Nỗi đau thể xác của mẹ đã được khoét bỏ, nhưng nỗi đau trong
lòng của mẹ thì lại đang nhức nhối. Mẹ vẫn thường dạy con, anh em trong nhà
đóng cửa bảo nhau, con đã vâng lời nên nhiều chuyện đau buồn của gia đình mình
chưa ai biết. Nhưng bây giờ thì con phải nói...
Rét đồng chiêm mạ tía hơ tía hất
Mẹ ăn trầu nuốt cái lạnh vào trong
Thân mạ cắm xuống vạt bùn buốt cóng
Ngậm phèn chua bén rễ trổ đòng...
Mẹ bệnh. Một bên ngực mẹ, nơi tám chị em con bấu vào, hút kiệt và lớn lên đã được
bác sĩ khoét bỏ. Khuôn ngực sáu mươi lép kẹp giờ lại thêm hõm xuống. Mẹ nằm đó,
bàn chân sần sùi nứt nẻ, kẽ móng còn vương bùn đất đồng chiêm quá tương phản với
giường ga trắng. Ngồi bên mẹ bây giờ chỉ có con, đứa mà mẹ đặt nhiều hy vọng và
thương yêu nhất, mặc dù con chưa làm được gì cho mẹ ngoài "những bài thơ
vô bổ" như lời các em con. Lúc này đây, dưới ánh đèn xám lạnh, mẹ đang
trong trạng thái mê, nhưng mẹ ơi, mẹ hãy nghe lời trần tình của con.
Bà ngoại kể. Trong một chầu tổ tôm, ông lý trưởng và ông phó lý đã gật gù thoả
thuận. Mẹ về làm dâu nhà ông con lúc tuổi mười lăm. Đêm tân hôn mẹ đóng chặt cửa
buồng không cho cậu ấm mười tám tuổi vào động phòng hoa chúc. Ông lý trưởng đập
tan tành chiếc điếu bát nõ vàng se bạc, sai người lên gọi ông phó lý. Bà ngoại
tất tả mang trầu rượu xuống nhà thắp hương và quỳ sụp xuống lạy mẹ. Mẹ cuống cuồng
nâng bà ngoại dậy. Cửa buồng được mở. Chúng con lần lượt ra đời...
Có một lần con xem một bộ phim hài. Có ông nhốt gà chờ vợ đẻ, và khi nghe tin
con gái thì thả gà ra. Mọi người cười rần rần, còn con thì bật khóc. Con thấy bộ
phim ấy như nói chuyện nhà mình. Nhưng chuyện nhà mình không được như phim. Lý,
Sự, Sinh, Mong, Mỏi - năm chị em con ra đời trong sự hầm hè. Chỉ có con, con
sinh ra trong tiếng bom rền và chớp lửa phòng không cùng sự hân hoan tột cùng của
bố. Con sống trong sự tưng tiu, chằm bặp của cả nhà cho đến năm con vào lớp một.
Một chiều con mang bộ mặt lem tím ngoét nhưng vô cùng hớn hở, nhảy chân sáo về
nhà để khoe điểm mười đầu tiên. Nhưng chân con khựng lại. Nhà cửa tanh bành, nồi
niêu vỡ. Năm chị của con ôm nhau rúm ró góc nhà. Lọ mực xách dây trên tay con
rơi xuống sân tím toé. Bố vẫn đập bàn rầm rầm, hầm hố: "Họ nhà này mấy đời
chưa có chịu độc đinh!". Mẹ ơi, đêm đó sáu chị em con đã gào khản giọng
tìm mẹ khắp nơi. Mãi sau có người đi cấy về chỉ cho chúng con chạy lên Đồng Mả.
Mẹ nằm vật vã, rũ rượi trên mộ ông ngoại, mười đầu ngón tay bứt cỏ máu bầm, mặt
mẹ sưng húp, khóc không thành tiếng: "ới cha ơi, sao cha gả con như thế
cha ơi!...". Các dì, các mợ và sáu chị em con ôm nhau khóc theo trong
nghĩa địa đêm gió lùa hun hút. Mãi sau dì Thêm đứng phắt lên gạt nước mắt, gắt:
"Chị cứ về tháo vòng ra mà đẻ, xem nó có nuôi được không". Hỡi ơi...
Suốt ngày chỉ rượu với tổ tôm... đẻ nữa thì lấy gì cho chúng nó ăn...".
"Nó đã tuyên bố thế, không đẻ mà yên được à?".
Và mẹ cắn răng mang bầu lần thứ bảy. Phú, Quý - hai em chào đời trên bờ ruộng mạ
chiêm gió đông bắc lùa tím tái. Tiêu chuẩn ăn bồi dưỡng của mẹ là một ổ trứng
gà mười quả và một tuần cơm không độn sắn. Mẹ ơi, đến tận bây giờ con vẫn không
thể nào quên sau những buổi đi học về con trai lớn của mẹ vẫn được mẹ phần một
bát cơm và nửa trứng. Trong căn buồng kín mít ấm sực khói gộc tre và khai nồng
nước giải trẻ con, con ăn những miếng cơm ngon nhất trần đời, trong ánh mắt chứa
chan của mẹ và nụ cười mụ dại của hai em. "Đàn ông chui vào buồng gái đẻ để
cái đầu nó ngu như lợn à! Ma... a... ạt! Họ nhà này mạt đến nơi rồi!". Bố
đang hỉ hả nhắm rượu với ngô rang đập bàn quá khiến con giật nảy, nhè miếng cơm
nuốt giở. Bà nội lom khom chui vào mò mẫm dắt tay con ra ngoài, sịt soạt:
"Đừng vào nữa cháu ơi, bố mày mà đánh thì bà cũng chịu chẳng dám
can".
Mười lăm ngày mẹ đã phải ra đồng theo vụ cấy. Hai em Phú, Quý khóc ngằn ngặt
trong tay chị Mỏi, chị Mong. Bà nội mắt toét nhoèm mang đĩa bột muối đen màu
tro bếp ra dử dê. Hai em nhóp nhép được vài miếng lại ré lên oe oé. Buổi trưa mẹ
quần xắn tận bẹn, bổ xấp bổ ngựa chạy về. Mẹ ngồi dựa lưng vào cột đỡ cho hai
em bú cùng một lúc. Khi hai bầu vú xẹp lép, nổi gân xanh chằng chịt cũng là lúc
mặt mẹ tái dại như dây khoai kiệt nước. Mẹ nói không ra hơi: "Mừng, con
vào lấy sắn. Mẹ đói quá!". Bát sắn đen sì mang ra mẹ chưa kịp ăn thì bà
Mão láng giềng bế thằng cháu bụ tròn như hạt mít sang, trên tay bà bát cơm trắng
muốt: "Thím ăn rồi cho cháu tí nhờ. Cái con mẹ nó ăn thủng nồi trôi rế,
béo ị như con trâu trương mà vẫn không có sữa". Mẹ bải hoải, đôi môi tái
nhợt, lắp bắp: "Đợi... cháu nghỉ một tí...". Bà Mão dài môi ghé vào
tai mẹ: "Thím Mừng này, mai sang nhà tôi lấy lúa về ăn. Người khác tôi lấy
lãi dững năm phân, nhưng thím tôi chỉ lấy ba thôi". Mẹ nhắm mắt gật đầu,
vén áo. Thằng bé háu đói ngoạm vú mút choàm choạp.
Bà Mão bế đứa cháu toe toét cười ra về, cố ý bỏ lại bát cơm. Bà vừa khuất cổng,
mẹ vồ lấy bát cơm bốc vội vàng, nuốt lấy nuốt để. Bất ngờ bà Mão quay lại:
"Còn cái bát...". Mẹ sững lại, miếng cơm nghẹn tắc nơi cổ phồng to
như quả ổi, mắt giàn dụa nước.
Sau vụ cấy, mẹ bị một trận kiết lỵ đè cho ngã quỵ. Lá mơ lông và trứng gà vừa đỡ
mẹ gượng dậy, mẹ đã phải vào rừng Găng đốn củi. Mỗi ngày mẹ gánh hai bó củi gồi
to hơn người để đổi lấy một khăn vuông gạo nấu cháo cho bà và các em ăn. Một
hôm tối mịt mà mẹ vẫn chưa về. Mọi người bổ đi tìm mãi sau mới ra. Một người Mường
đã tìm thấy mẹ nằm gục bên bờ suối, cạnh mo cơm sắn rời rã. Thuốc thang mãi mẹ
mới qua được đận ấy. Nhưng cũng từ đó mẹ mang trong mình một căn bệnh kinh
niên.
Nhà thiếu đói, hai em con còi cọc, cớm rớm như cặp mèo đi kiết. Các dì, các mợ
góp tiền mua sữa bột cho, thứ sữa bột đóng bao năm mươi cân thời đó thường vón
cục do quá hạn. Các em con uống sữa bột đi ngoài như tháo cống. Thương con, mẹ
cương quyết chỉ cho các em bú mẹ, bú đến tận 3 tuổi mới thôi. Kể từ khi biết ngồi,
hai em Phú, Quý bú mẹ mỗi đứa quen một bên, đổi vú chúng dứt khoát không chịu
bú. Mỗi lần trái gió trở trời, hai em cùng đau một lúc. Một ly thuốc chia đôi,
mẹ cầm thìa khuấy leng keng rồi cho Phú uống trước. Đến lượt Quý, nó giãy nảy
không chịu uống. Dỗ dành mãi nó mới ngọng nghịu: "Con uống cái leng keng
cơ". Mẹ bật cười và lại khuấy. Leng keng, leng keng. "Nào, u ti tráng
miệng nào!". Mẹ gọi, hai đứa ngồi chồm hỗm hai bên như hai con chó con kéo
dài vú mẹ...
"Nhà này bảy đời đa đinh", bố gật gù mỗi ngày giỗ Tết. Những ngày đó,
bốn bố con ngồi xấp bằng trên ghế phong thư với cỗ mâm đồng. Mâm chõng tre dưới
đất là mâm đàn bà, cả bà nội bảy mươi tuổi cũng phải ngồi mâm đó. Và con là người
đầu tiên phản đối việc này bằng việc lẳng lặng mang bát xuống ngồi mâm dưới.
"Đồ mất dạy! Mày phá nề nếp gia phong nhà tao!". Xung đột giữa bố và
con bắt đầu từ đó.
Con học giỏi nhờ những buổi trên lưng trâu đọc sách. Dưới tán phi lao chờ mãn
buổi cày luôn có những hình vẽ toán học của con. Bố so bì: "Mày chẳng làm
nên tang trạng gì sất. Nhìn thằng Thoan nhà Thụ kìa, mỗi buổi chăn trâu về nó
còn bắt được mấy giỏ cua". Mẹ kêu lên: "Giời ơi! Có ai như ông không,
khen đứa ham bắt cua hơn đứa ham học". Bố ngàu ngạu: "Mày có học nát
xương lòi tỉ thì cũng không ai dùng mày". Lần đầu tiên mẹ văng tục để bênh
vực con và nhận thêm một trận đòn nhừ tử. Còn con, con nhào vào bênh mẹ và nhận
lấy cái bạt tai nổ đom đóm cùng với bao nhiêu "Chiến tranh và hoà
bình", "Sông Đông êm đềm", "Dế mèn phiêu lưu ký",
"Những bài toán dành cho học sinh giỏi"... bay vào hố xí. Lạ một điều
là lần ấy mẹ không hề khóc. Mẹ gom góp gạo tiền cho con thi đậu cấp ba:
"Con cứ học đi, ông nội ông ngoại con mang tiếng địa chủ nhưng chỉ tối
ngày tổ tôm, không có nợ máu với cách mạng. Bố mày hận vì bị tịch thu tài sản.
Đang sung sướng quen rồi mà". Bà nội thêm vào: "Bố mày dong dóng ăn
chơi từ bé đến lớn, muốn gì được nấy. Có lần bố mày đòi ăn trứng Trời, bà phải
lén bắc thang mang trứng gà đặt lên nóc nhà...".
Những tháng năm đói kém ấy con đã bấm tuột mười đầu ngón chân trên đường lầy để
lên trường huyện học. Trời chưa sáng con đã phải dậy, đón từ tay bà hai củ
khoai nỏng hổi hoải bò vào túi quần để vừa chạy vừa ăn cho kịp giờ vào lớp. Vào
lớp rồi thì lại ngồi run. Hai củ khoai hết veo trên chặng đường năm cây số.
Trong bụng thấy réo sôi lên, còn đầu thì loáng thoáng những phương trình, những
tang, những sin, những cos. Con tưởng đã phải bỏ học nửa chừng nếu như mẹ không
đi vay lãi mua cho con một chiếc xe đạp tòng tọc không chắn bùn, chắn xích. Lũ
bạn ngoài phố huyện con nhà phe phẩy lượn lờ trên những chiếc xe Pơ-zô,
Dia-man, Fa-vo-rit trề môi diễu con. Con có độc một bộ đồ xanh chéo, vừa đi học
về là phải cởi treo lên ngay, chủ nhật mới đem đi giặt. Có đứa ngồi sau bàn con
hỏi kháy: "Bố cậu là công nhân nhà máy dệt Nam Định hay sao mà diện độc một
bộ thế?!". Con xấu hổ chống chế: "Tớ có hai bộ giống nhau thay đổi đấy".
Nó không tin lén lấy bút đánh dấu rồi đem ra làm trò cười cho cả lớp. Cũng may
con học giỏi hơn chúng nên chúng chưa dám khinh. Nhưng ghét thì có. ấy là từ buổi
lao động ở chùa Tiên Phương. Sợ con xấu hổ với bạn bè nên mẹ cắt lá dong, lấy
khuôn gói "bánh chưng sắn lát" cho con. Trưa ấy con lủi thủi ra sau gốc
thông già giở "bánh chưng" ra ăn. Có đứa trông thấy, con vội vàng gói
lại rồi bỏ đi, mặc cho lũ bạn con nhà phe phẩy cười hô hố gọi con là thằng ăn
tham, có bánh chưng mà giấu ăn một mình. Con bị lũ bạn ghét mà đâu dám thanh
minh. Thế nhưng mẹ biết chuyện. Khi hai em con đi học, mẹ thường đem chuyện này
ra làm gương để các em noi theo. Bố chửi hất đi bằng điệp khúc cũ: "Có học
nát xương lòi tỉ thì chế độ này cũng không dùng chúng mày. Học biết đọc biết viết
là được". Nghe lời bố sau mỗi buổi học hai em con biết vác gàu ra đìa tát
cá về cho bố nhắm rượu. Lớn thêm chút nữa, bố mua cho mỗi đứa một chiếc cần câu
quăng ếch. Sau mỗi buổi câu về ba bố con quây quanh đĩa thịt ếch nấu chuối
xanh, hai em Phú, Quý cùng tì tè uống rượu. "Tập cho chúng bay biết uống
thì khi già tao mới có rượu uống". Mẹ gào tướng lên: "Giời ơi là giời!
Ông làm hỏng con tôi mất!". Bố gầm lên: "Mày làm hỏng con ông thì có.
Rồi xem. Hai thằng này sẽ khá hơn thằng nửa đời nửa đoạn kia!", bố ném ánh
mắt hằn học về phía con. Mẹ thở dài kéo con ra ngoài: "Tuổi mày với bố mày
xung khắc".
Khi bà và mẹ bàn cho con nhập ngũ, con đồng ý tức thì. Trong đầu con lúc đó chỉ
có duy nhất một ý nghĩ: thoát khỏi ngôi nhà ngột ngạt này càng nhanh càng tốt.
Bố mỉa mai: "Lấy máu mà viết đơn! Hai thằng chú mày bỏ mạng ở chiến trường
chưa đủ à?". Bà nội mắt đã mờ loà vịn cột đứng dậy quơ quào: "Trời
cao đất dày ơi! Hai đứa nó chết nên mày mới có tiền mà đổ vào họng mỗi ngày đấy!".
Ngày con lên đường, bà lần giở bao tượng dúi vào tay con: "Bà cho. Tiền tuất
tháng này của hai chú mày đấy. Giờ hết giặc rồi, mày vào đó thì cố mà học. ở
nhà có đậu đại học thì mẹ mày cũng không đủ sức lo cho mày đâu".
ở đơn vị, khi nghe tin bà mất con đã khóc mấy ngày liền. Và sau đó con lao vào
ôn. Con về phép với tin thi đỗ Trường Lục quân. Bố khinh khỉnh: "Hữu danh,
vô thực. Sĩ quan đói như ngan ấp, đang xin ra quân một lũ kia kìa". Còn mẹ
thì mừng. Hai mắt mẹ ăm ắp nước.
Hai em con học đì đẹt, hai năm một lớp. Hết lớp ba đã bỏ. Bố sắm cho mỗi đứa một
chiếc xe đạp và một thùng xốp. Hai đứa nhận những que kem nước lã pha đường hoá
học vào tận bản Mường để đổi ngô đổi nếp. Tận bây giờ con vẫn còn nghe văng vẳng
tiếng còi "kem... mút" và tiếng rao dẻo quẹo của hai đứa: "Ai ăn
kem nào. Kem dừa kem sữa, ngọt lử ngọt lừ, dừa quấn dừa quít, dừa vít cong que,
già ăn trẻ lại, gái ăn đắt chồng. Ai ăn kem rẻ chạy khoẻ ra mua. Kem mậu dịch
đơ...ây!". Mỗi buổi chiều về, từ thùng xốp bọc cót, hai đứa lôi ra đủ nấm
hương, mộc nhĩ, có khi là cả một cặp sừng hươu nguềo ngoào. Mắt bố sáng rực
lên, miệng cười tấm tắc. Lúc đó thì con còn đang đắm chìm trong những phạm trù
triết học. Vật chất và ý thức, cái nào chi phối cái nào?
Khi con ra trường, khoác bộ quân phục sĩ quan thì hai em con đã biết chui vào mấy
bãi xe do máy bay Mỹ bắn cháy ở Miếu Môn, móc ngoặc mua xăm lốp, phụ tùng bán
kiếm lời. Chúng khụng khiệng trong áo bay quần bò mũ cối trước sự thèm thuồng
xoa xuýt của trai làng. Làng bên có tin đồn: Cô Hoa bán quán đầu cầu đẻ con
trai giống Phú, Quý y tạc. Mẹ áo khăn te tái "đi đón cháu về". Thằng
Quý lừ mắt: "Bà già hâm tỉ độ. Nó ngửa cho cả trăm thằng, biết con
ai?". Bố khà một tợp rượu đế vào: "ừ, sang mà đón về. Ông thì băm cho
ngan nó ăn". Mẹ bất lực thở dài, chỉ dám thỉnh thoảng lén sang thăm và dúi
cho cháu chút quà bánh nhỏ.
Giỗ bà năm đó, hai em Phú, Quý mặt rượu đỏ cay đỏ cợi tuyên bố: "Mẹ kiếp
Cái đất này giờ khó nhằn rồi. Hai thằng con tính vào Tây Nguyên thử xem
sao". Bố rung đùi gật gù: "Có chí làm ăn lớn thế là tốt". Mẹ
gàn: "Thôi, ở nhà no đói có mẹ có con. Chẳng đâu bằng quê hương
mình".
Hai em đi, con năng về với bố mẹ hơn. Bố không còn hằn học với con nhưng cũng
chẳng tỏ vẻ thân tình. Số phận đưa đẩy thế nào con lại chuyển qua làm báo. Mẹ tự
hào về con lắm, đi khoe khắp làng. Bố xì một tiếng dài: "Tưởng theo nghiệp
võ tao còn được trông cậy. Vẻ vang gì cái nghề ấy, như thằng mõ làng ngày
xưa".
Mừng thọ mẹ tuổi sáu mươi, con cháu kéo về cả đàn cả lũ. Mẹ ngượng nghịu trong
áo gấm dài thêu. Hai em Phú, Quý mang về biếu mẹ nhung hươu cao cổ. Mẹ thờ ơ nhận:
"Mẹ bệnh đại tràng mãn tính, đâu có ăn được những thứ này". Con chẳng
có gì biếu mẹ, chỉ có bài thơ đọc trước cả nhà. Thế mà mẹ vui mừng, nước mắt
rưng rưng.
Bữa cơm, con hỏi chuyện làm ăn, hai em con tự hào khoe. Ban đầu vào buôn bán
nhì nhằng, mua được miếng đất bỏ hoang rộng vung vinh bên đường 14. Đùng một
cái tách tỉnh. Miếng đất ấy nghiễm nhiên trở thành trung tâm thị xã. Tấc đất tấc
vàng, cứ việc cắt khoanh ra mà bán. Giờ giàu.
Một đứa là chủ tiệm kinh doanh Honda, một là chủ hiệu hàng kim khí điện máy.
Hai đứa bảo con: "Ra quân, vào bọn tôi nhường cho miếng đất mà làm ăn. Ham
hố đếch gì ba đồng lương chết đói!". Con tự ái: "Tao có lý tưởng sống
của tao. Chúng mày mới giàu mà đã lên mặt dạy đời". Thằng Quý xì:
"Ông chỉ được cái sĩ bọ. Ông đóng góp được đếch gì cho đất nước ngoài mấy
bài báo hô hào cổ động suông? Bọn tôi đây này, thuê mỗi tháng hai triệu, chưa kể
mấy ông công an, mấy thằng thanh niên, mấy mẹ phụ nữ... tháng nào cũng cử người
đến xin xỏ tổ chức phong trào này nọ. Ông tưởng nhà báo mà to hả? Trong tôi
ngày nào mà chả có mấy tay nhà báo đến kỳ kèo xin làm quảng cáo. thí cho mấy đồng
thì bảo viết gì chả viết. Đây này...", nó móc ra một loạt bài báo cắt ép
plastic đàng hoàng. Đủ những cái tít kêu như chuông: Doanh nghiệp tư nhân Hưng
Phú - đơn vị đi đầu trong phong trào đền ơn đáp nghĩa; Nguyễn Hưng Phú - ông
giám đốc hào hiệp với trẻ thơ; Nguyễn Hưng Quý - ông chủ doanh nghiệp giàu lòng
nhân ái... "Đấy, nhà báo đấy". Mẹ gắt: "Hỗn nào! Anh mày nhờ làm
nhà báo mới có tên trong Ban soạn thảo Hương ước của làng đấy". Thằng Phú
bĩu môi: "Tưởng gì. Nếu mẹ thích, tên hai thằng con sẽ được khắc vào bia
đá!". Nó nói và làm thật. Ngay ngày hôm sau, tấm bia đá có tên hai đứa với
mức đóng góp tu bổ đình làng cao nhất: Mười triệu. Mẹ hỏi: "Mừng, sao con
cũng đóng mà không được khắc?". Thằng Quý cướp lời con: "Ôi dào, ba đồng
tẹp nhẹp ai khắc. Làng quy định rồi, dưới triệu ghi sổ vàng, trên triệu mới khắc
vào bia đá". Mẹ kêu lên: "Giời ơi là giời! Làm thế thì bia đá toàn
tên những đứa lắm tiền vô học à?". Thằng Phú vằn mắt quát: "Bà thích
thì ôm thằng con lắm chữ mà húp cháo!". Mẹ điếng người, ôm ngực ho rũ rượi
trước câu chửi giả bất thần. Mẹ tuyên bố từ cả hai thằng.
Suốt những tháng ngày sau đó, mẹ sống vật vờ như cái bóng. Con đã linh cảm sẽ
có chuyện chẳng lành. Và đúng. Bao nhiêu mưa nắng gió sương cứ ngày ngày tích tụ
dần trong người mẹ đã trở thành ung nhọt. Khi đưa mẹ từ phòng mổ ra, bác sĩ nói
với bố: "Bà ấy tạm thời qua khỏi". Bố thủng thẳng: "Bà ấy sống
là nhờ hai thằng con tôi, chứ như cái ngữ kia thì... có mà chôn sớm!". Con
không biết nói thế nào, bởi những điều bố nói là sự thật. Đưa mẹ đi bệnh viện,
túi con chỉ vẻn vẹn một tháng lương ứng trước. Tất cả chi phí cho ca mổ và giọt
giọt những sự sống đang truyền vào cơ thể mẹ kia đều là tiền của hai em con gửi
ra.
Mẹ ơi, khi vừa tỉnh, mẹ mở mắt nhìn khắp lượt sáu chị em con, và ánh mắt mẹ cứ
lần tìm, mong mỏi. Con hiểu ý và đi gọi điện. Thằng Phú hỏi: "Mổ xong rồi
hả? Thế thì ổn? Tôi nhờ ông một việc, ông nghỉ phép chăm sóc mẹ hộ bọn tôi
nhé!". "Chú phải về. Lúc này mẹ cần đông đủ con cháu".
"Căng quá! Độ này dân trúng mùa cà phê, mua xe nhiều lắm. Tôi về một ngày
là mất đứt mấy triệu". Con điện cho Quý, nó hỏi: "Tôi đã gửi tiền về,
anh nhận được chưa?". "Tiền tiền tiền! Chúng mày lúc nào cũng tiền. Mẹ
không cần tiền lúc này nữa, mà cần chúng mày bên cạnh chăm sóc, hiểu
chưa!". "Thì... có quái gì mà ầm lên thế? Được rồi, tôi nhờ ông thuê
lấy một người đổ bô, giặt giũ cho mẹ, thế là được chứ gì?".
"Khô...ông! Những thứ đó tao làm được hết. Tao cần chúng mày về
thôi". "Nhưng... em không thể bỏ cửa hàng lúc này...".
Lần tỉnh thứ hai, mắt mẹ sáng lên, vì bên cạnh con còn có một người nữa.
"Phú... Quý... phải không... con?". Thằng Hận, con chị Hoa, đứa trẻ
ngày xưa mẹ te tái định đón về vội nhào đến ôm lấy mẹ mếu máo: "Bà nội ơi,
bà đừng bỏ cháu...". Khuôn mặt mẹ giãn nở ra một chút rồi mẹ cười như mếu.
Và lần tỉnh thứ ba, con có cảm giác mẹ rùng mình khi thấy mình con bên cạnh.
Các chị phải về với lũ con bìu ríu. Mẹ ú ớ và đưa tay ra dấu khiến con hoảng sợ
vô cùng. Mẹ nghĩ mình sắp chết, mẹ cần gặp đông đủ các con trước lúc đi xa. Con
cuống cuồng đi gọi điện. "Phú, anh van em, em về ngay. Mẹ rất mong các em.
Nếu kẹt quá thì một đứa cũng được". Thằng Phú im bặt ra chiều nghĩ ngợi,
trong máy vọng léo xéo "Anh Mừng, mẹ mổ vú nào?". "Vú
trái". "Anh đợi em bàn với thằng Quý, có gì chút nữa em điện lại".
Con đợi mãi chuông điện thoại mới reo. Tiếng thằng Quý hỏi độp con: "Anh Mừng,
anh còn nhớ ngày xưa em bú vú nào không?". Con chưa hiểu nó định nói gì
thì tiếng thằng Phú quát vòng vào máy: "Máy bú vú trái chứ còn ai nữa!".
Con hiểu ra và con sững sờ. Còn bật khóc và con gào như vỡ máy: "Khốn nạn
chúng mày! Chúng mày không phải về nữa đâu... ừ tao được bú cả hai bầu vú.
Trách nhiệm với mẹ bây giờ là tao...". Con vùng chạy về bên mẹ nức nở. Mọi
người tưởng con làm sao nên vội vàng chạy lại. Bác sĩ kiểm tra và động viên
con: "Anh yên tâm. Nếu không để lại di căn, mẹ anh sẽ sống". Vâng, mẹ
ơi, nỗi đau thể xác của mẹ đã được khoét bỏ, nhưng nỗi đau trong lòng của mẹ
thì lại đang nhức nhối. Mẹ vẫn thường dạy con, anh em trong nhà đóng cửa bảo
nhau, con đã vâng lời nên nhiều chuyện đau buồn của gia đình mình chưa ai biết.
Nhưng bây giờ thì con phải nói. Nỗi đau nhân luân của mẹ phải được biết đến. Phải
được khoét bỏ. Con phải nói... Phải nói... Mẹ ơi!. Đỗ Tiến Thụy Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét