LTS: Sàigòn Times xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả
truyện ngắn mới nhất, "Có Một Mùa Hoa Gạo", của nhà văn Nguyễn Vạn
Lý, trong đó tác giả hé lộ, chính những kỷ niệm êm đềm và đặc biệt của tuổi ấu
thơ, đã ngự trị một cách sâu xa trong tâm hồn của Văn suốt cả nửa thế kỷ, và có
những ảnh hưởng âm thầm đến cuộc đời của anh trong suốt những thập niên sau này
của cuộc đời. Văn lùi xe ra khỏi trạm xăng và tìm cách trở lên xa lộ. Chàng
đang trên đường trở về sau khi thăm một người bạn thân tại New Orleans. Chàng
phải rẽ xuống cái thành phố nhỏ ven biển Texas này để đổ thêm xăng. Bỗng chàng
trông thấy mấy người Á Đông tại một ngã tư, và ngay cạnh đấy là một cửa tiệm
bán thực phẩm Á Đông. Một tấm biển lớn đề một hàng chữ Việt Nam: "Chợ Quê
Hương", và ngay bên dưới là một hàng chữ Tầu. Chàng mỉm cười tự hỏi:
- Không biết "quê hương" ở đây là Việt Nam hay là Trung Hoa?
Chàng không có việc gì phải vội vã, và lúc đó vẫn còn sớm, mới khoảng 11 giờ
sáng, nên chàng đậu xe ngay trước cửa tiệm. Chàng dự định vào xem có gì đặc biệt
để mua về làm quà cho vợ.
Bên trong tiệm là từng dãy những tủ hàng đựng các đồ ăn khô và tươi, giống y
như các tiệm thực phẩm khác mà chàng đã biết. Lúc đó là buổi sáng của một ngày
đầu tuần, nên tiệm rất vắng khách. Văn đoán chàng là người khách duy nhất, và
có lẽ là người khách đầu tiên của ngày hôm đó. Bên quầy tính tiền là một người
đàn bà lớn tuổi, có vẻ là chủ tiệm. Một thanh niên làm công đang chất đồ lên
các quầy hàng. Văn cắm cúi đi, ngó từng dẫy hàng, và chàng có cảm tưởng người
đàn bà nhìn theo chàng. Cuối cùng chàng chọn mua một ít khoai lang. Chàng vẫn
thích ăn khoai lang luộc, và những củ khoai ở đây trông mập mạp ngon lành và rất
tươi.
Tại quầy tính tiền, chàng có dịp quan sát bà chủ tiệm kỹ hơn. Bà ta khoảng gần
sáu chục tuổi, tuy già nhưng có nét ưa nhìn. Trên khuôn mặt đầy phong sương của
tuổi đời, đôi mắt mệt mỏi vẫn còn vẻ tươi vui, và nụ cười vẫn còn duyên dáng.
Mái tóc bà ta đã ngả màu muối tiêu, nhưng dáng dấp vẫn còn nhanh nhẹn. Bà ta
nhìn Văn đăm đăm trước khi bỏ túi khoai lên cân, rồi lên tiếng hỏi Văn bằng một
giọng đặc Hà Nội:
- Ông thích ăn khoai lang? Ông chọn khéo quá nhỉ! Khoai này ăn ngon và bùi lắm
cơ.
Văn có linh cảm chàng đã gặp người đàn bà này ở đâu rồi, nhưng chàng không thể
nhớ ra. Chợt bà ta quay sang nói một tràng tiếng Tầu với người thanh niên làm
trong tiệm. Văn mỉm cười: "Bà nói tiếng Tầu giỏi quá nhỉ?"
- Thì tôi là người Tầu mà.
- Nếu vậy bà nói tiếng Việt hay quá, đặc giọng Hà nội! Tôi cứ tưởng bà là người
Việt đấy.
- Thì tôi sinh đẻ tại Việt Nam mà.
Khi người đàn bà cúi xuống lấy một cái túi nylon đựng khoai cho Văn, chàng
trông thấy một vết bớt màu đậm ở cổ bà ta. Sau khi trả tiền, chàng bước đi,
nhưng chợt chàng bàng hoàng quay phắt lại và hỏi:
- Có phải bà là Mẫn ở chợ Cầu Không trước kia không?
Người đàn bà mở to mắt, và hỏi lại: "Có phải ông là Văn không?"
Văn buông rơi túi khoai, giơ hai tay lên trời và kêu lên: "Trời ơi quả thực
là Mẫn rồi! Đã tưởng không bao giờ được gặp nhau nữa!"
Bà chủ tiệm mừng rỡ, nắm lấy hai cánh tay Văn, và nhìn kỹ mặt Văn: "Tôi
không ngờ có ngày gặp lại Văn. Ngay từ lúc thấy Văn cúi đầu đi ngó từng dẫy quầy
hàng, tôi đã ngờ ngợ rồi. Vẫn cái lối đi ngày xưa, đầu lúc nào cũng cúi xuống
như muốn tìm tiền của ai đánh rơi. Ở đâu mà hôm nay lại lạc đến đây thế
này?"
- Cũng ở gần đây, chỉ cách vài giờ lái xe thôi. Lần đầu tiên tôi tới cái thành
phố này mà lại gặp được Mẫn. Mẫn ở đây lâu chưa?
- Trên mười năm rồi đó. Này, từ cái lần cuối cùng gặp nhau đến nay là bao lâu rồi?
Có lẽ cũng phải bốn mươi năm đấy nhỉ?
- Bốn mươi mốt năm đúng!
Mẫn chép miệng: "Quá nửa một đời người! Nhưng trông Văn vẫn trẻ, còn tôi
thì già rồi."
- Trẻ gì nữa, tại tôi nhuộm tóc đấy. Tôi với Mẫn bằng tuổi nhau thì chẳng ai
già ai trẻ cả.
Mẫn ngẫm nghĩ rồi hỏi Văn: "Hôm nay Văn có bận gì không? Nếu không có việc
gì phải về gấp, ở lại đây ăn trưa với nhau một bữa, và kể chuyện đời cho nhau
nghe được không? Tiệm ăn bên cạnh đây có nhiều món ngon đáo để. Đã lâu lắm mới
có dịp mời Văn."
- Thế thì nhất Mẫn rồi. Dù bận gì cũng bỏ hết. Gặp được Mẫn đâu phải chuyện dễ.
Một giấc mơ đấy.
Mẫn gọi người thanh niên lại, dặn dò bằng tiếng Tầu, rồi dẫn Văn sang tiệm ăn
bên cạnh. Tiệm ăn sáng ngày thứ hai cũng vắng tanh. Hai người chọn một cái bàn
bên cạnh cửa sổ trông ra biển. Bên ngoài gió vẫy vùng trong một khoảng trống
bao la, quay quắt những cụm cây dại mọc bên bờ cát. Nước biển ở đây là một màu
xám lợt không mấy hấp dẫn, và cũng không khích động lòng người tới những cuộc
viễn du đến những chân trời xa.
Thấy Văn nhìn ra ngoài bãi biển trống vắng, Mẫn than thở: "Cảnh ở đây trơ
trụi lắm, chẳng có gì gợi nhớ đến cây gạo ngày xưa cả."
"Cây gạo ngày xưa!" Mẫn muốn nhắc tới cây gạo tại phố chợ Cầu Không một
nửa thế kỷ trước? Hồi ấy là mùa hè năm 1945, lúc Văn mười tuổi, và Mẫn cũng bằng
tuổi chàng. Tuy bằng tuổi nhau, nhưng Mẫn khôn lanh hơn Văn nhiều. Mẹ Văn có một
tiệm bán muối độc quyền tại khu phố chợ Cầu Không. Văn học ở làng, cách chợ Cầu
Không bảy cây số, nhưng mùa hè năm ấy Văn được ra sống tại Cầu Không.
Đối với Văn thì phố chợ Cầu Không đã là một nơi đô hội rồi, vì tiệm bán muối của
mẹ Văn ở ngay trước chợ nên lúc nào cũng náo nhiệt, nhất là vào những ngày
phiên chợ thì người ta phải chen lấn nhau mà đi. Chỗ nào cũng có hàng quà hàng
bánh, và nhiều người ăn mặc rất sang trọng. Cửa tiệm lại là một căn phố lầu bằng
gỗ, có ban công. Văn rất thích cái thú được trèo cầu thang, ra ban công nhìn xuống
đường, một cái thú Văn chưa bao giờ được hưởng ở trong làng.
Khu phố có khoảng mười căn nhà lầu bằng gỗ, tất cả nhìn sang chợ Cầu Không; con
đường liên tỉnh trải đá phân cách chợ và khu phố. Phía sau dẫy phố là một cái
ao tù không có lối thoát nước, quanh năm phủ váng và là ổ sinh sản của muỗi. Cả
khu phố ấy, không một nhà nào có cầu tiêu. Mọi người phải ra cánh đồng gần đấy
làm cái việc bài tiết cần thiết. Thực ra cách ngã tư chợ Cầu Không một quãng,
trên con đường trải đá sang Phủ Lý Nhân, có một cây gạo cổ thụ, gốc rất to và
ngăn thành nhiều hốc lớn. Những cái hốc cây gạo kín đáo ấy đã trở thành một cái
cầu tiêu công cộng cho những người sống trong khu phố chợ Cầu Không. Người ta cứ
việc ra đó khi cần, rồi thơ thới ra về, và có từng đàn chó tranh nhau ra dọn dẹp
sạch sẽ hết. Văn rất chịu cái thú "ra gốc gạo" này, và ở đây người ta
hiểu cái thành ngữ "ra gốc gạo" có nghĩa là đi đại tiện.
Chính một lần "ra gốc gạo" Văn đã gặp Mẫn. Chiều hôm ấy Văn đang ngồi
trong một cái hốc của gốc gạo, mơ màng nhìn tới những làng mạc xa xa, lờ mờ ở
cuối chân trời, thì chợt Văn nghe thấy tiếng những hòn sỏi rơi lách cách trong
cái hốc bên cạnh. Hình như có ai đang chơi đùa với những hòn sỏi. Văn ngó sang
xem có phải là một tên bạn cùng phố không, thì bị một tiếng con gái la mắng:
- Ê, nhòm cái gì?
Văn bối rối thụt lui, và vội vàng cho xong rồi đứng dậy ra về. Văn vốn nhút
nhát, lại bỗng nhiên mang tiếng nhìn trộm con gái, nên muốn lảng tránh gốc gạo
càng sớm càng tốt. Nhưng ngay lúc đó, từ cái hốc bên cạnh, một người con gái ăn
mặc kiểu Tầu cũng bước ra. Cô ta gườm gườm nhìn Văn, như muốn trách mắng nữa.
Thực ra Văn đã kịp nhìn thấy gì đâu, nhưng Văn lủi thủi cúi đầu đi như chạy trốn.
Khi Văn về đến cửa nhà thì thấy cô bé người Tầu đó bước vào tiệm thuốc bắc bên
cạnh. Trước khi khuất hẳn, cô bé còn lườm Văn một lần nữa. Văn bỏ lên lầu ra đứng
bần thần ở ban công, nghĩ tới sự oan uổng của mình. Chợt Văn nghe thấy tiếng động
ở ban công bên cạnh và quay nhìn sang. Văn lại thấy cái cô bé khó tính ấy. Cô
ta trông thấy Văn liền quay lưng bước vào nhà, và đóng xập cửa lại.
Bên cạnh nhà Văn là tiệm thuốc bắc Vệ Sinh Đường của một ông lang người Tầu mập
ú. Tiệm thuốc có vẻ đắt khách lắm, vì không những ông lang mập kê toa bán thuốc,
mà tiệm còn bán thêm hàng tạp hóa nữa.
Hôm sau Văn gặp bà già nấu ăn của tiệm thuốc bắc, và hỏi dò người con gái Tầu
là ai. Bà già cho biết người con gái Tầu ấy là cháu ông chủ Vệ Sinh Đường, gọi
ông ta bằng chú. Tên cô ta là Tiểu Mẫn, và có người gọi là A Mẫn, nhưng mọi người
trong tiệm chỉ gọi cô ta là Mẫn cho gọn. Nhà Mẫn ở Phủ Lý, nhưng vì lúc đó phi
cơ Mỹ thường oanh tạc các vị trí của quân Nhật trong tỉnh, nên gia đình gửi Mẫn
tới chợ Cầu Không với người chú để tránh nguy hiểm.
Hàng ngày Văn học ôn bài vở vào buổi sáng trên gác, và buổi chiều đi chơi quanh
quẩn trong phố. Phía đầu bên kia chợ có hai cây cầu song song với nhau, bắc qua
một con sông nhỏ. Một chiếc cầu đúc được gọi là Cầu Tây và một chiếc cầu gỗ sơn
đỏ có mái che được gọi là Cầu Tầu. Bên kia cầu là khu nhà xây kiểu mới, tường gạch
và cửa kính, có những cửa tiệm đại lý rượu và thuốc phiện. Văn không thích dãy
nhà xây kiểu mới này, vì không có lầu và thơ mộng như khu phố chợ. Văn cũng
thích chiếc Cầu Tầu hơn Cầu Tây, vì Cầu Tầu có lan can và mái che mưa nắng, mặc
dù bấy giờ không ai dùng cây cầu cổ ấy nữa. Văn thường đứng trên cầu hóng mát,
soi bóng mình trong dòng nước chảy bên dưới. Kế bên Cầu Tầu là một ngôi đình bề
thế, trước cửa có tượng Ông Thiện và tượng Ông Ác, và những hình rồng đắp trên
tường và trên mái. Quang cảnh ở đây trông giống như một bức tranh Tầu.
Ngày nào Văn cũng trông thấy Mẫn ở trong tiệm thuốc bắc. Lúc tiệm đông khách, Mẫn
phải giúp bán hàng, và lúc rảnh rỗi, Mẫn cũng lang thang đi chơi bên đầu cầu hoặc
bên trong chợ. Mấy ngày sau, Mẫn nhìn Văn một cách bình thường, không còn giận
ghét như mấy ngày đầu, một phần cũng vì Mẫn thấy Văn hiền lành, không phá phách
như mấy đứa trẻ khác trong khu phố.
Một buổi chiều tối, lúc đó đã nhá nhem rồi, Văn đang đứng trong hiên nhìn sang
những ngọn đèn tù mù trên những quầy hàng bán đêm trong chợ, thì Mẫn rụt rè lại
gần Văn, dáng điệu có vẻ cầu khẩn. Mẫn hỏi Văn, "Đi ra gốc gạo
không?"
Văn lắc đầu. "Không, đi hồi chiều rồi."
Mẫn năn nỉ, "Đi với tôi một lát đi. Tối rồi đi một mình tôi sợ lắm. Hôm
nay bà già nấu ăn về quê, tôi không nhờ ai đưa đi được."
Văn không muốn ra gốc gạo vào buổi tối, nhưng Văn bằng lòng đi với Mẫn, một phần
vì Văn muốn xóa sự giận hờn của Mẫn lần trước. Thế là Văn và Mẫn đi ra gốc cây
gạo, nhưng Văn đi cách Mẫn một quãng. Tới nơi Văn đứng cách xa cây gạo, lấy đá
liệng xuống cái ngòi nước bên cạnh đường để giải trí trong lúc chờ đợi Mẫn. Lúc
ra về, hai người gặp mấy con chó đứng chờ bên đường, những con chó đói, hung dữ
đứng thè lưỡi nhìn hai đứa trẻ. Mẫn kinh sợ đi sát vào Văn, và khi tới gần bày
chó, bàn tay run run của Mẫn nắm chặt lấy tay Văn. Văn cũng sợ đàn chó, nhưng
không dám bỏ chạy một mình. Văn cúi xuống nhặt mấy hòn đá để phòng thân. Khi
Văn cúi xuống lượm đá, mấy con chó liền lảng ra, chạy vào hốc cây gạo. Hai đứa
trẻ bị một phen hú vía.
Kể từ buổi tối ấy, Mẫn thân với Văn hơn. Những buổi chiều hai đứa trẻ thường đi
lang thang với nhau, cùng nhau đứng tựa thành Cầu Tầu, vừa nói chuyện vơ vẩn vừa
ăn ô mai của Mẫn lấy trong tiệm. Vào những buổi tối sáng trăng, đôi bạn trẻ len
lỏi giữa những gian hàng trong chợ. Một lần hai người vào đình xem hát. Trong
cái đám đông chen lấn nhau trong đình, Mẫn phải nắm chặt tay Văn, sợ hai người
lạc nhau. Nhưng cái nơi ưa thích nhất của hai đứa trẻ là cây gạo vào buổi chiều,
khi bóng mát của cây gạo trùm một khoảng rất rộng, và trước mặt là một cánh đồng
bao la, lúa xanh lượn nhấp nhô như sóng biển. Văn và Mẫn thường ngẩng đầu nhìn
lên vòm lá âm u, và ao ước trèo lên được ngọn cây gạo, vừa để bắt tổ chim, vừa
có thể nhìn ra thật xa.
Cây gạo đứng ngạo nghễ, vươn lên trơ trọi bên cánh đồng. Từ đằng xa hàng mấy
cây số, người ta đã có thể trông thấy cây gạo rồi. Cây gạo dường như không thèm
đếm xỉa đến cái loài người đang làm xú uế cái gốc cây. Ngày đêm cây gạo chỉ chờ
đợi gió đến để tình tự. Đấy là một cặp tình nhân rất khác thường. Có những lúc
gió bỏ mặc cây gạo đứng yên lặng buồn rầu, ủ rũ chờ đợi hàng giờ. Thường thì
gió đến nhẹ nhàng như mơn man, cây gạo khẽ run lên, lá reo múa thành tiếng thì
thầm của hai người tình thủ thỉ, những cành nhỏ cuống quýt chao đảo như mơn trớn
vuốt ve, như rùng mình. Nhưng đôi khi gió ập đến thực hung dữ, như một cuộc ái
ân cuồng nhiệt; có khi cây gạo và gió giống như một cặp tình nhân đánh ghen.
Gió cuồng nộ quấn giật cây gạo, trong lúc những cành cây gạo trở thành những
cánh tay chống đỡ, cào cấu quật vụt đối phương. Sau mỗi trận đụng độ như thế
thì cây gạo lại thiệt thòi mất một số cành khô bị gẫy và nhiều lá rụng.
Văn và Mẫn thích ra gốc cây gạo vào lúc lộng gió, vì giữa cơn quần thảo của gió
và cây gạo, Văn và Mẫn có thể nhặt được những bông hoa gạo đỏ tươi cuối mùa. Có
bông rơi vụt xuống như đâm đầu vào bãi cỏ xanh, không thèm ngoái nhìn lại chốn
cũ; có bông rơi ngửa, miệng hoa vẫn quay về phía cây gạo, như luyến tiếc cái tổ
ấm vừa lìa bỏ; có bông rơi một cách rất thong thả, quay quay trong gió như nhảy
múa, và Văn và Mẫn nhảy lên vồ lấy hoa trước khi hoa rơi xuống đất. Văn và Mẫn
thường thi nhau xem ai nhặt được nhiều hơn, và người thua thường là Văn. Một lần
Văn bảo Mẫn:
- Màu hoa gạo đỏ như má Chiêu Quân treo trong phòng của Mẫn.
Mẫn không đồng ý. "Màu hoa gạo đỏ tươi hơn. Hình Chiêu Quân màu đỏ xậm và
không tươi."
Những ngày hạnh phúc của hai đứa trẻ mười tuổi cứ thế trôi đi dưới bóng cây gạo,
bên đầu cầu sơn đỏ và bên những quầy hàng trong chợ. Mẫn lúc nào cũng là người
ra lệnh và Văn vui sướng tuân theo. Cái thú đặc biệt nhất của hai đứa trẻ là đi
"ra gốc gạo" vào những lúc trời mưa to. Hai đứa hai cây dù che người,
đi chân không ra gốc gạo, thích thú nghe tiếng mưa rơi trên dù và cảm giác những
luồng nước trên đường lùa vào kẽ chân. Bàn chân Mẫn dài và rất đẹp, những ngón
chân hơi cong lên, bàn chân của một người có khả năng nghệ sĩ và khéo tay. Mẫn
học ít hơn Văn nhưng chữ Mẫn viết đẹp hơn. Mẫn có thể đan được những chiếc quạt
rất khéo, và biết thêu thùa. Mẫn còn nói tiếng Việt hay và rành rẽ hơn Văn. Khi
phải kể lại một chuyện gì hay cần phát biểu điều gì, Mẫn nói rất rành mạch, rõ
ràng và văn hoa hơn Văn nhiều. Giọng nói của Mẫn trong trẻo như tiếng ngân của
chiếc khánh bạc. Đôi mắt của Mẫn to, có những cái nhìn vừa thiết tha vừa thấu
hiểu. Đôi môi đỏ tươi hơi rộng, sẵn sàng bĩu môi phản đối một điều gì, hoặc
căng ra thành một nụ cười thật dễ thương. Một khuyết điểm duy nhất trên người
mà Mẫn lúc nào cũng cố che giấu là một vết bớt mầu đậm trên cổ. Mẫn thường mặc
áo cao cổ để che giấu cái bớt ấy.
Văn tự cho là may mắn có một người bạn gái như Mẫn. Niềm hạnh phúc của Văn còn
được những tiếng nhạc phụ họa thành những giấc mơ. Lúc đó cuộc chiến tranh
Trung Nhật đang hồi khốc liệt, và quân Nhật đang làm chủ Đông Dương. Những bản
nhạc về cuộc chiến Trung hoa nổi tiếng như bản "Đêm Trung Hoa" hoặc
"Ngày Nào Chàng Trở Lại" và bản nhạc "Biệt Ly" của Doãn Mẫn
rất được thịnh hành. Văn thường nghe thấy người lớn hát những bản nhạc ấy, kèm
theo tiếng đàn Banjo hoặc Mandoline là loại nhạc cụ phổ thông nhất thời đó. Nhiều
đêm trăng, trong lúc Văn nằm ngoài ban công nhìn trăng sáng, nghĩ đến Mẫn, nghĩ
đến Cầu Tầu sơn đỏ và cây gạo lộng gió, thì tiếng đàn và tiếng hát du dương từ
trong chợ, từ đầu cầu vẳng lại, ru Văn vào những giấc ngủ nhẹ nhàng thần tiên.
Một lần Văn ngủ quên ngoài ban công suốt đêm, nhưng đến sáng Văn ngạc nhiên thấy
có một chiếc mền nhỏ đắp lên người. Ngày hôm ấy, lúc ra nhặt hoa gạo, Mẫn chỉ
ngón tay vào trán Văn và trách:
- Bận sau không được ngủ ngoài ban công nữa. Coi chừng nhuốm sương bị cảm đấy.
Tối qua tôi phải lấy mền đắp cho đó.
Bao giờ Mẫn cũng săn sóc Văn. Có lần Văn cãi nhau với lũ trẻ trong phố, và Văn
có vẻ bị lép vế. Mẫn liền nhảy vào bênh vực Văn. Lũ trẻ không cãi lại được tài
ăn nói của Mẫn nên tức giận và mắng Mẫn:
- Cái con khách trú kia, cút về Tầu đi!
Lần đầu tiên Văn thấy Mẫn tức giận như thế. Hình như hai tiếng "khách
trú" làm Mẫn đau lòng. Mẫn xầm mặt quay lưng bỏ về nhà, và suốt hai ngày Mẫn
không đi chơi với Văn. Có lẽ Mẫn giận lây cả Văn. Vì Văn mà Mẫn bị lũ trẻ kia
xúc phạm. Nhưng chỉ vài ngày sau Mẫn lại vui vẻ với Văn, nhưng Mẫn không bao giờ
nói chuyện với lũ trẻ con cùng phố nữa. Mẫn chỉ còn Văn là bạn, và hai người
thân thiết với nhau hơn trước. Một lần Mẫn hỏi làng của Văn ở đâu. Văn trả lời:
- Cứ đi thẳng con đường đê này về phía Phủ Lý, đi qua nhiều cánh đồng, nhiều cổng
làng, và ngay sau khi đi qua một con sông nhỏ nước trong xanh, thì tới một khúc
đê có một rặng nhãn là làng của tôi đấy. Làng tôi không có cổng làng. Khi nào Mẫn
trở về Phủ Lý, Mẫn sẽ phải đi qua làng tôi.
- Ở trong làng có vui không? Tôi thì chẳng bao giờ có làng để về, chỉ ở thành
phố thôi.
- Tôi thấy ở đây vui hơn. Ở làng tôi làm gì có Cầu Tầu và cây gạo to như ở đây.
Trong làng cũng không có nhà lầu.
Nhưng ngày vui nào rồi cũng có lúc chấm dứt. Ba tháng hè trôi qua mau hơn Văn
mong đợi. Đã đến lúc Văn phải về làng để sửa soạn đi học trở lại. Ngày hôm trước
khi về, Mẫn lẳng lặng đưa cho Văn một chiếc quạt bằng cói do chính tay Mẫn đan.
Văn không có gì tặng lại, chỉ bẽn lẽn cám ơn Mẫn. Chiều hôm sau lúc Văn bước
lên chiếc xe kéo để về quê, Văn không thấy Mẫn đâu cả. Văn ngẩng đầu nhìn lên
ban công thì thấy thấp thoáng bóng dáng của Mẫn đang thụt lui vào trong phòng.
Mẫn không muốn tiễn đưa Văn; có lẽ Mẫn muốn tránh xúc động.
Khi chiếc xe kéo chạy qua ngã tư, Văn quay nhìn cây gạo. Bây giờ đã hết mùa hoa
gạo rồi và từ nay Văn sẽ không còn được cùng Mẫn tranh nhau nhặt hoa gạo nữa.
Văn ngơ ngác cảm thấy mất mát một cái gì. Văn quay lại, phố chợ Cầu Không khuất
dần, cũng như niềm vui suốt một mùa hoa gạo cũng đang xa dần, và nỗi buồn tiếc
đang bắt đầu dâng lên trong lòng Văn.
Thời cuộc bỗng biến chuyển mau lẹ. Trong lúc Văn sửa soạn cho niên học mới thì
Nhật bại trận phải đầu hàng, và tất cả đều thay đổi. Mẹ Văn dọn hàng về làng,
không còn bán muối độc quyền nữa. Văn sẽ không bao giờ có cơ hội ra sống tại phố
chợ Cầu Không. Văn nhiều lần tự hỏi không biết Mẫn đã trở về Phủ Lý với gia
đình chưa, hay vẫn còn ở lại Cầu Không.
Một năm trôi qua. Văn đã học xong bậc tiểu học, nhưng không có phương tiện học
trung học vì thời cuộc. Đối với Văn, mùa thu năm 1946 là một mùa thu buồn và đẹp
nhất. Đó là lần đầu tiên cái tâm trí non nớt của Văn bắt đầu biết thế nào là tưởng
nhớ, là buồn tiếc. Trước kia Văn không hề nhớ tiếc cái gì lâu. Nhưng trong cái
mùa thu của năm 1946, khi khói thu bắt đầu xây thành thì người ta biết cuộc chiến
với quân Pháp sẽ phải xảy ra. Tuy nhiên rất ít người biết chiến tranh sẽ như thế
nào, và vì thế chiến tranh mang một cái đẹp lãng mạn như trong các bản nhạc, một
thứ men say giục giã thế hệ đàn anh của Văn lên đường, ra đi theo tiếng gọi của
xúc động và mộng mơ. Riêng Văn chỉ biết nhìn bầu trời xanh biếc, những ngọn
khói lam bốc lên từ những mái tranh, giữa cái màu xanh ngăn ngắt của những vườn
dâu, rồi thơ thẩn đứng bên một cây cầu nhỏ, nhìn dòng nước trong vắt mải miết
chảy đi, giống như những ngày vui không bao giờ trở lại. Những lúc ấy Văn chỉ
nghĩ đến Mẫn.
Rồi chiến tranh máu lửa lan tràn, người ta phải tản cư, chạy trốn bom đạn và chết
chóc, và sự học phải đình trệ vì những nhu cầu sống còn khác cấp thiết hơn. Văn
cũng không còn thời giờ để tưởng nhớ tới Mẫn và cây gạo nở hoa nữa. Sau một thời
gian tản cư, gia đình Văn vào Hà nội. Văn tiếp tục đi học trở lại, tuy chậm trễ
mất vài năm.
Vào mùa hè năm 1953, Văn học một lớp luyện thi Trung học tại phố Mã Mây. Hàng
ngày chàng đi bộ qua phố hàng Buồm để tới lớp học. Văn đã trở thành một thanh
niên 18 tuổi. Cái phố hàng Buồm lúc nào cũng tấp nập người đi lại, nơi có tiệm
ăn Đông Hưng Viên nổi tiếng, và hàng dãy những tiệm ăn nhỏ, những tiệm thuốc bắc
và tiệm tạp hóa. Một buổi chiều đi học về, Văn chợt nghe thấy một tiếng hỏi sau
lưng, "Có phải Văn không?"
Văn quay lại, chàng trông thấy một cô gái Tầu, mặc áo hoa đi giầy thêu, đang
nhìn chàng đăm đăm. Trong một thoáng, Văn nhận ra Mẫn, người bạn gái của thời
niên thiếu. Nhưng bây giờ Mẫn đã là một thiếu nữ xinh đẹp; nàng cũng 18 tuổi
như Văn. Văn chợt thấy lòng rộn lên một niềm vui, như một bãi biển khô cạn buồn
tênh bất chợt được một đợt sóng biển đổ ập lên. Chàng sung sướng reo lên:
- A, Mẫn!
- Tôi thấy Văn đi qua cửa nhiều lần, nhưng lần này mới bắt lại được.
Văn nói đùa: "Gặp được nị, ngộ mừng lắm."
- Biết được hai chữ Tầu mà cũng bày đặt nói.
- Tôi biết nhiều hơn hai chữ. Tôi biết tới ba chữ cơ. Để tôi nói cho Mẫn nghe:
"Ngộ ái nị."
Mẫn có vẻ không bằng lòng câu nói của Văn. Nàng cau mày trách, "Lại nói
sàm rồi!" Như để cho bớt căng thẳng giữa hai người bạn sau tám năm mới gặp
lại nhau, Mẫn liền đổi mặt tươi cười và bảo Văn:
- Văn vào đây. Tôi đãi Văn món này.
Rồi Mẫn nắm tay Văn kéo vào một quán giải khát nhỏ gần đó, và gọi hai chén
"lục tào xá" cho hai người. Hai người tíu tít hỏi thăm nhau về những
ngày qua. Mẫn cho biết nhà nàng ở dưới phố Huế, gần chợ Hôm, và hàng ngày lên
đây bán hàng cho một tiệm tạp hóa.
- Tôi trông thấy Văn cả tuần nay rồi, nhưng Văn cứ cúi mặt xuống lầm lì đi nên
tôi không vẫy gọi được. Hôm nay phải ra tận đường chờ Văn đấy.
Rồi Mẫn cười khúc khích, trêu đùa Văn, "Sao Văn cứ cúi gằm mặt mà đi như
thế? Coi chừng có ngày đụng phải hàng quà, làm đổ hàng của người ta rồi phải cởi
áo ra mà đền."
Hai người bạn cũ nay đã lớn, nhưng không hề giữ kẽ, vẫn coi nhau như những ngày
còn thơ ấu, đứng bên nhau dưới gốc gạo hoặc bên thành cây cầu cổ. Thời đó đối với
người con trai 18 tuổi thì tương lai vẫn còn ở phía trước. Nhưng một người con
gái 18 tuổi thì đã tới giai đoạn dừng lại rồi. Mẫn bùi ngùi nói với bạn:
- Thời gian qua mau quá, mới ngày nào mà đã tám năm rồi. Nhiều lúc tôi cũng nhớ
đến những ngày ở chợ Cầu Không. Có lẽ đó là những ngày vui nhất của tôi. Bây giờ
tôi phải đi làm công cho người ta. Bá tôi giờ già rồi - nàng gọi thân phụ bằng
"Bá."
- Nếu tôi không đi học tư thì chắc chẳng bao giờ gặp lại Mẫn. Mẫn làm ở đây có
dễ chịu không?
- Đi làm công thì có bao giờ khá được. Buôn bán mình phải là chủ thì mới khá.
Chỉ có Văn là sướng, vẫn còn được đi học. Văn phải chịu khó chăm học đi để sau
này làm ông nọ ông kia, để khỏi vất vả như tôi.
- Phải rồi, học để sau này võng anh đi trước võng nàng theo sau.
Mẫn bĩu môi, "Thời bây giờ người ta không đi võng nữa. Người ta đi xe hơi
cơ."
- Nếu vậy ngày ấy tôi với Mẫn cùng ngồi xe hơi với nhau vậy.
Mẫn quay đi chỗ khác, làm như không nghe thấy lời nói có vẻ tán tỉnh của Văn.
Hai người bạn cũ ngồi với nhau thêm một lát, rồi Văn đi cùng với Mẫn ra phố
hàng Đào để Mẫn chờ xe điện trở về phố Huế. Sau đó ngày nào đi qua nơi làm việc
của Mẫn, Văn cũng mỉm cười vẫy tay chào Mẫn. Cả hai trao đổi những nụ cười thật
hồn nhiên thân thiện. Đôi khi quá đông khách, Văn không thấy Mẫn ngẩng lên chờ
mình. Một lần khác, Văn chờ Mẫn hết giờ làm, rủ Mẫn ra phố hàng Ngang để ăn
kem. Mẫn đòi trả tiền vì Mẫn nói học sinh thì làm gì có tiền, còn đang ăn hại bố
mẹ, nhưng lần đó Văn nhất định đãi Mẫn. Đôi lần khác Mẫn cũng chặn Văn lại,
trao cho Văn những gói quà, như bánh kẹo, ô mai... Đó cũng là những ngày hè hạnh
phúc của Văn và Mẫn. Nhưng một lần Mẫn có vẻ rất buồn, báo cho Văn biết Bá nàng
đau nặng.
Rồi lớp luyện thi của Văn chấm dứt; chàng nằm nhà học ôn bài vở cho kỳ thi và
không có dịp đi qua phố hàng Buồm nữa. Khi Văn thi đậu kỳ thi năm đó và được mẹ
thưởng cho ít tiền, chàng đi ngay ra phố hàng Buồm tìm Mẫn. Chàng dự định mời Mẫn
đi coi chiếu bóng và ăn cơm tối. Khi Văn tới tiệm làm của Mẫn, chàng không
trông thấy Mẫn. Chàng đi đi lại lại trước cửa tiệm nhiều lần, và sau khi đợi
hơn một giờ, Văn liều lĩnh bước vào tiệm và hỏi thăm về Mẫn. Người đàn ông chủ
tiệm có vẻ cáu kỉnh, và bảo cho Văn biết Mẫn không còn làm tại đó nữa. Văn hỏi
thăm nhà của Mẫn ở đâu thì ông ta lắc đầu không biết.
Văn buồn bã đi xuống khu chợ Hôm nhiều ngày, hy vọng gặp được Mẫn. Chàng trách
mình trước kia sao không hỏi địa chỉ của nàng. Sau những lần đi tìm không được
Mẫn, Văn thường ra bờ hồ Hoàn Kiếm, đứng trên cầu Thê Húc trước đền Ngọc Sơn, để
tưởng nhớ Cầu Tầu ở chợ Cầu Không, nơi chàng đã đứng suốt một mùa hè với Mẫn. Cầu
Thê Húc cũng sơn đỏ, nhưng không có mái che như Cầu Tầu trong trí nhớ của
chàng.
Văn vẫn tiếp tục đi học và chàng cũng quên dần Mẫn. Cho đến ngày đất nước chia
đôi, gia đình chàng di cư vào Saigon, và chàng vẫn không gặp lại Mẫn. Văn hy vọng
Mẫn cũng di cư vào miền Nam, vì thế Văn thường đi lang thang vào khu Chợ Lớn hoặc
những khu vực nào nhiều người Tầu cư ngụ, với hy vọng gặp được Mẫn, người bạn
duy nhất trong suốt tuổi hoa niên của chàng.
Năm tháng qua đi, những ký ức về một người bạn gái Trung hoa không còn thôi
thúc trong lòng Văn nữa, nhưng cái ký ức về một mùa hoa gạo bên người bạn gái
Trung hoa ấy đã khiến Văn yêu thích những gì là Trung Hoa. Chàng thích đọc truyện
Tầu, coi phim Tầu, nghe nhạc Hồ Quảng và hay ngắm những thiếu nữ Tầu. Chàng đi
vào nghề dạy học, và những học trò người Tầu hoặc lai Tầu của chàng thường được
chàng ngầm ưu ái đặc biệt.
Cái tâm trạng mong chờ người bạn gái ngày xưa đã khiến Văn chậm lập gia đình.
Hình như chàng vẫn nuôi một hy vọng mong manh được gặp lại Mẫn. Mãi đến khi đứng
tuổi rồi chàng mới vội vã lấy vợ, như sợ rằng nếu không lấy vợ ngay thì chàng sẽ
không bao giờ lấy vợ nữa. Thế mà hôm nay, trong một chuyến đi chơi phiếm bất ngờ
thì lại gặp Mẫn. Hai người bạn nhỏ xa nhau gần nửa thế kỷ, gặp lại nhau tại một
nơi thật xa lạ, tưởng như chân trời góc biển, khi cả hai mái tóc đã điểm sương
và cõi lòng đã nguội lạnh.
Mẫn và Văn hầu như không màng tới ăn uống, chỉ lắng nghe lời nhau, hoặc cố kể
cho nhau những điều ấp ủ từ lâu. Hai người bạn cũ thấp thoáng thấy trong mắt
nhau hình ảnh một cây gạo cô đơn lắc lư trong gió chiều, và mơ hồ trong lòng họ
là tiếng lá gạo run rẩy xào xạc, tiếng sóng vỗ nhẹ vào chân Cầu Tầu, và tiếng
nhạc Hồ Quảng nức nở gọi sầu trong đêm vắng.
Đến một lúc Mẫn phải kêu lên, "Kìa ăn đi chứ, Văn! Coi này, tô canh chua
nguội cả rồi."
- Tôi không đói. Tôi chỉ muốn nghe cuộc đời của Mẫn, kể từ sau khi tôi di cư
vào Nam.
- Cuộc đời của tôi thì có gì vui đâu mà Văn muốn nghe.
- Nếu vậy Mẫn kể cuộc đời buồn của Mẫn đi. Đã lâu tôi không biết khóc là gì. Thử
xem cuộc đời của Mẫn có bắt tôi phải nhỏ nước mắt không.
Mẫn ở lại Hà nội. Sau khi bá nàng mất, vì hoàn cảnh sinh kế, Mẫn phải lấy chồng
rất sớm, ngay năm 1954, lúc Mẫn mới 19 tuổi. Chồng Mẫn lớn gần gấp hai tuổi Mẫn,
nhưng có tiền. Đây là một cuộc hôn nhân không tình yêu. Trong suốt tuổi thanh
xuân, Mẫn lúc nào cũng bận rộn buôn bán trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, và
hầu chồng nuôi con. Thỉnh thoảng Mẫn cũng chợt nhớ đến Văn, khi tình cờ trông
thấy một cây gạo nở hoa, hoặc đi qua một cây cầu cổ, hoặc thấy một người nào
cùng trạc tuổi, có mái tóc dợn sóng bồng bềnh và cứ cúi mặt xuống mà đi. Những
năm chiến tranh khi phi cơ Mỹ oanh tạc Hà Nội thì cuộc sống thực là điêu đứng.
Chồng Mẫn chết khi Mẫn chưa già. Năm 1980, lợi dụng cơ hội người Trung hoa bị
đuổi, Mẫn đã tìm cách chạy chọt cho Mẫn và con cháu ra đi, thoạt đầu là Hồng
Kông, và sau đó trôi dạt tới cái thành phố miền biển Texas này. Con gái và con
rể của Mẫn cũng có một tiệm thực phẩm ở một thành phố gần đó. Mẫn kết luận:
- Kể từ năm 1954, cuộc đời tôi không có gì vui cả. Có một lần tôi sang Hưng Yên
mua hàng, và đi qua chợ Cầu Không. Cây gạo vẫn còn đó, nhưng phố chợ tồi tàn
hơn trước, và Cầu Tầu bị phá đi rồi. Thực là một phép lạ tôi sống qua được giai
đoạn đen tối lâu dài ấy.
Văn nghĩ cuộc đời và tình duyên của Mẫn không vui, và có lẽ đó là lý do Mẫn vẫn
còn nhớ cây gạo cũ của một mùa hè xa tít trong dĩ vãng, cái khoảng thời gian
sung sướng đáng nhớ nhất trong đời nàng. Mẫn hỏi thăm Văn về con cái, rồi cười
chế nhạo Văn:
- Cháu ngoại của tôi còn lớn hơn con của Văn đấy.
- Đó là lỗi của tôi, cứ chờ đợi mãi một người đã lấy chồng rồi.
- Có ai bắt chờ đâu! Thôi, ế vợ thì nhận đi, đừng đổ lỗi cho người ta nữa.
Văn lảng sang chuyện khác, "Mẫn đã về thăm quê ở Trung hoa chưa?"
- Mấy năm trước tôi về thăm Quảng Đông, nhưng khi về đến làng cũ thì dòng họ
Triệu nhà tôi chẳng còn ai cả. Cả dòng họ đã lạc lõng khắp bốn phương trời rồi.
Người làng coi tôi như người ngoại quốc. Thật là buồn, ngay khi trở về đất của
tổ tiên mà vẫn là khách trú. Bây giờ ở đâu tôi cũng chỉ là khách trú.
Rồi Mẫn cười lém lỉnh và bảo Văn, "Bây giờ tôi với Văn bình đẳng rồi."
- Sao lại bình đẳng?
- Tôi với Văn bây giờ đều là khách trú cả.
Về một phương diện thì Mẫn và Văn đều là những người khách trú, những người phải
xa quê hương và sinh sống ở xứ người, nhưng nguyên nhân của mỗi người thì khác
nhau. Từ năm 1975, cả triệu người Việt bỗng trở thành khách trú, lưu lạc khắp
nơi trên thế giới. Người Trung Hoa vì hoàn cảnh kinh tế, đã tự nguyện trở thành
khách trú, luôn luôn tìm tới một vùng đất khách để sinh sống. Cái tâm trạng của
những người khách trú mang những tình cảm rất mâu thuẫn nhau: vừa ước mơ vừa hối
tiếc. Họ mơ ước tới được những miền đất hứa để sinh sống, nhưng vẫn luyến tiếc
cái quê hương sinh ra họ nhưng không nuôi nổi họ, không bao dung được họ. Họ
chính là những chàng Từ Thức, đã tìm thấy được Thiên Thai, nhưng vẫn còn nặng
lòng trần.
Chợt Mẫn đề nghị với Văn, "Này Văn, bữa nào tụi mình về thăm Việt Nam đi,
trở lại chợ Cầu Không nhìn lại cây gạo ngày xưa. Cây gạo giờ chắc già lắm rồi.
Hy vọng người ta chưa đốn cây để bán gỗ."
Từ một nơi đất khách, hai tâm hồn cùng hướng về một cái mốc rất xa xôi, xa xôi
cả trong thời gian và trong không gian. Người ta có thể quay trở lại một điểm
nào đó trong không gian từ đó người ta đã ra đi. Nhưng người ta có thể nào đi
ngược thời gian về một thời điểm trong quá khứ không? Văn ngậm ngùi nói với Mẫn:
- Tôi cũng muốn cùng Mẫn về thăm lại chợ Cầu Không lắm. Nhưng tôi sợ rằng khi
trở về bên cây gạo ngày xưa, tôi cũng chỉ là một người khách trú thôi.
Hai tâm hồn khách trú già, lận đận suốt gần một đời người đầy dâu bể, mà vẫn ướp
giữ ấp ủ những hình ảnh về một mùa hoa gạo rất xa xôi. Hình ảnh của nhau đã khắc
sâu trong tâm họ đến nỗi, đối với nhau, cả hai người không bao giờ thay đổi,
không bao giờ lớn lên, lúc nào cũng chỉ là những tâm hồn mười tuổi của một mùa
hè tuyệt vời. Bây giờ họ vẫn nhìn nhau bằng tấm lòng và những con mắt rất thanh
tịnh, và vẫn thân mật gọi nhau bằng tên, như hai đứa trẻ đã gọi nhau một nửa thế
kỷ trước.
Hàng năm hoa gạo vẫn nở. Nhưng chỉ có một mùa hoa gạo, cái màu hoa đỏ tươi đã
nhuộm hồng hai tâm hồn trẻ thơ, và cái màu đó đã không bao giờ phai nhạt trong
hai tâm hồn, dù năm tháng trôi qua và cuộc đời đã có nhiều thăng trầm cay đắng.
Cái hình ảnh của những chấm hoa gạo đỏ, rải rác trên bãi cỏ xanh vào một chiều
nổi gió chính là cái bến đỗ cho hai con thuyền lạc lõng, là ngọn lửa sưởi ấm và
an ủi hai tâm hồn cô quạnh, chỉ một mùa gặp nhau mà đã là cả một đời. Nguyễn Vạn Lý Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét