi Algerie và chết tại đó năm Quý Mùi 1943… Không biết bao nhiêu lần kể từ khi dạy bài học khai tâm cho đứa con đầu lòng Nguyễn Kỳ Dũng, cũng như khi vợ chết, gà trống nuôi con, cụ Quang Minh đã kể cho ba đứa con trai mình nghe về lịch sử của gia đình, dòng họ, lịch sử của con đường mang tên Hàm Nghi mà gia đình đang cư ngụ. Đến khi có thằng Trung, thằng Thành, rồi cháu gái Phương Nam, sau đó là thằng chắt Thăng, cụ Nguyễn đều thường xuyên làm cái việc mà cụ rất mê say là dắt con, cháu, chắt đi dạo trên đường Hàm Nghi, ra bến Bạch Đằng ngắm sông Sài Gòn, kể về lai lịch con đường, lịch sử thành phố, gia đình và dòng họ. Thông qua câu chuyện rủ rỉ rù rì khi thì kể tại nhà, khi tha thẩn trên đường phố, khi thì ở bến sông Sài Gòn, khi thì dưới chân cột cờ Thủ Ngữ… cụ Quang Minh muốn giáo dục lòng yêu nước thương nòi cho ba thằng con trai khôi ngô tuấn tú. Mục đích ấy, cụ đã đạt được. Đến lượt thằng chắt Quốc Thăng, cụ và con trai Kỳ Hòa lại thất bại! Nỗi đau này không giống ai! Cụ sống đến ba thế kỷ để làm gì? Chẳng lẽ lại chỉ để chứng kiến thế hệ thứ năm tính từ cha mình là Nguyễn Công, thoái hóa, trở thành tặc tử?
Thơ Tản Đà.
Căn nhà Nguyễn Quang Minh mua để ở và dạy học vốn là nhà chú Hỏa. Chú Hỏa là người Hoa. Những người Hoa bỏ Trung Quốc ra đi khi nhà Mãn Thanh tiêu diệt nhà Minh, được chúa Nguyễn cho định cư ở Nam Bộ từ thế kỷ 17. Chú Hỏa - tên ký âm theo tiếng Pháp là Hui Bon Hoa, nhập quốc tịch Pháp - là một trong số những người gốc Hoa (còn gọi là Minh Hương) giàu có nhất Sài Gòn thời kỳ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Công ty của Hui Bon Hoa có đóng góp rất quan trọng trong việc xây dựng thành phố Sài Gòn. Ở đường Phó Đức Chính ngày nay có Viện Bảo tàng Mỹ thuật, vốn là dinh thự chính của chú Hỏa, được thiết kế rất đẹp và độc đáo. Tương truyền, khi thiết kế, dinh thự này có tất cả một trăm cửa lớn, cửa nhỏ và cửa sổ. Thế nhưng Toàn quyền Đông Dương, khi duyệt thiết kế đã bắt chủ nhân bỏ đi một cửa. Nay dinh thự chỉ có chín mươi chín cửa. Tại Sài Gòn - Chợ Lớn hiện còn nhiều dãy nhà chú Hỏa xây dựng để cho thuê.
Căn nhà thầy Nguyễn mua có một trệt một lầu, không phải lầu đúc bê tông như bây giờ mà là gác cây (gác gỗ). Nhà rộng năm mét, sâu ba chục mét, ban ngày cũng tối om như hũ nút, mái lợp ngói uyên ương*. Trong căn nhà này, vợ chồng cụ Nguyễn đã sống những ngày hạnh phúc.
Ngói uyên ương, tức ngói âm dương, hai viên ôm nhau tạo thành hình ống, còn gọi là ngói ống.
Năm 1921, họ có con trai đầu Nguyễn Kỳ Dũng. Năm 1925, sanh Kỳ Hòa. Đến năm 1930, bà giáo Nguyễn ở cữ, sanh đứa con thứ ba thì qua đời vì ca sanh khó, phải bỏ mẹ cứu con. Mất vợ năm ba mươi lăm tuổi, thầy giáo Nguyễn Quang Minh nuốt nước mắt vào trong lòng, kiên tâm nuôi dạy các con. Đứa trẻ sanh thiếu tháng khó nuôi, bệnh hoài. Cha vợ là một y sỹ làm việc trong nhà thương Sài Gòn. Ông bảo con rể để mình đón thằng cháu út Nguyễn Kỳ Khoa về nuôi dưỡng. Tiếng là ở với ông bà ngoại chứ hai nhà cách nhau một con phố nên ngày nào cha con anh em cũng gặp nhau.
Năm 1945, phong trào cách mạng ở Sài Gòn vô cùng sôi sục. Đang học Petrus Ký, Hòa gia nhập tổ chức Thanh niên Tiền phong của bác sỹ Phạm Ngọc Thạch. Cụ Nguyễn rất vui khi thấy con mình có chí, biết nối gót ông cha. Toàn quốc kháng chiến, Hòa vô bộ đội. Năm 1947, Ba Hòa xin phép cha cho mình cưới vợ, “để có người chăm sóc cha, cho con yên bề chiến đấu”! Bà Trần Thanh Lịch, con gái độc nhất của một nhà giáo say mê làm báo, viết văn nên rời Hà Nội vô Sài Gòn lập nghiệp. Thanh Lịch và Ba Hòa phải lòng nhau, rồi thành gia thất. Cha mẹ của Thanh Lịch tham gia kháng chiến những ngày máu lửa cuối năm 1945, đã hy sinh! Lịch là dâu hiền mà Trời Phật ban cho cụ Nguyễn. Ấy là miệng cụ thốt ra như thế! Cụ Nguyễn sửa sang tầng trệt căn nhà của mình, ngày trước là nơi dạy học, thành tiệm bán tạp hóa cho con dâu trông coi. Trong căn nhà này, ba đứa con trai của Hòa Lịch lần lượt chào đời.
Về đường con cái, tiếng là hai bà, lại đào hoa, bay bướm, chứ ông Hòa giờ chỉ có cô con gái rượu Nguyễn Phương Nam. Phương Nam thông minh, xinh đẹp nhưng lại quá cứng cỏi, chỉ chú tâm lo học hành, sự nghiệp chưa thấy đâu, chả màng chuyện chồng con! Bậc làm cha mẹ, hỏi ai không buồn?
Giữa tháng Tám năm Kỷ Dậu 1969, trời rất lạnh, từ khu tập thể Bờ sông, Hải Yến nhờ người gọi xích lô đến bệnh viện Nhi Hà Nội. Chồng đang ở chiến trường, thằng Thành đang học đại học ở nơi trường sơ tán, chỉ có bà với thằng Bắc mới lên bốn ở nhà. Hầu hết phụ nữ miền Bắc thời bấy giờ đều coi chuyện một mình vượt cạn là bình thường! Ơn Trời Phật, Hải Yến sinh nở dễ dàng. Hồi đẻ Kinh Bắc, Yến lên bàn sanh, chỉ mười phút là nó oa oa, tiếng như lệnh vỡ. Đến lần này, do đói dinh dưỡng, Hải Yến không đủ sức để rặn! Thật tội cho những người vợ có chồng đi chinh chiến xa nhà. Cơm ăn còn không đủ no huống chi là chất dinh dưỡng! Thai nhi bự, lại ra ngược, đây là ca sinh khó. Bà đỡ hô: một, hai, ba! Thế là Yến dốc toàn lực để rặn, cùng lúc, bác sỹ dùng tay cầm chặt mông thai nhi lôi ra. Lúc con bé ra rồi, nó không khóc. Bác sỹ thấy mông nó bầm tím, dùng tay phát thêm cho ba cái, nó mới khóc! Lỳ đến vậy là cùng. Thằng Bắc đứng ngoài nhìn vào, tru tréo lên:
- Tại sao bác sỹ dám đánh em bé của tôi? Em tôi còn bé tí, đỏ hỏn thế mà bác sỹ đánh nó à? Tôi sẽ gọi ba tôi về hỏi tội bác sỹ!
Hải Yến òa khóc khi nghe con trai lu loa bênh em. Bà đâu có ngờ rằng thằng con trai thông minh, tuấn tú của bà ba năm sau, đêm mười tám rạng ngày mười chín tháng mười hai năm bảy mươi hai, bị bom Mỹ vùi chết, bảy ngày mới tìm thấy xác!
Năm 1976, đất nước thống nhất, Ba Hòa thuyết phục bà Yến chuyển vào sống ở Sài Gòn. Ông muốn quy về một mối, đoàn tụ gia đình, để các con có điều kiện ăn học thành tài. Thuyết phục bà Yến đã khó, nhưng thuyết phục bà Lịch còn khó hơn nhiều! Bà Lịch còn mang trong lòng nỗi hận, nỗi tủi hờn về người chồng phản bội mình… Gần tháng trời, bà Lịch suy nghĩ, trăn trở… chưa đêm nào bà ngon giấc. Thế rồi cụ Quang Minh khuyên nhủ, thuyết phục, bà Lịch bằng lòng! Dùng dắng mãi, đến sinh nhật của bé Phương Nam, bà Yến dẫn con gái vào chơi với bà Lịch được hơn một tháng. Vui thì có vui, nhưng cả hai bà đều cảm nhận được khoảng cách vô hình, sự gượng gạo lấp ló trong từng cử chỉ, ánh mắt… Quy luật của muôn đời về sự chồng chung là rứa! Ông Hòa lấy xe của cơ quan đưa hai bà du lịch Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu…, rồi bà Yến trở lại Hà Nội. Cả nhà, đặc biệt là cụ Quang Minh, cố giữ bà Yến ở lại Sài Gòn. Bà không chịu. Bà nói:
- Thưa cha! Con rất vui khi được sống cùng cha, cùng chồng, cùng chị Lịch, và các cháu. Nhưng… con quen ở Hà Nội rồi. Trong này cuộc sống cứ sôi động ùng ục cả ngày lẫn đêm, con chịu không nổi! Vả lại, về lâu về dài, Hà Nội là Thủ đô, đại gia đình ta cần có cơ sở ở ngoài đó!
Bà Yến quả có nghĩ như thế. Nhưng trong thâm tâm, còn một điều nữa bà không nói ra. Bà rất tôn trọng bà Lịch nên không muốn để bà Lịch phải buồn, phải khổ vì… ghen. Bởi vì ghen tuông là thói người ta thường tình mà! Mình đến sau, nhỏ tuổi hơn, trẻ hơn chị ấy, chồng chung bất tiện lắm! Đói lòng ăn nửa trái sung. Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng. Chi bằng cứ độc lập tự do là hơn! Bà Lịch là người vợ tuyệt vời! Bà Yến trân trọng. Vốn là người biết tôn trọng người khác, và rất tự trọng, bà Yến quyết tâm ra Hà Nội. Cụ Nguyễn, ông Hòa, bà Lịch đều không lay chuyển nổi quyết tâm ấy. Nhưng để tỏ tấm lòng mình, bà Yến đồng ý cho con gái Phương Nam ở với ông nội, với ba và má Thanh Lịch tại Sài Gòn.
Những ngày đó, thằng cháu nội còn đang bị cha dượng cầm giữ! Ruột như lửa đốt, bà Lịch đêm ngày nghĩ ngợi phương cách bứng thằng nhỏ về. Lo lắng khiến bà sọm người, héo quắt héo queo như bó cải lấy từ tủ lạnh ra chưa kịp nấu. Rồi Phương Nam vô. Bà Lịch khuây khỏa nhiều, vui hẳn lên vì có đứa con gái giống chồng quá xá, và rất dễ thương! Vợ chồng già, rất sợ cô đơn. Nỗi cô đơn ám ảnh từng ngày từng giờ! Hai con trai lớn đều bỏ mình vì nước, nay Trời ban cho bà con gái út Phương Nam! Bà cảm thấy hơi ân hận vì đã từng căm giận chồng phản bội… Rất yêu thương chồng nên tất nhiên, con riêng của chồng bà coi như con đẻ! Tục ngữ có câu Phúc đức tại mẫu, bà Lịch dành hết tình thương yêu cho Phương Nam, cho cháu nội của bà. Bà rất đau lòng vì hòa bình đã hơn hai chục năm mà chưa tìm được hài cốt của thằng Hai. Ngày ra Hà Nội dự Lễ phong tặng Mẹ Việt Nam Anh hùng, bà có về Gia Lộc Hải Dương cậy thầy Trí tìm hài cốt Nguyễn Anh Trung. Ông thầy Trí rất giỏi tìm mộ liệt sỹ, nhưng xác suất tìm thấy cũng chỉ bảy, tám chục phần trăm. Bao nhiêu cố gắng của vợ chồng ông Hòa bà Lịch đều vô vọng. Sau khi đánh bật quân giải phóng ra khỏi khuôn viên dinh Độc Lập, xe tăng, xe ủi của Mỹ đã chà nát xác các chiến sỹ giải phóng; sau đó dùng máy ủi xúc lên xe GM 113 đem vùi ở đâu không rõ! Con trai trưởng mất sớm khi chưa kịp cưới người yêu tên Thiên Trang, một cô gái mà bà Lịch rất ưng ý. Ông Hòa, bà Lịch chỉ còn biết kỳ vọng vào thằng Thăng, nào ngờ, nó hư hỏng. Cụ Nguyễn nói: Nó là nghịch tử! Nó nổi loạn! Đúng là cha mẹ sanh con trời sanh tánh !
Thằng Thăng biết cả nhà đang coi nó là đồ bỏ, ngoại trừ cô Phương Nam. Nó từng coi Nam như người mẹ, đồng thời, như người chị, người bạn!
Phương Nam nói với Đạt:
- Hồi còn ở Hà Nội, ba mẹ thương em thế nào thì anh Thành thương em như thế. Khi anh Ba tình nguyện nhập ngũ, em mới bốn tuổi. Mỗi khi về nhà là ảnh ẵm bồng em, cho em đi chơi. Biết bao lần em tè dầm ướt hết áo ảnh!
Đây là lần đầu tiên Phương Nam kể chuyện gia đình một cách tường tận cho Đạt nghe. Đến đoạn nói về Thành, cô bật khóc. Đạt dùng khăn mui xoa thấm nước mắt cho cô. Rồi anh nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay Phương Nam. Cô gái để yên đôi bàn tay mềm mại của mình trong đôi bàn tay ấm áp của người yêu, cảm nhận được một cái gì đó như là dòng điện mãnh liệt từ anh truyền sang. Ôi! Có phải đây là khoảnh khắc thiêng liêng? Có phải đây là sự khởi đầu của một cuộc đời mới? Bất giác Phương Nam nhớ tới câu văn đẹp đã trở thành danh ngôn ở Anh: Tay trong tay là nụ hôn thần thánh! Phương Nam nhớ ánh mắt Đạt tha thiết hướng về cô khi cô giảng về câu văn này cho cả lớp nghe trong bài những danh ngôn tình yêu. Cô thấy lâng lâng như sắp bay lên, bay lên… Đạt nâng hai bàn tay cô, hôn đằm thắm, như là thưởng thức, vừa hôn vừa nhìn vào đáy mắt cô. Cô rùng mình, khép mắt lại… Anh hôn lên cánh tay cô, rồi dừng lại lâu ở bờ vai, ở cái cổ trắng hồng… Rồi, cô như rơi vào trạng thái không trọng lượng, anh ôm cô trong vòng tay mình…
Đó là một ngày cuối mùa mưa năm 1994. Sài Gòn mưa tầm tã, mưa như chưa bao giờ mưa như thế. Họ đang ở bên nhau trong căn phòng nhỏ trên lầu hai, đường Cao Thắng, quận Ba. Đạt bốn mươi hai tuổi, vừa ly dị xong, kết thúc tấn bi kịch mà anh phải gánh chịu sau cuộc hôn nhân kéo dài đằng đẵng. Một cuộc hôn nhân buồn nhiều hơn vui. Họ có một con gái, đặt tên Minh Thảo. Thảo sinh năm 1974, tuổi Giáp Dần, giống cha, nhân hậu, duyên dáng và học giỏi từ tiểu học đến hết trung học, xuất sắc cả văn lẫn toán. Sau khi đỗ đầu kỳ thi tú tài tại trường chuyên chất lượng cao Lê Hồng Phong, Minh Thảo được học bổng đi du học tại Australia từ năm 1992.
Bốn năm đầu sau ngày cưới, dù cuộc sống thiếu thốn, thời buổi đầy rẫy khó khăn, nhưng đó là một gia đình có hạnh phúc. Thế rồi… Đạt chuyển công tác vào Sài Gòn. Đến khi có chút tiền bạc rủng rỉnh, vợ Đạt thay đổi tâm tánh tự lúc nào không rõ: ngày càng không hiểu chồng, không tôn trọng chồng. Bi kịch diễn ra ngay khi người vợ không biết tôn trọng chồng, tức là không tự trọng!
Đến lượt Đạt kể chuyện mình. Phương Nam nghe chuyện đời anh, rơm rớm nước mắt vì thương anh… Mới gặp nhau được ba tháng mà Phương Nam đã cảm thấy cô không thể nào sống thiếu người đàn ông này. Thế là sao? Chẳng lẽ tình yêu là như thế? Cô yêu anh chứ đâu có thèm nghĩ đến cái chức giám đốc công ty dịch vụ kỹ thuật biển của anh! Cô cũng chẳng để tâm đến việc anh lớn hơn cô đúng mười bảy tuổi! Tình yêu không có tuổi! Người ta đã chẳng nói như thế từ hàng trăm năm nay rồi sao. Cô đã hai mươi lăm rồi, đâu còn trẻ con nữa? Cô đã nghĩ suy thật nhiều, trăn trở thật nhiều, lo trước liệu sau thật nhiều… Cô đã gạt khỏi giấc mơ bao nhiêu chàng trai phong lưu, bô trai của Sài Gòn. Nếu kể ra thì phải hàng tá. Lạ thật, cô không đủ can đảm để nghĩ đến chữ yêu đối với những người bạn trai đó! Hai mươi lăm tuổi, cô chưa biết nụ hôn của người đàn ông là thế nào! Có tin được không? Có Trời chứng giám, cô là thế! Bạn bè cô đã chồng con đùm đề, nhiều đứa lấy được chồng lương thiện, giàu có, ngoại trừ Ngọc Tiên, nó làm giàu bằng mọi giá. Chỉ có cô là kém may mắn. May hơn khôn mà! Cô vẫn nghĩ mình sẽ ở một mình tới già. Vậy mà gặp anh, cô mê liền!
Mãi về sau này, cô cũng không cắt nghĩa nổi vì sao cô mê Đạt. Vì người đàn ông thông minh, hơn hẳn một cái đầu? Có thể như thế nhưng chưa hẳn như thế. Vì Đạt ga lăng? Có thế, nhưng không phải là tất cả! Vì Đạt đáng thương? Đáng quá đi chớ! Bốn mươi hai tuổi rồi còn long đong lận đận chuyện vợ con. Nhưng nếu yêu người ta chỉ vì đáng thương thì hóa ra thương hại à? Vì Đạt có chất đàn ông, từ thân thể đến phong thái, nhân cách… Cứ cho là thế đi, nhưng biết bao chàng trai khác cũng chẳng kém, sao ta không bắt mắt họ mà chỉ mê Đạt? Chịu! Không thể nào cắt nghĩa nổi. Yêu là chết ở trong lòng một ít! Viết thế là báng bổ tình yêu, tình cảm đẹp nhất của con người. Chỉ có những người không biết yêu, không được yêu, không biết thưởng thức tình yêu mới thở ra giọng chua chát như thế. Yêu là đỉnh cao của cảm xúc, là sự tuyệt vời nhất trong tất cả những điều tuyệt vời của con người! Ta thích thơ Xuân Diệu, nhưng chỉ một số bài thôi. Bài thơ ấy ta không thích, vì nó phản tình yêu!
Mưa càng ngày càng lớn, gió giật ầm ầm. Đường Cao Thắng còn sót lại hai hàng cây dầu rất đẹp. Trước nhà Đạt có cây dầu lớn, một cành cây dầu bị mưa gió giật gãy, phát ra tiếng răng rắc, rào rào. Lạnh. Đạt thấy Phương Nam rùng mình. Anh tắt quạt, lấy áo khoác của mình choàng lên người cô. Cô nép sát vào anh. Họ ngồi ở salon ôm nhau, say sưa nhìn ngắm nhau và nghe nhau nói. Từ thân thể cô tỏa ra sự ấm áp, thơm tho, mùi xạ hương không lẫn vào đâu được, đầy quyến rũ. Anh dịu dàng hôn cô, trên trán, trên mí mắt, hôn vào má cô. Toàn thân anh chìm trong sự mịn màng, ấm nóng, tin cậy. Rồi anh hôn vào môi cô. Cám ơn Trời! Cám ơn cha mẹ em đã sinh ra em để giờ này anh được ngất ngây… Cặp môi em để tự nhiên mà tươi hồng như tô son, ngọt đến lịm người… Khi ôm cô, gắn miệng mình vào cái miệng xinh xắn mỗi khi cười làm rạng ngời khuôn mặt trái xoan, anh cảm nhận được bộ ngực bánh dầy căng tròn, hai đầu vú hồng đang cương cứng. Đạt muốn hụi đầu vào đó, muốn lắm… nhưng anh không cho phép mình được như vậy, lúc này! Từ thân thể cường tráng rắn như đá kia toát ra sự dịu dàng của người đàn ông vừa thoát khỏi bi kịch gia đình, sự hấp dẫn của người đàn ông đang yêu, sự tin cậy của người đàn ông biết thưởng thức tình yêu, coi sự ái ân là điều thiêng liêng không gì sánh được! Đạt càng dịu dàng thì Phương Nam càng bốc lửa! Ngọn lửa ấy có thiêu đốt được người đàn ông hay không, cô không biết, cô không còn thời gian nghĩ đến, nhưng nó đang thiêu đốt chính cô! Cô đâu có hay rằng Đạt cũng như đang phừng phừng bốc cháy! Máu chảy rần rật, hối hả trong anh! Cả Đạt lẫn cô đang vùng vẫy trong sự giằng co: một phía là cơn đam mê đang trỗi dậy vì thời cơ đã chín mùi, một phía là bản tánh nhân hậu, niềm tin thánh thiện vào tình yêu, khát khao được hưởng hạnh phúc lâu dài bên nhau. Cả hai cùng khát khao được yêu, nhưng hơn thế, còn phải là người bạn tri âm tri kỷ… Và cả hai đều cố dằn lòng bằng cách để tâm đến cảnh trời mưa, nghe mưa, nghe gió, nghe những âm thanh của đường phố vọng lên… Trời vẫn trút nước xuống, đường phố giờ này đang biến thành dòng sông cuồn cuộn chảy. Những chiếc xe gắn máy và xe hơi chết máy giữa đường. Mùa mưa, ngày nào cũng có tai nạn giao thông vì mưa, vì cây gãy đổ đè người, đè xe. Cành cây dầu trước nhà Đạt rớt trúng chiếc taxi đậu dưới gốc, chiếc xe bẹp dí. Tiếng người la lên át cả tiếng mưa gió. May mà người lái xe trú mưa trong quán nước bên kia đường. Sài Gòn càng ngày càng bị ngập úng. Những người Pháp kiến trúc thành phố này, nếu còn sống, sẽ không thể nào hình dung được ở cuối thế kỷ 20 mà người ta quản lý đô thị tồi tệ như thế. Ai muốn xây dựng kiểu nào cũng được, miễn là biết câu đồng tiền đi trước… Hệ thống cống rãnh thoát nước bị xâm hại do xây cất bừa bãi không theo một quy hoạch khoa học nào. Các cao ốc văn phòng, khách sạn do các nhà đầu tư nước ngoài xây dựng mọc lên lố nhố làm mất đi cảnh quan vốn hài hòa giữa thiên nhiên và các công trình kiến trúc của Sài Gòn. Thậm chí có nhiều đường phố cổ, đẹp với nhiều công trình kiến trúc xưa đáng tự hào của Sài Gòn, đã bị các cao ốc biến thành những cái chuồng cu! Nhất là khu vực đất quân sự, nhà cửa mọc lên như nấm, như có phép màu. Sài Gòn thừa bụi khói, đói màu xanh. Toàn là bê tông, không còn chừa một khoảng trống nào để làm vườn hoa, làm quảng trường…
Thế nhưng trong những tình huống như thế này thì bom nổ bên cạnh còn không nghe thấy nữa là! Đạt chợt nhớ đến chuyện mẹ kể: Lễ cưới của bố mẹ đang diễn ra thì, ca nông Pháp nổ ầm ầm, bố mẹ ôm nhau núp trong đống rơm vẫn say sưa tình tự, không màng gì đến cái chết đang rình rập… Tất cả đều như biến mất!
Phương Nam đang đê mê trong những nụ hôn thần thánh. Người đàn ông đang bị hút hồn trước vẻ đẹp và mùi da thịt cô. Anh càng kìm lòng, càng dịu dàng thì… Chính sự dịu dàng ấy hay là dòng điện từ da thịt anh, từ môi, từ lưỡi anh đã đưa cô lên miền cực lạc? Cả thân hình cô như muốn bùng cháy! Từ chân tóc đến từng ngón tay, ngón chân cô cứ bừng bừng, rần rật. Thế rồi cô rướn người lên, cô hôn Đạt, cắn vào cặp môi dày và ngọt lịm của anh. Lần đầu tiên trong đời, cô biết thế nào là nụ hôn của người đàn ông, và lần đầu tiên trong đời, cô biết hôn người yêu thì mình rung động như thế nào.
Thời gian ái ân bao giờ cũng ngắn, như một khoảnh khắc, quá ngắn! Vèo một cái mà đồng hồ đã chỉ năm giờ rồi! Mưa mãi rồi cũng ngừng. Dưới đường vọng lên âm thanh ầm ào sôi động của giờ tan tầm sau trận mưa tiểu hồng thủy. Hai người ríu rít nói cười trong khi ăn mì gói Vifon để tới lớp cho kịp giờ học. Tay trong tay, họ vừa ăn vừa nhìn nhau, giá mà được nhìn ngắm nhau cả đời như lúc này!
Sau nụ hôn đầu tiên Phương Nam trao cho Đạt trong chiều mưa ở căn phòng nhỏ đường Cao Thắng, tình yêu của họ ngày thêm lãng mạn và cuồng nhiệt…
Đạt vừa đi Canada và Hoa Kỳ về, kịp thi xong chương trình C với số điểm cao nhất lớp, thì cũng là lúc Phương Nam học được một nửa chương trình master Văn chương Anh Mỹ. Tất cả các bài thi của cô đều được đánh giá xuất sắc. Đó là kết quả của bao đêm ngày chí thú học hành, không dám bù khú với bạn bè, không nghĩ đến mua sắm diện dập, chỉ biết chúi đầu vật lộn với sách vở, với việc dạy học kiếm tiền để theo chương trình du học tại chỗ của đại học Harvard.
Ở đời, chả có cái gì là vĩnh hằng, chắc chắn, chuyện gì cũng có thể xảy ra! Tình yêu đang độ lãng mạn nhất, hương lửa đang nồng thì Đạt bị khởi tố, rồi bị bắt tạm giam, với tội danh tham nhũng!
Phương Nam không thể nào tin một người như Đạt lại có thể kiến tài ám nhãn*. Một người như Đạt thì không thể ăn cắp!
Thấy tiền của, mờ mắt.
Tâm hồn cô tinh khôi trong sáng. Thế nhưng, dù có thông minh, nhạy cảm cách mấy thì Phương Nam cũng chưa thể hiểu hết được sự hoành hành của cơn lốc kinh tế thị trường!
Nội vụ thực ra chẳng có gì phải ầm ĩ! Chẳng qua là sự lẫn lộn, giao thoa, xung khắc giữa danh vị, chức tước và tiền bạc, giữa quyền và lợi, giữa cá nhân với sự nghiệp chung. Ham hố nhiều tất bạc đầu. Giá như Đạt chỉ là một kỹ sư quèn, sáng cắp ô đi tối cắp về thì đâu đến nỗi!
Cha của Đạt là Hoàng, Thứ trưởng kiêm Tổng Giám đốc một Tổng công ty lớn, một trong những người dũng cảm, năng động sáng tạo, góp phần xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung - triệt tiêu sức sáng tạo của nhân dân, không mang lại hiệu quả - góp phần đưa đất nước vào thời kỳ Đổi mới. Vào những năm 1982 đến 1990, Hoàng và Tổng công ty Biển của ông nổi bật như một hình mẫu của cơ chế làm ăn mới. Thời ấy Hoàng còn trong độ tuổi ứng cử lên cấp cao hơn…, ông từng tin chắc mình sẽ trúng cử. Nếu trúng cử, ông sẽ… ông sẽ… Ông viết cả một luận văn trình bày chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam. Văn bản dày một trăm trang A4. Nhiều nhà khoa học kinh tế và khoa học xã hội nhân văn không khỏi ngạc nhiên về sức đọc và tầm suy nghĩ về tương lai quá rộng của ông. Ai cũng ghi nhận tấm lòng ông, tâm huyết của ông. Ấy thế mà cả hai kỳ Đại hội, Hoàng đều bị ra rìa ngay từ đầu vì những lá thư tố cáo. Kỳ trước, thư tố người phó của Hoàng tham nhũng, móc ngoặc với tư bản nước ngoài làm thiệt hại hàng tỷ đồng. Thanh tra xong, rồi khởi tố điều tra… Ngày nào Trương, người phó của Hoàng cũng phải đến trả lời ở số 3 Tôn Đức Thắng. Sau sáu tháng, có lệnh xóa cái lệnh khởi tố kia. Trương vô tội, nhưng Đại hội thì đã thành công rực rỡ rồi, cả nước, cả Tổng Công ty của Hoàng đang triển khai học tập Nghị quyết Đại hội rồi!
Ba
Đại tá về hưu
Mỗi người về hưu đều buồn theo một cách khác nhau!
Năm 1993, sáu mươi tám tuổi, sức lực còn tràn trề nhưng chờ mỏi đợi mòn không thấy cái lon thiếu tướng đâu, Hai Sài Gòn đành ngậm một khối tủi hờn xin về hưu. Thật là toi công phấn đấu!
Hai Sài Gòn đã nhịn nhục đủ thứ tính từ ngày được phong quân hàm đại tá: nhịn… em út, nhịn nói. Ông đã tu dưỡng đạo đức cách mạng thật sự. Không một cô gái nào quyến rũ được ông nữa! Nói thiệt lòng, trong công việc hàng ngày, đám đàn em thường mời Hòa đi nhậu, gọi là đi thâm nhập thực tế để có kinh nghiệm, đủ bản lãnh trong cuộc chiến đấu chống bọn tham nhũng, thấy gái tơ cứ xoắn lấy, ông thèm phát cuồng. Một đôi lần, ông cũng chặc lưỡi để làm đại một cái! Tất nhiên, những cú xé rào như rứa, ông đều căn dặn đàn em phải rất cẩn trọng không để lộ! Nghề mình gây ân oán nhiều, sơ hở là chết tươi, ô nhục cả gia đình, dòng họ! Thời buổi này bọn tham nhũng sẵn sàng vu oan giá họa, sẵn sàng gài bẫy hại nhau kia mà! Mừng là đệ tử của Hòa rất giỏi trong chuyện này!
Từ ngày Sài Gòn nở rộ dịch vụ bia gác tay, karaôkê có tiếp viên kiêm ca sỹ… Hòa thấy khỏe! Ông ít ăn cơm nhà, ngày nào bà Lịch cũng nhận được cú điện thoại trước bữa ăn tối: Anh bận họp, bận tiếp khách, đang làm việc căng lắm… Cứ ăn cơm đi, khỏi chờ!
Nhưng không phải ông Hòa chỉ thư giãn bằng mấy em tiếp viên, cave. Ông là dân sành điệu trong tình trường mà. Ở đời, hào hoa đa tình quá cũng khổ! Nhiều em cứ lao vào Hòa mà em nào cũng ngon mới mệt chớ! Bản tánh thương chị em, Hai Sài Gòn đâu nỡ từ chối, tội nghiệp chết! Nhưng ông ra điều kiện, tất nhiên là phải giao kèo đàng hoàng: Em mê anh, anh mê em thì ta chiều nhau. Xong việc là dông, không có thì thụt lê nhê chi nữa! Nói cho cùng, ông cũng lớn tuổi rồi, ông muốn giữ thanh danh mình, gia đình mình, nhất là ông nghĩ đến con, đến cháu, tu tâm tích đức cho con cho cháu. Ông đã bao giờ sống bạt mạng đâu! Rồi đến chuyện phát ngôn, ông cũng kiềm chế nhiều, không phải cứ muốn bày tỏ quan điểm, chính kiến là xổ ra. Ông hiểu ra rồi: Những thằng bạn cùng trang lứa với ông, chúng nó leo cao, thăng nhanh không phải vì tài cán chi đâu. Chúng nó dốt vô cùng nhưng lại lên vèo vèo chỉ vì biết nín nhịn. Thảo nào các cụ dạy: Một điều nhịn chín điều lành!
Ô trời, thấm thoắt mà mười lăm năm đại tá rồi! Té ra cái sự nhịn yêu nhịn nói của ông là công cốc sao? Dẹp, mơ tưởng chi cho mau già, đến chết là hết sạch bách! Tướng cũng như anh binh nhì, ra đất ráo trọi! Thế là Hòa đệ đơn xin hưu. Vả lại, cái công việc đang làm xem ra ân oán quá nhiều, ông không muốn lút sâu mãi trong đó. Từ ngày được biệt phái sang đảm đương chức ấy, ông chẳng thể ngủ ngon được dù chỉ một đêm. Tham nhũng là bệnh của người có quyền có chức. Dân thì làm sao tham nhũng! Như thế chống tham nhũng là chống ngay trong… bộ máy Nhà nước, nghĩa là toàn đánh vào đồng chí, thường là có quyền, có trách nhiệm cao! Tránh sao khỏi ân oán về sau!
Đơn xin nghỉ của Hòa chưa được giải quyết! Trên bảo muốn nghỉ, Hòa phải đào tạo hoặc giới thiệu người kế cận. Nghĩa là ông còn phải làm việc thêm một thời gian nữa! Chứng tỏ cấp trên vẫn tín nhiệm Hòa.
Vậy mà tại sao cấp trên lại ki bo cái lon thiếu tướng với ông? Kỳ quá, chịu, Hòa không hiểu nổi! Ông làm đến cuối năm 1994 thì lại đệ đơn xin hưu. Thôi, âu cũng là cái số. Khí chất anh Hai Nam Bộ khiến ông quyết định xin nghỉ bằng mọi giá.
Nộp đơn rồi, tự dưng ông lâm bệnh, chứng bệnh kỳ cục, nó làm ông một trận kinh hồn! Từ thuở bé đến giờ, chưa bao giờ ông phải đi bệnh viện ngoại trừ một lần phải phẫu thuật cắt ruột dư bị bục tại Khe Sanh tháng giêng năm 1969, và năm lần bị thương. Cả sáu lần nằm bệnh viện thời chiến tranh, ông đều được các nữ y sỹ và bác sỹ chăm sóc hết lòng; đáp lại, họ đều nhận được từ ông những giây phút thần tiên… Những người đàn bà đã đi qua đời ông, ông không thể nhớ hết. Ngay cả cô bác sỹ xinh đẹp người Hà Nội đã cắt ruột dư cho ông tại Khe Sanh, người đã tự nguyện dâng cái trinh trắng mỹ miều cho ông, ông cũng không biết giờ này ở đâu, chồng con thế nào! Đôi khi ông tự sỉ vả mình: Phải chăng mi phóng túng quá xá nên Trời phạt mi, bắt con gái mi phải trắc trở tình duyên, nếu không thì cũng ế chồng?!
Trận bệnh dai dẳng khiến ông nằm liệt trong Quân y viện 175 tròn một tháng. Miệng không muốn ăn, mắt thèm ngủ mà không ngủ nổi. Mặt mày xơ xác như vườn trầu chết khô vì hạn kéo dài, Hòa sút gần chục ký! Thế là sao? Chẳng lẽ lại bị AIDS? Không đời nào! Về chuyện ấy, ông vốn không ăn tạp, đã chuộng sự thơm tho sạch sẽ lại vô cùng cẩn trọng… Cả tá bác sỹ hội chẩn, không tìm ra bệnh. Rồi họ khuyên ông nên đi dưỡng sức ở miền biển. Thế là ông đi. Mới ra biển được một tuần, ông khỏe hẳn. Thì ra ông mắc căn bệnh buồn… phải về hưu. Ông buồn mà sinh bệnh. Buồn vì không được thăng quân hàm. Nếu được lên tướng, không bao giờ ông phải hưu. Nghĩa là cứ làm việc đến khi nào không làm được nữa thì mới nghỉ! Bên cạnh đó, biết bao chính sách từ nhà, đất, đến xe ôtô riêng, đi nước ngoài, khi chết, ma chay cũng hơn người! Còn bổng lộc thì khỏi nói, bao la!
Không xin được cho thằng nghịch tặc vào chỗ đó thì xin chỗ khác. Ông Hòa đi gõ cửa cánh nhà binh của ông vậy. May mắn quá sá! Đúng là quân ta với nhau có khác. Giám đốc nhà máy Z007 nghe giọng ông qua điện thoại, la rầm trời:
- Ủa, anh Hai Sài Gòn hả! Trời đất! Khỏe hông anh Hai? Ghé em nhậu chơi. Ờ, ờ em nghe rồi, hiểu rồi, chuyện xíu xìu xiu ấy mà, nhằm nhò gì! Năm trước anh Hai giúp em một bàn quá đẹp, em còn chưa nghĩ ra cách trả ơn anh Hai. Nay anh Hai cứ ẵm thằng nhỏ tới, em lo hớt, chu đáo, phải, lo hớt, anh Hai à!
Bất đắc dĩ lắm lắm Hai Sài Gòn mới nhờ vả trong quân đội, vì ông không muốn mang tiếng một lần nữa. Hồi cái thằng rách giời rơi xuống mới mười sáu tuổi, nó đua xe cán chết người ta, ông đã phải nhờ đến phái nhà binh của ông rồi. Vụ ấy tai tiếng dữ! Ông ân hận. Cái vụ thiếu tướng trật lất có lẽ một phần bởi chuyện đó. Còn thằng Tươm, giám đốc Z007 nhắc tới ơn huệ năm trước, quả thật ông nào có nhớ. Nhiệm vụ của ông là phải phân định rõ trắng đen, công tội. Thằng Tươm bị tố cáo trốn thuế hơn một tỷ đồng, bán xe tăng theo giá chỉ bằng một phần ba giá sắt vụn mà nhà máy thép đang thu mua, chia đất công cho mình và cho con cháu, dòng họ để bán kiếm chênh lệch… Sự vụ lẽ ra phải đưa ra Tòa án Quân khu. Vậy mà ông Hòa đã cứu Tươm thoát nạn. Số thuế hơn một tỷ đồng chưa nộp là có thật, nhưng không phải Z007 cố ý trốn, mà đang xin miễn. Năm chiếc xe tăng của Mỹ bị ta tiêu diệt rải rác trong rừng Tây Nguyên, tốn bao nhiêu tiền mới kéo về Sài Gòn, để tại nhà máy suốt mười hai năm trời, để làm gì? Nó thật sự là sắt vụn kia mà. Còn bán nó, phải bán theo giá thỏa thuận chứ làm sao mà bảo đắt rẻ! Còn chuyện đất đai, những người được cấp toàn là sỹ quan từ thiếu úy trở lên. Họ là họ hàng bà con với Tươm, nhưng nếu không phải Tươm thì ai làm giám đốc họ cũng được cấp kia mà! Rách chuyện! Đúng là ghen ăn tức ở mới thế!
Thực ra, trong số mười tám người nhà của Tươm được cấp đất, chỉ có một nửa là sỹ quan hiện hành, còn lại là những thanh niên đang học ở đại học quân sự! Nhưng trước sau gì họ cũng về phục vụ quân đội. Cái lý là ở đó.
Thằng Thăng được nhận vào phòng vật tư - vận tải của nhà máy. Nói nôm na nó khuân vác những thứ cần bốc dỡ trên xe ôtô tải xuống nhập vô kho, và ngược lại, từ kho bốc lên ôtô tải. Việc này cần sức khỏe và sự chịu khổ. Sức khỏe thì nó không thiếu, chỉ thiếu sự chịu cực. Vả lại, nó không thể nào quen với hình ảnh nó là một gã cửu vạn! Nó là con liệt sỹ, là cháu nội của ông đại tá lừng danh một thời, là cháu nội của Bà mẹ Việt Nam Anh hùng chứ có phải cục c…t đâu mà rẻ rúng nó đến vậy! Đã đến nước này, nó sẽ cho mọi người vài vố tức ói máu chơi!

Tuần lễ đầu tiên, nó làm rớt một thùng hàng vào mui chiếc Mercedes đời mới toanh, chạy chưa hết kỳ rôđa, của một khách hàng đang thương thảo với Giám đốc Tươm hợp đồng sản xuất máy đảo nước cho vuông tôm. Thùng hàng ấy nặng tới năm chục ký, bao bì là gỗ có đai sắt, cho nên cái sự bẹp mui xe khá là sâu, có tút kiểu nào thì cũng như cô gái đa tình bị bỏng axít phải cắt da mông lên vá mặt. Tuần thứ hai, người ta phát hiện nó với thủ kho Hái, cháu ruột của Giám đốc Tươm, mới được chú đưa từ Thanh Hóa vào, đang đóng phim con heo ở trong kho chứa thảm len. Giám đốc Tươm hay tin nổi trận lôi đình, bợp cho con Hái ba bợp hộc máu mũi. Nó cắn răng không khóc! Hái sinh ra ở một làng quê nghèo bên bờ sông Chu, nhà luôn đói mà vóc dáng nó lại mỏng mày hay hạt, ngon lành như người mẫu! Nó học hết lớp bảy trường làng thì bỏ học theo bà cô đi buôn chuyến trên tuyến xe khách Thanh Hóa - Hà Nội. Đến khi đủ tuổi, nó được tuyển vào làm công nhân nhà máy thuốc lá. Từ ngày tập tễnh theo bà cô đi buôn, nó rất khoái ăn diện. Đã biết bao lần, nhìn mấy cô gái từ vũ trường Hà Nội bước ra, nó thèm rỏ rãi! Lương công nhân làm sao cung ứng đủ khát khao của nó. Thành ra nó phải đi làm… thêm ở mấy quán bia ôm. Sau vài đêm đi làm thêm, Hái mệt bã, vào nhà máy trễ giờ lia chia, thế là bị kỷ luật. Nó cóc cần, mới mười tám cái xuân xanh, nó giã từ không chút luyến tiếc việc khuân vác lá thuốc để trở thành cave chuyên nghiệp. Nó bỏ việc khuân vác lá thuốc được một tuần thì gia đình mới hay tin. Thầy bu nó viết thư cầu cứu ông anh cả. Tươm đón cháu vào vừa đúng lúc ông thủ kho lâm bệnh ung thư phải nghỉ. Thế là nó vồ được chân thủ kho ngon lành. Ngày đầu gặp mặt thằng Thăng, con mắt Hái đã đong đưa lúng liếng rồi. Quả như lời đồn: Gái Thanh Hóa khóa lô can! Ngày thứ hai, thằng Thăng nháy mắt ra hiệu, bắt được tín hiệu ấy, nó nán lại sau giờ làm việc buổi chiều. Thế là, sau vài phút thăm dò đưa đẩy, hai đứa lao vào hùng hục quần thảo nhau trên tấm thảm len trong nhà kho.
Tưởng nó chừa thói dâm đãng sau mấy cái bạt tai của ông bác, ai dè ba ngày sau, người ta lại thấy nó quỳ trước chân thằng Thăng, thằng Thăng đứng dạng háng, cái quần jean tụt xuống quá đầu gối. Con Hái úp mặt vào chỗ ấy của thằng con trai mà…! Giám đốc Tươm điên tiết! Đến cuối tuần thứ ba thì thằng Thăng đánh gãy be sườn của binh nhất Thỉ. Thỉ đang đi tuần thì nghe có tiếng rên rỉ ở trong toa lét. Binh nhất quát hỏi nhưng không thấy tiếng trả lời, bèn xô cửa vào. Lúc đó Thỉ thấy Hái đang chống tay vào bồn cầu, mông chổng lên cho thằng Thăng khoan vào cái ấy. Đang đê mê trên miền cực lạc mà bị phá thối, thằng Thăng lao vào dạy cho binh nhất Thỉ bài học vì tội xía vào công việc của người khác. Tất nhiên là Thỉ đánh trả. Thế là choảng nhau to.
Những năm mới về ở với ông bà nội, học tiểu học, thằng Thăng còn lành lắm. Thấy thế, cố nội nó, tức cụ Nguyễn bèn truyền cho nó mấy thế võ. Đến khi ra đàn đúm ở sân tennis Tri Âm, thằng Thăng học thêm được mấy chiêu Taekwondo. Binh nhất Thỉ đánh không lại, bị thằng Thăng tung độc chiêu vào be sườn, gục xuống. Lúc đó Hái đang co rúm người ở góc toa lét. Nó nhìn thấy sự dũng mãnh của người yêu của nó. Nó đang đói, rất đói tình! Đối thủ của người yêu gục xuống, máu mồm ộc ra vậy mà cái cột buồm của người yêu vẫn cứng đanh. Thằng Thăng cảm được ánh mắt của con Hái. Nó nhào tới, tiếp tục cuộc hành trình dang dở! Khi cả hai đạt tới tột đỉnh, chúng rửa ráy và rút êm. Binh nhất Thỉ tỉnh lại, rên la rầm trời, nhưng khu nhà văn phòng vắng tanh vắng ngắt. Thỉ cố lết ra ngoài kêu cứu.
Binh nhất Thỉ nhập viện, thằng Thăng bị buộc thôi việc, còn bà Lịch và ông Hòa phải đến bệnh viện năn nỉ để được người lính nghèo Cung Tích Thỉ nhận khoản bồi thường…
Sài Gòn đang trong cơn sốt nhà đất, nhiều người tay trắng bỗng chốc trở thành triệu phú! Đúng là trời cho. Sốt nhà đất muôn năm!
Trước khi rời đơn vị pháo binh về làm quan thanh tra, đại tá Hòa được cấp một lô đất ở đường Ba Tháng Hai, vốn là khu đất quân sự cũ. Lô đất mặt tiền rộng mười mét, sâu ba chục mét, tiêu chuẩn sỹ quan hai thời kháng chiến mà! Ba Hòa đang chưa biết làm gì, thì đệ tử của ông gạ:
- Thủ trưởng bán cả, em trả hai triệu một mét vuông, vị chi sáu trăm triệu đồng, tức một trăm hai chục cây vàng.
Ông Hòa trợn tròn mắt nhìn đệ tử. Trời đất! Hơn một trăm cây vàng, từ trên trời khi không rớt vô túi! A! Thì ra Trời có mắt, thương phận mình lận đận, cả đời đi làm cách mạng, mong mãi cái lon thiếu tướng không được, bèn ban cho một đống vàng! Không phải hai cây như hồi đi tập kết vợ dúi cho, mà là một trăm hai chục cây! Thời ấy, con gái miền Bắc ở nông thôn quá nghèo đói, dấy lên thành một cao trào lấy chồng miền Nam tập kết, là vì anh cán bộ hay bộ đội miền Nam nào khi ra Bắc cũng lận trong người chí ít vài chỉ đến vài cây, tay mang đồng hồ Thụy Sỹ, ngón tay đeo nhẫn vàng chóe, răng nhiều chàng cũng bịt vàng khi cười lóa cả mắt, quần áo toàn vải xịn. Chỉ riêng những thứ đó đã khiến con gái lao vào như ruồi nhào vô hũ mật, huống hồ Hòa còn bô trai, lại có học, giỏi tiếng Tây! Tất cả những thứ đó cộng với số đào hoa đã đầy đọa Hòa lâm vào hết cuộc tình này đến cuộc tình khác. Gọi là cuộc tình cho nó oách chứ thực ra con gái nhà quê thật thà lắm! Người ta dâng cho anh, ngủ với anh là thật lòng. Nếu anh cưới người ta là nhất, bằng không cũng chẳng sao. Tự nguyện mà! Những năm đó Hòa đi làm công tác cải cách ruộng đất ở miệt Kiến An, rồi Hải Phòng. Chỗ nào anh cũng hào phóng ban phát nụ cười đẹp và sinh lực mạnh như cọp. Có đến hơn trăm chứ bỡn! Trời cũng hổng nhớ nổi! Đến sau này, khi gặp Hải Yến thì trong người Hai Sài Gòn không còn một chỉ. Chiếc nhẫn cưới cũng bay, còn độc cái nòng pháo bên dưới và hàm răng trắng bên trên! Không hề chi. Yến yêu Hòa đâu phải vì vàng, mà vì mê cái tinh thần trong trẻo và sức lực dũng mãnh của Hòa! Ấy là lời cô ấy thốt ra lúc sung sướng trong vòng tay Hòa trên đê Yên Phụ…
Ngôi nhà ở Hàm Nghi quá rộng, miếng đất vừa được cấp không bán thì để làm gì. Thế là Hòa bàn với vợ, bà Lịch nói:
- Thủng thẳng rồi tính. Làm chi vội vàng quá sá vậy? Để em hỏi cháu Tâm đã. Nó đang là đại gia ở Sài Gòn về bất động sản đó!
- Cái gì? Thằng Tâm nhà mình mà đại gia sao?
Trời đất thánh thần ơi! Ông cứ như trên trời rớt xuống vậy. Tối ngày đọc báo, đọc sách, hội họp, kiểm điểm, học Nghị quyết… mà chẳng hiểu thời cuộc ra sao!
Nguyễn Hùng Tâm là con út, là trai duy nhất của Nguyễn Kỳ Khoa, em ruột ông Hòa. Nó ngang tàng, ham chơi, tính tình thẳng băng ruột ngựa, hào phóng, khi cần thì cái miệng dẻo quẹo như một nhà ngoại giao nhưng thường thì nó nói năng bặm trợn, ngoa ngoắt, bỗ bã đậm chất anh hai Nam Bộ. Kỳ Khoa ở với ông bà ngoại từ sau khi má chết. Ông ngoại vốn là y sỹ của nhà thương Sài Gòn. Khoa học giỏi, được học bổng đi Paris học bác sỹ. Năm 1958 Khoa về nước, làm việc ở Quân y viện Cộng Hòa. Kỳ Khoa lấy vợ, con gái một viên tướng. Năm Bảy mươi sáu, Khoa đi học tập cải tạo năm năm thì mãn hạn. Tám năm sau, hai vợ chồng cùng đứa con gái vừa tốt nghiệp đại học, đi định cư ở Hoa Kỳ theo diện H.O. Riêng thằng con trai Hùng Tâm ngang ngạnh không chịu xuất ngoại:
- Ba má dây với chế độ cũ nên ghét chế độ mới, hoặc không được chế độ mới tin dùng, thì cứ đi. Còn con, việc gì con phải đi đâu! Sài Gòn là quê hương bản quán của con! Ba má chẳng dạy con từ nhỏ là phải biết yêu quê hương, đất nước, yêu dân tộc, yêu cha mẹ ông bà đó sao! Cả nhà đi hết thì ai chăm ông nội? Bác Ba Hòa còn trong quân ngũ, chị Nam, cháu Thăng thì lo học hành, chỉ còn mỗi bác Lịch phục dịch cả nhà! Con không đi đâu hết. Chỗ của con là Sài Gòn, dù nó có bị cộng sản đưa về thời kỳ đồ đá thì con vẫn đeo bám thành phố này…
Ba má Tâm nghe con trai nói ngượng chín mặt. Ông Khoa cúi gằm tránh ánh mắt soi mói rỉa rói của con, còn bà Thái Hằng thì năn nỉ:
- Con có bạn gái phải không? Má biết. Má không phản đối con. Con dẫn về cho má coi, rồi làm lễ hỏi. Con cứ sang Hoa Kỳ rồi ba má sẽ làm thủ tục bảo lãnh cho vợ con!
- Cả khiêng má ơi, làm sao đám hỏi với cả chục cô, cô nào cũng đạt điểm chín, mười, làm sao má bảo lãnh hết bồ của con! Mới mười tám tuổi, vợ con chi cho mệt! - Chợt Tâm hạ giọng, Tâm rất thương cha mẹ, nhất là má - Má! Con không đi vì không thể xa Sài Gòn. Không biết vì sao nữa! Một tháng nay, cứ nghĩ đến chuyện nay mai mình rời xa căn nhà trên đường Nguyễn Du thơ mộng này, rời bỏ thành phố này sang Mỹ làm dân ngụ cư là con mất ngủ, ăn cũng không ngon nữa! Hỏi vì sao thì con không trả lời nổi. Nhưng dường như Sài Gòn đã hút chặt đời con rồi!
Tâm ở một mình trong ngôi nhà ba má để lại, gần nhà ông nội. Sáng nào nó cũng ghé thăm ông nội, mua phở cho ông nội ăn. Ham chơi, biếng học, thi cử rớt lên rớt xuống, năm Chín mươi mốt, Tâm hai mươi lăm tuổi mới học xong đại học. Tâm không đi làm Nhà nước, cứ ở nhà đi đây đi đó. Ông Hòa, bà Lịch và cả cụ Nguyễn không ai biết rằng đó chính là thời gian Tâm lục lạo mua bán nhà, đất. Mua một căn nhà hai chục cây, vài ngày sau bán đi có lời gấp đôi. Mua một căn nhà bẹp trên đường Võ Thị Sáu, ủi đi, san thành bình địa, đang tính xây cất thì có người đến ấn vào tay số tiền gấp ba số vốn! Có lần Tâm mới trả một phần tiền cho chủ để nhận nhà, hẹn năm ngày sau trả nốt thì ngay sáng hôm sau, có người đến trả gấp đôi giá tiền Tâm mua. Ông bà Khoa viết thư bảo gửi vé máy bay về cho Tâm qua Mỹ chơi. Tâm không chịu, bảo nếu cho tiền thì gửi về để thêm vào mua xe xịn. Với số tiền năm ngàn đôla, anh không mua xe xịn mà mua đất. Rồi đất đẻ ra tiền… Năm Chín mươi ba, khi bà Lịch đem chuyện miếng đất được cấp ra hỏi Tâm thì Tâm đã có tài sản trị giá hàng triệu đôla rồi!
- Hai bác nói sao? Mặt tiền Ba Tháng Hai mà một trăm hai chục cây? Nó lừa hai bác rồi! Cả đời đi theo cách mạng, có cái lon thiếu tướng trầy trật mãi không được, nay họ cho bác Ba miếng đất bằng cái lưỡi mèo để an ủi, vậy mà có thằng tính ăn quỵt, tính phỗng tay trên của bác sao? Hỗn! Ăn bẩn, ăn dơ là đồ chó!… - Tâm kìm lại kịp thời khi thấy ông Hòa nhìn mình vẻ khó chịu - Nếu hai bác đồng ý, cháu sẽ xây lên trên lô đất đó hai căn nhà đúc ba lầu, chung tường, giống hệt nhau. Xây xong, bác một căn, cháu một căn. Chi phí xây dựng coi như tiền cháu mua một nửa lô đất. Ngoài ra, cháu còn đưa cho hai bác hai chục cây nữa để xài cho vui!
- Nghĩa là… - Ông Hòa đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Ông tính nói gì nhưng lại không biết nói gì. Lãnh vực này với ông xa lạ quá. Ông mù tịt. Thấy mặt chồng cứ nghệt ra, bà Lịch lên tiếng:
- Nghĩa là cháu mua chỉ một nửa lô đất mà cũng hơn giá người ta trả?
- Dạ phải! Cháu xây lên để bán kiếm lời lớn hơn! Thời buổi này không gì lời nhanh bằng mua bán nhà đất. Đây là cơ hội vàng, mấy thập kỷ mới có một lần sốt đất! Cơn sốt đất đai thường diễn ra sau những thay đổi lớn về chính trị, thời cuộc biến động. Không nắm bắt cơ hội này thì muôn đời nghèo khó! Hai bác biết không, có nhiều ông giám đốc lấy vốn lưu động của doanh nghiệp mua đất. Có ông liều mạng hơn, vay vốn ngân hàng để hiện đại hóa dây chuyền công nghệ, phát triển sản xuất, bịp bợm cỡ tay tổ! Thực ra là để mua đất. Họ chỉ cần một hai tuần là quay vòng vốn, thu lời gấp ba gấp bốn lần. Có phi vụ lời gấp chục lần. Siêu lợi nhuận đó, thưa hai bác! Cháu biết và quen khoảng ba chục ông đày tớ của dân, mỗi người đang có năm sáu hécta đất và nhiều biệt thự, nhà phố! Quá sá kinh khủng! Thời chế độ cũ, chả thấy ai bạo phát lẹ như mấy ông đày tớ của dân bây giờ! Hai bác biết không, căn nhà ông nội và hai bác đang ở, ngay hôm nay nếu bán đi, sẽ không dưới một ngàn cây. Nhưng tháng sau mới bán thì hai ngàn cây không chừng!
Ông Hòa trừng mắt:
- Này, tôi cấm anh nói đến chuyện mua bán căn nhà này!
- Dạ, cháu ví dụ thôi mà. Đời nào có chuyện bán! Nếu hai bác có bán thì cháu cũng không để nó rơi vào tay người khác. Cháu đề nghị hai bác lưu giữ ngôi nhà này mãi mãi, đến muôn đời. Cháu thành tâm mong như thế!
Hai vợ chồng Ba Hòa nghĩ rồi bàn, bàn rồi nghĩ, hai ngày hai đêm sau mới quyết: đồng ý để cháu Tâm xây nhà trên lô đất được cấp, bác một căn, cháu một căn. Xây xong, Tâm mời hai bác lên coi nhà mới. Ông bà Hòa Lịch hết lời khen ngợi cháu mình. Tâm chả nói chả rằng, xì ngay ra lời đề nghị mới:
- Thưa hai bác, chả mấy nữa là đến ngày ông nội tròn trăm tuổi. Đây là đại hồng phúc của gia đình ta. Cháu xin hai bác một điều: cho phép cháu được nâng cấp ngôi nhà ở Hàm Nghi cho đẹp hơn, kiên cố hơn. Nếu cháu nhớ không lầm thì ông nội nói rằng ngôi nhà ấy xây từ trước năm 1895, nghĩa là hơn tuổi nội! Nó cần phải được xây thành tòa nhà đúc, ít nhất phải ba lầu!
- Tiền đâu cháu? Lương hưu của bác chỉ đủ bác uống bia. Mọi chi tiêu trong nhà vẫn trông vào cái tiệm tạp hóa của bác Lịch. - Ba Hòa nhìn Tâm, nhìn vợ, giọng ấm áp, thân thiết, ánh mắt ông lấp lánh niềm vui.
Ba bác cháu đang đứng trên sân thượng ngôi nhà mới. Ông Hòa nhìn về phía công viên Kỳ Hòa, nơi đó xưa kia là Đại đồn Kỳ Hòa. Ông nội của Hòa đã chiến đấu bảo vệ Đại đồn. Cha Hòa đặt tên cho con là Kỳ Hòa là để nhớ đến sự kiện lịch sử ấy.
Thấy hai bác mình đang vui, Tâm nói:
- Cháu xin nói ngay: Căn nhà mới này của bác là toàn quyền bác sử dụng. Riêng căn của cháu, cháu sẽ gọi bán. Chắc chắn sẽ lời rất lớn. Toàn bộ số tiền lời đó, cháu xin phép được góp vào việc làm mới nhà Hàm Nghi, đón lễ đại thượng thọ trăm tuổi ông nội. Hai bác đồng ý thì cho cháu biết ý kiến!
Vợ chồng ông Hòa đồng ý làm mới căn nhà cổ. Nhưng cụ Nguyễn thì không! Ngôi nhà này đã trở thành máu thịt của cụ. Ông Hòa kiên trì thuyết phục. Lễ đại thượng thọ một trăm tuổi của cụ Nguyễn đang tới gần. Cuối cùng, cụ Nguyễn xiêu lòng vì nể con, vì ngôi nhà cổ đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó - đó là lời ông Hòa thuyết phục cha mình! - nó đã quá ọp ẹp, cái gác cây không biết sập lúc nào!
Mãi đến đầu năm Chín mươi tư, được phép của cha, Hòa quyết định giao cho cháu Tâm đứng ra xây dựng nhà Hàm Nghi.
Khi xin được việc cho thằng Thăng thì nhà Hàm Nghi xây xong. Tuyệt đẹp! Hiện đại và vô cùng tiện nghi. Gia đình ông Hòa từ căn nhà ở Ba Tháng Hai dọn về ngôi nhà mới xây gồm một phòng khách, sáu phòng ngủ, đầy đủ tiện nghi như khách sạn quốc tế, một phòng dành cho việc thờ cúng Tổ tiên, ngoài ra còn hầm làm ga ra, nhà bếp… Nhà sâu ba chục mét, được thiết kế giếng trời ở một phần ba phía cuối cho nên đầy gió và ánh sáng!
Hòa cứ đi ra đi vô ngắm vuốt, lòng rưng rưng. Ngồi xuống sàn hành lang ngửa mặt nhìn mặt trời đang lên từ phía sông Sài Gòn, ông nói với vợ:
- Tôi chịu bọn trẻ bây giờ. Chúng nó giỏi quá, đầu óc tân tiến quá! Mới ngày nào thằng Tâm còn lêu lổng, ham chơi, mà nay chững chạc quá trời! Ước gì thằng Thăng được một góc thằng Tâm! Nó nói là làm, làm việc gì cũng tính đến cái tối ưu, hoàn hảo! Bà nghĩ coi, ngôi nhà cổ lợp ngói ống với cái gác cây kiểu chú Hỏa hơn một trăm năm trước, nay biến thành ngôi nhà đúc kiên cố, kiểu dáng hiện đại, một trệt ba lầu… Nào, đưa rượu Hennessy con gái Phương Nam mới mua ra đây, tôi với bà mang lên mời cha nghe!
Từ ngày thằng Thăng lộ rõ bản chất nghịch tặc, cụ Nguyễn buồn quá hóa bệnh, rồi sau cơn bệnh thì điếc đặc tai bên trái. Ai muốn thưa chuyện với cụ, phải nói thật lớn.
Vợ chồng ông Hòa lên lầu một rót rượu mời cha, cụ Nguyễn cầm ly rượu hít một hơi thật sâu, thơm bỏng mũi, rồi nhẩn nha uống từng chút, từng chút. Con trai hỏi:
- Ba à, ba hài lòng với ngôi nhà mới chứ?
- Hả?
- Ba thấy nhà mình thế nào?
- Anh nói sao, thằng Thăng lại làm chuyện bậy bạ chi đây?
Bà Lịch đến bên cụ Nguyễn, nói từng tiếng chậm rãi, và cụ Nguyễn hiểu ra câu hỏi của Hòa.
Cụ nhìn xung quanh căn phòng riêng của mình, nhìn cách bài trí trong phòng, gật gật đầu.
- Ai dè cái thằng ngật ngà ngật ngưỡng chán học ham chơi mà chí thú lạ! - Cụ đang nói về Hùng Tâm, cháu nội, con thằng út của mình - Nó là đứa có hiếu!
Cụ Nguyễn rất hài lòng. Căn nhà cổ trước đây suốt ngày phải mở đèn, nếu không thì tối om như hũ nút, nay trở thành một tòa nhà đúc, thuộc loại đẹp nhất đường Hàm Nghi, trong hàng nhà phố. Ngày ngôi nhà cũ bị đập phá, cụ Nguyễn thức trắng đêm. Cụ nhớ lại thời trai trẻ, hai vợ chồng hết lòng thương yêu chiều chuộng nhau và chiều chuộng các con. Ngôi nhà cổ trở nên một phần đời của cụ! Nó từng là nơi cụ dạy chữ, dạy làm người cho hàng trăm học trò. Nó từng là cơ sở liên lạc của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Nó tiếp tục là cơ sở của cách mạng những năm kháng chiến chín năm và kháng chiến chống Mỹ. Con trai trưởng hy sinh như một anh hùng trong khởi nghĩa Nam Kỳ. Con trai kế là đại tá. Lẽ ra nó phải lên tướng từ lâu rồi kia. Bị cái nó đào hoa tưng bừng! Tiếng thế chứ cụ biết đại tá Hòa con cụ rất thương vợ thương con, nó đâu phải loại đàn ông không nhân cách! Hai cháu nội của cụ là liệt sỹ. Con dâu của cụ là Mẹ Việt Nam Anh hùng. Con trai út của cụ là bác sỹ ngoại khoa danh tiếng nhất Sài Gòn, đang làm việc ở một bệnh viện lớn của Hoa Kỳ. Cụ vui, thiệt vui! Tứ đại đồng đường! Cháu nội cụ: hai đứa Trung, Thành đã xả thân vì nước! Cháu Hùng Tâm, cháu gái Phương Nam đều thông minh, hiền thảo, học thành tài. Cụ vô cùng biết ơn Tổ tiên, Trời Phật đã cho cụ đại gia đình tuyệt vời và cho cụ sức khỏe phi thường! Cụ thọ chín mươi chín tuổi, da đỏ au, râu tóc trắng như tuyết, ăn uống ngon miệng, đi đứng thẳng thớm, không bệnh tật gì ngoại trừ cái tai cụ bị ù, nói nhỏ không nghe rõ. Cụ vẫn thả bộ mỗi buổi sáng từ nhà mình ra bến Bạch Đằng để nhìn ngắm cuộc đời, nhìn ngắm thành phố đang đổi thay rất lẹ… Sáng nào cụ cũng đi bộ trên đường Hàm Nghi ra bến Bạch Đằng tập thể dục một tiếng, từ năm giờ đến sáu giờ. Tối thì tập nửa tiếng, cũng bên bờ sông Sài Gòn. Ngày nào cũng thế.
Người sống qua ba thế kỷ như cụ là quá hiếm. Sống thanh thản và hạnh phúc như cụ lại càng hiếm hoi.
Mùa Xuân năm 1995, sau Tết Nguyên đán mười ngày là tới ngày mà một trăm năm trước cụ Nguyễn Quang Minh cất tiếng khóc oa oa chào đời. Gia đình ông Hòa tổ chức lễ đại thượng thọ mừng cụ Nguyễn tròn trăm tuổi.
Cụ Nguyễn hồng hào trong bộ quần áo thượng thọ bằng lụa đỏ. Ngôi nhà đầy bông: bông hồng, bông cúc, bông lan… quá trời bông! Có lẵng hoa của Chủ tịch thành phố; lẵng hoa của Mặt trận Tổ quốc thành phố. Có lẵng hoa của Hội người cao tuổi Việt Nam. Có lẵng hoa của Bộ Tư lệnh thành. Có một đài hoa kết từ một trăm bông hồng Đà Lạt, cao tới hai mét. Đó là đài hoa của cháu gái Nguyễn Phương Nam tặng ông nội. Từ sáng sớm, bạn bè của các con, các cháu thi nhau chụp ảnh, quay phim. Phương Nam trong chiếc áo dài trắng, giản dị mà đẹp mê hồn. Cô hướng dẫn khách lên phòng khách ở lầu một để chúc thọ cụ Nguyễn. Phòng khách này được thiết kế đặc biệt sang trọng, rộng tới sáu chục mét vuông, mang dáng vẻ hiện đại nhưng vẫn in đậm hồn Việt! Phần nghi lễ chúc thọ cụ Nguyễn diễn ra tại phòng khách này. Bữa tiệc mừng thọ tiếp một trăm rưởi thực khách được chia làm hai nơi: tại phòng khách có sáu bàn tiệc, dành cho các vị khách từ trung niên trở lên. Trên sân thượng có mái che thiết kế rất điệu, được xây dựng thành một sàn nhảy hiện đại, kê hai dãy bàn làm tiệc đứng, dành cho lớp trẻ. Thực đơn của bữa tiệc là cả một câu chuyện dài. Xin tóm tắt như sau: Ông Hòa bảo đón khách chúc thọ xong thì mời quý khách sang nhà hàng ở kế nhà mình, thực đơn ra sao thì tùy, nhưng phương châm là không xa hoa, không lãng phí, phải tiết kiệm kẻo người ta cười cho! Đồng bào vùng lũ lụt đang đói nhăn răng mà mình hoang phí là có tội! Phương Nam nhìn cha, thầm nghĩ: Đúng là phương pháp tư duy của một sỹ quan quân đội! Bà Thanh Lịch thì nói:
- Phải làm cho xôm tụ, nhưng làm tại nhà. Tôi sẽ kêu bà Tư Mắm là người nấu tiệc cưới nổi tiếng Sài Gòn hiện giờ, mang đồ ăn, bàn ghế chén dĩa đến phục vụ tại nhà! Chỉ hai trăm ngàn một bàn mười hai người, chưa kể đồ uống! Rẻ rề!
Phương Nam nghe má nói, rùng mình nhớ đến những bữa tiệc cưới mà tuần nào cô cũng phải đi dự, mở đầu thế nào cũng có món gỏi: đầu heo luộc làm từ sớm, chua lòm, tôm với thịt gà Mỹ thì nhũn nhùn nhùn, ăn vào đau bụng, kế đó là món xúp lõng bõng không biết nấu bằng thứ gì, cua hay là giả cua? Rồi gà công nghiệp hấp cải bẹ xanh ăn với bánh bao, hoặc là vịt hầm nấm, rồi cá lóc nướng cuốn bánh tráng, và kết thúc là cái lẩu tả pí lù ăn với bún xì xà xì xụp! Cả bữa ăn, bói không ra một chén nước mắm ngon, rặt nước tương y hệt người Tiều, người Quảng. Nghĩ đến là hết muốn ăn rồi! Hùng Tâm nhìn chị Nam đang rợn mình nổi da gà, liền lên tiếng:
- Thưa ba bác! - Giọng Tâm oang oang, nhưng ấm áp.
Từ ngày mới giải phóng, ông Hòa đã luôn coi thằng cháu Tâm như con đẻ. Khi ba má nó xuất ngoại, nó không đi mà ở lại vì yêu Sài Gòn, ông Hòa và cụ Nguyễn bảo đúng là con dòng cháu giống! Truyền thống yêu nước thương nòi của gia đình cụ Nguyễn xem ra truyền từ đời này sang đời khác. Bà Lịch cũng yêu quý cháu Tâm như con, nhất là khi các con trai bà lần lượt bỏ bà mà đi… Bà thấy mình bớt cô độc giữa cuộc đời khi nhìn trước nhìn sau còn có cháu Thăng là đích tôn, Tâm là cháu kêu bằng bác, và, tất nhiên là con gái Phương Nam. Chuyện thằng Thăng hư đốn là bi kịch thường xuyên của gia đình, nó khiến vợ chồng bà nhiều phen căng thẳng, tưởng muốn xa nhau. Chuyện ghen tuông với bà hai xứ Kinh Bắc ngày mới giải phóng cũng không đến nỗi khiến bà Lịch căng thẳng với chồng như thế. Chồng bà đẹp trai, tài ba, số đào hoa, năm thê bảy thiếp là đương nhiên, ổng có một bà Yến là giỏi quá trời, là thương bà hết sảy rồi, ghen tuông là dại dột, là hổng biết điều! Vả lại, việc ổng lấy vợ hai là vấn đề của lịch sử, hoàn cảnh lịch sử nó buộc như thế chứ thực ra ổng vẫn rất nhớ thương mình! Ảnh đã sống trong cảnh ngày Bắc đêm Nam từ khi tập kết đến tận năm 1965 kia mà. Nếu không được hung tin vợ bị bắt rồi mất tích thì đâu đến nỗi! Bà Lịch tự an ủi mình như thế!
- Theo cháu, - Tâm sôi nổi, gương mặt chữ điền, cằm bạnh, đôi mắt thì không thể lẫn đi đâu được, y hệt ông nội và bác ba Hòa! - như ý của bác Ba là trúng! Gia đình ta phải quán triệt ý kiến chỉ đạo của bác Ba (Tâm bắt chước giọng nói của ông Hòa) là tiết kiệm, không xa hoa, lãng phí! Nghĩa là làm món gì thì khách ăn phải thấy ngon miệng và ăn kỳ hết, không dư! Thế mới là hiếu khách và thật sự tiết kiệm…
Nhìn khắp lượt, biết mọi người chú ý nghe mình nói, Tâm rút trong túi quần ra tờ giấy in từ computer. Nhìn tờ giấy A4 trong tay Tâm, ông Hòa, bà Lịch và bà Yến đều cùng nghĩ như nhau: À, thì ra cháu mình nó chuẩn bị sẵn cả rồi! Bọn trẻ bây giờ chu đáo quá trời!
- Lễ đại thượng thọ ông nội tròn trăm tuổi là dịp cực kỳ quan trọng, nó là phúc đức của gia đình và dòng họ ta! Đồng thời, đây cũng là dịp mừng tân gia nữa! Và… nếu con không lầm thì từ ngày nghỉ hưu đến giờ, mấy tháng rồi, bác Ba chưa có dịp tiếp bạn bè cũ để hàn huyên! Vậy, con đề nghị bữa tiệc hôm nay phải quán triệt tinh thần tiết kiệm, nhưng phải lịch sự, ngon miệng, đồng thời phải đậm đà bản sắc dân tộc! Con nhấn mạnh: phải thật lịch sự và ngon miệng, phải làm sao để khách ăn hết tất cả các món ăn, ăn rồi về nhà rồi cứ tấm tắc khen hoài, đi bất cứ bữa tiệc nào cũng cứ phải nhớ đến, nhắc đến bữa tiệc này! Nào, chị gái xinh đẹp, – Tâm đưa tờ giấy cho Phương Nam - xin chị đọc lớn lên cho cả nhà nghe!
Phương Nam thoáng ngạc nhiên nhận tờ thực đơn, hắng giọng rồi đọc:
Món đầu tiên: Gà ác tiềm thuốc Bắc. Yêu cầu: Đúng là thuốc Bắc chính hiệu Tàu, phải tiềm trong thố, cách thủy, dọn ăn cho mỗi người một thố. Món này bổ và sang, khai vị bằng món này có sức thuyết phục rất lớn! Thứ hai: Xôi vò, thịt gà mái dầu luộc. Xôi vò nấu bằng gạo nếp cái hoa vàng miền Bắc, đậu xanh miền Bắc. Thịt gà mái dầu luộc, phải đúng gà mái dầu, mới rớt tám hột. Gà tơ chưa đẻ thì thịt nhão, không ngọt. Gà đẻ hai ba lứa thì là gà già. Phải là gà đã đẻ tám trứng, mới thơm, vừa đủ mềm mà dai, ngọt, ngon số dách, đúng là nhất hạng thế giới gà! Hai món trên, thực ra là ba món, vừa rất bổ dưỡng, vừa rất là bản sắc dân tộc! Ăn hết ba món này, bụng lưng lửng rồi, mời quý khách tiếp tục cụng ly, uống rượu, trò chuyện trong khi chờ món thứ tư. Tiệc có nhiều món, cho nên mỗi món dọn ra với dung lượng vừa phải, để quý khách không bỏ sót những món sau! Món thứ tư thì mời quý khách thưởng thức bằng mắt trước: thịt nai ướp các loại gia vị đặc biệt, phải ướp đủ hai tiếng đồng hồ, nướng xèo xèo trên hỏa lò than đước rừng U Minh, nướng ở bàn bên cạnh, không làm nóng và khói không ảm vào tóc tai quần áo quý khách! Món này ăn với bánh tráng cuốn rau sống và thảo hương. Rau sống, thảo hương (tức rau thơm) phải là rau sạch gồm đúng mười một loại: ba trái, tám lá! Đó là dưa leo, chuối xanh, khế không chua quá (xắt thiệt mỏng), xà lách, rau húng quế, rau húng cay, rau húng dũi, rau dấp cá, rau kinh giới, rau tía tô và ngò gai (miền Bắc kêu bằng mùi tàu). Bánh tráng phải là bánh Trảng Bàng phơi sương (tối kỵ loại bánh tráng như giấy pơ luya rất dởm!). Món thứ năm là chả cá Lã Vọng, phải làm bằng cá lăng tươi, đúng cách Lã Vọng cổ điển là phải nướng trên hỏa lò chứ không xào. Món này là số dách, ai cũng thèm. Cuối cùng, có một món ăn mà đố ai kêu ngán! Món này gồm bốn năm thứ sánh vai nhau, gắn khăng khít với nhau: cơm trắng nấu bằng nàng thơm chợ Đào hoặc tám thơm miền Bắc, cá rô mề kho tộ kèm dưa cải chua, canh chua cá bông lau (dành cho người thích ăn món Nam), canh cua đồng rau đay mồng tơi mướp, cà pháo mắm tôm (dành cho người thích ăn món Bắc). Yêu cầu của tổ hợp món ăn này là phải nóng, canh cua đồng phải là cua giã bằng chày, cối đá chứ không được dùng cua xay máy, cua xay máy còn dính nhiều bùn, lại chưa lột yếm, lấy phổi, hoi và dơ bẩn lắm, không đúng kiểu! Tráng miệng gồm bưởi Năm Roi, vải Thiều Thanh Hà. Đồ uống (con đã có mối sẵn, là bạn con chuyên kinh doanh rượu Tây, giá phải chăng và đúng rượu thứ thiệt) sẽ dọn đủ sáu loại ly: ly uống sâm banh, ly uống vang đỏ, ai thích uống vang trắng thì tùy nghi, ly uống Cognac Hennessy, ly uống Whisky Scotch loại đầu bảng là Chivas Regal, cuối cùng là ly uống bia Heineken và ly uống nước ngọt. Về chi phí, lẽ ra con không kê ra, nhưng biết rằng thế nào các bác cũng hỏi nên con xin trình bày: Toàn bộ chi phí cho bữa tiệc nói trên, tưởng là mắc hóa ra không mắc nếu so với đặt tiệc tại nhà hàng. Bình quân mỗi bàn mười người chỉ hết bảy trăm ngàn đồng. Dạ, chỉ bảy trăm ngàn đồng là nhòe*! Phải tạo ra không khí gia đình ấm cúng trong bữa tiệc. Chén bát đĩa, ly tách phải là đồ sứ Minh Long, sứ cao cấp, có kiểu dáng và hoa văn mang đậm hồn Việt, đã và đang danh tiếng trên thế giới. Phục vụ phải là nam thanh niên, trẻ khỏe, đồng phục sơ mi trắng tay cài măng sét, thắt cà vạt, quần tây, đi giày da đen, vớ đen. Con đề nghị bác Lịch mời nhà nấu đến thương thảo, nếu đáp ứng mọi nhu cầu trên thì đặt, bằng không thì chỉ đặt những món Nam, còn những món Bắc, để con nhờ đệ tử trong công ty con, quen thân với nhà nấu từ Hà Nội vô làm ăn tại Sài Gòn đã hai năm nay rồi, đông khách tưng bừng!
Nhòe, tiếng lóng xuất hiện ở các tỉnh phía Bắc, từ thập niên 1990 của thế kỷ 20 trở lại đây, ý nói là say mèm, nhìn vật gì cũng nhòe, không rõ nét nữa!
Giọng trong vắt, diễn cảm của Phương Nam vừa dứt, ông Hòa nhìn bà Lịch, bà Lịch nhìn bà Yến, bà Yến nhìn chồng. Họ không còn biết nói gì! Đúng lúc đó Phương Nam lên tiếng:
- Con ủng hộ đề án của Tâm! Đó là một đề án hết sảy! Nếu Tâm đồng ý, Nam sẽ công bố đề án này là Luận án tiến sỹ văn hóa ẩm thực, với các món ăn đậm đà bản sắc Việt Nam!
Bà Lịch mắng yêu:
- Nói chuyện ăn nhậu thì chị em bay hạp nhau như cá lóc hấp cuốn bánh tráng chấm mắm nêm còn gì! Quả là em hát chị khen hay! - Nói rồi quay sang bà Yến – Mẹ Yến tính sao? Con nó vẽ rồng vẽ rắn như vầy, tôi thấy khó mà quán triệt tinh thần của ba nó là tiết kiệm…
Nói rồi, bà Lịch nhìn chồng cười rất duyên. Phải thừa nhận rằng bà Lịch không thua chồng về cái nụ cười… chết người! Năm xưa, cậu học sinh trường Petrus Ký đeo dính bà Lịch như sam chính là vì nụ cười và mái tóc của bà. Bà Lịch năm nay sáu mươi bảy tuổi nhưng da mặt vẫn đầy đặn, đôi mắt vẫn đen và tinh anh, nụ cười rất tươi. Nhìn vào gương mặt bà, thấy ngời ngời nhân hậu. Trong khi bà Lịch nói, bà Yến rót nước mời chồng và mời chị Lịch, mặt rạng ngời, miệng tủm tỉm cười, không biết nói gì!
Ông Hòa nhìn cả nhà vui vẻ, mà lòng ông xót xa khi nhớ tới thằng Thăng hư đốn, giờ này nó đang quậy phá nơi nào. Từ ngày bị đuổi khỏi Z007, nó rất ít khi ăn cơm nhà, nó tránh mặt mọi người trong nhà. Đêm khuya thật khuya nó mới mò về, leo lên phòng riêng để nguyên quần áo giày vớ mà ngủ như thằng chết rồi. Hòa miên man suy nghĩ, quên phắt mất rằng hai vợ và các con đang chờ ông quyết.
Tâm ơi, cháu có ý chí, thông minh, chu đáo, sắc sảo, hiếu thảo đến thế. Còn thằng Thăng, nó được cả nhà chăm bẵm dạy dỗ từng ly từng tí, lại thành phá gia chi tử là sao? Bố giỏi giang, anh hùng mà con thì lêu lổng, chỉ quen hưởng lạc, là sao hả Trời? Người ta bảo, nhà nào cũng phải có một đứa lạc loài. Thằng Thăng kể như trái độc!
Thấy chồng không nói gì, đôi mắt nhìn như vô định, bà Lịch nhắc:
- Kìa, ba quyết đi chớ!
- Vậy sao? Tôi phải quyết sao? Thôi, tôi già rồi, lạc hậu rồi, từ ngày xây nhà mới đến giờ, tôi thấy con cháu khôn ngoan, trưởng thành, tôi vui lắm lắm, hai bà biết không? - Ông Hòa đưa hai bàn tay đặt lên vai hai người vợ hiền của mình - Thôi để chị em Tâm, Nam quyết chuyện này, hai bà nghĩ sao?
- Em nhất trí!
Vẫn giọng bà Lịch, còn bà Yến chỉ cười, cười rất tươi. Gương mặt của người đàn bà xứ Kinh Bắc đẹp một cách nền nã, hiền thảo, khiến bà Lịch cứ muốn ngó hoài!
Ông Hòa tuồng như không biết hai bà vợ của mình đang trò chuyện gì sau đó, ông chìm vào luồng suy tư về những đứa con của mình. Nguyễn Anh Trung và Nguyễn Trung Thành, con gái rượu Nguyễn Phương Nam xinh đẹp nết na, và thằng cháu Hùng Tâm tẩm ngẩm mà thương ông thương bác sâu nặng… Cha con ông, tức cụ Nguyễn và ông rất tự hào. Con hơn cha là nhà có phúc! Cha ơi! Cha sống trăm tuổi, thấy các con các cháu thành đạt, chắc chắn cha sẽ thọ nhiều hơn nữa, nếu như gia đình ta không gặp quả đắng, thằng Thăng!
Cuối năm 1994, Hai Sài Gòn về hưu, việc đầu tiên ông đã làm được là lo việc làm cho thằng Thăng. Ông chưa kịp tự thưởng cho mình về thành công ấy thì thằng Thăng đánh nhân viên bảo vệ gãy be sườn, bị đuổi khỏi nhà máy, phải bồi thường cho nạn nhân để xin bãi nại. Chưa đầy hai tháng sau, thằng Thăng lại đua xe gây tai nạn nghiêm trọng. Một thanh niên đang trên đường chở người yêu đi gửi thiệp mời đám cưới, bị xe của thằng Thăng đụng chính diện, xe của băng Rồng Xanh từ phía sau cán tiếp. Chàng trai gãy cả hai chân, còn cô gái thì bị chấn thương sọ não! Hai chục cây vàng Hùng Tâm đưa cho bác, thế là nướng cả vào chuyện bồi thường, chăm sóc cho nạn nhân. Tai tiếng rần rần trên mặt báo, trong cuộc họp giao ban của Ban nội chính thành phố, người ta đòi nghiêm trị những tên đua xe gây rối, gây tội ác.
Thà cứ cho nó ngồi tù lại đỡ đau lòng hơn, đỡ xấu hổ với bạn bè đồng chí!
Ông Hòa nghĩ vậy, cho nên khi bà Lịch cãi ông, tự ý chạy chọt cho thằng Thăng, hai người thề không bao giờ nhìn nhau!
Nhưng lần này thằng Thăng phải ngồi tù thật! Nó đã hết tuổi vị thành niên, mười tám tuổi, phải lãnh án ba năm tù ở. Bà Lịch lại chạy chọt, mãi mới giảm được án xuống còn một năm. Tóc ông Hòa gần như bạc trắng, tóc bà Lịch thì trắng xóa từ lâu rồi. Cú này, ông Hòa mâu thuẫn vô cùng gay gắt với bà Lịch. Trước vụ này, ngay sau khi thằng Thăng bị đuổi khỏi nhà máy, ông Hòa đã quyết định cho cái thằng trời gầm đi trại cải tạo lần thứ hai, nhập trại ở miền Bắc, nhưng bà Lịch không nghe! Bà thương cháu côi cút, vẫn lén ông Hòa cung phụng tiền bạc cho nó. Ông Hòa phát hiện ra. Quả là con hư tại mẹ, cháu hư tại bà! Các cụ nói có bao giờ sai. Vợ chồng ông Hòa cãi nhau, không thèm nhìn mặt nhau, không thèm ngồi ăn chung bàn. Mẹ thằng Thăng, sau cú sốc này phải đi nằm viện, lâm bệnh ung thư buồng trứng. Còn đại tá Hòa, sau một trận cãi cọ nảy lửa với bà Lịch, bay ra Hà Nội ở lỳ ngoài đó suốt hai tháng, đến khi con gái út bay ra năn nỉ mãi ông mới trở lại Sài Gòn để tổ chức lễ đại thượng thọ cho cha!
Sống trên cõi nhân gian này, phần đông con người ta lạc vô cõi mê chứ có mấy ai thường xuyên tỉnh táo nhìn lại những bước đi của mình? Chỉ khi nào anh phải vô nhà thương điều trị vài tháng, hoặc bị bồ đá, hoặc là khi gia đình lủng củng, cơm không lành canh không ngọt, thì lúc ấy, anh mới chịu nhìn lại mình.
Hai tháng trời ở Hà Nội, ông Hòa đi đây đi đó gặp lại nhiều cố nhân, vui nhiều, nhưng đêm về, ông nhìn lại những năm đã qua…
Khi Nguyễn Kỳ Hòa tham gia Thanh niên Tiền phong, khởi nghĩa giành chính quyền trong cuộc cách mạng tháng Tám 1945 tại Sài Gòn thì cũng là lúc Trần Thanh Lịch đang học những ngày đầu tiên của trường Gia Long. Khí thế cách mạng sôi sục, cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn. Cuộc chiến đấu không cân sức giữa quân cách mạng đang còn trứng nước với thực dân Pháp dẫn đến việc quân ta lần lượt rút ra khỏi thành phố. Cha mẹ Lịch hy sinh cùng một ngày! Thanh Lịch mới mười bảy tuổi, chôn cất cha mẹ xong, nén đau thương đi tiếp tế cho Việt Minh. Lịch gặp Kỳ Hòa bô trai, phong trần… đúng là típ người mà các nữ sinh thành phố mong ước. Còn Thanh Lịch, mang đặc trưng người gốc Hà Nội, da trắng tóc dài, mặt trứng ngỗng, mũi cao, gương mặt toát lên vẻ dịu dàng đôn hậu, nhìn vào là thấy tin tưởng. Tình yêu nảy nở vô cùng lãng mạn…
Năm 1947, họ thành vợ chồng. Thằng Trung, thằng Thành lần lượt chào đời. Đầu năm 1955, Hòa đi tập kết, tháng Chạp năm Ất Mùi, Thanh Lịch sinh con trai thứ ba, ông nội đặt tên Nguyễn Ngọc Bảo. Hai thằng lớn giống cả cha lẫn mẹ, duy có thằng út giống mẹ nhiều hơn, không cao lớn như cha, chỉ giống cha ở đôi mắt và cái miệng. Số nó vắn, chỉ sống được hơn một năm thì qua đời! Cha con không biết mặt nhau! Khi ông Hòa tập kết ra Bắc, cấp trên cho phép mang một đứa con đi cùng. Thằng Trung không chịu đi, nó bảo để nó ở Sài Gòn chăm ông nội và phụ giúp má. Thế là thằng Thành đi tập kết. Chủ nhật nào Hòa cũng cho con ra hồ Hoàn Kiếm ăn kem. Thằng Thành có thể ăn hết một lúc cả chục cây kem. Nó có thể ăn kem trừ cơm, ngày nào ăn cũng được! Năm 1964, vì thường đi công tác xa, Hòa gửi con vào nội trú ở trường học sinh miền Nam. Thành mê học và học rất giỏi. Được tin vợ bị giết hại trong tù, đến năm 1965, ông mới tục huyền cùng cô gái xứ Kinh Bắc tên là Hải Yến.
… Hai Sài Gòn xếp hàng mua bia hơi. Hàng người dài quá mà bia hơi chỉ có vài bom. Còn năm sáu người nữa mới tới lượt Hòa thì từ trong quầy hàng vang lên giọng nói ngọt như mía lùi:
- Xin quý khách thông cảm, đã hết bia rồi ạ!
Khát nước rát cả họng nhưng nghe giọng nói của cô nhân viên, tự nhiên Hòa thấy người khác hẳn. Hòa tiến đến quầy, sát liền cô gái, chỉ cách một vách ngăn thấp bằng lưới mắt cáo sơn xanh. Đó là một khuôn mặt lạ lùng: không trang điểm gì mà má hồng môi đỏ, mắt đen lay láy, cười rất tinh nghịch. Chiếc quần phíp đen cộc hẫng cộc hờ vì chủ của nó cao tới một mét sáu mươi sáu. Cái quần phíp cộc giúp Hòa nhận ra bàn chân thon, đầy đặn, mu bàn chân dày, cái gót chân hồng trên đôi guốc nhọn gót. Hết bia, Hòa mua một ly cà phê đá. Hai bàn tay cô gái trắng nõn nà thoăn thoắt đập đá và quậy cà phê cho sủi bọt lên như bọt bia. Nụ cười thật tươi, hàm răng thật đều, cổ cao ba ngấn, và… chao ôi bộ ngực gọn, căng tròn như chỉ chực bứt tung ra khỏi chiếc áo vải phin trắng cổ lá sen, cũng cộc hững cộc hờ như chiếc quần đen! Cái eo nhỏ quá!
- Em ơi, em tên chi dzậy em? – Giọng Nam Bộ, trầm và ấm như rót vô tai cô gái trẻ.
Cô gái ngước đôi mắt bồ câu đen nhánh lên nhìn người đàn ông, cười rất tươi:
- Anh đã nhìn tên em thêu trên ngực áo mà còn hỏi!
Cái cằm chẻ khiến khi nói, miệng cô gái cuốn hút người nghe bởi cái duyên ngầm và giọng nói trong trẻo, ngọt ngào.
- Em có mái tóc đẹp quá!
- Anh quá khen! Em gọi anh thế nào? Cà phê em pha có ngon không?
- Ngon, rất thơm và đậm đà! Anh là Nguyễn Kỳ Hòa, Ba Hòa, Hai Sài Gòn, em kêu tên nào cũng được! Anh Hai của anh hy sinh rồi nên trong đơn vị mọi người cho anh cái biệt danh: Hai Sài Gòn.
- Kỳ Hòa? Tên lạ nhỉ! Em đoán anh là bộ đội tập kết. Quê anh ở đâu?
- Nhà anh ở đường Hàm Nghi, trung tâm Sài Gòn.
- Chắc anh Hòa nhớ vợ con lắm nhỉ!
Mắt Hòa chợt như có đám mây xám kéo đến, nỗi buồn dâng lên ngập lòng. Nhận ra vẻ mặt buồn rười rượi của người đối diện, cô gái tên Yến hạ giọng như muốn nói riêng cho anh nghe:
- Anh buồn thế? Em xin lỗi, chắc là gia đình anh…
- Vợ anh chết trong tù rồi, chỉ còn cha anh và hai đứa con trai ở trỏng.
- Cho hai cốc cà phê đá đây! – Giọng ồm ồm của một khách hàng cắt ngang câu chuyện của hai người.
Sau lần đầu tiên gặp Hải Yến, Kỳ Hòa như bị cô hút hồn. Ngay ngày hôm sau, Hòa ra Thủy tạ và được Yến nhận lời: Sau giờ làm việc tối nay, anh đưa Yến đi dạo.
Hòa đã chở Yến lên đê Yên Phụ. Độ ấy, sông Hồng đầy ắp nước đang đe dọa những đoạn đê xung yếu. Đêm ấy họ cuồng nhiệt hòa quyện vào nhau! Tình yêu sét đánh là thế! Từ đó, Hòa thường xuyên ra nhà hàng Thủy tạ, anh không còn phải xếp hàng nữa! Một bên là mặt hồ long lanh mây trời, in hình tháp Bút, đền Ngọc Sơn và cầu Thê Húc, một bên là… Hải Yến, ngực bánh dầy mông dưa hấu, cổ cao ba ngấn trắng ngần, cằm chẻ và giọng ngọt trong, như có men làm say lòng Hòa. Hòa thường ưa ngồi ở sân lộ thiên, bên chiếc bàn con sát mép tường ngăn với hồ. Hòa ngồi đó, lặng lẽ ngắm em thoăn thoắt phục vụ khách hàng, chiếc quần phíp ống nhỏ, cộc hẫng cộc hờ khi em bước đi, hai gót chân như có cánh, phô ra cặp giò dài và thẳng, mông tròn và cong… Hòa lặng lẽ chiêm ngưỡng cho đến khi nhà hàng đóng cửa, anh đưa Yến lên đê Yên Phụ hoặc ra công viên hồ Bảy Mẫu… Có nhiều đêm đang yêu nhau thì trời đổ mưa rào, mưa ngoài Bắc dai như đỉa. Cả hai ướt như chuột lột cứ sùng sục trong chiếc áo mưa nhà binh. Kệ. Càng lạnh yêu nhau càng đậm đà, càng thú vị… Sáng chủ nhật, Hòa tới điểm hẹn, đèo Yến trên chiếc xe đạp Điamăng do Đông Đức sản xuất. Thời ấy, sỹ quan quân đội từ thiếu tá trở lên, còn cấp úy thì ưu tiên miền Nam tập kết, mới được phân phối loại xe này! Họ đi ăn phở, phở ngon và rẻ: ba hào một bát, rồi tới công viên Thống Nhất ngồi bên nhau, nhâm nhi cái kẹo dồi* và kể cho nhau nghe chuyện miền Nam, chuyện hát quan họ, hội Lim… Một cuộc tình đầy thơ mộng trong không khí sục sôi chống Mỹ, mỗi người làm việc bằng hai chi viện cho tiền tuyến miền Nam.
Kẹo dồi: Một loại kẹo gồm mạch nha và lạc (đậu phộng) cuốn tròn như khúc dồi (lòng), bên ngoài bao một lớp áo mỏng bằng bột nếp, nhai giòn tan và thơm ngon, rất hợp với nước trà móc câu Đại Từ Thái Nguyên.
Đơn vị đứng ra làm đám cưới cho hai người. Họ có con trai đầu lòng. Hòa đi B, Yến sanh Phương Nam năm Kỷ Dậu, một mình nuôi con, chờ chồng…

… Tiếng là ra Hà Nội nhưng thực ra ông Hòa chỉ ở bên bà Yến được đúng năm ngày. Thời gian còn lại ông đi đâu, làm gì? Ở Sài Gòn, bà Lịch vừa giận ông, vừa đau đáu nhớ thương ông, và tất nhiên, máu Hoạn Thư tưởng như đã tắt từ thuở nào nay lại trỗi dậy vô cùng dữ dội. Thế rồi, chính bà Yến chứ không phải ai khác đã thường xuyên thông tin cho bà Lịch về chương trình đi thăm thú các nơi của ông đại tá. Bà Lịch chả còn cớ gì để ghen khi mà cứ đi tới đâu, ông Hòa lại điện thoại về nói chuyện với cụ Nguyễn và với con gái rượu! Từ Sài Gòn bay ra Hà Nội, ông Hòa ở nhà hai ngày để… ngủ! Ông ngủ như chết, bà Yến lay gọi cách nào ông cũng không thể mở mắt. Suốt cả tháng trời, vì thằng cháu mất dạy, ông đã trắng đêm. Mắt thâm quầng, má hóp, da tái xám, ông mà vác cái mặt như vầy đi đây đi đó để bạn bè họ cười cho thối mũi chứ chơi à. Ở trên máy bay ông nghĩ thế và ông đã quyết định là phải ngủ liền tù tì một tuần cho lại sức rồi thì đi ngao du sơn thủy cho nó thanh cái tâm. Bà Yến nấu cháo cá quả thì là cho ông ăn. Nồi cháo hâm đi hâm lại ba lần, ông vẫn ngủ vùi. Rồi cháo tim gan, tôm he hấp bia, rồi canh cua rau đay mồng tơi mướp ăn với cà pháo chấm mắm tôm, rồi ốc thả lá gừng, ốc hấp thuốc bắc, chả cá Lã Vọng, cá song hấp nấm, gừng… tùm lum đồ ăn ngon, khoái khẩu một thời của đại tá Hòa. Vậy mà ông ngủ li bì đúng hai ngày hai đêm. Đến mười giờ sáng ngày thứ ba ông thức dậy, và ông ăn. Có lẽ chưa bao giờ ông đói ngấu và ăn khỏe như hùm beo vậy! Ông ăn gì cũng thấy ngon! Ông ăn suốt ngày hôm đó, vừa ăn vừa kể cho bà Yến nghe chuyện thằng Thăng, chuyện cãi cọ với bà Lịch, chuyện bán đất mà có nhà, rồi chuyện xây lại nhà Hàm Nghi, chuẩn bị làm lễ đại thượng thọ cho cha… Ông không để cho bà Yến kịp hỏi, kịp nói câu nào. Bà Yến chỉ có việc đi chợ, nấu ăn, nhìn ông ăn, và nghe ông nói. Ngủ đêm thứ ba ở Hà Nội, sáng sớm ngày thứ tư, một ông đại tá đang làm ở Bộ Tổng Tham mưu đưa ông đi Hải Dương thăm đền Kiếp Bạc, Côn Sơn. Kế đó ông đi Hải Phòng và lên Yên Tử, rồi xuống Hạ Long. Ông nghỉ ở Bãi Cháy ba đêm, đi thăm các đảo vùng Đông Bắc. Ông ra Móng Cái, tắm biển Mũi Ngọc, sang Đông Hưng (Trung Quốc) chơi một ngày, ngủ một đêm, rồi từ Móng Cái đi theo đường biên ngược lên Cao Bằng, về Lạng Sơn, lại tạt sang Bằng Tường (Trung Quốc) chơi hai ngày. Về lại Lạng Sơn, ông đi Sa Pa, lên Điện Biên Phủ, phóc sang Vân Nam. Xuôi Hà Nội, ông không về với bà Yến mà đi thẳng lên Hòa Bình, coi cái thủy điện Sông Đà nó ra răng mà người ta ca nó nhiều rứa. Ông ngủ một đêm với mấy ông bạn ở tỉnh đội Hòa Bình, uống rượu cần tại một bản Mường dưới chân dốc Cun, uống thâu đêm, uống chay, vừa uống vừa dán mắt vào ngực và mông mấy cô gái Mường làm du lịch… Từ Hòa Bình, ông về Hà Tây đi một loạt chùa: chùa Đậu, chùa Trầm, chùa Trăm Gian, chùa Thầy, chùa Tây Phương. Từ Hà Đông, ông quẹo tay mặt sang Quốc lộ số Một trực chỉ Thanh Hóa, tắm ở Sầm Sơn một cái rồi lại trực chỉ Cửa Lò thành phố Vinh. Khi ông rời thành Vinh để ra Hà Nội, cuốn sổ tay của ông có dòng chữ: Hòa đã xa Sài Gòn ngày thứ hai mươi sáu! Trước khi vô Sài Gòn, ông ăn cơm với bà Yến được ba bữa trưa, ngủ ở nhà một đêm, còn toàn đàn đúm bạn bè bởi đã lâu quá không gặp lại… Những người bạn từ thuở tóc xanh, nay đã bạc phơ, con cháu đùm đề, vồ được ông, họ như trúng số độc đắc, níu kéo ăn nhậu, bắt ngủ lại để chuyện trò cho đã, cho bõ những ngày xa cách! Gặp lại bạn hữu, được đi thăm các danh lam thắng cảnh của đất nước, Hòa đạt được chỉ tiêu đề ra là thanh tâm, hồi sức! Ông như hồi xuân, cười nói rổn rảng, bia rượu thoải mái, hò hát í ới, y như ngày xưa, trẻ trung và vô tư cực kỳ. Ông xa bạn bè, xa Hà Nội từ năm 1969, hai mươi sáu năm trời còn gì!
Nghe chồng kể chuyện thằng Thăng, bà Yến khóc, suốt đêm khóc bên chồng vì thương nhớ thằng Thành mà bà coi như con đứt ruột đẻ ra. Không ngờ hòn máu duy nhất Trung Thành để lại cho gia đình, cho cuộc đời này lại trở thành nghịch tử! Đau quá! Trong khi vợ khóc, ông Hòa ngủ mê mệt, ngáy ầm ầm y hệt hai ngày đầu vừa từ Sài Gòn ra Hà Nội. Sáng mai ông vô Sài Gòn rồi. Hai mươi sáu năm mới trở lại Thủ đô mà ông đi biền biệt, chả ở gần bà được trọn một ngày, về tới nhà tắm rửa xong, ăn uống xong, mới trò chuyện được một lát là lăn ra ngủ liền như đứa trẻ thế kia!
Chả bù cho ngày mới quen nhau! Ngày ấy, ông Hòa đeo bà Yến như sam. Cưới nhau, hầu như chả đêm nào ông để cho bà ngủ. Sáng ra, ăn sáng xong, mệt quá bà ngủ thiếp đi, cũng bị ông dựng dậy để rồi cứ sùng sục sùng sục yêu nhau cả ngày. Bà Yến sung sướng vì được ông yêu thương đắm đuối, tự hào về sức khỏe của chồng. Không ít ngày ông yêu bà tới hai mươi mốt lần trong vòng hai mươi bốn giờ! Thế nên bà phải nhắc ông giữ gìn sức khỏe:
- Chiến tranh ngày càng ác liệt, anh phải điều độ để mà giữ sức còn chiến đấu chứ!
Ông Hòa cười phá lên, nói tếu táo:
- Ngày nào anh cũng chào đón em bằng hai mươi mốt phát đại bác mà!
Ánh mắt Hòa chan chứa tình yêu thương và niềm vui, nhào tới ẵm bà Yến lên giường, vừa hôn như mưa trên mặt, trên người bà, vừa thì thào: Chiến đấu chứ! Chiến đấu chứ!…
Chỉ đến khi bà Yến báo tin vui cho chồng: Em cấn thai rồi anh! thì ông Hòa mới chịu điều độ…
Mùa xuân 1965, con trai đầu lòng Nguyễn Kinh Bắc chào đời. Càng lớn nó càng giống cha: cao ráo, vai rộng, miệng rộng, mũi cao, gáy phẳng lỳ, nhưng nó lại giống mẹ ở làn da trắng mịn, đôi mắt có đuôi dài rất sáng và tinh anh. Miền Bắc vừa phải đương đầu với chiến tranh phá hoại của Mỹ, vừa dốc sức cho chiến trường miền Nam; cuộc sống vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Bà Yến chăm chút cho hai đứa con Thành và Bắc từng ly từng tý. Thành đi học về là giúp mẹ cơm nước tắm rửa cho em. Nhưng thằng bé không được khỏe, giống như hàng triệu trẻ em trên miền Bắc hồi đó, nó thiếu dinh dưỡng. Bắc ốm đau luôn. Cuối năm 1965, Bắc chưa đầy tuổi, ông Hòa đi chiến đấu ở chiến trường C (Lào). Năm 1967, ông Hòa lại được điều về khu Bốn, thỉnh thoảng mới tranh thủ về Hà Nội thăm vợ con. Sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, tình hình miền Nam vô cùng khó khăn, nhiều đơn vị quân đội chỉ còn vài người! Đến mùa Xuân năm 1969, Hòa cùng đơn vị pháo của mình đi B. Mùa Thu năm Kỷ Dậu ấy, con gái rượu Phương Nam ra đời. Mỹ tiếp tục ném bom ác liệt Hà Nội, Hải Phòng. Sơ tán rồi lại hồi cư, lại sơ tán… Vừa đi làm vừa nuôi dạy ba đứa con, chồng cứ xa biền biệt… vậy nhưng chưa bao giờ bà Yến kêu ca phàn nàn một câu. Đêm mười tám rạng ngày mười chín tháng Mười hai năm 1972, bom Mỹ sát hại thằng con trai yêu quý của Hải Yến. May mà thằng Thành ở trường chứ nếu nó ở nhà thì bà mất trắng cả hai con trai rồi! Hai anh em nó quấn túm nhau như hình với bóng. Thằng Thành đào một hố tăng xê ngay dưới gầm giường, thật rộng, đủ chỗ cho bà Yến với con gái út, còn hai anh em nó, khi có còi báo động chạy ào ra hầm tránh bom công cộng, khá kiên cố, cách nhà hơn chục mét. Đêm ấy, trong hầm có mười ba người cả thảy, toàn trẻ nít và cụ già… Xác mọi người bật tung lên sau loạt bom đầu, rồi lại bị loạt bom thứ hai, thứ ba hủy diệt tiếp. Bởi thế nên thi thể thằng Nguyễn Kinh Bắc bảy ngày sau mới kiếm ra. Tang tóc trùm lên cả khu phố. Bà Yến đứt từng khúc ruột, tưởng chết theo con… Nhìn Thành và con gái út khóc nức nở trước mộ thằng Bắc, bà trỗi dậy, bà quyết không gục ngã lúc này. Hai đứa con trở thành điểm tựa cho bà trụ vững.
Bây giờ nằm bên ông, nhớ lại, bà Yến chợt rùng mình nghĩ: Tại sao hồi đó mình làm được những việc đó?
Chồng vẫn ngủ ngon, bà Yến nép sát vào người ông Hòa, không làm ông thức giấc, bà tự trả lời: Vì em yêu anh, yêu sự trong trẻo của tâm hồn anh, và yêu cái chất đàn ông trong anh, mạnh kinh khủng! Anh biết không?
Đúng là chỉ có tình yêu thương chồng con mới giúp cho bà Yến có nghị lực vượt qua những năm tháng khốn khó ấy… Ngắm chồng, tự nhiên nỗi nhớ thằng Bắc lại trào dâng trong lòng bà.
Gia đình Hòa Yến hồi ấy sống trong căn nhà chật chội ở khu nhà tập thể bãi Thiên Phúc. Nhiều gia đình sỹ quan quân đội sống ở nơi này. Một bên là sông Hồng, mùa lũ lụt, nước ngập đến giường, có năm nước ngập nóc nhà. Năm nào cũng có trẻ con chết đuối. Một bên là Hà Nội, vài chục bước chân lên mặt đê, băng qua đường Trần Nhật Duật là tới tòa nhà Viễn Đông Bác Cổ, là tới Nhà hát Lớn với quán bia hơi ngay giữa vườn hoa lúc nào cũng đông nghịt người, là vào Tràng Tiền, là tới Hồ Gươm. Phố xá xe cộ nườm nượp ngày đêm. Những người ở bãi Thiên Phúc cùng cảnh ngộ: nghèo, chồng đi vắng, con còn nhỏ, luôn thèm ăn, luôn thấy đói, vợ là nhân viên trong cơ quan nhà nước, đồng lương rất thấp. Hộ khẩu Hà Nội và tem phiếu lương thực thực phẩm là hai thứ gia bảo, quý giá vô ngần! Xếp hàng là công việc trên hết, công việc thường ngày! Tôi xếp hàng nghĩa là tôi tồn tại! Xếp hàng mua thực phẩm, mua gạo, mua dầu hỏa, xếp hàng tới chín, mười giờ đêm để hứng nước máy từ cái vòi công cộng rỉ rỉ như mèo đái, gánh về nhà. Vậy mới nên câu: Ban ngày làm việc nhà*, ban đêm làm việc nước. Mua bia hơi, thậm chí mua phở không người lái, mua kem cũng phải xếp hàng. Người đông, hàng hóa cực kỳ khan hiếm, của không ngon nhà đông con cũng hết sạch! Trong khu tập thể, còn cái vụ xếp hàng này mới kinh hoàng, đó là xếp hàng vào nhà xí công cộng. Ngồi hố xí công cộng, gió thốc từ phía dưới tốc lên, trời nắng nóng hầm hập, ngồi đó xong, ra ngoài thì ôi thôi từ đầu tóc tới quần áo toàn mùi phân nồng hắc! Những ngày trời mưa, xếp hàng ướt như chuột lột, ngồi xong, chạy về tới nhà thì không còn nước mà tắm rửa. Trong khu tập thể, một gia đình ăn tươi, như mổ gà chẳng hạn, thì cả bãi Thiên Phúc biết, xì xầm, ganh ghét vì quá thèm! Nhà nó có vấn đề! Mới tuần trước ăn nguyên con cá chép, tuần này lại mổ gà trống thiến. Tất cả cho tiền tuyến, cả nước thắt lưng buộc bụng mà nhà nó chè chén linh đình như thế là có vấn đề rồi! Họ sống bằng đồng lương, luôn luôn thèm khát một cái gì đó, luôn luôn thiếu dinh dưỡng! Không ít những đứa trẻ ở khu dân cư này vượt lên số phận, học giỏi, thành tài, nhưng cũng không ít trẻ ham ăn chơi, hư hỏng.
Mang quần áo dơ đến cơ quan giặt giũ, nấu nước sôi, nấu cơm tại cơ quan.
Ba anh em Thành, Bắc, Nam luôn thấy thèm một cái gì, dù mới ăn xong bữa, vẫn thèm. Bởi vì, chỉ ăn no chất bột không thôi thì người ta rất mau đói và thèm nhiều thứ lắm. Thèm từ miếng tóp mỡ cho đến cái đùi gà luộc. Bây giờ, sau bữa ăn, cha mẹ thường ép trẻ con ăn nho ăn táo, chứ hồi đó làm gì có chuyện đó! Hoang đường! Đến cam, chuối, bưởi bòng còn không có mà ăn nữa là trái cây ngoại quốc… Mỗi lần đi học ngang quán phở, nước miếng thằng Bắc ứa đầy miệng. Đúng là thèm rỏ dãi ra! Bắc ăn khỏe nhất nhà. Mẹ và anh Thành toàn nhịn cho Bắc ăn. Nó ước gì có trong tay một đồng bạc để có thể chễm chệ ngồi trong quán phở và gọi dõng dạc: Cho một bát phở đặc biệt đây! Rồi cho tương ớt vào, cho một thìa dấm vào (chỉ có một vài quán có chanh tươi, còn toàn là dấm nuôi cả thôi!). Nó sẽ cho ớt bột vào cho thật cay, cay xè đến mức ù tai, chảy nước mắt nước mũi ra, rồi nó xì xà xì xụp mà ăn ngon lành, húp ngon lành cho đến giọt nước cuối cùng. Giá mà có hai đồng thì tốt hơn. Nó sẽ ăn một lúc hai bát. Ôi, biết đến bao giờ trẻ con mới được ăn sáng bằng phở, chứ không phải ngồi gặm bánh mì khô, trợn mắt trợn mũi lên mới nuốt trôi hai cái bánh! Tiếng thế, Bắc vẫn biết rằng anh em nó còn may mắn hơn hàng trăm đứa trẻ khác ở cùng bãi Thiên Phúc này. Cha mẹ chúng nó là lao động tự do, không phải người Nhà nước nên triền miên thiếu đói! Chúng nó làm gì được ăn hai cái bánh mì một lúc như mình. Nghĩ thế, nó thấy hãnh diện phần nào… Thế nhưng, càng lớn, sự thèm thuồng của nó càng mãnh liệt và diện thèm khát càng mở rộng ra. Nó thèm được ăn phở Thìn Lò Đúc, phở gà Nam Ngư, ăn mì hoành thánh trong quán của người Tàu ở Trần Hưng Đạo; thèm chả cá Lã Vọng, thèm bồ câu quay ở phố Tạ Hiện, rồi thèm ăn cốm Vòng, thèm kem. Nó có thể ăn hết một lúc chục que kem Bờ Hồ. Rồi nó thèm uống bia hơi. Có một lần, hồi chưa đi B, Hòa cho thằng Bắc và Thành đi ra bãi bia hơi Cổ Tân. Nó nhớ hoài bữa đó, mỗi lần nhớ ba, nó kể cho mẹ nghe đến thuộc lòng!
Sau khi ba đi B, Thành từ trường đại học về ngày chủ nhật vẫn dành thời gian cho em đi chơi, cũng đến Cổ Tân xếp hàng mua bia hộ để có lạc rang húng lìu cho em, và hóng chuyện người lớn! Bia thì quá ít mà người thì quá nhiều nên xếp hàng rất dài, rất cực mới mua được bia. Nhiều khi, đến lượt thì bia hết! Hồi đó Bắc đòi uống, ba nó chiều. Ba hào một cốc vại, bọt bia trắng, xốp, mịn và thơm mát bám trên mép nó, nó liếm mép và tưởng tượng ra như thể nó đang cầm cốc bia trên tay, giữa quán bia hơi nổi tiếng trên phố Cổ Tân ở bên hông Nhà hát Lớn, nơi nhà văn Nguyễn Tuân thường ngồi hàng ngày. Nó đã từng là bạn vong niên của Nguyễn Tuân! Đó là theo cách nói của ông Nguyễn chứ hồi đó Bắc còn bé tí, chưa tới năm tuổi, biết vong niên là cái chi! Ông Nguyễn Tuân có thể ngồi cả ngày chỉ vì bia hơi. Ông ngồi để uống bia thì ít mà chủ yếu, theo nó nghĩ, ông ngồi để ngắm nghía người ta đi qua đi lại. Ông Nguyễn nói đó là dòng đời đang trôi… Chúng tự hào được cái may mắn xếp hàng hộ cho ông nhà văn có cái mũi khoằm! Mỗi người xếp hàng được mua hai cốc bia, mà tửu lượng của ông thì phải gấp ba gấp bốn chừng đó. Thế là ông đứng trước, nó bám đít ông mà xếp hàng. Nó mang hai cốc bia ra cho ông Nguyễn. Ông cười rung chòm râu đưa nguyên gói lạc rang húng lìu gói bằng giấy báo theo hình loa kèn cho nó. Rồi nó ngồi hóng chuyện. Người lớn nói đủ thứ, bên cốc vại bia hơi, thế giới như thu hết vào trong tay họ! Họ nói chuyện thời cuộc: chiến sự ngày càng quyết liệt ở miền Nam, chuyện đảo chính ở Chi Lê, chuyện về ẩm thực, món nào ngon nhất ở các miền quê, chuyện văn chương, nhiều nhất vẫn là chuyện đàn bà, chuyện nhân tình thế thái, toàn những chuyện quốc gia đại sự… Nó không hiểu hết những chuyện của người lớn, nhưng nó rất thích nghe, nó thấy chuyện của họ hấp dẫn hơn rất nhiều các bài học ở trường. Nghe người lớn nói chuyện, nó cảm thấy mình đang lớn lên. Về nhà, nó hỏi mẹ những điều nghe được mà không hiểu, những điều khiến nó chau mày băn khoăn. Một hôm, Bắc hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, tại sao đàn bà phải có vú, mà vú bánh dầy mới được coi là đẹp, hả mẹ? Tại sao lại gọi người vu khống là thủy chung như nhất hả mẹ?
- Ơ cái thằng này, ai bảo con nói vậy? - Bà Yến trừng mắt quát.
- Có ai bảo đâu? Con nghe mấy bác mấy chú nói chuyện với nhau ở bãi bia Cổ Tân ấy! Không hiểu thì con phải hỏi. Mẹ chẳng đã bảo con: Cái gì không biết thì phải hỏi mẹ, hỏi ba, hỏi thầy cô là gì!
Người mẹ lúng túng trước vẻ thơ ngây của con trai mình. Rồi… theo bản năng của người lớn, cái gì không nói được, cái gì khó nói, chưa tiện nói với trẻ con thì ngay lập tức át đi bằng câu:
- Có nhiều chuyện lớn rồi khắc biết, bây giờ mẹ có nói con cũng chẳng hiểu đâu!
Thằng bé thông minh, hiếu động, ham hiểu biết không chịu:
- Thế nhưng… vú mướp là gì hả mẹ? Sao mấy bác ấy lại gọi cô Nhạn bán bia hơi là vú mướp?
- Con có thôi ngay cái chuyện nghe lỏm ở chỗ bia bọt đi không? - Bà Yến cáu tiết mắng con - Con trốn học hay sao mà đi hóng chuyện của mấy ông bia bọt bê tha? Tuổi của con là tuổi phải lo chăm học chăm hành. Lười học, ham la cà đầu đường xó chợ thì lớn lên đi ăn mày, con ạ! Kỳ này ba về, ba sẽ cho con no đòn!
Bắc muốn hét lên với mẹ: Nhưng mà con đói, với lại học chán lắm, đi chơi thú vị hơn nhiều… nhưng thấy mẹ nó trừng mắt nhìn, nó im re.
Đêm đêm, như thường lệ, Bắc đưa tay rờ vú mẹ, đòi mẹ kể chuyện, nghe chưa hết câu truyện cổ thì đã ngáy khò rồi dang thẳng chân tay đánh một giấc đến sáng bảnh mới dậy đòi ăn. Đêm ấy, Bắc đưa tay lên ngực mẹ, thấy mẹ nằm yên, tưởng mẹ ngủ, nó luồn tay rờ đầu vú mẹ. Biết con trai đang rất tò mò vì câu chuyện của người lớn, bà Yến vừa thương con, vừa buồn cười, vừa giận con thích hóng chuyện. Bà Yến bật cười khanh khách, vì nhột. Bà nắm lấy hai bàn tay con, ôm chặt con vào lòng. Bên trái bà, bé Phương Nam ngủ ngon lành, nét mặt như trăng rằm. Bà lựa lời nói với con trai:
- Năm lên ba tuổi con mới phải thôi bú mẹ, vì em gái con lúc ấy bú khỏe lắm, mẹ không đủ sữa cho em bú. Hai anh em con bú mẹ nhiều thế mà ngực mẹ vẫn gọn gàng. Ba khen mẹ đó! Đấy là nhờ ông bà sinh ra mẹ cho mẹ bộ ngực bánh dầy, giống cái bánh dầy ấy, con nhớ không? Còn những người vú mướp là giống quả mướp, nó dài, nên chưa có con mà đã chảy xệ xuống…
- Thảo nào! - Bắc ngồi nhỏm dậy, nhìn mẹ, nó thích được nói chuyện với mẹ trước khi ngủ. Suốt ngày mẹ đi làm, nó đi học, chiều về lại hối hả lo cơm nước, ít khi mẹ con được trò chuyện với nhau - Mấy bác ấy bảo những người vú mướp thì xấu, nuôi một đứa con là thõng thẹo, có thể vắt vú lên vai! Eo ơi, kinh nhỉ mẹ nhỉ! Nhưng, mẹ ơi, mấy bác bảo có vú mướp còn hơn những người vu khống, vu khống là quả gì bánh gì hả mẹ?
- Vu khống là nói lái, tức là không vú, chứ sao lại bánh với quả gì ở đó! Thủy là trước, chung là sau, thủy chung như nhất là trước sau như một, tức là những người không có vú thì trước ngực cũng phẳng như sau lưng, con hiểu chưa?
- Vâng, hiểu rồi mẹ ạ! Gớm thật!
- Con nói gớm cái gì?
- Thủy chung như nhất ấy! Phẳng lỳ như phản thì lấy gì nuôi em bé mẹ nhỉ!
- Phải rồi! Người phụ nữ phải có vú để có sữa nuôi con. Bộ ngực của người phụ nữ là báu vật do tạo hóa ban cho, nó làm cho người phụ nữ đẹp, duyên dáng và nhờ nó mà có tình yêu, tình mẫu tử… Người ta nói ai không có vú tức là vô phúc…
Thằng Bắc đã ngáy khò khò. Nó cựa mình ra khỏi mẹ để thẳng chân thẳng tay mà ngủ. Bao giờ cũng thế, bắt đầu chui vào trong màn là nó tìm hơi mẹ, nghe mẹ kể chưa hết câu chuyện gì đó là nó ngáy rồi. Khi đã ngủ thì nó rời xa mẹ để duỗi thẳng chân tay, mặt ngửa lên trời, làm một giấc đến sáng, mẹ gọi mãi mới dậy. Cái nết ăn nết ngủ của nó thật dễ. Ăn gì cũng xong, miễn là được ăn nhiều. Thi thoảng mẹ ở cửa hàng về mang cho nó vài miếng thịt luộc hoặc tấm bánh, thế là nó sướng lắm, mắt nó sáng lên, nó gọi em gái rối rít để hai anh em đi rửa tay. Nhiều lần nó không rửa tay nên bị mẹ đánh đỏ cả tay lên vì tội mất vệ sinh, không rửa tay trước khi ăn. Bắc ăn nhiều, lớn nhanh như thổi! Càng lớn nó càng ăn khỏe! Biết bao nhiêu lần người mẹ đã nhịn ăn để nhường cho con. Lúc nào Bắc cũng thấy thèm thuồng ăn một thứ gì đó. Lúc nào nó cũng đói.
Ở trường cô giáo bảo Bắc học vào loại thông minh, mỗi tội không thích học, chỉ thích chơi và nghịch ngợm kinh khủng! Bắc đầu têu ra đủ mọi trò để quậy phá trong lớp trong trường. Nó sướng nhất là được đi chơi, xếp hàng mua bia hộ bác Nguyễn. Nó không biết thích vì cái gì, nhưng thấy ông Nguyễn cười, nghe ông nói, nhìn vào mắt ông, nhìn cái cách ông đưa cốc bia lên miệng, ngửi hồi lâu trước khi uống, uống vào hồi lâu mới nuốt và khà thật sung sướng… Nó tưởng tượng nếu ông Nguyễn Tuân mà là ông nội nó thì tuyệt biết bao!
Bắc nhớ ba lắm! Nó nhớ mãi cái lần ba đưa nó đi chơi, để rồi hôm sau ba nó lên đường ra mặt trận, cha con nó gặp nhà văn họ Nguyễn. Ba nó xếp hàng, thấy một ông mũi khoằm đứng sau mình bèn nhường cho ông ấy đứng lên trước. Thế rồi khi mua được bia, họ vừa uống vừa nói chuyện bằng tiếng Pháp. Ôi cái thứ tiếng Tây nghe hay đáo để. Bắc rất tự hào vì nó hơn hẳn mọi đứa trong lớp, ở cái việc biết mấy tiếng Tây như những câu chào hỏi khi gặp nhau, ngày, tháng, giờ giấc, merci là cám ơn, bien là tốt, bonne année là Chúc mừng năm mới!…
… Nằm bên chồng, bà Yến ngược dòng thời gian nhớ về đứa con trai xấu số! Bà khóc, khóc thầm như bao nhiêu năm qua bà thường khóc thầm vì nhớ con, thương chồng…
Chồng bà là niềm tự hào của bà! Thế mà sau năm 1975, bà đành phải xa ông, nhường chồng cho bà Lịch. Tủi lắm chứ, nhưng thà thế còn hơn ở gần nhau, chồng chung… chịu sao thấu! Tuần nào ông cũng gọi dây nói cho bà. Đôi lần bà có hỏi ông, tất nhiên là qua điện thoại, về cái vụ thiếu tướng, khi nào trên cho ông. Ông chỉ thở dài… Bà thấy tiếc cho chồng, tiếc cho cả quân đội nhân dân Việt Nam! Cấp trên ông Hòa đã không trọng dụng những người có tài, có tâm như chồng bà, lại cất nhắc những kẻ dốt nát giỏi nịnh bợ lên thì quân ta yếu là cái chắc, là đáng đời!
Hồi đó nếu không bỏ học tham gia Thanh niên Tiền phong năm 1944, chồng bà chỉ cần học một năm nữa là lấy bằng Bắc Mêtrô* trường Petrus Ký cơ mà! Với những người đã học tới tú tài thời Tây thì tiếng Pháp cũng thông thạo chẳng khác gì tiếng mẹ đẻ. Ông Hòa mê đọc truyện. Ông đọc rất nhiều và truyện nào hay ông cũng kể lại cho vợ, cho con nghe theo cách của ông. Ông là nhà binh, nhưng rất mê đọc nên thường gần gũi giới nhà văn để mượn sách của họ. Những nhà văn ở miền Bắc, trạc tuổi ông Hòa, không ít người được học hành, rành tiếng Pháp. Bởi thế gặp một nhà văn nổi tiếng như ông Nguyễn mà lại gặp ở chốn bia bọt thì tuyệt biết bao! Ông Nguyễn hơn ông Hòa mười tám tuổi. Chỉ trong ít phút là họ trò chuyện với nhau xi xa xi xô tâm đầu ý hợp lắm lắm! Nhưng hai người không nói tiếng Pháp nữa! Cả nước đang dốc sức dốc lòng đánh đuổi đế quốc Mỹ vậy mà lại có kẻ đang nói tiếng của bọn thực dân đế quốc à?! Có vài gương mặt tỏ ra khó chịu, mặc dù hai người nói với nhau chỉ vừa đủ nghe. Họ chuyển sang tiếng Việt. Ông Nguyễn hỏi ông Hòa về cách nấu, về hương vị những món ăn Nam Bộ, trong đó có món lẩu mắm mà thời còn thanh niên, trên đường thiên lý giang hồ, khi vào Sài Gòn tìm đường sang Cao Miên, ông Nguyễn đã từng ăn. Ông Nguyễn chạm vào dây thần kinh trần của ông Hòa, nỗi nhớ người thân, nhớ ngôi nhà lợp ngói uyên ương trên đường Hàm Nghi, nhớ nơi chôn nhau cắt rốn bùng dậy trong lòng. Ông Hòa kể về những con đường rợp bóng me Sài Gòn, về những món ăn ngon của Nam Bộ: bánh xèo, chả giò, lẩu mắm, canh chua cá bông lau, tôm càng nướng, rùa rang muối, cá rô mề kho tộ, cá chìa vôi đút lò… Những món ăn mà bà Yến đã thuộc làu, từng chế biến cho chồng ăn theo khẩu vị Nam Bộ. Nhưng có nhiều món, ở ngoài Bắc không có nguyên liệu, như cá chìa vôi, đành chịu!
Baccalauréat métropolitain: Tú tài Tây, Tú tài toàn phần. Trước 1925 là Baccalauréat local: Tú tài bản xứ, chương trình không phân ban, rất nặng. Bởi thế ai thi đậu bằng này có kiến thức sâu rộng.
Bà Yến nhớ câu chuyện chồng kể hồi đó, khi ông nhà văn họ Nguyễn rút giấy bút ghi lia lịa về những món ăn Nam, ông vẫn không quên cu Bắc đang ngồi bên hóng chuyện. Ông nhón tay lấy mấy hạt lạc mẩy và thơm lựng đưa cho cu Bắc. Đưa hai tay ra nhận lạc rang, cu Bắc dõng dạc nói:
- Merci beaucoup!*
Tiếng Pháp: Cám ơn rất nhiều!
- Trời! Quả là hổ phụ sanh hổ tử! - Mắt ông Nguyễn nheo nheo nhìn Hòa - Toa dạy Pháp ngữ, ngôn ngữ tình yêu cho con trai toa được nhiều chưa?
- Đâu có! Em có thời gian đâu mà dạy, vả lại, bác biết không, cháu nó biếng học lắm! Em lo quên mất vì ít dùng nên lâu lâu tự ôn lại, ôn bằng cách dạy vợ học cho biết, cháu nó học lóm được mấy từ đó mà.
Mấy từ thế nào! - Bắc nghĩ thầm, nó không thích khi ba không chịu khoe tiếng Pháp của nó – Ít nhất cũng gần trăm từ lận! Cháu còn biết hát ba bốn bài tiếng Pháp nữa cơ.
Hôm đó, ông Nguyễn và ba nó uống nhiều bia. Bốn lần xếp hàng kia mà! Mỗi người uống mười cốc vại. Thấy ông nhà văn cứ nhìn thằng con trai mình đang ăn lạc rang mà cười tủm tỉm, ông Hòa nói:
- Cháu tên Bắc, Nguyễn Kinh Bắc, sinh năm sáu lăm. Cháu cũng sáng dạ, nhưng biếng học, chỉ ham chơi, nó mê làm phi công dữ lắm!
- Vậy sao? Làm phi công cũng tốt! Nhưng bác mong rằng đến đời cháu, có lái thì lái máy bay du lịch, máy bay chở khách chứ không còn phải lái máy bay chiến đấu nữa! Đất nước này… chiến tranh dài lê thê rồi, nhiều máu và nước mắt quá rồi! - Chợt ông Nguyễn ngừng lời, hướng ánh mắt sang ông Hòa - Thế chú Hòa đã đọc Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của tôi chưa?
- Dạ rồi!
- Được không?
- Dạ…
- Cứ nói thật tôi nghe!
- Được thì chắc chắn là được quá đi chứ. Nhưng nói thiệt, em mê bác là mê Vang bóng một thời và Sông Đà. Trước 1945 là Vang bóng một thời. Sau 1954 là Sông Đà. Đúng là Nguyễn Tuân, độc đáo, lừng lững một dòng văn chương, không lẫn vào đâu được! Em nói, bác có giận em xin chịu: Cái Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi… nó có tính thời sự nhiều hơn…
Ông Nguyễn khựng lại cốc bia hơi đang đưa đến gần miệng. Anh chê tôi nặng về thế sự, nhẹ về văn chương chứ gì? Biết làm sao được? Thằng giặc Mỹ nó đang muốn đẩy cả miền Bắc lùi về thời kỳ đồ đá kia mà. Biết làm sao khác được. Nhưng mà tôi phải cảm ơn anh, một người đọc đáng kính, người đã thẳng thắn chê tôi, chê mà tôi sướng! Ông Nguyễn đặt cốc bia xuống, nhìn Hòa không nói gì, ánh mắt ông thoáng buồn mà không lạnh, không kiêu bạc, vẫn ấm áp. Ông Hòa cũng không dám nói thêm. Sự im lặng kéo dài… Không thấy ông Nguyễn uống bia nữa. Ông bỏ nguyên cốc bia cho đến lúc họ bắt tay, ra về.
Trên đường về khu tập thể bờ sông, ông Hòa thấy con trai lặng yên ngồi sau xe, không hỏi liến thoắng luôn miệng như mọi khi. Ông biết con trai mình cảm nhận được thái độ ông Nguyễn khi nãy. Ông nói với con trai:
- Đó là nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả cuốn Vang bóng một thời mà ba rất mê từ thời còn học Petrus Ký ở Sài Gòn. Ổng là một trong số ít nhà văn Việt Nam mà ba kính phục.
Hòa kể với vợ đến đó, nói trầm hẳn xuống:
- Tôi đã làm nhà văn buồn. Có thể là tôi đã chạm vào nơi sâu kín nhất của nhà văn duy mỹ, luôn tôn thờ cái đẹp của văn chương nghệ thuật. Tôi nói thẳng quá chăng? Cái tật nói thẳng nói thật đã làm khổ tôi từ khi bỏ học ngang xương đi theo cách mạng đến giờ. Sao tôi không chế ngự được cảm xúc nhỉ? Sao tôi không biết uốn lưỡi bảy lần trước khi nói nhỉ? Thế mới biết sống có chừng có mực là khó nhất. Nhưng… sống thế thì nhạt lắm, nhạt hơn nước ốc, chán phèo!
Đêm trước ngày ra trận, Hòa dặn dò từng người trong nhà. Với cu Bắc, ông dạy:
- Con lười học và lười đọc sách lắm Bắc à. Sau này lớn lên con sẽ thấm thía rằng chỉ có sách mới là người bạn lớn, hữu ích cho những ai muốn hiểu biết, muốn sống có nhân cách! Nếu con mê sách, khi đọc Nguyễn Tuân, con sẽ thấy ông ấy là cả một thế giới riêng, đầy hấp dẫn!
Nhưng lúc đó cu Bắc đã ngủ rồi. Lời Hòa dặn con, bà Yến nghĩ là chồng dạy mình. Từ ngày Hòa vô Nam, bà đã làm theo. Bà đọc sách như là một cách để tăng nghị lực trụ vững trước khổ đau, gian khó… Họ yêu nhau thật lâu, cho đến bốn giờ sáng thì Hòa lên đường…
Tính bền vững của gia đình là ước mơ của một xã hội văn minh!
Nền tảng gia giáo của gia đình cụ Nguyễn thật căn bản, bền vững. Trong dịp tổ chức lễ đại thượng thọ, cụ Nguyễn có dịp kiểm chứng phẩm cách từng đứa con đứa cháu mình.
Ông Hòa và bà Lịch giảng hòa với nhau cho cha vui.
Cháu gái Phương Nam gác chuyện riêng sang một bên, dù buồn đến nẫu ruột. Sau lễ đại thượng thọ, cô trở lại với niềm say mê công việc của mình, và việc đầu tiên là hẹn gặp Đạt. Mới có hai ngày không gặp nhau mà cô ngỡ đã xa anh cả năm trời!
Anh đưa cô đi ăn ở nhà hàng Sông Sài Gòn, bảo cô kể về lễ đại thượng thọ và chăm chú nghe. Cô ăn một con tôm càng xanh hấp bia, anh lột vỏ cho cô. Cô ăn hết hai chén cháo cá chìa vôi ngon tuyệt. Đó là cá đặc sản, chỉ có ở vùng hợp lưu giữa sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, thuộc khu vực Nhà Bè. Có con cá chìa vôi nặng tới vài chục ký! Cô uống một trái dừa xiêm, tay anh cứ vuốt ve trái dừa mà ánh mắt thì hướng vào bộ ngực tuyệt đẹp của cô… Gió mang hơi nước từ sông Sài Gòn mát rượi ve vuốt da thịt, mơn trớn mái tóc đen huyền. Rồi… anh đề nghị cô cho anh dẫn cô vào khách sạn mini gần đó.
Cô rất thích, rất muốn chiều anh, rất nhớ anh, lúc này, giá như anh hỏi thêm một lần nữa là cô gật đầu, cun cút theo anh rồi. Nhưng… anh nhìn cô, chờ đợi. Cô nhớ đến sắc diện và giọng nói cực kỳ nghiêm khắc của ba: Thà con tôi ở vậy, không có rể thì tôi chịu chứ dứt khoát không gả cho thằng đó, dứt khoát không kết sui gia với nhà lão Hoàng! Đó là một tập đoàn tham nhũng!
Cô nhìn anh, ánh mắt xót xa đau đáu, lòng tê tái, nhè nhẹ lắc đầu.
Sự thất vọng hằn rõ trong đôi mắt người cô yêu.
Anh đưa cô ra cầu tàu trước nhà hàng. Trăng lên ngang ngọn dừa tỏa ánh sáng mát dịu như dát bạc lên cảnh, lên người. Lòng cô tê dại. Cô buồn đến mức muốn khóc mà không khóc nổi. Anh ơi! Có hiểu lòng em lúc này! Rồi anh chở cô về Hàm Nghi. Lúc bước vô nhà, cô mới chợt nhận ra: hôm nay họ chưa hề hôn nhau!
Cô đang ngơ ngẩn ngẩn ngơ như mất hồn thì ba cô từ trên lầu đi xuống.
- Con gái về rồi đấy à. Con có mệt không? Ba có chuyện muốn nói với con.
Chắc là ba nói chuyện anh Đạt. Khi nãy, ở trên lầu nếu nhìn xuống đường, chắc chắn ba sẽ thấy Đạt chở mình về. May mà hai đứa không hôn nhau! Hai ngày nay Phương Nam đang tìm cơ hội thưa chuyện để thuyết phục ba thì bây giờ, thật bất ngờ, cha cô chủ động nói trước!
Đối với Phương Nam, ông nội, cha mẹ, các anh là những thần tượng, là những người mà cô tự hào. Cô luôn luôn vâng lời ông nội, vâng lời cha mẹ!
- Cha đã thụ lý hồ sơ tham nhũng của thằng Đạt từ mấy năm nay. Thanh tra ngành, thanh tra các cấp từ thành phố đến trung ương đã làm rất kỹ. Các đồng chí dưới quyền ba rất mẫn cán và công tâm. Ba rất tin tưởng họ. Con có tin điều ba nói không, con gái?…
Ông Hòa mở đầu như thế. Cứ như câu chuyện mà ba cô kể về cha con Đạt thì thật là ghê sợ! Có lẽ nào lại đúng như vậy? Có lẽ nào cha con Đạt lại là những kẻ háo danh, sẵn sàng làm mọi việc để ngoi lên Bộ và cấp cao hơn? Có lẽ nào cha con Đạt là hạng kiến tài ám nhãn? Có lẽ nào đó là sự thật? Mà xưa nay, ba cô có nói sai bao giờ!
Rồi ông Hòa kể luôn cho con gái nghe chuyện ông tìm Hoàng để xin việc cho thằng Thăng. Quan liêu, hách dịch hay là chỉ vì không có bao thư lo lót? Nghe nói một chân bảo vệ quèn bên ấy cũng phải lót tay vài cây vàng?! Nghe nói ông Hoàng, cha của Đạt tối ngày đi nước ngoài, về nước thì ăn chơi bạo tàn, lúc nào cũng cặp kè cô thư ký xinh như mộng. Nhưng kinh khủng nhất đối với Phương Nam là chi tiết này: Đạt thật sự phạm tội, chỉ vì cha mẹ Đạt giỏi lo lót tới ba trăm cây vàng cho nên mới có lệnh đình chỉ điều tra, cho Đạt trở lại công ty như cũ!
Phương Nam ngồi chết lặng, xương hàm cứng ngắc, cô muốn nói, muốn hỏi mà không mở miệng nổi. Khoang miệng khô không khốc. Cô khóc. Nước mắt chan chứa trên gương mặt mỹ miều… Đạt ơi! Tại anh! Tại anh! Tại anh mà ta phải xa nhau!
Tại chàng chẳng phải thiếp đâu
Chàng xe chỉ mảnh, thiếp khâu sao bền…
Ông Hòa tìm cách an ủi con gái, nhưng vô hiệu.
Cô khóc đến lúc không còn nước mắt, khóc khan, đôi mắt bồ câu đẹp là thế giờ đỏ sọng như bị xuất huyết giác mạc.
Bà Lịch, bà Yến đứng trước phòng con gái dỗ dành, năn nỉ, rồi thất vọng quay ra. Đã hai ngày rồi Phương Nam không ra khỏi phòng, không chịu ăn gì, nằm liệt trên giường, không cho bất cứ ai vô phòng. Đến ngày thứ ba, cụ Nguyễn đến bên cửa phòng cất giọng:
- Phương Nam! Cháu của ông, hai ngày nay cháu không ăn nên ông cũng ngày nhịn trong, đêm thức trắng, bây giờ ông mệt quá rồi, muốn xỉu rồi cháu à! Mở cửa cho ông nào!
Trời đất! Vì mình mà ông nội nhịn ăn, không ngủ, lỡ có bề nào thì mình mang tội tày đình! Và… cô mở cửa! Cô dìu ông nội ngồi xuống ghế, cô quỳ xuống bên cạnh, nắm lấy hai bàn tay khô và lạnh của ông:
- Cháu xin lỗi ông! Vì cháu mà ông bận tâm, lo lắng, mất ăn mất ngủ! Cháu xin lỗi ông!
Nói rồi cô lại khóc nức nở. Từ ngày rời Hà Nội, rời người mẹ thân yêu vô Sài Gòn đến nay, chưa bao giờ Phương Nam khóc nhiều như mấy ngày qua…
Cụ Nguyễn lựa lời an ủi cháu:
- Đàn ông trong nhà ta nhiều người là anh hùng! Ông hy vọng cháu phải trở thành anh thư, cháu có làm được không? Nếu cháu biết tự vượt lên mình, có nghị lực ngẩng cao đầu mà sống thì hạnh phúc sẽ tới với cháu. Làm được như vậy, ông có chết mới được thanh thản, cháu ơi!
Những lời của ông nội như là liều thuốc giúp cô hồi tâm. Cô cháu gái lau mặt, xuống bếp pha hai ly sữa mang lên. Cô mời ông nội. Hai ông cháu cùng uống. Tối đó, bàn ăn gia đình cụ Nguyễn đã đủ mặt mọi người, tất nhiên, trừ thằng Thăng. Trong bữa ăn đã có tiếng nói, tiếng cười như trước nay vẫn thế…
Phương Nam điện thoại tới Trung tâm Ngoại ngữ báo rằng cô nghỉ dạy thêm một tuần nữa. Cô dẫn mẹ Yến và má Lịch đi nghỉ ở Đà Lạt.
Khi ba người phụ nữ đi cả rồi, cụ Nguyễn nói với con trai:
- Anh làm sao thì làm, cháu gái út của tôi cần phải được động viên là chính. Tôi kỳ vọng ở cháu!
- Dạ, con sẽ cố gắng, thưa ba!
Bốn
Ngọc Hoàng, Hồng Ngọc và… Ngọc Tiên
Sau khi Đạt được trả tự do, ông Hoàng quyết định rũ bỏ hết mọi ham hố bụi trần, chuyển hẳn sang giai đoạn mới của cuộc đời. Ông chán nản cùng cực về chuyện quan trường, về hoạn lộ. Ông thừa biết rằng ông sẽ nhận quyết định về hưu bất cứ lúc nào, bởi năm nay ông đã sáu mươi sáu tuổi rồi. Bà Ngọc nhiều lần van vỉ ông hãy rũ bỏ sạch, về hưu ngay cho bà nhờ!
Trên đường công danh, Hoàng có quá nhiều kỷ niệm ê chề cay đắng!
Hoàng được gọi lên báo cáo về tình hình làm ăn của Tổng Công ty với ông Đức. Đây là lần đầu tiên, từ khi nhậm chức, ông Đức gặp riêng Hoàng. Hoàng đã rút được quá nhiều kinh nghiệm trong tiếp xúc với ông Dưỡng, người tiền nhiệm của ông Đức.
Một lần Hoàng vừa đi Trung Quốc về. Trung Quốc đang lẳng lặng mở cửa rất bạo. Đó là một chuyến đi Hoàng được chứng kiến nhiều cái mới. Tại Hạ Long, ông Dưỡng gọi Hoàng đến, báo cáo. Hoàng sôi nổi trình bày về những đổi mới trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của nước bạn, nêu những số liệu và hình ảnh chứng tỏ thành tựu mà Trung Quốc đã đạt được sau vài năm thực sự đổi mới. Với tất cả nhiệt tâm của một người luôn trung thành và tận tụy với dân với nước, Hoàng đề xuất với lãnh đạo:
- Thưa đồng chí! Việt Nam ta phải nhanh chóng đổi mới, mạnh hơn, dứt khoát hơn chứ đừng có nửa vời, đừng có cải lương thì tất yếu thành công. Ngược lại, cứ như hiện nay thì chắc chắn nước nhà sẽ tụt hậu so với láng giềng, tụt hậu vô phương cứu vãn…
Một tiếng đập rầm! Hai chiếc tách trà bằng sứ Trung Quốc rơi xuống sàn nhà vỡ tan.
- Anh biết một mà không biết mười! Đổi mới hả?… Việt Nam có cách của Việt Nam. Ta đổi mới nhưng phải kiên định lập trường Xã hội Chủ nghĩa!…
Hoàng bị mắng mỏ tơi bời, nhưng điều khiến cho Hoàng nhớ mãi là càng mắng, những gì ông ta nói càng ít sức thuyết phục hơn. Sau này lịch sử sẽ phán xét tất cả, công và tội, tất nhiên. Còn giờ đây, Hoàng biết nói sao? Cãi lại thì là thằng mất trí. Còn không cãi lại thì là đồ hèn. Lần ấy Hoàng cắn răng chấp nhận là đồ hèn!
Tại thành phố Hồ Chí Minh, Hoàng vừa đi Minh Hải và Kiên Giang gần một tháng về thì được triệu tập họp. Ông Dưỡng hỏi Hoàng về thực trạng nghề cá ở hai tỉnh giàu tiềm năng thủy sản nhất nước. Hoàng thưa rằng, với cơ chế giá cả và thuế má hiện nay, ngư dân không bao giờ mang sản phẩm về bán cho Nhà nước! Họ bán ngay tại chợ trời giữa biển, cho tàu nước ngoài. Sản lượng thủy sản đánh bắt được gộp lại chưa đầy bốn ngàn tấn một năm, thực ra có thể khai thác ba chục ngàn tấn! Trong bốn ngàn tấn ấy, chủ yếu là cá, còn tôm rất ít. Nhà máy đông lạnh tại Kiên Giang đang xuống cấp nghiêm trọng vì không có nguyên liệu. Một trăm triệu đôla của Nhà nước đầu tư cho ngành thủy sản từ năm 1976 đến 1980 kể như công dã tràng. Nhà máy đông lạnh Kiên Giang là di tích cuối cùng của cách đầu tư này! Một cái đập tay xuống bàn rất mạnh khiến chiếc bình cắm bông bật xuống sàn vỡ tan. Nước văng ướt nhẹp áo sơ mi của người đập bàn. Ông Dưỡng đứng lên chỉ tay vào mặt Hoàng, nói:
- Anh nói tầm bậy! Tôi có trong tay báo cáo của hai tỉnh Kiên Giang và Minh Hải: Sản lượng năm ngoái là mười hai ngàn tấn, trong đó có năm ngàn tấn tôm, hiểu chưa? Anh đi khảo sát hay đi chơi… mà bảo chỉ có bốn ngàn? Không lẽ cả hai cái tỉnh ủy đều báo cáo láo hay sao? – Ông Dưỡng lấy tay chùi mép - Rõ ràng là anh đang cố tình bóp méo sự thật, đùn lên đám mây u ám về kinh tế thủy sản để bắt Đảng và Nhà nước chấp nhận cho anh cái cơ chế Tự cân đối, tự trang trải, đúng không?
Ông Dưỡng càng nói càng giận. Sự tức giận khiến những sợi gân cổ giật giật từng cơn như những sợi cáp neo tàu gặp bão.
Phải một thời gian dài sau đó cơ chế Tự cân đối, tự trang trải mới được phép làm thử. Nhưng chuyện Hoàng được lên cấp cao hơn… thì vĩnh viễn không!
Rất buồn nhưng Hoàng không nản chí. Ông chú tâm vào sự nghiệp của ngành thủy sản… Trong ông chỉ còn nỗi đam mê duy nhất là thực hiện thắng lợi cơ chế mới, mong Nhà nước thể chế hóa nó để áp dụng cho toàn nền kinh tế xã hội. Bằng cơ chế mới, Hoàng ước mơ đưa Tổng Công ty thành một tập đoàn kinh tế mạnh, có vị thế trên trường quốc tế. Đây chính là thời gian Hoàng sống gần quần chúng nhân dân nhất. Từ Móng Cái đến Hà Tiên, nơi nào có ngư dân là nơi đó có Hoàng. Gần dân, ông thấy tâm hồn như được thanh lọc, trẻ trung ra… Ông tìm thấy nguồn động viên vô cùng lớn khi nghề cá cả nước được khôi phục và phát triển mạnh. Ngư dân đi biển biết được chuyến này mình thu được bao nhiêu tiền. Quyền lợi của họ được đảm bảo. Vì thế, họ mạnh dạn dốc vốn đầu tư, ham muốn làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, ham muốn làm giàu. Chiến lược khôi phục nghề cá nhân dân thực sự hâm nóng khí thế làm giàu trong dân. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngư dân cũng chính là làm lợi cho Nhà nước. Đã là con người, ai cũng có khát vọng giàu sang, khát vọng sở hữu! Đó là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Điều đó quá đơn giản, mà suốt bao nhiêu năm chúng ta - cứ mải miết lên án kẻ giàu, cho người giàu có là giai cấp bóc lột… - không sửa sai để làm theo đúng quy luật muôn đời!
Ông Đức là người Hoàng rất hy vọng. Ông đã từng không đồng ý phương cách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở Sài Gòn và miền Nam, quá nôn nóng, đốt cháy giai đoạn… Chính vì thế, ông đã từng thất sủng vài năm. Nhận được tin ông Đức gọi, Hoàng rất vui. Cách nay hai tuần, Hoàng có gửi đi bản góp ý về tình hình đất nước, trong đó nhấn mạnh đến thời cơ đang đến. Đừng để mất thời cơ như sau năm 1975. Thủ tướng là cấp trên trực tiếp của Hoàng từ thời kháng Pháp. Ông rất hiểu tấm lòng của Hoàng. Nhờ có ông và một số người nữa mà cơ chế Tự cân đối, tự trang trải mới được thi hành. Bản góp ý của Hoàng mang tên Mở cửa để Hội tụ, trong đó nhấn mạnh đến thời cơ đã chín mùi, và nêu những việc cần làm gấp là: Làm bạn với tất cả, nhanh chóng bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút đầu tư nước ngoài.
Người cảnh vệ dẫn Hoàng tới phòng khách. Vài phút sau, ông Đức ra. Ông vui vẻ hỏi Hoàng về chuyện gia đình, thân mật như bạn bè lâu ngày gặp lại. Điều này khiến Hoàng yên tâm, không phải lo đối phó chi cả. Độp một cái, ông Đức hỏi:
- Nghe nói giới giám đốc dạo này giàu có lắm: xe hơi đời mới, biệt thự, vài lô đất ở ngoại ô, có tài khoản ở ngân hàng ngoại quốc, chơi golf, tennis, du lịch nước ngoài, một cuộc chơi hàng ngàn đô?
- Thưa anh, tận mắt thì tôi chưa thấy, nghe đồn thì có!
- Không phải chuyện đồn thổi, thực tế đó. Bên công an người ta có hồ sơ cả…
Về chuyện này, Hoàng không có gì để nói. Nhưng không thể yên lặng:
- Thưa… giàu có mà không phạm pháp thì đáng mừng chứ. Đây là thời của các nhà doanh nghiệp kia mà. Đảng ta chủ trương. Vậy hãy để cho dân thỏa sức làm giàu. Ai phạm pháp thì nghiêm trị. Ngành công an không nên hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế của các doanh nghiệp!
- Hả, anh nói sao? Không nên hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế… Hừ, tôi mới nghe ý này lần đầu… Đó là ý hay! Tôi gặp đồng chí hôm nay là để nhắc nhở. Doanh nghiệp của đồng chí ăn nên làm ra, ai cũng biết. Nhưng trong công tác quản lý, có lẽ còn sơ hở. Bọn tham nhũng, bọn mafia đục khoét chỗ sơ hở của luật pháp, của cơ chế mà làm tới! Phải chống tham nhũng, nếu không thì là tai họa của đất nước! Hàng ngũ giám đốc của Tổng Công ty có bao nhiêu người, đồng chí có thuộc tính nết họ chưa?
- Dạ, cá tính thì, theo tôi… ta không nên quan trọng hóa ạ…
- Là tôi nói đồng chí có nắm được ai làm giàu mau lẹ bằng cách đào khoét nhà nước không?
- Thú thật là tôi chưa biết chuyện này. Nhưng nếu có thì tôi là người đầu tiên yêu cầu pháp luật trừng trị.
Ông Đức nhìn Hoàng hồi lâu rồi chậm rãi:
- Riêng bản góp ý mang tên Mở và Hội tụ, tôi có đọc. Nói đừng buồn nhá: Có rất nhiều những bản như thế! Nhiệt tâm có thừa, nhưng các đồng chí chưa thấy hết phức tạp của tình hình.
- Tôi cũng nghĩ tình hình rất phức tạp… Nhưng ai là người nắm được nếu không phải là đồng chí? - Hoàng sôi nổi và không kìm lại được nữa - Là đảng viên, tôi chỉ mong sao cho đường lối của Đảng phù hợp với thời đại, hợp với lòng người. Và, quan trọng hơn, phải đi trước một bước, đừng bao giờ để lỡ thời cơ ngàn năm có một. Chúng ta phải đón trước thời cơ để nắm lấy nó.
Hoàng nhớ lại bao nhiêu công sức và tâm huyết mình dồn hết vào Bản góp ý. Phần một, nói về nhu cầu phải đổi mới quan điểm, tư tưởng; một cách nhìn khoa học về chủ nghĩa Mác. Phần hai: Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam sau khi Liên Xô tan rã. Phần ba: Chiến lược phát triển kinh tế và những chính sách cụ thể: Chính sách cán bộ, sử dụng nhân tài, cải cách chế độ tiền lương; cải tạo triệt để ngành giáo dục và đại học; Phát triển nền kinh tế đa sở hữu, đẩy nhanh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước; Biện pháp thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp của nước ngoài; Thành lập Thị trường chứng khoán; Làm thế nào tạo ra cú đột phá về kinh tế? v.v… Trong Bản góp ý này, Hoàng biết cái chạm nọc nhất chính là ở phần thứ nhất
Hoàng đang nghĩ về Bản góp ý của mình không được trên đánh giá cao… Ông đang buồn, rất buồn! Bỗng nghe ông Đức hỏi:
- Anh vừa nói sao?
Hoàng chưa kịp trả lời thì ông Đức nói ngay:
- Anh bảo anh chỉ mong đường lối của Đảng phù hợp với thời đại, hợp với lòng người. Và, quan trọng hơn, phải đi trước một bước, đừng bao giờ để lỡ thời cơ ngàn năm có một! Tôi hiểu! Mong… thì ai chả mong, nhiều người còn mong hơn thế ấy chứ! Tôi ghi nhận nhiệt tâm ở đồng chí. Nhưng không thể nóng vội, phải ở tầm vĩ mô, đồng chí mới thấy hết tính phức tạp của vấn đề. - Ông Đức ngừng lời, chăm chú nhìn Hoàng rồi tiếp - Trở lại chuyện chống tham nhũng, tôi nhắc lại nhé: Phải cảnh giác và kiên quyết. Nếu đồng chí không dành sức cho việc này thì… không xong đâu! Tham nhũng là quốc nạn, phần lớn nảy nòi từ bộ máy quan chức nhà nước, các ngài giám đốc - giai cấp tư sản Đỏ, như người ta thường nói, chứ nông dân, công nhân, dân thường thì tham nhũng cái gì?
Trên đường về, Hoàng cứ nghĩ mãi về mục đích của cuộc gặp này. Cả tháng sau Hoàng vẫn không nghĩ ra. Mãi về sau này, khi Hoàng về hưu đột ngột, hai đứa con trai lần lượt bị bắt, Hoàng mới biết thì quá trễ rồi!
Ngày và đêm hôm ấy, Hoàng ngổn ngang trong lòng những suy tưởng về nhân tình thế thái. Hoàng là con người của hành động. Vậy tại sao Hoàng thường gặp những gáo nước lạnh làm nguội tắt ngọn lửa trong mình? Đã bao nhiêu lần như vậy trong đời, từ ngày Hoàng còn là Trung đoàn phó, rồi Phó Bí thư Tỉnh ủy trong kháng chiến chống Pháp; rồi Trưởng ban kinh tế; rồi Phó Chủ tịch phụ trách công nghiệp một thành phố lớn. Những điều mà ông Đức nói, không thể phàn nàn. Cấp dưới như Hoàng, nhất là một người có tính kỷ luật cao như Hoàng thì việc phục tùng là đương nhiên rồi. Thế nhưng Hoàng là người của sáng tạo, không phải người máy. Bởi thế, ông như hụt hẫng khi mà suốt cuộc gặp gỡ ông Đức không hề hỏi đến tình hình sản xuất kinh doanh, đến hướng đi của ngành kinh tế biển. Nói tới Bản góp ý của Hoàng, ông Đức xem nó như một chuyện không đáng bàn, thậm chí nhảm nhàm nhàm rồi. Bởi vì tác giả của nó không hiểu tính phức tạp ở tầm vĩ mô. Trước sau, điều được nhấn mạnh nhất chỉ là chống tham nhũng: Giám đốc - tư sản Đỏ - nhà lầu, xe hơi, xài tiền như nước, ăn chơi trác táng!
Động tác nhìn đồng hồ của chủ nhà đã không cho Hoàng cơ hội trình bày ý kiến riêng. Vấn đề tham nhũng là thuộc tính muôn thuở đối với giới cầm quyền từ cổ xưa tới nay. Muốn chống tham nhũng từ gốc thì phải bắt đầu từ sự nghiêm minh của luật pháp, phải có chiến lược tuyển dụng cán bộ. Chính sách cán bộ ở ta… chưa thâu nạp những người tài giỏi, chỉ vì những người có tài thường có bản lĩnh và chính kiến… Cơ chế sử dụng cán bộ… đôn lên những người tròn vo, biết uốn lưỡi bảy lần trước khi nói!… để lọt vào guồng máy không ít kẻ cơ hội, khôn ngoan vặt. Nhiều lãnh vực còn chưa có luật. Cái đã có luật thì nhiều sơ hở, và quá cách biệt với thông lệ quốc tế. Ý thức chấp hành luật pháp trong mọi tầng lớp rất thấp… Khi đề xuất những vấn đề chiến lược, bức xúc của đất nước, Hoàng chỉ khiêm tốn đề là Bản góp ý, vậy mà cấp trên trực tiếp, tức ông Bộ trưởng phản ứng, tất nhiên là rất khéo…
Ngay hôm sau, Hoàng triệu tập cuộc họp với đội ngũ giám đốc, phó giám đốc trong Tổng Công ty để triển khai lời nhắc nhở của thượng cấp. Hoàng nhấn mạnh rằng chống tham nhũng phải coi là quốc sách!
Hoàng tính làm xong dự án liên doanh với Nhật để nuôi cá chình, cá lăng, hai loại cá có giá trị dinh dưỡng cao, chuyên sống ở thượng nguồn núi đá vôi các dòng sông; và nuôi cá ngựa, một hải sản mà theo người Trung Hoa, giúp cường dương, trị bệnh liệt dương, tăng cường sinh lực cho đàn ông… Con cá ngựa đang có nguy cơ tuyệt chủng vì không có loại thần dược nào hiệu nghiệm bằng nó, người ta săn bắt nó cạn kiệt rồi. Xong cái dự án này thì ông sẽ đệ đơn nghỉ hưu.
Sự đời quả là không biết đâu mà lường! Đúng cái lúc ông quyết rũ bỏ hết bụi trần gian thì lại có một hạt bụi bằng vàng, không, bằng kim cương, cũng chưa đúng, phải nói là hạt bụi thần đã hóa thành một nàng tiên đậu vào tim ông! Nàng Tiên ấy mới hai mươi lăm tuổi, có một con trai ba tuổi, vừa ly dị chồng. Anh chồng nằng nặc bỏ vợ để ở với người tình già hơn mười tuổi, nhưng có tới mười căn nhà tại các quận nội thành cho thuê và hàng chục lô đất.
Cứ như là duyên tiền định! Chỉ còn một tuần nữa là Hoàng phải bay qua Nhật để đàm phán lần chót, nếu thuận thì ký hợp đồng, thì người phiên dịch tiếng Nhật bị ung thư tiền liệt tuyến, phải đi cấp cứu, chắc khó qua khỏi! Hoàng bảo Trưởng phòng Tổ chức đăng báo tuyển người. Hạt bụi thần trúng tuyển. Ngay lần gặp đầu tiên, Ngọc Tiên, tên của hạt bụi thần, đã chứng tỏ với Hoàng hai điều: Một là cô ta đẹp, lẳng đến mê hồn và rất giỏi tiếng Nhật, có kiến văn sâu rộng về văn hóa Nhật, chứ không chỉ là thông ngôn bình thường; Hai là cô ta đã thực sự làm Hoàng thích, khơi dậy những ham muốn bấy lâu nay ngủ yên vì mải lo sự nghiệp, mải miết say sưa với nghề…
Việc gì phải tới, ắt tới!

Sau cuộc làm việc đầu tiên với đoàn Nhật mà hạt bụi thần phiên dịch, buổi trưa, Hoàng đang cố chợp mắt để ba giờ chiều tiếp tục đàm phán; nhưng lạ thay, bộ ngực với ánh mắt của Tiên cứ lởn vởn trong đầu Hoàng. Ông không tài nào ngủ được. Đúng lúc đó thì có tiếng gõ cửa khe khẽ. Hoàng vừa mở cửa, chưa kịp ngạc nhiên thì Tiên lách ngay vào, với tay đóng cửa lại.
- Thưa sếp, em hỏi xem sáng nay sếp có hài lòng khi em dịch không?
Chỉ hỏi vậy không thôi thì đâu có chuyện gì! Đằng này Tiên lộng lẫy và thơm tho trong chiếc váy hai dây mỏng manh, vừa hỏi, vừa nhìn như hút hồn sếp, hai cánh tay trần nuột nà của cô giang ra rồi vuốt tóc về phía sau. Động tác vừa tự nhiên, vừa khêu gợi, lại như khiêu khích, như vẫy gọi, như thúc giục Hoàng: Còn chờ gì nữa! Ôi chao! Đúng là bóng mu u yếm, cái lá nho mõng mòng mòng phía dưới và cặp bánh dầy căng tràn nhựa sống phía trên như phơi hết cả ra qua lần vải mỏng tang, lấp lửng mà lõa lồ, phong phanh phập phồng mà lồng lộng lóng lánh sắc màu. Hoàng liếm môi đang rát khô, nhào tới! Sáu mươi sáu tuổi, ép xác làm chi nữa hả Trời! Hắn ly dị chồng có nghĩa là tự do, hề hấn gì đâu mà sợ kia chứ! Của tam bảo mà!
Quen mui nhớ mùi ăn mãi, lần thứ hai, thứ ba, rồi quá mù ra mưa, mà là mưa rào, mưa sập trời sập đất, mưa trôi làng trôi xóm, cuốn phăng phăng từ cây cổ thụ đến đường ray xe lửa! Thích quá hóa ghiền! Quyền năng của sự quyến rũ kinh khủng thiệt! Sau mỗi lần cho và nhận, Tiên đều làm động tác vươn vai để rướn cong bộ ngực và cái lá nho mõng mòng mòng bên dưới lên, miệng nói giọng nhừa nhựa:
- Anh của em gân dễ sợ! Sáu mươi sáu tuổi mà cứ như trai mười bảy! Anh làm em bải hoải rã rời hết cả tứ chi rồi nè! Bắt đền anh, bắt đền anh!
Suốt phần còn lại của cuộc đời mình, ông Hoàng không thể nào quên được ấn tượng lần đầu ái ân với Tiên…
Chớp mắt ba lần, ông vẫn ngỡ là mình nằm mơ. Nhưng không, đây là sự thật: Một thân thể tuyệt mĩ mà tạo hóa đã sinh ra. Trong mắt Hoàng, hoa hậu hoàn vũ cũng khó mà sánh được với sắc đẹp của nàng. Người ta bảo: nhất dáng nhì da, thứ ba mới là phụ tùng. Ở nàng, hội đủ những tiêu chuẩn khiến bất cứ một chàng trai nào cũng ước ao được gần, dù chỉ một lần. Da nàng thật đúng như tên mà cha mẹ đặt cho: Ngọc Tiên. Làn da trắng ngọc ngà và mịn màng từ gót tới đầu nhưng không trắng rợn mà luôn thấp thoáng sắc hồng tỏa ra từ thân thể bốc lửa đang khao khát yêu đương. Đã có bao nhiêu người đàn ông đi qua cuộc đời Ngọc Tiên? Điều đó có hề gì! Trước mặt ông lúc này là một tòa thiên nhiên cuốn hút, mời gọi. Họ đang ở trong một khách sạn năm sao tại Tokyo. Chiều nay có phiên làm việc cuối cùng. Hoàng tin rằng các điều kiện do ông đưa ra về dự án nuôi cá ngựa, thuốc thần làm cường dương sẽ được phía Nhật tán thành.
Tiên cao một mét sáu mươi sáu nhưng cũng chỉ đứng tới vai Hoàng. Họ giữ kẽ với nhau một vài giây, rồi Hoàng vùng dậy, hai cánh tay Hoàng như hai gọng kìm thép siết chặt thân thể ngọc ngà. Chiếc váy rơi xuống…
Chớp mắt ba lần, Hoàng vẫn ngỡ mình chiêm bao. Năm nay Hoàng sáu mươi sáu tuổi, cả đời chỉ biết một người đàn bà duy nhất, đó là Ngọc, vợ ông. Vẻ đẹp tuyệt vời của Tiên gợi ông nhớ về mối tình đầu, cũng là cuộc tình chung thủy của vợ chồng ông cho tới hôm nay.
Ngọc là hoa khôi của trường trung học thị xã, nhỏ hơn Hoàng sáu tuổi. Gặp Ngọc lần đầu, Hoàng yêu ngay. Đúng là tiếng sét ái tình. Ngọc có nhiều chàng trai theo đuổi, nhưng bị cha mẹ cấm, khuôn phép nhà nàng thuộc loại mẫu mực của thị xã. Ngọc mười sáu tuổi, chưa biết yêu là gì cho đến khi gặp Hoàng. Hàng ngày, Ngọc đến trường bằng xe kéo tay thuê riêng cho nàng. Người phu xe và hai đứa em gái Ngọc là ba kẻ được Hoàng thường xuyên lo quà cáp để đưa thư trao đổi hẹn hò. Quen nhau được một tháng thì bị lộ. Tình yêu càng vô cùng kỳ thú khi phải lén lút. Cha mẹ Ngọc cấm tiệt không cho cô có cơ hội đi lại với Hoàng. Cha mẹ Hoàng cũng cấm luôn. Bố mẹ Ngọc cho rằng gia đình Hoàng chỉ biết ăn chơi.
Bố Hoàng nổi tiếng ăn chơi cô đầu đàn hát. Ông cao một mét tám, nặng hơn tám chục ký lô, cằm bạnh, mũi thẳng, mắt sáng quắc. Hoàng là con thứ hai trong một gia đình có của và đông con. Bố Hoàng coi gia đình Ngọc là loại trí thức khó gần. Con gái liễu yếu đào tơ khuê các như Ngọc thì làm sao có thể làm dâu nhà này được, lấy nó về mày có để lên bàn mà thờ chứ vợ con gì thứ đó ! Thế là đôi uyên ương bị phong tỏa. Họ không được thấy mặt nhau cả tháng trời. Một hôm, thấy nhà Ngọc đang quét vôi, thợ đứng trên thang mà quét. Phòng Ngọc trên lầu một. Ngay lập tức, Hoàng viết thư cùng gói thuốc Côtáp lót tay cho người phu xe chuyển tới Ngọc. Người chị nuôi ngủ cùng phòng với Ngọc cũng được Hoàng thuyết phục bằng quà cáp. Mười giờ đêm, cái thang được dựng lên. Người chị nuôi giúp Ngọc leo qua cửa sổ, lẩy bẩy xuống thang, lúng túng vì cái áo dài nên mãi Ngọc mới di chuyển được. Còn năm sáu bậc thang mới chạm đất nhưng Ngọc đã nằm gọn trong tay Hoàng. Họ chở nhau bằng xe đạp Pơgiô ra ngoại ô. Đêm ấy, trăng đẹp như chưa bao giờ đẹp đến thế. Gió hây hây thổi như chưa bao giờ thổi như thế. Và lần đầu tiên trong đời họ biết hôn nhau, hệt như trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mà Ngọc thường đọc lén cha mẹ. Họ hôn nhau, hỏi han nhau, lại hôn nhau, rồi thề thốt. Ngọc thề suốt đời chỉ biết một người đàn ông là Hoàng. Hoàng thề sẽ yêu thương Ngọc đến đầu bạc răng long, không bao giờ để Ngọc phải khổ. Với những người yêu nhau, khi ở gần, thời gian trôi nhanh kinh khiếp. Thoáng một cái đã ba giờ sáng rồi. Thời đó, Hoàng có xe đạp Pơgiô, tay Ngọc mang đồng hồ Thụy Sĩ là ghê gớm lắm. Sáng hôm sau trong giới phu xe kháo ầm lên rằng nhà thầy giáo Hải đêm qua mất trộm! Hỏi mất gì, đáp: Mất cô con gái rượu! Cha mẹ hai bên lại càng cấm đoán ngặt hơn. Rồi Hoàng đi Việt Minh, tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở tỉnh. Cha Ngọc rời nghề giáo đi làm kinh tài cho Tỉnh ủy.
Giáo Hải lận trong người mười hai ngàn bạc Đông Dương, một khẩu súng ngắn, dẫn mười hai người gánh mười hai gánh thuốc lào Vĩnh Bảo, xuất hành lúc mười hai giờ đêm ngày mười hai tháng Chạp, vượt qua mười hai đồn bót trọng yếu của Pháp, hướng đến Thanh Hóa. Thời ấy Thanh Hóa là vùng tự do. Đến Phát Diệm lúc mười hai giờ trưa thì tự vệ của nhà thờ Phát Diệm gọi lại khám xét. Không rõ vì cái gì, vì khẩu súng ngắn - biểu tượng của cán bộ có cỡ trong Việt Minh - hay đơn giản chỉ vì mười hai ngàn bạc Đông Dương lúc đó là món tiền rất lớn, mà những người bắt ông Hải đã chặt đầu rồi phân thây ông ra làm ba, chôn mỗi nơi một khúc như thể phi tang. Sau sự biến ấy, cuộc tình của Ngọc và Hoàng không nhờ thế mà tự do. Bà mẹ vẫn khắt khe với con gái. Sự khắt khe theo lễ giáo đã làm khổ biết bao người, nhưng đã tạo nên bao người con gái đoan trang hiền thục, những người vợ chính chuyên, chung thủy. Ngọc là người như thế. Hoàng bảo Ngọc trốn nhà đi theo mình, tức là theo Việt Minh. Hoàng đi Việt Minh vì yêu nước, căm thù ngoại xâm. Nhưng, thật lòng mà nói, Hoàng đi Việt Minh là vì yêu Ngọc. Thời đó, cuộc sống của thanh niên vô cùng bế tắc. Con dân cày thì lam lũ. Con nhà khá giả thì nhàm chán bởi thời thế cứ nhì nhằng, cuộc đời vô vị nhất là sống không lý tưởng. Một trong những nhà văn được giới trẻ hâm mộ là Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đã gác bút nhảy qua làm chính trị, theo Nhật rồi theo Tưởng. Quốc Dân Đảng của ông Tam dây vào những vụ khủng bố thanh trừng, giết người như ngóe. Chả còn cái gì để mà tôn thờ. Bởi thế, lớp trẻ đi theo Việt Minh như đi trảy hội: Vô tư và tràn đầy hưng phấn. Trong mắt các thiếu nữ xinh đẹp và hiểu biết thì không gì bằng có một người yêu, người chồng bôn ba hồ hải, mỗi lần gặp lại nhau là tiếp cho nhau luồng sinh khí mới. Có lẽ bởi thế, người ta thường nhắc tới câu ca dao rất tục nhưng là khát vọng của bao người:
Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em xó bếp để b… chấm gio (tro).
Hay là:
Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải Đồng Nai đã từng
Hoàng ra đi trong niềm cảm phục của Ngọc. Đêm khuya, thèm nụ hôn, Hoàng chạy bộ hàng mấy chục cây số về thăm Ngọc. Mồ hôi nhễ nhại, bụng đói cồn cào, miệng khát khô, mà khi gặp nhau, họ lao vào hôn nhau đến lả cả người đi vì nhớ nhung, mê đắm. Trong cõi mê của tình yêu, Ngọc nghe lời Hoàng, trốn nhà theo Việt Minh. Một thiếu nữ xinh như mộng, tiểu thư khuê các, thoắt một cái biến thành cán bộ Hội phụ nữ kháng chiến. Phần lớn chị em đi theo Việt Minh là mù chữ. Ngọc dạy chị em học văn hóa, học hát và nữ công gia chánh. Ban ngày là du kích, bộ đội, ban đêm là học trò. Cơm không đủ ăn, chạy càn tứ phương, thân hình kiều diễm của Ngọc teo tóp đi, có lúc một tay Hoàng xách nhẹ bỗng. Vậy mà Ngọc vượt qua được hết. Khổ sở vật chất đã được tình yêu bù đắp. Nhiều lần Hoàng thoát chết cũng nhờ tình yêu của Ngọc. Một năm trôi qua, họ báo cáo với tổ chức để làm lễ cưới. Lúc đó Hoàng là Phó Bí thư Tỉnh ủy, phụ trách quân sự. Bí thư Tỉnh ủy là ông Quốc Mật, đứng ra làm chủ hôn, đến nhà gái thuyết phục mẹ Ngọc cho con gái lấy Hoàng. Đám cưới tập thể - sản phẩm độc đáo của thời ấy - có bảy cặp vợ chồng bộ đội; cặp Hoàng - Ngọc là đẹp đôi nhất. Hàng trăm bộ đội và cán bộ dân chính trong tỉnh dự lễ cưới. Rạp cưới thật rộng, có cờ đỏ sao vàng, bàn thờ Tổ quốc, ảnh Hồ Chủ tịch, ảnh Mác, Ăngghen, Lênin, Mao Trạch Đông treo nơi trang trọng nhất, khẩu hiệu giăng kín rạp, kín cả sân đình, nền đỏ, chữ vàng, nhìn vào lóa cả mắt:
Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!
Tổ quốc hòa bình, gia đình hạnh phúc.
Tổ quốc trên hết.
Vui duyên mới không quên nhiệm vụ.
Vui duyên mới, mài sắc ý chí căm thù đế quốc phong kiến.
Thuận vợ thuận chồng bể Đông tát cạn. Thuận bè thuận bạn tát cạn bể Đông.. .
Quốc Mật đang tuyên bố lý do thì Pháp nã moọc chê vào làng. Không ai chết, có ba trẻ em bị thương. Đám cưới phải giải tán, hơn một giờ sau mới nhóm lại. Tếu nhất là màn đọc thơ, hát hò tặng cô dâu chú rể, và nhàm nhất là màn chú rể cô dâu phát biểu. Vậy nhưng ai cũng cười đến mỏi cả hàm! Bảy cặp dâu rể phát biểu giống nhau y chang, bởi họ đã được ông Phó Bí thư phụ trách tổ chức gà sẵn và bắt học thuộc. Ý thức chấp hành tổ chức kỷ luật là tối quan trọng! Tuy thế, cách nói lại khác nhau. Người thì nói như vẹt, người ấp a ấp úng như học sinh không thuộc bài, người thì hứng chí lên đọc thơ ứng tác của mình. Chú rể tên Hả cất giọng như lệnh vỡ:
Tây càn thì mặc Tây càn
Yêu nhau ta cứ pằng pằng trắng đêm
Pằng cho tới mặt trời lên,
Để anh cầm súng đạp trên đầu thù!
Cả rạp cười đến bốn năm phút, cười đau cả ruột. Trong bảy cặp tân hôn, chỉ có Hoàng - Ngọc là được học hành, có hai cặp mù chữ chưa biết ký tên, còn lại mới biết đọc, biết viết. Thế nhưng họ đều giống nhau ở niềm xúc động bởi tình yêu được tác hợp trong khói lửa chiến tranh. Ngày mai liệu có còn sống để yêu nhau? Biết đâu trước khi hy sinh trong trận chống càn, họ không được thấy nhau lần cuối? Em ơi giây phút cuối/ Không được nghe em nói/ Không được nhìn nhau một lần…*. Những người dự lễ cưới đều có tâm trạng như vậy. Vì thế mà toát lên từ đêm cưới tập thể này cái sâu nặng thiêng liêng của tình người, cái bất tử của khát vọng con người là trai gái được yêu nhau, được dâng hiến, được hòa tan vào nhau, được sống chết bên nhau trong mê lộ tình yêu. Một giờ sáng, Quốc Mật tuyên bố bế mạc. Điều không ai nghĩ tới là đêm tân hôn, động phòng hoa chúc sẽ diễn ra ở đâu? Trong nhà dân thì đừng hòng! Người nông dân kiêng cữ đủ điều. Người ta thà chịu chết chứ không chỉ hầm bí mật, nơi cán bộ bộ đội đang núp; nhưng nếu anh chị ngủ với nhau trong nhà người ta thì đừng hòng! Họ sẵn lòng nhường giường chiếu cho Việt Minh, nhưng với điều kiện trai gái phải ngủ riêng. Thế là, bảy cặp tân hôn, có cặp dắt nhau ra bờ ruộng, gốc đa, bờ đê; có cặp thức chong chong suốt đêm trong nỗi ức chế thèm khát không chịu nổi vì ông chủ nhà mắc võng nằm canh giữa hai chiếc chiếu của cô dâu chú rể! Vợ chồng Ngọc gặp may. Chủ nhà của họ là gia đình theo đạo Thiên Chúa, không kiêng cữ chuyện này. Hoàng Ngọc được dành cho một buồng riêng vốn là cái chái nhà, gần bể nước mưa. Suốt phần còn lại của đêm, trong ánh sáng ngọn đèn dầu hỏa, gọi là đèn Hoa Kỳ, Hoàng mê say chiêm ngưỡng vẻ tuyệt mỹ của thân thể Ngọc. Ngọc vô cùng thẹn thùng. Chồng đưa tay đến đâu cô rùng mình, co rúm người lại. Ba tháng sau khi cưới, Ngọc mới quen với sự chăn gối vợ chồng, mới dám nhìn thẳng vào thân thể chồng. Cảm giác chồng là một người cứng như thép, cái gì cũng rắn chắc, luôn luôn cứng, làm mình tê dại đi vì hoan lạc, luôn luôn khơi dậy ngọn lửa tình mãnh liệt trong Ngọc. Cô khao khát được dâng hiến và làm cho chồng hạnh phúc như cô.
Màu tím hoa sim - Thơ Hữu Loan.
… Đêm tân hôn trong ánh sáng leo lét tăng cảm giác hư ảo của ngọn đèn dầu cách nay bốn mươi hai năm, có gì giống nhau và có gì hơn buổi trưa nay, trong căn phòng loại nhất của khách sạn sang nhất Tokyo? Cha mẹ và đất trời đã phú cho Hoàng tài sản vô giá là sức vóc hơn người! Hoàng lao vào Tiên trong cơn bão tố của tình yêu, ở cấp độ cao nhất mà con người có thể đạt được. Cơn bão tình kéo dài gần tiếng đồng hồ. Họ thiếp đi, khi tỉnh dậy, Hoàng thấy Tiên đang ôm mình ngủ ngon lành. Hoàng say sưa nhìn ngắm Tiên. Trong ánh sáng thích hợp nhất mà các nhà thiết kế, kiến trúc tài danh xứ Phù Tang đã tính toán, trên chiếc giường nệm hình mặt trăng, xung quanh đều gắn gương, âm thanh từ dàn compact disc lan tỏa dặt dìu… Tất cả tạo ra một thiên đường mà hơn bốn chục năm trước đây Hoàng Ngọc không thể nào mơ tới. Tiên ngủ, nét mặt tươi như hoa, đôi môi như mời gọi. Kỳ lạ thay, khi nàng ngủ mà sự dâm đãng vẫn ánh lên. Điều đó có sức mạnh thôi miên tâm trí Hoàng. Hoàng áp mặt vào bộ ngực tuyệt vời, ghì chặt Tiên. Chỉ đến lúc ấy, Hoàng mới thoát khỏi ý nghĩ rằng mình đang nằm mơ. Hoàng rót một ly Hennessy, uống một hơi và hôn như mưa trên thân thể hạt bụi thần. Chợt ông nhớ có lần đi nhậu mừng chiến thắng sau mấy trận tennis, làm vài ly X.O sừng sừng rồi, một nhậu sỹ không rõ tên gì, mọi người kêu hắn bằng biệt danh X.O ngâm mấy câu thơ:
Thức đêm mới biết đêm thì ngắn
Và biết rằng em mới thật dài
Hôn em từ gót lên vầng trán
Hôn mới nửa chừng đã sớm mai!*
Thực ra đây là thơ Trần Mạnh Hảo. Bài “Không đề”: Thức đêm mới biết rằng đêm ngắn/ Chỉ có em thôi mới thật dài/ Nhớ em từ gót chân lên trán/ Đến sáng mà chưa kịp nhớ tay! Sau khi bài thơ ra đời, các nhậu sỹ đã lấy ý hai câu trên và cải biên hai câu sau của thi sỹ Trần Mạnh Hảo thành như vậy.
Hồi đó, nghe mấy câu thơ, Hoàng nghĩ rằng đúng là khẩu khí của bọn ăn chơi trác táng. Quái lạ, bữa nay sao ông thấy nó hay đến thế, vừa lãng mạn, vừa sinh động, vừa rất là gợi hứng. Thế là Hoàng… làm như lời thơ! Tiên rùng mình, rên lên rần rật, hai tay cào xé lưng Hoàng… Đến khi… không thể chịu nổi nữa, cô đẩy Hoàng ngã ngửa trên giường và leo lên trên… để thể hiện hết cái ham muốn của cô.
Tiên cuồng nhiệt trên bụng người tình bằng những động thái đầy ấn tượng. Cả hai bước vào một cơn bão mới… Mười bốn giờ ba mươi, họ tắm cho nhau trong bồn tắm có hương ngọc lan. Đúng mười lăm giờ, họ xuất hiện trong phòng đàm phán. Hoàng cảm thấy chưa bao giờ hưng phấn, sảng khoái và minh mẫn như lúc này. Ông là người được yêu, được hưởng hạnh phúc như ông từng ao ước. Ngọc Tiên như một công chúa. Mới có hơn hai tiếng đồng hồ cuồng nhiệt hứng hơi trai mà thần sắc Tiên thay đổi như có phép màu. Hai cán bộ trong đoàn và sáu người phía Nhật Bản ngẩn người trước vẻ đẹp và sức quyến rũ kinh hoàng của nàng. Họ không hiểu tại sao thần sắc cô phiên dịch buổi sáng khác với cô phiên dịch giờ này! Nàng đâu cần ăn mặc cầu kỳ: chiếc áo dài Việt Nam. Ôi chao, làm như chiếc áo dài sinh ra chỉ để tôn vẻ đẹp thân hình Tiên. Màu áo trắng, nước da như ngọc, mái tóc đen nhánh chấm vai, làm rộ lên vẻ hấp dẫn của bờ vai mềm mại cùng cái cổ cao trắng ngần. Tiên có bộ ngực rất khiêu khích, lưng ngắn, eo nhỏ, mông mẩy… tất cả trở thành tiêu điểm của hàng chục cặp mắt. Cuộc đàm phán diễn ra trong hai giờ đồng hồ đã mang lại kết quả mỹ mãn cho phía Việt Nam. Đặt bút ký vào những bản hợp đồng mà phía Việt Nam hời to, Hoàng nghĩ: Em biết không, thành quả này có đóng góp không nhỏ của em!
Tiệc chiêu đãi của ông Tamura, Chủ tịch tập đoàn kinh tế lớn vào loại hàng đầu Nhật Bản diễn ra ngay sau lễ ký. Cụng ly với Tiên, Tamura vừa tròn năm mươi tuổi khen:
- Cô Ngọc Tiên nói tiếng Nhật tuyệt lắm, cô học ở đâu vậy, Tokyo sao?
- Không, em học tại nhà, ba em dạy.
- Ồ! Cô Tiên có người cha tuyệt vời. Ba cô hiện làm gì?
- Ông nghỉ ở nhà, dịch sách và chơi cá, chim, cây kiểng.
- Ồ, tôi vô cùng ngạc nhiên đó! Hy vọng rằng một ngày không xa, khi sang Việt Nam, tôi được đến thăm ba cô. Tiên không phản đối chứ?
- Tiên sẵn lòng chìu ông!
Tiên trả lời cả bằng ánh mắt như hút hồn người đối thoại.
- Rất sung sướng khi nghe lời nói vừa rồi của Tiên. Hôm nay là ngày đẹp nhất trong đời tôi, Tiên ạ!
Họ nhảy với nhau hết bản này sang bản khác. Hoàng đang ngồi thừ người ra thì con gái của chủ nhà, một cô gái mắt một mí, gày nhẳng, cao lêu đêu, mời ông cùng khiêu vũ. Ông ra sàn nhảy. Thoáng một cái gì như là ghen tức khi Hoàng bắt gặp cái nhón chân của Tiên cho ngực nàng cà vào ngực bạn nhảy. Hoàng vội xua ngay sự không vui trong đầu. Của tam bảo mà! Nàng đã thuộc về ta rồi, ghen tuông mà chi!
Tamura ngọt ngào bên tai Tiên:
- Cô đẹp lắm, cô làm tôi phát cuồng lên mất!
- Thật vậy sao? Chỉ là ông quá khen mà thôi.
- Tôi ước gì có…, à… được ông Hoàng cho phép tôi dẫn Tiên đi chơi Tokyo.
- Ông thử nói với sếp của em coi! Em nghĩ là được.
- Vậy là cô bằng lòng nhé!
Tiên cười thật lẳng với Tamura, thay cho câu trả lời. Bắt được tín hiệu đó, Tamura kéo Tiên sát vào mình hơn, những ngón tay mơn trớn trên lưng Tiên trong điệu nhảy slow. Cả hai cùng cảm nhận được sự âm ấm nong nóng đến lịm người…
Về đến phòng, Tiên chưa kịp thay quần áo thì chuông điện thoại reo. Giọng Hoàng ấm áp và sang sảng ngay cả khi nói những lời ái ân với nàng:
- Anh qua phòng em nhé, cưng của anh!
- Em… chưa tắm!
- Ồ không sao, anh tắm cho em.
- Tuân lệnh, thưa sếp!
Tiên cười giòn tan trong máy. Vừa buông máy đã thấy Hoàng gõ cửa. Họ lao vào nhau quên cả chuyện tắm rửa. Phải chín mươi phút sau cơn bão tình mới dừng trên giường. Hoàng ngủ ngon, nét mặt mãn nguyện. Tiên thiếp đi chừng nửa giờ rồi tỉnh dậy. Cô vào phòng tắm ngâm nước nóng rồi nhẹ nhàng ra nằm cạnh Hoàng. Cô ngắm kỹ khuôn mặt vuông vức, đôi lông mày lưỡi mác của Hoàng. Đôi mắt Hoàng lúc này khép lại, gương mặt thanh thản, còn lúc nhìn cô, nó toát ra nguồn sinh lực mà cô chưa hề thấy ở người đàn ông nào. Cô không thể nào tin một người ngoại lục tuần lại có sinh lực mãnh liệt đến vậy. Cô phải cám ơn ai? Nhờ ai cô có việc làm, có tình yêu? Chẳng nhờ ai cả! Cô đẹp và có tài, cô không phải mang ơn ai, kể cả Hoàng. Thế nhưng đó chỉ là những ý nghĩ thầm kín trong lòng, cô không lộ cho Hoàng biết. Mục tiêu của cô cao lắm. Chừng nào chưa tới đích, cô luôn luôn là người tình lý tưởng như Hoàng thốt lên ban nãy. Cô thấy mình nhập vai rất đạt, vì chính cô vô cùng say mê Hoàng.
Tiên nghĩ đến những năm tủi cực của mình khi cha cô bị thất sủng. Một người có tài, có tâm như cha cô mà thất sủng. Cha cùng bác Trọng là hai người bạn thân học chung trường. Họ rất giỏi tiếng Nhật, tiếng Hán và tiếng Pháp. Khi Nhật vào, họ trở thành thông ngôn cho quân đội Nhật. Năm 1943, cả hai cùng trở thành cơ sở của Việt Minh rồi được kết nạp vào Đảng Cộng sản và sau đó cùng bị giặc bắt, đày ra Côn Đảo. Tháng Năm năm Bảy mươi lăm, không rõ ai ra lệnh, có người tưới xăng phóng hỏa đốt những tủ hồ sơ tại phòng thẩm vấn của chúa đảo. Sau này, khi khai lý lịch, ông Trọng không khai cái đoạn làm thông ngôn cho Nhật, cho nên được lên chức lớn. Còn cha, chỉ vì bản chất trung thực, cha đã khai tường tận cái thời hai năm làm thông ngôn rồi làm nội ứng cho cách mạng, diệt gọn một tiểu đoàn giặc. Thế nên, qua kỳ Đại hội, ông thất sủng. Năm mươi tuổi, cha đã xin nghỉ hưu.
Năm Chín mươi mốt, Tiên tốt nghiệp khoa Anh văn, xin mãi không được việc làm. Có một anh chàng tốt mã, hứa lo việc cho Tiên. Tiên cả tin, bị hắn lừa, lấy đi sự trinh tiết rồi biến. Hận đời, Tiên không ngã gục mà nhận công tác tại quê nội nghèo khó ở miền Trung, dạy cấp ba, môn văn và Anh văn. Cuối năm ấy Tiên lấy chồng, một người cùng tỉnh, làm nhân viên địa chính của một quận tại Sài Gòn. Tiên bỏ nghề dạy, giã từ cha và quê hương nghèo khổ, theo chồng vô Sài Gòn. Rồi sanh con, một đứa con trai. Lấy chồng như để tìm lối thoát, vợ chồng cãi lộn nhau hoài, nghèo quá sanh vậy! Lúc nào thằng chồng cũng mang chuyện mất trinh ra rủa xả. Rồi Tiên phát hiện chồng có tình nhân. Rồi… đưa nhau ra tòa! Thế rồi Tiên đi dạy kiếm tiền đắp đổi qua ngày, rồi gặp thằng Thăng, cái thằng oắt con mà mạnh như sư tử!
Giờ đây, Tiên đổi đời rồi! Cô quyết tâm tạo vốn, trở thành bà chủ của một doanh nghiệp. Thời buổi này là thời của doanh nghiệp tư nhân. Đây cũng là thời của gái đẹp, có sinh ngữ. Cô phải là tỷ phú, mà phải là tỷ phú đôla!
Không biết từ bao giờ, Tiên coi tất cả lũ đàn ông cùng một giuộc: ham sắc dục và đạo đức giả! Có lẽ là từ khi cô bị tên Sở Khanh giả hiệu Việt kiều gạt cô trong mấy ngày đầu lúc mới ra trường. Chơi xong, giông! Hắn đểu thiệt! Hắn bỏ Tiên nằm ngủ ở phòng trọ tồi tàn bẩn thỉu, trước khi đi hắn moi sạch mấy đồng bạc còm của Tiên trong khi tiền phòng hắn không trả! Chủ phòng trọ tên Đào, một gã tóc quăn, rậm râu, sâu mắt, miệng móm. Gã không còn lòng thương người! Gã không thèm nghe lời van xin của Tiên, chỉ hau háu nhìn vào thân thể Tiên. Gã nhận ra Tiên trẻ và quá đẹp! Đào bắt Tiên phải ngủ với gã suốt một ngày một đêm thì mới coi như trả hết tiền phòng. Bằng không thì gã móm sẽ nộp Tiên lên công an phường!
Khốn nạn! Gã cao lêu đêu, nách và miệng hôi rình như hố phân, ốm ròm mà dai như đỉa. Gã hành hạ Tiên đến phát bệnh suốt một tuần sau đó.
Quả như Khổng Tử viết: Dĩ hĩ hồ! Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã!* Cha Tiên là môn đệ của Khổng Khâu, đến mức bác Trọng phải thốt lên: “Trung ơi, ông là nhà Khổng học xuất sắc của Việt Nam”. Cha chỉ cười. Cha sống theo lý thuyết của Khổng Tử. Phải chăng vì thế mà ông xin về vườn quá sớm trong khi sức lực và trí óc còn rất dồi dào và thông tuệ! Tiên nhận ra cha mình bất đắc chí. Ông không thể sống khuất tất, không thể điều chỉnh mình cho tròn vo, không thể khom lưng uốn gối… Thời chưa nghỉ hưu, trên tường, trước bàn làm việc của ông có chữ Nhẫn, do ông viết bằng Hán tự, khổ lớn rất đẹp. Khi về hưu, trong một bữa cơm gia đình, ông đọc bài thơ Thuật hoài của Đặng Dung. Ông ngâm đi ngâm lại mãi câu:
Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa*
Lạ thay! Ta chưa từng thấy (ai) ham đức như ham sắc vậy!
Gặp thời, kẻ bần tiện cũng dễ dàng thành đạt. Anh hùng khi lỡ bước thì uống thật nhiều nỗi hận!
Thế mới biết ông đau như thế nào. Đó là những năm tháng buồn chán nhất của gia đình. Người cha không còn thiết gì khác ngoài chuyện đọc sách, chơi chim chó cá kiểng, bonsai, dạy con tiếng Nhật, tiếng Quan Thoại, văn hóa Trung Hoa và văn hóa Nhật. Hy vọng lớn nhất của ông là cô con gái độc nhất của mình sau này có dịp qua Nhật, trở thành nhà kinh doanh giỏi,… Cô đang nằm đây, giữa thủ đô của xứ Phù Tang và nhớ đến lời cha. Cha ơi, con nguyện sẽ làm được như cha mong ước.
Hoàng trở mình, nằm nghiêng, vòng tay ôm ghì lấy Tiên trong khi vẫn ngủ ngon, thở đều và nhẹ. Tiên áp chặt thân thể vào ông. Cô nhớ ngày đầu về làm việc với Hoàng, Tiên nhận ra ngay lập tức rằng đây không là một người đàn ông bình thường, không thể xếp Hoàng vào chung một rọ với lũ đực rựa ngoài đời. Trong ông chất chứa, dồn nén ngọn lửa nhiệt tình với sự nghiệp, với cuộc sống, với đàn bà. Chỉ nghe ông trao đổi công việc với mấy ông cấp trên, đủ biết về trí tuệ Hoàng hơn hẳn. Về tâm huyết với đời, Tiên nghĩ Hoàng cũng hàng đầu! Ông đã chặn đứng đà suy thoái của ngành kinh tế biển.
Trong năm năm Bảy sáu – Tám mươi, nhà nước đầu tư nửa tỷ đôla Mỹ cho ngành này, nhưng không đạt mục tiêu đề ra, thất bại! Cải tạo xong, tập thể hóa, quốc hữu hóa, hàng vạn ngư dân lâm vào cảnh đói ăn, lòng người ly tán. Sau cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, kinh tế suy thoái, xã hội khủng hoảng, gần một triệu người bỏ nước ra đi. Hàng vạn thuyền nhân bỏ xác trên biển… Thứ trưởng Hoàng kiêm nhiệm chức Tổng Giám đốc Tổng Công ty Biển đã khai sinh ra cơ chế tự cân đối, tự trang trải. Đây là “trái bom” nổ tung cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở ra lối thoát cho nền kinh tế, chắp cánh cho người lao động. Ngay lập tức, ông Hoàng được dư luận hoan nghênh, nhưng cũng bị không ít người lên án, phê phán…
Cuộc đấu để cho cơ chế tự cân đối tự trang trải được thể chế hóa diễn ra mấy năm trời. Ai chống, mặc! Hoàng cứ làm, lấy hiệu quả để thuyết phục. Tổng kết năm 1981, Hoàng xuất khẩu được hai chục triệu đôla, phục hồi nghề cá nhân dân, sáu nhà máy đông lạnh hồi sinh, có nguyên liệu, ăn nên làm ra. Năm 1982, sản phẩm của Tổng Công ty Biển Việt Nam được trao giải thưởng Uy tín chất lượng quốc tế. Lần đầu tiên, một sản phẩm của Việt Nam đang bị Mỹ cấm vận được thế giới thừa nhận, được thị trường châu Âu đặt hàng… Năm 1991, mười năm sau khi ra đời, Tổng Công ty của Hoàng đạt kim ngạch xuất khẩu sáu trăm triệu đôla. Năm 1993, con số này là tám trăm triệu. Đó chính là thời điểm Tiên gặp Hoàng.
Tất cả các giác quan của Tiên hoạt động với tần suất cao nhất để minh định xem Hoàng là người thế nào. Cô kết luận: Nếu có một người đàn ông lý tưởng, thì đó là Hoàng. Cao lớn, tai bự như tai Phật, giọng nói sang sảng, ánh mắt lúc nào cũng ngời lên sự thông minh, tinh tế và ham muốn đủ điều… Hình ảnh đó khắc sâu vào tâm trí cô từ lúc nào không hay.
Hoàng vẫn ngủ, đôi môi dày như hé cười. Tiên gắn môi mình vào đó. Và… ngọn lửa tình mãnh liệt bốc lên! Lần đầu tiên trong đời cô, cô chủ động làm tình với Hoàng.
Một tuần lễ đi thăm và làm việc với các công ty trên khắp nước Nhật, Tiên coi là bảy ngày trăng mật của mình. Còn hai tiếng đồng hồ nữa, xe đón họ ra sân bay. Tiên nuối tiếc:
- Về Sài Gòn, liệu có những ngày nào được như bảy ngày qua hả anh?
- Mãi mãi, em ạ!
- Mỗi đêm?
- Ừ, hằng đêm.
- Nhưng… ở đâu?
- Tất nhiên là ở nơi nào sạch sẽ và tiện nghi nhất…
- Còn vợ anh, các con anh, còn dư luận?
- Vớ vẩn! Với anh bây giờ, em là quan trọng nhất!
Hai chục phút nữa họ ra phi trường. Tiên đang kéo cái dây khóa của chiếc váy ngắn thì Hoàng nhào tới, ẵm thốc Tiên đặt ngửa trên mặt bàn… Đúng như lời các cụ: cơm chín tái, cải ngồng non, gái một con, bồ câu ra ràng! Họ chỉ rời nhau khi có tiếng chuông điện thoại báo rằng xe đang chờ.
Mặc cảm ngoại tình, có lỗi với vợ chỉ xuất hiện trong Hoàng khi bà Ngọc nói:
- Anh ơi, ngày mai là kỷ niệm bốn mươi ba năm ngày cưới chúng mình đó!
- Em đã chuẩn bị gì chưa?
- Em tính mời một số bạn bè đến nhà, anh thấy có nên không?
- Em bao giờ cũng đúng trong những việc như thế!
Hoàng khen vợ, nhưng bà Ngọc lại thở dài. Bốn mươi ba năm qua chồng bà xứng đáng với niềm tin, niềm kỳ vọng và tự hào của bà. Thế nhưng, gần đây, có một cơn gió nào đó quét vào căn nhà này, vào tâm hồn chồng bà. Bà yêu chồng hết mực, lại là người tinh nhạy, cảm nhận của bà không thể nào sai. Hôm ra sân bay đón chồng từ Nhật về, bà ôm bó hồng Đà Lạt tươi thắm, loại hoa mà hai vợ chồng bà yêu thích nhất từ khi còn nhỏ. Vậy mà khi cửa máy bay mở ra, đi sau Hoàng là một người đàn bà quá đẹp, cô ta đẹp đến nỗi khiến bà phải lo ngại. Hoàng giới thiệu đó là Tiên, thư ký kiêm phiên dịch. Bà mất ngủ cả tuần liền. Linh tính báo cho bà biết rằng Hoàng sẽ là con thiêu thân lao vào Tiên. Bà nén lòng, im lặng, cố không lộ ra một chút nào nghi ngờ chồng. Đêm đầu tiên từ Nhật về, bà thấy chồng cứ trằn trọc hoài.
- Anh mệt lắm sao? Em hầm gà ác xong rồi đây, dậy ăn cho nóng, anh!
- Anh mệt quá, em ạ!
Đó là lần đầu tiên Hoàng dối vợ. Một người chồng chung thủy suốt bốn mươi ba năm, nay dối vợ một câu mà giọng như thật, mặt tỉnh bơ. Hoàng thấy mình có tội.
Ngồi nhìn Hoàng ăn, rót rượu thuốc cho Hoàng, bà Ngọc lại nghĩ đến cô thư ký Ngọc Tiên. Cô ta có tên đẹp như người, chữ lót trùng với tên bà. Cô Tiên có thể hơn cháu Minh Thảo nhà mình bốn năm tuổi! Người đẹp như vậy, vẻ đẹp quá sắc sảo như vậy thì đàn ông phải chết mê chết mệt là thường! Còn chồng mình? Cả đời ông chỉ biết có mình là người yêu đầu tiên và cuối cùng. Năm nay sáu mươi sáu tuổi mà cơ thể còn săn chắc thế kia, liệu ông có cầm lòng được không? Cái trò thủ trưởng kè kè thư ký trẻ có khác chi lửa gần rơm, mỡ để miệng mèo! Hồi mới cưới nhau, mỗi đêm ông yêu bà cả chục lần! Thật tuyệt, thật là kỷ lục! Vài năm nay, chuyện đó hầu như quên rồi. Ngày ông đi Bỉ về, bà đang bệnh, ông yêu bà, bà lỡ kêu lên vì đau, khiến ông vô cùng thất vọng. Từ đó đến nay, ông không hề than vãn, không hề để lộ sự thất vọng trong chuyện chăn gối; nhưng bà hiểu, ông như một hỏa diệm sơn, đầy ham muốn… Tình yêu mà không có tình dục thì… mau lạt lẽo, chẳng khác nào cá không có muối! Vợ chồng mà không thỏa mãn nhau chuyện chăn gối có khác chi địa ngục. Biết vậy nên bà chỉ còn biết chăm sóc chiều chuộng ông gấp bội so với trước kia.
Nghỉ ở nhà được một đêm, sáng hôm sau Hoàng đi làm đến mười hai giờ đêm mới về. Trước đó, ông điện thoại nói là mắc tiếp khách nước ngoài!
Đây là lần thứ hai ông dối vợ. Bắt đầu từ đây, ông dối vợ như cơm bữa. Vừa thay quần áo để vào tắm rửa, ông bảo bà chuẩn bị cho ông sáng mai đi Minh Hải sớm. Ông dẫn đoàn doanh nhân Australia đi thị sát địa điểm nuôi tôm, bốn ngày mới về. Bà lẳng lặng chuẩn bị quần áo, đồ dùng cho ông. Việc này bà quen thuộc đến nỗi không phải hỏi ông một điều gì. Áo quần được ủi phẳng phiu, thơm phức trước khi gấp, cho vào vali. Ông có thói quen dậy sớm, chạy và tập thể dục cho nên bao giờ đi xa, bà cũng gấp cho ông bộ đồ thể thao mua từ Paris về. Đêm đó, ông ngủ ngon lành. Đó là hệ quả của những cơn bão tình diễn ra trong khách sạn sang nhất - đúng như lời ông nói với Tiên ở Tokyo. Chỉ đến mười một giờ rưỡi đêm, hai người mới rời nhau. Mai họ lại rong ruổi trên đường đi miền Tây rồi!
Như phép nhiệm màu, khi có Tiên ở bên, Hoàng thấy mọi việc vô cùng thuận lợi. Sau khi thị sát địa điểm nuôi tôm, phía Australia đã đồng ý liên doanh trong một dự án đầu tư một trăm năm chục triệu đôla Australia, thời gian năm chục năm. Hai bên ký tắt thỏa thuận tại Cần Thơ. Ngọc Tiên được giao nhiệm vụ thư ký Hội đồng soạn thảo Luận chứng kinh tế kỹ thuật, kiêm luôn việc quan hệ với SCCI, tức Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư, để xin giấy phép. Hoàng nói:
- Em ráng trở thành một nhà doanh nghiệp. Ngay từ bây giờ, anh sẽ tạo điều kiện cho em tiếp cận với những cao thủ trên thương trường…
Tiên tiếp lời:
- Và cả chính trường nữa chứ!
Nói rồi, cô nhào tới vít cổ Hoàng, hôn như mưa trên mặt Hoàng…
Ở Sài Gòn, bà Ngọc lo mua sắm thức ăn và nghĩ cách bày biện thế nào cho Hoàng hài lòng trong ngày kỷ niệm bốn mươi ba năm lễ cưới. Tâm trí bà xốn xang khi nhớ lại lễ cưới tập thể, khi ông Quốc Mật vừa tuyên bố lý do thì ca nông của Pháp nã cấp tập vào làng. Mọi người hối hả tản ra, chui xuống hầm. Riêng Hoàng và Ngọc thì ôm cứng lấy nhau, hôn nhau mê tơi trong một đống rơm to ở gần sân đình. Chỉ còn ít phút nữa là họ thành vợ chồng, thuộc về nhau vĩnh viễn. Họ cũng có thể chết trong cuộc bắn phá này! Nhưng họ không nghĩ gì về cái chết, thậm chí tiếng nổ của ca nông cũng chỉ u u mờ mờ bên tai, không khác tiếng trống chèo là mấy! Hoàng luồn tay vào ve vuốt ngực bà. Lần đầu tiên ông dám làm như thế với bà! Bà nhớ lại chuyện hơn bốn chục năm trước mà nó mới rượi trong óc bà như chuyện mới xảy ra gần đây thôi. Bà vừa sung sướng, vừa sợ, run bắn người:
- Đừng! Anh! Người ta thấy thì chết!
- Không sao đâu! Mặc kệ họ! Em là vợ của anh mà! Chúng ta sống chết cùng nhau, vì nhau nghe em!
Ông nói rồi gục đầu vào ngực bà, hôn đến hụt hơi. Lúc đó, bà mặc áo dài nữ sinh màu trắng. Ông hôn lên chiếc áo đó. Luồng điện từ môi ông làm bà mềm nhũn người, bà muốn ngăn ông nhưng không nói nên lời. Thế rồi ông hôn như mưa lên khắp thân thể bà. Những lúc hụt hơi, phải nghỉ để lấy hơi, ông thốt lên: Chúng ta sống chết vì nhau nghe em! Câu nói đó của chồng khắc sâu trong tâm trí bà. Cho đến bây giờ, sau bốn mươi ba năm với biết bao gian khổ, buồn vui, lo âu và hạnh phúc, bà vẫn nghe như âm thanh đó đang từ miệng ông hổn hển thốt lên với bà trong đống rơm ở gần sân đình làng. Chúng ta sống chết vì nhau nghe em!
Bà lặng lẽ quay mặt và thở dài khi nghe chồng nói: Em bao giờ cũng đúng trong những việc như thế! Hàm ý rằng em muốn làm sao thì làm. Ông đã dành cho bà toàn quyền quyết định mọi việc trong nhà. Làm ra tiền, ông đưa cả cho vợ. Không bao giờ ông để tâm đến chuyện tiêu pha trong gia đình. Mua sắm thứ gì, bà có khoe, ông mới ngó đến, khen một câu rồi thôi. Ít khi ông chủ động nói nên mua cái này, không nên mua cái kia. Ông tin bà, tin ở năng lực tề gia nội trợ của bà. Ông mê những món ăn bà nấu: canh cua rau đay mồng tơi mướp ăn với cà pháo muối chấm mắm tôm, cá chép kho riềng, xôi vò, ba ba hầm sả và ba ba nấu chuối xanh, tôm he nướng mọi, thịt nai nướng cuốn bánh tráng, riêu cá thì là, canh cá rô nấu bánh đa… Tương cà mắm, thứ nào bà làm ông cũng khen ngon. Nhất là món chả cá Lã Vọng. Cả nhà ông, từ ông tới con trai trưởng Nguyễn Thành Đạt, con trai thứ Nguyễn Ánh Dương, cháu gái nội đầu lòng Nguyễn Minh Thảo… tất tần tật đều mê món này. Suốt cuộc đời, từ lúc trèo qua cửa sổ, tụt thang xuống với Hoàng đến giờ, bà luôn luôn quên mình! Bà tôn thờ chồng như một con người lý tưởng. Bà luôn làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ. Và thật lạ kỳ, càng lớn tuổi, bà càng yêu chồng hơn bao giờ hết! Bà yêu chồng còn hơn yêu các con bà. Bà thuộc loại người chỉ biết có một người đàn ông. Bà muốn hy sinh tất cả cho chồng, cho con.
Công việc ở miền Tây đã xong nhưng Hoàng nán lại một đêm với Tiên, cho nên đúng năm ngày ông mới về. Ngày hôm sau là ngày cưới cách nay bốn mươi ba năm. Ngọc khoe với chồng những thứ đã mua cho bữa tiệc, dự định mời ba chục người thân thiết. Như thường lệ, Hoàng thành tâm khen vợ rồi đi nằm. Ngọc đến bên, tay cầm một gói quà:
- Em có món quà tặng anh!
- Tuyệt! Quà gì thế em?
- Anh đoán xem!
Ngọc đưa cho chồng, bằng hai tay, trân trọng. Hoàng cầm gói quà bọc trong giấy kiếng đỏ, một lúc sau ông nói:
- Chịu, anh không đoán nổi!
Hàng năm, vào dịp này, Ngọc thường tặng chồng chai nước hoa hiệu Lancôme, loại dành cho đàn ông mà Hoàng rất thích. Có năm, Ngọc tặng chiếc cà vạt và bộ khuy cài măng sét, hàng hiệu Christian Dior. Năm nay… Hoàng mở ra thấy cuốn Kinh Dịch, trọn bộ, do Ngô Tất Tố dịch. Hoàng sững người. Phải chăng vợ mình biết chuyện ngoại tình của mình nên dùng Khổng Tử để nhắc nhở? Không lẽ một người yêu chồng đến ích kỷ, coi chồng như vật sở hữu riêng mà khi biết chồng ngoại tình lại bình thản được vậy sao? Ông cho rằng vợ chưa biết! Cậu lái xe là người kín miệng. Cậu trợ lý học ở Đức về là một tay lịch lãm, trung thành với Hoàng. Ngay cả hai người đó cũng không thể biết đích xác quan hệ của mình với Tiên. Mà nếu có biết, chúng không thể tiết lộ cho vợ mình.
- Anh cám ơn em! Làm sao mà em biết được anh mê Khổng Tử kia chứ? Nhưng cuốn này khó hiểu lắm, phải nhờ thầy mới đọc được. Cám ơn em đã củng cố kiến thức cho anh!
Ngọc sung sướng đến phát khóc khi nhận ra vẻ rất thật của chồng.
- Em chỉ muốn anh thêm sự tỉnh táo… Những người hiểu biết nói rằng am tường Dịch lý sẽ sống như một người quân tử! Dịch lý không chỉ đúng trong thời cổ đại, nó đã đúng và sẽ đúng mãi trong tương lai. Nắm được Dịch lý, ta sẽ không u mê, không chìm trong cõi mê, luôn luôn tỉnh táo…
- Anh hiểu, - Hoàng ngắt lời vợ, chỉ lo vợ sẽ nói tiếp là tỉnh táo trước người đẹp, trước mọi sự cám dỗ. Nếu Ngọc nói đúng câu đó thì không biết Hoàng có thể tỉnh bơ mà nói dối vợ được nữa không? Hoàng không phải là kẻ gian hùng. Nếu biết gian hùng thì có lẽ ông không như hôm nay! Trong ông tràn đầy lòng nhân ái, nhất là với vợ ông. Nếu vợ hỏi thẳng ông quan hệ với Tiên như thế nào thì sẽ trả lời sao đây? Chắc chắn là phải nói sự thật. Bỏ Tiên thì không thể, nhưng dối vợ về chuyện này, ông không nỡ! Ông thề với mình rằng ông sẽ thú thật nếu như vợ biết chuyện.
Ngọc nằm yên cạnh chồng…
Mặc cảm có lỗi với vợ từ từ choán ngợp tâm trí Hoàng. Ông đưa tay ôm bà, vuốt ve. Bàn tay to, cứng cáp của ông mơn man vết thương trên đùi phải của bà.
Hồi đó, Ngọc trên đường từ Tuyên Quang về lại căn cứ Tỉnh ủy, cùng đi với một đại đội vận tải vũ khí. Mười hai giờ đêm, họ đến gần ga Phạm Xá thì bị phục kích. Hai người chết tại chỗ. Ngọc bị thương gẫy xương đùi phải. Những người còn lại thoát khỏi vòng vây. Ngọc vùi mình xuống bùn nhưng địch bắn pháo sáng và phát hiện ra.“Còn một con Việt Minh sống sót!”. Thế rồi chúng bắt Ngọc. Ngọc được coi là tù binh nên được đưa về nhà thương Đồn Thủy, Hà Nội chữa trị. Những người lính dõng thấy một phụ nữ trẻ - năm đó Ngọc mới tròn hai mươi - và quá đẹp, động lòng thương nên đã tắm rửa cho Ngọc trước khi đưa lên xe cam nhông về Hà Nội.
Thời gian đó, đã một năm hai vợ chồng không gặp nhau, không nhận được tin nhau. Trong nhà thương, ở khu tù binh Việt Minh, Ngọc hôn mê ba ngày liền. Các bác sỹ người Pháp đã mổ vết thương, ghép xương bị gẫy. Xương đùi bị nát vụn nên khi ghép lại, chân ngắn mất hai xăngtimét. Tỉnh dậy, Ngọc thấy một ông già có nét mặt nhân từ.
- Cháu tên gì?
- Cháu tên Ngọc.
- Cháu phải cẩn thận nhé, ở đây có mật thám đấy. Khai gì là quyền ở cháu, nhưng tiền hậu phải như nhất. Khi nào có thể di chuyển được, Phòng Nhì* sẽ hỏi cung. Liệu mà gìn giữ!
Deuxième Bureau: Phòng Nhì, cơ quan mật thám Pháp.
- Cám ơn bác! Bác là ai?
- Bác tên Định, lao công ở đây.
Ngọc biết ngay ông già đây là cơ sở của ta, cô thấy vững tâm. Ngọc nghĩ đến chồng. Từ khi bị bắt đến giờ, ngay cả lúc mê man, Ngọc chỉ nghĩ đến chồng. Chỉ sợ trong lúc mê man, gọi tên chồng thì sao? Ông Định nói:
- Cháu có tiền bạc gì đưa bác cất cho kẻo kẻ gian lấy mất!
Khi được những người lính dõng tốt bụng tắm rửa cho, Ngọc mê man không biết gì. Lúc lên xe cam nhông, anh em lính góp nhau được mười hai đồng bạc cho Ngọc. Ngọc mất hết đồ đạc cho nên đó là số tiền duy nhất đưa cho ông Định. Những ngày sau, cũng chẳng phải mua sắm gì bởi thuốc men, thức ăn do Mỹ viện trợ quá dư thừa. Thức ăn trong bệnh viện rất ngon, đồ hộp, đường sữa quá nhiều. Ngay cả băng vệ sinh phụ nữ cũng là hàng viện trợ Mỹ. Bệnh viện sạch như li như lau. Áo quần bệnh nhân trắng tinh, thơm phức. Ông Định thường trò chuyện với Ngọc. Chưa bao giờ ông hỏi cô có phải là Việt Minh hay không. Sự ân cần của ông, cung cách ông nói chuyện khiến Ngọc hoàn toàn tin tưởng. Khi Phòng Nhì đưa cô đi hỏi cung, ông Định nhắc:
- Bình tĩnh, khai gì phải cân nhắc cho kỹ để khi nó vặn vẹo thì tiền hậu như nhất. Nếu cháu để lộ ra điều gì khiến chúng nghi ngờ, chúng sẽ tra tấn đến chết!
Ngọc khai là người miền biển, đi buôn từ mạn ngược về, chẳng may gặp Việt Minh nên bị phục kích. Trước sau, Ngọc chỉ khai có thế. Riêng địa chỉ nơi ở của gia đình thì cô khai thật. Phòng Nhì thế nào cũng xác minh, nếu khai không đúng là chết ngay! Chúng cho xác minh, thấy bố Ngọc cũng đi buôn và mất tích, nay Ngọc đi buôn là hợp lý nên chuyển sang điều tra về chồng cô. Ngọc khai chồng bỏ nhà đi đâu không rõ, đã hai năm rồi. Địa chỉ của gia đình chồng, Ngọc cũng không thể giấu. Pháp biết chồng Ngọc là cán bộ lãnh đạo Trung đoàn của Việt Minh, Phó Bí thư Tỉnh ủy. Vậy là chúng không điều tra nữa! Pháp đưa Ngọc về Hải Phòng, bắt nhận diện những cán bộ Việt Minh mà chúng bắt được. Ngày nào chúng cũng bắt Ngọc nhận diện. Ngọc chỉ lắc đầu, nói không biết. Chán, một tháng sau chúng thả Ngọc về. Chúng cho xe jeep chở thẳng Ngọc về nhà bố chồng, hàng ngày phải lên trình diện Phòng Nhì. Thời gian này, Hoàng đang chỉnh quân ở Thanh Hóa. Nhận được tin, Hoàng cho liên lạc của mình về đón Ngọc. Ngọc xin phép Phòng Nhì lên Hà Nội đón mẹ, mẹ cô đã chuyển chỗ ở lên Hà Nội. Nhân đó, Ngọc hẹn với Phúc là liên lạc của chồng đón Ngọc ở Hải Dương, đưa cô vào Thanh. Thời đó chỉ đi bộ. Phúc và Ngọc đi được hai ngày thì vết thương của cô viêm tấy đỏ, vô cùng đau nhức. Phúc phải thuê người cáng Ngọc đi. Tới Thanh Hóa, vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi, họ ôm nhau khóc ròng. Thế nhưng cấp trên lại nhắc Hoàng phải cảnh giác với vợ. Có thể là Phòng Nhì đã mua chuộc Ngọc. Tại sao Việt Minh bị bắt mà được chữa trị, đối xử tử tế và được thả về? Có thể Ngọc nhận làm gián điệp cho Phòng Nhì? Đơn vị đang chỉnh quân. Hoàng phải làm cam kết bảo lãnh cho vợ. Phúc cho Hoàng, mấy tháng đó máy bay Pháp không héo lánh tới vùng này ném bom. Nếu Pháp dội bom xuống đây thì Ngọc bị bắt ngay lập tức!
Ngọc làm việc tại quân y Trung đoàn. Thương binh không nhiều vì đang chỉnh quân, Ngọc nhớ con quá, thổ lộ với chồng. Lúc này họ đã có đứa con trai thứ hai. Thằng lớn tên Thành Đạt, năm tuổi, đẻ xong đem gửi ông bà nội. Ngọc được Phòng Nhì tha về, con không nhận mẹ, cứ gọi bà nội là mẹ. Thằng thứ hai tên Nguyễn Hiếu Hòa, đẻ ở chiến khu Đông Triều, giữa mùa mưa trong rừng sâu, bị giặc vây bủa vô cùng ngặt nghèo, cơm không có mà ăn. Khi thoát khỏi vòng vây, Ngọc ôm con gửi cô em ruột lúc này đã lấy chồng làm ở Cục Hậu cần. Ngọc xin chồng cho đón thằng Hòa về Thanh Hóa. Phúc lại lên đường ngược Tuyên Quang. Lúc này ở Tuyên Quang đang cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ phản động, trừng trị bọn phản cách mạng. Hai tháng sau, thằng Hòa về gặp bố mẹ, nhưng dứt khoát không gọi Ngọc là mẹ, vì Ngọc mặc áo trắng thế kia, dứt khoát là địa chủ rồi! Hòa chửi mẹ:
- Con mụ địa chủ ác độc bóc lột dân nghèo, phải đấu tố, phải gô cổ nó lại!
Căn nhà vợ chồng Hoàng ở nhờ của dân là nhà ngói có sân gạch và bể nước mưa, thằng bé nhất định không đặt chân vào vì nó bảo đó là nhà của tên đại địa chủ! Ba tuổi, người nó gầy đét chỉ da bọc xương, vậy mà đến bữa ăn, cho ăn cơm với thịt, nó hét lên: Cơm của địa chủ! Nó dứt khoát không ăn. Công cuộc cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ ở vùng căn cứ Tuyên Quang đã hằn sâu vào trí óc non nớt của thằng bé. Hoàng chỉ biết ôm lấy con mà khóc. Phải mất mười ngày sau, thằng bé mới cho bố mẹ nó bế!
Đơn vị của Hoàng nhận lệnh về mặt trận đường số 5, hưởng ứng chiến dịch Điện Biên Phủ. Hoàng chỉ huy Trung đoàn, trận nào cũng thắng. Ngọc vừa làm trong quân y của đơn vị, vừa chăm chồng nuôi con. Bao nhiêu đắng cay, oan ức của một người không được tin dùng, bị nghi ngờ Ngọc đều vượt qua được hết là nhờ tình yêu thương chồng con. Đây là thời gian Ngọc được sống và chiến đấu bên cạnh chồng. Thời kỳ đầy khổ đau và hạnh phúc.
Hòa bình lập lại, Hoàng đi học trường Nguyễn Ái Quốc rồi chuyển sang làm công tác chính quyền. Ngọc cũng đi học rồi về làm ở Ban Tài Mậu. Năm 1955, Ngọc sinh đứa con trai thứ ba, đặt tên Ánh Dương. Cả nhà sống trong một căn hộ ở thành phố cảng. Năm tháng trôi qua, nỗi vất vả của chiến tranh cùng với sự sinh nở không hề làm Ngọc già và xấu đi. Ngọc có vẻ như càng ngày càng trẻ ra, thịt da mơn mởn, chỉ trừ vết thương ở chân khiến Ngọc phải chân thấp chân cao. Vậy mà Ngọc không được xét trợ cấp thương tật! Ngọc buồn lắm, Hoàng biết vậy. Ngọc còn buồn hơn khi bố cô bị giết trên đường làm nhiệm vụ kinh tài cho Tỉnh ủy mà không được công nhận liệt sỹ, không hề được xét chế độ chính sách gì. Biết bao đơn từ đề nghị đều bặt vô âm tín.
Từ khi vào Sài Gòn, Ngọc làm kế toán trưởng của một xí nghiệp. Công việc bù đầu nhưng việc nhà cửa, con cháu, Ngọc vẫn chu toàn cho Hoàng rảnh rang lo việc lớn. Cháu gái đầu lòng Minh Thảo tốt nghiệp phổ thông trung học Lê Hồng Phong, hàng thủ khoa, được học bổng du học ở Australia. Con trai đầu làm giám đốc một công ty, thằng thứ ba làm phó giám đốc một công ty khác. Chỉ có thằng Hòa, thứ hai, đáng thương nhất. Hồi đó, nó có giấy gọi đi học đại học ở Đức, nhưng nó không đi mà làm đơn tình nguyện đi bộ đội. Nó bị thương ở mặt trận, phải mổ não lấy miểng đạn, bây giờ cứ lúc tỉnh lúc mơ… suốt ngày chỉ cười. Đây là nỗi buồn của gia đình. Nếu không có chuyện thằng Hòa thì vợ chồng Hoàng thanh thản biết chừng nào. Âu cũng là một sự hy sinh cho đất nước!
Tuổi già đến với Ngọc khá là êm ả. Bà về hưu, dành hết thời gian chăm sóc chồng, con, cháu, nhất là chồng. Bà biết chồng mình không phải người thường. Vì thế, lúc nào bà cũng cầu mong cho chồng thành công.
Hoàng phải thừa nhận rằng trong những thành công của ông có công lao, đóng góp vô cùng quan trọng của vợ. Những lúc bị o ép, bị ngăn cản chống phá tứ bề, những lúc bị vu oan giá họa, Hoàng đã tìm thấy chỗ dựa tinh thần, nguồn động viên kịp thời ở vợ, y như những năm kháng chiến chống Pháp ác liệt.
Thế mà… Hoàng nằm ôm vợ, vuốt ve nơi vết thương trên đùi vợ mà suy nghĩ miên man. Thế mà, giờ đây ông bỏ bà, phản bội bà để chạy theo Tiên. Đó là tình yêu hay chỉ là sự đam mê sắc dục, sự đam mê mà bao năm qua Hoàng phải kìm nén?
Một trăm người đàn ông vào trạng huống của Hoàng lúc này thì cả trăm đều tự cho rằng đó là tình yêu! Tình yêu đích thực chứ không phải thứ mèo mả gà đồng. Điều này Hoàng cảm nhận được bởi những giây phút nôn nao nhớ Tiên. Hoàng ghiền nhìn vào đôi mắt nàng, đôi mắt đen có đuôi dài, sắc sảo, nghị lực, nhưng đầy ham muốn dục tình. Người ta bảo con gái Huế là đa tình, đa dâm nhất cõi Việt. Điều này hàm ý chê bai hay khen ngợi? Riêng Hoàng, Hoàng thấy Tiên rất hòa hợp về chuyện gối chăn với mình. Bao nhiêu, nàng cũng nhận và đáp lại say mê, cuồng nhiệt. Cả hai chìm ngập trong khao khát được hiến dâng cho nhau. Điều kỳ lạ là cái cách dâng hiến, cách đáp lại của nàng đã biến Hoàng trở thành một chàng trai có sức mạnh phi thường! Họ chưa bao giờ nói câu: Nghỉ đi, mà chỉ thốt lên: Nữa đi! Với Hoàng, ở tuổi sáu mươi sáu mà gặp được người như Tiên thì làm sao dứt ra được, làm sao có thể khuôn mình trong lý thuyết đạo đức mà ông đã tôn thờ gần trọn đời?! Hoàng tự hào là đã trung thành với vợ gần trọn đời. Không biết những người đàn ông khác có như vậy không? Hoàng đã thấy nhiều người, là cấp trên, là bạn bè, dối vợ như cuội để trăng gió với các cô gái khác. Có một vị, là khách quý của Tổng Công ty, ai cũng tôn kính, mỗi khi ông thuyết giáo, hàng trăm người há hốc mồm mà nghe, mà ghi chép, mà gật đầu như bửa củi. Thế mà khi đi Vũng Tàu dự Hội nghị tổng kết cơ chế mới, đã thẳng thắn yêu cầu Hoàng kiếm cho ông ta một cô gái tơ. Tưởng rằng vị quý khách ấy xài một đêm rồi thôi, nào ngờ đêm nào ông ta cũng đòi, mà phải là mỗi đêm một cô chứ không lặp lại! Ông ta hành lạc thâu đêm.
Hoàng không chấp nhận cái lối ăn bánh trả tiền như thế. Theo Hoàng, tình dục chỉ có hương vị, có ý nghĩa khi bắt nguồn từ tình yêu. Nếu chỉ có tình dục không thôi thì con người đâu có khác chi con vật.
Hoàng sống với vợ vẹn toàn tình nghĩa phu thê. Thế nhưng thương tích và tuổi tác khiến vợ ông già yếu, nhất là lối yêu chồng cực kỳ ích kỷ của vợ đã thành cực hình với Hoàng. Ông cần một động thái yêu đương đích thực, phơi phới tuổi thanh xuân. Ông hồi xuân, còn bà thì lão hóa quá nhanh. Bà cấm ông không được nói chuyện với phụ nữ. Bà cho người theo dõi ông, dằn mặt ông hàng ngày. Bà phong tỏa ông về tiền bạc. Ông khao khát một mùi hương da thịt mơn mởn, một cái liếc mắt tình tứ, một nụ hôn hụt hơi, ngọt lịm mãi trên môi. Ông cần những phút giây nhớ nhung da diết, những giận hờn vô lối nhưng như chất men tăng nồng độ ái tình. Tóm lại, ông thèm khát những thứ mà Ngọc đã đem lại cho ông cách nay bốn mươi ba năm về trước! Cho đến khi gặp Tiên. Trời ban cho ông mối tình muộn nhưng vô cùng kỳ diệu, làm sao ông cưỡng lại?!
Thôi thì đành mang tiếng phản bội vợ, mang tiếng già mà chưa trót đời, hư thân mất nết! Mặc cảm tội lỗi đến với ông, ngay lập tức được bao nhiêu lý lẽ chống lại. Thứ nhất, ông là người chồng, người cha luôn làm tròn bổn phận của mình suốt cuộc đời. Nay tuổi đã cao nhưng sức khỏe đang hồi xuân một cách tuyệt vời, nhưng ai mà biết ông còn mạnh khỏe tinh tường được bao lâu nữa? Hay lại chỉ như ngọn lửa bùng lên trong giây lát rồi tắt ngấm vì cây đèn đã hết dầu? Còn chuyện sự nghiệp nữa, … còn bon chen làm chi? Ông tới tuổi về hưu từ bốn năm nay rồi. Biết bao kẻ ganh người ghét chỉ cầu cấp trên cho ông về vườn. Sở dĩ ông còn trụ đến hôm nay là nhờ tài năng, thành tích, uy tín của ông trong nước và trên trường quốc tế. Nhưng, sự đời, ai mà biết được những kẻ ghen ăn tức ở sẽ còn giở trò gì. Trong tình thế này, hẳn vợ, con, cháu ông sẽ thông cảm cho ông khi biết ông có bồ. Không lẽ ông phải kéo lê những ngày còn lại vô cùng tẻ nhạt, buồn chán hay sao?.
Triệu Xuân
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh Thực lòng lúc ấy tôi bỗng ứa nước mắt. Nhưng bất giác tôi kịp tỉnh ra là mình đã bắt đầu làm cho...