Thứ Hai, 13 tháng 1, 2025

Miền cổ tích hoang hư 2

Miền cổ tích hoang hư 2

7 - Ngọ...
Chiếc tàu thu mua hải sản ném Phương lên bờ tại cảng cá tanh hôi và ồn ào của Hải Phòng. Lôi thôi lếch thếch anh tìm tới văn phòng chi nhánh công ty.
- Chúng tôi không thể tạm ứng sai nguyên tắc. Dù anh chứng minh được mình là thuyền viên Vương Hoài Phương đi nữa, muốn lấy tiền phải có phê duyệt của cấp trên.
- Chắc các ông tốn không ít để tổ chức lễ tưởng nhớ, truy điệu con tàu Dragon. Vậy mà vài đồng cho sinh mạng từ cõi chết trở về ngôi nhà của hắn thì nguyên tắc quay lưng. Phải thủy táng bộ máy hành chính và những con ốc mòn răng, rỉ sét như ông xuống đáy Thái bình dương mới vừa.
- A… Thằng này láo. Cút ngay ra bến xe, bến tàu mà xin đểu, móc túi. Ông gọi bảo vệ cho mày nếm bánh chưng nhân nắm đấm bây giờ.
Với lang sói, lời nói hay bạo lực đều thừa. Phương nản chí bước ra. Anh thất thiểu đi dọc đường Lê Lợi. Khô cổ, Phương ghé một quán chè chén vỉa hè. Đầu tiên anh cẩn thận thò tay vào túi kiểm tra xem hai chục ngàn Lam Anh đưa ban sáng còn không. Nàng rất lo khi anh không chịu cầm tạm vài triệu. Rõ ràng Phương có thể gởi trả mẹ Lam Anh tại Hải Phòng nếu cơ quan ứng đủ tiền. Anh thấy tiêng tiếc bởi đã khách khí.
Phương mua gói thuốc Virginia và cạn hai ly nước đắng. Hương vị đặc trưng thời sinh viên giúp anh rũ bỏ phiền toái không đáng đeo nặng trong lòng.
Phương đã điểm danh hết bè bạn, người quen. Thân thiết với anh tại trường Hàng hải chẳng ai là người phố cảng. Ở số sơ giao còn lại, thiện chí và lòng tốt không đi cùng khả năng cho Phương vay nóng ít lộ phí về Sài Gòn. Vả lại bề ngoài Phương lúc này cũng khó gây niềm tin. Anh giống một bệnh nhân tâm thần đi lạc. Khuôn mặt bất cần mệt mỏi đờ đẫn nhưng da dẻ hồng hào. Hành trang Phương mang gồm hai bộ quần áo cũ, đôi dép nhựa tương đối… thời thượng, nếu không kể thêm chiếc áo phao tơi tả anh muốn giữ làm kỷ niệm. Trả xong tiền trà thuốc Phương còn mười ngàn. Đói thì có xôi Lam Anh nấu để sẵn trong túi xách. Phương quyết định lang thang cho biết cảm giác cầu bơ cầu bất. Anh không dám nghĩ đến chiếc kiềng đeo cổ bằng đồng đen của Somporn. Quả là nó rất giá trị về mặt tinh thần lẫn vật chất.
Phương rẽ đại xuống ngõ Cấm nhưng không chủ ý hướng sâu vào làng hoa Hà Lũng. Bây giờ Phương mới thấm thía sự sùng bái niềm cô độc và thói quen hạn chế giao thiệp của anh tai hại vô cùng. Phương đang bơ vơ, lạc lõng giữa chốn quen thuộc. Chợt dòng liên tưởng lóe sáng. Đúng rồi! Phương có một người bạn ngay trong khu này. Anh khá gần gũi với Minh, cậu hàng xóm cũ bông phèng và mơ mộng. Số là bà chủ căn nhà Phương từng thuê trọ học lấy giá rất rẻ. Bà cần kẻ cố thủ giữ đất hơn là tiền thu hằng tháng. Bà chỉ yêu cầu: thường xuyên cho Minh qua gánh nước giếng về dùng. Cách đó giúp bà vừa cẩn thận vừa tế nhị đặt tai mắt xung quanh cậu sinh viên Hàng hải nói giọng Nam.
Phương hồi hộp gõ cửa nhà Minh. Anh hy vọng sẽ tìm ra chỗ nương tựa với tín xác bằng diện mạo, lời lẽ và tình người hơn là mực thước của những mảnh giấy không hồn.
- Phương phải không? Giời ơi đúng mày rồi. May quá tao vừa từ cơ quan về nhà ăn trưa. Sao bộ dạng mày kỳ lạ thế?
- Tao mới chia tay thần chết và âm phủ. Chắc thành phố biển không ai không biết tàu Dragon bị đắm. Hơn nửa thuyền viên gốc Hải Phòng đấy.
- Cái gì - Minh tròn mắt rồi hấp tấp lục lọi chồng báo cũ dưới chân bàn - Tao biết, tao biết… Quái quỷ! Sao tao chẳng nhận ra tên mày trong danh sách thủy thủ mất tích nhỉ. Cả tuần làng nước sục sôi với chuyện này.
"Chính ủy Phan Sinh - Người anh hùng của thời bình", tựa đề nhức nhối nhất đập vào mắt Phương khi Minh đưa anh xem tờ báo cũ. Phương lướt nhanh qua hai trang dài. Dẫu dễ dàng đoán mò nội dung được đăng tải, Phương vẫn phải nuốt hờn vì bài phỏng vấn Phan Sinh:
- Tôi lãnh đạo thuyền bộ tới giây phút cuối cùng nhằm bảo vệ tàu, bảo vệ tài sản của nhân dân và tính mạng mỗi con người. Nhưng lực bất tòng tâm, tôi tiếc thuyền trưởng không nghe kinh nghiệm dạn dày của chính ủy trong việc chống bão cho tàu trước đó. Nếu không mọi sự đã khác.
- Đồng chí biết gì về hai tám người còn lại?
- Tôi xuống thuyền cứu sinh mạn phải cùng mười lăm người. Mười bốn người kia dùng thuyền bên trái, tôi hoàn toàn không có thông tin về họ. Thuyền chúng tôi đi được một đoạn thì bị lật. Năm bảy người hình như chìm ngay vì họ cứ bấu víu, ghì chặt lấy nhau theo bản năng làm tuột rách hết áo phao. Vài người bị va đập vào thân thuyền, dù vẫn nổi nhưng chấn thương nặng và bất tỉnh. Tôi cố dìu hai người trong số đó, về sau do đuối sức đành phải buông ra. Tôi trơ trọi nhưng chiến đấu hết mình với sóng gió trong đêm tối. Đến sáng cơn bão qua đi tôi bắn dù pháo hiệu rồi được ngư dân Hải Nam Trung Quốc cứu. Họ cũng vớt được năm xác chết bồng bềnh giữa biển. Giờ này chúng ta đã hết hy vọng còn ai sống sót.
- Những phẩm chất của người lính trên chiến trường năm xưa giúp đồng chí như thế nào trong quá trình vượt bão…?
"Hòn vàng mất, hòn đất thì còn. Thật trớ trêu!", Phương lẩm bẩm. Báo chí luôn nóng hổi nhưng hoàn toàn phi thực tế. Ngày nọ giữa giờ Địa văn, cả lớp Phương cười nghiêng ngả khi thầy đọc to bài báo lời lẽ đanh thép, hùng hồn. Tác giả hết sức phẫn nộ trước hành động phí phạm của con tàu Thái Dương, lần đầu tiên trong lịch sử hàng hải Việt Nam đi trọn vòng quả đất. Số là nhà báo mò được hành trình con tàu từ Cuba về Hải Phòng. Chú chàng vội giở bản đồ thế giới và so sánh. Điều trái khoáy hiện ra: thay vì cứ thẳng tiến theo đường kẻ thẳng rất ngắn Cuba - kênh Panama - Philippines - Hải Phòng, tàu Thái Dương lại vòng vo Cuba - kênh Panama - Nhật Bản - Hải Phòng. Ký giả kết luận cần lên án vụ việc tư lợi, tàu cố ý ghé Nhật để nhặt nhạnh chút đỉnh hàng phế thải của tư bản. Thuyền viên vô trách nhiệm quên rằng tiền dầu cho đoạn đường khác biệt là tài sản của nhà nước, là mồ hôi của người dân lao động. Bạn đọc rất đồng tình với báo vì chỉ trong nghề mới rõ: Khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm trên bề mặt địa cầu là một… đường cong ở các bản đồ hành chính quốc tế.
Phương cũng từng đọc ngay trên báo Văn Nghiệp truyện ngắn dự thi kịch bản phim hết mức khôi hài. Tác giả cạn lời ca ngợi mối tình giai cấp cùng chiến hào chống Mỹ của Việt Nam và Cuba. Tượng trưng cho chí khí lớn lao là mối tình nhỏ thắm thiết của chàng hoa tiêu Việt Nam với cô gái xứ sở vũ điệu Chachacha. Họ chia ngọt sẻ bùi trên hải trình đầy sáng tạo: Hải Phòng - Philippines - Panama - Cuba. Chuyến tàu chở hai mươi ngàn tấn gạo viện trợ không hoàn lại cho nhân dân Cuba ngoan cường. Nút của kịch bản là tai nạn nghề nghiệp, tàu vướng đá ngầm. Hai người tình dễ dàng quên tính mạng… Họ quấn lấy nhau, dùng thân thể bịt kín lỗ thủng cứu tàu! Khéo léo đến không tưởng, văn sĩ bê nguyên xi công thức lãng mạn trong các câu chuyện tàu bè vỏ gỗ, bé như hạt đỗ của Tây dương thế vài thế kỷ trước khoác lên khối sắt hiện đại, to bằng nửa sân vận động trung tâm Hải Phòng. Xin lỗi tất cả các loại tình cảm… con tàu chở hai mươi ngàn tấn gạo mà đụng đá ngầm thì chỉ còn nước lãng mạn dưới thủy cung!
- Này… này, mày không định đọc báo đến mai chứ. Xuống nhà ăn cơm với tao đi - Minh liếm thoắng.
- À ừ, đi - Phương biết Minh chưa bao giờ khách sáo với anh cả.
Phương tưởng mình sẽ mạnh dạn mượn tiền Minh. Bữa ăn thời buổi Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới vẫn đạm bạc quá. Bát cơm hẩm mốc có mùi dán. Minh bây giờ làm nhân viên hợp đồng ngắn hạn tại văn phòng đăng kiểm. Vợ hắn dạy tiểu học. Đứa con hơn mười hai tháng bị còi xương, sáng sốt chiều ho.
- Hay mày ở chơi với tao vài ngày rồi về. Chắc chẳng vội vàng chi phải không?
- Khi khác nhé, chiều tao bay rồi - Phương giả vờ vỗ vào túi quần rỗng không - Vé đang cựa quậy trong này đấy.
Thuận đường đi làm, Minh chở Phương thả xuống công viên Nguyễn Du. Trước khi giã từ Phương rào đón:
- Nếu chuyến bay bị hoãn, cho tao ngủ nhà mày một đêm nhé.
- Vô tư đi! - Minh hào hứng - Tao rất thích nghe chuyện của cõi chết. Lúc nãy mày kể sơ sài quá.
Phương tìm gốc cây râm mát nghỉ ngơi. Buổi sáng đầu tiên giữa đất liền cũng không đến nỗi quá tệ - Phương tự nhủ và trôi vào giấc nồng rất nhanh.
- Cậu ấy ơi, ngủ gì như chết thế. Dậy đi.
- Ông là ai? - Phương dụi mắt ngơ ngác.
- Bang phó cái bang. Túi xách của chú bị bọn nghiện hút rút ruột rồi.
Phương vội kiểm tra thì thấy bộ quần áo cũ đã không cánh mà bay. Áo phao rách bươm bị vất chỏng chơ bên cạnh, rất may kẻ trộm không lần ra chiếc kiềng quý giá Phương giấu giữa hai miếng xốp nổi. Trong người anh còn nguyên mười ngàn.
- Tao xem chú mày là lạ. Mới nghỉ mát ra phải không?
Ông già hỏi anh đủ chuyện nhưng tuyệt nhiên chẳng nói động đến bản thân mình. Ông khoảng sáu lăm tuổi, rất giống kiểu hận con cháu bạc bẽo nên trốn đi hành khất. Cũng có thể ông là con dân một trong những làng xóm ăn xin chuyên nghiệp của đồng bằng sông Hồng. Chuyện chán ông bèn thoái lui:
- Thôi lão đi kiếm bữa chiều. Tối ở đây không ngủ được, công an đuổi. Nếu chẳng biết chỗ nào tươm hơn thì ra tìm lão dưới chân cầu Lạc Long, rất mát mẻ tuy khai mù. Thế nhé… À mà này, Sài Gòn đẹp lắm phải không chú? Nghe kể sướng tê, nhà cao chọc trời, ngựa xe như nước. Được dạo chơi Sài Gòn một lần rồi tịch là nguyện ước của lão đấy.
Phương cười. Anh lại nằm xuống bãi cỏ. Chẳng lẽ ghé đại cơ quan Minh mượn điện thoại báo cho anh Dũng biết. Minh đèo bồng quá nhiều nỗi lo, vợ con nheo nhóc, tha cho hắn kẻo mắc tội. Trong nếp nhà tồi tàn của Minh kiếm tờ giấy năm chục ngàn mới còn khó. Mất công hắn chạy vạy ngược xuôi khi hiểu hết hoàn cảnh Phương. Mà cũng tại Phương cả. Anh quên khuấy các thủ tục hành chính rườm rà. Đáng lý phải xin xã đảo giấy xác nhận, cẩn thận hơn thì nhờ Lam Anh trích lục thêm bệnh án. Sự lơ đễnh bắt đầu ảnh hưởng quá lớn tới việc tái hội nhập xã hội của Phương. Trước mắt là không thể mua vé máy bay dù kiếm được tiền.
- Này này… tôi thấy chú thật thà nên tin tưởng - Phương gặp lại ông lão lúc nãy - Tôi nói khí không phải thì chú bỏ qua nhé. Cho tôi đi cùng vào Sài Gòn với.
- Ông à, con còn chưa biết mình sẽ về bằng cách nào thì làm sao gánh ông được.
- Thú thực lão có bốn chỉ vàng phòng tai ương bệnh hoạn, lo hậu sự. Chú làm sao để tôi và chú tới Sài Gòn thì làm. Miễn khi trở ra vốn kia không sứt mẻ.
- Ông nói thật chứ? - Phương mừng hụt hơi.
- Già cả rồi sao tôi lừa được chú.
- Ông đi máy bay lần nào chưa?
- Giời ạ! Xe hỏa còn hiếm kể gì cái thứ xa xỉ ấy.
- Ông sẽ toại nguyện. Nhưng ông có giấy tờ tùy thân không vậy?
- Còn phải hỏi, công dân gương mẫu đấy. Không tiền án, tiền sự.
- Tuyệt! Bây giờ ông chờ ở đây. Tôi đi làm con chi chi, nhún nhường xin bọn quan liêu đại diện hãng tàu giấy giới thiệu mua vé máy bay.
Phương luýnh quýnh chạy xuống phố Đà Nẵng.
- Lại chú! Trưởng chi nhánh vừa dắt anh em ra đầu đường giải khát bia hơi. Nói cho cùng là vô ích. Khéo chúng cà khịa thì khổ thân đấy - Cô văn thư già phân trần.
- Cô làm ơn đi. Cháu chẳng cần ứng tiền nữa. Cháu xin tờ giấy giới thiệu trám mộc tròn để người ta cho lên máy bay. Không tin cô có thể gọi điện thoại vào Sài Gòn nhờ nhân sự kiểm chứng giọng nói của cháu.
- Cả ngàn thuyền viên, ai nhớ nổi.
- Anh Lục phó phòng học trước cháu hai khóa thôi. Họ không quen giọng, quen mặt thì làm sao tiếp khách cửa sau được.
Xong việc Phương ba chân bốn cẳng quay lại công viên. Anh cứ sợ ông già bốc hơi. Tại phòng vé Phương gặp người quen nên mọi việc đều thuận lợi. Tuy nhiên hai ông cháu vẫn phải ngủ gầm cầu một đêm chờ chuyến bay sáng. Suốt tối ông già cứ giữ rịt hai tấm vé, ve ve vuốt vuốt:
- Thế này mà hơn ba chỉ vàng. Kinh thật!
- Ông gắng ngủ cho có sức. Đi máy bay phèo phổi bất an lắm.
- Anh không bỏ rơi tôi giữa Sài Gòn chứ?
- Ông là ân nhân của tôi, ai lại hành động như vậy.
- Đố biết được. Lão này gần đất xa trời rồi mà cũng chẳng rõ người tốt mặt tròn mũi dài ra sao. Đừng giận lão, lão không ngủ được chứ đâu phải vụng trộm canh gác anh.
Đất lạnh rợn người. Phương phong phanh quá nên khó chợp mắt. Toàn bộ thủy thủ đoàn tàu Dragon chỉ hai kẻ sống sót. Đáy biển chắc lạnh lắm. Những vong hồn trên đất liền đã quá cô đơn. Ở giữa biển mênh mông thì từ nào diễn tả trọn vẹn nỗi niềm ấy. Dù cộng đồng nhỏ bé bám vào khối sắt thép mục nát kia thật đành đoạn, song chết chóc luôn nằm ngoài trí tưởng tượng của Phương. Không sinh mạng nào đáng chết dẫu cõi chết là điểm cuối của vạn nẻo đường đời. Sự sống là quyền năng tối thượng của tạo hóa. Trên sự sống giá trị con người và xã hội được tạo dựng. Do đó sự sống luôn bất khả xâm phạm. Mặc cả cuộc sống rất vô nhân tính. Cái chết không thể là hình ảnh của tiến hóa, luân hồi hoặc điều kiện của tiến bộ. Tôn giáo ép uổng: kẻ ngoại đạo phải chết để tái sinh cho cuộc sống cao hơn mà sự khai tâm đem tới. Thụ pháp dành cho bộ xương còn lại, sau quá trình thối rữa chỉ là sự ruồng bỏ nhẫn tâm nhất.
Hình như không cuộc chiến tranh nào trên thế giới, từ xa xưa đến nay không lấy việc đếm xác làm thước đo thành công hay thất bại. Bất chấp mọi nguyên cớ và động lực, tất cả cái chết đều oan trái, vô nghĩa. Người ta nên tìm cách tránh cho đồng loại phải chết, hơn là ngợi ca cái chết, tô vẽ nó bằng vòng hào quang phù phiếm. Hiếu sinh không chỉ là đạo của đất trời mà còn là đức của xã hội.
"… Cuộc đời tôi bị ám ảnh bởi lời nguyền nặng nề và oan nghiệt từ chính miệng cha mình. Mùa gió Lào tai ác năm 1955, tôi khoảng mười tuổi. Họ trói ngược tay cha tôi rồi đặt ông vào cái chuồng tre từa tựa chiếc nơm cá giữa sân. Tôi ngờ nghệch chen chân trong đám dân chúng bừng bừng phẫn uất bâu kín xung quanh. Cứ sau mỗi lời hằn học của vị cốt cán đấu tố oai vệ đếm bước đằng trước là trận mưa gạch đá, rác rưởi đổ xuống đầu cha. Ông co ro câm lặng chịu trận, không van xin. Đến phần kể tội, rất nhiều người xung phong bước ra. Tôi nhớ nhất một thiếu nữ gương mặt đanh đá. Cô ta rít lên:
- Thằng địa chủ kia, mày nhớ mày từng hành hạ bà như thế nào không?
- Thưa bà nông dân, tôi được thừa hưởng mảnh ruộng ông cha để lo hương khói từ đường. Vì gia cảnh neo đơn, tôi phải nhờ nhà bà giúp đỡ trong những đận xuống mạ và gặt hái. Công xá sòng phẳng, tôi nào dám hành hạ ai bao giờ.
- Mày quên lần kia mày định cưỡng bức bà ở đống rạ sau hè sao?
- Khi ấy bà còn bé lắm chắc bà nhớ nhầm. Nếp nhà tôi mấy đời nho học. Kẻ nương nhờ bóng chữ thánh hiền đâu thể làm điều phi nhân. Thời Âu hóa kinh sử vô dụng, tôi cũng chân lấm tay bùn như mọi người đấy thôi.
- Ái chà chà! Nó đào mồ phong kiến thối tha của nó kìa. Các đồng chí dân quân mau vào từ đường lôi hết sách vở vẽ giun ra đây. Chúng ta sẽ châm lửa đợi thánh hiền hiện lên - Vị cốt cán hùng hổ múa may quay cuồng.
Đoàn người ùn ùn chuyển hướng tập trung vào ngôi nhà thờ họ. Cánh cổng gỗ lim cao ngất bị đạp tung. Ai đó chùng bước trước vẻ uy nghi lạnh lẽo của các án thờ vắng hương khói. Tên cốt cán giận dữ: "Đây là lúc thể hiện sức mạnh của quần chúng cùng khổ. Không đập, không phá nát chế độ cũ thì làm sao xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. Hãy đoàn kết lại và tiến lên, tiến lên… Chúng ta không có gì để mất ngoài xiếng xích và cuộc sống cơ cực bần hàn".

Loáng cái, từ đường trống hoác như vừa hứng cơn bão quá sức chịu đựng. Gươm giáo, bài vị, hương án, đèn đóm, sắc phong, hoành phi, câu đối, chiếu quì, bút lông, nghiên mực, sách vở, gia phả được chuyển ra và chất thành đống ngoài sân. Sau đó mỗi kẻ cố tìm cho mình một thứ có thể thay roi vọt, đinh ba hoặc gậy gộc. Họ vứt bỏ chiếc lồng. Cha tôi oằn lưng, gục ngã dưới đòn thù. Không hiểu sao tôi cũng bị cuốn vào cuộc hành hung tàn bạo ấy. Khi chiếc que tôi cầm, vốn là mảnh hoành phi màu gạch cũ, lấm máu tôi mới choàng tỉnh. Những con chữ dát vàng đã bị bẻ đôi tuồng như đang khóc, máu đỏ tứa đầy mép gỗ. Tôi chựng lại và bắt gặp ánh mắt đớn đau nhưng rất đỗi hiền từ của cha. Tôi hoảng loạn hét lên "Cha ơi!" rồi quỵ xuống. Trong cơn mê sảng tôi vẫn lờ mờ nhận ra da thịt mình đau nhói, bị đè dẫm dưới gót chân trần của sự phẫn nộ cùng lòng căm hận.
Đêm ấy cha tôi trút hơi thở cuối cùng bên tro tàn của đống vũ khí tanh máu. Tôi không rõ mẹ và chị mình trốn đi đâu. Trong khi lăn lộn, quằn quại giữa roi vọt và lửa, cha còn đủ tỉnh táo lén giấu quyển gia phả cháy xém vào ngực áo. Có thể ông đã dùng nó che đòn. Ánh mắt ông chứa cả bầu trời sao nóng bức. Tàn khói leo lét xung quanh như nước mắt về trời. Người trăn chối: "Cha thương con lắm! Hiếu vốn là gốc của nhân. Con không hiếu từ với chính đấng sinh thành mình thì làm sao con có được lòng nhân. Nhân không đơn giản là người. Chiết tự gồm bộ nhân đứng và chữ nhị. Nghĩa là quan hệ tích cực giữa người với người, đó là nhân tâm, nhân ái, nhân từ, nhân chính… Thiếu lòng nhân con sẽ chẳng còn gì chống đỡ với phản nhân. Đáng gì nhúm người kia, cả xã hội sẽ chà đạp lên con đấy. Hãy giữ giùm cha quyển gia phả này cho lương tri ngày mai".
Tôi bỏ chạy khỏi làng và tha phương cầu thực từ đấy. Hành trang của tôi là quyển gia phả toàn chữ nho đen đặc như đêm tối. Nỗi oan "bạch xà" của Nguyễn Trãi ăn vào chữ "Đại" và ba trang giấy dó, sánh ngang với máu và nước mắt cha tôi thấm đẫm từ bìa phải đến bìa trái quyển gia phả.
Năm 1965 tôi gia nhập quân đội. Tôi tham gia chiến đấu tích cực nhưng không được dài lâu do bị chấn thương sọ não, mất trí nhớ. Quyển gia phả tôi luôn để dưới đáy ba lô như bùa hộ mệnh cũng dính vài phát đạn, thủng lỗ chỗ.
Trong viện điều dưỡng thương binh, tổ chức cho tôi thành hôn với một thanh niên xung phong mắc chứng tâm thần nhẹ nhiễm chất độc màu da cam. Đó cũng chính là cô gái ngày xưa từng vu khống cha tôi. Vợ tôi chết ngay trên giường đẻ. Chiếc bào thai chửa trâu là cục thịt không đầu, mọc đầy lông thú. Từ đấy bệnh tôi càng nặng. Tôi hay trốn trại, lê la hành khất với câu sẩm: Trăm năm trồng một cây nhân – Từ thu xanh tóc, qua xuân bạc đầu.
Dạo gần đây kinh tế thoáng đãng tôi khá hơn. Bệnh dần dần đỡ hẳn. Tôi được cấp nhà và đất canh tác gần khu vực điều dưỡng. Tôi cũng có hộ tịch, chứng minh thư đàng hoàng. Nghĩa là tôi luôn được đối xử như công dân bình thường. Nhưng tôi không dám ở nhà. Lúc nào những bóng ma quá khứ cũng rình rập nhảy ra từ quyển gia phả bầm đen đặt trên ban thờ yên ắng. Vết chàm kia làm sao gột sạch khỏi đời tôi, kẻ ăn mày dã man, đốn mạt nhất thế kỷ hai mươi."
Phương qua đêm không ngủ dưới gầm cầu trong câu chuyện khủng khiếp của ông lão. Sáng sớm họ ghé nhà ga xe lửa rửa ráy cho tươm tất rồi thẳng tiến ra sân bay Cát Bi.
Phương nhường người bạn đồng hành khung cửa sổ máy bay anh luôn yêu thích. Ông lão rất bối rối trước những điều mới mẻ. Nữ tiếp viên hàng không xinh xắn trờ tới. Ả chẳng thèm giấu ánh mắt coi thường hai vị khách mang dép nhựa. Ả đưa Phương chiếc khăn lạnh bằng vẻ mặt khinh khỉnh và cố tình bỏ qua ông lão. Phương sẽ còn gặp cảnh này nhiều lần nhưng không bao giờ anh nén nổi bực dọc. Đoán chừng tiếp viên đã đi tới hàng ghế cuối, Phương bấm chuông gọi.
- Ông cụ này chưa dùng khăn, thưa cô.
- Ông ta không yêu cầu.
- Cô nên chủ động phục vụ hành khách.
- Anh tưởng đủ tiền mua chiếc vé máy bay là có thể mắng mỏ người khác sao.
- Thái độ của cô khi phục vụ nhóm người áo mão chỉnh tề và vài ba chiếc quần lửng áo thun mắt xanh mũi lõ xung quanh quá khác thái độ cô dành cho chúng tôi. Tôi nhắc lại người thân của tôi phải có chiếc khăn mặt mà mọi người đang dùng.
Con thiên nga ngốc nghếch giấu trái tim màu đen dưới bộ cánh màu thiên thanh há hốc miệng chết lặng. Chắc ả sẽ mãi đứng như trời trồng nếu tiếp viên trưởng không kịp nhận ra vấn đề. Nàng rối rít xin lỗi rồi tận tâm chiếu lệ mang khăn cho ông lão.
- Thôi bỏ qua đi chú, kẻo công an lại rầy rà bây giờ - Ông lão gàn Phương.
Gần như quá sức, Phương ngả lưng và hít thở thật mạnh. Người ngoại quốc rất dễ nhầm lẫn đầu óc vọng ngoại với sự hiếu khách của dân chúng Việt Nam.
Máy bay rướn mình cất cánh. Phương quên rất nhanh sự bực dọc vừa qua nhưng lòng vẫn trĩu nặng. Thế giới của mây không đủ sức quyến rũ anh. Mười tám tháng trước tân kỹ sư Phương nôn nao về lại Sài Gòn từ ga Hàng Cỏ, với giấc mơ đại dương bất tận. Thời gian chẳng bao xa, Phương hôm nay chưa kịp thay da đổi thịt thế mà tâm hồn anh đã vội sang trang. Phương băng qua cái chết để thấy cuộc đời là vô giá và ngày mai mãi mãi mông lung. Dầu gì Phương cứ nhủ lòng, anh đang đem tiếng hát tái sinh từ biển cả phủ lên tương lai nỗi niềm nặng nợ nhân gian.
Anh Dũng và chị Linh ra đón Phương như đã hẹn trong cuộc điện thoại ngắn ngủi ban sáng. Vẻ tiều tụy phong sương của Phương làm hai người không cầm được nước mắt: "Em ơi là em! Sao cám cảnh thế này!". Phương cắn môi để khỏi bật khóc.
Về nhà anh Dũng đưa Phương xem tấm bia đá nhỏ anh mới thuê khắc: "Vương Hoài Phương. Sinh ngày… tháng… năm… Mất ngày… tháng… năm… Vụ đắm tàu Dragon tại Biển Đông". Phương cười ngất:
- Theo em mỗi người nên viết văn từ mộ chí cho chính mình vào sinh nhật mười tám tuổi. Mỗi năm nên xem lại một lần và sửa chữa nếu cần. Đó là định hướng rất hay giúp đời sống khỏi lầm lạc mê cung.
- Thôi, cứ giỡn với cái chết hoài. Bây giờ bên Mỹ buổi tối. Em điện thoại cho chị Dung, anh Chung ngay đi. Nửa tháng trời, bữa nào họ cũng hỏi có tin gì mới của em không.
Sau khi cha và dì mất, Phương âm thầm lảng tránh các anh chị. Họ rất buồn nhưng không biết cách nào gần gũi đứa em út bướng bỉnh. Càng sợ làm tổn thương Phương, họ càng xa anh hơn. Phương vào đại học, ra Hải Phòng rồi đi biển biền biệt. Đôi lúc anh quên khuấy mình cũng có ai đó là thân thích trên đời.
Sự tồn tại đầu tiên của con người nằm trong tình ruột thịt. Bao năm xa nhà, đáng tiếc Phương chỉ viết vài lá thư chung cho tất cả anh chị, lời lẽ ngắn ngủi. Đến khi ngã dúi dụi, Phương mới hay nơi mình phải tìm về chính là tấm lòng luôn rộng mở của họ. Mọi người từng tôn trọng suy nghĩ và hành động của Phương, không câu thúc áp đặt. Họ gắng hiểu sự ái ngại, cách biệt của Phương xuất phát từ chí tự lập mạnh mẽ. Để không bị phụ thuộc Phương cố khai thác triệt để yếu tố tiền định trong quan hệ cùng cha khác mẹ.
Anh Dũng khá giả lên thấy rõ. Ngày Phương mới ra trường anh đã chuyển qua nhà mới cao ráo, sạch sẽ nhưng rất ồn vì giữa thị tứ. Chị Dung nhờ anh Dũng mua tặng Phương chiếc xe Dream thời thượng, Phương từ chối. Anh Chung gởi thêm mười triệu đồng giúp vốn buôn bán, Phương không nhận. Anh đặt nhiều hy vọng vào chuyến viễn du đầu tiên.
Không ngờ Phương tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Viện cớ tìm chỗ yên tĩnh để học hành thêm và kiếm việc trên bờ, Phương đòi được ở riêng. Anh Dũng nghe Phương vẽ vời gần ba mươi triệu tiền bảo hiểm nên tạm chấp nhận. Phương mượn chị Linh chiếc xe gắn máy cũ nhất trong nhà làm phương tiện đi lại tạm thời.
Tên đắm tàu thoát chết về đến công ty, những kẻ cạo giấy rảnh rỗi ồ lên năm bảy phút rồi vội trở lại trạng thái trầm tư cũ. Họ bận rộn vô tả trong thời gian biểu trống rỗng. Họ chưa bao giờ nghĩ mình ăn bám các thuyền viên. Tuồng như đầu họ lúc nào cũng bận tâm xây dựng bao dự án cực kỳ vĩ đại nhưng hoàn toàn không tưởng. Giám đốc vời Phương lên hỏi chuyện.
- Xin chú cho phòng ban chức năng tiếp xúc bảo hiểm, tiến hành thủ tục đền bù vật chất cho cháu. Hơn năm làm việc, cháu dành dụm được vài ngàn Mỹ kim, biển cướp đi hết rồi.
- Thật không phải nhưng cháu nên biết, hết hợp đồng tàu phải hành trình về Việt Nam sửa chữa định kỳ. Ba ngày sau khi rời Fukuoka mọi giấy tờ bảo hiểm đều hết hạn. Nếu tìm được hàng thì hay biết mấy, công ty đã mua tiếp bảo hiểm ngắn hạn. Bây giờ chú sẽ giúp cháu ở chừng mực cho phép. Cháu nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một thời gian và bất cứ lúc nào cháu thích chú sẽ bố trí cháu xuống tàu khác.
- Cháu chẳng ngờ mình lại là gánh nặng của công ty. Như người ta thường bảo sao chả chết quách cho rảnh mắt phải không chú?
- Cháu phải thông cảm cho các chú. Năm nào công ty cũng lỗ. Lãi mẹ đẻ lãi con, chật vật lắm. Vụ đắm tàu xảy ra, tình cảnh càng khốn đốn hơn - Phương nhớ tới khuôn mặt kiêu kỳ của viên phó giám đốc kỹ thuật xuống làm việc, hôm tàu nhổ neo rời Sài Gòn đi Papua New Guinea. Gã hắng giọng giảng giải "Năm qua công ty tăng tỉ lệ khấu hao, báo lỗ vì muốn tránh thuế. Dôi ra bao nhiêu sẽ đắp thêm tiền vay ngân hàng mua tàu mới. Chẳng ai dại nộp hết tiền vào ngân sách nhà nước. Người ta đồn bậy công ty đang lỗ chỏng vó là vậy".
Nản lòng, Phương đành cố vác mặt vào phòng kế toán tạm ứng chút đỉnh. Số tiền ấy trừ đi khoản vay ông lão ăn mày, đưa ông đi chơi đây đó trong nội ô, còn lại mua được mấy chiếc kẹo kéo khuyến mãi nhạc sến. "Rẻ chán!" - Phương gượng cười - "Chẳng ai nên cò kè bớt một thêm hai khi trả giá cho chính mạng sống của mình".
- Phương ơi, lại đây anh bảo - Mới bước ra khỏi cổng công ty Phương đã thấy Phan Sinh lấm lét đứng đợi anh. Y đánh hơi rất tài - Đi ăn trưa cùng anh nhé, mình sẽ trao đổi chút chuyện.
- Chuyện gì? Phương tởm lợm khi nói chuyện với Phan Sinh.
- Vào đây, vào đây - Y kéo tuột Phương tới quán giải khát cạnh bên.
- Anh nói ngắn gọn thôi, tôi bận lắm.
- Uống ly cà phê đã nào - Y thì thào với Phương rồi quay ra cao giọng gọi chủ quán - Cho hai cà phê sữa đá!
- Chị cho xin trà nóng. Xin lỗi, tôi không uống cà phê.
Không rõ Phan Sinh ra chiều hoảng hốt vì dư âm chết hụt hay vì Phương còn sống. Hai bàn tay hộ pháp lái lợn đập chiếc khăn lạnh bốp một phát rồi lau lấy lau để khuôn mặt nhầy bóng, nọng thịt.
- Phương có thuật cho các xếp nghe điều gì về anh không?
- Tôi bảo tôi không biết. Chắc anh muốn tôi đọc thuộc lòng các bài báo?
- Báo nào? À… ừ… bọn nói phét ăn tiền vẽ ra ác quá. Anh còn ngượng huống gì chú - Phan Sinh cười tít mắt.
- Tôi về đây.
- Gượm tí. Phương biết không, công ty vừa được phân hai suất học thạc sĩ quản lý tại Nhật. Chú mày giỏi tiếng Anh lại đầy đủ bằng cấp, anh sẽ tác động giúp.
- Màu mỡ quá tôi không dại mong.
- Bậy nào, bọn con ông cháu cha ngu đần quen ăn chơi còn lâu Nhật nó mới chấp nhận. Chú là sĩ quan trẻ nhất công ty đấy. Thế hệ sau chú thì cạch nghề đi biển, hết thời rồi. Năm nay có đứa chính qui nào xin về công ty đâu, toàn lũ dốt Chuyên tu, ngu Tại chức.
- Thế cần quái gì tác động. Cám ơn thiện chí rởm của anh. Thôi chào. Anh cứ ăn no ngủ kỹ. Thằng này ghét anh thật nhưng nó chẳng thừa hơi nhúng tay vào chuyện riêng của thiên hạ.
Đúng như Phan Sinh đề cặp, sau đó người Nhật mời Phương lên phỏng vấn mấy bận.
- Anh tin rằng mình sẽ học tập tốt để về cống hiến cho xã hội chứ?
- Từ lâu tôi đã ngưỡng mộ ý chí xây dựng và tinh thần cộng đồng của nhân dân đất nước Phù Tang. Tôi tự biết mình phải làm gì nếu được chọn đi học.
- Xin hãy nêu một hình ảnh sinh động.
- Cách đây vài tháng, tôi gặp đoàn du khách Nhật đang tham quan hoàng cung Bangkok. Họ đều quá tuổi hồi hưu nhưng khỏe khoắn, nhanh nhẹn và tràn đầy hạnh phúc. Họ đáng được hưởng những điều tốt đẹp nhất, sau khi bỏ lại sau lưng mấy mươi năm lao công tái thiết quê hương đổ nát vì chiến tranh, bom đạn.
- Họ sẽ là tấm gương cho anh?
- Xa vời quá. Nhưng tôi cứ ao ước.
Cuối cùng lão Phạm trưởng phòng nhân sự cũng ngửa bài:
- Chuyên gia nước bạn đưa anh vào danh sách để tổ chức cân nhắc. Chúng tôi tạo mọi điều kiện cho anh ra đi. Rẻ thôi, năm vé trà nước cho nhóm phụ trách ngoài cục.
Phương nở nụ cười đắng chát. Cả tuần nay anh chỉ dám điểm tâm bằng cà phê đá vỉa hè.
- Ông xuống thủy cung đòi lại hộ tôi nhé. Tôi gửi không kỳ hạn mấy chục vé cơ. Đợi vài hôm rảnh rỗi tôi đưa ông đơn xin nghỉ hẳn. Tôi vừa tìm được việc trên bờ.
Sự thật là bè bạn đã giới thiệu Phương làm tiếp thị cho văn phòng đại diện một hãng giao nhận của Singapore. Phương cũng đắn đo nhiều trước khi quyết định chuyển nghề. Có thể anh sẽ thành đạt trong ngạch công chức với bằng thạc sĩ đào tạo tại nước ngoài. Cứ ngẫm viễn cảnh sống giữa những người như tay cán bộ ngoài Hải Phòng, Phạm hoặc Phan Sinh, Phương luôn nhụt chí. Đang suy đi tính lại thì lão Phạm tặng không cho anh lý do để chẳng bao giờ phải nuối tiếc.
Trút xong gánh nặng công danh luồn cúi, trên đường về nhà Phương tình cờ gặp người quen cũ. Đang dừng xe chờ đèn xanh giao lộ Phương nhận ra giáo sư Quang, chuyên gia ngôn ngữ Slaves. Tới Đại học Nhân văn, Quang mời Phương vào uống chén trà nhạt trong phòng bảo vệ. Xưa Quang học giỏi nổi tiếng. Lớp 11 hắn đoạt giải ba cuộc thi vô địch tiếng Nga toàn quốc. Năm năm sau, chàng du học sinh ưu tú về nước nhận bục giảng. Thế thời xoay vần, tiếng Nga mất tích, Quang "mất dạy". Người ta tái cơ cấu hắn làm nhân viên văn phòng. Tranh đấu mãi Quang được kiêm thêm chức đội phó bảo vệ và trông xe ban đêm theo tiêu chí xóa đói giảm nghèo.
- Bạn an phận sớm quá.
- Dù gì cũng sang hơn vô số Trạng Quỳnh buổi đầu mở cửa. Mình không thức thời và chậm chạp với làn sóng kinh tế. Dành tương lai cho hai đứa con còi cọc vậy.
Phương cười thông cảm. Quang tiếp:
- Thật vậy, con nít bây giờ thừa hiểu chuyện Trạng Quỳnh tiếp xứ Tàu ngày nào mang tính trào phúng. Hằng hà sa số Trạng thập kỷ tám mươi thì cười ra nước mắt và không thể không tin. Họ đồn rằng một thương nhân Mỹ sang Việt Nam tìm cơ hội đầu tư. Trên nệm êm chiếc xích lô cà tàng, người Mỹ giật mình vì lão phu đạp xe có kiến thức và sự hiểu biết quá sâu rộng trong lãnh vực kinh tế. Hơn nữa song ngữ Anh - Pháp ông ta dùng chuẩn hơn cả dân chính xứ. Vỡ lẽ phu xe là cựu giáo sư một trường đại học tăm tiếng bên trời Tây, khách hốt hoảng nhảy xuống, nằng nặc đòi thay ông lão lao lực. Vị này muốn thử sức gò lưng đổi lấy chút ít kinh nghiệm nhập môn nơi thị trường Việt Nam ngập tràn triển vọng… Chưa hết bàng hoàng, tổng giám đốc của công ty liên doanh tương lai ra tận Hà Nội nghiên cứu thêm. Bên cạnh công trường xây dựng khách sạn Tháp Hà Nội, miên man hồi tưởng quá khứ chiến tranh đáng buồn và khoảng thời gian tạm trú tại Hỏa Lò, mắt ông ta lại trợn ngược lần nữa. Người sĩ quan Điện Biên Phủ tái ngũ, kẻ dũng cảm, mưu trí bắt được ông giữa cánh rừng rậm nhiệt đới năm xưa đang hì hục sửa xe đạp bên vỉa hè cho một đám loai choai.
Phương nối lời:
- Đâu năm lớp 10, tụi mình tính đi chơi bằng xích lô. Nhỏ Mai lớp phó học tập eo éo gọi xe: "Anh hai cận thị nên không thấy tụi em ngoắc hả. Đổi kiếng đi, coi chừng nồi cơm mấy cháu ở nhà đó nhen. Đây tới rạp Bến Thành bao nhiêu?". Chủ xe bỏ kiếng, gỡ nón lau mồ hôi. Bỗng nghe tiếng hét: " Tụi bây c h ạ y … T h ầ y …", mình không rõ mô tê, vắt giò luôn. Đến khúc ngoặt ngã tư cả đám dừng lại mới vỡ lẽ người mang kiếng cận chính là giáo viên dạy môn Văn của lớp. Tối, chúng mình tới nhà thầy xin lỗi. Thầy cười xòa: "Có gì đâu, may mà các em bỏ chạy, nếu không bốn năm đứa thượng lên, chiếc xe gẫy mất!".
Xã hội quả lắm nghề. Ông và thằng lẫn lộn. Phương đang làm lại từ đầu. Con tàu đắm kéo theo mộng mơ sót lại của cậu sinh viên Phương thuở nào. Vận hội chẳng chia đều cho mọi người song còn niềm tin vào bản thân đồng nghĩa với còn tất cả, Phương tự vấn an.
Phần lớn bạn đồng học của Phương ít ai theo chuyên ngành từng được đào tạo. Nhờ gia đình, người thân sâu sát, chúng thừa biết danh hiệu quyến rũ "Thủy thủ viễn dương" đã lạc hậu. Chân giáo viên tại Phân hiệu Đại học Hàng hải phía Nam mới thành lập là nước đường cùng của nhiều người. Vừa đi tàu vừa dạy học cũng khả dĩ. Một lần ghé trường, Phương thấy Vũ "béo" đang chững chạc trên bục giảng. Nhớ chuyện cũ Phương buột mồm nói to ngoài cửa lớp:
- Thầy Vũ ơi, thầy có nhớ ngày xưa mỗi học kỳ thầy thi lại mấy môn không?
- Tao van mày - Vũ chạy ra, miệng méo xệch - Đừng chọc vào nồi cơm của tao chứ.
- Ơ! Thằng này lạ, tao hỏi thật đấy.
- Đùa mãi. Nói cho cùng tao dạy chúng cũng xứng. Còn đâu cái thời hai mươi mấy điểm ba môn thi mới ngấp nghé cổng trường. Bây giờ cũng ba môn, chẳng lẽ đăng báo điểm xét chọn trung bình là hai, ba. Trường vẽ thêm hệ số lung tung cho đỡ hổ mặt. Soi đèn pha tìm thằng học ngang tao ngày xưa cũng khó mày ạ.
Lính trơn như Hữu rốt cuộc cũng an bài. Hữu người cao nguyên, khá thân với Phương. Họ ngồi cạnh nhau ba năm cuối đại học. Tấm bằng kỹ sư của Hữu chắc chỉ lộng kiếng treo chơi nếu ba Hữu không nhận ra người anh em kết nghĩa cùng đi tập kết ngày xưa trong một bản tin thời sự trên truyền hình. Ông nọ làm to tự bao giờ nào ba Hữu có hay, mà lại trong ngành Hàng hải mới cừ. Cụ già dắt con lặn lội tàu xe ngược ra biển. Món quà quê nối tình là dăm ký cà phê và vài lạng cao hổ cốt cây nhà lá vườn. Quan lớn không đến nỗi chóng quên. Nể tình bạn xưa ngài ban cho Hữu lời ngỏ. Lập tức Hữu được vào công ty Vận tải biển Trung phần.
Phương tưởng Hữu sẽ chấp nhận làm con rể quan to để tiến thân. Vị anh em kết nghĩa với ba Hữu vốn có cô con gái rượu thọt chân. Ông này vơ Hữu làm con nuôi nhằm tạo điều kiện cho rơm bén lửa. Hữu khúm núm và thỏa hiệp ở chừng mực nhất định trước cửa công quyền. Hữu dặn chị giúp việc mỗi khi quan trên trực tiếp của Hữu đến cụng ly với bố nuôi nên báo cho Hữu biết. Trăm lần như một Hữu xông xáo bưng rượu, dọn đồ ăn phụ giúp mọi người hầu các quan. Các quan khen Hữu ngoan và rất nhớ mặt. Hữu lên vèo vèo. Đi biển chán hắn được điều vào Sài Gòn làm phó văn phòng đại diện công ty. Thoát vòng kiềm tỏa Hữu mới dám lấy vợ.
Con ông cháu cha thì khỏi kể. Quan phụ mẫu dàn xếp sẵn tương lai ngồi mát ăn bát vàng và cả cơm vàng cho nòi giống của mình. Có hai hướng đi tiêu biểu. Một là về cơ quan nhà nước béo bở nào đó. Hai là đứng vào hàng ngũ lãnh đạo các công ty tư nhân, sàng lọc tất cả các hợp đồng qua tay cha chú. Bọn này cực giàu nhưng luôn ăn chơi hoang đàng vượt quá khả năng kiếm tiền của bản thân.
Đơn cử như Thắng, con trai duy nhất của bà vợ hai gã Tổng giám đốc Công ty Nhiên liệu. Trước khi về hưu bố già kịp lo cho quí tử công việc quản lý, phân phối xăng dầu đến hàng trăm trạm bán lẻ mạn đông bắc Sài Gòn. Tiền chấm mút khách hàng cộng thêm lợi nhuận thu được từ một cây xăng lớn, do hắn làm chủ trên xa lộ Hà Nội chẳng thấm vào đâu. Thắng có tài năn nỉ vay mượn bạn bè và giật nóng anh chị giang hồ. Của thiên trả địa. Hắn nướng hết tiền trên bàn billiard hoặc các sòng binh xập xám tính chi, mỗi cây bài thắng thua mấy triệu đồng. Nợ nần của Thắng tổng cộng cỡ trăm triệu thì tay cho vay nặng lãi nào đó sẽ điện thoại cho mẹ Thắng, bạn bè hùa đến gọi là "sập hầm". Bà mẹ tất nhiên sẽ lần lượt sụt sùi tiếp kiến những con bạch tuộc quanh Thắng và cộng sổ xem phải mở hầu bao chi trả cỡ nào. Bà luôn dặn đi dặn lại đừng ai cho Thắng vay tiền. Tránh sao được, cho hắn vay mới có điều kiện ăn tiền của hắn trong sòng bạc. Con vay mẹ trả tạo nên vòng kim cô quả báo đều đặn dăm ba tháng một lần chụp lên gia tài kếch xù nhưng mờ ám của gia đình Thắng.
Dâu bể như Lương Tài rất ngoại lệ. Bố hắn vốn xuất thân từ dân đi biển. Tuổi trung niên lão nắm gần trọn ngành Hàng hải một tỉnh lớn phía nam. Không cuộc hội họp nào của trường Hàng hải vắng mặt bố Tài. Lão luôn đạo mạo, huênh hoang rao giảng chân lý sống trong rất nhiều bài phát biểu vừa dài vừa dai vừa dở. Thời gian vênh vang của Lương Tài kéo dài được ba năm. Người ta phát hiện bố hắn tham ô khi mua bán tàu biển, bỏ túi hàng triệu Mỹ kim. Lão đạo đức giả bị xét nhà, tạm giam nhưng chạy vạy trối chết nhằm tại ngoại hầu tra. Tòa sơ thẩm tuyên lão hai năm tù song án phúc thẩm lấy tay chân của lão làm chốt thí với nhiều cuốn lịch phải gỡ. Mặt Lương Tài như đưa đám. Cả trường xầm xì tội nghiệp hắn, tất nhiên trừ Phương. Anh không thỏa thuê với cuộc tổ trác của gia đình Lương Tài nhưng sự thông cảm dành cho hắn rất bẩn thỉu. Lương Tài đứa đi đường tắt vào khoa Điều khiển Tàu biển bằng các khoa có điểm tuyển rất thấp như Điện tàu thủy, Vỏ tàu. Chính tình cảm ấm ớ kia đã giúp hắn thi đậu tốt nghiệp trong trạng thái tâm thần bấn loạn. Bố Lương Tài chìm vào quên lãng vì càng ngày các vụ án kinh tế càng dễ sợ hơn, con số thiệt hại lên đến hàng chục triệu Mỹ kim.
Bọn Thắng, Lương Tài không bao giờ chơi với những người như Phương hoặc Hữu. Chúng gọi Phương là thằng khố rách áo ôm. Chúng rất khoái dăm tên a dua nịnh hót kiểu Lê. Ngày đầu giữa giảng đường đại học cả lớp trầm trồ vì tướng tá Lê quá tốt. Cao ráo, bệ vệ và đẹp trai. Tưởng cậu ta sẽ sáng sủa. Năm năm sinh viên hắn đầu tư khá nhiều thời gian trồng cây si con bên ông cháu cha dù đối tượng không vừa mắt cỡ nào cũng kệ. Cuối cùng hắn cũng thủ được một em đen đúa và mập ú nhưng là út nữ của ông phó giám đốc cảng giàu xụ. Hắn đi tàu ra nước ngoài khá sớm, những chuyến thực tập như vậy kẻ nào chẳng hoa mắt.
Ra trường Lê cưới cô bé đó ngay. Lễ kết hôn của hắn được gia đình vợ biến thành hội chợ triển lãm sự giàu sang bằng các con số. Chủ hôn nhà gái bụng tròn lẳn, mắt híp oang oang xướng tiền mừng tân lang tân nương. Cha vợ Lê cho năm mươi triệu. Chị vợ Lê, một bà góa từ năm ba mươi tuổi, nhờ trăng hoa với xếp lớn, hiện đang mang danh Nhà doanh nghiệp trẻ "đầy sáng tạo", tặng tấm giấy xác nhận cổ phần cho em gái giá trị gần nửa tỉ. Hàng lô họ mạc ăn theo không ai đi dưới mười triệu. Danh sách dài lắm. Lê cười tít.
Nhạc phụ xin việc cho Lê tại một công ty giao nhận của nhà nước. Hắn phất lên thấy rõ, tậu cả xe hơi riêng. Để khoe khoang, Lê chẳng tiếc tiền mời hết nhóm bạn cũ này đến nhóm sơ giao kia đi uống bia ôm. Có hôm phỡn chí hắn kéo theo cả mấy thầy giáo trẻ ở trường Hàng hải từng chửi hắn là bất tài, ngu dốt và sẽ chẳng làm nên trò trống gì. Lê luôn cho phép lái xe lên phòng thù tạc với nhiệm vụ bất thành văn: chuyên cần cụng ly tâng bốc hắn. Lần kia tay tài xế "vô lễ" chỉ mải nâng cốc với "đào" của Lê. Sau khi bị Lê nhắc nhở, do đã ngà ngà chú chàng lại lỡ để mép ly mình cao hơn mép ly của chủ cả tấc. Điên tiết, Lê tặng tay lái xe hai bợp tai và vài cước vào đít. Với kiểu coi trời bằng vung ấy, mọi người không ai bảo ai dần dần tránh xa Lê.
Đùng cái, báo chí đăng tên Lê ầm ầm. Hắn xuất khẩu gỗ pơmu lậu. Ông bố vợ sắp về hưu chẳng giúp được gì, chị vợ lảng vì đây là án điểm rất khó tác động. Lê đi mua lịch khi đứa con đầu lòng chưa biết cất tiếng gọi hắn là ba.
Phần đáng kể bạn bè Phương đi làm thuê cho người nước ngoài. Thật tình mà nói cũng phải có tí chút trí khôn, siêng năng, nhanh nhẹn mới bắt kịp nhịp độ công việc và giờ giấc của Tây. Cái quan trọng nữa là tiếng Anh. Khác với các con đường lập nghiệp ở trên, nhóm này người ta tự quyết định được tương lai, thu nhập và sự tiến thân bằng chính nội lực của mình. Lập tức họ tạo thành loại trí thức chưa đủ chín nhưng rất được xã hội tán dương. Lương tính bằng ngoại tệ, ăn mặc sạch sẽ, đeo dây buộc cổ xanh đỏ tím vàng, hằng ngày được chui ra chui vào những cao ốc tráng lệ là giấc mơ của đa số thanh niên trên đường mưu tìm công danh.
Họ thích nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ ngoại lai hơn tiếng mẹ đẻ. Họ sẽ phán ngay bạn là "Hai lúa" nếu ấm a ấm ớ chẳng hiểu họ chen giữa các từ tiếng Việt thông dụng cái quái quỉ gì đó rất khó hiểu, lơ lớ và ngai ngái. Đi ngoài đường hoặc ngồi quán xá, nếu nghe bên cạnh mẩu đối thoại tiếng Anh hiếm giọng mũi, chẳng cần quay lại cũng dễ đoán các "hoàng tử, quận chúa" làm thuê cho nước ngoài đang "nổ". Tiếng Anh siêu rồi thì chen vài ba âm Pháp mới thời thượng. Chẳng hạn vĩ ngữ "tion" sẽ được nói thành "xi-ông" thì oai lắm! Chuyện cổ tích của họ luôn xuất hiện ông tây, bà đầm có tên chung là "Xếp". Cái gì của Xếp cũng thơm tho, kỳ bí và đáng học tập, từ cách gãi ngứa trở đi. Nếu bạn lạc vào một nhà hàng bán thức ăn trưa văn phòng mà luống cuống không biết dùng dao, bạn sẽ cầm chắc tiếng "quê mùa". Tuy nhiên nếu cạnh đấy có trự Tây dương lóng ngóng tập sử dụng đũa tre, lập tức ai cũng xuýt xoa với hình ảnh "đáng yêu". Chắc họ đem theo Xếp vào giấc mơ chập chờn bộn bề giấy má dang dở của công việc ngày hôm trước nên ai cũng sợ Xếp ra mặt.
Sự mất đoàn kết, mâu thuẫn cục bộ và chia rẽ giữa những người làm công Việt Nam, thoạt đầu khiến giới chủ Tây dương rất ngạc nhiên. Bất cứ khi nào có điều kiện họ sẽ nghe người này hót với họ tật xấu của người kia không ngượng mồm. Ban đầu giới chủ rất khó chịu. Tuy nhiên người Việt Nam nào cũng vậy nên dần dần họ biết khai thác thói quen đó như cách quản lý nhân sự. Kẻ nào nhanh nhảu, ngoại ngữ khá và lập nhiều công lao cho xếp sẽ nhanh chóng tự biến mình thành bà "Cai", ông "Kẹ" giữa đồng nghiệp. Tiếng nói của y với xếp càng nặng thì sự tác oai tác quái càng trắng trợn, trâng tráo. Áp lực công việc cộng thêm sự chèn ép, lấn lướt của "Kẹ" lắm khi biến chỗ làm thơm tho cho Tây thành địa ngục. Trong các môi trường lao động lớn, không tránh khỏi sự xuất hiện những người khác giọng nói chia bè kết phái, bằng mặt chẳng bằng lòng, luôn tìm cách trù úm nhau. Nhóm giọng Nam ghét giọng Bắc, Bắc miệt thị Trung, Trung coi thường Nam.v.v. Tạo nên nhiều trò hề và lắm màn kịch cười ra nước mắt.
Đợt khủng hoảng kinh tế, các liên doanh cất nhắc dăm nhân viên bản xứ vào chức vụ quan trọng. Họ tự hào lắm. Họ nghĩ mình cũng giỏi giang, hoàn toàn xứng đáng được trọng dụng. Họ sẵn sàng chấp nhận công việc tương đương các ông bà Tây với thù lao thấp hơn nhằm san xẻ gánh nặng thương mại trì trệ cho chủ. Rõ ràng trí tuệ người Việt chẳng kém người Nhật, người Hoa, người Hàn nhưng để chiếm vai trò cốt cán giữa thương trường họ cần phải loại bỏ cái tôi tủn mủn cùng bản chất chia rẽ cố hữu. Dĩ nhiên lớp người mới này học được rất nhiều cái hay của Tây. Hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng họ sẽ mở ra cách cửa hội nhập thênh thang cho tương lai, tuy nhiên nguy cơ mất gốc rất lớn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và Tây dương hóa rất khác nhau nhưng dễ nhầm lẫn. Xưa kia đất Lạc Việt bị phương Bắc đô hộ trong gông cùm tám trăm năm, đến nỗi 80% ngôn ngữ Việt Nam là từ, là ngữ Hán – Việt với giọng chuẩn thời Đường. Hôm nay lớp lớp tuổi trẻ đang tự đồng hóa mình một cách tự giác đáng ngạc nhiên. Tốc độ vi tính chắc chỉ tốn 100 năm để sinh ra thứ tiếng nói tân Việt, không dưới 50% là chữ Anh – Việt.

Tái hòa nhịp với Sài Gòn, Phương khó tránh khỏi một dạo quay cuồng trong thú vui phổ biến của kẻ có ít tiền trong túi. Anh cùng mấy người bạn thân họp thành nhóm nhỏ hợp ý. Sau giờ làm việc họ luôn cố tìm lý do bù khú. Hôm nay đứa này mua xe mới, mai đứa kia lên lương, mốt đứa nọ đổi chức danh, tất cả đều qui ra bia ở quán nhậu, quầy rượu hoặc nhà hàng đèn mờ.
Qui trình ăn chơi tuần ba bốn bận của nhóm Phương rất rạch ròi. Tan sở hẹn nhau tại ổ tắm hơi xoa bóp để thư giãn, trút sạch mồ hôi ngày lao động. Đủ mặt anh tài thì bắt đầu đi ăn lót dạ, địa điểm là quán bình dân, trọng chất lượng hơn hình thức. Mỗi cậu làm suất tinh bột và hai ba chai bia mồi cho ấm lòng. Xong giai đoạn chuẩn bị tất cả khật khưỡng tiến quân vào bia ôm. Dễ dàng nhận ra điểm phải đến qua những dây đèn trang trí từ sân thượng đổ xuống. Phương châm tác chiến là không gọi thức ăn, trả lại đồ nhậu khô, hạn chế tối đa bia, chọn "đặc sản" thật kỹ. Nếu đủ tình thân với "Má mì" hoặc "Ba mì" thì lên thẳng phòng chờ lượt của đào mà duyệt. Yên vị xong, tự do cá nhân được tôn trọng. Nơi này không có sự hổ thẹn hoặc kín đáo. Tuốt tuồn tuột mọi chuyện lộ liễu phơi bày trong ánh sáng mờ ảo.
Rất nhiều kiểu mẫu. Kẻ chuộng lao động chân tay hoàn toàn nín lặng. Kẻ bốc đồng hay lảm nhảm tự tâng bốc mình với người bạn chân quê. Kẻ ướt át sướng nghe trường ca nàng Kiều ai oán. Mục tiêu hạn chế bia thường bị quên đi hoặc cố tình quên vì sĩ diện hão khi đã chớm say. Các em mở bia như máy, anh nào uống chậm quá thì thùng đá hoặc sàn nhà hưởng lợi. Có quán ác nghiệt còn đặt chỉ tiêu nửa thùng bia một khách. Không uống hết, đổ hết hoặc khui hết đào sẽ bị phạt tiền. Khái niệm thi hát Karaoke nhận giải "bàn tay vàng" nghe trái khoáy, nhưng rõ ràng hằng ngày vẫn diễn ra. Mấy chục ngàn thôn nữ làm việc trong các nhà hàng loại này chỉ hát mỗi bài vọng cổ bi thương: "Quê nghèo. Cha mẹ lụn bại, nợ nần, em út đông. Chẳng lẽ chịu đói, đành lang bạt kỳ hồ làm hoa cho thiên hạ chòng ghẹo". Thiên hạ đâu riêng Phương và lũ bạn. Không thiếu loại đàn ông nào, từ thằng bé choai choai còn vòi tiền cha mẹ đến các cụ đường bệ tóc muối tiêu, chắc chắn là quan chức đáng kính của xã hội, là người cha luôn tỏ ra mẫu mực trong gia đình.
Mười một giờ đêm quán bắt đầu đuổi khách. Anh nào thích tách nhóm thì lui cui dẫn xe phục kích dưới chân các ngọn đèn đường quanh đấy, chờ người đẹp móc họng tháo bia, thay hình đổi dạng. Điểm dừng phổ thông tiếp theo là những khách sạn con con chưa được sạch sẽ lắm. Trước khi nghỉ ngơi người nam phải viết cam đoan cô gái đi với họ, vì lý do nào đó thiếu giấy tờ tùy thân, nhất định không phải dân làng chơi bắt dọc đường!
Số còn lại dong xe hướng về quận Nhất. Các quầy rượu ít nhiệt thành với họ. Vô tư! Vắt vẻo trên ghế xoay cao nghệu họ bốc đồng đủ thứ trên trời dưới đất, bỏ qua nhiều lần bĩu môi của các nàng hở hang chờ khách Tây bằng cách hóng chuyện lén. Loại người này ít pha thành phần quê mùa, chủ yếu là cư dân các xóm lao động nghèo của thành phố. Họ ăn mặc thừa bóng bẩy nhưng hơi ít vải, hàng mẫu ngồn ngộn. Mặt họ lúc nào cũng vểnh lên như muốn tuyên bố: "Ta đây, gái ăn sương ngoại hạng Sài Gòn, không duyệt đám đầu đen!".
Nhóm của Phương ít khi ngồi lì ở một quầy rượu, hình như mọi người đều thích khoảng thời gian rong ruổi giữa phố xá vắng vẻ đặng tìm bãi đáp mới. Cũng có khi cao hứng cả bọn vào vũ trường ngủ gật trong tiếng nhạc kim khí chói tai, mê mê tỉnh tỉnh mùi nước hoa đắt tiền.
Ba giờ sáng là điểm dừng, ai thừa sức khỏe và dễ tính thì bốc đại một em kiêu kỳ ngồi ngáp dài bên quầy rượu đi đâu đó. Hai ba mống sót lại thui thủi kiếm tạm phòng trọ nghỉ ngơi. Gia đình, vợ con đâu ngờ họ làm ca đêm chăm chỉ đến vậy.
Con người ai cũng có thể hư, điểm khác nhau là có hoặc không có cơ hội. Khi nồng độ cồn trong máu đã bão hòa Phương lại tuyệt đối tỉnh táo. Cảm giác trống rỗng ghê người. Ban đầu anh thường gắng lê gót về nhà ngủ, dứt khoát không theo chúng bạn vào phòng trọ. Qua không giờ, dù giữa tháng hè oi ả hay nhằm mùa mưa thủng mái tôn, đường phố Sài Gòn đều rất lạnh và hoang vu. Tiếng gió rít bên tai mạnh, nhẹ tùy mức độ tay ga. Phương hay tự vấn sẽ đi về đâu trên con đường tầm thường và quá đỗi bệ rạc này. Anh hoàn toàn bất định.
Phương thường mất ngủ. Mất ngủ một mình hay mất ngủ bên tiếng ngáy đều tai của bè bạn hoặc một ả giang hồ đều đáng sợ như nhau. Mỗi khi trở lưng, đầu óc Phương luôn mông lung không chủ đích. Phương hay loáng thoáng nghĩ về những nàng Kiều tân thời vừa nâng cốc với anh. Trên dưới hai mươi, thậm chí thỉnh thoảng cũng có em bé mới mười lăm mười sáu. Họ trượt vào đời với lý do sinh kế. Họ khiến Phương cảm thấy khinh bỉ bản thân. Anh hay suy tư về đạo đức và các giá trị này nọ, trong khi không có những người như Phương, nghĩa là không cầu chắc chắn sẽ chẳng cần cung.
Người đời khéo đặt tên trò trác táng là cuộc vui. Chính vì chữ vui lãng nhách, hết lần này đến lần khác Phương dẫm lên sự tởm lợm, hòa vào bè bạn. Hình như anh cố gắng trong tuyệt vọng, mong xem mặt mũi niềm vui méo tròn ra sao rồi trấn an bằng cách tự nguyền rủa mình.
Dần dà Phương nhận thấy, hoặc cả dối lòng, tự vẽ vời cách soi nghiệm chiếc bóng con người quay cuồng trong chốn thê lương. Từ lũ mua vui đến bọn mưu sinh giữa không gian tệ hại có một điểm rất chung. Những khuôn mặt vô hồn nói cười không ngớt. Lặng lẽ và hời hợt, từng sợi thời gian lăn qua các đôi mắt trống rỗng thiếu sống động. Cùng kiếp trần ai, người đổ mồ hôi suốt ngày cho manh áo miếng cơm, kẻ động cỡn xả năng lượng thừa ra chiều khoái cảm. Những tuổi đời chợt lóe chợt tắt, già đi hoặc trẻ lại dưới ánh đèn màu văn minh đô thị chuyển động không ngừng nghỉ. Họ là ai và Phương là ai trong họ. Thứ rác rưởi này cơn bão nào sẽ dìm đắm?
8 - Mùi...
Phương chưa từng có khái niệm về công việc văn phòng. Vốn tiếng Anh tàm tạm là phương tiện duy nhất để anh bước vào nghề cạo giấy và gõ bàn phím máy tính.
Số lính đánh thuê cho nước ngoài trên chính quê hương mình đã kịp phát tướng với bụng bia đặc trưng. Họ đãi Phương một chầu túy lúy mừng thoát chết.
- Cứ ngỡ tao nhanh chân nhất, ai ngờ chúng mày khôn như rận.
- Thông cảm đi bạn. Người nhiều, việc ít lại cùng bằng cấp. Thằng nào cũng dấm dúi không tiện nói.
- A ha bây giờ mới biết bạn tốt nhỉ!
- Khai thật ngay tụi tao còn rỉ tai cho. Đi tàu mỗi tháng mày để dành được bao nhiêu?
- Hết sức khoảng hơn hai trăm Mỹ kim. Chưa kể hơn năm định kỳ về bờ xếp hàng điểm danh hàng tuần, chờ lượt sau. Cũng phải cả năm nữa.
- Thành ra công cốc. Thôi vứt hết đi tao chỉ cho vài chỗ đang tuyển nhân viên.
Nghề dạy nghề, Phương hòa mình vào cuộc sống tương đối nhanh. Anh nhảy xoành xoạch từ văn phòng này qua văn phòng nọ vì phải dùng thời gian thử việc người ta bố trí để… học việc, từ cách sử dụng máy vi tính trở đi.
Qua vài câu phỏng vấn sơ sài và những lời khai mập mờ về kinh nghiệm, Phương được tuyển ngay. Chân tiếp thị chuộng cần cù, không cần nhiều kỹ năng. Kỹ năng làm việc là cái thiếu trầm trọng không chỉ ở Phương mà ở tất cả người lao động. Hệ thống giáo dục chưa thể đáp ứng nhu cầu thị trường. Ở đâu cũng thấy các chuyên gia nước ngoài ra sức nhồi nhét, tái đào tạo một cách bắt buộc cho nhân viên mới. Dân Việt Nam sáng dạ nên người tuyển dụng lao động thường coi tiếng Anh là điều kiện cần và đủ để thu dụng.
Với đa số công việc đã đảm nhận, Phương không mấy tha thiết và mong muốn gắn bó dài lâu. Hằng ngày báo chí ra chiều thoả mãn, chạy dài số liệu vô cảm nói lên luồng đầu tư đang tăng dần. Khoảng cách giữa vốn đăng ký và giá trị thực hiện còn rất xa. Vậy mới đẻ ra hàng chục bãi đất trống giữa lòng thành phố sầm uất. Hàng rào gỗ sơn tới sơn lui năm này sang năm khác. Sau khi giải tỏa, đối tác Việt Nam chờ mãi mà cao ốc chọc trời hiện đại cứ nằm trên bản vẽ. Cuối cùng người ta san nền, xây nhiều trung tâm ăn uống, giải trí, thương mại tạm bợ cho thuê để lấy sức chờ tiếp. Đó là bề ngoài dễ đập vào mắt bàn dân nhất, chỉ trời biết cái tổng thể, cái vĩ mô mũi dài cằm vuông ra sao.
Đời sống xã hội cải thiện ở chừng mực tiên liệu được. Không thể phủ nhận đầu tư nước ngoài giúp tạo ra công ăn việc làm, tăng thu nhập cho quốc gia. Từ năm 1986 đến 2000 tổng cộng có đến 15 tỉ Mỹ kim của tư bản đổ vào Việt Nam với mục đích sinh lợi. Con số đầu tư trung bình hàng năm trên đầu người tròm trèm 15 đồng nếu xem dân số cỡ 70 triệu người. Con đường phát triển dựa trên cơ sở khai thác giá nhân công rẻ mạt còn lắm chông gai và không hề sáng sủa như nhận định. Bộ phận nhỏ dân chúng đô thị, bằng các cách khác nhau, được hưởng lợi trực tiếp từ công cuộc đầu tư này. Văn minh công nghiệp dần thành hình là cái lợi lớn nhất không thể đo bằng tiền bạc.
Khái niệm giải phóng sức lao động và cởi trói xuất hiện. Xét kỹ chúng ta đang hưởng cái mà chúng ta đáng được hưởng. Việc thay đổi cơ chế, định hướng, tư duy giúp nội lực xã hội hồi sinh. Đó là căn nguyên chính của sự thay da đổi thịt tuy chậm chạp nhưng rõ nét trên mọi mặt.
Điểm nhấn của nền kinh tế Sài Gòn là mấy ngàn văn phòng đại diện nối nhau bước vào. Có làm việc cho họ mới hiểu rõ sự hoành hành, thao túng thị trường rất ghê gớm. Cơ sở pháp luật phôi kỳ mang quá nhiều lỗ hổng chứ không phải kẽ hở. Người nước ngoài không cần luồn lách. Họ thẳng tiến bên cạnh mọi vật cản, trừ thủ tục hành chính đầy cảm tính, phiền toái đến vô lý. Nửa số văn phòng đại diện ẩn dưới lốt tìm hiểu thị trường. Đây là chiêu bài của nhóm doanh nhân "bờm", bị thôi miên bởi cục xôi trước mắt. Họ làm trung gian, chụp giựt, tranh giành nhiều hợp đồng nóng hổi của người mua luôn bận tâm đến hoa hồng, tại nhiều cơ quan nhà nước.
Chỗ đầu tiên tương đối gắn bó với Phương là một văn phòng đại diện thương mại của Singapore. Ông chủ Trịnh móc nối tuyển dụng tay Nam, gã kỹ sư kha khá nhưng bị thất sủng vì phe cánh trong liên doanh Pecho-imex. Nam được giao trọng trách chính tại cơ quan nếu không kể trưởng đại diện Trần thường xuyên qua lại, theo dõi chặt chẽ các hoạt động. Tham vọng của Nam quả là lớn. Hắn kéo cô vợ già vào ghế thư ký, xếp em họ lo tiếp thị và tuyển thêm hai kỹ sư chuyên ngành là Thạnh và Phương. Thạnh vốn bạn sơ giao của Phương, học cùng trường nhưng khác khoa. Nam xét nét hai người lạ hết sức kỹ. Hắn phỏng vấn, thử tay nghề, tra hỏi lý lịch rồi đến tận nhà ứng viên ra điều thăm hỏi nhưng để quan sát, định lượng định tính lòng trung thành.
Phương kiên quyết không làm tay sai. Nam nản chí. Ngặt nỗi Phương làm việc không sơ hở nên Nam chưa có lý do kiếm chuyện. Một ngày đẹp trời Nam vẽ đâu ra bản chi tiết điện đàm và sao truyền. Hắn qui cho Phương dùng phương tiện chung làm việc riêng, liên lạc với nhiều nơi, kể cả cái xứ khỉ ho cò gáy nào đó bên nửa kia quả đất. Phương quá đỗi ngạc nhiên. Nam bảo vợ ném cho Phương hơn trăm Mỹ kim tiền lương và yêu cầu Phương rời văn phòng ngay lập tức. Phương ra trung tâm sao truyền mua bản chi tiết. Thì ra Nam dùng đồ giả. Trước khi bỏ đi, Phương gởi bản sao này trong lá thư cho Trần đang ở Singapore, dĩ nhiên Phương không quên đề cặp tất cả mưu đồ tiềm ẩn của Nam. Trần đáp ngay máy bay sang Việt Nam, ông chủ nhỏ tế nhị đưa Nam xem thư của Phương.
Nam bắt buộc phải thải hồi vợ mình. Hắn cay cú với cả Trần. Đợi mọi thứ lắng dịu, văn phòng làm việc trơn tru Nam dại dột tỉ tê với ngài Trịnh về sự không cần thiết của Trần tại Sài Gòn. Ngoài bản tính gia trưởng cố hữu, quyết thu vén quyền lực, đố ai biết Nam còn âm mưu gì khác với người Singapore không. Tuy nhiên ngài Trịnh thấy lý do này đủ để chia tay Nam. Ông cũng chẳng thèm đôi co cùng Nam về mấy ngàn Mỹ kim công ty mẹ đã ứng trước cho Nam, giúp hắn mua nhà khi mới chuyển từ Vũng Tàu về Sài Gòn.
Nam lang bạt kỳ hồ, hắn kết thân với địch thủ của ngài Trịnh bên Singapore hơn một năm và lại rã đám vì nhiều lẽ. Nam dựa vào gốc gác của mình và quan hệ cũ ở Pecho-imex mở đại lý cho doanh nghiệp Tây dương sản xuất phao chống tràn dầu. Nghe nói vợ hắn quá tủn mủn nên Pecho-imex kiên quyết nói lời từ giã. Họ cắt đứt quan hệ với Nam. Tất cả tàu dầu, tàu phục vụ họ đang mua hoặc sắp mua đều chèn thêm khoản thay phao chống dầu cũ của Tây dương bằng loại phao của Nhật, thứ hàng mà công ty của xếp Trịnh bên Singapore là đại lý độc quyền khu vực đông nam Á.
Thạnh là người cuối cùng Trần tin cậy. Bấy giờ Thạnh tương đối thoải mái, hắn gần như thay Nam phụ trách mọi việc nếu không kể hai thầy giáo luống tuổi khá uy tín của trường Hàng hải mới vào, chủ yếu làm bán thời gian cho Trần. Trần rất coi trọng chất xám và biết mua bán mối quan hệ tình cảm của hai thầy giáo với hàng chục thế hệ sinh viên trường Hàng hải. Họ từng là học trò hoặc bè bạn đồng trang lứa với nhau. Họ nắm rất nhiều chức vụ, vị trí quan trọng trong ngành, đủ để đem về cho Trần lợi nhuận gấp nhiều lần lương tháng Trần phải trả cho "cộng tác viên" của mình.
Trần còn có lối đầu tư tưởng chừng phiêu lưu nhưng rất hữu hiệu. Ông ta luôn tìm hiểu, tạo điều kiện giúp đỡ mấy vị nắm cơ may trở thành yếu nhân, dù trước mắt họ chỉ là nhân viên quèn ăn theo nhiều bữa tiệc giao lưu, tiếp thị. Không ít người bị mắc bẫy kiểu đó. Sau này, gần nửa số hợp đồng lâu dài của Trần là sự trả nghĩa. So với đối thủ cạnh tranh, Trần chiếm lợi thế không thể phủ nhận.
Nơi cuối cùng Phương làm thuê là liên doanh lỏng lẻo chuyên sửa chữa tàu và giàn khoan. Đối tác Việt Nam ném cho họ mảnh đất bùn lầy ngoại thành như vốn góp, mặc sức họ muốn làm gì thì làm. Cũng có Phó tổng giám đốc người Việt ngồi trực tòa văn phòng sang trọng nhưng trống rỗng và rỗi việc. Ông ta dùng xe hơi, điện thoại đi động để hẹn hò bè bạn đi ăn nhậu là chính.
Phương phụ trách kinh doanh phụ tùng, nguyên vật liệu trong công ty mang danh sản xuất. Đơn giản thôi, hàng hóa nhập bằng hạn ngạch xây dựng cơ bản được bộ Thương mại duyệt miễn thuế hàng năm, thoải mái tung ra thị trường lấy lãi. Đó là vốn của đối tác nước ngoài trong liên doanh. Họ cũng tuyển nhiều công nhân cho các công trình che mắt lấy lệ. Ở đa số công trình họ là thầu phụ, thời gian hoàn thành phân đoạn việc khoảng sáu tháng, vừa đủ như qui định lúc ấy về thời gian thử việc cho người lao động có bằng trung học kỹ thuật. Thế là cứ sáu tháng họ tuyển công nhân một lần, đăng báo xôm tụ. Họ tránh được khoản bảo hiểm xã hội và y tế dễ dàng. Công nhân thiệt thòi nhưng không ai đứng ra bênh vực.
Phương biết chẳng tìm đâu ra chỗ làm ra hồn nên đành cố thủ luôn tại đấy. Vả lại công ty tin những người như Phương hiểu họ đang làm gì nên lương và thưởng khá hậu. Trên cơ sở ấy Phương tự lần ra kẻ hở của chủ và bắt đầu tích vốn.
Phương nhắm vào vô số công ty be bé nơi có bạn bè ủng hộ với nhiều hợp đồng sửa chữa tàu biển nhỏ và vừa. Anh cho ký hợp đồng sơ bộ cung cấp hàng, ma mãnh rải đều các lần giao hàng theo tiến độ sửa chữa. Tổng kết số hàng được giao chỉ soạn ra sau đợt cuối cùng. Cộng thêm thời gian ghi nợ, nghiễm nhiên khách của Phương chiếm dụng vốn người bán khá lâu, tới khi khách hàng của người mua thanh toán. Chưa kể khoảng khất nợ tùy tiện vì luật phá sản mới nằm trên văn bản. Phương được chia 50% số lãi của món nợ này, theo lãi suất kỳ hạn của ngân hàng. Nói chung chính công ty của Phương cũng chiếm dụng vốn của nhà cung cấp nước ngoài nên họ bán được hàng là mừng, ít khi hạch sách. Phương cũng tỉnh táo, chưa bao giờ bị giựt nợ nên uy tín cao. Gần tròn năm Phương đã được cất nhắc, chính thức phụ trách mảng buôn bán vật tư. Cảng Sài Gòn tàu buôn ra vào tấp nập. Đây cũng chính là nguồn phụ tùng tàu biển dồi dào. Người đi biển thường thuộc các nước nghèo, máy móc thứ gì bán được là họ xà xẻo ngay. Mối lái đánh hơi rất nhạy, luôn gọi Phương khi có hàng độc. Nhiều chi tiết máy Phương mua dự trữ, khi đẩy được lãi hơn cả xổ số.
Phương kém thiện cảm với người nước ngoài anh từng tiếp xúc và làm việc. Số ít trong họ thật sự giỏi giang còn phần đông là kẻ đất mẹ không dung nên lạc đến đây. Họ tồn tại được vì nhiều lẽ. Họ đáng tin hơn người bản xứ thông minh cần cù nhưng thiếu trung thực. Họ gần gũi với chủ, người tương đồng chủng tộc với họ. Họ điều hoà khéo léo lợi ích riêng chung trên cơ sở trách nhiệm tận tụy. Họ hưởng lương cao trên mặt bằng giá cả sinh hoạt tương đối dễ chịu. Họ thích ánh mắt tôn sùng của xã hội dành cho họ.
Không ít thì nhiều, người nước ngoài đem theo những mực thước mới pha trộn vào lề thói đóng băng của người Việt. Họ sòng phẳng, kỷ luật tốt, đúng giờ và mang tác phong công nghiệp. Họ trọng lý hơn tình. Nếu dùng tình, họ không bao giờ coi đó là nước đường cùng khi đuối lý. Tình của họ là thứ tinh thần hoàn toàn độc lập với lý. Họ dễ dàng bỏ qua xung khắc cá nhân với cộng sự Việt Nam. Họ đánh giá con người trong công việc. Họ dùng tiền mua tất cả, từ gái đẹp đến tiện nghi sang trọng và sự nghiêm cẩn của bề dưới.
Có lần nhóm người Mỹ tại một quầy rượu trò chuyện:
- Châu Á này tôi thích sống ở Singpore nhất, sạch sẽ, an ninh và văn minh.
- Tôi chỉ sướng Việt Nam. Đi khỏi quê mẹ đồng nghĩa với tha phương cầu thực. Tôi sống để thấy Việt nam sớm phát triển như Sing - Phương trả lời.
- Còn lâu bạn à. Singapore thiếu hẳn những cô gái xinh đẹp dường kia - Tên Mỹ hất mặt qua chiếc bàn cạnh đó - Ô la la… thiên đường hiện ra sau tiếng huýt sáo.
- Bụng ai chẳng chứa rác.
- Tao nghe nói xưa kia người Việt Nam rất ghét me Tây. Bây giờ họ còn ghét không?
- Nhân dân ở đâu cũng không ưa bọn can thiệp ngoại bang. Giờ đã khác, chắc mày hiểu.
- Đúng, đúng! Nhân dân Việt Nam khôn đáo để. Mỗi người Mỹ từ chối lời đề nghị hạ mức lương trên sổ sách để tránh thuế thu nhập cho họ.
- Tôi không nói tinh thần tôn trọng pháp luật của các ông tồi. Nhưng đâu phải tất cả những gì của Mỹ đều đáng học tập.
- Chúng mày còn rất ghét người Mỹ. Vẻ xởi lởi là hình thức.
- Mày quá nhạy cảm đấy. Tao và mày vẫn có thể nói chuyện được mà. Sự đối thoại bình đẳng luôn cần thiết.
Philippe là chồng cô bé Quyên thư ký văn phòng kinh doanh của Phương. Hắn đại diện cho tập đoàn sản xuất sơn tàu biển khá lớn ở châu Âu. Quyên tôn thờ Philippe ra mặt, chuyện phiếm của cô ít khi nào thiếu tên chồng mình. Quyên tốt nghiệp trường Sư phạm Ngoại ngữ, khoa Pháp. Họ yêu nhau nồng thắm cỡ hai năm. Tháng đầu tiên làm vợ ngày nào mắt Quyên cũng đỏ hoe. Hóa ra cô chưa hưởng tuần trăng mật. Ba ngày sau đám cưới linh đình ở nhà hàng Rex, Philippe tếch về Pháp nghỉ hè mình ên. Thỉnh thoảng Phương thông qua công ty đặt mua sơn của Philippe, hắn rất vui vẻ và hay thòng câu "Tuyệt lắm Phương à, cuối tuần tao mời mày đi ăn tối. Thứ bảy nhé, bảy giờ ba mươi tao sẽ điện thoại cho mày". Lần đầu Phương sụp hố. Anh sắp xếp giờ giấc để dài cổ chờ Philippe. Tuần sau thấy mặt Philippe, hắn vô tư như chẳng có chuyện cho Phương leo cây vừa qua. Phương bực. Philippe lãi nhãi đến lần thứ ba thì Phương chửi thẳng "Quên đi. Tao không thèm lời mời chết tiệt của mày". Từ đó Philippe chỉ làm việc với Phương qua điện thoại.
Một hôm Phương tình cờ gặp Philippe và Quyên đang ăn sáng. Hắn nài bằng được Phương ngồi cùng bàn. Cực chẳng đã, Phương cố nuốt cho nhanh rồi trả tiền cả ba xuất. Philippe tỏ vẻ ái ngại, hắn bảo hắn nợ Phương buổi sáng kế tiếp. Phương cười nhạt:
- Mày nợ tao nhiều lắm, sao trả hết?
- Mày viễn vông quá. Người Tây dương chúng tao sòng phẳng. Á Đông hay đa lễ.
- Ông cha tao có câu "nhập gia tùy tục", quả bóng ở chân mày đấy. Đừng nên sút cả bùn vào chiếc áo của gia chủ.
Loại Tây đất mẹ không dung, dạt bụi dạt bờ đến Vệt Nam mưu sinh Phương gặp hằng ngày. Cỡ bự như Gerard, chủ tịch công ty thì vài tháng mới đảo qua Sài Gòn nắm tình hình. Gerard chính gốc Ba Lê, phong thái khác người. Lão không bao giờ dán một xu trong túi làm bùa khiến các tài xế bị lên lịch đưa đón lão méo mặt dài dài. Việc đầu tiên Gerard thường làm khi bước vào trụ sở công ty là chào hỏi tất cả mọi người. Hắn bắt tay nam giới và hôn hít phụ nữ từ bàn tiếp tân tầng trệt lên đến lầu ba. Mức độ thái quá sẽ phụ thuộc vào sắc mạo người được hôn, càng đẹp càng bị ôm chặt, hôn lâu. Nhiều người rất khó chịu nhưng không ít chị em sướng ra mặt, hớn ha hớn hở mỗi lần nghe tiếng Gerard từ xa. Lần kia Gerard xoi mói ánh mắt thiếu thiện cảm và cái bắt tay lạnh nhạt của Phương:
- Đó là phép lịch sự Tây dương. Chú nhóc này chắc cứng đầu lắm.
- Xin lỗi ông đây là Sài Gòn chứ không phải Ba Lê.
- Văn hóa không biên giới!
- Nhưng văn hóa sẽ gây ra xung đột đáng tiếc nếu thiếu tế nhị.
Có lẽ điều lịch sự duy nhất ở Gerard mà phương cảm nhận được chính là lão không chỉ tay tống cổ Phương ra khỏi công ty. Nhiều bận trên những chuyến bay Sài Gòn - Hà Nội Phương nhác thấy Gerard cặp kè với một mụ buôn tranh trừu tượng kiêm tư vấn đầu tư, anh cứ lờ như chẳng hay.
Đám người nước ngoài thiệt thòi nhất chính là chuyên gia Nga trong Pecho-imex. Ngày mới thành lập liên doanh người Nga chiếm phần lớn chức danh chủ chốt, công nhân dàn khoan đa số da trắng. Họ có hẳn mấy dãy nhà năm tầng tạo thành một làng đồng chủng tộc rất đoàn kết. Năm 1991 Mạc Tư Khoa nhốn nháo, dân Việt tiếm dần quyền hành. Lần đầu tiên xuống Vũng Tàu làm việc xếp Trần bảo Phương gặp Leonov và Levinchuck. Trần dặn thêm cứ trình bày tất cả vấn đề kỹ thuật cho hai người đó hiểu. Giá cả, chiết khấu và thời điểm giao hàng để dành nói với phó tổng giám đốc người Việt Nam. Bữa trưa nhà hàng đặc sản, rượu Johnny Walker ngà ngà Leonov rặn từng chữ tiếng Anh:
- Mày cố đoạt mớ ngon này nhé. Chúng tao bây giờ là kẻ ngoài cuộc. Luôn phải lấy lòng quan chức Việt Nam để được gia hạn hợp đồng lao động. Nó đẩy về Nga thì húp cháo kiều mạch.
- Chung cư năm tầng dạo này vắng vẻ quá.
- Ừ, công nhân dàn khoan bị thải hồi gần hết. Con gái mới sang đông lắm.
-???
- Đời sống bên kia khó khăn, lương bổng ít, chính phủ nợ ròng rã. Họ lấy danh nghĩa người nhà chúng tao qua đây làm đủ nghề. Buôn bán. Lao động chân tay. Thậm chí làm điếm. Khối người Việt đi tìm của lạ tóc vàng da trắng cho biết mùi.
- Ông không đùa chứ.
- Sở thích của mày như thế nào tao bảo chúng gọi điện cho. "Một vé" - Leonov nói tiếng Việt lơ lớ - "Một vé một đêm". Sướng nữa thì thuê xe hơi đón em về Sài Gòn mấy hôm. Đi với lũ này chỉ tốn tiền rượu thôi. Rượu Lúa mới chứ không phải Hennessy. Xe hơi cho kín đáo ấy mà. Chúng mày mấy đứa nó cũng chiều. Tình cảm là chính. Các ả rất thích không khí Sài Gòn. Đỡ nhớ nhà. Vũng Tàu buồn tẻ lắm.
Levinchuck bực bội nhìn sang Leonov và văng tục bằng tiếng Nga. Levinchuck sử dụng thành thạo tiếng Việt, anh ta phân trần:
- Chắc bạn nghĩ Leonov sắp thành ma cô dẫn gái?
- Ồ, vui thôi mà. Xin lỗi vì tôi chăm chú nghe Leonov. Tôi từng ghé cảng Vlapostok trong thời gian đi tàu viễn dương. Tôi muốn nghiệm trong câu chuyện này ý nghĩa khác. Không phải trò trác táng!
- Chúng tôi đáng trách lắm nhưng quê hương đang rối ren. Đành tự lo thân trước. Tôi muốn nói đến thái độ nhu nhược của chuyên gia Nga trong liên doanh.
- Tôi thông cảm với anh.
- Người Việt Nam rất tâm đắc khi so sánh thương trường với chiến trường. Các bạn vốn là những chiến binh tài tình. Tuy nhiên luật kinh tế hiện thời hơi thiếu công bằng. Doanh nghiệp nào cũng sợ thuế quan, sợ chính quyền một phép. Văn bản, qui định chồng chéo biến công chức thành ông vua không ngai nắm trong tay quyền sinh sát đáng gờm. Vô hình chung chính quyền và doanh nghiệp nằm ở hai chiến tuyến.
- Chúng tôi cần học hỏi nhiều trên con đường tự do hoá thương mại. Tin hay không tùy anh, một giáo sư tên tuổi giảng cách làm hoa mắt viên chức thuế trong khóa bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn như sau: Khi làm sổ sách nhất thiết phải tạo ra năm bảy sơ sót dễ bổ xung, sửa chữa ví như quên chỗ này hụt chỗ kia. Người ta phát hiện ra ngay và yêu cầu làm rõ, cộng thêm hai ba mục ngoài ý muốn, doanh nghiệp giành được sự chủ động cần thiết.
- Người Nga hiểu điều đó nhưng tư bản cũ không thể hiểu được. Vụ Coca Cola là điển hình. Các vị áp dụng thuật chiến tranh du kích trong thương trường. Họ là con thiêu thân đầu tiên phải trả giá. Tiền lệ này rất tệ cho tương lai công cuộc kêu gọi đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
- Báo chí đổ xô dẫn chứng không thiếu nguyên nhân nào. Con đường kinh doanh của họ không đúng như cam kết ban đầu trong dự án khả thi lập liên doanh.
- Kinh doanh tự mang trong mình nó sự rủi ro. Dự án phải mềm dẻo và linh hoạt, nếu không cần gì luật phá sản. Cái nguyên nhân rõ ràng nhất nhưng không hề được đề cặp là vấn đề con người của các bạn. Rõ ràng cán bộ phụ trách của đối tác Việt Nam đã bị mua chuộc hoặc bị thao túng vì thiếu kiến thức lẫn kinh nghiệm.
- Anh nhận xét chí lý như chuyên gia kinh tế cao cấp.
- Tôi nguyên là giáo viên Kinh tế Chính trị Marx - Lenine của trường đại học Lomonosov. Vợ tôi người Việt. Cô ta là học trò của tôi. Quay lại chủ đề chính, người Nga sẽ gọi mười mấy triệu Mỹ kim Coca Cola trả cho Việt Nam để trở thành công ty trăm phần trăm vốn nước ngoài là sự thể hiện tình hữu nghị quốc tế tư sản.
- Còn tình quốc tế vô sản là cuộc đàm phán dẳng dai nhằm xác định tỉ giá Rúp - Đô la ở những khoản nợ cũ của chúng tôi với Liên Xô hôm qua.
- Đúng vậy. Chúng ta là lũ dân đen ngoài cuộc, nên hiểu nhau hơn là hậm hực. Phải học thôi bạn ạ. Tôi đang học, đã học và sẽ học mãi. Kiến thức giúp chúng ta thoát khỏi vũng lầy nghèo đói.
- Ông biết chợ hoa tết Nguyễn Huệ nổi tiếng giữa lòng Sài Gòn không?
- Năm ngoái gia đình chúng tôi chụp khá nhiều ảnh ngoài đấy.
- Bài học thực tế làm ngạc nhiên nhiều học giả và lãnh đạo kinh tế. Họ thắc mắc tại sao cuối giờ nông dân không bán quách hoa ế mà hủy hết hoặc đem xuống thuyền chở về vườn. Có hơn không mà!
- Họ còn biết thắc mắc là khá lắm rồi. Chức trách của họ là phải giảng giải, hướng dẫn cho dân chứ không phải cắp sách đi học bài ABC về kinh tế. Những người nông dân kia làm đúng. Họ quyết không tạo ra thói quen mua hoa rẻ vào giờ chót ở người tiêu dùng.
- Tự tôi cũng thấy làm lạ. Người Việt Nam chúng tôi có câu nói rất hay "Phú quý sinh lễ nghĩa" nhưng một thời nó luôn được khai thác kèm theo thái độ dè bĩu.
- Ý nghĩa tích cực của câu đó hay lắm. Được ăn ngon mặc đẹp xã hội mới ngẩng đầu lên. Cái thực vực cái đạo mà.
- Mặt trái của thịnh vượng chính là sự suy đồi đạo đức. Các giá trị truyền thống mai một.
- Trong buổi hỗn mang điều đó rất bình thường. Ý chí không chưa đủ, tri thức rất cần để cảnh tỉnh lương tâm. Cậu em vợ tôi quậy phá lắm. Hắn ở tù về, hết đoàn thanh niên đến công an phường, hội cựu chiến binh vận động tìm việc làm hoàn lương cho hắn. Người ta bảo đó là tính nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Nhớ lúc hắn chưa tiền án tiền sự, chạy vã mồ hôi chẳng ai đoái hoài, gia ân. Cái này tiếng Việt gọi là gì nhỉ…?
- "Nước đến chân mới nhảy" hoặc "Chăm ngọn quên gốc".
- Sự vô lý tồn tại trong rất nhiều mặt của xã hội. Đại khái như nói cha mẹ phải nhớ ơn con cái vì họ là quí tử làm rạng danh nòi giống vậy!
Jean Pascal phụ trách tài chính và nhân sự trong công ty Phương. Không rõ hắn thực sự thâm hiểm hay đám thầy dùi An Nam vẽ ra cách tăng lương quái gở. Dịp thị trường ngoại hối vùn vụt leo thang, hắn tuyên bố đồng loạt tăng lương toàn công ty. Con số cuối cùng hắn nhân ngay cho tỉ giá ngân hàng nhà nước và giữ cố định luôn. Tính xuôi tính ngược thu nhập người lao động giảm so với trước và tiềm ẩn nguy cơ mất giá hằng ngày. Nhiều người uất quá kéo nhau chặn đường thư ký phòng nhân sự. Cô ta khéo chĩa mũi dùi sang Pascal. Pascal biết, hắn đuổi việc những kẻ phản đối.
Hôm ấy Phương xuống kho, anh đi ngang chỗ Pascal đang la ó bằng tiếng Pháp trước khoảng hơn chục công nhân:
- Đầu chúng mày chứa toàn óc bò. Giày dép kia chỉ hợp khi nhảy đầm thôi. Chó chết!
Hóa ra hắn dặn mang giày chống trượt để ra dàn khoan, mọi người không rõ. Phương dừng bước nhỏ nhẹ:
- Ông cần tôi phiên dịch cho họ hiểu không?
- Mày nói đi.
- Họ bảo mày nên kiếm mấy thằng Nam Hàn học võ trước khi chửi họ là thú vật - Phương nhấn mạnh chữ "mày" và "thú vật".
- Tao chưa nghe thằng nào nói mày đã dịch. Mày muốn kiếm chuyện với tao hả?
- Tất cả người lao động Việt Nam sẽ phản ứng như vậy nếu hiểu được câu chửi bằng tiếng mẹ đẻ của mày. Cha ông mày biết rõ điều đó hơn ai hết. Tin tao đi.
Pascal lộn tiết, hắn bẻ đôi cây viết đang cầm trên tay. Trước mặt Phương không còn Pascal. Đó là một thằng Tây mũi cà chua, mặt đỏ như gấc đang mâm mê, uốn cong chiếc roi ngựa. Chẳng hiểu chuyện sẽ diễn tiến ra sao nếu vài người công nhân già không đẩy Phương đi giữa cái nhìn đằng đằng sát khí của Pascal.
Khi Phương nghe bảo Pascal từng nhận bảo trợ hai đứa trẻ mồ côi anh lại không cho đó là đơm đặt. Bản tính con người luôn mâu thuẫn. Để tìm bình đẳng, sự vươn lên tự thân giá trị hơn nhiều cách thụ động cố lôi kẻ đứng trên xuống ngang hàng mình.
Khả năng học hỏi, thu nhận kiến thức của người lao động Việt Nam, cái làm nhiều nhà đầu tư nước ngoài coi như lợi thế khi bước vào kinh doanh bắt đầu phải trả giá. Hàng loạt nhân viên Việt Nam, sau thời gian làm việc để tích lũy vốn và kiến thức đã nhẩy ra lập doanh nghiệp riêng, quay lui cạnh tranh với công ty cũ. Trang quảng cáo của các báo thỉnh thoảng lại có khung vuông với lời lẽ hằn học "Ông (bà) X, kể từ ngày Y không còn là nhân viên của công ty chúng tôi. Xin quí khách hàng lưu ý, mọi giao dịch cũ được bàn giao cho nhân viên mới v.v..".
Trọng và Hà là phó của tay Khôi trưởng phòng tiếp thị trong một công ty giao nhận hàng hóa Singapore. Khôi đi đúng con đường Johnny Chu, tổng giám đốc của họ từng qua. Chu sang Việt nam dưới danh nghĩa đại diện thường trú công ty mẹ của hắn ở Singapore. Công ty ấy liên hệ mật thiết với hãng tàu nhà nước nơi Khôi là nhân viên ít nhiều uy tín. Khi đã quá rành rẽ đường đi nước bước tại Việt Nam, Chu mở công ty riêng và âm thầm lôi kéo nhiều nhân viên Việt Nam có năng lực với mức lương hấp dẫn.
Đang thuận chèo mát mái thì bạn Phương nghe lời rủ rê của Khôi đồng loạt xin nghỉ. Chu nổi đóa chửi rủa không tiếc lời. Hắn gởi hàng trăm văn bản thông báo tới khách hàng yêu cầu mọi người cạch mặt mấy đứa "ăn cháo đá bát!".
Khôi trở thành Chủ tịch ban quản trị kiêm Giám đốc công ty tư nhân. Trọng, Hà và mấy người nữa góp 50% cổ phần. Có lợi thế về kinh nghiệm, vốn liếng Khôi lèo lái công ty tương đối thành công nhưng không ngừng chèn ép đám chim non mới ra ràng. Kế toán trưởng là tay chân thân tín của Khôi tháng nào cũng soạn đến ba bản báo cáo tài chính. Một bản hình thức dành cho cục thuế sở tại. Một bản phổ biến ra mọi người. Bản cuối cùng của riêng Khôi với thu chi thực tế và nhiều trò gian trá lấp liếm. Thực tâm Khôi chẳng tốn lòng với ai. Hắn lôi kéo tìm kiếm đối tác nhằm thu hút khả năng lẫn khách hàng của họ, đồng thời sẻ chia rủi ro trên con đường lập thân may rủi khôn lường. Công ty bắt đầu ổn định Trọng và Hà biến thành cái gai cần phải loại trừ trong mắt Khôi.
Trọng, Hà ngậm quả đắng nhưng đành làm ngọt vì thiếu vốn sống và chưa thấu hiểu ngọn ngành luật chơi của thương trường. Được chừng gần năm hai đứa bèn yêu cầu Khôi cân đối công nợ, tài sản để rút cổ phần. Khôi không ngạc nhiên. Dường như hắn đã tính sẵn nước này. Tuy số vốn của Trọng, Hà không bị sứt mẻ nhưng lợi tức thu vào chỉ tầm tầm lãi suất tiền gởi không kỳ hạn của ngân hàng.
Phương cũng không tránh được to tiếng với xếp Tây trực tiếp của mình lúc đó là Jacques Vivares. Hắn một mặt giễu cợt với mọi người "Tổng thống chết còn có người thay", mặc khác dỗ ngon dỗ ngọt Phương ở lại. Hết cách, hắn bày trò bẩn thỉu nhằm bôi nhọ Phương. Hắn tra xét hàng trăm chứng từ thanh toán cũ và yêu cầu Phương giải trình cặn kẽ hơn.
- Được thôi, tôi sẽ móc tiền túi mình trả công ty ở những khoản ông không chấp nhận. Ông mới tặng tôi thêm lý do để nghỉ việc càng sớm càng tốt.
- Vậy lý do ban đầu của mày là gì?
- Bộ phận kinh doanh này hoạt động hoàn toàn trái pháp luật hiện hành của Việt Nam.
Vivares cụp đuôi bất lực và nhanh chóng giải thoát cho Phương.
Thái độ của Vivares còn có lý nhưng với Chu thì Phương thấy hắn đánh giá hơi kém người lao động Việt Nam. Đất nước Singapore của hắn từng đi lên nhờ những người như Phương và bè bạn anh. Thuở mới lập quốc Singapore đất hẹp người đông, nghèo nàn lạc hậu. Họ ít vốn nên chọn con đường phát triển thương mại, dịch vụ. Giờ đây hai mũi nhọn này vẫn hết sức giá trị cho con sư tử ấy. Singapore trở thành kho hàng hóa trung gian lớn giữa người tiêu dùng Á châu và các nhà sản xuất khắp nơi trên thế giới.
Trọng, Hà và Phương tình cờ cùng đứng ở điểm xuất phát mới. Ba người chụm đầu quyết tự mở hướng đi cho thế hệ của mình. Một công ty dịch vụ thương mại, giao nhận quốc tế dần dần thành hình. Hơn nửa số thương nhân nước ngoài đến Việt Nam và phát đạt không phải vì họ nhiều vốn. Sẵn vốn rủng rỉnh ai cũng có thể làm giàu. Không vốn nhiều mà vẫn thẳng tiến trên con đường khai thương chính trực mới đáng nói. Ngoại nhân thành ông thành bà trên xứ sở này được thì không lý do gì họ, những người chủ thực sự của đất nước lại chùn chân, ái ngại dấn bước vào nền kinh tế với giấc mơ sung túc cho bản thân và gia đình. Xa hơn nữa họ muốn trở thành cá thể hữu ích trong cộng đồng mới. Đó là lớp doanh nhân cầu tiến, có hoài bão và lý tưởng.
Họ là ai? Họ sinh ra trong chiến tranh. Lớn lên với hòa bình. Đến tuổi thành niên họ tiếp xúc ngay với cánh cửa hé mở dè dặt. Họ ham học hỏi, dù bài giảng trên ghế nhà trường hôm qua chẳng ăn nhập gì với thực tế nhưng họ ít nhiều tự trang bị cho mình một số kiến thức. Từ địa vị người làm thuê cho ngoại bang họ có quyền phấn đấu để đoạt chỗ đứng xứng đáng trong xã hội.
Trẻ trung, năng nổ và nhạy bén nhưng nhóm thanh niên muốn lập công ty riêng gặp không ít khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua. Không đơn thuần là đống thủ tục hành chính quan liêu.
Họ mất cả chục ngày làm hồ sơ cá nhân, đếm không xuể các con dấu đỏ chót. Dự án kinh doanh hết sức tâm huyết, tỉ mỉ và công phu nhưng bị từ chối thẳng: không đúng mẫu hiện hành! Đành ném cho tay cò mắt chột dường như chưa học hết phổ thông làm hộ. Hắn ngoáy toàn thứ trên trời nhưng cán bộ tiếp nhận hồ sơ chẳng hề bác. Trăm thứ giấy khác bị hành đủ kiểu, đôi khi dấu phẩy đánh sai cũng mất mấy hôm chỉnh sửa. Một cửa, một dấu đâu chẳng thấy, để được thành phố cấp phép thành lập công ty cần đến hàng tá giấy chấp thuận nho nhỏ của ngành ngang ngành dọc, cơ quan môi trường, địa phương đặt trụ sở. Nơi nào cũng hành hạ đủ đường, tiền tới lui, phong bao trà nước lậm sâu.
Hết khâu cấp phép đến đăng ký kinh doanh. Vốn pháp định bốn trăm năm mươi triệu phải nộp bằng tiền mặt vào ngân hàng. Thói quen dân chúng chỉ thích trữ ngoại tệ mạnh. Vậy là hàng lô hàng lốc con buôn tiền chầu chực định cho vay cắt cổ. Cuối cùng mọi người phải mở sổ tiết kiệm ngoại tệ, dùng sổ thế chấp vay tiền đồng khuân qua nộp vô tài khoản phong tỏa vì loại trương mục này không cho phép chuyển tiền từ nơi khác vào.
Sự nghiệp hành chính của ban bệ cấp cao đến đây chấm dứt. Thiên thu sau cũng chẳng thấy bóng dáng viên chức nào xuống kiểm tra xem doanh nghiệp hoạt động ra sao, có ảnh hưởng môi trường không. Thay vào đó là những phiền toái khác.
Tuần đầu tiên mở cửa văn phòng công an khu vực kết hợp với cán bộ phường hỏi thăm:
- Cho chúng tôi xem giấy tờ hoạt động. Sao không khai báo?
- Chúng tôi thực hiện đúng luật công ty, trong ấy không đề cặp khâu tấu trình địa phương.
- Láo, luật nào.
Biết đám thanh niên không phải vừa, họ giở quẻ phạt vì bảo vệ quên đăng ký tạm trú, phạt vì chưa mua thiết bị cứu hỏa. Hai ngày sau đội cứu hỏa phường khệ nệ ôm vài bình CO2 đến, công ty miễn cưỡng mua với giá đắt gần gấp đôi thị trường.
Đắt nhất là kinh nghiệm báo cáo thuế. Hai tháng đầu tiên chuyên quản ra oai bằng cách loại gần hết chi phí một cách tùy tiện ra khỏi giá thành. Trên sổ sách hiện lên số lãi khổng lồ nên mức thuế cao chóng mặt. Họ phải è cổ đóng tiền ngu mệt nghỉ. Phòng thuế, cục thuế không có thời gian biểu nhất định, bất cứ lúc nào họ cũng có thể cử người xuống hạch sách, nhũng nhiễu làm gián đoạn công việc của cơ sở. Dù công ty mới thành lập nhưng hầu hết đều phải tạm đóng thuế lợi tức trên căn cứ giống như cái bẫy. Thật vậy, sắc thuế này dựa vào con số ảo, lấy từ bảng dự trù và định hướng kinh doanh. Luật ở đây xin miễn dự trù lỗ một thời gian để chiếm thị phần, lỗ vì bất cứ lý do nào khác. Không lỗ thì lãi. Gắng mà nặn ra khoản lãi hợp lý nhất để đóng trước 32% thuế lợi tức. Kết toán năm tài chính họ sẽ bớt đầu này trừ đầu kia để làm sao cứa thêm càng nhiều càng tốt, nhất quyết không để chuyện hoàn xảy ra. Với họ doanh nghiệp trở thành đối tượng lao động như các bài học kinh tế chính trị người ta từng thao thuyết trên giảng đường đại học.
Thị trường Việt Nam là mớ bòng bong của những điều phi lý. Công ty Phương tồn tại không quá ngắn, âu cũng nhờ may mắn. Thời điểm này toàn quốc hiện hữu khoảng tám chín ngàn công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân. Năm ngàn đơn vị chốt ở Sài Gòn. Một phần ba cơ cấu là sở hữu của nhiều văn phòng đại diện qui mô nhỏ và vừa. Họ cho người Việt đứng tên sáng lập, mọi hoạt động đều do người nước ngoài thao túng. Họ tránh được khoản chênh lệch trong giá thành nhiều dịch vụ xã hội có sự phân biệt đối xử giữa nội địa và ngoại bang như chi phí viễn thông, điện nước và tiền nhân công tối thiểu. Công ty trách nhiệm hữu hạn ngầm thuộc sở hữu của người nước ngoài hoàn toàn khó ổn định. Chỉ cần thị trường biến động xấu họ sẽ đóng cửa ngay, đẩy hàng loạt nhân viên vào đội ngũ thất nghiệp chưa bao giờ thống kê chính xác. Phần đáng kể tất nhiên là các công ty vệ tinh mọc xung quanh nhiều doanh nghiệp lớn của nhà nước. Chúng như những con đỉa đói. Chủ nhân thực sự của chúng là quan chức lắm quyền. Hợp đồng béo bở họ đều khéo léo dàn xếp cho vệ tinh lãnh trọn.
Loại công ty tự thân vận động, lèo lái bằng ý chí lập nghiệp như của Phương không chiếm đa số. Bức tranh như vậy hoàn toàn lệch lạc và khó làm tiền đề tạo dựng thành phần kinh tế tư bản tư nhân, động lực chính cho thị trường tự do hòa nhập toàn cầu. Bối cảnh kinh tế diễn biến theo nhiều chiều, nhiều qui luật không tương thích và hết sức tùy tiện.
Đơn cử có lần Phương nhận được thư mời chào giá cùng một mặt hàng cho hai nơi, điều kiện giao hàng và thanh toán như nhau. Nơi thứ nhất là công ty vệ tinh, nơi thứ hai là người mua cuối cùng. Theo đúng bài bản trong sách, Phương gởi cho công ty vệ tinh bảng giá cao hơn người mua thực tế 5%. Cộng thêm lợi nhuận và chi phí liên quan, ít nhất người mua thực tế sẽ nhận từ vệ tinh bản chào giá cao hơn bản chào giá trực tiếp của Phương 15%. Thế mà vệ tinh kia ký được hợp đồng chứ không phải công ty của Phương. Phương không thể nhầm lẫn vì hàng là đặc chủng đồng bộ cho ngành cứu hộ, trên hồ sơ bảo hành phải ghi rõ tên con tàu sử dụng mới có giá trị.

Thường cuối năm việc kinh doanh mới dễ thở. Chẳng gì mới mẻ. Khách hàng lớn của Phương là doanh nghiệp nhà nước. Họ được cấp trên duyệt kế hoạch rất máy móc về thu chi, sửa chữa, mua sắm cho cả bốn quí. Cảnh giác với rủi ro tiềm tàng họ xoay trở cực nhọc suốt chục tháng. Thời gian cuối họ mới tung hết ngân sách ra, cố làm sao cho không đồng nào bị chuyển sang dự toán năm sau.
Số ít các tập đoàn kinh tế lớn, dưới sở hữu nhà nước, luôn giành siêu lợi nhuận là những đơn vị mang lợi thế độc quyền. Sáu bảy mươi phần trăm còn lại lỗ chồng lên lỗ, nhà nước chịu áp lực quá lớn bởi thất thu thuế. Cổ phần hóa là bước đi vừa chậm vừa vội, dẫm đạp lên chính mình. Luồng vốn xã hội còn hạn chế, tư bản manh mún nhưng thị trường chứng khoán chưa thành hình. Căn bản luật kinh thương chưa sẵn nhằm điều chỉnh đầy đủ và thích hợp. Công ty làm ăn có lãi người ta tranh giành nhau mua cổ phần. Việc định giá tài sản vô hình và hữu hình rất sơ sài nên ai có phần mà không tiền cũng cứ đăng ký rồi bán kiếm lời. Rút cuộc chỉ một vài vị quan phụ mẫu nắm đa số cổ phần bán ra. Công nhân, kẻ làm chủ tập thể cũ được đổi kiếp sắm vai ông chủ tư bản mấy ngày. Doanh nghiệp với dư nợ lớn hơn giá trị tài sản cố định thử nghiệm hết mô hình này đến mô hình khác, vẫn không thoát thai cổ phần được. Tuyên bố phá sản hoặc giải thể thì người ta không nỡ. Đạo lý của định hướng kinh tế quy định việc làm trên hết, dù việc làm ấy chỉ phát lương cho họ đủ ăn sáng và uống cà phê pha bắp rang!
Tuổi thọ của phần lớn công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân khoảng ba năm. Không luồn lách trốn thuế thì không thể tồn tại. Tai họa luôn lơ lửng trên đầu thương nhân nên việc biệt tích đổi tên vốn tối kỵ trong tư duy kinh tế Á đông phải nhường bước. Công ty mới, đôi khi chỉ cần ghép chữ “tân” vào tên cũ, người cũ, thiết bị máy móc, cơ sở vật chất cũ. Cái lợi duy nhất là tất cả hồ sơ không ít thì nhiều mập mờ, ám muội sẽ được xếp sang bên. Dấu vết phạm pháp nặng hay nhẹ không còn rình rập giấc mơ làm giàu chính đáng nhưng hết sức khó khăn. Vài công ty trốn thuế, họ sẽ là tội phạm. Tuy nhiên nguyên một bức tranh kinh tế đều nhuốn màu nhập nhèng, không trốn thuế nghĩa là khai tử chính mình thì lỗi không còn ở của thương nhân nữa. Ai đó từng khuyên công chức nhà nước đừng nên “vô cảm” với doanh nghiệp. Thật sự doanh nghiệp cũng chẳng cần “hữu cảm”. Họ mong công “lý” chứ không thích công “tình”.
Với cái nhìn tổng thể, môi trường sản xuất kinh doanh toàn quốc như em bé còi xương, suy dinh dưỡng. Yếu tố khách quan là cơ chế, chính sách chưa theo kịp bước. Chủ quan thì phải thừa nhận sự lệch lạc trong nhận thức và hành động của người trong cuộc. Đầu tư chắp vá nên người ta bắt buộc phải chạy theo cái lợi trước mắt để tồn tại. Vòng quay vốn tiềm tàng các lực ly tâm phá vỡ thế cân bằng cần thiết, lợi nhuận lò dò đi theo đường mòn: nắm bắt, móc ngoặc hậu trường, chụp giựt, chia chác. Đây là cơ hội tốt để lừa lọc, man trá và tham nhũng hoành hành.
Người cực đoan phán rằng thương trường không dung đạo đức. Những thương nhân trách nhiệm, biết điều hòa quyền lợi của mình trong mối quan tâm đến quyền lợi khách hàng, coi khó khăn vướng mắc của thượng đế là trở ngại của chính mình là ai và đang ở đâu. Lũng đoạn, nhũng nhiễu còn hoành hành bao lâu nữa. Bao lâu nữa pháp quyền mới công tâm đứng giữa các yếu tố kinh tế, tác động, ngăn ngừa mọi lệch lạc với tiêu chí xây dựng môi trường kinh doanh thoáng đãng.
Phương luôn ý thức chớ nên biến mình thành con chốt thí cho canh bạc kinh tế. Không ít lần công ty Phương được gạ gẫm làm ăn lớn, xuất kho khống nhưng anh từ chối. Sự hăng hái nhiệt tình thừa thãi của một thế hệ sinh ra trong chiến tranh, lớn lên với bo bo, mì sợi cứ tàn tạ dần theo thời gian. Phương học được cách chấp nhận thực tại nhưng vẫn luôn nhói lòng trước tương lai bấp bênh. Càng sống, làm việc và càng hiểu về thương trường Phương nhiều lúc rất dao động và mất tự tin. Hơn hết, người ta qui cho thương gia thói trí trá, bất tín, chuộng lợi.
Hai bạn của Phương cũng méo mó đi ít nhiều. Trọng vốn tính vô tư, dễ hòa đồng. Hắn khá giả nhất, vợ làm ngân hàng, hai con bắt đầu lớn. Trọng không ôm nhiều kỳ vọng hão. Kinh doanh với hắn chỉ có hai con đường lợi làm, thiệt bỏ không phân vân ước đoán cho nhức óc, và nhất là không bao giờ xem xét công việc dưới lăng kính đạo đức. Năng suất làm việc của Trọng quả đáng nể, sức hắn bằng mấy người. Trọng luôn giải quyết hai ba công chuyện cùng lúc không lẫn lộn. Bỏ điện thoại di động xuống là hắn phải nhấc vội một trong hai ống nghe để bàn. Sau giờ làm việc Trọng thích uống bia ngoài khu Thi Sách. Hắn trút bỏ mọi lo toan trong cồn. Chín giờ tối Trọng về nhà, nửa tỉnh nửa say đặt lưng xuống giường. Cứ tưởng Trọng vững chãi nhất, ai dè mầm bệnh mất phương hướng bắt đầu hành hạ hắn. Đứng bên chiếc xe máy Trọng luôn rất đáng thương. Hắn vẫn phải nặn óc, cố nhớ mình ở đâu, định làm gì và sẽ quay xe chiều nào!
Hà hoàn toàn ngược với Trọng. Phương không rõ hắn sa lầy trong đạo hạnh hay đang tích đức để cất mình khỏi cơm mê. Vòng bụng Hà chỉ bằng một phần ba của Trọng. Hắn bỏ bia rượu, thuốc lá và cả thói quen bình phẩm sắc đẹp của phụ nữ. Trán Hà bắt đầu hói. Hà mê khoa học huyền bí sau khi công ty của họ hoạt động hơn năm. Phương góp ý "Trên bốn mươi mới nên đọc Kinh Dịch" - Hà cười "Sông ơi cứ mãi chảy thế này ru!". Hà có nhiều gánh nặng trên vai như vợ con, anh chị em, gia đình nhưng chắc chắn vướng mắc hằng ngày trong công việc là nguyên nhân chính của tư tưởng trốn chạy. Kiến thức hắn khá rộng. Hắn không thiếu một bằng cấp hoặc chứng chỉ nào về quản lý kinh tế dù ngắn hạn hay dài hạn. Hắn kiêm luôn quyển tự điển sống để Phương và mọi người tra cứu các văn bản mới của nhà nước. Có lẽ vì vậy Hà hay bị tẩu hỏa nhập ma khi giải quyết mọi vấn đề từ lớn đến nhỏ, liên quan đến chức trách Giám đốc hành chính. Lần hồi Hà thành ra rất thụ động. Trọng và Phương nhờ gì Hà mới làm. Rảnh là hắn ngơ ngơ ngác ngác, ra ra vào vào như cái bóng. Hà biết không ai muốn thấy hắn đọc sách trong giờ làm việc nên thỉnh thoảng hắn lận lưng Lão Tử lén vào nhà vệ sinh!
Năm 2000, bản lề chuyển giao thiên niên kỷ chẳng có gì mới với công việc của Phương. Tệ hại là đằng khác. Nền kinh tế thiếu dưỡng khí tưởng chừng bị tác động không quá lớn của cuộc khủng hoảng cục bộ toàn cầu cuối cùng của thể kỷ bắt đầu phát sinh nhiều triệu chứng lạ.
Cuộc cải cách qui mô nhất của thời kỳ này chắc chắn là đợt giảm giờ làm. Tuần nghỉ hai ngày bắt đầu thành lệ. Từ đầu công ty Phương đã được nghỉ chiều thứ bảy. Tuy nhiên nghỉ thêm buổi sáng nữa rất phung phí. Cái cần thiết là tăng cường tinh thần làm việc và trách nhiệm cá nhân trước cộng đồng chứ không phải giảm thời gian phơi mặt tại công sở. Nghỉ ngơi ở đây rõ ràng không phải như phần thưởng của sự hoàn thành. Nó là phương pháp thụ động, chấp nhận và đầu hàng thói trây lười của xã hội. Phương từng chứng kiến tận mắt căn bệnh "nghiện lao động" của người Nhật. Hơn tám mươi phần trăm công nhân đến tuổi hồi hưu sẵn sàng tái ký với chủ những giao ước tạm thời. Họ không nề hà thứ bảy, chủ nhật. Niềm vui lớn lao với họ là được làm việc. Hình ảnh văn minh công nghiệp rõ ràng nhất trong Phương là từng tốp công nhân bốc xếp trên dưới lục tuần, quần áo bảo hộ sạch sẽ, giày vớ nai nịt gọn gàng. Họ lăn xả giữa hầm tàu, dùng móc sắt luồn dây mồi để cẩu các súc gỗ khổng lồ. Tốc độ của họ khiến thủy thủ Việt Nam lo lắng. Hàng dỡ nhanh thì cảng sẽ đuổi tàu sớm. Thời gian đi bờ mua đồ cũ co hẹp lại!
Ầm ào thêm chuyện bãi bỏ mấy trăm giấy phép trong đời sống kinh doanh. Trung ương xóa. Địa phương phản đối rùm beng. Thói quen đè đầu cưỡi cổ dân đen của một lớp người bị đụng chạm. Cuối cùng cái thuở muốn làm gì, đi đâu cũng phải làm đơn xin ì ạch lùi vào dĩ vãng. Ngày nay ít ai biết "Đơn xin mua mẫu đơn" là cái gì.
Việc tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng như biện pháp tình thế nhằm bổ khuyết nhu cầu mua sắm đang giảm của dân chúng không có tác dụng rõ nét. Sài Gòn lầm bụi, ngổn ngang dang dở bao nhiêu công trường. Chỉ cần nghiệm từ nghịch cảnh trước mắt trên con đường đi làm cũng thấy quá nhiều phi lý. Một ngày đẹp trời công nhân ùn ùn tập trung giải tỏa và tạo ra xa lộ mới phẳng lì. Nếu không còn hàng cột điện trồi ra sụt vào đâm xuống mặt nhựa thì xa lộ sẽ rất hiện đại. Nền đường quá cao thành ra nhà cũ hai bên như bị nén xuống, thấp chũn, dị dạng. Mặt nhựa chưa kịp quen mắt đã bị xới lên đặt cống. Sau cống tới cấp nước, viễn thông, điện lực luân phiên hành hạ. Hết vòng cải tạo này nọ thì con đường nham nhở ổ voi, ổ chó. Bụi vẫn còn đó. Đoạn trường và lời trách móc chẳng ai thấu. Kẻ nào thường xuyên sử dụng con đường này đều sắm đủ mắt kiếng đen tròng to, mũ nón sùm sụp, khẩu trang kín luôn cổ.
Về xây dựng hạ tầng phải nhắc ngay đến lễ khánh thành cây cầu Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền. Nước Úc viện trợ không hoàn lại gần 70% kinh phí xây cầu. Công nghiệp xi măng Việt Nam đang khủng hoảng thừa. Các nhà máy liên doanh thề thốt máy móc tân tiến bảo đảm chất lượng xi măng rất cao. Song công trình phải nhập khẩu xi măng Thái Lan vì không muốn phát sinh khoản thuế nội địa. Cầu rất đẹp. Trông xa như chiếc đàn Hạc với bộ dây văng mỹ lệ. Truyền hình trực tiếp, báo chí sôi nổi bình luận về hàng trăm ngàn người ùn ùn kéo đến xem cầu. Chương trình văn nghệ quần chúng ban đêm đưa đẩy những công nhân xây dựng diện áo dài hoặc âu phục trang trọng. Họ cất cao tiếng hát ca ngợi tháng ngày gian nan dầm mưa dãi nắng đã qua và vui mừng trước thành tựu mới giúp cho kinh tế vựa lúa tung cánh. Người nông dân chất phác lam lũ mừng rỡ. Càng trân trọng tình cảm của họ bao nhiêu thì càng thông cảm với họ bấy nhiêu. Nếu một tấn gạo giá 170 Mỹ kim, mỗi năm số tiền xuất khẩu gạo của đồng bằng sông Cửu Long đủ xây 10 cây cầu như vậy!
Công ty Phương ngáp dài. Đơn hàng, hợp đồng thưa thớt cầm chừng. Một phần ba nhân viên bị sa thải. Số đông bị giảm lương và thay nhau nghỉ phép tự nguyện. Nỗi khổ của lớp cần lao, bán sức cho giai cấp bóc lột ai chẳng từng biết. Người ta cần biết thêm gánh nặng của các tiểu chủ nhân, mầm non tư bản của nền kinh tế thị trường đang hướng đến. Không lương đã đành, họ bất lực nhìn sự tích lũy lao động nhọc nhằn thể hiện bằng đồng vốn, cứ không cánh mà bay, mà xói mòn, hơn bất cứ qui luật khấu hao siêu tốc nào.
Hôm hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký có lẽ là ngày vui hiếm hoi cuối cùng của công ty Phương. Mới bước vào cửa Trọng la toáng lên:
- Vận hội tới rồi. Chúng ta đã trượt qua tuổi ba mươi hết cả. Đây là cơ may cuối cùng.
- Đi học thêm, ôn luyện tiếng Anh, nghiên cứu kỹ điều kiện hội nhập là việc trước mắt - Hà cười rất tươi - Ai muốn thì tôi đưa đĩa mềm này cho sao chép toàn văn hiệp định vào ổ cứng mà soi mói. Đêm qua tôi lục tin tức đăng tải trên mạng mờ mắt mới thấy.
Phương hăng hái mượn Hà. Anh giải nén tập tin và xem lướt qua trong khi mọi người bàn tán, bình luận xôm tụ về bản hiệp định. Ai cũng háo hức như trẻ con.
- Mai mốt chắc xin chiếu khán nhập cảnh Mỹ dễ lắm nhỉ - Cô bé ngồi trực tổng đài điện thoại ỏn ẻn - Ba em ở bển không tiếc tiền lo cho em qua chơi với ổng một chuyến. Lần nào cũng bị ách nơi phỏng vấn. Họ cứ sợ em sang đến nơi là không về nữa.
- Em báo cho quí anh biết nhé - Cậu sinh viên Luật khoa mới ra trường, đang trong giai đoạn thử việc góp tiếng - Khi cờ sao sọc cắm đầy nơi nhà máy, công ty Mỹ từ Lạng Sơn đến Cà Mau thì mấy trự trách nhiệm hữu hạn nội địa còn lâu mới thuê được cử nhân luật như em làm nhân viên quèn. Cỡ em họ sẽ trả năm bảy trăm Mỹ. Gọi là tối nào cũng vũ trường quán xá vẫn thừa tiền, lâu lâu sẽ mời xếp cũ vài chai rượu tây X.O đàng hoàng.
- Nổ vừa thôi em trai - Phương hướng mọi người vào nội dung anh vừa tiếp thu – Phần mở đầu văn kiện bao gồm năm câu chặt chẽ, hoàn chỉnh và rất phức tạp với chủ ngữ là Việt Nam và Mỹ. Động từ chính được dùng: mong muốn, thừa nhận, lưu ý, tán thành, tin chắc. Người đọc sẽ lạc ngay vào mê hồn trận với 10 lần nhắc đi nhắc lại chữ kinh tế, thương mại; sáu lần nói đến song phương, bình đẳng, bốn lần ba hoa về phát triển, bốn lần đề cặp đến quyền lợi, lợi ích. Người Việt cần những thứ này lắm nhưng Mỹ không có cũng chẳng sao. Vậy đằng sau thứ mà Mỹ thừa thãi này là gì?
- Đơn giản thôi Phương - Trọng bĩu môi - Nên nhớ chúng ta đang phấn đấu thành thương gia chứ không phải nhà chính trị nhé.
- Clinton còn thổ lộ hắn muốn là tổng thống đầu tiên của Mỹ thăm Việt Nam sau năm 1975. Đợi cuối nhiệm kỳ hắn qua mày hỏi trực tiếp hắn nhé - Hà nheo mắt với Phương.
- Khi nào nghe tin Clinton sắp sang đây tao sẽ lên ủy ban nhà nước xin phép biểu tình phản đối hắn. Ai tình nguyện tham gia với tôi không?
- Mày điên hả? - Trọng chằm chằm nhìn Phương - Clinton dỡ bỏ cấm vận, mở bang giao Việt Mỹ và bây giờ ký hiệp định thương mại. Hắn là ân nhân của dân tộc Việt Nam chứ không phải kẻ thù.
- Lạ nhỉ, khi nó cấm vận thì là kẻ thù, là giặc. Nó bỏ cấm vận, lập tức biến thành ân nhân. Ở đây ngôn ngữ tráo trở hay con người tráo trở. Giả sử Clinton đến mà không ai đón tao sẵn sàng lịch sự tiếp hắn. Nhưng chắc chắn thảm đỏ đã trải ra. Để làm một người có lương tri thì nhiệm vụ của tao là phải căng băng rôn qua những gốc cây điệp vàng trước Lãnh sự quán Mỹ ngoài kia. Tao muốn vạch cái mặt trái bẩn thỉu của nền văn minh Tây dương mà đại diện là tên sát nhân hèn hạ Clinton. Tao cảm thấy hổ thẹn cho ai từng xếp hàng nghe George Bush diễn thuyết mấy năm trước. Câu chửi dành cho hắn phải được coi là biểu hiện cao cấp của văn hóa. Đáng tiếc chỉ toàn lời hay ý đẹp, thơm tho bóng bẩy.
- Tao biết… tao biết mày sẽ thay mặt cho nhân dân Irak, nhân dân Serbia chứ gì - Hà gật gù - Xa xôi quá.
- Chất độc màu da cam rất gần. Quanh đây thôi nhưng chẳng ai muốn nhìn thì phải.
- Mày sẽ được phỏng vấn, lên vô tuyến khắp hành tinh - Trọng bảo.
- Tao sẽ đeo mặt nạ như kẻ vô danh.
- Hoan hô lương tri - Hà khoát tay - Nhưng còn lâu người ta mới cấp phép cho mày biểu tình.
- Thôi làm việc đi - Trọng vỗ tay đôm đốp - Trưa nay bàn tiếp nhé. Cái Hiệp định thương mại xem ra có vô khối điều để nói.
Cuối cùng Clinton cũng đến và đi khỏi Việt Nam bằng các chuyến bay đêm. Sự kiện này kích thích trí tò mò của dân chúng hơn một vụ đụng xe hay đánh ghen nên hàng chục ngàn người đổ ra đường, vắt vẻo ngồi trên yên xe gắn máy chiêm ngưỡng hàng đoàn xe hơi bóng lộn gắn kính chống đạn lăn bánh. Để chứng tỏ mình không vô học, nơi đầu tiên Clinton viếng thăm, sau thủ tục ngoại giao, là Văn miếu. Ông ta cũng trọ trẹ vài câu Việt ngữ tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
Clinton nghĩ gì khi cúi đầu trước Thánh Khổng, trước tổ tiên của tầng lớp trí thức Á đông? Clinton cầu nguyện gì khi ngồi xuống, đặt tay lên đầu cụ rùa linh thiêng hơn 500 tuổi? Chỉ trời mới biết.
Liên tiếp trong ba năm công ty Phương lỗ tổng cộng hơn 50% số vốn đầu tư. Không hẳn bầu trời toàn màu xám. Toàn quốc vẫn tăng trưởng tuy hết sức khiêm tốn, ngoại trừ ngành thuế, đầu năm nào báo chí cũng tung hô: Họ luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch khoảng 10%. Ngân sách nhà nước bội thu mấy ngàn tỉ đến nỗi các ông Nghị phải đặt dấu hỏi.
Công ty Phương quyết định tìm lối thoát bằng cách khai thác công nghệ thông tin. Mọi người đồng lòng đầu tư hơn năm ngàn Mỹ kim vào việc bán hàng qua mạng. Một địa chỉ giao dịch qui mô được tạo ra nhắm tới cả thị trường ngoài nước. Rán lờ quên khó khăn: máy chủ của mạng lạc hậu, tốc độ đường truyền kém, xa lộ thông tin tắc nghẽn do quá tải thường xuyên, hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn vướng mắc kiểu mồm ếch, chân rùa.
Phương liên lạc với nhà cung cấp dịch vụ mạng xin mua danh sách thuê bao để quảng cáo trực tiếp bằng điện thư. Câu trả lời chính thức là không bán vì bảo mật. Bẵng đi hai ba ngày có người gọi Phương tự giới thiệu là tin tặc. Họ ra giá nửa triệu đồng cho một ngàn địa chỉ điện thư, cứ thế mà nhân lên. Nếu mua hết số lượng thuê bao hiện hữu tại Việt Nam số tiền phải trả ước chừng vài mươi triệu. Rõ ràng đây là phi vụ mà người mua nắm chắc phần lỗ.
Chuyển qua phương pháp thủ công. Mấy nhân viên được giao nhiệm vụ lọc lựa trong hằng hà sa số danh bạ các công ty tiềm tàng. Khi gọi hỏi xem họ có sử dụng mạng thông tin không thì chín mươi phần trăm trả lời mới nghe đồn trên báo, thấy hay hay nhưng chưa xúc tiến cài đặt. Gạn ra nhúm tương đối tân tiến, Phương cũng cố chen chân tìm hiểu. Nói chung họ coi địa chỉ điện thư như một dòng ngắn, thêm vào dưới số điện thoại và sao truyền trên danh thiếp. Mua oai thôi! Lâu lâu xếp lớn táy máy thì được quân sư mình bịt mắt cho sờ voi. Nếu xếp dễ gần, chịu chơi, đám trẻ này sẽ hướng dẫn xếp cách vào yahoo.com hay aol.com tìm xem ảnh khỏa thân.
Trang quảng cáo hướng ra người nước ngoài khá hơn chút đỉnh. Tháng đầu cỡ năm trăm người tham quan. Vài ba hợp đồng lên dự trù, mọi người khấp khởi. Tuy nhiên khoảng cách nền kinh tế quốc gia của hai đối tác làm nên hố ngăn cách rất khó vượt qua. Đơn hàng nhỏ dưới một ngàn Mỹ kim sẽ đội giá rất cao nếu thanh toán bằng tín dụng thư. Chuyển tiền qua điện tín trước hay sau giao dịch đều không được ràng buộc pháp lý nào nâng đỡ chữ tín. Sáu tháng dằng dặc, qua mạng công ty Phương môi giới bán được hai container 20” kẹo đậu phộng và khô mực. Mạng chỉ giúp họ biết nhau. Mọi bước khác đi đến giao thương trót lọt, hoàn toàn theo lối cũ đường xưa.
Sự bùng nổ thông tin còn lâu lắm mới tràn qua xứ sở này. Bốn mươi ngàn người đăng ký mạng trên gần tám mươi triệu dân là giọt nước ngoài biển khơi. Không biết chừng câu chữ to tát kia chẳng hơn lời quảng cáo. Tròm trèm hai ngàn năm, người lính Hy Lạp ngày nay sẽ dùng mạng máy tính toàn cầu báo tin chiến thắng nếu cần. Phương Tây vượt qua cuộc marathon tốn sức, tác thành phát minh đáng nể này. Song người ta vừa thay đổi hình thức chứ chưa thay đổi bản chất truyền tin. Vẫn thiếu vắng phương pháp hữu hiệu đo lường sự trung thực trong giao lưu. Tốc độ thông tin tác động đến mọi mặt của đời sống tới cái ngưỡng nhất định và dừng ở đó. Mạng cáp quang cùng hệ thống kết nối các máy tính còn rất xa chữ thần kỳ. Cũng như còn lâu lắm, doanh nhân Việt Nam mới có thể hoà mình vào không khí sôi động của thương trường quốc tế trên mạng.
Điển hình như tia laser, phát minh ra vẻ thần thánh cách nay vài thập kỷ đã thành đồ chơi con trẻ. Lần đó sân khấu thể nghiệm giới thiệu kịch bản tươi rói. Diễn viên ra chào khán giả rồi xếp vòng tròn sau lưng giám đốc nhà hát kiêm đạo diễn ưu tú. Quan phụ mẫu thao thao giảng dạy cách thẩm thụ hướng sáng tạo mới. Họ đem mặt nạ, áo choàng và kiếm của Romeo từ Italia trang sức cho chàng nông dân chân đất Việt Nam trong câu chuyện tình yêu hiện đại. Bỗng gần hai trăm con người đang chăm chú nghe cùng cười ồ lên. Khán giả nghiêm túc và lịch sự cỡ nào cũng không nhịn được. Đang mải mê với lời chải chuốt, thủ trưởng lúng túng quay dọc quay ngang tìm nguyên nhân ngả nghiêng của thính giả. Hoá ra thằng bé sáu bảy tuổi ngồi trong lòng mẹ ở hàng ghế đầu nghịch chiếc đèn pin laser nhỏ. Bàn tay lông lá màu đỏ sờ soạng lung tung, hết mái tóc bồng bềnh của nghệ sĩ ưu tú đến đùi cô diễn viên xinh đẹp.
Thời thế, thế thời chậm chạp trôi. Phương xa lánh mọi chốn tiêu tiền. Rời văn phòng, Phương đến lớp học tiếng Anh, lớp bồi dưỡng kiến thức kinh tế hoặc mài mắt trong thư viện.
Cuối năm Trọng, Hà và Phương tái mặt đọc bản báo cáo tài chính. Công ty của họ còn mỗi cái xác. Quỹ tiền mặt chỉ hơn chục triệu. Tài sản cố định toàn dụng cụ văn phòng đã khấu hao gần kiệt. Vốn nằm hết trong nợ khó đòi và không thể đòi. Chưa hết, tin cục thuế xuống kiểm tra, tất toán bùng phát như tiếng sét giữa trưa nắng chang chang. Sổ sách bị truy xét, xăm soi từng con số. Ba viên chức nghiêm trang, cần mẫn đến ngạc nhiên. Từng ngóc ngách bị hoạnh họe đủ đường. Họ thẳng thừng gạt hết những hóa đơn đầu vào “có vấn đề” do nhiều người bán hàng cung cấp, hoặc chi phí thực nhưng thiếu sót không đáng kể về mặt chứng từ. Họ giải thích trơn tru rằng hóa đơn “có vấn đề” phần nhiều do bọn buôn bán hóa đơn tung ra thị trường. Mặc tình hóa đơn này do chính cục thuế phát ra, dấu triện nghiêm chỉnh. Cục thuế bị lừa, công ty cũng bị lừa. Cuối cùng một trong hai kẻ bị lừa biến thành người phán xét. Mọi lỗ lã bỗng nhiên bị san bằng. Lợi nhuận vút lên… Công thức thuế lợi tức là 32% lợi nhuận, chi phí “có vấn đề” còn bị phạt 100%, phạt hành chính. Sau rốt lợi nhuận ảo vẫn kha khá so với tổng vốn đầu tư, sắc thuế lợi tức bổ xung “đập” thêm không thương xót. Biên bản tính thuế mới làm ngã ngửa cả công ty: tổng số thuế nhà nước sẽ truy thu là 1 tỉ đồng!
Hà ngây thơ hỏi viên chức:
- Chúng tôi lấy tiền đâu ra đóng thuế?
- Công ty anh nhằm nhò gì. 1 tỉ chia cho ba người sáng lập chưa ra con số 500 triệu để kết án tử hình! Nhiều ông trách nhiệm hết hạn nợ đến hàng chục tỉ vẫn hoạt động kìa.
- Vậy tính thuế để làm gì?
- Đó là công việc bắt buộc của chúng tôi. Con số này người khác xử lý.
- Công ty tôi quá nhỏ, sổ sách đã rất nhiều. Với công ty nhà nước sao kiểm tra thấu?
- Nhà nước kiểm tra nhà nước kiểu khác, chỉ xoáy vào vài vị trí, thời gian đâu lục hết được.
- Chắc chúng tôi sẽ đóng cửa, tuyên bố phá sản.
Trọng không thích dây dưa, nhiều lời vô nghĩa. Hắn chạy ngược chạy xuôi “binh biến” tìm cách gỡ nhưng cuối cùng tiu nghỉu: “Thà chẳng chạy còn hơn. Giá phổ biến là một phần ba… Thôi chúng mình chuẩn bị tinh thần đi nghỉ nóng ở nhà đá”.
Năm mới dương lịch về. Sau buổi họp toàn thể nhân viên với định hướng ít nhiều chắp nhặt và hết sức mù mờ, giọng nói Hà chùng hẳn xuống:
- Khủng hoảng kinh tế Đông nam Á và hai năm trì trệ vừa qua cùng sự kiện thuế má sắp khai tử công ty này. Thưa các anh chị, chúng tôi có lỗi. Mong mọi người hiểu cho quyết định cuối cùng của ban quản trị: giữ lại thư ký văn phòng và tổ trưởng kế toán. Từ ngày mai chúng tôi, những người sáng lập công ty sẽ tự mình làm hết công việc hôm qua anh chị đã làm. Chúng tôi xin khất số tiền trợ cấp thôi việc. Chúng tôi cố gắng thu hồi công nợ, được đồng nào sẽ chi trả ngay đồng đấy. Chúng ta bên nhau chia ngọt sẻ bùi bốn năm. Vì khả năng hạn chế so với ước vọng nên chúng tôi không giữ được công ăn việc làm cho quí vị. Thật đáng trách!
Mười mấy con người im lặng. Tiếng lạo xạo của ổ cứng máy vi tính không thể lẫn với tiếng quạt thông hơi rì rì êm tai.
- Lãng mạn quá - Trọng lắc đầu - Ngày mốt chủ nhật năm giờ chiều, xin mời tất cả ra Thi Sách nâng ly với nhau bữa tất niên chia tay. Sông có khúc người có lúc. Thế kỷ sau, khi nào công ty thay da đổi máu, cánh cửa này sẽ luôn rộng mở chào đón nhân viên cũ.
Khi nào là khi nào, Phương ái ngại quá. Thế kỷ sau rất gần mà cũng rất xa. Bốn năm làm ông chủ nhỏ, bốn năm lo toan xốc vác với sức trẻ và lòng nhiệt thành để đổi lấy cái nhìn u ám trước tương lai.
Phương cố nhủ lòng ngày mai bao giờ cũng đẹp. Cùng lắm thì làm hồ sơ xin việc, đi phỏng vấn. Chỉ mong thăng trầm của đời sống đừng tàn nhẫn ép uổng con người phải cảm nhận thời gian thừa thãi, vô vị.
Hình như giấc mộng khai thương của thế hệ Phương đã đi đứt. Hồ Gươm từng chứng kiến giây phút Phương lưỡng lự giữa hai con đường sĩ và thương. Hơn ba mươi tuổi, cái tuổi biết mình sẽ làm được gì xô tới mà Phương vẫn quẩn quanh bên những lo toan nhỏ mọn.
Sự đèn nén khách quan quá mạnh mẽ. Dưới vẻ bề ngoài khấp khởi, con tàu buôn mục ruỗng sẽ kịp ghé bờ hay lại chìm nghỉm. Tìm ổn định tuyệt đối dưới đáy sâu rong rêu người ta chấp nhận vỏ ốc vay mượn để chui vào, lần bò kiếm thức ăn độ nhật. Thử hỏi mấy ai cố một lần can đảm trồi lên mặt nước để áp lực của chính bản thân, trong dòng máu yếm khí chưa vội bị nhuộm đen nổ tung, phanh thây. Chuyến đi can đảm bao giờ cũng vắng khách bởi nhân gian chuộng hạnh phúc đớn hèn hơn sự dũng cảm mông muội đầy bất trắc.
9. Thân...
Ái tình là phần quá lớn trong cuộc đời Phương. Dạo còn sinh viên tình cờ Phương được diện kiến Nguyên Hy, nhà văn của quần chúng và dư luận. Nguyên Hy bảo: "Chú em còn trẻ lắm. Cách duy nhất để sống và trưởng thành là yêu, yêu và yêu. Mỗi người đàn bà là một trường học. Khi chú yêu đến người thứ 100, chú sẽ hiểu đời là cái quái gì ngay thôi mà". Nói xong văn sĩ kéo hơi thuốc lào thật sâu rồi khoan khoái phun khói lên trời. Bao nhiêu kính trọng Phương dành cho tác giả những truyện ngắn thời thượng bỗng trút hết vào lời rủa thầm: "Đồ hèn! Đồ trác táng!".
Vậy mà câu nói của Nguyên Hy cứ đeo đẳng Phương suốt năm tháng sau đó, như ám ảnh ti tiện và đáng khinh bỉ nhất. Éo le, nhiều ý nghĩa lớn lao Phương thu lượm được đều lấp lánh dáng dấp của một người con gái. Chính từ khúc quanh của nhiều mối tình anh bị đẩy đến cánh cổng mới dẫn vào miền suy tư ngổn ngang day dứt. Vượt lên thất vọng và chán chường, kỳ lạ thay bao sắc màu huyền bí. Nó áp đặt, định giá muôn mặt cuộc sống trong cái nhìn luôn thoang thoảng hương hồng hoa. Có lẽ tình yêu chính là toán học nhân văn. Người ta học cách sống, cách tận hưởng lạc thú và cả cách hủy hoại thời gian trên lối mòn, nơi từng in dấu chân thần tình ái.

Phương tiếp xúc khái niệm giới tính rất sớm, khi cậu mới hơn bốn tuổi. Chẳng biết mấy ngày hè oi ả ấy bà ngoại bận đi đâu nên gởi Phương qua nhà hàng xóm. Cậu ngủ chung với cô Ngân, người phụ nữ nông thôn ngoài hai mươi chưa con cái. Chồng cô đang ở Trường Sơn. Không hiểu vì lý do gì sáng nọ Phương tỉnh giấc rất sớm. Ánh ngày hãy còn mờ nhạt và xam xám như hình ảnh của vạn vật hiện lên trong trí tưởng tượng của con người. Phương trở mình. Và cậu phát hoảng. Có lẽ trời quá nóng nên cô Ngân khỏa thân ngủ. Cơ thể Phương tê cứng cảm giác sợ hãi nhưng ít nhiều lạ lẫm. Cô nằm nghiêng, hướng ra nguồn sáng ngoài cửa sổ. Hai cánh tay tròn lẳn khoanh hờ trước ngực. Phương bất động trong lo lắng. Thật lạ! Đứa trẻ bốn tuổi chắc chắn không thể biết cơ thể phụ nữ trước mắt mình đẹp hay xấu. Mặc cảm tội lỗi rất thật dù thằng bé chỉ vô tình. Sau cùng Phương cũng tìm được sự tĩnh tâm trong giấc ngủ nối với ý nghĩ vẩn vơ "Còn lâu mình mới thành người lớn!".
Sáu tuổi Phương vào lớp một. Ngồi cạnh cậu là cô bé rất xinh mang tên loài chim biển. Cậu thể hiện tình cảm bằng hành động hết sức ngờ nghệch: chối bỏ cái tên cha mẹ đặt cho. Cậu tìm nhiều lời lẽ ngây thơ thuyết phục thầy giáo viết lại tên cậu trong sổ điểm là Hải Âu! Phương chỉ nhớ bấy nhiêu, nếu không kể thêm lần kia tan học sớm. Cậu rủ vài nhóc bạn tha thẩn trong sân trường cố đợi Hải Âu về trước. Rồi cả bọn kéo nhau đến ngõ nhỏ quạnh hiu cuối phố chợ réo ầm tên Hải Âu lên. Chẳng thấy cô bé đón khách. Một người đàn bà trung niên dữ dằn bước ra xua đuổi những đứa phá bĩnh. Cả bọn hoảng hồn tháo chạy.
Năm Phương học lớp sáu, cậu mới dành sự mến mộ thực sự cho người bạn gái chung lớp. Nhi là con lai, tóc vàng, mắt xanh. Cậu rất mãn nguyện khi nghe chúng bạn xướng tên ghép đôi, còn Nhi luôn tỏ vẻ khó chịu. Tuy vậy không hiếm lúc họ bắt gặp sự thánh thiện hồn nhiên trong mắt nhau. Hai năm sau Nhi đi Mỹ theo chương trình đoàn tụ nhân đạo. Lớp học lưu luyến tiễn cô học trò giỏi bằng buổi xem phim trong rạp Đại Nam tăm tối mốc meo. Kẻ khéo trêu ghẹo xếp Phương ngồi cạnh Nhi. Họ không dám nói với nhau nửa lời. Khi bọc kẹo đường rẻ tiền được chuyền tới, Phương vội đưa cho Nhi. Hình như cậu đã hít thở thật sâu trước khi liều lĩnh nắm tay bạn. Vệt sáng vô tình từ màn ảnh tặng Phương ánh mắt câm lặng nồng ấm nhưng hết sức bối rối. Phương cất chiếc kẹo Nhi bỏ vào túi áo cậu như bảo vật hơn năm năm. Viên kẹo không thể tồn tại lâu hơn. Nhưng ánh mắt nọ nghiễm nhiên trở thành hình ảnh đẹp đẽ nhất được đặt trân trọng trong ký ức luôn chuyển dịch và dễ phủ bụi lãng quên của Phương.
Mối tình đầu của Phương là Thủy. Thủy hoàn toàn có thật nhưng Phương luôn nghi ngờ tính chân xác của trí nhớ. Các tiểu tiết trải dọc năm năm bản lề của tuổi hai mươi, chồng chéo, lẫn lộn quá nhiều biến động và hoang tưởng. Cuối cùng Phương cũng gặp dịp kiểm chứng tất cả trên nẻo đường Sài Gòn xưa cũ trong một đêm lang thang vô định.
Càng khuya, những con phố càng vắng vẻ. Phương thấy đâu đây bước chân mười tám tuổi với hành trình quen thuộc. Đại lộ Nguyễn Thị Minh Khai tên cũ là Xô viết Nghệ Tĩnh. Đoạn trước cổng trường Lê Quí Đôn quanh năm dìu dịu hương cổ thụ đại ngàn. Vòng xuống Võ Văn Tần sẽ đến Trần Quốc Thảo, con đường của gió và hoa dầu xoay tít, nghiêng ngả bao buổi chiều mùa hạ. Đích đến là ngôi biệt thự của hoa Hài tiên, của tiếng Dương cầm trên đường Tú Xương.
Qua phóng sự trên báo chí, truyền hình Phương biết gia đình Thủy không còn ở đó. Có điều chắc chắn, thời oanh liệt của họ đã qua. Cuộc sống mới làm họ dễ chịu hơn là điều Phương thấy trong mắt cha nàng, đôi ba lần giữa chuyên mục từ thiện.
Ngồi trong góc khuất quán cà phê Ngọc Lan, Phương sững sờ trước giai điệu một thời đam mê. Lối mòn xa xưa đang hiện ra, dần rõ hơn trên từng gót chân hoài niệm. Không gian hẹp lại. Nhịp lấy đà của bản Dạ khúc số hai, tập thứ 9, cung Mi giáng trưởng của Chopin vút lên. Viên ngọc lộng lẫy, không tì vết tỏa sáng. Đến đoạn rung dây thì Phương không nghi ngờ nữa. Người con gái ngồi bên Dương cầm mà anh thoáng thấy khi bước vào chính là Thủy. Riêng nàng mới có sự ngập ngừng là lạ trong nốt pha huyễn hoặc, cộng với chút làm duyên bằng phần đệm khấp khểnh. Phương lặng người. Bản nhạc kết thúc, anh xé mảnh giấy viết yêu cầu “Giấc mơ tình yêu - Frank Liszt - Biển ngày xưa”. Phương nhờ anh phục vụ đưa cho Thủy.
Bước chân mười tám tuổi. Con đường mở ra muôn phương, bồng bềnh trên nét nhạc thân thuộc, phương nào cũng dẫn về ngày tháng đã xa…
Đêm rất khuya, đường phố tịnh không một bóng người. Phương mệt nhoài đạp xe về nhà sau buổi tối làm thêm tại cơ sở in lụa tư nhân. Cơn mưa chiều gột sạch bụi bậm, vốn quá ít ỏi trên đường Tú Xương vắng vẻ. Bất chợt Phương thả chân, tìm nơi phát ra chất nhạc Chopin. Không cưỡng lại được, anh quay xe và đến đứng cạnh hàng rào ngôi biệt thự.
Từ ấy Phương hay ghé qua góc phố này. Đến nỗi mấy người cảnh sát bảo vệ ở vọng gác gần đó ngầm coi sự hiện diện của anh hoàn toàn vô hại. Gặp kì làm hàng gấp như sau hè, trước tết, Phương chỉ thoát khỏi khuôn in lúc 2, 3 giờ sáng. Anh vẫn về ngang đấy như quán tính dù muôn phần uể oải và hẳn nàng đi nghỉ rồi.
Thật tình Phương chỉ say mê ngón dương cầm. Anh xa đàn đã mấy năm. Phương trộm nghe nhạc không vì vẻ xa hoa cao quý của nó. Anh muốn tái hiện tháng ngày vô lo, yên ả và thoáng hạnh phúc mong manh của tuổi thơ không trọn vẹn bên người dì phúc hậu, tốt bụng. Phương chưa bao giờ tưởng tượng xem người chơi đàn đang hắt chiếc bóng mảnh mai lên khung kính cửa sổ, là cô gái già hay trẻ, xấu hay đẹp. Chỉ biết tóc nàng dài, tiếng đàn kỳ diệu, đầy sức sống. Hình như nàng rất thú vị với vị khách không mời. Nhiều bữa nàng còn dạo vài khúc nhạc ru trong quyển Phương pháp Hoa hồng, bằng lối thả tay nghịch ngợm, như lời chúc ngon giấc trước khi tắt đèn. Mãi sau này Phương mới hay chú bảo vệ kiêm lái xe riêng của cha nàng từng để ý tới anh và trình báo đầy đủ cho cô chủ nhỏ.
Phương nhớ rất rõ lần đầu tiên họ gặp nhau. Buổi tối heo may mát mẻ. Phương ôn bài cả buổi chiều và thầm cầu mong số hàng tồn kho đi hết thì anh mới được gọi làm tiếp. Phương định đi bộ thư dãn đầu óc. Lang thang, vẩn vơ nghĩ ngợi vô chủ đích anh tới góc phố ấy lúc nào không biết. Tiếng đàn thân quen, chẳng chút ngại ngùng. Thanh âm cuối cùng buông lơi sớm hơn thường lệ. Phương chưa muốn về nên đứng yên một lúc. Tiếp theo tiếng két của cổng sắt là gót chân rất nhẹ của Thủy. Phương giật mình. Tiểu thư khá đài các, gương mặt đẹp như thiên thần nhưng hơi lạnh lùng. Sắc đẹp của nàng ẩn chứa tai họa. Không phải tai họa cho kẻ si tình, mà cho chính nàng. Sự hoàn hảo tiềm tàng bất hạnh và gian truân, hơn là hứa hẹn điều sáng sủa.
- Mình là Thủy. Người vẫn đàn cho bạn nghe đó. Còn bạn?
- Xin… chào, tôi là… là Phương. Bạn phiền vì tôi ư?
Thủy sanh sau Phương đúng một ngày, chẳng hiểu có phải vì cùng vào mùa Thu nên tâm hồn họ tương hợp ở nhiều điểm. Tuy nhiên sự khác biệt cũng không nhỏ. Thủy thường hỏi Phương: "Lãng mạn và hạnh phúc đối lập ở chỗ nào?". Nàng mê thơ Xuân Diệu đến mụ người và hay à ơi vài câu khá nổi tiếng. Dạo nọ nàng suốt ngày nghêu ngao: "Yêu là chết ở trong lòng một ít…". Phương cười nửa đùa nửa thật: "Sao em thích loại thơ hô khẩu hiệu vậy. Yêu gì mà xét đoán, so đo quá chừng. Này nhé: được, mất, cho, nhận. Tình yêu không biết mặc cả. Sự ngoại lai trong thơ Xuân Diệu không dừng nơi ngôn từ, hình ảnh và nhịp điệu. Nó ôm đồm luôn lối thực dụng buồn nôn. Việc hiện diện của người anh yêu trên đời này đã là quá nhiều… dù đơn thuần về tinh thần, sự đòi hỏi rất xa lạ với tình yêu".
Mùa Thu đi qua. Thủy vào nhạc viện. Phương bắt đầu thời sinh viên tất bật với lớp học, dạy kèm và xưởng in. Điểm hẹn duy nhất của họ là Thư viện Khoa học tổng hợp trên đường Lý Tự Trọng. Giải lao họ thường ngồi trò chuyện trên ghế đá, dưới tàn cây hoa Ban cổ thụ đơm đầy hoa tím và trắng. Đôi đoạn lịch sử âm nhạc Thủy tụng niệm mãi không thuộc vẫn in đậm trong đầu Phương cho tới bây giờ.
Rồi Phương ra Hải Phòng học tiếp sáu kỳ chuyên môn. Suốt tuần cuối, tối nào họ cũng hò hẹn, nói cho nhau nghe không biết chán về dự định tương lai. Tuyệt nhiên, Phương luôn từ chối bước vào nhà Thủy để nàng đàn tặng anh những bản nhạc cả hai đều thích. "Hãy chờ anh…" Phương thoái thác đơn giản như thế. Anh không kể Thủy nghe thái độ trịch thượng của ba mẹ nàng trong đôi lần có chuyện gấp, chẳng đặng thì đừng Phương gọi điện thoại tìm Thủy.
Ba năm tiếp theo họ gặp nhau đúng một lần. Sự chia xa đang đến gần, thể hiện bằng thư từ ngày một thưa và ít nồng nàn hơn từ phía nàng. Sự trưởng thành mang con mắt rất nghiệt ngã. Chuyến đi Hải Phòng là phần thưởng cho tấm bằng tốt nghiệp Thủy vừa nhận.
Mùa đông. Đồ Sơn vắng vẻ. Thủy và Phương người trước người sau men theo triền núi vắng. Những họng pháo phòng thủ bờ biển đen ngòm, lặng im nhìn họ từ trong hang đá. Cúc dại lác đác khắp nơi. Cánh hoa mỏng manh tỏa ra như tia sáng mặt trời ấp ủ màu vàng đến nao lòng, vô tư đùa gió ngàn khơi. Cổ nhân xem cúc mang mối liên giao giữa trời và đất. Vì thế hoa gánh thêm khái niệm bất tử, viên mãn, vẹn toàn. Bậc quân tử ẩn mình, lẩn tránh thế gian cũng chính là hoa cúc. Gần mười năm sau Phương mới gặp lại loài hoa này ở nơi rất xa biển. Trên đỉnh cao nguyên Lâm Viên người ta gọi chúng là Dã quỳ hoặc Cúc quỳ.
Chiều muộn, hai người viếng thăm tàn tích tòa lâu đài đổ nát giữa đồi thông xanh um nhìn xuống bãi bùn. Sự im lặng cứ đeo bám họ. Phương nhìn mãi không chán mảnh trời đóng khung trong lỗ hổng lở lói của chiếc cửa sổ cũ. Từng cánh hải âu đan qua. Vài điểm trắng lấp lóa điểm xuyến nền biển xanh thẳm.
- Trên đầu chúng ta chẳng còn trần nhà. Bầu trời không bị giới hạn bởi cái vòm bán nguyệt kia.
- Em tự biết mình nhỏ bé lắm Biển ơi. Đừng bắt em ngước lên.
Phương trút sự bất lực vào đôi tay. Những bụi cỏ bật khỏi trầm tích thời gian, hiển hiện khung lò sưởi cũ. Đống gạch ngói vụn bên cạnh bị anh xới lên, ném như điên dại qua cửa sổ. Chúng vội vàng mất hút dưới chân đồi, không dám trả ngược hồi âm. Cuối cùng sàn nhà bằng phẳng khiến Phương tạm dừng. Mười đầu ngón tay bỏng rát. Phương nhặt thanh gỗ mục, nghuệch ngoạc vẽ hình chiếc dương cầm theo đúng kích thước thật.
- Nếu anh là chủ lâu đài, anh sẽ đặt đàn chỗ này. Hợp lý lắm phải không em. Ai biết mấy tiểu thư, mấy nàng công chúa, mấy mệnh phụ phu nhân từng ngồi đây. Họ gõ vào phím đàn, cất lên tiếng hát ngợi ca cuộc sống vương giả và tiếc rẻ cuộc chơi mang tên đời sống ngắn ngủi.
Phương đổi nhuận bút hai tháng viết lách lấy hai phòng trọ rất sang trọng theo ý Thủy. "Ngôi biệt thự hiện đại hàng đầu" của Đồ Sơn nằm trên đỉnh núi nhỏ, đối diện sự hoang phế ban chiều. Nhờ kinh tế thị trường, mọi người mua được nhiều tiện nghi mà ngày hôm qua họ chỉ có thể trầm trồ đồn đoán, bái vọng từ xa. Phương đứng ngoài ban công gần như cả đêm. Gió mùa đông bắc ướp khuôn mặt anh băng giá đến vô cảm.
- Em thấy bóng tối và cái chết hết sức công bằng không? Quân vương và nô lệ, lâu đài và nhà tranh vách đất đều bằng nhau và bằng không.
- Anh nghĩ về cái chết hơi sớm?
- Cuối mọi con đường là cái chết. Anh không thấy sự đe dọa. Hãy hiểu lời nhắn nhủ ta hãy sống tốt hơn, hoài bão nhiều hơn, tham vọng càng ít càng dễ thở.
- Em chỉ sợ quên lãng.
- Nỗi nhớ là lao tù của phản trắc, là hạnh phúc của trái tim chân thành.
Biển rộng mở vòng tay đón Phương, ru hời giấc mơ tuổi trẻ không bờ bến. Thủy chẳng liên lạc với anh nữa, dù Phương đã cho nàng địa chỉ Đại lý tại Tokyo. Một buổi chiều Thái Bình Dương tĩnh lặng trong ngột ngạt âm ỉ. Áp thấp nhiệt đới ngấm ngầm hình thành. Phương bất ngờ nhận được điện tín. Không hiểu bằng cách nào Thủy biết Đài Viễn thông Duyên hải và dò đúng số hiệu điện báo con tàu Phương đang làm việc. "Phương, anh đang ở đâu. Hãy điện thoại cho em càng sớm càng tốt nhé anh".
Hai tuần sau Thủy ra cảng Hải Phòng tìm Phương. Họ đều chuẩn bị rất nhiều thứ để nói, nhưng rốt cuộc lần gặp gỡ cuối cùng quá kiệm lời. Bữa cơm chia tay có lẽ cực kỳ nặng nề, nếu nhà hàng Thủy chọn không phải là Nữ Hoàng Ong. Chiếc dương cầm màu đen khiêm nhường đứng trong góc. Nó rất lạc lõng giữa bia rượu và thức ăn sang trọng của đám thực khách đẫy đà, làm dáng bằng những câu chuyện tiền nong xôm tụ. Cái Phương tạc lòng đánh dấu đêm chia tay vẫn là bản Dạ khúc. Chopin viết tác phẩm này ở cung Đô thăng thứ, người đời xếp nó vào tập Vĩnh biệt. Thủy chơi hết sức ngẫu hứng. Nàng đổi thay nhiều, may mắn tiếng đàn thuở nào chưa nhạt phai.
Mỗi người giữ riêng một ý nghĩ, họ dạo quanh công viên trước nhà hát lớn khi đêm sắp khuya. Vòm hoa phượng bên Quán Hoa, biểu tượng của thành phố cảng, đỏ bầm trong bóng tối nhập nhòa.
- Em biết em chẳng giúp anh được gì. Không phải em không muốn dùng lợi thế của mình. Bản tính anh ghét cay ghét đắng sự cầu cạnh. Nhưng anh đừng từ chối lòng tốt của ba em. Ông sẽ duyệt cho anh một nền nhà giá bao cấp.
- Em muốn nói em mang lợi thế hơn mọi người từ trong bụng mẹ? Em lầm! Mỗi bộ óc đều có quyền tự do cơ bản nhất, đó là ý nghĩ về sự bình đẳng với đồng loại. Em tự coi mình là "kẻ trấn lột bẩm sinh" ư?
- Phương! Em không tệ hại đến vậy đâu.
- Anh rất khách quan. Từ bé em quen ăn theo những tiện nghi của xã hội dành cho cha mẹ. Lớn bằng này, em cho mình quyền chọn lựa giữa một cậu thủy thủ nghèo kiết xác, tương lai mờ mịt với cuộc sống đủ đầy hiển hiện trước mắt ư. Tình yêu không thể đơm hoa trong em đâu. Chỉ đơn giản là toan tính.
- Thôi… thôi… đừng mạt sát em chứ anh…
- Trước sau anh cũng cần tổ ấm cho riêng mình. Nó sẽ không bao giờ toạ lạc trên mảnh đất kia. Chưa biết chừng, hai mươi năm nữa anh sẽ hỏi mua chính căn nhà của cha mẹ em.
Từ giờ phút ấy Thủy và Phương bỗng trở thành hai người xa lạ. Mới biết sự xa lạ trong tâm can thật kinh khủng. Anh đưa nàng về khách sạn Cát Bi, cạnh công viên Nguyễn Du. Ký ức quá đẹp của ngày tháng xa xưa đang cố gượng dậy, níu kéo rồi vật vã nhưng không thể thoát khỏi vòng vây lý trí. Thủy rụt rè định choàng ôm Phương. Anh lắc đầu né tránh.
- Hãy thức với em đêm nay Biển nhé! Như ở Đồ Sơn dạo nào…
- Sớm mai tàu nhổ neo sang Thái Lan… Anh rất bận. Chỉ cần quay lưng lại, chúng ta đã cách nhau đúng một vòng trái đất. Vô ích lắm Thủy à… Chúc em may mắn…
Lấy hết can đảm Phương nhẹ nhàng trả lời và trở gót. Nếu cố nấn ná, tính nóng nảy của anh sẽ làm nàng phát khóc bởi những câu độc miệng nhất. Phương thở hắt ra. Anh cắn môi thầm nhủ: "chẳng còn gì cả!". "Không phải thế" - Phương tự bào chữa - "Mối tình đầu vụng dại của tôi!". Những bài thơ âm thanh lãng mạn tột cùng của nhân loại đã hơn một lần thăng hoa trong trái tim Thủy. Đó là chốn bình yên thánh thiện để Phương tìm về với quãng thời gian rất đẹp của đời mình.
Khi công việc tạm ổn định tại Sài Gòn, Phương tìm mua chiếc dương cầm cũ. Nỗi khát khao lớn nhất của tuổi thơ được thực hiện thật toàn mỹ. Đáng ngạc nhiên, lúc tháo hàng phím lau chùi, Phương nhặt được tấm hình đen trắng xưa cũ loang mốc úp mặt xuống bụi bặm. Nét chữ Thủy bay lượn: "Lãng mạn và hạnh phúc chẳng bao giờ chung sống trên một cuộc đời…". Khoảnh khắc mùa xuân hai mươi tuổi, Thủy khoác tay Phương dưới cội Mai già giữa hội hoa Tao Đàn. Quả bong bóng nàng cầm bị viền răng cưa mép ảnh cắt đi non nửa. Phương tặc lưỡi. Anh trả ảnh về chỗ cũ, như không thể nào khác được, nhưng với hai khuôn mặt tươi cười nhìn lên.
May mắn, quán cà phê vắng khách hay luôn vắng khách Phương không biết. Đây là lần đầu tiên anh đặt chân tới chốn này. Họ quay lưng về nhau. Thứ gì đó rất chung, nhưng không phải âm nhạc đang hàn gắn chuỗi ngày rời rạc phủ đầy bụi lãng quên, tưởng chừng mấy hút trong vòng xoay đời tẻ nhạt.
Ngoài sân, bầu trời thành phố đẹp lạ thường. Cơn mưa trái mùa ban lộc. Vầng trăng xa xỉ của cuộc mưu sinh thoát khỏi những cao ốc ghớm ghiếc, nhuộm vàng mơ dải sương mỏng manh vắt qua con đường vắng.
Bản Dạ khúc của họ đi vào đoạn kết rất nhẹ nhàng. Cả hai sóng bước ra cổng như cặp tình nhân quá đỗi hiểu nhau, chẳng cần cử chỉ âu yếm khoe khoang như nắm tay, kề vai hay kiếu cách tương tự.
- Em về bằng gì?
- Xe ôm anh à. Em không dám đường khuya thân gái. Nhà em ở tận quận 12.
- Anh tiễn em một đoạn.
- ………
- Tòa biệt thự anh đã bốc đồng đòi mua kìa. Bây giờ họ trồng hoa giấy. Cây Ngọc Lan mới đơm bông thì phải.
- Lâu lắm em không đi ngang đây, hay chính xác là cố tránh lối này. Nhưng em biết dàn hoa trồng trước năm 1995. Anh có nhớ bài thơ "Hoa giấy" của anh năm ấy không? - Thủy khe khẽ đọc, giọng đằm thắm, quá đỗi gần gũi với sắc màu riêng biệt của ngón đàn.
Vay sắc nắng hồng
Mượn gió lả lơi
Hoa nghạo nghễ mỉm cười trên vòm cổng
Mê hoặc bước chân qua
Tôi trở về khi chiều uá đã xa
Cố tìm hoa trong hương đêm thanh khiết
Chỉ gặp lại nhúm xác hoa bạc phếch
Chen mảnh vụn thư tình giắt cỏ rối đường trăng.
- Anh ghét em đến thế sao.
-???
- Em vẫn dõi theo bước chân anh. Lâu lâu nếu không thấy thơ anh là em trống vắng lắm. Anh gởi đăng thường xuyên em lại lo. Anh chẳng từng bảo anh thật sự cần thơ khi buồn chán hoặc thất vọng.
- Anh đã chữa được căn bệnh mãn tính liên quan đến thơ thẩn từ khi ra với biển. Có lẽ bài thơ em đọc của cậu sinh viên nào đó. Cậu ta vô tình chọn bút danh giống anh. Hy vọng bài thơ nhằm giải tỏa ám thị hoặc viết để kiếm nhuận bút. Mỗi thế hệ sản sinh một lý lẽ tình cảm riêng trong cái chung dễ lầm tưởng.
- Em không thể hình dung ra đời sống thiếu thơ.
- Rất khó phân biệt được văn có vần, có điệu và thơ. Thơ là nỗi đau thăng hoa, là khát vọng bị đè nén.
- Nhưng em tin em hiểu thơ anh.
- Thơ khơi nguồn cảm xúc và gần như không đòi người đọc phải hiểu.
- Anh không hỏi về cuộc sống của em?
- Tiểu thư đi đánh đàn cho quán cà phê bằng xe ôm. Chẳng nói lên gì nhiều. Cũng vừa đủ. Anh mừng vì em đang bám rễ vào công việc.
- Anh sống ra sao?
- Một mình.
- Anh ra dáng rồi.
- Nếu đúng vậy thì nó là giá trị con người anh sao?
- Anh khó tính hơn xưa nhiều quá.
- Chúng ta sắp già rồi Thủy ạ. Anh biết phải đi tìm thứ mình cần và không nên chạy theo cái mình thiếu.
- Em đoán anh đang đặt gia đình ở vế thứ hai.
- Chắc vậy, còn em?
- Chồng em nhận án kinh tế, mười lăm năm tù giam. Tài sản bị tịch thu. Cha mẹ em cũng liên đới. Họ dọn về quê dưới Củ Chi. Hai ông bà giờ đây nghèo nhưng thanh bạch. Ban ngày em đi dạy kèm, tối đánh đàn thuê ở nhà hàng, tiệm cà phê.
- Hãy nói về con em đi.
- Bé Thùy Dương đã 7 tuổi. Nó ngoan và rất thích chơi đàn dương cầm.
- Anh gọi taxi cho em nhé.
- Anh không muốn đi trên con đường mười tám tuổi hả Biển. Em không xứng đáng để anh đưa về sao?
- Anh sẽ luôn bên cạnh em, ít nhất như hiện tại. Em vẫn thi thoảng hiện ra trong ý nghĩ của anh. Xin lỗi, anh không nên biết em đang ở đâu.
Họ bên nhau, dọc nỗi niềm xưa cũ. Phương rất sợ tự nhiên Thủy bật khóc và dụi đầu vào ngực anh như ngày nào. Tới cổng trường trung học Lê Quí Đôn, Phương chủ động dừng bước.
- Đoạn đường này không dài nhưng cũng mười mấy năm rồi phải không "Biển ngày xưa"?
- Khúc vĩ thanh em chơi lúc nãy anh chưa được biết.
- Nhạc cảm rất nhạy. Tác phẩm này bật ra từ tháng ngày khốn quẫn nhất của đời em. Em đã viết như sự trốn chạy thực tại trong khi luôn bị quá khứ ám ảnh.
- Nghe xong anh chợt nảy ý thơ. Anh ghi vội vào miếng giấy bạc bao thuốc lá.
Thủy xòe bài thơ hứng ánh đèn pha thưa thớt của các phương tiện giao thông. Nét chữ loang loáng lúc mờ, lúc tỏ:
Mười tám tuổi ta còn trẻ quá
Ngày tháng mênh mông si đắm mộng phù du
Ba mươi tuổi mới biết bóng em là hư ảo
Mùa trăng lại về
Thi sĩ đã theo tiên!
Nốt nhạc đen nối đêm vào quá vãng
Vệt son dài suốt hoa niên
Ba mươi tuổi trở mình ôm gối cũ
Bùi ngùi vĩnh biệt chiêm bao
Thủy tiên héo khô
Chiều đã cạn
Chẳng thèm mơ suối mạch ngàn xa
Bấc nến đỏ
Sáp mờ ký ức
Cháy hết đi cho tiệt hôm mai
Cho muôn sau chẳng thể dông dài
Sông trôi cứ thế ngang trời mà trôi.
- Ôi! Đúng là thơ của một gã từng trải. Không trau chuốt đắn đo ngôn từ. Hay ở chỗ đấy. Anh đặt tựa chưa?
- Chắc chắn nó sẽ là "Bài thơ cuối cùng".
- Em luôn sợ hãi trước bất kỳ kết cuộc nào.
- Nếu bây giờ anh đánh đổi tất cả để lấy nhãn hiệu nhà văn quèn. Chắc mẩn chúng ta thành một đôi rất hợp?
- Hạnh phúc hay lãng mạn hả Biển?
- Anh không tiếc gì với em, và với anh cũng vậy. Lúc này người cần em nhất là bé Thùy Dương và cha nó.
Phương mở cửa xe mời Thủy vào. Nàng không gởi anh cái nhìn tạm biệt. Đôi mắt nàng xa vắng vượt qua mặt kiếng lốm đốm nước mưa. Con đường hun hút um tùm cây lá.
Phương vội vã trở về tổ ấm cô quạnh của anh. Cả đêm Phương miên man thả mình trong những bản dạ khúc Chopin dưới ngón đàn tài hoa của Evelyne Dubourg. Cuộc sống đến lạ! Người ta quen nhau trong một phút, thích nhau sau một giờ, yêu thương nhau nhiều ngày tháng nhưng chẳng lẽ cần cả đời để lãng quên? Tương lai tươi sáng của tình cảm là gì nếu không dựa trên quá khứ phải được quên đi mãi mãi. Hình như với Phương quên lãng rất gần với tha thứ, ít ra là cho chính anh, để hoài niệm về tuổi học sinh tươi sáng hơn. Với Thủy, anh hiểu đó chưa phải là tình yêu. Những ám ảnh, hằn học và độc địa chẳng qua là sự nông nổi, lãng mạn của tâm hồn thơ trẻ phản ứng khi bị bỏ rơi. Thủy của cuộc sống, của đời thường chắc chắn không phải là Thủy trong Phương… Mối tình đầu của anh chỉ là phút giây hư ảo đơn phương và gần như không chứa đựng thực tính.
Mỗi khi dị ứng bởi những lời có cánh, Phương thường nhớ đến Somporn. Nàng sống tại Bangkok, thành phố của các thiên thần, bên các mái chùa cong cong soi bóng xuống dòng Chaophraya dịu hiền. Somporn học trường thanh nhạc. Hằng đêm nàng làm thêm ở sàn discotheque cách cầu tàu số 16 khoảng 1km.
Chẳng cần biết họ đã quen nhau như thế nào. Mỗi đêm sau ca trực, Phương vượt qua con hẻm nhỏ giữa khu ổ chuột, ra đường cái đến quán để được nghe Somporn hát. Vị bia Bangkok rất nặng và nồng nặc mùi cồn. Phương nghiện ngập lúc nào không rõ. Somporn chỉ hát bài "Ngườiđàn bà đang yêu" riêng cho Phương, những lúc có Phương. Nàng hát bằng tiếng Thái, giọng trời cho tha thiết mà Phương thiên vị hay hơn cả Barbara Streisand. Hai giờ sáng quán đóng cửa, Somporn luôn đưa Phương về tàu như sợ anh đi lạc. Họ chỉ hiểu nhau qua ánh mắt vì Somporn không biết tiếng Anh. Khi cử chỉ bất lực, nàng sẽ chọn một câu trong quyển đàm thoại bỏ túi Anh - Thái đưa cho Phương đọc.
Gần hai tháng, hằng tuần tàu Phương ghé cảng Bangkok ba ngày. Chưa bao giờ Somporn bước vào phòng riêng của anh trên tàu. Nàng không muốn mọi người nhìn mình bằng ánh mắt khinh rẻ. Buổi chiều không lên lớp Somporn thường dẫn Phương đi chùa. Họ đã viếng gần khắp các chùa dọc dòng sông Chaopraya bằng phà hoặc taxi nước đặc trưng của Bangkok. Họ dán thật nhiều dát vàng mỏng vào ngực phật, nơi trái tim. Phương không tôn giáo nên ít khi cầu nguyện, nhưng lúc ấy anh thường thấy không khí hết sức linh thiêng. Tại chùa nào Somporn cũng xin lá số cầu may cho Phương. Nếu lành ít dữ nhiều mắt Somporn tối đi. Nàng trở ngược dán thêm giấy vàng, miệng thì thầm niệm phật.
Họ háo hức khám phá Bangkok như hai vị khách du lịch. Nhiều đêm thức khuya quá, Phương ngủ quên trên taxi. Somporn kiên nhẫn ngồi đợi dù đã tới nơi định đến. Phương trách, Somporn chỉ cười.
Họ tung tăng chạy nhảy, vui đùa như hai đứa trẻ trong các siêu thị, hội chợ. Họ cùng chơi bao nhiêu trò thật vui, không khác gì ở Việt Nam như bắn súng, ném vòng cổ vịt. Phương định mua tặng Somporn một món quà giá trị, nhưng lần nào cũng vậy nàng tra hỏi cặn kẽ anh mua làm gì và lắc đầu.
Thuyền viên hơi tò mò về cô bạn gái dễ thương của Phương, nhất là chính uỷ Phan Sinh. Gạ hỏi hay trêu chọc Phương cũng bằng thừa. Đêm nọ hắn và vài người nữa bám theo Phương. Dù bị làm phiền nhưng Phương cũng lịch sự mời cả đám uống bia. Nghe Somporn hát Phan Sinh khoái chí ra mặt. Hắn hào phóng mua hàng chục vòng hoa giấy lần lượt choàng lên cổ Somporn sau mỗi bài hát. Ở Bangkok người ta thưởng ca sĩ bằng cách này. Giá hoa mua tại quầy là 20 bath, gần một Mỹ kim một vòng. Ca sĩ xuống đổi hoa lấy tiền sẽ bị trừ vài bath nhưng họ luôn từ chối nhận giấy bạc.
- Em này cỡ ngàn bath hết đêm hả Phương? - Mắt Phan Sinh ánh lên tia dâm dục.
- Bạn tôi không phải gái làm tiền.

- Danh giá gớm. Thật nhiều tiền vào thì đạo đức đi tong. Chín mươi phần trăm ca sĩ trong discotheque loại này là lũ bán trôn nuôi miệng.
- Ông muốn ăn tát thì cứ dí tiền rồi lôi cô ta về tàu.
- Tao với mày cược nhé - Phan Sinh rút ra bốn tờ năm trăm bath - Nếu tao mời được nó đi chơi bằng số tiến gấp bốn lần giá bình dân thì mày thua tao cái gì? Còn không tao mất hai ngàn này cho mày.
Phương mất hết bình tĩnh:
- Hạng bán miệng nuôi trôn như mày tệ hại hơn tất cả các kẻ bán trôn nuôi miệng. Tao không phải lũ sĩ diện rởm, rước Kiều về nhà ngắm và viết truyện dạy đời thiên hạ. Tao là thằng đàn ông như số đông. Cũng có khi tao cần một ả lẳng lơ. Nhưng chẳng bao giờ tao dắt tay quàng vai gái làm tiền tập thể, đi dạo buổi chiều dưới cầu tàu, để mong nó giảm giá, như mày.
- Mày chống mắt lên nhé. Nên nhớ tao nói được tiếng Lào, hao hao tiếng Thái đấy. Tao sẽ trả giá bằng tiếng mẹ đẻ của nó.
Đôi mắt trâu luộc của Phan Sinh long lên tia máu sát nhân. Hắn vuốt ngay ngắn bốn tờ năm trăm bath và bước tới cầu thang dẫn lên sân khấu. Somporn đang xuống. Hắn cầm tay nàng nhưng bị cự tuyệt. Hắn bám theo nàng một lúc rồi tiu nghỉu quay lại.
- Con đ… có khách tiêu hoang bao tháng có khác…
Không đợi Phan Sinh nói hết câu, Phương xốc tới nắm cổ áo hắn.
- Ơ…! Ơ…! Thằng mất dạy… Mày định hành hung chính ủy hả?
- Đây không phải tàu Dragon cho nên mày không phải chính ủy, cấp trên của tao. Mày là thằng ngợm bẩn thỉu nhất tao từng gặp. Tao sẽ thay mặt bạn gái tao cho mày một bài học.
Ba bốn vị giằng Phương ra nên quả đấm của anh trượt mang tai Phan Sinh. Tiền vương vãi sàn nhà. Phương cúi xuống nhặt, xé vụn rồi ném thẳng vào mặt Phan Sinh. Somporn hoảng hốt đến níu áo Phương. Mấy tay anh chị của quán xúm lại hỏi. Biết rõ nguồn cơn họ nổi điên định đánh cả nhóm khách Việt Nam. Somporn và vài cô gái khác can mãi mới yên chuyện. Mặt Phan Sinh tái xanh nhưng hắn không đủ liêm xỉ để từ chối xắp tiền năm mươi và một trăm bath Somporn đưa. Nàng vét sạch ví đền Phan Sinh số tiền Phương đã hủy.
Hợp đồng chuyên chở cho người Thái sắp kết thúc nhằm đợt nghỉ hè của Somporn. Nàng đưa Phương tới thăm phòng trọ của nàng gần đại học Chualalongkorn. Nhà Somporn ở mạn Lop Buri, cách Bangkok 300km về phía Bắc. Phương thật xúc động khi thấy Somporn treo trân trọng bốn bức sơn mài trước bàn học. Đó là bốn bức tranh hàng chợ bằng nửa tờ giấy A4 vẽ Đào, Trúc, Cúc, Mai. Mấy thủy thủ đem đi buôn bị ế, vứt lăn lóc trong kho. Phương nhặt tặng Somporn lúc họ mới biết nhau. Somporn bảo món quà này nàng rất thích và sẽ giữ mãi bên mình.
Trưa cuối cùng Somporn mạnh dạn lên tàu Phương chơi. Cả tàu trầm trồ trêu chọc. Ăn cơm xong Phương phải làm việc. Somporn nghỉ trong phòng anh. Khi Phương về căn phòng đã đổi thay. Dưới bàn tay nàng, tất cả luộm thuộm của gã đàn ông độc thân vội biến mất. Vải trải giường, gối, mền phẳng phiu. Bàn ghế, giường tủ ngăn nắp sạch sẽ.
Phương đứng lặng nhìn Somporn. Đôi mắt nói hộ anh nhiều thứ.
- Về Việt Nam với anh nhé - Phương bật thốt ra bằng tiếng Việt. Anh tin Somporn biết anh ao ước điều gì.
-...Khọp khun… - Somporn thầm thì một lúc. Phương nghe loáng thoáng chữ cám ơn.
Họ ghì xiết nhau như muốn hãm thời gian trong vòng tay. Đến lúc tiếng loa phóng thanh truyền dọc hành lang thông báo cảnh sát biên phòng Thái Lan đang lên tàu làm thủ tục họ mới choàng tỉnh. Somporn nhón chân tặng Phương trận mưa hôn rồi quay lưng mở cửa bước ra. Anh đưa nàng tới cầu thang. Dòng Chaopraya trải rộng tới chân trời, cuồn cuộn nước triều lên.
Somporn nối bước nhóm quan chức Thái Lan đi xuống. Tới chân cầu thang, nàng giật mình như vừa bỏ quên thứ gì đó. Nàng ngước lên tìm Phương và tháo chiếc kiềng đeo cổ bằng đồng đen ném mạnh lên boong. Phương cúi nhặt. Máy tời chầm chậm rút thang. Từ giờ phút ấy, họ đã ở hai quốc gia. Phương nhìn Somporn thật lâu rồi về vị trí của mình trên buồng lái. Tàu nhổ neo, tháo dây buộc.
- Năm hồi còi ngắn - Lệnh của ông Hoa tiêu tóc bạc làm Phương giật mình. Anh dùng hết sức ấn vào nút còi bé xíu.
- Cậu làm cái quái gì vậy?- Thật tệ, Phương không rút tay khỏi công tắc, thành ra hồi còi quá dài. Hoa tiêu bực bội.
- Xin lỗi ông - Phương lúng búng trong tiếng cười của cả buồng lái.
- Anh ta đang yêu - Thuyền trưởng lên tiếng.
- Vậy sao? Với một con nhỏ leo tàu chết tiệt của xứ sở chúng tôi à. Cậu cần thử máu rồi - Tiếng cuời rộ lên lần nữa. Phương tảng lờ và cầm ống nhòm bỏ ra cánh gà. Tàu đang tách khỏi bờ.
Somporn vẫn đứng dưới cầu cảng. Chiếc bóng mảnh mai hắt lên thành phố Bangkok đang dần tím trong chiều. Tàu băng băng rẽ nước ra biển. Phương dại mồm thầm ước có trục trặc. Chẳng hạn tàu anh sẽ quệt vào chiếc khác ngược chiều. Như thế, đêm nay Phương lại được nghe Somporn thổn thức: "Em đã trao anh tất cả... Em là người đàn bà đang yêu. Em sẽ làm mọi thứ để giữ anh trong thế giới của riêng mình...!"
Đến phao số không, tàu giảm tốc độ trả hoa tiêu. Trước khi về phòng, thuyền trưởng bảo Phương: "Chớ buồn. Nghề mình còn ghé Bangkok tỉ lần nữa mà. Bây giờ thì kéo còi đi, kéo thỏa thích, tới hải phận quốc tế rồi". Phương cám ơn ông và kéo chín hồi còi thật dài.
Không ngờ mấy chục ngày sau tàu Phương bị đắm. Anh bỏ lên bờ, vĩnh viễn xa biển. Mảnh giấy nhỏ ghi địa chỉ, số điện thoại của Somporn cùng vài tấm hình kỷ niệm cũng không còn.
Về sau, mỗi lần bạn bè đùa vui xem chỉ tay hoặc coi tử vi cho Phương, anh hay nhớ tới Somporn khi họ phán hình như Phương có con rơi. Phương và Somporn bên nhau không nhiều, ngắn ngủi nhưng trọn vẹn. Hai giờ đêm Somporn hát ra. Bốn giờ Phương bắt đầu trực sổ nhận hàng. Chiếc giường đơn ấm áp của Somporn luôn quá rộng. Phương không dám ngủ vì sợ trễ giờ nhận ca. Đôi lúc anh chỉ muốn quên đi tất cả, muốn được ở bên Somporn mãi mãi.
Phương thích khép hờ mắt để cảm nhận ngón tay mềm mại, đôi môi dịu dàng của Somporn ve vuốt khắp khuôn mặt mình. Họ thủ thỉ với nhau biết bao điều. Nói chỉ để nói, để được nghe âm thanh của nhau. Somporn hay nhắc tới nhắc lui từ "em bé" bằng tiếng Anh và đặt tay Phương lên bụng nàng. Những nhịp thở đều đều. Qua một lớp áo, làn da vẫn còn âm ấm. Lòng Phương dâng lên tình cảm khó tả. Chắc chắn nó rất xa lạ với thú nhục thể.
Bốn năm sau Phương đáp chuyến du lịch Bangkok vài ngày, mong tìm gặp Somporn. Taxi nước đưa Phương đến đúng cầu tàu số 16. Anh lần theo lối quen. Tòa nhà trệt và sàn discotheque đã bị san phẳng. Hình như xa lộ cao tốc mới hoàn thành ăn hết bãi để xe cũ. Phần còn lại của khuôn viên rộng lớn ngày xưa mọc lên siêu thị cao tầng. Chưa hết hy vọng, Phương thuê thông dịch đi vào ngõ hẻm ngoằn ngoèo nơi Somporn từng ở. Anh chỉ có cái tên Somporn cụt ngủn nên ai cũng lắc đầu chào thua. Có thể Phương nhớ nhầm. Gần như mọi phòng trọ tạm bợ đều giống nhau.
Bangkok còn đông đúc hơn Sài Gòn, biết tìm Somporn nơi đâu. Đôi lần Phương cứ nghĩ Somporn chỉ là giấc mơ như muôn vạn giấc mơ phi thường, sản phẩm từ trí tưởng tượng hơi to tát của Phương. Chiếc kiềng bằng đồng đen là kỷ vật duy nhất Phương gìn giữ được sau trận đắm tàu. Nó sẽ bên Phương suốt đời như minh chứng về Somporn và tình cảm của nàng từng dành cho anh.
Quỳnh Như là cô gái cuối cùng chia sẻ với Phương những ngày tháng cơ hàn nhất, cho dù sự sung túc chưa quá bộ đến ngưỡng cửa ngôi nhà của anh.
Mấy công ty đầu tiên Phương làm trên bờ không hiểu sao luôn có việc cho anh ở Hà Nội. Lắm giai đoạn một tháng Phương ăn cơm Bắc đến 20 ngày. Anh tá túc tại khách sạn tư nhân. Quỳnh Như mới tốt nghiệp Khoa Kế toán Đại học Kinh tế Quốc dân. Nàng tạm làm tiếp tân trong khi chờ đợi nhờ vả, chạy chọt một vị trí phù hợp với chuyên môn của mình. Họ sẽ mãi mãi chào hỏi, trao hoặc gởi chìa khóa phòng như mọi người nếu Quỳnh Như không nảy ra nhã ý truyền cho Phương cách bớt tiền lưu trú được công ty thanh toán trực tiếp qua tài khoản khách sạn. Hôm ấy bà bếp trưởng đón Phương ở quầy tiếp tân.
- Cậu Phương này, từ nay trở đi nhà bếp xin tăng khẩu phần ăn của cậu lên hai mươi lăm ngàn. Chợ búa đắt đỏ quá.
- Cô ơi cháu còn phải nuôi mẹ già và hai em nhỏ nữa đấy - Phương biết thừa bà này chỉ vẽ chuyện.
- Đi làm cho Tây mà kiệt xỉ thế cậu.
- Trời đất! Cháu là cu li hạng ruồi thôi. Lương tháng hơn triệu. Công tác phí năm mươi ngàn một ngày, kể cả xe pháo. Phải khéo không thôi cả nhà sẽ ăn độn.
Đợi bà bếp khuất dạng Quỳnh Như mới nhỏ nhẹ:
- Sao anh không ra đầu phố ăn cho tiện. Lại rẻ nữa.
- Bẩn lắm. Bụi bặm phát khiếp.
- Anh khờ quá nên nghèo. Tiền anh ở một đêm ba mươi Mỹ. Nếu khéo cũng cứa được của Tây mười đồng.
- Bằng cách nào?
- Dãy phòng trệt có công trình phụ chung, giá mười đô thôi. Anh đổi chỗ, em trả tiền thừa. Đa số khách đến từ các cơ quan đều chắt bóp như vậy.
Y như bài bản, lần sau Phương dư ra hơn trăm bạc. Quỳnh Như từ chối chiếc phong bì ghi lời cám ơn nhưng bắt Phương khao một chầu chả cá Lã Vọng.
- Em khôn ngoan quá. Ai muốn làm chồng em phải tu mấy kiếp.
- Em không thích làm đồ trang sức. Giá trị của nó là giá trị ảo.
Món quà đầu tiên Quỳnh Như tặng Phương là bao diêm đựng đầy những cánh hoa sữa vàng ươm rụng trong đêm. Nhà nàng nằm đối diện cây hoa sữa cổ thụ mọc ở vỉa hè phố Phùng Hưng, dưới đoạn cầu dẫn cao cao nối ga Long Biên với ga Hàng Cỏ. Từ ban công hẹp tầng một, nhón chân là Quỳnh Như có thể bước lên đường ray với hai thanh tà vẹt rỉ nâu. Nàng bảo sẽ hái hoa tươi trong mùa thu tiếp theo cho Phương, dù cây vẫn còn hai ba cành đầy hoa trong tầm với của nàng. "Nếu biết tường tận Hoa sữa, ở bên cạnh Hoa sữa từ nhỏ tới lớn như em anh sẽ chán ngay thôi. Vì sao ư? Bí mật đấy". Nàng nhoẻn miệng cười rất tinh nghịch.
Không lâu sau Quỳnh Như rời khách sạn. Chuyến công tác này nối chuyến kia suốt năm trời của Phương giúp họ càng ngày càng thân thiết hơn. Quỳnh Như lông bông mấy tháng, hết hướng dẫn viên du lịch lại đóng vai quần chúng trong các pha quảng cáo truyền hình tỉnh lẻ. Cuối cùng nàng cũng nhận được chân kế toán rất vừa ý tại một liên doanh.
- Anh có tin tất cả đàn ông bao dung độ lượng đều chết hết rồi không? Bây giờ rặt sở khanh nhỏ mọn và ích kỷ.
- Em chua chát quá.
- Giống cái ngày càng sa đà cũng tại lũ đàn ông ranh ma quỷ quyệt. Chúng nặn ra những cái tổ êm ấm, an toàn bằng miệng lưỡi. Lơi tai một chút, thế là sập bẫy.
- Em đẹp như thế này thiếu gì cây si để chọn lựa.
- Em chẳng thể cầm lòng trước sự giả dối ngọt ngào nào. Có thằng ngợm còn bảo em rằng: "Vứt mẹ cái tình yêu và nước mắt cá sấu đi! Định ăn vạ hử? Đàn bà đẹp là người đàn bà nhận được lời khen tặng sau khi làm tình. Đời thằng này có mỗi một con nhưng nó đã bỏ đi lấy Tây".
Mùa thu chẳng lỡ hẹn. Hồ Thiền Quang là trái tim của Hà Nội trong những đêm se lạnh ngạt ngào hương hoa sữa.
- Hương thơm quả tế nhị, không nắm bắt được nhưng rất thật. Nó tượng trưng cho kỷ niệm và phẩm hạnh. Nó là bản chất của linh hồn. Nó nuôi dưỡng cái đẹp.
- Anh đúng là nghệ sĩ hạng bét.
Quỳnh Như giữ đúng lời hứa. Hoa sữa tươi phong kín trong chiếc hộp cứng, hai lớp giấy kiếng nhằm tránh mất mùi trên chuyến bay Hà Nội - Sài Gòn khoảng hai giờ đồng hồ. Buổi tối Phương mở gói quà và đặt hoa trên đầu giường. Cành cây còn nguyên nhựa trắng. Không thể chịu nổi mùi hắc. Chuyển qua bậu cửa sổ cũng chẳng khá hơn. Tức mình Phương vứt ra đường. Đúng lúc ấy chuông điện thoại đổ dồn, giọng Quỳnh Như líu lo:
- Anh ném hoa đi rồi phải không?
- Sớm mai anh họp giao ban mà mười hai giờ khuya vẫn chưa ngủ được.
- Em nhớ anh lắm. Anh nghỉ phép vài ngày nhé.
Tờ mờ sáng. Phương không cần giả tiếng tắc kè Quỳnh Như đã mở cửa và trèo lên đường ray. Cầu Long Biên đen thẫm. Hàng đoàn xe đạp thồ nặng nề chở nông sản từ hướng Gia Lâm vào nội đô. Tiếng côn trùng bờ đê bắt đầu ngái ngủ. Họ đi bộ khoảng một phần tư chiều dài cầu. Thang sắt ọp ẹp dẫn xuống cánh đồng giữa sông.
“Anh nghe tiếng hát dòng sông tuổi thơ của em nhé”. Quỳnh Như trải trên nền cát chiếc khăn tay bằng lụa mỏng và bảo Phương áp tai xuống. Anh gạt khăn ra. Đúng là dòng sông biết hát. Bài ca bất tận, giai điệu nồng say, mênh mang diệu vợi và tột cùng nông nổi. Phương bỗng thấy nhớ biển, nhớ những con tàu, nhớ bến bờ anh sắp đặt chân đến. Anh tự hỏi bến bờ ấy có phải nơi đây? Sông Hồng của Phương thơ bé, của Phương thời sinh viên hay của Phương hôm nay vẫn là dòng sông ấy. Dẫu thêm vào hoặc bớt đi một người con gái như Quỳnh Như, tình yêu anh dành cho sông Hồng, cho Hà Nội vẫn thế và mãi mãi là thế, vĩnh cửu như định mệnh.
Sau đó họ ngồi bệt xuống cát. Hai người chẳng nhìn rõ mặt nhau. Phương đoán giọng nói của Quỳnh Như rất giống giọng mẹ mình. Nàng kể anh nghe về tuổi thơ hồn nhiên và năm tháng trẻ trung dại dột. Âm thanh tuột trôi, bồng bềnh trong màn sương mờ đục xung quanh. Phương định ngăn nàng lại, kết thúc ngôn từ vô nghĩa. Anh phân vân không hiểu mình có thể vừa ôm nàng, vừa hôn nàng và vừa thốt lên rằng anh yêu nàng như yêu một vết thương hóa thân, anh yêu nàng như yêu Hà Nội. Rốt cuộc Phương cứ ngồi yên. Anh biết khả năng mình giới hạn nhưng khát khao mong muốn thể hiện tình cảm thì vô bờ.
“Anh biết không cồn cát này còn gọi là bãi giữa. Nó chia sông Hồng làm hai nhánh là sông Cái và sông Con, do đó sông Hồng còn được gọi là Nhị Hà. Sau mỗi mùa nước bãi cồn luôn thay đổi hình dáng nhưng cát thì vẫn vậy, thơm tho mùi phù sa, sạch sẽ như ngọc trai và óng ánh tựa kim cương. Thuở nhỏ em hay xuống doi cát chơi một mình. Cô bé mảnh khảnh rất thích ngô nướng. Em nhớ mãi câu ca của một chàng nông dân thật thà, hiền hậu: “Sông Hồng sao nỡ sẻ làm đôi – Để dở dang đây một bãi bồi”.
Chiều muộn hôm ấy bố dượng về Đông Anh xin bà nội củi đun, mẹ xếp hàng mua sắn lát. Em đang nằm sấp trên cát nghe sông hát thì bị hai cánh tay hộ pháp nhấc bổng lên đem vào giữa ruộng ngô. Em cào cấu la hét nhưng vô vọng. Con thú thỏa mãn xong lủi mất. Em chạy như ma đuổi về nhà. Cúp điện tối mịt nên chẳng ai thấy áo quần em rách bươm. Em đốt mớ giẻ kia đi, tắm táp và thay bộ quần áo vải thô. Bố mẹ gần như về cùng lúc.
- Mày làm gì mà mặt mũi như mất sổ gạo thế?
- Con không việc gì đâu - Em trả lời như máy và tự hỏi sao mình dũng cảm thế.
Cả nhà xếp bằng quanh mâm cơm dưa cà. Bố dượng chun mũi mắng:
- Con gái con lứa mười ba mười bốn mà vô ý. Mẹ mày đem nó vào trong đi. Mày bắt đầu trở thành một con đàn bà dơ bẩn rồi.
Em khóc ngất, nước mắt chảy bù cả chuyện kinh hoàng ban chiều. Mẹ dỗ dành. Mấy hôm sau mẹ thấy thiếu bộ quần áo. Tưởng em hớ hênh bị trộm khều, mẹ đè xuống quật cho năm roi. Được dịp khóc thỏa thuê dù mẹ đánh rất nhẹ.
Mười bảy tuổi em mới biết mình đã bị cướp đi sự trong trắng ngàn vàng. Em chẳng buồn lâu. Giọng đàn ông tụng ca vo ve quanh tai suốt ngày. Thằng thứ nhất là phe vé ga Hàng Cỏ. Thằng thứ hai là cậu ấm lêu lổng con ngài thứ trưởng. Thằng thứ ba mang vỏ trí thức Tây du, đi xe babetta… Thằng cuối là triệu phú, chủ cái khách sạn anh ở ngày xưa. Ánh mắt anh khác hẳn chúng. Nỗi đau tinh khiết. Nỗi buồn dịu dàng. Và cả mùi ngây thơ của cỏ dại bờ đê. Em yêu anh vì thế. Tưởng chừng chuộc lại được trắng trong với nỗi nhớ anh hằng đêm".
Quỳnh Như ngả vào lòng Phương. Nàng cuộn người đón nhận nụ hôn đầu tiên của anh. Trái tim nàng ấm nồng, phập phồng dưới áo. Nàng vít đầu Phương xuống. Hai chiếc nút bật ra. Có một cái gì đó ngọt ngào và mênh mông như tình mẹ. Tất cả đàn ông trên thế gian này đều cảm giác được tái sinh, trên khuôn ngực của người phụ nữ mình thật sự thương yêu.
Mặt trời vội lên. Họ trở vào phố giữa heo may đượm mùi ngô non.
Sinh nhật hai mươi bảy tuổi của Quỳnh Như vui hơn hội. Nàng lí lắc nói cười như cô gái mới lớn. Mười giờ tối chỉ còn hai người giữa đống quà đủ màu.
- Xà phòng thơm… Dầu gội đầu… Son phấn… Không! Cái này của con bé Hồng, anh đừng mở. Cận thị đấy - Gói cuối cùng màu đen không tên. Roạt… Khuôn mặt Quỳnh Như đanh cứng - Em chẳng muốn dấu anh.
Vài ba tấm hình lõa thể chụp lén Quỳnh Như đang ngủ. Mẩu giấy nhỏ: "Như, em đừng phản bội tôi chứ. Tôi yêu em. Tôi cần em và luôn điên dại bên tấm thân của em. Tôi đang ly dị. Em sẽ là chủ nhân khách sạn… Em đừng hòng lấy được chồng, ngoài tôi. Chẳng thằng chó nào dám nhìn thẳng vào thứ này".
Vết bỏng do sáp nến chảy loang trên tay Phương bấy giờ mới rát. Anh xem qua ảnh rồi đưa trả cho Quỳnh Như.
Đêm Hà Nội mùa đông buốt lạnh tự trong lòng. Phương dúi cả nắm tiền lẻ vào tay gã xe ôm. Nói mãi gã mới chịu đi cho. Gã sợ Phương lao đầu xuống sông Hồng. Điểm giữa cầu Thăng Long cách mặt nước khoảng hai lăm mét.
- Sao em biết anh ở đây?
- Em vẫy xe đuổi theo anh.
- Anh không bao giờ chết vì tình. Anh muốn khám phá dòng sông của em. Sang sông luôn là sự kiện trọng đại của đời sống. Em an tâm chưa?
- Em đã hai lần nghe dòng sông hát cùng một bài ca. Hôm ấy em cứ ngỡ linh hồn mình đã thật sự trở về với thể xác. Thì ra mỗi linh hồn chỉ có một cuộc đời. Cái phần phù du và hữu hạn của con người, cái thân thể không thể tẩy uế này là dòng sông của linh hồn em chăng?
- Vẫn biết núi đồi, thung lũng, gềnh thác và thiên hình vạn trạng bước ngoặt tạo nên dòng sông hiền hòa dưới chân ta. Anh yêu em nghĩa là anh bất chấp lũ lụt, bất chấp sóng dữ đe dọa nhấn chìm tất cả.
- Anh chưa hiểu dòng sông này có thể tắm tưới đời anh, nuôi nấng mùa vàng màu mỡ.
Gió Bấc ù ù bên tai. Những chiếc kim nhọn hoắt đang châm vào người Phương.
- Hãy về phương nam nắng ấm với anh đi em. Vứt hết. Bỏ hết. Chúng ta sẽ làm lại từ đầu, ở nơi em là người xa lạ.
- Lúc này em phải ở đây. Chẳng phải vì cha mẹ. Chẳng phải vì công việc. Em không muốn trốn chạy. Như thế em mới biết mình là ai. Em sẽ đi tìm dòng sông thánh thiện đã lạc mất trong biển đời đen bạc và sự hư hỏng của bản thân em.
- Em sẽ là nàng dâu đoan thục nhất của Sài Gòn. Như thế quá đủ rồi.
- Đám cưới chúng ta không làm lớn nhưng nên trang trọng. Anh và em sẽ cười vào mặt những kẻ tọc mạch rồi đi bộ ra bãi cát sông Hồng. Em sẽ khoác lên người màu trắng chói mắt của mây bên cửa sổ máy bay, trên đường về nhà anh.
- Anh chờ em một năm. Anh hết chịu nổi rồi. Có những ranh giới anh không thể vượt qua trong ngày một ngày hai.
Phương quay lại Sài Gòn. Anh đóng cây đinh mười lăm phân bên cạnh bản lịch để xâu những tờ lịch cũ. Năm đó không có ngày 29 tháng Hai. Được ba trăm sáu mươi bốn ngày và mười một giờ năm mươi chín phút thì Quỳnh Như đến ngồi bệt trước cánh cửa khóa trái ngôi nhà Phương thuê. Lúc ấy Phương vẫn đang dự sinh nhật bạn. Ham vui và quá chén, anh ngật ngưỡng trở về khi ngày mới đã sang với khuôn mặt và quần áo dính đầy dấu môi son. Quỳnh Như vứt vội hành lý xuống chân, say mê đón nhận sự vồ vập.
Mùi bia tươi trộn lẫn với rượu mạnh nồng nặc. Quỳnh Như xô Phương ra. Mặt mũi Phương tối xầm lại. Cái tát quá mạnh và bất ngờ. Phương ra vẻ tỉnh táo. Anh đứng yên một chỗ, lưng ưỡn thẳng, tay chắp ra đằng sau.
- Anh trưởng thành rồi Phương ạ. Mới một năm mà anh khác đi nhiều quá. Em căm thù mùi nước hoa đắt tiền của bọn vũ nữ trên cơ thể anh. Có trời mới biết trái tim anh đã đổi sang màu gì, nâu đen hay xám xịt.
- Em có quá khắt khe không?
- Anh không đứng vững trước cám dỗ tầm thường nhất, thì làm sao anh cảm nhận được vẻ đẹp của một tâm hồn khắc khoải sáng trong. Dù gì em cũng mang ơn anh. Tình yêu em dành cho anh đã cải hóa chính con người em. Em tiên liệu điều này bằng tấm vé hai chiều. Tám giờ sáng mai là chuyến hồi. Cho em trọ vài giờ. Và xin anh im lặng. Em sợ… dẫu chỉ là lời từ giã…
Cả đêm Quỳnh Như bó gối trên ghế nệm để nhìn lên trần nhà. Phương ở bên bàn viết, xoay lưng lại với nàng và hút thuốc. Mỗi mười lăm phút được điểm bởi một tiếng "tạch" nho nhỏ nhưng gẫy gọn, phát ra từ chiếc bật lửa.
Sáu giờ ba mươi Quỳnh Như ra đi, nàng thẳng thừng từ chối sự đưa tiễn. Bảy giờ Phương vào trong tắm rửa chuẩn bị ngày làm việc. Anh dầm nước hơi lâu và kỳ cọ nhiều lần. Bộ quần áo mới phẳng lì, thơm mùi vải.
Trước khi bước khỏi nhà, Phương chợt thấy vài cánh hoa Hoàng Lan rơi vãi xung quanh chỗ Quỳnh Như vừa đứng dậy. Phải chăng nàng định ướp làn hương tinh tế kia vào ngôi nhà cô quạnh của anh? Cũng có thể vui tay, nàng hái dăm ba nụ hoa từ Hà Nội bỏ vào ví tay cho thơm.
Hơn hai năm sau Phương gặp Tuyết. Đăng ký kết hôn rồi ly dị. Chẳng cần cả đám cưới. Bằng cách nào đấy sự việc cũng đến tai Quỳnh Như. Nàng gọi điện cho Phương:
- Rồi muộn phiền sẽ qua. Anh đừng suy nghĩ cực đoan anh nhé!
- Em sống ra sao?
- À Phương này, vợ chồng em định lấy tên anh đặt cho đứa con đầu lòng. Chữ Phương hợp với cả hai giới. Chắc anh không phản đối?
- ……
- Anh lúc nào cũng đáng thương hơn đáng trách Phương ạ. Con người anh không bao giờ có tình yêu bền vững cả, hay nói đúng hơn anh chỉ biết yêu chính bản thân mình. Em vẫn hy vọng tất cả những gì quanh anh, đã đèn nén và xô đẩy anh trở nên như thế, chứ đó không phải bản chất bẩm sinh của anh. Giờ đây anh cần một cuộc vượt thoát. Hãy nêu gương em và đừng tự ái.
Phương nghẹn lời. Ký ức vỡ òa mùi Hoàng Lan đằm thắm ngọt ngào. Hoa Sữa nồng nàn, xốc nổi bao nhiêu thì Hoàng Lan dịu dàng, sâu lắng bấy nhiêu. Hai nửa âm dương ấy hoà hợp tạo nên những mùa thu Hà Nội đẹp sánh Đào Nguyên. Và Phương biết, anh đã đánh mất một con người quý giá, nếu không muốn nói Quỳnh Như chính là "một nửa" duy nhất của đời anh. Từ đó trở đi, mọi cuộc kiếm tìm khác của Phương đều vô vọng, ngoại trừ giấc mơ siêu phàm về một miền cổ tích hoang hư.
10 - Dậu...
Sau thời gian lơ lửng bất định Phương chán ngấy các cuộc vui tha hóa, vô bổ và tốn kém. Anh cũng dành dụm được chút đỉnh. Phương thuê hẳn một căn hộ riêng biệt. Trong nhà chẳng thiếu thứ gì, khác hẳn gian phòng vài mét vuông tuềnh toàng dạo anh mới đi làm. Về mặt tinh thần, Phương lớn lên không bình thường. Anh dễ xúc động trước bất cứ khung cảnh đầm ấm giản đơn nhất của gia đình nào đó. Phương những tưởng đời sống lứa đôi sẽ giúp anh giũ bỏ nỗi cô độc bẩm sinh.
Phương không tin anh đến với Tuyết như một phép thử, một bản nháp nóng vội về hôn nhân, gia đình. Tuyết không sống cùng cha mẹ. Cô ở bên cậu anh ruột công tử tự phụ, ít quan tâm đến em gái. Tuyết và Phương đã tìm thấy nhau bằng sự đồng cảm thân phận.
Mùa Phương có Tuyết là mùa mưa. Các buổi tối lạnh lẽo, anh hay hòa vào dòng người thưa thớt để đến nhà Tuyết. Từng giọt mưa nhảy nhót, thì thầm hát quanh Phương. Anh dại dột quên mất mưa là yếu tố văn học ba xu, chuyên làm dáng, góp thêm vẻ ướt át cho những cuộc tình buồn. Phương ngờ nghệch linh cảm cuộc đời anh bắt đầu thay đổi, bắt đầu sống trong giấc mơ hạnh phúc từng dằn vặt mình như hoài vọng không bờ bến giữa thế tục. Trước mặt Tuyết, Phương luôn thấy thanh khiết tột cùng, mặc dù năm tháng tạo nên con người anh đầy dẫy xấu xa, cám dỗ tầm thường và cả sự hư hỏng đáng trách.
Trong muôn vàn câu chuyện tuổi thơ của Tuyết, Phương ấn tượng nhất với "Cô gái mộng du". Không ai nhớ chính xác năm ấy Tuyết tròn mười tuổi chưa. Hình ảnh nghộ nghĩnh chỉ là tường thuật của gia đình thường nhắc đi nhắc lại như nét ký ức vui nhộn: Nàng tiên nhỏ mặc chiếc đầm xanh nhạt in hoa trắng. Trong giấc ngủ vô lo, nàng bước qua chín bậc thang gác chông chênh và đến bên vòi nước máy. Nàng cố hứng nước vào hai chai rượu mẫu nhỏ bằng ngón tay cái người lớn, thứ đồ chơi nàng đang ưa thích. Tuyết đã dùng dăm giọt nước hiếm hoi lọt được vào chai để... rửa chân.
Sớm muộn thời gian sẽ bôi xóa hoặc làm biến dạng tháng ngày Phương gần Tuyết. Tuy nhiên ngọn nến lung linh thở ra từ ảo giác của giấc mộng du ít phi phàm không thể lụi tàn. Nó mãi là chứng nhân của vẻ đẹp bị tước đoạt bởi đời sống tầm thường và những cá tính hoang dại.
Phương mê muội trong sự nồng nhiệt của kiểu tình cảm không mặc vừa chiếc áo lý trí đa lẽ. Đôi lúc Phương thảng thốt, chẳng ngờ còn rất nhiều cung bậc ngọt ngào anh chưa hề biết. Họ thay nhau định nghĩa tình yêu, hạnh phúc và sự trắng trong bằng tranh luận bất tận.
- Tình yêu phải chứa đựng chiếm hữu. Cái khác nhau là nó dành cho cá nhân hay cho cả hai, cho hạnh phúc viên mãn, cho thế hệ tiếp nối.
- Chiếm hữu là cánh cửa của địa ngục.
- Thử thách nhiều lúc bị lầm tưởng với tù túng. Lứa đôi phải đi đến tự do trong đời sống sau khi trải nghiệm tột cùng sự chiếm hữu. Đi từ tự do tới chiếm hữu là bất thường. Lòng tin sẽ cho ta tự do thuần khiết nhất trong tình yêu. Khi hết cần chiếm hữu là nơi lòng tin thành sắt đá.
- Anh quá coi thường những gì em gởi gắm.
- Nó nhợt nhạt vì giây phút bốc đồng của em chen vào. Hãy xem em biện giải nhé: "Ít ai dám nghĩ em còn trong trắng. Xét tuổi em, chẳng ma nào dại dột mơ tưởng hão huyền. Do đó em không cần lập lờ đánh lận. Và gông cùm bao đời nay của nữ giới đã được tháo bỏ, ít nhất nơi bản thân em. Tụi bạn đồng trang lứa dù chưa chồng luôn chê cười là em rất ngố!". Người con gái coi thường trinh tiết chắc gì không coi thường phẩm tiết. Nguyễn Du phân biệt rất rạch ròi hai khái niệm Trinh và Phẩm dù cụ sống giữa lễ giáo phong kiến khá khắt khe. Càng hiện đại người ta càng rộng lượng hơn, nhưng đôi khi cái đẹp chính là cái bất biến. Trinh tiết ai chẳng từng. Phẩm tiết mới khó tìm.
- Đơn giản thôi anh. Sự dung dị luôn ý nghĩa hơn hào nhoáng, bạn em bảo vậy.
- Đừng sống bằng đầu óc của kẻ khác. Đừng đầu độc mình bằng cách coi những bài báo nhăng cuội câu khách là chân lý.
Qua lời kể chủ quan phiến diện của Tuyết, trong tâm tưởng Phương, Tuyết như búp cây cảnh lớn lên giữa một gia đình đủ đầy. Có thứ rất thiếu mà Tuyết luôn tự hào, ví như lời lẽ hơi nặng của cha mẹ, anh chị. Tuyết tuyệt đối tin cậy thần thánh cho đến khi gia đình cô tan vỡ. Đáng lý lúc đó Tuyết phải đến gần tôn giáo hơn. Tiếc là cô đã xa rời cái thiện, xô vào đời sống chông gai, tiếp thu không chọn lựa mọi lẽ đời rồi khư khư ôm ấp đống hàng phế phẩm như báu vật. Tuyết từng đùa cợt phán rằng mẹ Maria gìn giữ nhiều thứ nơi cô... để dành cho Phương. Nếu bà ta hiển linh, thì chính bà đã tạo nên sấm chớp mưa giông trong cái ngày Phương viết câu thơ: "Ngôi sao em đậu xuống đời anh. Lấp lánh trắng trong...". Phương luôn từ chối mọi quyền năng siêu nhân trước tình yêu của anh.
Phương chẳng dấu Tuyết bất cứ điều gì nhưng anh hay biện hộ: sự hoàn hảo ở một con người không mang vết tích khuôn mẫu, và hơn hết nó không phải là bữa tiệc thịnh soạn do bản ngã dọn ra. Tuyết xem rung động như tiền đề của tình yêu. Chẳng có gì đáng trách nhưng Phương sờ sợ. Vẻ huyền bí của tâm linh sẽ mất đi nếu người ta luôn xoi mói, chực chờ đón lõng cơ hội để trái tim thổn thức.
Phương không hiểu nhiều về mẹ Tuyết. Anh rất áy náy khi cô bảo đến ngày cưới của họ Phương mới được gặp nhạc mẫu. Chẳng lẽ Phương, kẻ tự giới thiệu là hư hỏng, nghèo kiết xác, sống thiên về nội tâm và những niềm đam mê phức tạp lạc thời hơi hơi giống Tuyết là có quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong khi Tuyết luôn nói không với mẹ mình sau khi bà đã trải qua ngần ấy thời gian cô đơn, chăm chút con cái trưởng thành. Tuyết là con út. Mẹ cô muốn đường hoàng tái duyên lúc cô vừa tốt nghiệp đại học. Tuyết dứt khoát phản đối. Cô kết tội mẹ, nguyền rủa người đàn ông đang làm chồng mẹ không xứng đáng với mẹ. Tuyết đồng tình với cả gia tộc trong cách cư xử với mẹ. Cô thấy mình nên rời xa mẹ để một ngày lại chiếm hữu mẹ làm của riêng. Chẳng ai mua được thời gian. Quan hệ giữa mẹ và Tuyết cao hơn ruột thịt nhiều. Tình mẫu tử luôn luôn đứng đầu trong nhóm hệ lụy mang tên tình người. Tuyết dè xẻn dành cho mẹ phần rất nhỏ trong tình mẫu tử, đó là tình ruột thịt. Thật hà tiện! Mẹ có thể ruồng bỏ cô đi theo tình yêu nhưng Tuyết không nên đáp trả sòng phẳng. Tuyết là hiện thân của tình yêu xa xôi giữa mẹ và cha cô đấy thôi.

Tuyết kể Phương nghe nhiều kỷ niệm tuổi thơ bên người mẹ hiền. Ban đầu Phương thật lòng ghen tị. Dần dà Phương nhận ra kỷ niệm chỉ đẹp trong sự ích kỷ và ngang bướng của Tuyết. Nó sẽ ngàn lần đẹp hơn nếu vứt đi cái gai nhọn hoắt. Còn xanh tóc mà Tuyết dám thuyết giảng chữ Nhân trước lớp học toàn người lớn, khiến giáo án của cô đầu thừa, đuôi thẹo rất nghộ nghĩnh. Tuyết dư dả, nhàn rỗi quá. Cô ôm ước vọng truyền bá ý hay, lời đẹp của Hán tự cho mọi người, như lẽ sống cao cả duy nhất trước khi gặp Phương. Đó là cách đền đáp những ưu ái người thầy đáng kính đã dành cho cô. Tuyết luôn giằng xé nội tâm hay không ngờ mình trộm dùng cách dối lòng dễ chịu?
Rồi Tuyết đột ngột quyết định rằng tuy họ vẫn yêu nhau nhưng nên xa ra chút xíu, bỏ hết thói quen đưa đón và dời ngày đính hôn. Lý do lớn nhất và vô lý nhất là ý nguyện gặp mẹ Tuyết của Phương không được cô chấp nhận như bước đi cần thiết. Phần nữa là Tuyết thấy cuộc sống cô đang xáo trộn. Bạn Tuyết bảo thế. Bạn bè rất quan trọng với cô, tất nhiên chỉ là bạn gái mà thôi nếu không kể vài nam nhi cô muốn giữ sự hâm mộ của họ như trang sức. Tuyết cho rằng họ không cùng "đẳng cấp" với mình! Phương nhớ một lần Tuyết nghẹn ngào, cô kể cô buồn nhất vào ngày lễ, tết. Căn nhà độc thân trống trơn, lèo tèo vài món tiếp khách chiếu lệ. Bằng hữu ai cũng có gia đình, họ hàng... họ vô tình và nhất thời quên Tuyết. Thuở ấu thơ, chính mẹ chứ không ai khác đã dìu Tuyết qua giấc mộng du, đưa cô trở về nơi an toàn, chăn êm nệm ấm. Tuyết vẫn đang mộng du. Phương thầm ước phải chi mẹ con Tuyết chung một mái nhà.
Phương và Tuyết có quá nhiều điểm giống nhau. Giấc mơ của người nọ về tương lai luôn luôn trùng hợp với người kia, ở cả những chi tiết trẻ con rất buồn cười. Chẳng hạn trước khi gặp gỡ họ từng ao ước xây một căn nhà có bể nước dự trữ thật lớn đề phòng… cúp nước! Phương từng cảm nhận anh và Tuyết đã đi song song bên nhau trong quá khứ.
Họ thường cùng thích một bài hát, một giọng ca nhưng theo hai chiều khác nhau. Tuyết say mê nét lãng mạn tài hoa. Phương lưu tâm đến các tầng ẩn dụ thầm kín. Ví như ca khúc "Tình em" trong phim "Biển nợ". Vượt qua dụng ý tuyên truyền, phim khắc họa thành công tình yêu cao cả. Người yêu bỏ xứ ra đi. Cô gái dũng cảm gìn giữ giọt máu vô thừa nhận. Trải qua bao nhiêu gian khó cô đã bước từ gánh hàng rong lên sân khấu với giọng dân ca xuất sắc. Người mẹ trẻ đơn chiếc khẳng định mình bằng lao động và tình mẫu tử dành cho đứa con gái nhỏ không cha. Phương mong muốn đem sự lãng mạn từ phim ảnh, nghệ thuật ra cuộc đời. Anh vẫn cầu phép lạ trong khi thực sự vui mừng đón nhận tin Tuyết có thai.
Trong sâu thẳm lòng mình Phương nuôi quyết tâm rời xa Tuyết, giúp Tuyết cơ hội kiểm chứng tình yêu của cô dành cho Phương. Ngôn ngữ nghệ thuật chợ búa xem đây là điểm nút của các chi tiết nhiều định hướng nhưng ra vẻ vô can trong mạch sống được tái hiện, sao chép cẩn thận. Không ít bài thơ, vở kịch tồn tại chỉ nhờ một nét đẹp hiếm hoi. Ngoài đời thiếu gì những tình yêu, những cuộc hôn nhân tẻ nhạt và dai dẳng. Sự thăng hoa bất thần luôn rẽ về hai ngả. Cái xấu xa thấp hèn dẫn đến tan vỡ và ngược lại. Luận lý là thế. Hóa ra Phương tích cực và chủ động làm diễn viên của vở kịch rất kịch kỡm của đời mình. Luân lý đã thảm bại. Chính Phương góp phần hủy diệt giọt máu không ít thì nhiều mang hơi ấm yêu đương giữa anh và Tuyết. Chắc chắn đây là bài học về lòng nhân đau đớn nhất mà Phương phải nhớ mãi.
Mâu thuẫn phụ kèm theo tất thảy đều tầm thường nhưng nó là mảnh đất tốt cho lòng kiêu hãnh cao độ của cả hai. Và sự ly tán là kết quả dễ hiểu. Họ quên rằng sự tương đồng giúp gắn kết hai tâm hồn, nhưng quá trình thu ngắn dị biệt mới là con đường duy nhất dẫn đến mái ấm hạnh phúc.
Xa Tuyết, Phương thật tàn nhẫn khi rịt vết thương của mình bằng cả nỗi đau đang dần lớn lên trong Tuyết theo giờ phút. Người ta chỉ có thể kiểm nghiệm tình yêu và lòng chung thủy bằng khổ đau. Phương tin anh tận hưởng nỗi đau của Tuyết không phải bằng sự hả hê mà bằng tấm lòng nhân hậu vừa được cứu chuộc, cái mà Tuyết luôn bảo Phương cần tự vun đắp. Trong nỗi đau họ đang trưởng thành để thụ nhận tất cả ý nghĩa tốt đẹp nhất của cuộc sống.
Lần cuối Phương nói chuyện với Tuyết là ngày tòa án trao quyết định ly hôn cho hai bên. Tuyết thiểu não nhưng vẫn mạnh dạn:
- Từ nay về sau nếu tình cờ giáp mặt, anh hãy xem tôi như người không quen biết.
- Tôi hiểu sự căm hờn của em.
- Tôi không tin tôi từng yêu anh - Tuyết cười nhạt – Thôi, vẽ chuyện làm gì. Tôi sẽ gởi anh quyển nhật ký tôi viết trong những ngày qua. Xin anh một lời hứa.
- Lời hứa hay điều kiện?
- Anh chỉ được mở phong thư đúng vào ngày anh định cất tiếng yêu thương sắp tới, hay đại loại như vậy.
- Em nghĩ sao nếu người kia muốn đọc nó. Em rất rõ là tôi thừa trung thực mà.
- Càng tốt! Anh diễn các vai trung tín rất xuất sắc.
Đêm ấy Phương mơ giấc mơ kỳ lạ. Trong mơ anh lục tung tất cả đồ đạc, tìm những thứ liên quan đến Tuyết bỏ vào ba lô con cóc. Chẳng hiểu sao trong ba lô sẵn có bó hồng chỉ mới được hình dung trong đầu Phương cho ngày cưới. Phương hướng ra bờ sông. Anh thẳng tiến trên mặt nước như đang đi trên đất bằng. Đến giữa dòng Phương cẩn thận lôi ra từng món và xướng tên chúng lên. Hoa, thơ, nhạc, vé xem kịch... vật vờ trôi theo thủy triều đang xuống. "Biển xa lắm không?" Phương chẳng biết anh đang hỏi mình hay món đồ vật vô tri nào lên tiếng. Nằm ở đáy ba lô là miếng voan trắng thấm ngôi sao trinh nữ. Ngôi sao ngập nước. Vì dòng nước kém sạch khỏa vào, hay tự thân, ngôi sao chuyển sang màu đỏ bầm, âm u như những ngày mưa thuở nọ.
Vậy mà họ vẫn vô tình gặp nhau và có lẽ lại bắt đầu song hành. Họ không nhìn nhau nữa dù cùng hiện diện ở thư viện hay trong một phòng hòa nhạc. Đôi khi Phương chợt nảy ra ý định thử làm lành với Tuyết xem sao. Anh không thể hình dung ra tương lai khả dĩ. Phương sợ Tuyết hai mươi năm sau sẽ giống như bà mẹ đáng thương của cô. Hành động và suy nghĩ của Tuyết khiến Phương không thể an tâm.
"…Tôi là người thừa trong ngôi nhà mình được sinh ra. Mẹ yêu kẻ lãng tử rỗng túi nhưng ông ta vốn đạo Phật nên lắm phiền phức. Ba tôi bất ngờ xuất hiện bên mẹ trong vầng hào quang chói lòa của một gia tộc công giáo đầy danh vọng, tiền tài. Hơn thế nữa ba là phi công tốt nghiệp ở Mỹ, đẹp trai, cao ráo. Ba mẹ gặp nhau trong tiệm nhảy đầm, nơi ba và bè bạn thỉnh thoảng ghé qua chơi nhạc và thụt billiard. Bà nội ghét mẹ bao nhiêu thì ba mù quáng bấy nhiêu. Ông bà ngoại rẻ rúng kẻ du thủ du thực kia lâu rồi nên ép mẹ lấy ba. Xét bề ngoài hai người cực kỳ xứng đôi dù mẹ chỉ là cô gái Lục tỉnh được ngoại gởi lên nhà em mình trên Sài Gòn trọ học tú tài. Ba là dân tư bản gốc, mấy đời sống ở Sài Gòn.
Trai tài gặp gái sắc có vạn kiểu. Riêng kiểu của mẹ thì chẳng ai trong họ nội ưa cả. Ba cứ đi biền biệt. Ra đời ngay sau đó, anh hai tôi là sợi dây chắc chắn nhất của mẹ để trói bà nội. Ba thích con gái nên tôi trở thành sợi chỉ bé nhỏ kéo ba mẹ gần nhau hơn trong những ngày phép của ông. Bà nội trọng nam khinh nữ. Hai anh em tôi chung nỗi thiệt thòi là chẳng biết sữa mẹ ngọt như thế nào, theo đúng nghĩa đen.
Sau 75 ba đi học tập. Mẹ vắng nhà liên tục. Nội chăm sóc, yêu thương chiều chuộng anh hai bao nhiêu thì tôi buồn tủi bấy nhiêu. Lúc ấy tôi mới ba bốn tuổi. Thuở ấu thơ tôi chỉ nhớ vậy. Cũng nên kể thêm lần mẹ đi chơi mấy ngày và vô ý khóa trái cửa lầu hai. Tôi bị nhốt trong cái phòng nhỏ trống trơn mà hằng ngày tôi luôn thui thủi một mình, cạnh căn buồng thênh thang của ba mẹ ngày nào. Tôi khát có nước máy. Chỉ khi đói quá tôi mới trèo lên cửa sổ, đưa hai chân vắt vẻo ra ngoài song sắt, thút thít khóc. Nội cám cảnh. Mỗi ngày bà hỏi han vài câu rồi cho tôi hai ổ bánh mì khô khốc của cái thời cả thành phố phải ăn độn bo bo.
Mấy năm sau ba về. Lớn lên tôi mới biết ba cam chịu và xí xóa hết mọi lỗi lầm của mẹ trong thời gian xa cách. Dù bị đánh tư sản năm lần bảy lượt, bà nội vẫn còn của chìm, vẫn đủ lo toan cho cả gia đình. Tài sản riêng của ba mẹ thì đã không cánh mà bay, kể cả nữ trang kết hôn. Có lẽ vì cuộc sống gượng ép với mẹ, ba tôi quyết định bỏ Chúa để ăn chay trường và dọn lên lầu ba tĩnh tâm. Mẹ cũng chẳng lo cho tôi hơn trước. Đến giờ tôi cứ việc xuống bàn ăn của cả gia đình ngồi vào tham gia. Sự vắng mặt của tôi hiếm khi làm ai bận tâm. Mẹ không bao giờ xem tôi học hành ra sao. Thỉnh thoảng mẹ cho tôi ít tiền tiêu vặt. Tôi cũng chẳng biết dùng vào đâu ngoài việc mua sách vở, bút mực. Lúc nào tôi cần cái gì thiết yếu cho riêng mình, chẳng đặng thì đừng tôi mới dám xin mẹ. Mẹ ừ hử và quên biến ngay. Chỉ vào những lúc có mặt ba, tôi đòi gì mẹ cũng đáp ứng, dù là vật phẩm đắt đỏ hết sức vô lý so với tuổi dậy thì.
Lục đục giữa ba mẹ xảy ra là điều tất yếu. Tôi chẳng dám trách nhưng ghét cay ghét đắng bà dì ghẻ của mình bây giờ. Bà là bạn thiền của ba tôi. Dạo kia mẹ còn ngây thơ cho bà ta tá túc trong nhà. Nội lúc ấy đã gần đất xa trời. Tính bà trung dung ba phải cũng vì bà chưa bao giờ thiện cảm với mẹ. Ngày xưa bà chiều ba quá nên hỏi mẹ cho ba. Thế mới xảy ra trận đánh ghen đáng nhớ và vết xẹo chạy dài bên má trái dì ghẻ.
Ba bỏ hẳn nhà đi xây tổ ấm riêng. Tôi càng lẻ loi hơn giữa tuổi trăng tròn, đã biết suy nghĩ chút đỉnh. Mẹ sử dụng anh tôi như chìa khóa vạn năng xoay tiền bà nội. Có những mùa hè hai chúng tôi bị đày về quê ngoại. Với mọi đứa trẻ đồng trang lứa, xa thành phố ba tháng, sống giữa làng quê yên ả là hạnh phúc tột đỉnh. Nhưng ở đây tôi dùng chữ đày ải mới thật đúng. Tôi lang thang, vất vưởng với bọn trẻ con hàng xóm, lặn ngụp dưới rạch nước đem ngòm trước nhà cho hết ngày tháng. Trong khi đó mẹ và ngoại cứ thương đi lượng lại với nội về cái giá để đưa anh hai về bên nội, cho nội vui.
Tôi rất chậm chạp, ngoài giờ học tôi ở nhà là chính. Tôi chú trọng bài vở nên kết quả học tập rất tốt. Tôi giữ nhiều kỷ niệm với vài nhóm bạn trong ba cấp học. Kỷ niệm sẽ đẹp lắm nếu lâu lâu chúng không vô tình so sánh bề ngoài giàu có của gia đình tôi với khó khăn của gia đình chúng. Sự khó hiểu ở đây là tại sao tôi ăn mặc tệ hơn tụi nó nhiều. Tết nhất, lễ lạt chẳng bao giờ tôi được xúng xính trong quần áo mới. Điều tôi hết sức tự hào trước bè bạn là tôi cố gắng vào đại học, lấy được tấm bằng cử nhân ngoại ngữ hệ mở rộng.
Theo đà mở cửa, ngôi nhà mặt tiền đồ sộ của gia đình được mẹ biến thành khách sạn nhỏ. Trong nhà bắt đầu có người ăn kẻ ở. Dì Tư nấu bếp thương tôi vô hạn. Đôi lúc tôi nghĩ, không chừng mình là con gái dì. Biết đâu mẹ tôi và dì vào bảo sanh viện cùng ngày. Rồi vì sự nhầm lẫn nào đó, tôi thành con mẹ tôi. Đứa con thực sự của mẹ thành con dì nhưng vắn số. Dì Tư không thọ. Người tốt hay yểu mệnh. Dì mất trong nhà tôi vì bệnh tim. Tôi có lỗi vời dì. Trưa ấy dì làm lụng xong cũng hơi mệt. Chiều tôi nên dì giúp tôi tập thể dục thẩm mỹ. Lát sau dì xây xẩm mặt mày. Xẩm tối dì ra đi lặng lẽ. Dì trút gánh nặng đời người nhẹ nhàng. Dì chỉ buồn đứa con trai duy nhất chưa hoàn toàn biết tự lo cho bản thân anh ta. Nhưng tôi tin dì cũng ngậm cười nơi chín suối. Anh ta nghèo nên không thể lên thành phố đưa thi hài dì về quê. Mẹ tôi thuê chiếc xe tang cho dì. Anh ra đầu xóm ngóng từ sáng sớm, mắt luôn đỏ hoe. Khi chiếc xe đến nơi thì anh chẳng còn đứng vững.
Vài năm sau nội mất. Bà bệnh trong hai tháng. Ba tôi và dì ghẻ về thăm nội mấy lần. Tôi luôn cương quyết chỉ cho ba bước vô cửa. Hôm đưa tang, tôi không cho xe nhà đòn chuyển bánh sau khi xe đã chầm chậm vĩnh biệt chòm xóm vì mẹ và dì ghẻ tranh chấp nhau xem ai được ngồi bên quan tài. Họ không chịu ngồi chung với nhau. Cuối cùng ba tôi phải quay về nhà lấy xe gắn máy chở dì. Dĩ nhiên quyết định của tôi cũng có phần góp ý của mẹ và vài người thân với mẹ.
Mẹ và nội thoả thuận ra sao về lợi nhuận của khách sạn tôi không rõ. Nội không còn, mẹ tự quyết mọi thứ. Sau đó tôi và anh tôi mới thấy vỡ lở nhiều chuyện tày đình. Khách sạn ít khi ế vậy mà thu nhập đi đường nào hết sạch. Mẹ thiếu nợ nhiều lắm. Không những thiếu chủ hàng cung cấp đồ dùng cho khách lưu trú, mẹ còn nợ bè bạn, chòm xóm không kể xiết. Anh em tôi chán ngấy đến tận cổ cảnh hứa hẹn, cãi vã, tranh chấp của mẹ nên quyết định giành lấy quyền kinh doanh. Anh tôi bán hết bao vật dụng đắt tiền của tay chơi thời mở cửa mà nội từng sắm sửa cho. Anh giúp tôi chi phí đầu tiên trong điều hành khách sạn. Tôi chưa kịp trả hết nợ cho mẹ thì chính mẹ viết đơn tố cáo chính quyền. Ban ngành quản lý thành phố xuống đuổi hết khách và ra lệnh đóng cửa vì khách sạn chưa kịp gia hạn giấy phép.
Tôi chẳng cho những người ruột thịt mình biết trong căn nhà to đùng trống rỗng ấy tôi khốn khó thế nào. Công nợ ngập tận sân thượng. Ba và dì ghẻ không con, tu hành chay tịnh đã mười mấy năm. Với hai người sự đời đều là nhân quả. Thân thích ruột thịt chắc cũng nằm trong chữ chúng sanh được viết hoa. Anh tôi khó chịu đựng thiếu thốn. Bà nội từng chiều anh hết mực. Anh chưa học hết phổ thông. Hai năm làm lính kiểng cũng vô ích. Anh đang quanh quẩn bên chị người yêu là dân buôn bán và ăn uống luôn tại nhà chị ta. Thỉnh thoảng tôi cũng nghe nói mẹ đang ở đây, ở đó nhưng toàn lời than phiền nợ nần theo sau. Tôi tin mẹ chẳng giúp được tôi. Tôi chia bùi xẻ ngọt với hai cô gái trẻ có họ xa làm phục vụ trong khách sạn. Tôi chịu đựng thiếu thốn mọi thứ, về vật chất lẫn tình cảm, nhưng trong thời buổi kinh tế thị trường tôi chẳng biết tìm đâu ra vốn để tiến hành gia hạn giấy phép kinh doanh.
Khi tôi lên cơ quan chủ quản tìm hiểu, người ta phân công anh nhân viên trẻ tiếp xúc giải quyết. Đó là người đàn ông thứ nhất yêu tôi. Thanh nhanh nhảu giúp tôi, không đòi hỏi hạch sách bất cứ điều gì. Tôi trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân.
Hai mấy tuổi đầu, chắc chắn tôi biết anh nuôi tình cảm cho tôi. Nhưng tôi là con mọt sách. Tôi mê Kim Dung, thích thơ lãng mạn, thơ Đường và những chuyện tình cảm nhẹ nhàng, có hậu một cách mê tín. Người yêu trong mơ của tôi đi ra từ chuyện cổ tích với hoàng tử và công chúa, mang tính cách kiếm hiệp, yêu cuộc sống thơ mộng nơi vườn thượng uyển. Nhưng nhất quyết tôi không muốn người đó giàu. Ý chí này tất phải có nguyên do. Tôi từng vô tình đọc được các lá thư với lời lẽ cao ngạo của nội, đối đáp sòng phẳng yêu cầu liên tiếp nhưng mềm dẻo về tiền bạc của ngoại. Cuộc sống không hạnh phúc của mẹ và ba chỉ vì tài sắc tương đồng mà tâm hồn xa cách, là bài học còn nóng hổi.
Thanh kiên trì và nhẫn nại, cố làm tôi xiêu lòng. Anh nhất nhất ngoan ngoãn nghe lời tôi, đáp ứng mọi ý thích của tôi. Chẳng bao giờ anh cấm cản tôi điều gì. Chưa khi nào chính anh làm tôi phật lòng. Chỉ riêng lối cư xử thiếu văn hóa của gia đình anh mới làm tôi khó chịu. Vài lần tôi đi chơi với bạn trai vừa quen trong môi trường giao tiếp xã hội nào đó Thanh cũng không ghen. Đôi lúc anh cũng khuyên tôi cái này cái nọ. Xét cho cùng nó giống đắc nhân tâm.
Khi khách sạn bắt đầu vào nề nếp mẹ tôi lại xuất hiện. Hai anh em tôi cương quyết không chi tiền cho mẹ nhiều nữa. Chúng tôi yêu cầu mẹ trở về sống trong nhà, không lo lắng về ăn uống, sắm sửa. Chúng tôi trực tiếp cung phụng, hằng tháng chúng tôi gởi mẹ ít tiền tiêu vặt. Mẹ không nghe. Mẹ túng thiếu đến nỗi nhiều lúc còn cố lấy trộm đồng bạc quí giá khách vừa thanh toán, để tôi chắt chiu trả lương cho nhân viên. Một lần cùng quẫn mẹ nhờ cả du côn tới hành hung anh trai tôi. Nhờ quan hệ rộng, Thanh giúp anh em tôi thoát khỏi nanh vuốt của những kẻ đâm thuê chém mướn.
Thanh giúp tôi bán khách sạn vì không thể kinh doanh dưới sức ép của mẹ. Khách thấy mất trật tự hoài cũng dần tản đi, ế ẩm thường xuyên. Về mặt pháp lý ngôi nhà rất giá trị ấy, do nội tôi đứng tên trên giấy tờ gốc, sẽ thuộc về ruột thịt của nội. Nội có đến hai di chúc. Cái đầu chắc ba viết, nội ký. Cái thứ hai là công lao mẹ. Khi nội hấp hối, mẹ nói khéo cho cháu đích tôn, nội mới điểm chỉ cho anh hai và tôi thừa kế hết tài sản. Ba và anh hai mâu thuẫn mạnh mẽ bởi mỗi người giữ một bản ý nguyện trái ngược nhau. May sao, tranh chấp tiền nong cũng tạm dàn xếp xong. Nhà cửa từ thời xa xưa, giấy tờ thất lạc nhiều. Thanh chạy vạy trăm bề giúp tôi bán chỉ trong vòng ba tháng. Anh em tôi đưa ba phần của ba, gửi mẹ một ít và gần như trốn chạy mẹ.
Mấy đời gia tộc tôi đã sống chết, vui buồn trong ngôi nhà này. Bỗng chốc tất cả sụp đổ. Bác tôi bên Pháp. Cô tôi ở Mỹ. Ông nội mất từ hồi chưa có anh hai. Ba mẹ tôi hai phương trời. Anh em tôi bơ vơ bên đống kim loại màu vàng lạnh ngắt vô hồn. Nhiều lúc nhớ lại, tôi thấy Thanh quí giá biết chừng nào. Thanh không giúp, chỉ với tình ruột thịt của anh tôi, mà anh em tôi ít khi chia sẻ được với nhau khó khăn của cuộc sống, chắc tôi chẳng sống nổi. Anh em tôi mua ngay căn nhà nhỏ trong hẻm và dặn tất cả họ hàng không hở ra cho mẹ biết chúng tôi ở đâu.
Hình như tôi bắt đầu yêu Thanh từ lúc đó. Song nhiều điều tôi không thể nào hiểu nổi. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi thật sự tôi có yêu Thanh không và ngược lại. Thanh không biết ghen. Thanh làm mọi việc vì tôi. Thanh luôn xắp xếp được thời gian mỗi khi tôi cảm thấy cần anh bên cạnh dù Thanh rất bận. Chúng tôi hoàn toàn không đồng cảm ở tất cả vấn đề xã hội, sở thích cá nhân trái ngược. Nhưng tôi luôn thấy an toàn tuyệt đối bên anh. Anh đem đến cho tôi nhiều thứ. Ngày tháng bên anh thanh bình vô cùng. Nói gọn, nếu anh yêu tôi thì tình yêu này phi tính dục và cao cả. Tôi rất khờ. Tôi hỏi han mọi người. Nhiều giả thiết được bè bạn nêu lên: nào là Thanh ái nam, Thanh mất khả năng sinh con, Thanh đồng tính luyến ái. Bạn thân Thanh đưa ra lý giải phức tạp nhất: Thanh bị vấn đề tâm lý với chính tôi, do giai đoạn đầu anh và hình ảnh người yêu lý tưởng của tôi không khớp. Tôi làm anh mang nặng mặc cảm. Đôi lần tôi đã quyến rũ anh như phép thử được tư vấn nhưng cũng không xong.
Tôi từng theo học tiếng Trung Quốc. Tôi biết đằng sau thứ ngôn ngữ rất khó ấy là những triết lý nhân sinh giản dị song lớn lao. Gia đình thì khỏi kể, còn nhà trường phổ thông chưa dạy tôi điều này. Loại sách như "Gia huấn ca" từ lâu đã bị xếp vào hàng văn học cổ. Tôi nghiệm mình có thiên hướng học thuật. Hơn thế nữa, tôi ngộ duyên một người thầy già rất giỏi. Nhân cách tôi cũng nhờ công thầy uốn nắn nhiều lắm. Dạo trước Thanh xin cho tôi làm ở khách sạn nhà nước Macara. Công việc tiến triển tốt đẹp nhưng tôi tự bỏ ngang vì quá nhiều cám dỗ và sợ không thể theo thầy đến cùng.
Số là tôi được cơ cấu vào đội đón tiếp những ông chủ lớn sang Việt Nam tìm cơ hội đầu tư gọi là VIP. Tôi ý thức mình xinh đẹp khi được đứng trong hàng ngũ này. Khách VIP luôn yêu cầu tiếp tân riêng cặp kè với họ. Sĩ số nhóm tôi khoảng 20 người nhưng phải tuyển dụng liên tục vì các cô hay bị VIP bắt cóc làm vợ hờ hoặc bồ nhí. Khâu chọn lựa giai nhân người ta làm rất kỹ. Thường là sau khi tiếp xúc đến ông khách thứ ba, ai cũng bị đồng tiền lung lạc. Khách VIP lịch thiệp, sáng sủa và sòng phẳng đáng sợ. Tôi giúp việc được hai người. Họ một già một trẻ, lối vào đề hệt nhau:
- Cô rất Việt Nam. Vẻ thùy mỵ này khó kiếm tại mấy nước xung quanh. Tôi còn sang Sài Gòn dài lâu. Tôi đã đề huề vợ con bên quê nhà. Chuyện hôn nhân coi như an bài lâu rồi. Cô sẽ như bà hoàng nếu bầu bạn với tôi.
- Tôi không lường điều này khi xin làm ở đây. Xin ông thứ lỗi.
- Một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi, phương tiện đi lại, tiền lương hàng tháng dưới danh nghĩa trợ lý khá cao trong vòng vài năm. Bạn tôi bảo đó là mơ ước lớn nhất của các cô gái đẹp, kể cả hoa khôi á khôi, diễn viên điện ảnh. Họ sẽ phải bỏ ra cả đời để tạo dựng nếu chọn con đường tiến thân theo lối cũ mà chưa chắc thành công.
- Nếu ông thấy tôi vô tích sự, xin báo khách sạn cho thay người. Tôi thành thật xin lỗi ông.
- Ồ không sao. Tôi đâu phải kẻ hồ đồ. Lần sau qua đây tôi không dám làm phiền cô nữa nếu cô chưa đổi ý.
Tổ trưởng không mấy hài lòng. Mặc kệ, bởi Thanh nắm cương vị cán bộ sở chủ quản của khách sạn. Tôi luôn nhường hết tiền thưởng của khách cho quỹ chung nên chưa ai dọa đuổi tôi. Chỉ anh tài xế khó chịu ra mặt. Khách giàu quá tiêu tiền bằng thẻ nên không thể bồi dưỡng anh ta. Tôi không nhận tiền thì anh cũng mất khoản trà nước hậu hĩnh.
Người ta bảo tôi bất bình thường khi từ chối cơ hội ăn sung mặc sướng. Tôi gián đoạn lớp tiếng Hoa gần nửa năm, tính luôn thời gian học việc trong khách sạn. Tôi thanh thản tìm thầy cũ. Thầy hướng tôi theo nghiệp thầy và còn muốn tôi làm con dâu thầy nữa. Tôi ngoan ngoãn và thụ động nghe theo. Lấy xong bằng C do chính thầy chấm điểm khá khắt khe, tôi trở thành cô giáo tại một trung tâm ngoại ngữ buổi tối nổi tiếng. Tôi xem đây là nghĩa cử tôi dành cho thầy. Tôi muốn dạy học đến chừng nào xuất hiện nhu cầu mới của bản thân tôi, khiến tôi xem lao động là phương tiện kiếm sống chứ không phải niềm vui hoặc sự cống hiến cho lý tưởng.
Người thứ hai yêu tôi, oái ăm thay, chính là tên học trò đầu tiên của tôi. Phương hơn tôi vài tuổi, mồ côi từ bé. Hắn bập bõm tự học chữ Hán nhiều năm trong khi luôn đeo đuổi ngành Hàng hải, bôn ba lăn lộn cũng nhiều. Hắn đổi cả chục nghề từ khi vào đời năm 17 tuổi. Hiện tại Phương có ít vốn trong công ty tư nhân nhỏ. Nó tạo cho hắn cuộc sống nhàn nhã nhưng chẳng dư dả. Phương rất tinh thông tình trường. Hắn biết đủ thứ nhưng mỗi thứ mỗi ít, đôi khi rất sâu sắc song lắm lúc quá tự cao thành ra lầm lẫn nghiêm trọng. Chiếc kính đổi màu của đầu óc hắn vừa kẻ cả, vừa cực đoan lại vừa ngây thơ chết người. Phương không tin hắn võ đoán và thuộc thế hệ được nặn ra bởi chiếc khuôn trói buộc, đầy dẫy mông muội, cảm tính và duy lý.
Tôi cứ phân vân. Tôi không rung động trước Thanh. Lẽ nào Phương là kẻ nguy hiểm đến nỗi hắn biết cách làm người khác rung động. Hắn cho rằng mình lý giải dễ dàng mọi thứ, không như tôi khi nào bế tắc tôi hỏi bè bạn. Cùng đường tôi thường tìm đến sự may rủi như ngắt những cánh hoa, lẩm nhẩm có và không. Phương thích dùng chút học thuật còm của mình để chơi trò chữ nghĩa, văn hóa, lịch sử và triết học.
Phương không hứng thú với tôn giáo nhưng hắn nghĩ đức tin rất cần cho tôi. Đây là sự xúc phạm nặng nề mà mãi sau này tôi mới nhận ra khi đọc ở đâu đó đại ý: "Lương tâm cũng như nhân cách con người bậc thấp thường dùng tôn giáo làm giá trị bảo đảm". Phương quá kiêu hãnh tự đặt mình đứng trên tôi và nhiều người trong cách nhìn nhận ý nghĩa của tôn giáo. Phương luôn tìm thấy trong giáo lý các mệnh đề phổ quát của đời chứ không riêng gì đạo. Phương kể trong các đêm Phục sinh gần đây hắn thường đón nhận ngày mới hết sức trân trọng. Hắn ngước lên bầu trời như muốn thu toàn bộ vũ trụ trong mắt. Sau khi hít thở thật sâu, hắn tĩnh tâm lắng nghe mọi âm thanh và hương vị nồng nàn của đêm. Hắn bảo mỗi con người, mỗi tâm hồn đều sở hữu những khoảnh khắc chay tịnh của thánh thần. Sự thanh sạch dù hãy còn mơ hồ trong ý nguyện, hoài bám theo Phương nhiều ngày sau như minh chứng hướng thiện và hoàn thiện của hắn.
Tôi không ra vẻ cao siêu như Phương. Tôi chỉ nhớ đến Đức Mẹ khi cùng quẫn và tuyệt vọng. Tôi cho thế là đủ. Dòng họ nội ngoại tôi đều là nô bộc của Chúa. Chúa đã quay lưng làm ngơ trước bao tai ương đổ xuống đầu chúng tôi.
Thanh vẫn như cũ, chẳng hề ghen khi nghe tôi kể về Phương. Một tối thứ bảy tôi nhận lời Phương đi nghe nhạc. Hôm đó Thanh tình cờ mua hai vé xem kịch. Biết tôi bận Thanh không ngần ngại tặng tôi và Phương. Tôi gặng hỏi "Anh suy nghĩ kỹ chưa, coi chừng hối tiếc". Thanh dứt khoát bảo không!
Càng gần Phương tôi càng chẳng hiểu hắn là con người như thế nào. Tôi thú nhận hắn gống như loại thuốc an thần gây nghiện. Bình thường hắn rất hiền và ít nói. Tôi chỉ không thích khi hắn bảo tôi phải thế này, phải thế kia, trong cái vỏ bọc vì lợi ích của tương lai đôi lứa. Tôi chẳng dấu hắn mọi chuyện tình cảm. Lúc nào vụng về, tôi chọc vào tính ghen tuông quá đáng của Phương thì hắn nổi nóng ngay lập tức. Đôi lần hắn mạt sát tôi thậm tệ, rồi nhanh chóng xin lỗi vì sự thô lỗ.
Tôi kể Phương nghe nhiều về tuổi thơ của tôi. Toàn là khoảnh khắc hiếm hoi đẹp đẽ nhất. Tôi nghĩ giản dị là mỗi con người phải có những điều thầm kín, sống để bụng, chết mang theo, không thể sẻ chia. Do vậy tôi không phải là tôi trong sự tiếp nhận cả tin của Phương. Điều đó nhất định không giống tự đánh bóng mình. Phương là kẻ ái kỷ nên rất cầu toàn. Chắc chắn trong đầu hắn luôn lồ lộ công thức "Nửa sự thật luôn là man trá". Hắn không đủ tấm lòng để hiểu rằng tôi là vị bác sĩ tâm hồn của chính mình. Từ bé thầy cô dạy tôi rằng lương y được quyền nói dối bệnh nhân. Điều này thể hiện tính nhân đạo, không nên chê trách hoặc kết tội họ.
Hôm tôi đón nhận lời tỏ tình của Phương, hắn tặng tôi bản "Hình như là tình yêu" của Paul De Senneville. Tôi rùng mình. Tại sao lại "hình như"? Sự diễn tả chưa đủ sâu, Phương giống cậu bé đang đuổi theo hoặc thử sức với trò chơi vượt quá khả năng hắn. Tuy vậy âm sắc tuyệt vời của tiếng đàn dương cầm làm tôi mụ mẫm. Tự nhiên tôi chợt nhớ không sót một chữ bài thơ "Dương Cầm" của tác giả vớ vẩn nào đó, tôi từng đọc qua trên báo Phụ Nữ. Phương bảo tôi viết bài thơ vào tập nhạc Chopin sờn cũ đặt làm duyên trên chiếc đàn.
Tiếng pha lê vụn vỡ
Bỗng thành niềm hoan lạc đêm sâu
Chẳng hiểu em cười hay khóc
Mười ngón tay nồng ấm nhựa thanh xuân?
Chuyến du hành
Đi lại con đường chưa có trong ký ức
Cái ngày mang tên em không em
Tiếng đàn từ chốn nào xa xăm lắm
Đối âm đuổi nhau
Ném vào mông lung bóng hồng hoang chiều chết
Thầm thì giai điệu
Nứt mình ra sáp nến lửa xanh leo lét như ma trơi thời trung cổ
Áo em màu hoàng hạc
Tóc em ngược sáng rối bời trăng
Đừng nói câu sám hối
Hãy hát lên lời biển mặn ngàn năm
Hời ru cõi nhớ u mê
Vỡ òa những mảnh pha lê dương cầm…
Phương xem tới xem lui bài thơ mấy bận. Tưởng chừng hắn muốn lật ngược tập nhạc để tìm tâm thức của tôi ẩn dấu trong sự đồng cảm vô tình này. Tôi căm thù những cái nhíu mày liên tục và giọng nói trầm đục của hắn "Tình cảm chúng ta có điềm gở rồi em à".
Tôi không tin tôi xem Phương là con rối để kiểm chứng tình yêu của Thanh. Tôi bị cuốn vào Phương nhanh như cơn lốc đem theo mưa móc cho thảo nguyên cỏ dại thì con gái muộn màng đang hạn hán. Tôi chóng vánh kết thúc mọi cuộc chuyện trò với Thanh về Phương. Tôi chẳng kể lể hay hỏi han anh ta suy nghĩ của tôi về Phương nữa. Tôi tuyên bố tôi thật sự yêu Phương và mong Thanh chúc tôi hạnh phúc. Thanh khẳng định tôi đang ngộ nhận, nên tỉnh táo đi cùng thời gian. Mấy lần Thanh bí mật bám theo Phương. Anh nhận xét đủ thứ rồi kết luận anh không thể an tâm khi tôi bên Phương. Thanh khéo khuyên tôi hãy yêu bất kỳ ai, anh không phản đối, trừ Phương.
Cỏ dại gặp cơn mưa đi hoang nở ra toàn hoa dại.
Thanh chưa bao giờ đặt vấn đề cưới hỏi với tôi, thậm chí còn lảng tránh. Sau cái bận tôi và Phương cãi cọ rồi hủy lễ đính hôn, hai chúng tôi lại bên nhau thêm phần nồng thắm hơn trước. Phương không đòi tôi phải cho hắn gặp mẹ như điều kiện đầu tiên nữa. Tôi tập tành coi tử vi, mượn hoặc mua mấy quyển sách tướng số về đọc không biết chán nhưng cũng đâu khá hơn. Tôi vẫn quá mù mờ về Phương. Phương muốn Thanh và tôi phải dứt khoát chấm dứt mọi liên lạc. Hắn không chấp nhận tình bạn sót vụng. Hắn bảo nam nữ làm quái gì có tình bạn. Hắn gọi Thanh là "con gà trống thiến" thâm độc. Phương tự cho rằng hắn là người đàn ông bản lĩnh, hắn chỉ chịu thua những tình nhân quá cố hoặc bọn "hoạn quan" trong đầu óc bất cứ cô gái nào. Hắn quả quyết nhiều bế tắc trong cuộc sống chúng tôi sau này sẽ đi vào ngõ cụt, nếu tôi xem tất cả cư xử trước đây của Thanh là mẫu mực.
Tôi đồng ý nhưng thầm nguyện cầu đức mẹ ban cho tôi phép lạ. Sự hiển linh của đức tin sẽ cho tôi đến bên Phương, vứt đi cảm giác ngài ngại con người hắn mỗi khi ngẫm kỹ. Phương cười vào ba câu đố hóc búa của tôi. Hắn đòi tôi chướng ngại vật khó hơn, tương xứng với hắn tí chút nhưng tôi không thay đổi ý định. Hai câu đầu là hai bài toán cực khó tôi thu lượm được trên báo chí. Câu cuối là tìm ra loại bánh gia truyền của người Hoa trong Chợ Lớn, chục năm trước đôi lần mẹ mua về cho tôi. Tôi không biết tên song nhớ mãi hình dáng, hương vị của nó. Tôi luôn đem theo những chiếc bánh vào giấc mơ tình mẫu tử vô cùng đẹp đẽ.
Phương quá khôn lanh và may mắn. Hắn tung hai bài toán lên mạng. Chưa tròn hai mươi bốn giờ, một tiến sĩ toán học người Canada cho hắn đáp số cùng lời chúc phúc. Sáng hôm sau hắn lang thang vào quận Năm nhưng về tay không. Buổi tối chúng tôi đi chơi. Phương chở tôi lòng vòng tới khu Nguyễn Tri Phương rồi tình cờ gặp đúng hàng bánh hắn đang tìm. Đêm ấy chúng tôi trở thành vợ chồng trọn vẹn, trong ngôi nhà yên tĩnh và rất đỗi ấm cúng của hắn. Tận trong lòng mình tôi chưa hết âu lo. Tôi đã mù quáng trao gởi cho hắn từ khi chưa tin hắn. Tôi bắt đầu sợ mất hắn. Tôi thuyết phục hắn đăng ký kết hôn ngay, còn chung sống chính thức thì đợi năm sau. Lá số tử vi của tôi và hắn do chính tay tôi chấm luận ra như vậy.
Đại diện hai gia đình gặp nhau thỏa thuận năm sau cưới hỏi bằng lễ ra mắt trang trọng. Chúng tôi làm hôn thú vào ngày 9.9.1999. Năm chữ Cửu tượng trưng cho sự bền lâu, song cửu cùng tắc biến gở. Tôi dẫn hắn gặp mẹ. Mẹ đang thuê nhà sống với chồng hờ của mình trong khu lao động nghèo nhiều tệ nạn xã hội. Đó là gã đàn ông to cao, mặt mày sần sùi bậm trợn như dân dao búa. Mẹ đang tàn lụi. Môi mắt mẹ xâm dạo trước bây giờ xanh lè. Chất silicon của thẩm mỹ viện trong sống mũi, gò má và cả những ngón tay đang hành hạ mẹ từng giờ. Phương cố dấu vẻ ngỡ ngàng. Hắn không đồng ý cách cư xử của tôi. Hắn cho tôi là kẻ bất hiếu, nhẫn tâm để mẹ khó khăn đến như vậy. Bằng cách phê phán anh trai tôi, Phương gián tiếp can thiệp vào nỗi đau của tôi chẳng chút tế nhị. Phương bảo việc học Thiền phái Mật Tông của anh tôi cùng hàng chồng sách vở Nho Giáo anh em tôi mua trưng trong tủ nơi phòng khách là thứ trang sức của phường giả nhân giả nghĩa dốt nát. Phương nào hiểu ánh mắt van lơn, cầu cạnh thiểu não của mẹ chỉ đánh lừa được hắn. Có nhiều nẻo đường đi đến chữ Hiếu, hơn bao giờ hết, lúc này anh em tôi phải cách xa mẹ, mong ngày kia mẹ thức tỉnh. Rồi mẹ sẽ xa rời mọi ô nhục xưa cũ, trở về bên hai đứa con mình từng rứt ruột đẻ ra.
Tôi nghi ngờ tất cả những gì thuộc về Phương. Ngay ngày sinh của hắn tôi cũng khó tin. Lúc còn sơ giao tôi bảo hắn ghi ngày cho tôi xem tử vi. Tôi thật sự ngạc nhiên và ít nhiều vui mừng vì cung Mệnh của hắn và cung Phu của tôi giống nhau đến 99%. Tí nữa thì tôi đã cho rằng hắn dàn dựng ngày sinh tháng đẻ của mình để… bịp tôi. Điều duy nhất làm tôi yên lòng là Phương rất coi thường tiền bạc. Chữ tiền nhạy cảm tàn phá lòng tự trọng của hắn kinh khủng. Hắn chưa bao giờ dính dáng vào chuyện vật chất riêng tư của tôi. Hắn còn thẳng thừng tuyên bố "Cái gì của em là của em, của anh là của chúng ta". Phương không chấp nhận mái ấm tương lai có sự đóng góp ít nhiều từ tài sản tôi được thừa kế. Hắn dẫn chứng, nếu hắn ỷ lại, anh chị hắn mua biệt thự để hắn vi vu lâu rồi. Hắn cười tinh quái: đời lạ ghê, kẻ cho bị từ chối thường bực dọc hơn hẳn người cầu cạnh gặp từ khước. Không hẳn tấm lòng anh chị cùng cha khác mẹ của hắn bao la. Hắn khoái thưởng thức các con số cứ lớn dần sau mỗi lần họ lo lắng giùm hắn không thành. Hắn gọi đấy là cám dỗ. Tôi ngờ không phải vậy. Hắn thích hành hạ những người thơm thảo thì đúng hơn. Chắc qua sinh hoạt Phương đủ hiểu tôi không thiếu thốn. Phương nhìn anh trai tôi khinh khỉnh. Anh chẳng bao giờ để tâm đến sự hiện diện của hắn bên tôi ngoài câu nhận xét "Thằng này trông quê quê!". Phương ví các thứ xa xỉ anh em tôi dùng là kết quả của gia đình ly tán hơn là niềm tự hào. Tôi xót xa vô hạn vì từng kể Phương nghe nỗi tủi hổ của anh em tôi khi nghe thiên hạ đàm tếu về mẹ mình. Quả là Phương không hề áy náy khi so sánh nỗi tủi hổ ấy và niềm vui thực dụng kia. Gần nhau là chúng tôi cãi cọ, nặng nhẹ đủ điều. Sự việc dồn dập đến với tôi như cơn bão. Làm sao tôi có thể cư xử hoàn toàn minh mẫn trong mọi tình huống.
Khi biết mình mang thai tôi tưởng đã đến ngày tận thế. Lúc thì Phương đồng ý hoãn sinh con, khi thì hắn lưỡng lự. Hắn ước được phép lạ để tạm biến ra khỏi đời tôi. Hắn chẳng dấu diếm ý định xem tôi tự giải quyết thế nào những vấn đề phức tạp mà tôi chưa trải nghiệm, nếu chẳng kể các bài báo thuần lý thuyết tôi từng đọc qua.
Phương bỏ tôi cô đơn. Tôi đau đớn tìm đến bác sĩ. Có quá nhiều chông gai, trắc trở và hệ lụy để tôi kịp nghĩ giọt máu của hắn trong người tôi là mống sinh linh bé nhỏ, là phần đời nông nổi của tôi. Hoặc giả tôi chẳng hề yêu hắn chút nào. Chúng tôi đồng tình xin ly dị khi hai chữ ký trong hôn thú chưa kịp ráo mực. Tôi chẳng thể cầm lòng điều chi nữa, tôi kể hắn nghe không sót thứ gì về quá khứ. Sự cảm thông giả vờ của hắn âm vang chuỗi mộng vỡ và ngấm ngầm coi thường. Trong mắt Phương tôi không còn là nàng tiểu thư đài các, tâm hồn sâu lắng, biết hát theo tiếng đàn dương cầm của hắn, biết chơi đàn tranh. Phương từng bảo tôi rất hợp với hắn, kẻ lãng tử truân chuyên, nhưng không hiểu sao hắn luôn cảm thấy bất an khi suy nghĩ như vậy.
Tôi bỗng quay quắt nhớ Thanh và tháng ngày yên ả, vô lo bên anh. Tôi gọi điện cho Thanh vì đó là điểm tựa để dằn nén nỗi đau mất Phương hay tôi chỉ yêu được mỗi Thanh mà thôi? Tôi là con búp bê không tình yêu ư? Phần lớn loài người vào đời bằng tình yêu cao cả, lớn lao của thân sinh, gia tộc. Tôi đâu được như vậy. Tôi không thể tự chọn cha mẹ, chọn nơi chào đời. Bây giờ tôi lại không thể chọn người mình yêu, sống vì người yêu mình. Tôi ích kỷ quá chăng? Làm gì có cái "Tình yêu nào cũng tha thiết như nhau" hả chị Xuân Quỳnh!
"Con gà trống thiến" an ủi, động viên tôi rồi toan vượt rào pháp luật để xin hủy giấy đăng ký kết hôn. Thanh nghĩ nếu lý lịch cá nhân tôi chưa dính đời chồng nào thì mai đây tôi đỡ phiền toái. Tôi lờ mờ thấy trong nghĩa cử của Thanh không còn nét đẹp xưa cũ, không tỏa ra thiện chí bè bạn mà ẩn chứa lòng căm hận tột độ. Thì cứ cho là tôi đã phản bội Thanh. Tôi đáng nhận lãnh sự trả thù nhỏ mọn dường này sao? Tôi không tin… tôi không thể tin tình cảm Thanh từng dành cho tôi chỉ là sự chiếm hữu của kẻ bệnh hoạn. Tôi không phải là nô thuộc của những âm mưu nhẫn nhục ướp mật. Tôi là người phụ nữ bình thường, rất cần yêu thương và chiều chuộng như chỗ dựa vững chắc để sống, để tồn tại.
Tôi có thể sống tiếp không dù chỉ sống bên lề mọi thời cuộc, cay đắng nếm lại những kỷ niệm quái ác với cả hai người đàn ông lúc nào cũng cố chứng minh yêu tôi hết mực.
Tôi đang viết, viết và viết, không chọn lọc ngôn từ. Đến chỗ này thì tôi sợ mọi thứ mình đã viết ra. Đây là quyển nhật ký cũ duy nhất tôi chưa xé bỏ vì trang đầu mới được vài chữ thì nó bị lạc trong tủ sách lộn xộn. "Hôm nay mình tung tăng đến trường nhận lớp. Chẳng ngờ mình sớm trở thành cô giáo. Học trò toàn người lớn. Không biết có ai thấy mình rất run không. Ánh mắt nào cứ trực chiếu vào mình, càng run hơn. Mình không dám nhìn lại. Lạy chúa! Ánh mắt ấy của ai? Tê nhói nhưng sảng khoái như thuốc kích thích". Sáng nay tôi gặp Phương. Gương mặt hắn ta bình thản và vô cảm làm tôi càng bực bội. Ngoại lệ là tôi sẽ không xé tan những trang viết này. Tôi gởi cho hắn như lời nguyền. Phương nợ tôi quá nhiều. Toàn cái hắn không thể hoàn trả. Hơn hết, hắn nợ tôi người chồng tốt mà tôi hằng mong gặp.
Tôi là cây cỏ dại lớn lên bằng sinh khí của đất trời nhưng không thể an lành trong tình người. Tại sao cỏ dại nở hoa? Những bông hoa bé li ti ngập tràn thảo nguyên tương lai mờ mịt. Lúc này tôi chẳng thể nhận ra từng bông hoa màu gì, hương gì. Tôi muốn hái tất cả, muốn ôm tất cả chúng trong vòng tay mình rồi lấy hết sức bình sinh tung lên bầu trời u ám. Biết đâu tôi sẽ lược gạn được chân giá trị của thời gian, của sự vĩnh cửu và hữu hạn, của chính mình…".
Phương giữ đúng lời hứa với Tuyết. Anh chỉ đọc những dòng nhật ký của Tuyết hơn nửa năm sau, trên chiếc ghế đá nhìn xuống bức tượng "Vũ điệu Hoàng Hạc" tại Đà Lạt.
11 - Tuất...
Quá nhiều người hào hứng với số 2000. Bản tính ăn xổi ở thì hiện rõ trong sự chọn lựa. Đành rằng 2000 là con số chẵn rất đẹp, tuy nhiên chỉ dùng vài lời giải thích đơn sơ, bọn trẻ tiểu học dễ dàng hiểu rằng năm 2001 mới đúng là khởi đầu thiên niên kỷ mới.
Tối 31.12.1999 Phương bật truyền hình. Anh lập tức bị hớp hồn bởi những ánh mắt, cánh tay vươn lên trời đêm của hàng vạn công dân New Zealand đang hồi hộp đếm từng giây cuối cùng sát thềm năm mới. Sao họ hạnh phúc thế? Đất nước ấy nằm ở điểm gặp nhau giữa trời và đất trong các tư tưởng triết học Á đông xa xưa. Đó là cửa ngõ đi vào thế giới của tuyệt đối, của sự thiêng liêng, là cõi chân thiện, chân thực. Đêm ấy Phương quên ngủ. Anh nhiễm luôn trạng thái lâng lâng của chúng sinh trong phút giao thời.
Canh thìn là cái tết gia đình Phương đoàn tụ đầy đủ nhất. Chị Dung, anh Chung cùng toàn thể con cái, dâu rể về Việt Nam xây mộ cho nội tộc. Phương gác qua bên tất cả thất vọng cũ, cũng như bộn bề công việc cá nhân, để hưởng trọn nghĩa tình ruột thịt.
Chiều Long Khánh âm u. Nghĩa trang Vương gia lọt thỏm giữa vườn cây ăn trái già cỗi. Anh Dũng, dưới danh nghĩa trưởng họ, đã tu bổ chỉn chu mọi thứ. Những nấm mộ rất to quây quần quanh tháp thờ lợp ngói. Trên bàn hương chung có hẳn cây phả hệ bằng hình ảnh. Mẹ Phương và dì Thái ở cạnh nhau. Anh Dũng sao lục trong tập hồ sơ lưu trữ của cha được tấm ảnh thẻ mốc meo của mẹ Phương. Anh in đá rất tinh xảo. Người thiếu phụ trong ảnh luôn nhìn Phương bằng ánh mắt ảm đạm trống rỗng. Mẹ và dì Thái có chung nét đài các phong kiến quý phái. Nếu dì Thái xuất sắc trong âm nhạc thì mẹ Phương, theo lời kể của vài người thân, rất sành thi ca. Bà thuộc lòng truyện Kiều của Nguyễn Du và có thể định dạng bất cứ tâm trạng tình cảm nào bằng hai câu lục bát lẩy Kiều mang nhiều sáng tạo, tài hoa.
- Thật ngạc nhiên vì anh Dũng xây mộ to quá - Anh Chung bảo với Phương khi họ rảo bước quanh vườn sau tuần nhang.
- Phong cách này khá phổ biến ở miền Trung. Có lẽ lăng tẩm nhà Nguyễn đã phả vào hủ tục Việt Nam sự phô trương phù phiếm.
- Tốn kém nữa chứ.
- Nếu dành vật liệu mai táng cho nhân sinh thì dọc tuyến xe lửa xuyên Việt sẽ không còn nhiều mái ấm chắp vá, bé như hủ nút bên cạnh cơ man nhà mồ hoành tráng.
- Với thời đại, mọi lăng mộ đều rỗng tuếch.
- Đạo quân đất nung của Thủy hoàng đế là kho tàng văn hóa vô giá không thể chối cãi.
- Ngoại lệ luôn tồn tại, hơn nữa Á đông ta chỉ có một Tần Doanh Chính.
- Mai này em sẽ trăn trối được hỏa thiêu hoàn toàn, kể cả xương cốt. Để tấm hình em trong tháp thờ là đủ. Tro than rải xuống gốc cây sầu riêng này chẳng hạn…
- Ý em rất hợp anh. Tuy nhiên không nên nói về cái chết quá nhiều. Điều quan trọng là sống như thế nào chứ không phải chết ra sao.
- Mấy chú luôn nói chuyện trên trời! - Chị Dung đột ngột xuất hiện giữa hai anh em – Phương lấy vợ đi. Các anh chị sẽ lo hết, tính luôn căn nhà mặt tiền cho mợ út buôn bán. Đó mới là cách sống hợp lý, đảm bảo yên ổn. Dòng họ mình, mỗi em chưa vẹn bề gia thất, em không sợ tiền nhân quở trách cả tụi chị sao?
- Chị thương em nhiều như vậy thì xin chị rán thương luôn tính độc lập của em.
Quả thật Phương là cậu út ngỗ nghịch, luôn gây lo lắng cho mọi người. Nhiều lúc anh rất muốn gắng mua quách căn hộ chung cư, để sống bớt tạm bợ. Anh hay tìm đủ lý do phủ quyết ý định kia. Chẳng hạn Phương mong ngôi nhà tương lai là sự chung sức tạo dựng của hai người tâm đầu ý hợp, hoặc anh cầu toàn chờ thêm thời gian tích cóp, nhà ra nhà. Phương rất sợ gặp bạn đời đặt sự ổn định vật chất trên hết. Đứng trên bình diện an lạc của mình, các anh chị ngại ngùng cho Phương là hoàn toàn không khó hiểu.
Gia đình chị Dung đã định cư hẳn tại Nam California. Cậu cả Tony Nguyễn gần 30 tuổi, bác sĩ bệnh viện Fountain Valley. Cô út Catherine Nguyễn ngoài hai mươi, tốt nghiệp ngành quản trị kinh doanh. Catherine hiện là trưởng một ngành hàng trong hệ thống siêu thị liên bang Target, nơi cô gắn bó từ thuở sinh viên vừa làm vừa học. Chị Dung không cản được hai đứa rời gia đình thuê chỗ ở tiện nghi sống riêng lẻ. Đó là lối sống mang tính cá nhân chủ nghĩa mà chúng lựa chọn. Song chúng luôn để ý chăm sóc cha mẹ. Công việc hai đứa thuận lợi, thu nhập cao. Mỗi tháng chúng góp biếu cha mẹ vài ngàn Mỹ kim. Thêm khoản trả nợ tiền vay phục vụ tiêu dùng cá nhân ngày trước, còn bao nhiêu chúng dùng hết cho nhu cầu bản thân, không hề biết dành dụm.
Vợ chồng chị Dung thôi đi làm thuê đã mấy năm. Họ mướn người, mở quán cà phê nhạc ở đường Bolsa, gần Sài Gòn Nhỏ. Ngoài giờ coi sóc quán và thả mình hồi tưởng tháng năm tuổi trẻ bên dòng nhạc lãng mạn tiền chiến hoặc đương chiến, họ xoắn xuýt cùng nhau sống nối thời sinh viên với những lớp ngoại khóa văn chương, chữ Nôm tại một viện đại học. Gia đình bốn khẩu này, kẻ trước người sau cũng tập hợp đủ bên bàn thờ tổ tiên tết nguyên đán tại quê nhà.
- Cũng phải gắng gượng mà sống vì con cái thôi chú ạ. Bạo lực góp phần cấu thành cái gọi là văn hóa hơn hai trăm năm của Hợp chủng quốc Huê Kỳ. Thực lòng, thế hệ của anh chị vẫn mong hoàn hương - Anh Tòng thổ lộ với Phương.
- Người Mỹ khoái phim hành động bắn giết thả giàn. Họ không ưa túc cầu mà chuộng bóng chày, bóng bầu dục vì chất bạo lực hơi nhiều. Bạo lực và văn minh phải chăng có mẫu số chung?
- Văn minh vật chất có họ hàng gần với sự dã man. Những vụ tự tử hoặc giết người hàng loạt ở Mỹ nói lên điều đó. Chắc em không thể nào làm quen được với văn minh nước giải khát sủi bọt đóng hộp và thức ăn nhanh?
- Anh coi đó là biểu tượng thiếu chiều sâu sao?
- Ngược lại là đằng khác. Không nên đặt Bill Gate cao hơn gã đầu bếp sáng chế ra món gà rán hay cậu nhân công pha chế tân dược tình cờ nắm được bí quyết làm nước coca cola. Họ đều là người tự do có vận hội. Họ tạo nên giá trị của nước Mỹ bằng sức lao động trên cơ sở đó.
- Cuộc biểu tình dữ dội phản đối vòng thương thuyết mậu dịch toàn cầu tại Seattle vừa qua vạch trần thủ đoạn lấn lướt, chèn ép trong xã hội tư bản. Người ta chỉ thực sự có nhiều vận hội và bình đẳng khi quy luật cá lớn nuốt cá bé bị tiêu diệt.
- Xã hội càng tân tiến thì càng lắm phức cảm. Tâm hồn sâu sắc của người Á đông chính là rào cản khiến các sắc dân da vàng chưa bao giờ hoàn toàn hòa nhập được vào lối sống Âu Mỹ. Cộng đồng người Việt ở Mỹ luôn mang cảm giác bất an. Mặt trái của tự do kiểu Mỹ là vậy. Bọn côn đồ mũi tẹt thỉnh thoảng vẫn bắn nhau trong quán của anh chị. Mâu thuẫn khá vớ vẩn. Sức ép tinh thần thường trực kết hợp với lối suy nghĩ nông cạn, buông thả làm người ta khó tự kiềm chế. Không có tiền khổ chục nẻo thì có tiền khổ trăm nẻo. Băng đảng trộm cắp rình rập, đố kỵ. Có đủ người Việt, người Mễ, Mỹ trắng, Mỹ đen. Đời sống thu hẹp trong công việc và gia đình. Gia đình truyền thống của chúng ta không thể thiếu con cái. Cái dở là thế hệ tiếp theo không hiểu cha mẹ chúng cần gì.
Anh Dũng và chị Linh cũng bắt đầu hậu vận hưng nhàn. Từ đầu thập kỷ 90 họ dành dụm mua vài mảnh đất ruộng bên kia cầu Sài Gòn. Đô thị phình ra, lãi trăm lãi ngàn. Họ gom góp xây ngôi biệt thự cho Tây thuê giữa khu nhà ngói xanh ngói đỏ phường Thảo Điền, quận Hai. Chị Linh mở thêm cửa hàng thời trang trên đường Lý Tự Trọng. Suy thoái kinh tế, họ dọn về căn biệt thự ế khách. Anh Dũng lập quán cà phê vườn nho nhỏ ngay tại nhà, thế là đủ sở hụi hằng ngày. Anh nghỉ việc nhà nước về tỉa tót cây cảnh, mặc chị Linh bán buôn ngoài phố nhộn nhịp. Thịnh, đứa con duy nhất của anh chị đã lớp 12, cao to, lanh lợi và liếm thoắn.
- Anh an phận và bắt đầu nghỉ ngơi sớm vậy?
- Khủng hoảng chỉ nhất thời thôi em. Sau cơn sốt nhà đất thường là thời kỳ đóng băng. Người ta cứ bảo sốt ảo, đóng băng thật. Nhưng ngược lại mới đúng. Diễn biến này chính là phân hóa xã hội. Thiểu số nào đó sẽ thu vén hết của cải xã hội, đẩy đa phần dân chúng thành người vô gia cư, người làm thuê, ở thuê. Quá trình này sẽ từ từ xoáy vào đời sống bằng những chu kỳ không đều đặn, phụ thuộc ở giá trị tích lũy niềm tin, tích lũy tư bản.
- Thì ra anh ứng dụng cách mượn gió bẻ măng.
- Phải là gió mới ăn trên ngồi trước được. Nếu không có sự đột biến nào, chừng hai thế hệ nữa, tài sản anh chị ky bo sẽ chia nhỏ cho con, cháu. Đó cũng là phân hóa, sự phân hóa của tự nhiên.
- Được, mất thật vô biên anh nhỉ!
- Khi không nắm quy luật người ta mê tín và tin vào số phận, cho nên mới có câu: triệu phú do bần, tỉ phú tại thiên. Giàu nghèo là hai mặt tối sáng của văn minh.
- Giàu luôn dễ tính bằng các con số. Nghèo khổ thì khôn cùng. Đây phải chăng là hố chôn tương lai? Lắm khi thịnh vượng gắn liền với tai họa.
- Đừng truyền thống thế. Đừng định nghĩa mạt rệp là đạo đức. Đó là sai lầm khủng khiếp của bản sắc và lịch sử văn hóa Việt Nam đấy. Hãy tìm đọc Hoá thực liệt truyện trong Sử ký Tư Mã Thiên. Ngoài ra ông ta còn viết: “Phép trị nước cao nhất của Đế vương là thuận theo ý muôn dân. Hạng nhì dẫn trăm họ về đường lợi ích. Hạng ba dùng đức giáo hóa. Hạng tư kế đến lấy hình pháp ràng buộc. Thấp tệ hơn hết là nhà nước đứng ra tranh giành mối lợi của dân.
- Vỡ lẽ thật! Xã hội công dân mà các nhà tư tưởng đối lập Đông Âu thai nghén từ nửa sau thế kỷ 20 không mới mẻ lắm. Đây là thất truyền hay sự mê muội?
- Ngọc quý ít thấy ánh sáng.
Anh Chung của Phương lấy vợ năm 1990. Học muộn, ra trường trễ, chí thú làm ăn anh cũng yên phận trong căn nhà nhỏ giáp ngoại ô Glendale, Arizona. Anh hiện làm công cho hãng kinh doanh máy tính. Bé gái của anh chị mới chín tuổi mang tên thuần Việt, Vương Thị Hoài Hương, mặc dù vẫn phải hoán đổi họ ra sau. Chị Xuyến, vợ anh người Việt gốc Hoa, xuề xòa dễ tính. Chị là bác sĩ Đông Y có phòng mạch tư đang ăn nên làm ra.
- Việt Kiều khắp nơi, không riêng ở Mỹ, chưa tìm ra tiếng nói chung. Cảm giác chiến bại thỉnh thoảng che mờ sự rạn nứt và bôi xóa mãnh liệt đang hoành hành - Chung phân tích.
- Thời gian không đợi ai. Viễn cảnh thật đáng buồn. Em còn nghe khái niệm Do Thái da vàng.
- Do Thái da vàng là người Hoa hoặc người Việt gốc Hoa sống tại Mỹ chứ không phải người Việt Nam. Đằng sau sự sầm uất, rình rang bề nổi của Sài Gòn nhỏ ở Cali hoặc nhiều tiểu bang khác là các ông chủ đất, chủ nhà người Hoa. Họ lặng lẽ thu tiền thuê mướn từ người Việt. Không kèn, không trống, họ ngồi mát ăn bát vàng trên lưng cộng đồng Việt mấy mươi năm nay rồi.
- Anh có bao giờ so sánh vài cộng đồng Mỹ gốc Á không?
- Rất mủi lòng. Phải nói chúng ta thua thiệt mọi bề. Người Hoa chẳng hạn, ít bốc đồng, ít chơi trội, ít kèn cựa. Người Hoa theo Tưởng và người Hoa theo Mao không khi nào đấu tố nhau. Chắc họ hiểu nguồn mạch văn hóa là vĩnh cửu, son phấn chính trị chỉ nhất thời.
- Em hơi bất ngờ.
- Sự tồn tại bền vững phải gánh vác những ý nghĩa tích cực. Ý nghĩa cuối cùng của bản năng trong từng cá nhân là mưu sinh độ nhật nhằm duy trì nòi giống. Có hay không bản năng cộng đồng?
- Sau thế chiến thứ hai, gần mười triệu người Đức trở về, đồng cam cộng khổ dọn đống gạch vụn. Hình ảnh ấy đẹp biết bao.
- Nhiều tổ chức Việt Kiều luôn cực lực phản đối bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ và ký hiệp định thương mại.
- Anh đoán xem hai bên có tái họp và ký kết sau lần đổ vỡ vừa qua không?
- Hãy nhận rõ chân tướng của các hình thái chính trị Tây dương, phân tích xác đáng vị thế của đất nước ta trong khu vực Đông và Đông Nam Á. Câu trả lời nằm ở đó.
- Ảnh hưởng mà người Mỹ muốn tạo dựng trên đất nước này là động lực cuối cùng để họ nhượng bộ. Cái gọi là lợi ích kinh tế dành cho thương gia Mỹ, hoặc chiêu bài dân chủ hay nhân quyền đều là vỏ bọc. Tay lái buôn giàu xụ kia chẳng ham hố gì mảnh thị trường đông dân nhưng còn quá nghèo của chúng ta đâu. Ba mươi năm nữa, tổng sản phẩm quốc nội Việt Nam chắc chắn chưa bằng 1% của Mỹ. Không chóng thì chầy Mỹ sẽ ký hiệp định với chúng ta. Đó là bước đi đầu tiên trong nỗ lực đề phòng từ xa một dân tộc Trung Hoa hùng cường nay mai.
- Con thuyền Việt Nam thêm lần nữa đứng trước thử thách của cục diện vĩ mô. Thử thách luôn bắt buộc phải mang theo lợi thế cùng nhiều toan tính.
- Một tác giả tên tuổi của đại học Havard dựng ra lý thuyết về xung đột giữa các nền văn minh. Ông ta nghĩ thế chiến thứ ba sẽ xảy ra ở nơi có sự chồng lấn và giao thoa văn minh. Việt Nam là điểm hội tụ tất cả điều kiện cần thiết để hình thành ngòi nổ.
- Đáng tiếc, lịch sử đứng về hoang tưởng ấy. Không ai có thể phủ nhận Việt Nam hai ngàn năm nay là một mắt xích của chuỗi văn minh đông Á. Tuy vậy, đây lại là mắt xích biên viễn yếu nhất. Nhật Bản tự thân vận động thành đế quốc. Triều Tiên, Trung Hoa thì rõ ràng chưa dễ bị nuốt trửng bởi Tây dương. Duy nước Việt ta, hoàn toàn chìm trong đêm dài nô lệ, nếu không kể triều đình Huế hư danh. Thậm chí ngôn ngữ của chúng ta, trên hình thức truyền thông, đã bị biến đổi và hiện nay đang nằm dưới nguy cơ Âu hóa khôn lường.
- Toàn cầu hóa và đa phương hóa sẽ hóa giải yếu địa chăng?
- Ảo tưởng toàn cầu hóa rất đáng sợ. Thật ra quá trình toàn cầu hóa hiện nay chỉ là toàn cầu về kinh tế, giữa những tên tư bản kếch xù nhất. Hàng chục cuộc sát nhập của các tập đoàn khổng lồ đang nở rộ. Từ New York đến Frankfurt, từ Luân Đôn đến Tokyo, không phân biệt địa phương, dân tộc, bọn trọc phú đoàn kết hơn bao giờ hết để tạo ra hệ thống vơ vét lớn chưa từng có. Chúng sẽ hút máu nhân loại cần lao và phá hủy hoàn toàn môi trường sinh thái của hành tinh xanh.
- Giáo sư Amartya K. Sen nghiệm thấy nghèo đói có nguyên nhân chủ yếu từ mô hình kinh tế sai lệch. Ngược lại, muốn có thật nhiều tiền, tư bản từ lâu đã vận hành những học thuyết hữu dụng để vắt kiệt sức lực và tài sản thiên nhiên của nhân loại. Cỗ máy hiện đại nhất của chúng bây giờ là cỗ máy "Toàn cầu hóa". Cái tên này khá văn hoa, vô tình phù hợp với khái niệm nền kinh tế tri thức. Chúng tung hô lợi ích này nọ, dân chủ, tự do. Thực chất là tự do cưỡng ép, dân chủ tống tiền cho bọn đầu tư.
- Toàn cầu hóa thông tin sinh ra nền kinh tế tri thức. Lập tức toàn cầu hóa mậu dịch được thai nghén để mưu lợi. Năm ba ngàn người luôn tụ tập phản đối trước cửa các nghị phòng của IMF, WB, WTO chứng minh toàn cầu hóa lương tri, nhân bản và nhân ái thuộc về của thiểu số. Hàng rào cảnh sát với chó săn, ngựa chiến, dùi cui, súng đạn, ngăn cản đàn áp nhóm người kia chính là bộ mặt thật của những ông chủ lớn trên thế giới. Tại sao chúng sợ đoàn người chỉ mang theo biểu ngữ và lời kêu gào thống thiết?
- Ngày trước tư bản chia nhau các châu lục để cướp bóc bằng các cuộc chiến tranh qui mô đồng bộ. Hôm nay, bất cứ mảnh đất nào trên hành tinh chúng ta cũng có thể bị chúng cùng bâu lại làm gỏi bằng vài mảnh văn tự ngọt ngào nhất. Chúng càng ranh ma thì càng đề phòng rơi mặt nạ, càng sợ sự cảnh tỉnh của các cuộc biểu tình.
Một ngẫu nhiên lớn đã xảy ra. Năm ngoái anh Chung dẫn vợ con về quê ngoại ở Quảng Đông. Từ bến xe đò đối diện ga tàu lửa Hương cảng họ đến thị trấn Lão Sơn tá túc vài hôm trong gia đình họ hàng chị Xuyến. Lang thang gần đó vãn cảnh anh phát hiện được nguyên quán năm đời của mình. Về Việt Nam Chung đưa Phương tờ giấy, chữ Hán giản thể viết tay rất tháu:
- Em dịch đi. Cái này hay lắm.
- Trung Hoa quốc, Quảng Đông tỉnh. Bất Giá Sơn trấn, Vương Tộc hương - Phương vừa đọc vừa đoán - Quê ngoại bé Hoài Hương hả anh?
- Địa chỉ cố hương chúng ta đó.
"Anh muốn có thời gian nói chuyện đủ ngọn ngành. Ở Việt Nam anh nghe kể ông cố là con một người Trung Hoa lưu lạc sang vùng Rạch Giá lập nghiệp dạo chiến tranh Nha phiến. Thuở khẩn hoang người chăm chỉ làm ăn. Đến đời ông cố thì phất lên, ruộng đồng cò bay thẳng cánh. Thời đó pháp luật chưa đến vùng hẻo lánh. Các gia tộc tự luyện võ, vũ trang giữ đất mà tồn tại. Ông nội ba tuổi thì mất cha vì cuộc đụng độ lớn với gã hội đồng Phước chuyên đè nén kẻ thấp cổ bé họng. Giết người xong chúng ép phải bán rẻ đất vừa khẩn hoang cho chúng.
Họ Vương ngậm đắng nuốt cay dời về Bạc Liêu. Của cải lại tìm đến người lam lũ cần kiệm. Cha mình sanh ra trong nhung lụa. Ông nội chẳng tiếc tiền cho cha lên Sài Gòn ăn học.
Ông tổ họ Vương là một hào trưởng tinh thông phong thủy, Kinh dịch. Của quí duy nhất ông tặng con mang theo lập nghiệp bên này là lá bùa hộ mệnh. Ngoài phần chú niệm an lành may mắn, ông trích năm chữ từ bài cổ văn ông thích gồm Thụy - Công - Ly - Thức - Linh và khuyên sử dụng năm chữ này làm tên lót cho năm thế hệ tiếp theo của các chi tộc ở Trung Hoa cũng như Việt Nam. Lý ra cha mình lót chữ Ly nhưng ông đã tự ý đổi tên khi tham gia kháng chiến.
Anh lấy làm lạ với làng họ Vương tại thị trấn Bất Giá Sơn. Anh dẫn chị Xuyến đi thăm nghĩa trang của làng. Anh bập bõm dăm ba chữ Hán. Chị Xuyến biết nhiều nhưng không đọc sõi âm Hán Việt. Và anh bủn rủn hết chân tay khi nghe chị Xuyến dịch lòng vòng các ngôn ngữ Việt, Hán Việt, Anh để xướng tên người trong một khu mộ giản dị. Tất cả chia theo lớp lang, thứ tự y như năm chữ nói trên. Dò hỏi mãi cũng tìm được thân nhân khu mộ. Hậu thế nói đúng tên ông tổ chúng ta theo trí nhớ của anh. Bên đó đời thứ sáu lót chữ Hiển. Mai này sanh con em hãy nhớ chữ Linh. Anh mong lắm!".
- Khi nào có điều kiện em sẽ về thăm cố hương.
- Quê nghèo! Chẳng khác gì làng mạc xa xôi ở ta. Mừng là chính phủ rất giàu. Các công trình phúc lợi xã hội đang từng ngày đổi thay lục địa. Nếp sống đô thị tuy chưa thật hào nhoáng như Tây dương, nhưng cốt lõi chỉn chu, nghiêm cẩn trong xây dựng, văn hóa sinh hoạt và đời sống, chứng minh rằng họ đã tạo được tiền đề tiến lên văn minh mạnh mẽ, nhanh chóng.
- Em vẫn tin thế kỷ 21 là thế kỷ của người Á đông, trong đó có dân tộc chúng ta.
- Nhìn thẳng vào sự thật vẫn hơn. Thế giới luôn rùm beng chuyện ấy. Thậm chí ứng cử viên tổng thống Mỹ còn tuyên bố phải kiềm tỏa sự phát triển của Trung Quốc. Con đường phồn vinh trên cơ sở lao động chân chính còn lắm gian nan. Có khi tưởng bở quá hóa diệt vong. Cái bẫy nguy hiểm nhất là cái bẫy ngọt ngào nhất. Từ khi Trung Quốc mở cửa, Tây dương có điều kiện tiếp xúc đầy đủ với cái nôi văn hiến Á đông. Họ choáng ngợp trước sự vĩ đại của quá khứ chúng ta. Tâm trạng lo lắng về cuộc rượt đuổi lấn lướt là kết quả dễ hiểu. Nước Mỹ hiện đang manh nha hội chứng mới tương tự như hội chứng Việt Nam xưa kia. Họ rất sợ Trung Quốc làm chủ những phát minh khoa học lớn. Điển hình là việc bắt giam bừa bãi nhà bác học họ Lý mới đây. Ông Lý bất cẩn sao chép hồ sơ kỹ thuật chế tạo vũ khí hạt nhân sang đĩa mềm, mà quên ghi mã số an toàn. Thế là ông bị kết tội, đày ải xuống bang New Mexico chờ điều tra và ra tòa vì "Cung cấp thông tin tối mật cho Bắc Kinh".
- Điều đáng buồn là ở chính mảnh đất Việt Nam này, cũng ẩn tàng hội chứng Trung Hoa. Người Mỹ có lý của họ, nhưng với người Việt Nam, hội chứng Trung Hoa dường như là ám ảnh không thật, là ý thức bề nổi cố tình che giấu vô thức nhược tiểu trầm trọng nếu không kể đến sự đố kỵ thường tình giữa hai kẻ láng giềng có quá nhiều liên hệ lịch sử, văn hóa, thậm chí huyết thống. Với nhiều con bệnh, tai họa lớn nhất là tai họa không bao giờ có khả năng xảy ra. Chiến tranh trong dĩ vãng tác động đến chúng ta quá nhiều. Không kể thuở hồng hoang chưa minh bạch, từ khi người Việt giành được độc lập cách đây 1000 năm, các cuộc xung đột phần lớn nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa các tập đoàn phong kiến. Đời Trần quân Nguyên xâm lược Việt Nam chứ không phải Trung Hoa. Minh, Thanh đánh ta vì quí tộc thất sủng của Việt Nam cõng rắn cắn gà nhà. Triều Lý thì đánh qua đánh lại. Lý Thường Kiệt khởi binh trước. Lịch sử Việt Nam tung hô trận san bằng thành Ung Châu và tàn sát 58.000 người là "An Nam đệ nhất võ công".
- Mao Trạch Đông từng gọi nước Mỹ là “con hổ giấy”, nghe qua có vẻ thấm đẫm tinh thần AQ. Nếu chịu khó đào sâu sẽ thấy nhiều tầng ngữ nghĩa. Dẫu câu nói ấy đơn giản là liệu pháp tâm lý cũng không thể xem thường. Dân Trung Hoa được khuyên nhủ không nên sợ Mỹ, dù cảnh giác cũng chẳng thừa. Nấc thang “không sợ” nằm dưới nấc thang “được nể vì”. Hoang mang về đế quốc Trung Hoa trong lòng người Việt là rất thật. Thời phong kiến chúng ta chỉ biết so sánh với Trung Hoa, và luôn nhận ra nước Việt thật nhỏ bé. Thế kỷ 20, tầm nhìn càng rộng, chúng ta lại thấy mình còn nhỏ hơn nữa. Thế kỷ 21, lẽ nào điều đó sẽ tái diễn. Nếu không mơ hão thành cường quốc, người Việt với mảnh đất hình chữ S tuy khiêm tốn vẫn có thể mong trở nên một quốc gia phát triển, tiến bộ, văn minh. Cuộc cách mạng đầu tiên chúng ta phải làm nhất định là tiến trình giũ bỏ vô thức nhược tiểu, tâm lý tự ti trong tư tưởng chính mình. Chúng ta nên lấy thành công của bè bạn, láng giềng làm gương hơn là biến nó thành sự ái ngại vô lý, thành căn bệnh thần kinh mang tính chất di truyền cho các thế hệ mai sau.
- Đại Việt sử ký toàn thư – Ngoại kỷ - Quyển 2 – Lê Văn Hưu nói: “…thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi…. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế (tức Nam Việt Vương Triệu Đà) mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giếng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương bắc không thể lại ngấp nghé được…”. Cùng trang này, Ngô Sĩ Liên cũng bàn: “Kinh dịch nói ‘Biết khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua’”.
- Thiện chí và lòng tin tương hỗ sẽ vun đắp hạt giống lịch sử thành cây cổ thụ hòa bình, hữu nghị. Hy vọng trong bóng mát vĩnh cửu, người Việt và người Hoa sớm tái thức tỉnh tình anh em môi hở răng lạnh, chung mạch nguồn văn hóa Á đông.
- Nhìn Á cũng nên xét Âu. Nó cho ta tầm mắt quán xuyến, đa chiều.
- Có quá đáng không nếu tạm ước đoán ba mươi phần trăm cơ sở vật chất văn minh Tây dương sở hữu là do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Bảy mươi phần trăm còn lại là kết quả của cướp bóc, giết người và xâm lược. Họ chiếm toàn bộ châu Mỹ, châu Úc, tiêu diệt hoặc xua đuổi người bản xứ vào những khu đất cằn cỗi, bất lợi. Họ nô lệ châu Phi mấy trăm năm, và hiện vẫn còn làm chủ gần hết tài nguyên khoáng sản ở đó. Á châu chỉ cầm cự ở mức độ nhất định, đa số đất đai chúng biến thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa cả thế kỷ. Vài năm trước chúng còn trâng tráo tổ chức rùm beng ngày tên hải tặc Kha Luân Bố đặt bước chân đầu tiên lên Tân thế giới. Cái bất biến của văn minh Tây dương chính là bản chất ăn cướp. Đã là kẻ cướp thì nhìn nhận của chúng nông cạn là dễ hiểu. Ban đầu chúng đòi "khai hóa" Á đông bằng các yêu cầu thông thương, tự do truyền giáo. Sang thế kỷ hai mươi, sau khi phải ngậm ngùi cút khỏi Á đông, chúng tô vẽ thêm con bài nhân quyền, hòng trở đầu làm mưa làm gió trên mảnh đất này. Hãy nghe học giả Tây dương phán xét về cuộc trường chinh vô vọng của nòi giống mình từ đầu thế kỷ hai mươi: " Chúng ta thấy trước mắt một nền văn minh trọn vẹn, đã xây dựng từng nền tảng một từ lâu đời, nó đã quá tinh anh, quá học thức, quá cổ đại đến mức đôi khi gần như xuống dốc (vì đã lên tột đỉnh). Tất cả nghệ thuật và rất nhiều những khoa học, kể cả khoa cai trị, đã đi đến chỗ toàn mỹ… Những luật lệ, phong tục, tôn giáo và văn học đã kết hợp chung lại một cách hoàn hảo và thuận hợp, mà từ nhiều thế kỷ qua đã tạo nên nền văn minh hài hòa. Tất cả dã man đã biến mất từ lâu, dân tộc này đã khai hóa, trong khi ở Tây dương con người mới chỉ có bán khai… Mưu toan tiêu diệt một nền văn minh như vậy là một ý định điên rồ và là một tội ác. Những hành động hiện tại của chúng ta, với sức mạnh vũ lực nhất thời, không thể nào mãi mãi chống nổi những gì đã có từ lâu đời, đã được toàn thể tôn kính. Nếu chúng ta tấn công vào, chúng ta sẽ là những kẻ chiến bại. Chúng ta sẽ bị áp đảo bởi nền văn minh ấy, không thể nào đánh sâu vào gốc rễ nó được…" Tuy rất sáng dạ và phân tích rất chí lý, vị học giả nọ vẫn không vượt qua được dã tâm ăn cướp của đồng chủng mình khi đề ra đường lối bóc lột tinh vi hơn: "Chúng ta phải làm thế nào để thích nghi với nền văn hóa ấy, để phục vụ thành công kế hoạch của chúng ta… Trừ những người ảo tưởng một cách cứng đầu, hoặc vài bộ óc thoái hóa, thật không còn ai nghĩ đến đường lối chính trị áp chế ở Đông dương…". Trích đoạn này nằm trong quyển sách viết về Phan Chu Trinh. Tiến sĩ Thu Trang Công Thị Nghĩa dẫn dịch lời nói kia từ Albert de Pouvourville: Les Défenses de l'Indochine et la politique d'association. Nhà xuất bản A. Pedone, Paris 1905.
- Nói chung khái niệm “dân chủ” mà Tây dương luôn muốn áp đặt lên đại lục Á đông của chúng ta chẳng khác nào chiếc thòng lọng vô hình. Điều kiện tiên quyết của dân chủ phải là dân trí. Khi cách mạng dân chủ tư sản nổ ra tại trời Âu, trên 60% dân số Tây dương là người thành thị. Ở Á đông thì sao, 70% nhân lực của chúng ta hiện vẫn là nông dân. Hệ quả của việc này thế nào thì không phải ai cũng hình dung được. Đặng Tiểu Bình tiên đoán giữa thế kỷ 21 Trung Hoa mới có thể áp dụng phổ thông đầu phiếu. Chiếc áo “dân chủ” Tây dương từng khoác vội lên dăm hòn đảo xung quanh chúng ta có làm họ giàu mạnh, thống nhất và hùng mạnh hơn Trung Hoa đâu. Vẫn chỉ là bất ổn, xào xáo. Ngay Thái Lan đến tận năm 1992 mới bắt đầu áp dụng bài học dân chủ đầu tiên, kết quả đang ở phía trước.
- Trong trường hợp này, dân chủ là vỏ bọc của dã tâm ăn cướp và âm mưu khuynh loát hệ thống chính trị của chúng ta.
- Nhìn qua hình dáng vị anh hùng bậc nhất của họ là Napoleon cũng đủ thấy bản chất ấy. Xuất thân từ thất phu, Napoleon dựa dẫm mụ quý tộc nạ dòng để ngoi lên. Đời hắn trải dài trên các cuộc xâm lăng cướp phá triền miên. Hắn lải nhãi ca ngợi văn minh cổ Ai Cập trong khi không chút do dự hạ lệnh bắn đại bác vào tượng Nhân sư để tìm… vàng! Đúng như lời của hắn: "Từ cái cao cả đến cái lố bịch chỉ cách một bước chân". Những tên sát nhân, sát văn hóa hèn hạ dường ấy vẫn ngự trị trên cõi đời này như biểu tượng anh hùng bất tử thì chưa có gì sáng sủa cả.
- Hãy so sánh hành động của bọn lính Lang Sa đã đặt thuốc nổ phá hủy chùa Một cột trước khi trao trả Hà Nội, và việc Ba Lê phi quân sự để bảo vệ di sản kiến trúc trong thế chiến thứ hai; là biết ngay "cái cao cả" của bọn hèn mạt.
- Nửa sau thế kỷ hai mươi trở đi con bồ câu trắng ngậm cành ô liu đánh lừa được nhiều người. Các chính sách tiền tệ, đầu tư, tài trợ hoặc toàn cầu hóa của Tây dương xem ra còn õng ẹo hơn cành Ô liu nhiều. Lưỡi kiếm êm ái, tuyệt đối hữu dụng là lưỡi kiếm sắc nhọn, càng mềm càng mỏng càng tốt. Sự nhân đạo duy nhất là nạn nhân sẽ không cảm thấy đau. Cái chết đến nhẹ nhàng như giấc ngủ. Kỷ nguyên nô lệ Hậu hiện đại đang thành hình và được quảng bá trần trụi. Không có bom đạn chưa hẳn là hòa bình. Nghệ thuật ăn cướp siêu hình mới mẻ của Tây dương đã triệt hạ tất cả những nỗi đau thức tỉnh hữu hình nơi con mồi.
- Người Việt Nam tin mình rất yêu chuộng hòa bình. Không sai! Nhưng chúng ta không tin Trung Hoa cũng là dân tộc yêu hòa bình. Mảnh đất Á đông luôn luôn yêu chuộng hòa bình, ngoại trừ Mông Cổ xa xưa và nước Nhật nửa đầu thế kỷ 20. Tần đại đế uy vũ trùm thiên hạ, thống nhất nội quốc bèn xây Vạn lý trường thành nhằm chấm đứt binh đao vĩnh viễn với rợ Hung Nô. Công trình ấy là gì, nếu không phải lời cầu nguyện hòa bình thuyết phục nhất của người Trung Hoa. Vó ngựa Hung Nô bị Trường thành và những đạo quân tinh nhuệ của Hán Vũ đế đuổi về phía tây. La Mã bị đốt trụi, Ba Lê bị vây hãm trong vài thế kỷ tiếp theo là hệ quả tất yếu…
- Chẳng lẽ giờ đây chúng ta nên xót xa vì tổ tiên mình yêu chuộng hòa bình?
- Thời cổ đại, hòa bình chưa hẳn đã tốt. Dường như bản năng xa xưa của nhân loại từng sử dụng chiến tranh như cơ hội để lai tạo nhiều chủng tộc với nhau, nhằm tạo nên các thế hệ ưu việt hơn. Một trong những nguyên nhân làm biến mất rất nhiều nền văn minh cực kỳ rực rỡ của loài người là vì họ đã sống và phát triển trong không gian hoàn toàn đồng chủng. Gần chúng ta là văn minh Phù Nam, xa có văn minh Incas, Mayas, Aztec… Quá mù sa mưa, lạm dụng chiến tranh như Hy Lạp, Lưỡng Hà tất đi vào ngõ cụt.
- Nói vậy hơi quá nhưng rõ ràng nếu từ năm 221 trước công nguyên, Á đông mở vòng tay tiếp cận nhiều nền văn minh khác ngoài lãnh thổ của mình thì hôm nay khuôn mặt nó chắc rất sáng sủa. Các triều đại và chính thể hậu Tần không có đầu óc duy tân triệt để như Thủy hoàng đế. Đó mới là điều đáng tiếc.
- Sự phát triển rực rỡ của Triết học Tiên Tần thai nghén ra Tần Thủy Hoàng. Hệ tư tưởng lớn là cha đẻ những lãnh tụ kiệt xuất. Thời đại sinh thành vĩ nhân. Không bao giờ có chuyện ngược lại.
- Tần Thủy Hoàng đã chiến thắng sự chia rẽ cũng như tư duy vụn vặt, tủn mủn nằm trong máu người Á đông. Nhà nước phong kiến tập quyền ông dựng nên khá hùng mạnh vào thời điểm ấy.
- Đốt sách, chôn 460 Nho sinh, đày ải dân đen trong công trường xây dựng lăng mộ và Vạn lý trường thành là hai tội không thể tha thứ của ông ta?
- Cho nên mới xuất hiện câu chuyện truyền khẩu bệnh hoạn ý nói Tần Thủy Hoàng là con hoang. Lời nguyền đó là hình phạt nặng nề nhất mà ông ta phải chịu đựng hai thiên niên kỷ rồi. Những đứa con hoang của văn minh hiện đại chỉ cần một quả bom thông thường đã phanh thây cả ngàn tính mạng, chỉ cần một tệp tin nhỏ trên mạng máy vi tính trong nửa ngày có thể xóa sạch hàng triệu ổ cứng với dung lượng tương đương nhiều thư viện sách vở khổng lồ.
- Lỗi cũng do kỹ nghệ giải trí rẻ tiền. Buồn là số đông công chúng không tin tín sử, như của Tư Mã Thiên chẳng hạn, bằng những hư cấu quái thai. Ngay cả Chiến quốc sách, tác phẩm văn học chính trị cổ đại cũng chỉ dám nói Lã Bất Vi buôn vua, làm gì có chuyện Tần Thủy Hoàng là con lão ta. Yên vương hèn bạo, giết Thái tử Đan dâng thủ cấp cho Tần bởi Tần hung bạo! Mâu thuẫn ba xu kiểu như vậy hết đời này đến đời khác vùi dập hình ảnh một con người vĩ đại, vĩ đại hơn chính cái đất nước mênh mông và thời buổi cách mạng triệt để nhất trong lịch sử Á đông mà ông gầy dựng nên.
- Hãy nghĩ về quá khứ bằng cả tấm lòng, hướng đến tương lai với trọn vẹn lý trí.
- Giáo chủ John Paul II ở Roma vừa rồi công nhận Galileo đúng. Nghe bảo ông ta cũng sắp xin lỗi nhân loại về những tai họa có dính dáng đến toà thánh Vatican trong sự cuồng tín.
- Ngài John Paul II già nua, yếu ớt thật dũng cảm và đáng được tôn trọng.
- Lịch sử cướp bóc của Tây dương gắn liền với lịch sử truyền đạo Kitô. Chiêu bài tự do tín ngưỡng luôn là vũ khí quan trọng khai hỏa vào thành trì độc lập. Hiện nay tất cả các chính trị gia Tây dương vẫn chưa chịu từ bỏ lý thuyết cũ mèm này. Chứng tỏ dã tâm nô thuộc chưa mất đi, chúng chỉ ẩn trốn dưới các mỹ từ cao sang hơn. Nhìn lại mới hay Nho Lão của Á đông cao cả biết chừng nào. Đó là thái độ "giác ngộ" hiền lành, trân trọng đặt con người vào ba ngôi: Thiên - Địa - Nhân. Cõi cực lạc của Nho Lão không ở trên chín tầng mây. Nó là những giá trị nhân bản đã thất truyền, cần được cứu chuộc: Đề cao con người, không hạ thấp tự nhiên, có ý thức tương thông, tương cảm với tự nhiên. Người hiện đại phải học hỏi tư duy này, trước ngưỡng cảnh trái đất bị tàn phá nặng nề bởi công nghiệp.
- Nho Lão không phải tín ngưỡng. Đó là tập hợp triết lẽ và đạo lý nhân sinh hoàn chỉnh nhất, nhân ái nhất của Á đông nói riêng và loài người nói chung. Về bản chất, xã hội không giai cấp Marx từng mơ đến ở thế kỷ 19 rất gần với huyền thoại Nghiêu - Thuấn lý tưởng của Khổng Tử. Nếu biết câu "Dân chi cơ dĩ kỳ thượng thực thuế chi đa" (dân khổ vì thuế cao) trong Đạo đức kinh, ta sẽ nhận thấy giải Nobel kinh tế 1998 của Amartya K. Sen là sự diễn giải chi ly, tỉ mỉ bằng thuật toán hiện đại nhận xét cô đọng kia của Lão Tử mà thôi. Hai ngàn năm trăm năm nay kẻ khen nhiều, người chê lắm nhưng Nho Lão vẫn tồn tại. Các biến thể của nó như Hán nho lão, Tống nho lão, Thanh nho lão và cả Việt nho lão đều có chung cội rễ. Nho Lão cần sức sống mới, cái mà thời đại nào cũng có nhưng chưa biết dùng đúng nơi, đúng chỗ. Người ta đã nghiên cứu Nho Lão quá nhiều. Hôm nay các triết gia nên suy tư về nó.
- Nho – Lão sẽ là lưỡng nghi của nhân văn Á đông ngày mai. Cực âm sinh dương. Cực dương hình âm. Lẽ biến dịch này là gì nếu không phải là sự vận động của xã hội, của tư tưởng. Phan Bội Châu xem Kinh Dịch là nhân sinh quan, vũ trụ quan của nhân loại. Ông cho rằng bình đẳng và đại đồng hay cộng hòa là tinh thần của Kinh Dịch. Lâu nay Dịch hay bị nhầm lẫn tương đương với suy diễn luận phiến diện. Thực ra nó chính là phương pháp luận đặc sắc và rất riêng của Á đông. Nó sinh ra do nhân tâm hòa điệu cùng vũ trụ, đó là thiên địa nhân hợp nhất. Nó thay thế được tôn giáo nên dù cả trăm năm vận động, lôi kéo, đạo Kitô chỉ khiến dưới 7% người Á đông đi theo. Nó vượt qua giảm hóa luận hiện đại một bậc ở chỗ ít chủ quan và áp đặt.
- Triết học Tây dương đã hoàn toàn phá sản. Phương pháp giảm hóa luận lấy cá thể đặc thù làm chân lý - và ngoài phạm trù cá thể đặc thù ra, tất cả mọi ý nghĩa chỉ là sự giả định suy diễn thiếu cơ sở vững chắc. Tuy vậy giảm hoá luận vẫn là nền móng cho giá trị nhân văn Tây dương cả thế kỷ qua. Đây là sai lầm cơ bản của chuỗi lý luận, và nó đã lây nhiễm ra cả cộng đồng thế giới vốn nhắm mắt chạy theo văn minh Tây dương vô ý thức.
- Kinh dịch có bổ khuyết được cho giảm hóa luận không, chắc chắn vẫn là điều bí mật của tương lai.
Hôm đưa ông táo về trời, ba đứa cháu lớn của Phương bất ngờ đổ bộ vào nhà anh. Chúng tự tay dọn dẹp, thu xếp đồ đạc, khóa trái cửa và lôi bằng được Phương qua nhà anh Dũng ăn tết. Nhìn thế hệ tiếp sau mình Phương không rõ cảm xúc. Catherine và Tony chỉ là người Việt 50%. Chúng nói chuyện bằng tiếng mẹ đẻ kha khá nhưng hay bí từ ngữ kinh tế, khoa học. Chúng chẳng khen hay chê nước Mỹ. Chúng không quan tâm đến lĩnh vực xã hội. Đời sống là hiện tại với những nỗi lo nhỏ hẹp. Chúng coi quê cha đất mẹ là chốn du lịch hơn là nỗi niềm nguồn cội. Tuy nhiên tình cảm chúng dành cho người thân còn tương đối sâu đậm. Chúng thực lòng quí Phương, nhất là Catherine, lúc nào đi chơi cũng nài bằng được cậu Phương tham dự.
- Tụi cháu vẫn là người Việt vì biết tội nghiệp lo âu vô lý của cha mẹ - Catherine và Tony giảng giải cho Phương hiểu.
- Trong mắt đấng phụ mẫu khắp năm châu, con cái họ luôn còn bé dại. Chú chẳng thấy sự bất hợp lý nào ở đây.
- Không đâu chú. Tình cảm của tụi Tây không khắng khít như dân da vàng ta - Tony nói.
- Cháu cho chú ví dụ về cái lo âu vô lý xem.
- Không riêng gì ba má cháu, phần lớn người nhập cư gốc Á đông đều tham công tiếc việc. So với các cộng đồng khác họ luôn là kiện tướng làm ngoài giờ. Chuyện vui chơi, giải trí bị hạn chế tối đa. Chú đừng nghĩ họ cố kiếm tiền gởi về cho gia đình, người thân nhé. Thống kê cho biết số tiền họ gởi về nước chiếm tỉ lệ không lớn lắm so với thu nhập phụ trội.
- Như vậy - Catherine tiếp lời anh trai - cuộc sống thành ra quá nặng nề. Hưởng thụ chính là tái lập sức lao động và tăng cường khả năng sáng tạo. Nước Mỹ còn cho người ta cơ hội sử dụng trước đồng tiền sẽ được làm ra, bằng nhiều cách. Hình như hai mươi năm nay ba má cháu chưa bao giờ phải vay tiền ngân hàng cho sinh hoạt hay mua sắm. Có vẻ như họ rất thích đọc số dư trên tài khoản ký thác. Niềm vui tỉ lệ thuận với độ lớn của các con số.
- Đây là biểu hiện bệnh lý dễ hiểu, đáng được thông cảm. Chiến tranh, đói nghèo và lạc hậu đã ngự trị trong máu người Á đông từ rất lâu rồi. Với đa số cá nhân, họ được làm quen cơ cực gian nan khi còn nằm trong bụng mẹ. Y học có đề cặp đến hành động tích trữ thức ăn, nước uống của những thủy thủ từng bị trôi lạc trên biển, bị đói nhiều ngày. Các cháu chớ cho rằng cha mẹ mình phấn đấu để khỏi phải mượn tiền trang trải học phí đại học cho con cái là không cần thiết. Đừng kết luận vội vàng thu nhập của hai đứa hiện tại dư sức hoàn trả mọi khoản vay, nếu có. Hãy nhận thức về thế kỷ lầm than sắp đi qua trong nỗ lực vượt bậc của lớp người hôm nay. Đó là món nợ không văn tự mà tất cả chúng ta phải có trách nhiệm.
Thịnh ở thái cực khác. Với cậu, Mỹ là nhất. Cậu tự đặt tên tiếng Anh cho mình giống tên tổng thống Mỹ đương nhiệm, William Vương. Cậu nói chuyện với Tony và Catherine bằng tiếng Anh. Quần áo đi chơi, đồ dùng hằng ngày của Thịnh in đầy chữ USA và cờ sao sọc. Cậu thuộc lòng tất cả tên ca sĩ và những bài hát Tây dương trong nhóm mười MTV. Anh Chung đang chuẩn bị đón Thịnh qua theo đường du học tự túc khi cậu thi tú tài xong. Chắc chắn Thịnh không tốn mấy thời gian hòa nhập với lối sống Âu Mỹ. Chỉ cần nhuộm mái tóc chẻ ngôi giữa, chẳng ai dám nghi ngờ cậu không phải là Việt Kiều thế hệ thứ hai.
Phương thăm hỏi, Thịnh cười tự tin:
- Chú ơi văn hóa ngày mai là văn hóa đa chủng tộc. Biên giới của bản sắc sẽ khó nhận ra.
- Bản sắc là gốc rễ. Mất bản sắc là mất nước, mất chính đời sống tinh thần và tâm linh phong phú. Hãy xem cháu kìa, câu nói nào cũng cố chen tiếng Anh tiếng u vào. Giống y như cửa hàng, cửa hiệu, khách sạn phục vụ Ta nhưng cố nhét tiếng Tây từ bồn vệ sinh trở đi.
- Tại sao chú đi trách thằng nhóc như cháu vậy. Dịp kỷ niệm thành phố ba trăm năm, hơn nửa ký ức Sài Gòn là hình ảnh thuộc địa. Họ tụng ca vẻ đẹp xưa, sao lục hàng ngàn hồ sơ cũ để làm sống lại tám mươi năm ê chề, bị ngoại bang lên lớp khai hóa. Họ mất gốc hay là thiếu liêm xỉ?
- Viện bảo tàng Mỹ thuật Seoul hình như là Dinh toàn quyền cũ của Nhật. Tí nữa nó ra tro vì người Triều Tiên không muốn lưu giữ nỗi đau mất nước. Các cuộc tranh luận công khai trước bàn dân thiên hạ bao nhiêu năm mới đi đến quyết định cho phép tòa nhà đó biến thành bảo tàng. Cái đẹp cần dung dưỡng là điều hiển nhiên nhưng lòng tự trọng phải luôn được duy tồn.
- Hôm kia anh Tony và chị Catherine dẫn cháu đến khách sạn Continental ăn tối. Hành lang vào sảnh chính trưng bày nhiều ảnh Sài Gòn xưa. Họ chua mỗi tiếng Pháp, kể cả lai lịch mấy gốc cây Sứ cổ thụ trồng từ năm 1880. Chị Catherine không hiểu cứ tưởng họ triển lãm ảnh Châu Âu.
- Ai đó vinh dự vì trăm năm thuộc địa lắm sao? Chú từng xúc động khi đọc một phóng sự nói về người lao vụ gắn bó mấy chục năm với Continental, trải qua ba chế độ. Ông rất vui vì giờ đây nước ta đã hoàn toàn độc lập. Hóa ra ông vẫn là kẻ vong quốc trên chính quê hương mình. Chúng ta là loài vô gia cư trong ngôi nhà mà ta nắm quyền sở hữu.
- Xấu xa thay cho cái tên "Hòn ngọc Viễn đông"!
- Muốn hiểu tường tận cái tên này, phải đi sâu vào bệnh ngã tâm và thói vọng ngoại của người Việt. Thuyết ngã tâm nói nôm na ra là lập luận tự xem mình như cái rốn của vũ trụ. Thuyết ấy áp dụng ở phương Tây người ta gọi là Âu tâm, ở Trung Quốc gọi là Hoa tâm và ở Hoa Kỳ hiện tại thì chắc chắn sẽ là Mỹ tâm… Thật ra thuyết ngã tâm xưa nay rất phổ biến.
“Chẳng hạn thuyết Âu tâm từng làm mưa làm gió suốt mấy thế kỷ vừa qua, tác động của nó đến trật tự thế giới hiện đại không phải nhỏ. Các ngài Âu tâm đặc phong mình là nền văn hóa ưu việt số một, chủng tộc thượng đẳng để bước vào bao cuộc thập tự chinh đầy máu me với tên gọi khá mỹ miều: khai hóa, thanh lọc giống nòi, truyền bá văn minh.v.v… Nhiều hệ quả từ thuyết Âu tâm rất chi là phi lý và ngớ ngẩn như R.Heine-Geldern's (1937) từng đề ra giả định nền văn hóa Đông Sơn với biểu trưng rực rỡ nhất là trống đồng có nguồn gốc từ châu Âu (!?). Thực dân châu Âu trước kia chia loài người thành hai loại là da trắng và da màu. Từ “da màu” để chỉ nhóm người với họ là man di, mọi rợ. Người Việt học tiếng Tây, dùng luôn nghĩa Tây nên ngôn ngữ Việt Nam mới có cụm từ “các sắc tộc thiểu số” khá kỳ cục.
“Chúng ta không lạ gì thuyết Hoa tâm, nhưng ít người biết ở Chiêm Thành hay Chân Lạp trước kia thuyết này cũng rất thịnh hành. Ngọn nguồn là từ triết lý tôn giáo Ấn Độ. Nhà vua của họ nói chung bao giờ cũng coi kinh đô của mình là trung tâm vũ trụ. Họ thường xây dựng hoặc chọn ngọn núi có sẵn làm núi Meru (trục quay của vũ trụ) và đền tháp, điện thờ sẽ mọc lên xung quanh, điều đó chứng minh nhà vua là người cai quản vũ trụ. Đền Angkor Vat, Angkor Thom và thánh địa Mỹ Sơn là ví dụ.
“Nói chung thuyết ngã tâm mang đầy tính chủ quan, võ đoán và lòng tự tin quá mức. Tuy vậy nó vẫn phải đứng trên những nền tảng nhất định. Rất dễ xác tín các thể chế văn hóa quan niệm mình là tâm điểm của vũ trụ đã từng làm chủ nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật, nhân văn và nghệ thuật siêu việt của nhân loại. Việc phát minh ra giấy và công nghệ in ấn của Trung Hoa chính là cuộc cách mạng thông tin có tính toàn cầu. Nhiều giá trị phương Tây mang bản chất khai sáng hiện vẫn là trụ cột của văn minh loài người. Khiêm tốn như người Chăm, người Khơ Me cũng tạo tác được nhiều công trình kiến trúc tuyệt mỹ, độc nhất vô nhị trên thế giới trong thời hoàng kim rất sớm của mình.
“Từ xưa người Việt luôn tỏ ra rất ghét thuyết ngã tâm. Âu cũng dễ hiểu vì ta ở cạnh ông láng giềng hơi bị khổng lồ, cái gì của ông ấy mà chả nhất, nghe rêu rao riết cũng bực mình “Biết rồi… khổ lắm… nói mãi…”. Thời tiền hiện đại nước Việt lại bị một gã Âu tâm nô lệ cho gần tám mươi năm. Căm thì có căm đấy, nhưng cũng không thể không phục. Có thể đó là căn nguyên của thói vọng ngoại chăng? Nói cho cùng, nếu không ngã tâm được thì đành vọng ngoại vậy, hai tiến trình này ở góc độ nào đó là đối nghịch nhau, là phản đề của nhau.
“Ngày xưa các cụ nhà ta không ưa Tàu nhưng hay “xổ nho”, con cháu hôm nay thì giỏi hơn, kính yêu Tây và xì xồ tiếng Tây không biết mệt. Ngày còn đi học, chú từng dự một “hội nghị dân chủ sinh viên” rất kêu. Ngài hiệu trưởng – giáo sư – tiến sĩ – nhà giáo ưu tú đáng kính đề xuất học trò và thầy cô tích cực rèn luyện Anh ngữ để từ từ phấn đấu sẽ học hành, giảng dạy bằng Anh ngữ. Nghe ra rất phù hợp với xu thế thời đại, nào là hòa nhập, bắt kịp thế giới, xuất khẩu lao động đem ngoại tệ về cho đất nước. Không ngờ có ý kiến phá bĩnh: “Nếu vậy mai này các kỹ sư của chúng ta phải học thêm khóa “tiếng Việt trong kỹ thuật” để giao tiếp với giai cấp công nhân tiên phong thì khá rắc rối. Có nhiều chi tiết máy tiếng Anh gọi là “con mèo”, tiếng Việt gọi là “con chó” cứ loạn tùng phèo lên sẽ nan giải lắm”. Chuyện này may mà bị bỏ lửng, người đề xuớng về hưu, trường cũ của chú đã qua thêm một hai đời hiệu trưởng nhưng vẫn sử dụng giáo trình Việt ngữ được dịch từ tiếng Nga sang, độ những năm 1960 của thế kỷ trước! Không hẳn chú không kính trọng thầy mình, có điều chú nghĩ thay vì làm đại trí thức ngành giáo dục Việt Nam, thầy qua đài truyền hình nhận ghế to thì khá xứng tầm. Các xướng ngôn viên ở đó cần được học thêm ngoại ngữ hơn ai hết. Cách phát âm, giọng đọc không chuẩn cũng chưa ghê gớm lắm, đằng này họ còn tùy tiện sử dụng ngoại ngữ không đúng chỗ. Thật khổ cho những người chẳng hiểu “Sờ tra ta vi lích, trận bóng ‘đá bi’ kinh điển, tinh thần phe pờ lây…” hoặc “Lai vờ xô, vi đi ô cờ líp, em xi…” là cái quái quỷ gì (họ chiếm đến hơn 70% dân số Việt Nam, ở nhà quê, vùng sâu, vùng xa).
“Tư tưởng vọng ngoại khiến cái gì của Tây cũng tuyệt, lời Tây nói vu vơ cũng thành chân lý. Có nhiều nhà báo chuyên viết chuyện phố phường nhân sinh dựng nên hẳn công thức phổ thông. Chê thói hư tật xấu sẽ rút ra kết luận: “Hình ảnh này đập vào mắt người nước ngoài thì sẽ ra sao?”. Khen người tốt việc tốt hoặc thứ gì đẹp đẽ: “Phương Tây họ rất quý… rất coi trọng… và rất giá trị…”. Có dạo đi đâu cũng nghe câu hát “Em ơi Hà Nội chóp…” vì người ta đem củ hành, củ tỏi và chóp gầy chóp béo của Nga “ngố” đặt lên các nóc nhà mới xây ở Tràng An cũ. Hiện tại thì văn minh hơn chút đỉnh, phong cách kiến trúc Pháp thuộc sống dậy mãnh liệt trong rất nhiều bản vẽ của các kiến trúc sư. Cũng vòm, cũng sảnh, cũng chỉ, cũng mái ngang mái dọc, hiên đông hiên tây, cũng đắp cột, tô tượng như ai nhưng thay vì áp dụng chi tiết ấy lên mặt bằng xây dựng hoành tráng ; họ linh động thu nhỏ vào những khuôn viên vài chục đến hơn trăm thước vuông là cùng, khiến công trình thành ra tủn mủn, vụn vặt, màu sắc hổ lốn tra tấn bàn dân thiên hạ đến nhức mắt.
“Tóm lại, ai vọng ngoại thì cứ việc vọng, văn hóa làng xã Việt Nam với tính bảo thủ cố hữu bèn sáng tạo ra anh Chí Phèo đầy bản sắc để chửi tuốt tuồn tuột. Mà anh Chí cũng ngã tâm lắm chứ. Anh ấy chẳng là cái rốn của làng Vũ Đại thì còn ai vào đây.
“Sau khi hòa bình, con cháu anh Chí bấm độn nhẩm tính được ba bốn thằng đế quốc nanh nọc bị cho ra bã trên mảnh đất hình chữ S, thế là văn ngôn ngã tâm của tiền nhân được trau chuốt không phải để chửi mà để ngâm vịnh. Kể cũng không cần nhắc điều đó ở đây, mỗi người Việt Nam chắc chắn đều có minh họa cụ thể của riêng mình.
“Một kết hợp đằm thắm giữa thuyết ngã tâm và thói vọng ngoại, có lẽ là ở cái tên gọi phù phiếm nhưng đầy gợi cảm của Sài Gòn: “Hòn ngọc viễn đông”. Chú đã thử làm một tìm tòi bỏ túi bằng cách vào www.yahoo.com tra chữ “Hòn ngọc viễn đông”. Hơn trăm kết quả hiện ra dày đặc. Khen ngợi, tự hào… nói chung là tình cảm tích cực phổ biến hơn rất nhiều nghi hoặc và báng bổ. Mỹ từ kia hình như do gã Tây nào đó buột miệng thốt lên khi đến Sài Gòn thời nô lệ. Chú ngờ rằng câu nói đầy đủ của gã là “Sài Gòn là hòn ngọc viễn đông… thuộc Pháp”. Giả thuyết của chú, chú tin, đến cả anh Chí nhà ta cũng phải khen là “chí lý”! Khu vực viễn đông này, ngoài mấy mảnh tô giới cỏn con của Pháp ở Trung Hoa thì chỉ còn Đông Dương thuộc Pháp mà thôi. Sài Gòn âu cũng là tên chột làm vua xứ mù. Chứ không, đem so Sài Gòn với Bangkok, Manila, Jakarta, Kualalumpur thì còn “khướt”, kể chi đến Đông Kinh, Bắc Kinh, Hương Cảng, Thượng Hải. Học giả Trần Trọng Kim đã đến Bangkok năm 1944, ông ước lượng nó lớn hơn Hà Nội năm lần trong hồi ký của mình. Hóa ra người Việt tiếp thu có sáng tạo, có động não câu nói hứng sảng, bằng cách tỉa bớt độ dài của nó và tung hê lên như pháo hoa đêm trừ tịch.
“Như thế thuyết ngã tâm chẳng là tài sản của riêng ai. Từ anh Chí năm xưa đến nước Mỹ hùng cường hôm nay đều vận dụng nó thuần thục đến không tưởng. Người Mỹ luôn cho mình là đúng hơn hết thảy, là tâm điểm mà quả đất phải xoay quanh, là kẻ tạo dựng chân lý cho nhân loại.
“Bản thân mỗi sự tồn tại dường như khó phân định phải trái, nên xem nó có phù hợp với thời cuộc hay không mà thôi. Để từ bỏ tồn tại lạc loài con người nói riêng và xã hội nói chung rất cần dũng khí và lương tri. Ngã tâm tào lao hay vọng ngoại thiếu tự trọng là hai khuôn mặt cần được nhận diện của thực thể văn hóa và con người Việt Nam hiện đại”.
- Chú có nghĩ thằng bé sắp thi tú tài hiểu được những vấn đề rất phức tạp kia không?
- Ngày xưa các nam nhi đỗ tú tài đều được tôn xưng là ông, thành cử nhân sẽ là cụ. Tri thức không phụ thuộc vào tuổi tác.
- Cảm ơn chú. Lại nói về kiến trúc và văn hóa, cháu định đặt tên quảng trường nhà hát ngoài cửa Continental là "Siêu thực". Có "siêu" lắm mới "thực" nổi các trường phái kiến trúc và môi trường dân sinh quanh đó. Chú xem nhé: Nhà hát vừa phục nguyên dáng cũ. Nghe nói hai bức tượng trắng làm cột có tên "Nữ thần Nô lệ". Bên phải tất nhiên là Continental rất Ba Lê, khung kiếng khổ lớn bóng lộn. Bên trái là cao ốc chọc trời kiểu Nữu Ước mới hoàn chỉnh mang tên Delta Caravelle. Đằng trước có hai dãy cư xá xập xệ, làm dáng bằng những ban công trồi ra sụt vào, thỉnh thoảng vẫn trưng bày quần áo vừa giặt. Trệt của cư xá san sát cửa hiệu. Bảng quảng cáo nê ông xanh đỏ tím vàng cực kỳ bắt mắt. Công viên nhỏ chính diện quảng trường có đài phun nước lấp lánh trong ánh sáng thừa thãi. Bức tượng "Mẫu tử" quá hiện đại, đường nét biểu trưng tân tiến. Con người ở đây thì đa chủng tộc. Khách du lịch năm châu dập dìu. Hàng sư đoàn hành khất An Nam nón lá rách bụng bầu giả, nạng gỗ, xe lăn. Trẻ em ăn mặc bẩn thỉu, lôi thôi lếch thếch. Họ nài xin tiền bố thí, rao bán quà lưu niệm, báo chí, tranh ảnh và đồ thủ công mỹ nghệ bằng hàng chục thứ tiếng. Bọn móc túi, giựt dọc nhiều vô kể, mắt chúng luôn láo liên như mắt chuột nhắt.
- Cháu còn bé mà đã nhìn đời khắt khe thế sao?
- Đúng rồi! Hôm lắp hai bức tượng trên thềm Nhà hát cháu có đứng xem. Vị nghệ sĩ hạng nhất bụng ông địa, tóc dài, tự xưng là tác giả phục chế tượng được cháu và mấy đứa bạn hiếu kỳ phỏng vấn. Ông ta khoe nội trong tuần đó báo sẽ đăng bài viết của ông ta về quá trình săn tìm chứng tích cũ của nhà hát và công cuộc nhọc nhằn tái tạo cái đẹp. Cháu thắc mắc rằng trên khung nhà hát cũ rất dễ biến cải, tô điểm nét duyên dáng thuần chất Việt Nam, tân thời hay hoài cổ cũng được. Ông ta bĩu môi. Cháu tức quá nên nặng lời: "Chỉ những bộ óc nô lệ vĩnh cửu mới phải lao lực với hai bức tượng Nữ thần Nô lệ kia thôi". Ông ta văng tục rồi quay vào tiếp tục xoa bụng và hò hét công nhân cẩn thận kẻo trầy xước tượng.
- Đáng buồn thật. Nhà hát lớn Hà Nội cũng thế. Họ còn xây một khách sạn hơi cổ kính kế bên cho thêm ấn tượng và hài hòa. Phá bỏ tất cả thì cực đoan nhưng cạn lời ngợi ca và gìn giữ mọi thứ như báu vật là hết sức hổ thẹn. Nên chăng hãy coi nó tồn tại vì nó từng tồn tại, thế thôi. Gương mặt của tương lai đừng nên tô đậm nỗi nhục xa xưa.
- Chú bế tắc rồi nhé.
- Hỡi ôi cho cái gọi "Bản sắc dân tộc"!
- Thiên niên kỷ thứ ba không còn ứng với quan niệm của chú đâu. Trái đất bao la là ngôi nhà chung. Cháu thích sống bằng cảm giác, khai thác cảm giác mọi nơi, mọi lúc và mọi góc độ. Đó mới là thế giới riêng của mỗi cá nhân.
- Đừng cố thử cảm giác của ma túy, chất kích thích nhé.
- Ba má cháu tháng nào cũng thử nước tiểu để theo dõi cháu rồi. Chú an tâm đi. Nói cho cùng bản sắc Việt Nam luôn luôn nửa vời. Chín phần mười truyền thống dân tộc Nhật Bản có nguồn gốc từ Trung Quốc, sinh viên học sinh Nhật sang đây giao lưu bảo vậy, không hề mặc cảm hoặc tự ti. Người lớn cứ hô hào bảo vệ này nọ nhưng luôn tảng lờ chân lý rành rẽ. Đàn tranh, áo dài, kiến trúc cung đình, phong tục tập quán, lối tư duy, thậm chí cả từ ngữ đều na ná Trung Quốc. Kinh Dương Vương gặp Long Nữ ở hồ Động Đình bên Vân Nam chứ đâu phải tại hồ Tây hay hồ Gươm. Lạc Long Quân là cháu của Thần Nông tự thời Tam Hoàng, Ngũ Đế. Bản sắc của ta không ai phủ nhận song nguồn gốc là kết quả của lao động khoa học. Hơn hết không có thứ nguồn gốc khách quan nào máy móc quy định bản sắc. Khoa học cần trung thực và không nên bị tác động bởi tình cảm hoặc lý trí một cách chủ quan, phiến diện. Chúng ta đang chuẩn bị hướng đến ngày giỗ tổ Hùng Vương như quốc giỗ nhưng còn quá nhiều bất cập liên quan đến trước và sau thời điểm này. Ba hồi người ta bảo Triệu Đà - Nam Việt Vương là vua hiền của dân tộc, ba hồi xếp ông vào bè lũ xâm lăng. Họ phủ nhận luôn sự tôn vinh của ông bà ta từng dành cho Sĩ Nhiếp, người có công đưa chữ Hán vào Việt Nam và góp phần sáng tạo ra chữ Nôm để dịch kinh Phật, là Nam bang học tổ.
- Theo lập luận Triệu Đà là ngoại tộc thì Vua Hùng, An Dương Vương cũng ngoại tộc nốt. Sách sử xưa nói An Dương Vương người nước Thục. Hôm nay họ cho thuyết này rất sai, nhưng sẽ sai lầm nghiêm trọng nếu nghĩ ông là người bản xứ. Hãy đợi cái ngày bí mật di truyền được khám phá, cộng với các khai mở khảo cổ trung thực, ít định kiến. Vậy theo cháu đất nước Việt Nam có bao nhiêu năm văn minh?
- Khoảng 1500 năm đến 2000 năm chứ không phải 4000 năm.
- Nằm giữa sự chênh lệch năm trăm năm này, ngoài Sỹ Nhiếp còn hai cái tên tiêu biểu là Trưng Trắc và Triệu thị Trinh.
- Những người mẹ vĩ đại! Cháu đồng tình với chú khi giả định hình như Trưng Trắc là chức danh chứ không phải tên riêng của người. Tôn gọi Mê Linh liệt nữ là Quốc Mẫu ư? Sẽ sa vào vấn đề trong sáng của tiếng Việt. Còn công thức toán học chú dẫn nhập vào lịch sử, theo cháu nên áp dụng hệ phương trình: Gọi A là ẩn số bản sắc gốc của người Việt cổ và người Minangkabau, ta có hai phương trình: A + B = C ; A + D = E. Trong đó B và D là chuyển hóa bản sắc hai ngàn năm qua, C và E là bản sắc hiện tại của người Việt và người Minangkabau. C và E là hằng số, B và D cũng không khó truy nhận dù chỉ là tiệm cận. Tính được A sẽ lần ra lịch sử như nó vốn có. Thách thức xuất hiện: cái quan trọng không phải là tìm ra A mà là có thể chấp nhận tiệm cận B’ của B không. B’ chính là lịch sử. A đơn giản là sự thật đặc thù mà thôi.
- Toán học thật lạnh lùng. Người Việt Nam đã đánh mất tên của mẹ mình dọc tháng năm dâu bể, để hôm nay chúng ta là những đứa con hoang, là thế hệ mồ côi lịch sử!
- Chú bất ngờ lắm không?
- Ai dạy cháu kiểu so sánh này thế?
- Rõ ràng không phải nhà trường rồi chú ạ. Sao chú không nghĩ sự tìm tòi là thiện chí của cháu với bản sắc và cội rễ của dân tộc.
- Cháu có mâu thuẫn không khi cho mình khả năng vừa đung đưa theo nhạc MTV vừa xem sách lịch sử, vừa nhai kẹo cao su vừa ê a đọc thơ Đường. Người xưa đến với con chữ của thánh hiền hết sức chay tịnh, thanh sạch, thậm chí họ đốt cả trầm hương để cạnh thư án.
- Cháu thích nhạc MTV cũng giống như chú khoái nghe nhạc cổ điển vậy. Chú đừng giận nếu cháu nói trắng ra, việc mê mẩn Chopin mà bà nội truyền cho chú là sự lai căng của chính chú. Chú có thấy điều đó không? Cái đàn Piano đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam hẳn do người Tây dương mang vào.
-!!!???
- Cháu đã làm phép thử. Cháu gửi cho mấy người bạn nước ngoài hàng chục bản nhạc hiện đại của Nhật, Trung Hoa và Việt Nam qua điện thư. Chúng xác định ngay tinh chất Hán, Hòa nhưng rất lưỡng lự và đoán mò thứ được gọi là âm nhạc Việt Nam đương đại. Trừ mấy bản thử nghiệm ít ỏi, khai thác âm hưởng dân ca được xem mơi mới, đáng tiếc người Việt Nam không chuộng lắm. Nền âm nhạc cũng như khả năng lĩnh hội vẻ đẹp thuần dị trong âm nhạc của chúng ta bị đầu độc từ khi người Pháp vào Việt Nam. Nó đã tách hẳn khỏi chiếc nôi ngàn đời.
- Cái này thì cháu không sai. Âm nhạc dân dã và cung đình đang ẩn mình trong các thính phòng bé xíu giữa nhiều chương trình du lịch trọn gói. Hiện nay trào lưu lai căng, đạo nhạc đang tra tấn lỗ tai cả xã hội.
- Nhạc sĩ Việt Nam đã đánh mất tư duy âm nhạc của tổ tiên. Thời tiền chiến Văn Cao, Đặng Thế Phong còn cố đem vào lời hát vẻ đẹp của Đường thi, gia vị bằng ngũ cung. Ca khúc hôm qua, tạm gọi là truyền thống mấy mươi năm tân nhạc Việt Nam chỉ đánh đu trên triết lý yêu đương nặng nề, nơi ca từ sáo rỗng, trong cái vẻ óng ả, du dương của giai điệu và hòa âm ngoại nhập. Có người tự nhận mình là kẻ hát rong của thế kỷ, chau chuốt vần điệu còn hơn cả thơ, tự cho mình quyền rao giảng những đoạn phúc âm trong giáo lý tình cảm. Đó không còn là nhạc bởi âm nhạc là bộ ngôn nghệ thuật phi ngôn ngữ. Hôm nay thì cái chất pop, rock khó giấu đi đâu được. Lời hát sặc mùi bi lụy giả tạo. Người có học trường lớp lẫn kẻ tay ngang sáng tác đều rất Tây nhưng còn lâu mới sánh nổi Tây, ngoại trừ ăn cắp của Tây. Như vậy tuổi trẻ chúng cháu nghe thẳng nhạc Tây chứ cần gì vòng vo cho mệt óc. Xem ra sự kiểm duyệt là cần thiết cho đời sống âm nhạc.
- Cháu biết gì mà kiểm và duyệt. Người bất tài hay chỉ trích, thích hô hào. Chế tài và độc tài chung một cái lưng đấy cháu ạ.
- Cháu giỡn thôi.
- Cháu hãy thử tập nghe thanh âm trừu tượng của im lặng xem sao. Nó giúp cháu điềm tĩnh.
- Tụi cháu lớn nhanh hơn chú tưởng nhiều. Bây giờ học sinh biết tán tỉnh nhau từ tuổi mười lăm, tất tật là ngôn ngữ phim ảnh, truyền hình. Tụi cháu cũng biết xứ sở Việt Nam có bao nhiêu cái hay nhưng được phổ biến bởi lề thói xưa cũ, không cuốn hút và ăn nhập với tốc độ cuộc sống. Romeo và Juliette phải gọi Mỵ Châu, Trọng Thủy hay Trương Chi, Mỵ Nương bằng thầy song để thấu triệt cái hay, phải nâng dân trí lên cao hơn vài bậc. Thầy cô cháu bảo như vậy là giáo hóa. Chỉ tri thức mới có thể giáo hóa xã hội mà thôi. Kẻ nào vỗ ngực tự nhận gánh sứ mệnh giáo hóa đều là phường lừa phỉnh.
- Tuyệt! Vậy cháu tự kiểm chứng xem mình có a dua theo chúng bạn trong mấy ngày lễ Tây dương gần đây nhất không?
- Ý chú muốn cháu thay lễ tình nhân 14 tháng 2 tây thành 7 tháng 7 âm lịch Ngưu Lang gặp Chức Nữ chứ gì? Tuổi trẻ tụi cháu sẵn sàng… nhưng người lớn có hô hào, quảng bá và ủng hộ không là việc khác.
- Chính phủ Trung Hoa cấm tất cả các phương tiện truyền thông quốc gia tuyên truyền cho dân chúng vui chơi vào các lễ hội Tây dương. Đó là thái độ đúng đắn. Rõ ràng lễ hội dân tộc của chúng ta đa số thuộc về văn minh nông nghiệp. Hôm nay, sống giữa đô thị kinh tế thị trường ta thấy nó lạc lõng bởi bản thân người chủ không biết hòa hợp tinh túy truyền thống với những hình thức thể hiện mới mẻ. Hơn nữa đằng sau tất cả lễ hội Tây dương luôn xếp hàng hàng lớp lớp các con buôn giàu sụ vung tiền mưu lợi. Và chúng ta, báo chí, truyền hình.v.v… đều mắc lỡm.
- Chú ngây thơ lắm. Họ không bị lừa đâu, họ là một bộ phận của cỗ máy mưu lợi. Họ đã bán đứng danh dự, nhân phẩm và lòng tự trọng từ lâu rồi.
Phương hơi rối trí trong khi anh Dũng và chị Linh tự hào về sự đối đáp trôi chảy của con mình. Thịnh học xuất sắc trong trường chuyên lớp chọn. Cu cậu từng từ chối suất học bổng đi Singapore vì luôn hướng tới nước Mỹ với niềm tin tuyệt đối về khoa bảng. Anh Chung hòa giải:
- Lá vàng rụng về cội. Hãy để lá xanh chơi với trời xanh mây trắng cho thỏa thích. Người ta đọc được dòng chữ "thế hệ trẻ băng hoại" lần đầu tiên trong một quyển sách bằng đá bên Ai Cập, cách đây cỡ năm ngàn năm. Khi thấy hậu sinh khả úy là ta đã già đi rồi đấy Phương à. Tuổi thọ con người ngày càng cao, tuổi đời càng dài. Đừng để chữ già chóng đến. Trẻ trung hay cằn cỗi đều là trạng thái tâm lý. Phải biết kỳ vọng vào sự hiếu học rất đang phổ biến, dù rằng đôi lúc nó bị đóng khuôn trong những phương cách hạn chế như là yếu điểm nội tại của xã hội. Một ngày không xa nữa, trí thức tương lai như Thịnh sẽ quay về truyền thống mạnh mẽ hơn và sâu sắc chúng ta nhiều. Họ phải làm chủ tất cả thành tựu mà trí thức Tây dương có thể đạt được trước đã. Mấy ngàn năm văn hiến Á đông trong máu thịt chúng ta không dễ mất chút nào. "Cái gì của Á đông phải trả về cho Á đông" sẽ là câu nói cửa miệng của thế giới ngày mai.
- Anh có sự nhầm lẫn giữa truyền thống và văn hóa. Văn hóa làng xã, như cách gọi phổ biến, chẳng qua chỉ là truyền thống thôi.
“Thuở bán sử, nhà Tây Hán sang chiếm đóng Lạc Việt. Từ thời Mê Linh liệt nữ trở về trước các Lạc hầu, Lạc tướng vẫn được tự trị trong vùng đất rộng lớn của mình. Cuộc cưỡng đoạt và diệt chủng của Mã Viện thu nhỏ quy mô tự trị xuống đến đơn vị làng, xã. Đến đời Lý, phong kiến Việt Nam được tạo dựng, nền hành chính phân cấp xuống nhóm 50 nóc nhà gọi là Đảng, dưới đảng là Toại. Qua năm 1419 trong các văn bản nhà nước xuất hiện chức danh Lý trưởng để gọi người đứng đầu 110 hộ, Giáp thủ đứng đầu 10 hộ. Đến tận thế kỷ 19, triều đình Việt Nam thống nhất vẫn chỉ bổ quan đến phủ huyện, từ tổng trở xuống thì dân tự trị. Tổng là một nhóm vài làng xã. Phong tục tập quán của làng xã, chính quyền cao hơn hầu như không can dự vào. Như vậy lề thói “phép vua thua lệ làng” có lịch sử đã mấy ngàn năm.
Trên quan điểm tiến hóa chính trị và xã hội, hành xử này chỉ có thể gọi là “truyền thống” chứ không thể xem là văn hóa. Vì nhiều người coi truyền thống đồng nghĩa với văn hóa nên đôi khi xuất hiện khái niệm “truyền thống văn hóa”. Thực ra văn hóa truyền thống là thành quả văn hóa cô đọng đã được công nhận như tinh hoa. Còn truyền thống là lề thói quen thuộc đi kèm với sự tôn sùng đôi khi vô thức.
Từ ngày mở cửa, cụm từ “văn hóa làng xã” được thổi lên tận mây xanh. Làng xã Việt Nam được xem như pháo đài thanh lọc văn hóa ngoại lai suốt 800 năm nô lệ buổi sơ sử, cộng thêm 80 năm tây thuộc cận đại, như vậy nó hiển nhiên là chiếc nôi của bản sắc văn hóa Việt Nam.
Cơ thể sinh học khi bị viêm nhiễm, dị ứng sẽ dẫn đến nóng sốt. Kháng thể được sinh ra để tiêu bệnh. Với nhiều hệ miễn dịch yếu kém, nó bị chính kháng thể tấn công tạo nên thấp khớp. Cơn bạo bệnh nô lệ của cơ thể xã hội Việt Nam có thể qua rồi, nhưng chứng đau đớn khó chịu từ xương tủy vẫn còn hành hạ nó đến khi nào? Bệnh ngày càng nặng thêm hay tất yếu phải nhẹ đi?
Em xin lấy “văn hóa đi đường” làm ví dụ nhỏ. Hiển nhiên già trẻ lớn bé trí thức trí ngủ đều phải đi tới đi lui và phải bước ra đường, vần vũ trong dòng xe gắn máy ầm ì tiếng động oanh tạc cơ, ngột ngạt khí thải chết người. Riêng cái vạch dừng màu trắng tại giao lộ đèn xanh đèn đỏ cũng lắm chuyện. Em ngờ 90% công dân Việt Nam không tin đây là ranh giới giữa loạn và an, giữa thức và ngủ, giữa người và ngợm, 9% nữa luôn sợ bị chửi vì gây chuyện lạ đời đành để nước bẩn cuốn đi. Thác loạn giữa những mảnh nhựa hắc ín chắp vá, người ta chen lấn giành giật từng phần tư bánh xe trở đi.
Luật có nhưng ai ai cũng thích dùng lệ. Hằng năm hơn 1 vạn người được đưa ma, gấp ba bốn lần số đó mang thương tật vĩnh viễn. Cuộc chiến tranh không súng đạn vẫn âm thầm gặm nhấm hòa bình. Song le luật cũng chẳng giống ai, hay nói khác đi cũng thuần là lệ cải biên ẩu tả.
Chẳng hiểu thời nay văn hóa ở đâu ra nhiều cơ man: gia đình văn hóa, ngõ hẻm văn hóa, khu phố văn hóa, thanh thiếu niên văn hóa, ngôi trường văn hóa, lễ hội văn hóa, di tích văn hóa… Để từ “văn hóa” làm vĩ ngữ nhiều dễ nhàm, người ta nhón nó ra phía trước: văn hóa ẩm thực, văn hóa kinh doanh, văn hóa lãnh đạo, văn hóa thi cử, văn hóa đối thoại, văn hóa hành xử…
Hai chữ “văn hóa” gần như trở thành nỗi ám ảnh của xã hội Việt Nam hiện đại. Nếu không thể thừa nhận nền nhân văn của chúng ta đang khủng hoảng thì ít nhất cũng phải xem nó bị bệnh nặng, với những tiền căn mơ hồ nhưng hoàn toàn không khó đoán định, trong đó “văn hóa lệ làng” đang xoáy lên các cơn nhức nhối từ xương tủy.
Một tâm tình bất chợt thăng hoa có thể khiến người ta thành thi sĩ lưu danh muôn thuở. Nhưng để nhận ra đâu là văn hóa truyền thống, đâu là hủ tục thô lậu, cần biết bao bĩ cực đoạn trường, biết bao trăn trở và khắc khoải.”
- Em không vượt thoát khỏi thực tại ô trọc này được đâu. Kết quả hiển hiện trước mắt vẫn là sự hoang mang không hơn không kém.
- Dù sao em luôn cố khai tâm.
- Để bè bạn với bi quan thường trực ư? Để đừng tự dối lừa về những xứ mệnh bánh vẽ ư? Sống như một người tuyệt đối bình thường luôn rất dễ và rất khó. Đấy là điều phi thường nhất trong những điều phi thường!
- Ra ngoài không Phương, anh ngấy mấy tiểu phẩm hài trên truyền hình lắm rồi. Độ này người Việt ta cười như mắc bệnh tâm thần. Ngôi sao hài mọc từng chùm lố nhố từ phường, quận đến cả cái Sài Gòn nhỏ bên Cali cũng vừa lập nên năm bảy nhóm cạnh tranh khốc liệt. Nội dung thô tục, sống sượng và thậm chí bẩn thỉu.
- Các xu hướng nghệ thuật thế kỷ hai mốt của chúng ta có lẽ đều đi đến hài. Diễn viên chính kịch quay sang hài kịch, thi sĩ khoác lốt thằng hề, nữ đóng nam, nam vào vai lại cái, cải lương cười, phim cười, báo cười, tranh cười, truyện cười… buổi tối mở vô tuyến hoặc vào quán cà phê nhạc cứ đụng hài… hô hố…
- Khi những vai hề làm chủ đời sống tinh thần rồi vỗ ngực xưng tên là nghệ sĩ vĩ đại, là thần tượng bất tử thì nền nghệ thuật của chúng ta bắt đầu lâm nguy rồi.
- Nghệ thuật thể hiện thực tại bằng các loại hình tượng. Đằng sau tiếng cười dễ dãi hiện tại là khuôn mặt suy đồi, biến dạng và tha hóa của một thế hệ.
- Để chứng tỏ mình ít điên khùng thì hãy ra đường dạo mát chờ giao thừa đi em ạ.
- Hình như đêm nay bến Bạch Đằng có bắn pháo hoa.
Phương vui vẻ như chú nhóc được người lớn dẫn đi chơi. Hai anh em vòng vèo trên phố. Trời se lạnh. Đường đông nhưng không lộn xộn như thường lệ, có lẽ phút liên giao làm mọi người hơi chùng xuống với những riêng tư thầm kín. Từng đoàn xe chăng đèn, cờ hoa rực rỡ diễu qua phố. Phương háo hức quan sát trong khi anh Chung ẩn giấu vẻ bí mật khang khác. Anh bảo Phương quay xe ra chợ Bến Thành và ghé vào sạp hoa muộn mua một bó hoa trắng. Người bán hoa ra giá khá cao, Phương trách. Anh Trung khẽ cười bảo "Thôi kệ, bó hoa này là ngoại lệ". Sau đó, như chiếc máy Phương chạy quanh co theo lệnh của anh. Phương thật sự ngạc nhiên khi anh Chung yêu cầu dừng xe ở góc ngã tư Mạc Đỉnh Chi, trước tấm bia tưởng niệm tử sĩ tết Mậu thân.
Trước đây bia dựng gần toà nhà cũ. Việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ khiến tấm bia phải lùi xa ra lề đường. Nước Mỹ hùng cường xem ra hơi dễ bị tổn thương. Họ đập vội đập vàng cái cao ốc đồ sộ đã nhẵn mặt khắp địa cầu bằng hai hình ảnh bi tráng. Tết Mậu thân: hàng rào bê tông thủng; vách tường găm đầy vết đạn; một tầng cháy xém, khói bốc ra nghi ngút; sân cỏ khuôn viên rải rác máu tươi và xác chết. Mùa xuân 1975: cuộc tháo chạy hỗn loạn, người bu đen như kiến lên tận nóc sân thượng được tận dụng làm bãi đáp trực thăng.
Quang cảnh mới là khu nhà thấp lè tè, xa lạ với kiến trúc phổ thông bắc Mỹ. Họ vẫn bị quá khứ ám ảnh, các bức tường dầy bằng vật liệu chống mìn, song sắt bảo vệ kiên cố nửa kín nửa hở khoe khoang hệ thống máy thu hình cảnh giới hiện đại. Phương nghe người bạn làm trong Lãnh sự Mỹ bảo, đằng sau bia Mậu thân, phía trong hàng rào, người Mỹ cũng xây đài tưởng niệm liệt sĩ Huê Kỳ! Tư tưởng cao bồi vĩ quốc, ước vọng ngạo mạn làm kẻ khởi thảo chuẩn mực xã hội hiện đại và ép buộc các dân tộc thấp cổ bé họng noi theo, lẫn khuất đâu đó trong cách cư xử với đoàn rồng rắn cầu cạnh thường trực, chủ yếu là xin chiếu khán nhập cảnh. Nước Mỹ luôn nghĩ mình là thiên đường của tự do. Trớ trêu thay, những chú lính quèn gác cửa lại mang sát khí của sa tăng với dùi cui, ma trắc, súng điện và bản mặt lạnh tanh. Chỉ cần vài mảnh tự trọng rơi vãi, bất cứ con dân An Nam nào cũng phải mủi lòng vì đám gác cửa kia trăm phần trăm da vàng, tóc đen và mũi tẹt!
Tấm bia ẩn trong cái góc bình lặng nhất của Sài Gòn vào lúc này. Hàng điệp vàng che gần hết ánh đèn đường tạo ra cảnh tranh tối tranh sáng. Thấp thoáng bóng gái ăn sương. Dòng người thờ ơ lướt qua.
Anh Chung bước xuống, với tay phủi sạch lá khô rải rác trên bệ bia và trân trọng đặt bó hoa lên.
- Thật tệ! Sắp giao thừa rồi mà chẳng ai nhớ đèn nhang - Sương đọng nhiều trên nét chữ văn bia, anh Chung vẫn độc thoại - Nên gọi sương là mồ hôi hay nước mắt của đá nhỉ - Ở khoảng cách thích hợp và góc nhìn khéo chọn, từng giọt sương đang hút hết màu đỏ của tấm bia hồng nhạt.
- Em để ý ngày lễ nào người ta cũng dọn dẹp và đặt hoa, thắp nhang. Hình như vì tế nhị ngoại giao nên ít khi linh đình nhưng không thiếu trang nghiêm.
- Đây đích thực là trung tâm ngôi đền Chiến thắng. Chiến thắng quá vẻ vang nhưng vĩnh viễn cô độc. Chiến thắng đầu tiên và cuối cùng của sức mạnh truyền thống Á đông trước ngưỡng cửa mù mờ thời hậu hiện đại, nơi con người vẫn lúng túng tìm chỗ đứng thích hợp cho khoa học trong tổng thể văn hóa và văn minh.
- Em lại thích chiến bại hơn. Gương mặt đưa đám của thái tử Anh quốc trong buổi lễ trao trả Hương Cảng ngày 1 tháng 7 năm 1997 có nên gọi là chiến bại đầu tiên của những tên kẻ cướp Tây dương không?
- Từ bài học Việt Nam kẻ mạnh đã hiểu nơi nào sử dụng được bom bay, tên lửa, nơi nào cần đến bẫy tiền và sức ép kinh tế. Hãy nhìn hàng tỉ Mỹ kim người Mỹ bỏ ra để truy tìm tử sĩ của họ. Xót xa thay cho hàng triệu nấm mộ chiến sĩ Việt Nam vô danh còn thất lạc. Một giúp đỡ nhỏ nhoi nước Mỹ cũng chối từ. Đồng tiền của kẻ giàu kia chính là sự sỉ nhục với chúng ta.
- Nhưng việc cầu cạnh còn hơn cả nỗi nhục. Mấy tháng trước em tình cờ đọc trên báo mẩu nhắn tin không có tác giả. Những người tốt dấu tên này đi cắm trại và tình cờ đào trúng huyệt chôn sơ sài của một liệt sĩ. Họ giao bộ hài cốt ấy cho nghĩa trang liệt sĩ huyện sở tại. Họ mô tả rất kỹ vật kỷ niệm thủ công bằng hợp kim nhôm lấy từ xác máy bay. Đó là chiếc lá cây Mộc miên, mặt trước khắc bụi tre, mặt sau có ghi tên cậu em, ngày sinh và nguyên quán. Em vội vàng đáp xe ra miền Trung. Cậu đã được an táng kỹ càng. Em gợi ý xin người quản trang bí mật đào quách tĩnh để em đưa cậu về quê với gia tộc. Xong việc, theo thói quen Sài Gòn em dấm dúi chiếc phong bì kha khá. Ông ta từ chối và bảo em đi mua bó nhang cùng dăm thứ hoa quả đặt lên bàn thờ chung. Em ngạc nhiên. Người quản trang quắc mắt mắng: "Nếu anh không coi thái độ của tôi là tấm lòng thành kính với người đã khuất thì cứ cho rằng tôi sợ hồn thiêng quở phạt. Hãy nhớ rằng đâu chỉ có anh muốn thân thích mình hồi hương. Gần phần ba trong hơn hai ngàn nấm mộ ở đây hoàn toàn trống rỗng nhưng chẳng hề vô nghĩa. Anh khó hiểu tôi thì làm sao anh có thể hiểu được những cái tên không đầy đủ trên bia mộ quanh đây chính là nỗi đau của dân tộc Việt Nam. Nỗi đau không thể rịt bằng tiền đâu anh ạ!".
- Em có bài học thật giá trị.
- Văn minh Tây dương đang sử dụng loại siêu vũ khí là đồng tiền để tiến hành cuộc xâm lăng mới, cưỡng bức các dân tộc nghèo nàn lạc hậu.
- Vài gã tỉ phú rút tiền từ túi này bỏ sang túi kia, Đông nam Á, Đông Âu và Nam Mỹ vạn phần khốn đốn. Lời chào muôn năm cũ là mưa bom bão đạn đổ lên đầu dân tộc Serb và cuộc chinh phạt Tresnia. Thây người chất đống, phố xá biến thành gạch vụn. Tương lai khó tìm được Việt Nam thứ hai.
- Nếu người ta biết anh là Việt Kiều chắc chắn anh sẽ nổi tiếng lắm.
- Lịch sử tuyệt đối công bằng và mười mấy linh hồn nơi đây hoàn toàn xứng đáng được tôn trọng. Sự hiu quạnh ở chốn này so với không khí lễ hội đằng kia làm anh chạnh lòng và đột nhiên nảy ra chuyện mua hoa. Chưa hẳn đây chỉ là chút biến thái của kẻ từng là dân triết học như anh. Đừng nghĩ lũ các anh đều xanh lè. Với phần đông người Việt tha phương tiền không phải là tất cả. Em không hiểu và sẽ không chịu hiểu đâu.
- Hình như anh cũng ít sọc dưa.
- Không hề! Bọn lãnh tụ miền nam cũ là những kẻ ăn chơi, cơ hội, nhu nhược và hoàn toàn bấp bênh trên mặt phẳng văn hóa. Chúng thừa ảo tưởng nhưng thiếu đầu óc thực tế, thậm chí cả lòng tự trọng. Thế hệ trẻ hơn rất bị động, luôn đứng trước sức ép đồng hóa cộng với ám ảnh quá khứ nên dễ bị khiêu khích và luôn sẵn sàng nổi loạn. Vừa mới thành hình, thai nhi đã nổi loạn tạo nên cơn đau bất thường cho người mẹ. Đủ 9 tháng mười ngày đứa trẻ phủ nhận chiếc tổ ấm vô cùng an toàn trong cuộc nổi loạn cá nhân vĩ đại nhất để dấn thân vào cuộc đời đầy dẫy chông gai, trắc trở.
- Em muốn nổi loạn khi Clinton cao giọng tuyên bố bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ. Đáng buồn là nhiều người vội vã tung hô, hồ hởi, thỏa mãn đón ân sủng. Coca Cola, Pepsi rú lên như vừa tìm ra Tân thế giới "Vui mừng gặp lại các bạn!". Quang Trung giả đem thư cầu hòa sang gặp hoàng đế Thanh triều nếu nghe được chắc cũng thẹn bầm tim.
- Con người cần hướng cuộc nổi loạn của cộng đồng vào mục đích đi lên hơn là biểu thị sự bất lực trong cảm giác bị xúc phạm và tổn thương huyễn mị. Nói cho cùng sự nổi loạn là biểu hiện của con người man khai, là phép toán sơ đẳng, hạ cấp.
- Em không tin luận lý ấy đúng trong tiền cảnh của thời hiện đại, của cuộc cách mạng thông tin và di truyền. Thành quả con người đạt được đã vượt xa khả năng tiếp nhận của chính họ, đó là chưa kể đến rào cản cố hữu.
- Vượt qua nỗi nghi ngờ đơn thuần, tình cảnh này là lỗ hổng tồi tệ của các triết thuyết thế kỷ hai mươi. Chúng mất hẳn yếu tố dự đoán nghiêm túc trên con đường đi tới của nhân loại trừ những công thức toán học mơ hồ của thuyết tương đối.
- Em không coi trọng yếu tố dự đoán. Bài học lịch sử rành rành ra đó. Em thích khái niệm chuỗi luận lịch sử.
- Nên xem lý tưởng là nhân tố tích cực. Lý tưởng giúp điều chỉnh và cải thiện thực tại, đó là giá trị duy nhất của nó. Lạm dụng lý tưởng là việc làm sai lầm. Trước sau cũng đi vào ngõ cụt.
- Đầu tiên là Mỹ, đến bây giờ hầu hết quốc gia có nền kinh kỹ phát triển đã ra lệnh cấm khoa học thực nghiệm sinh sản vô tính trên người. Phản ứng rất thụ động. Tư duy xã hội đi trước là võ đoán, đi sau thành thủ cựu. Chỉ mong hai hình thái trên song hành và bổ khuyết lẫn nhau.
- Ở thế kỷ ánh sáng, châu Âu đã biết con người cần được bình đẳng trước tri thức. Học tập là quyền lợi được cổ xúy mạnh mẽ. Vấn đề tố chất của từng cá nhân liên quan đến sự học nảy sinh. Không phải ai cũng có khả năng, nghị lực và tinh thần lao động cần cù để đoạt được tấm bằng đại học. Tác động của di truyền là có thật nhưng ở mức độ nào thì chưa sáng tỏ.
- Ba bốn tỉ mã di truyền của con người sắp được khám phá. Giới xã hội học toàn cầu đang lo lắng. Không biết các nhà khoa học có mở ra thời Hậu hiện đại rạch ròi như tổ ong không. Sẽ có những thế hệ sinh ra để làm chúa tể, làm công nhân, nông dân, binh lính… Người giàu sẽ không còn bệnh tật, tình cảm và cảm giác bị chế ngự. Phân hóa sẽ mãnh liệt khôn lường.
- Đừng nên xem giả thuyết này là mặt trái của khoa học. Anh tin chắc rằng phương thuốc đầu tiên họ sẽ tạo ra trong tương lai phải là thuốc "nhân ái". Trong khi chờ đợi phép màu, con đường ngắn nhất dẫn đến tình thương đại đồng chính là tri thức.
Hai anh em mải mê luận bàn trên đường tìm chỗ tham dự đêm pháo hoa. Những phát súng chát chúa phóng lên không trung khói và lửa, tạo thành muôn vàn bông hoa rực rỡ chào đón năm Canh thìn. Kỳ lạ thật, không rõ con người còn tôn sùng, say mê khói lửa và tiếng nổ đến chừng nào. Thuở xưa sấm chớp đem đến cho con người nỗi sợ hãi thiên nhiên và cả lửa, nhân tố giúp họ dứt mình khỏi bóng đêm hoang thú, bước vào hành trình văn minh.
Phương chợt nghĩ, chẳng lẽ yếu tố nhân văn trong thuốc súng lại chính là sự nổi loạn di truyền của con người. Một viên quan Trung Hoa mê luyện đan trường sinh, đã tình cờ tạo ra thuốc súng. Bao nhiêu năm thuốc súng chỉ được dùng làm pháo tết, tạo nên tiếng nổ xua đuổi tà ma vô hình. Thế kỷ 19, những hạm đội "Man di" khạc lửa vào Hương Cảng, Sơn Trà cướp bóc lục địa Văn hiến. Nỗi chua sót muộn mằn ứ nghẹn. Ngày xưa nếu Socrate có mặt tại ải Hàm Cốc chắc ông ta chẳng ngại ngùng tháp tùng tác giả Đạo đức kinh vào rừng ẩn tích. Vậy mà dọc bờ tây Thái bình dương, hơn hai ngàn năm tiếp theo toàn thứ nổi loạn tầm thường, giành đất đai, địa vị, quyền thế. Thế hệ hôm nay hụt hơi theo đuôi bán cầu bên kia với mạng cáp quang không biên giới và các cuộc phiêu lưu trong đơn vị nhỏ nhất của sự sống.
Khởi nguyên, khoa học bị lẫn vào tôn giáo. Khi khoa học đủ mạnh để tạo cho mình chỗ đứng độc lập thì tôn giáo đã biến hình. Tôn giáo khôn khéo gạn lọc tinh túy của lẽ đời, đúc kết thành cứu cánh dẫn loài người bước ra khỏi bóng đêm hoang dã. Thời hiện đại tôn giáo bị thất sủng. Con người nhận ra mình hèn yếu đi vì tôn giáo. Giáo lý không thể thay đổi nhằm phù hợp với sự phát triển vượt bậc của tư duy nhân loại. Sự sùng bái phi lý, con đường mòn dẫn đến giác ngộ tín ngưỡng đang bị lấp đầy cỏ dại. Đó là cái vòng luẩn quẩn, chẳng le lói chút tương lai sáng sủa. Hơn nữa nấc thang mới của nhận thức không cho phép bất cứ cá nhân nào trở thành minh chúa. Không ai dám vỗ ngực tự xưng mình có tư cách và phẩm chất bẩm sinh. Sự hiền minh của các loại chúa trời sẽ là điên rồ trong mắt tương lai. Như vậy mọi lối biện hộ cho chủ nghĩa độc đoán, chuyên quyền đã phá sản. Tự do thuộc về những con người đích thực. Áp đặt sẽ góp phần tha hóa xã hội trong cái vỏ bọc bình ổn tạm thời. Cá nhân độc lập tự do hoàn toàn có đủ năng lực, lý trí và tình cảm trước mâu thuẫn giữa lợi ích của bản thân và cộng đồng. Huyền thoại phi lý của tôn giáo hay những thứ na ná, nếu còn sống trong tri thức nhân loại, sẽ là sản phẩm tồi tệ hơn cả lạc hậu và sự thụt lùi khó cứu vãn. Thói man trá này là kẻ thù của phát triển, nhân văn cũng như khoa học.
Nhiều kẻ cầm quyền Tây dương từng coi khoa học là vũ khí tối ưu. Người Á đông có phần kiêng nể và cảnh giác với khoa học. Chúng ta ít khi thích thú sử dụng khoa học để hoàn thiện điều kiện sống mà chỉ xem đó là trò giải trí tầm thường. Tâm lý phản trí thức, phản khoa học luôn hiện hữu. Phần lớn thành tựu khoa học cận đại của nhân loại khởi nguồn từ châu Á Thái bình dương. Phương Đông nhận ra điều đó trong ngày đầu tiên của thế kỷ hai mươi. Và chúng ta phải học lại thành tựu thất truyền của tiền bối, đã được phát triển mạch lạc và hữu dụng, trong sách giáo khoa Tây dương. Không ít du học sinh Nhật phải quyên sinh, nhét bí quyết công nghệ trong bụng, trong quan tài mang về truyền bá cho dân tộc.
Khái niệm "Khoa học phương Tây, Đạo đức phương Đông" và luật cưỡng ép giáo dục của Minh Trị Thiên hoàng từ năm 1868 vẫn rất mới với đại bộ phận Á đông. Ba thành tựu khoa học có ảnh hưởng lớn nhất đến thế kỷ hai mươi là thuyết tiến hóa Darwin, ngành Phân tâm học của Sigmund Freud, thuyết tương đối mang tên Albert Einstein. Hai cái sau là sự kết hợp tài tình giữa khái niệm siêu hình võ đoán của triết học Á đông và chuỗi luận thực nghiệm, thống kê, kiểm chứng Tây dương. Nó biến đổi cách thức suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống và xã hội con người. Tuy vậy, bản chất cội rễ của khoa học lại hoàn toàn phi nhân văn. Người ta chưa thiết kế được rào cản hữu hiệu để chặn đứng mưu đồ biến khoa học thành thứ vũ khí lợi hại. Hai quả bom nguyên tử nổ trên bầu trời Hiroshima và Nagazaki là cái tát nảy sao của khoa học tặng cho gương mặt nhân tính. Ví dụ thuyết phục nhất chắc chắn là thế giới ảo bên cạnh thế giới tạm gọi là thực. Đó là cõi gần như thực, hay thực tế ảo, giữa không gian điện toán. Môi trường này thuần công thức và rất trừu tượng, với hệ thống tín hiệu. Nó sinh ra thứ kinh nghiệm và tri thức chỉ là trật tự điện toán, nó làm cho những cá thể thực không những không mang thực tính, mà còn chứa đựng nền tảng bất định, chạy theo nhiều tham số luôn luôn đổi thay. Linh hồn con người thoát thai từ cuộc tiến hóa sinh vật, tức là bông hoa trổ ra từ cái gốc chương trình điện toán của tự nhiên. Như vậy, thế giới ảo phải chăng là lỗ đen vật lý của nhân văn, mặc dù trước mắt nó làm được khá nhiều việc rất vĩ đại. Ở thì tương lai, khoa học đơn thuần sẽ máy móc hóa linh hồn và hiện hữu. Con người hết còn trăn trở, thao thức. Họ sẽ vặt bẻ bông hoa nhân bản kia vứt đi, để tự nguyện chôn vùi đời mình trong những chuỗi luận bắt đầu từ vài tiên đề không chỗ dựa, chẳng hạn một cộng một bằng hai (!?). Sản phẩm của khoa học, sớm muộn cũng vây hãm con người bằng những giá trị tràn lan, xếp hàng ngang, chẳng giá trị nào cần thiết hơn giá trị nào. Hóa ra có có không không, có không biến ảo khôn lường. Đời sống nói riêng, hay lịch sử nói chung biến thành bãi rác biểu tượng, khái niệm và tín hiệu.
Người Á đông đã chế tạo kim chỉ nam giúp xác định phương hướng trên địa cầu, cách nay ba bốn thiên niên kỷ. Nhưng chúng ta chưa bao giờ là những thủy thủ giỏi trong giấc mơ đại dương cuối chân mây. Sẽ sai lầm nếu gán cho các chuyến viễn du sau này hơi hướng kinh tế. Nên gọi đây là cuộc chinh phục vĩ đại trong thân thiện và hòa bình. Thông kê cho thấy 50% người nhập cư bất hợp pháp vào nhiều nước có nền kỹ nghệ tân tiến thuộc giống da vàng. Ở bất cứ thành phố lớn nào tại Tây dương cũng có khu quần cư gần gũi về bản sắc của các dân tộc Hán, Việt, Nhật hoặc Hàn với tất cả truyền thống đáng quí được gìn giữ một cách vô thức như bản năng. Càng ngày càng nhiều tên Âu họ Á được nhắc đến như là tác giả của các công trình khoa học lớn. Tổ tiên chúng ta từng bằng lòng tự giam hãm mình trong làng quê nhỏ bé, có giếng nước cội đa, sân chùa, mái đình. Đâu cứ phải "Nhân li hương tiện, vật li hương quí". Tiếc thay, tầm nhìn giới hạn ấy còn phảng phất quá nhiều trong đời sống và văn chương, thi ca, nhạc họa đương thời. Nỗi hoài vọng thôn dã vẫn quẩn quanh giữa nếp nghĩ thành thị Á châu và lịch sử ngắn ngủi của nó.
Thái Luân làm được giấy năm 105 sau Công nguyên. Phương pháp in ấn ra đời không lâu sau đó. Đây rõ ràng là cuộc đại cách mạng thông tin lần thứ ba của nhân loại, sau sự hoàn chỉnh ngôn ngữ và phát kiến văn tự. Trên cơ sở đó công nghiệp báo chí và xuất bản Tây dương hình thành. Tri thức và nhân quyền được khai phá rồi thiện toàn để truyền bá, giáo dưỡng cho quần chúng, tạo dựng tiền đề cho xã hội văn minh.
Lẽ nào ngàn năm nữa chúng ta vẫn ngậm ngùi, len lén ngước nhìn bầu trời, để làm thơ ca ngợi vẻ đẹp dòng ngân hà. Tư tưởng tối cổ Á đông qui định đỉnh đầu là phương nam, mặt đất là hướng bắc. Tên gọi đàn tế trời là Nam giao có lẽ xuất phát từ đó. Gần hai tỉ con dân Á đông phải cất mắt lên khỏi hướng bắc nhu nhược và đớn hèn bởi phương nam không thể mãi mãi là hồng ân của thiên tử. Thế kỷ hai mươi mốt, kỷ nguyên hòa bình tự do, dân chủ và phú cường bắt đầu từ đấy chứ không phải nơi các con số nhân tạo trống rỗng vô hồn.
Có vẻ ngược ngạo, từng cá nhân Á đông lục địa nên đem theo nỗi nhục lạc hậu bước vào cuộc đua với đồng loại năm châu, trước thềm thiên niên kỷ mới. Dù chúng ta có nền văn hiến vượt trội, nhưng tốc độ văn hóa năm trăm năm nay không cao nên bộ mặt văn minh kém tươi tắn so với Tây dương. Nỗi đau giúp người ta trưởng thành, thụ hưởng tất cả ý nghĩa của cuộc đời. Nỗi nhục sẽ là điểm tựa cho sự vươn lên không ngừng nghỉ. Điều này chừng nào mới trở thành kim chỉ nam, dẫn bước chúng ta khỏi lạc lối trong sự vị kỷ, đố kỵ và chia rẽ của những cá nhân, những dân tộc, những cộng đồng cấu thành phương đông thần thịnh xác suy!?
Chùm hoa lửa mạnh mẽ rộ lên lần cuối, bầu trời rực sáng chói lòa. Lẫn trong màu pháo hoa kỳ diệu là mùi vị rất riêng, tượng trưng cho sự may mắn, xum họp. Nếu Nobel biết người Á đông rất thích mùi thuốc súng cháy và chưa bao giờ xem đây là mùi của tử thần, chắc ông ta sẽ bớt day dứt khi vĩnh biệt cõi đời. Nguyên lý thăng thiên đã và đang đưa con người vươn tới những vì sao. Đó là cuộc vượt thoát thân phận vĩ đại của nhân loại, bước tiến mạnh mẽ không thể phủ nhận của khoa học.
Di sản vô giá của nền văn hiến Á đông cũng khó mô tả như vẻ đẹp của hội pháo hoa. Phải chăng người Á đông giờ đây cần quá khứ hơn bao giờ hết, như niềm tin soi rọi cho tương lai. Đến khi chúng ta quen với tàu vũ trụ như phi cơ, từ trên cao nhìn xuống, mong rằng trái đất vẫn còn mãi màu xanh bất tận thanh bình, mong rằng lúc đó, quá khứ huy hoàng không còn ám ảnh chúng ta như điều xa vời, không thực tế và khó lập lại với tương lai!
Xem pháo hoa xong, hai anh em tách ngay khỏi đám đông ở trung tâm. Chị Dung điện thoại báo cả nhà đang chờ họ về hưởng lộc cúng thiên địa.
Trời se se lạnh hết sức dễ chịu. Dòng người trẩy xuân bất tận. Nhang to lập lòe trên xe gắn máy. Phương nam này, chân xét thì chẳng có mùa xuân. Xuân ở lòng người là chính. Trong vạn người du xuân, Phương tin không ít ánh mắt khó chịu đang chiếu về các góc tối có đám gái ăn sương. Nhân danh chúa xuân, xin một tí độ lượng. Xin thay những câu khó nghe bằng lời chúc anh lành.
Các giao lộ dập dìu xe cộ. Nhiều góc phố bong bóng bay, cờ hoa chen nhau giăng mắc. Phất phới hai màu đỏ vàng ấm cúng. Tác giả của bức tranh sống động ấy là ai? Họ chỉ là người dân lam lũ, áo vá, quần cộc, với hành trang là chiếc xe đạp nát và một máy bơm cơ khí đơn giản. Niềm vui mùa xuân của họ chắc chắn phụ thuộc vào số hàng bán được đêm nay và suốt dịp tết. Nhưng với Phương, họ chính là cái gốc xù xì ít người để ý, đang cưu mang trọn vẹn những hoa, những búp, những nụ và lộc non của cây đời mùa xuân xanh tươi đến động lòng.
Trái cây, bánh kẹo ngoại nhập ê hề. Rượu khai vị dán tem nhập khẩu ứ hơi tràn ly. Anh Chung đứng bên bàn thờ xá mấy cái và đem đĩa bánh chưng xuống. Bọn trẻ xua tay: "Ăn bánh chưng lúc này khó tiêu lắm!". Anh mân mê sợi lạt nhựa:
- Sẽ có ngày người ta gói bánh chưng bằng máy. Thịt heo công nghiệp siêu nạc. Đậu xanh, nếp trắng cải tạo gien. Vỏ bánh trong suốt. Màu xanh hoá chất thực phẩm. Chỉ mong khi các cháu sờ được không gian đa chiều, đo được thời gian xoắn ốc thì hãy xem trời tròn đất vuông là ngôi nhà đầu tiên của tổ tông. Trong ngôi nhà ấy ước vọng thanh bình và phồn vinh là ngọn lửa vĩnh cửu sưởi ấm tâm trạng bi ai truyền kiếp…
Không khí thiêng liêng đến nỗi bé Hoài Hương chín tuổi cũng phải im lặng, ngơ ngác. Di ảnh trên bàn thờ đang nhìn xuống đàn con cháu xum vầy. Thiên đường cực lạc mà tiền nhân muốn tới là đâu, nếu không phải là tâm tưởng hiếu nghĩa và chí tiến thủ của hậu thế. Giọt máu đào chẳng bao giờ ngừng nghỉ. Huyết thống sục sôi. Mạch văn hiến luôn ầm ào nâng con thuyền tương lai dong thẳng, hướng về những vì sao vừa quen vừa lạ, nhấp nháy gọi mời đã tỉ năm có lẻ.
12 - Hợi...
Vậy là Phương lại trở về Đà Lạt. Chiếc máy bay cánh quạt chao nghiêng lấy hướng vào đường băng. Xa xa, trên đỉnh mấy ngọn núi xanh thẫm có chiếc cầu vồng ngũ sắc bắc qua hai đảo mây vừa ráo nước. Và rồi bạt ngàn cánh đồng hoa Cúc quỳ vàng rực bao quanh sân bay Liên Khương hiện ra ấm nồng, rực rỡ. Màu hoa ẩn chứa hoài vọng bất tận của tuổi trẻ nối dài mãi trên con đường dẫn về thành phố. Đài hoa rung rinh tựa nụ cười, khi nhún nhường đâu đó dưới mép đồi, đôi lúc bừng cháy mãnh liệt trên sườn đèo Prenn, hoặc lơ thơ bờ rào các ngôi nhà đang nghỉ trưa.
Phương không tin Đà Lạt trầm mặc, xa cách chốn đô hội nhộn nhịp hợp với tâm hồn mình, khơi nên trong anh tình yêu dành cho phố núi, chẳng thể sẻ chia. Có một mối tình trong sáng, nhẹ nhàng đã đến và đi bên triền dốc ngã năm đại học. Đà Lạt giá trị hơn vẻ lãng mạn hơi yếu đuối ấy. Trong mùa đông vĩnh hằng của xứ sở nhiệt đới, Phương biết dòng máu mang đầy khát khao trong tim mình chưa hề nguội lạnh. Chỉ cần đắp lên người chiếc chăn bông xa lạ với những đêm quạt máy Sài Gòn, ta liền nhận thấy hơi ấm của bản thân từ từ tỏa ra, tạo thành vỏ bọc an toàn cho nhiều giấc mơ phóng khoáng nhất.
Giữa ánh nắng chói chang của trung tâm kinh tế xô bồ, lắm lúc Phương chẳng rõ cảm xúc mình đã băng giá chưa. Đà Lạt luôn là câu trả lời thuyết phục nhất. Những tòa biệt thự chắc chắn, bàng bạc nét thời gian ẩn hiện giữa rừng thông luôn vẽ nên trong anh các gia cảnh đầm ấm. Vẫn biết sự vĩnh cửu của vật chất có thể đo bằng năm tháng. Hơn nữa, thứ nào đo được bằng năm tháng đều hữu hạn. Nhưng thời buổi gạo tiền kiếm đâu ra mực thước lòng người. Xã hội từ lâu đã quen với bấp bênh và cố hòa hợp vào sự bấp bênh bằng thay đổi thường trực, khó lường.
Vì nhiều lý do Phương chỉ đặt chân tới Đà Lạt lần đầu tiên khi anh ba mươi tuổi. Vậy mà hay. Nếu không Phương làm sao có một chốn đi về. Trẻ hơn đồng nghĩa với thiếu sâu sắc, đôi khi hời hợt.
Đó là mùa khô dài, hết sức nóng bức. Phương muốn thoát khỏi Sài Gòn ngột ngạt. Rác rưởi, tiếng ồn, xe kẹt, khói và bụi cũng như mật độ dân cư khủng khiếp khiến Phương luôn đặt câu hỏi "Ta đang sống hay đang bị đọa đày?". Đà Lạt bất chợt hiện ra trong trí tưởng tượng anh như vùng đất hứa. Bác tài xế đứng tuổi lâu lâu vẫn cho công ty Phương thuê xe con ngắn hạn được gọi tới. Ông khác đồng nghiệp của mình ở chỗ ít chuyện phiếm và kém tò mò. Ông chẳng buồn ngạc nhiên khi mình Phương bước lên xe và yêu cầu thẳng hướng Cao nguyên. Qua khỏi Bảo Lộc là mênh mông những đồi trà, cà phê của Di Linh. Cây cỏ vẫn úa vàng trong hạn hán nhưng không khí dịu đi nhiều. Di Linh… Di Linh… Phương nghe tên gọi sao quen thuộc thế. Một quyển tiểu thuyết Việt Nam anh từng yêu thích đã mô tả Di Linh là mảnh đất thanh bình giữa cuộc chiến chinh bế tắc. Mệt nhọc tan biến, trong mắt Phương không gian ngát lên mùi hương dịu ngọt, yên lành.
Hết đèo Prenn tới cửa ngõ thành phố, Phương được đón chào bằng cơn mưa đầu mùa, nhỏ nhưng hết sức bất ngờ. Cao nguyên Lâm Viên mong chờ cơn mưa bấy lâu nay. Hồ Xuân Hương bị rút nước khô kiệt để nạo vét. Bụi đỏ trên đường mòn ngang dọc giữa lòng hồ thôi hắt lên chói mắt.
Sáng hôm sau Phương lần xuống thung lũng Tình Yêu. Dòng người du lịch phủ kín các bậc thang hẹp. Anh hết sức lạc lõng và vội quay gót. Khuôn viên đại học Đà Lạt là nơi Phương muốn dừng chân chờ giờ ngọ cho bữa trưa. Vậy mà mảnh đồi nhỏ ấy đã trở thành một phần vĩnh viễn không thể thiếu của Đà Lạt trong Phương. Phương gặp Hiền Phương đang học bài trên chiếc ghế đá dưới cội thông già nhìn xéo qua thung lũng Đa Thiện. Nắng Sài Gòn cháy da lạc bước giữa núi non không còn oi bức. Từng sợi vàng ươm nhảy nhót, mỉm cười qua khe lá kim hoặc bừng sáng chói chang trên hàng liễu tha thướt, e ấp rủ vài dây hoa đỏ.
Hiền Phương mới qua tuổi mười chín, sinh viên năm thứ nhất. Chất mộc mạc giản dị lắng chìm trong đôi mắt tròn đầy luôn ngơ ngác trước mọi thứ. Phương ví đấy là cửa sổ tâm hồn của chú chim bồ câu lẻ loi đang trú mưa. Cha mẹ Hiền Phương gốc người dân tộc thiểu số. Họ là chủ trang trại trồng rau nhỏ, tít ngoài Trại Mát. Hiền Phương ở trọ nhà người quen trong thành phố cho tiện học hành. Nụ hoa khôi hững hờ giọt sương ban mai long lanh tình cờ ghé vào cuộc đời Phương như huyền thoại.
Gần trọn một năm, tháng nào Phương cũng thu xếp công việc để lên Đà Lạt vài buổi. Hiền Phương dẫn anh đi khắp nơi bằng bất tận câu chuyện về các loài hoa. Buổi tối họ hay uống cà phê dưới mái hiên nhà nghỉ Hoàng Hạc hoặc trên quán Ánh Trăng bên hông đồi Cù. Những vạt sương mỏng manh, thấp thoáng nhiều đôi tình nhân sát cánh bên nhau làm Phương say đắm. Đó là bóng râm quá đỗi cách biệt với mênh mông nắng rát của ngày thường mệt nhoài, luôn phải cố gắng bằng nỗi cô độc sâu thẳm trong lòng. Chính vì vậy, Phương luôn bấp bênh trong mối tình ít thực tế này.
Thật sự Hiền Phương còn quá trẻ để san sẻ lo toan và đam mê cùng Phương. Nỗi nghi ngờ dần rõ nét, càng làm những chuyến viễn du của anh trở nên mỏng manh. Có lần sắp sửa làm thủ tục lên máy bay, Phương thấy chuyến đi Nha Trang trùng giờ. Anh đường đột hoán vé tới phố biển.
Bờ cát Nha Trang mờ ảo đêm cuối tháng. Phương chiêm nghiệm nỗi nhớ Đà Lạt bằng cách đếm chớp hải đăng ngoài khơi xa. Và Phương linh cảm trong mơ hồ anh vẫn ở vạch xuất phát cho cả tương lai bên cạnh Hiền Phương.
Trước mặt Phương là biển. Phần lớn tháng năm tuổi trẻ đẹp nhất Phương dành cho biển. Biển ấu thơ của anh là hai hình ảnh đơn sơ nhưng thật khó phai. Trên chuyến xe về Nam năm nao, biển là chốn nghỉ chân ngắn ngủi giữa đường. Mặt cát ướt in đầy dấu chân loài dã tràng nhút nhát. Sóng ầm ào. Cậu bé Phương chồn gối đã lâu tung tăng nô đùa một mình. Đến khi cheo leo trên đỉnh đèo Hải Vân cha lại chỉ cho Phương thấy biển dưới gốc núi. Biển lúc ấy bé tẹo, phẳng lặng tựa mặt hồ. Thuyền bè vật vờ như mảnh lá. Chắc chắn không phải vì độ cao của đèo mà Phương thấy bất an trước biển.
Năm năm đại học Hàng Hải, giấc mơ về biển theo Phương từng ngày, trên từng trang vở nơi giảng đường, giữa các giọt mồ hôi mưu sinh nhọc nhằn. Cuối cùng Phương cũng được ra biển, được thấy biển thực khi chẳng còn khoảng cách với biển. Bất luận biển trong anh không mấy hoàn hảo, tình yêu Phương dành cho biển chưa bao giờ cạn kiệt.
Phương và Hiền Phương cũng từng ra với biển. Biển hào phóng ban cho hai người khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi, tuyệt đối trọn vẹn, sáng trong. Bên bờ cát dài phơi mình dưới ánh sao đêm, tâm hồn họ gần như hòa hẳn vào nhau để nghe toàn bộ bản dạ khúc tấu lên bằng hơi thở, trong bè đệm trầm hùng của những chân sóng lang thang.
Buổi sáng, họ mong biển lặng để rong ruổi, xa thật xa hàng dương nhộn nhịp ồn ào, để tận hưởng gió biển nơi cội nguồn của gió. Nhưng toàn sóng bạc đầu bấp bênh và bất trắc như cạm bẫy. Trớ trêu là chiếc thuyền máy bị lật khi vừa hết giờ thuê. Nó còn cách bến đỗ vài mét chứ không phải ngoài khơi. Phương hoảng hốt tuồng như dưới chân anh là vực Marian sâu hơn mười ngàn mét giữa Thái bình dương. Việc đầu tiên anh ý thức mình đang làm là ôm ngang thắt lưng Hiền Phương để cùng trồi lên. Trào sóng tan tành nơi mép cát. Chẳng ai hề hấn gì. Nước nông choèn ngang bụng họ mà thôi.
Và rồi biển đã xa ngàn trùng. Nhưng biển của Phương vĩnh viễn đẹp, như mỗi cuộc đời chỉ có một thanh xuân. Phương biết, với năm tháng đằng trước, Hiền Phương là giá trị trường tồn của hạnh phúc. Cho dù hạnh phúc ấy là khoảnh khắc bốc đồng, cho dù họ chẳng bao giờ được sẻ chia cơ hội chung nhau nửa mái ấm. Khi giấc mơ vụng dại còn đó thì con người vẫn tồn tại. Đôi khi sự tồn tại mãnh liệt tuồng như bất tử, dẫu phải chơ vơ ở đầu mút thanh gươm đơn chiếc sắc lạnh, gác bên vực thẳm tương lai hút mắt.
Phương đã đón thời khắc đầu tiên Hiền Phương bước vào tuổi hai mươi trên đỉnh Lâm Viên chỉ biết bầu bạn cùng mây trời. Túp lều dựng vội nhưng chắc chắn với nút dây gia cố của chàng thủy thủ viễn dương. Gốc thông già bập bùng cháy. Lửa reo tí tách. Ánh sáng và hơi ấm là kết tinh hàng trăm năm của đất trời, âm dương trong từng thớ gỗ.
Khi những sợi nắng mới khe khẽ len qua màn sương, lửa lạnh. Mặt trời ửng hồng, bồng bềnh đạp mây cất lên từ thung lũng. Hiền Phương thấm mệt rồi thiếp ngủ trong lòng Phương. Hình như nàng đang nhoẻn miệng cười giữa chiêm bao. Phương nhè nhẹ đặt Hiền Phương gối đầu lên chiếc ba lô dã ngoại. Anh cẩn thận kéo chăn tới cổ nàng và bước đi như chạy xuống dốc. Trong tầm mắt Phương là lán trại của nhóm sinh viên Sài Gòn dễ mến, đồng hành với anh lên núi chiều qua. Phương tạt ngang nhờ ai đó hai tiếng sau đưa giùm Hiền Phương mảnh giấy có vài chữ:
"Hiền Phương! Khi em nhận được lời nhắn thì anh đang trên xe đò về Sài Gòn. Xin lỗi em rất nhiều, anh sẽ viết thư gởi em ngay".
"…Đến giờ anh vẫn chưa hiểu mình đang tỉnh hay mơ. Anh vẫy xe về thành phố như kẻ hành khất, quần áo dính đầy bùn đỏ. Anh trở lại cuộc sống thực với tất cả ưu phiền và chán nản. Vậy mới hay Đà Lạt của em hư ảo mong manh quá đỗi.
Anh bỏ em một mình nhưng không hề ân hận. Ban mai nơi cao xanh trong lành biết chừng nào. Anh để lại cho em nguyên vẹn màn sương thiên đường, cùng những khoảnh khắc của niềm tin ở con người và cuộc đời.
Em quá đỗi ngây thơ, thánh thiện. Anh sẽ mắc tội nếu cứ ở bên em, cứ thu dần khoảng cách với em. Anh đang cố xếp năm tháng mang tên em vào ký ức. Có vẻ đẹp nào không ẩn chứa một ít buồn hả em. Nỗi buồn thanh tao ngày mai Đà Lạt vắng anh, mãi mãi nhẹ nhàng, mãi mãi điểm tô cuộc đời em như nét hoa Cúc quỳ trong buổi bình minh nhiều mây, thiếu nắng và phảng phất sương mờ. Cõi nhân gian túng quẫn niềm vui đã đành. Người ta thiếu cả nỗi buồn đẹp đẽ. Sự đoạn ly của đôi ta không đáng xem là đau khổ. Đó là điều duy nhất giá trị mà anh đem đến cho em, dù nó phù phiếm, khó tin. Mọi thứ khác đều vượt xa khả năng của anh.
Tình cảm chúng ta có thể gọi là tình yêu chưa nhỉ? Anh không dám biết. Anh sợ tương lai, sợ thực tế phũ phàng sẽ biến mối tơ vương thành nỗi thất vọng thao thức trong nuối tiếc và dằn vặt. Đêm qua em không nghe thấy hồi âm của hai chiếc ly pha lê lăn qua vực thẳm sau khi chúng ta uống hết chai rượu nho bé nhỏ. Anh bảo anh nghe. Em không tin. Tin anh đi, dù chỉ một lần. Thứ gì quá đẹp, quá hoàn hảo luôn dễ vỡ.
Hãy hiểu anh!".
Quả thật lá thư nói giùm Phương nhiều thứ. Có điều cảm giác so le với Hiền Phương thì anh không biết bắt đầu từ đâu. Họ cách nhau hơn mười năm tuổi tác và một thế hệ nhận thức. Hoặc giả Phương là kẻ lãng mạn hết sức thực dụng. Anh háo hức khám phá sự mới mẻ từng giờ từng phút nên mau chán, mau nguội lạnh. Anh kém kiên nhẫn nên không thể chờ đợi nấc thang đồng cảm cao hơn, ẩn lận trong buồn tẻ thường trực.
Đơn giản đến vô lý. Phương trốn chạy nỗi nhớ Hiền Phương ròng rã mấy tháng trời. Anh lại trượt vào những thú vui thị dân ảm đạm. Hiền Phương gởi cho anh vài lá thư rồi cũng biệt tin. Nét chữ hồn nhiên "Xứ sương mù" không bao giờ thiếu ở góc trái phong bì của nàng, cứ gói ghém nỗi niềm đau đáu, thỉnh thoảng bừng sáng trong Phương. Những giấc mơ về sáng ngắn ngủi nhưng rất thanh thản, nhất là sau các đêm Phương say rượu hay bia.
Rồi Phương gặp Tuyết, giữa cơn mưa đằng đẳng khác lạ của Sài Gòn. Người ta bảo đó là hiện tượng La nina. Phương ít thấy trống trải khi bên Tuyết. Tuy vậy, hình như anh chưa hề sở hữu nửa ngày bình yên. Có buổi hòa nhạc họ vai kề vai nhưng tâm hồn Phương đi hoang lên Đà Lạt. Phương nhớ da diết cánh rừng thông vắng vẻ, nơi anh từng nằm ngửa trên cỏ, nhắm hờ mắt để nghe vi vu giai điệu đại ngàn. Xen vào khoảng lặng dừng của gió là tiếng chim hót. Bản du ca ái tình nồng nàn hương tự nhiên vút lên vừa trung thực, vừa mơ hồ, chẳng vướng bận bất cứ cảm tính nhân bản nào. Đôi mắt bồ câu trốn mưa mờ dần, mờ dần. Hiền Phương bỗng trở thành con người không thật. Nàng là hiện thân của nỗi cô đơn Phương ký thác tại miền đất cao nguyên xa xôi thanh lặng. Chính nỗi cô đơn luôn nhói đau trong từng suy nghĩ, cử chỉ và ánh mắt Phương lại đón anh về. Anh đang đi tìm viên ngọc trai của đời mình trên bước chân dự cảm bỏng rát, chan chứa thân phận, thấm đẫm khát khao mộng phù vô biên.
Hơn một năm xa cách Đà Lạt vẫn vậy. Hồ Xuân Hương xanh trong. Sóng lăn tăn ve vuốt những sợi nắng ấm dịu vàng. Phương ăn vội bữa trưa tại Thủy tạ rồi về nhà nghỉ Hoàng Hạc gần dinh 3. Căn phòng nho nhỏ trên thượng tầng tòa nhà hình như chỉ dành riêng cho anh. Mùi thơm của gỗ thông ốp tường rất ấn tượng.
Phương vơ gối, cuộn chăn làm ngay giấc ngủ không mộng mị. Chiều tà. Vách gỗ lách cách trở mình vì nhiệt độ đột ngột hạ xuống, khe khẽ lay Phương dậy. Giũ xong bụi bậm thành thị trong làn nước nghi ngút khói, Phương ăn mặc chỉnh tề và ra ghế đá ngoài ban công. Cây phượng tím non tơ xòa cánh tay khẳng khiu trĩu hoa bên cạnh. Lưng dốc dẫn lên dinh 3 vắng vẻ.
Nhà nghỉ Hoàng Hạc thoạt nhìn chẳng thấy bóng dáng của loài chim lịch lãm. Mái ngói cong cong nhắc nhở ít nhiều thẩm mỹ kiến trúc truyền thống. Chủ nhân đặt tên nhà nghỉ theo bức tượng khỏa thân mang tên "Vũ điệu Hoàng Hạc" dựng giữa vườn cây cảnh bốn mùa tràn trề hoa lá.
Bức tượng bằng đồng. Vũ nữ đứng trên đầu các ngón chân phải như đang múa. Chân trái tượng co ngang gối, hai bắp đùi khép kín đáo. Nửa thân người phía trên hơi ưỡn. Mắt tượng nhìn lên bầu trời. Mái tóc cách điệu xõa rất gần mặt đất. Tay trái tượng giấu dưới lưng. Tay phải bắt ấn vòng qua đỉnh đầu, ba ngón thanh thanh còn lại mềm mại tỏa đều như cánh hoa. Đường nét hết sức tinh xảo nhưng hồn tượng nằm trong màu đồng nguyên chất. Ánh sáng trắng cố định ở năm góc hắt lên, phản chiếu thay đổi theo sự quay tròn của đế tượng. Trong màn sương khuya bức tượng sống động đến không tưởng. Màu vàng gom đọng xung quanh tượng chẳng khác gì vạt lụa nguyên chất óng ả khoác hờ trên vai thiếu nữ.
Ngắm bức tượng trong trạng thái tĩnh của tâm hồn và không gian, có thể hình dung ra vũ điệu thất truyền của loài hạc trứ danh trong văn học cổ Á đông. Số lượng nguồn sáng ngầm định công thức ngũ cung, mở ra giữa cõi lòng người thưởng ngoạn khúc Nghê thường hoặc chí ít là bài Diễm tình nước Sở. Đây mới thật sự là thứ âm nhạc huyễn ảo, lóng lánh trên mặt hồ siêu thức. Vô định hơn chút nữa, nếu màn sương thật dầy, bức tượng sẽ biến thành cây sương huyền nhiệm của đỉnh núi Côn Luân. Sương không còn là khách thể. Nó được bức tượng sinh ra và tỏa khắp mặt đất. Cái ý của cổ nhân "sương ra đời trong những làn điệu hoàn chỉnh của cây đàn Tì bà" có một biểu trưng đầy thuyết phục.
"Mình và Hiền Phương bao lần ngồi đây ngắm bức tượng rồi nhỉ?" Phương thầm hỏi. Tuy nhiên Phương không thể nhớ anh đã xác định tốc độ quay đều của đế tượng là ba vòng một phút khi ở cạnh Hiền Phương, hay trong một đêm khó ngủ.
Khi vào phòng lấy thuốc lá dưới đáy ba lô Phương mới nhớ anh đã đem theo lá thư dày cộp của Tuyết dạo nọ. Phương lơ đãng xé mép phong bì bằng tay. Tờ giấy đôi học trò mới tinh, viết ngay ngắn, bọc cả chục trang vở cũ mèm. Vết xé nham nhở.
"Sài gòn ngày… tháng… năm…
Những trang viết trong quyển nhật ký của tôi là cơ hội cuối cùng dành cho anh, cho ảo tưởng bẩm sinh của anh về tình yêu. Anh là sự ngộ nhận hoa mỹ mà tôi phải trả giá quá đắt. Không còn bất cứ lý do nào để dư ảnh con người anh được vẩn vơ quanh tôi, kể cả mấy tờ giấy đáng ghét này.
Tôi biết rồi anh sẽ vò nát chúng. Tôi phủi chúng khỏi đời tôi bằng cách gởi đến anh, chẳng chút do dự. Đó là cái chết thứ nhất. Anh sẽ giết chúng lần thứ hai giùm tôi. Không đơn giản chỉ là phong thư, đây là phần đời vô duyên của tôi có anh góp mặt. Nó chẳng hơn mụn u nhọt và xứng đáng được đối xử như vậy.
Vĩnh biệt,
Lâm Ngọc Tuyết"
Phương lướt mắt qua trang giấy vô tri. Thú thực anh bị cuốn vào giọng văn mạch lạc hơn bình thường của Tuyết. Phương thấy lạ, nếu cho anh viết về cô trong ngần ấy chữ thì anh sẽ viết giống y như vậy, không khác một dấu chấm, dấu phẩy. Đó là cái chung duy nhất còn lại giữa hai người, sau cuộc hôn nhân ngắn ngủi, không lễ cưới và rước dâu. Phải công nhận tháng ngày bên Tuyết từng đẹp, đẹp lắm, đẹp như ánh hồi quang gượng tạo và ít minh bạch. Sự thật luôn là sự thật. Phương không cam tâm tự nhận mình vô cảm trong khi luôn tự nhủ phải biết lãng quên.
Phương chẳng buồn nghĩ thêm chút nào, như cách nhẹ nhàng chuộc lấy sự ngây thơ tội lỗi không giới hạn của bản thân. Ân huệ là im lặng. Chỉ mong nó hoài ngủ yên trong ám ảnh đã nguôi ngoai. Chỉ mong nó hoàn toàn xa lạ với Phương của nay mai, giữa tiến trình phức tạp, đầy dẫy đớn đau nhằm hoàn chỉnh nhân cách. Bỏ lại đằng sau quá khứ, Phương luôn thấy trước mặt mình trọn vẹn cuộc đời, không bao giờ là phần còn lại.
Phương vo tròn mớ thư ném xuống chân đồi. Hơn cả sự thanh thản từng mong muốn, anh hít thở thật sâu rồi rảo bước ra phố. Đêm đã về. Bầu trời trong veo nhấp nháy muôn mắt sao xanh biếc qua tán cây thưa, báo hiệu ngày mai nắng đẹp. Chòm Xử nữ và Hải sư hiện rõ mồn một. Nàng Giác tinh e lệ hình như đang hạnh phúc trong say đắm nồng ấm của chàng Hiên viên tuấn tú. Hai ngôi sao sáng nhất ở hai chòm sao lãng mạn kia thật gần nhau, dù chúng bị ngăn cách bởi thiên xích đạo vô hình do loài người tí hon vẽ vời.
Lâu lắm rồi Phương mới có dịp ngắm kỹ mọi thứ chung quanh. Nhà thờ Con gà cao vút uy nghi. Cột ăng ten bưu điện giả tháp Eiffel rực sáng. Khách sạn Palace sang trọng bệ vệ. Những biểu tượng cưỡng bức thị giác của nòi giống Gauloir dẫn Phương vào nhà hàng Rabelairs.
Về quang cảnh, Đà Lạt còn quá nhiều dấu ấn ngót trăm năm nô thuộc. Người Đà Lạt luôn trân trọng và gìn giữ tất cả. Tinh thần vọng ngoại tương đối lộ liễu nhưng được dung thứ một cách đáng ngờ. Ngoa luận thường vô lý phân chia rạch ròi dân tộc Pháp, nhân dân Pháp, văn hóa Pháp, Thực dân Pháp. Nhóm yếu tố này thống nhất và vô cùng khăng khít tạo nên thực thể đã đè nén dân tộc Việt Nam gần một thế kỷ. Máy chém La Guillotine là sản phẩm của cách mạng 1789. Hệ thống pháp lý dân chủ mà người Pháp luôn vỗ ngực tự hào có hẳn đứa con quái thai là Hội đồng đề hình, để thẳng tay giết người tại các thuộc địa.
Không riêng ở Đà Lạt, người dân Việt Nam luôn sẵn câu cửa miệng khi đề cặp đến di sản cũ: cái này Pháp xây, cái kia Mỹ làm… Chỉ tội cho biết bao nhiêu lớp phu phen An Nam từng bị đày ải, đánh đập, thúc ép và vắt sức hơn tù khổ sai. Mồ hôi, nước mắt, máu xương của họ vẫn còn ấm trên từng viên gạch, cục đá xạm màu thời gian, ở mọi miền đất nước. Các thế hệ đồng bào sau này của họ vô tâm quá. Người ta không nỡ quên lũ mắt xanh mũi lõ từng dí súng sau lưng, vung roi da quất xuống tấm thân trơ xương của hàng đoàn nhân công da vàng lao dịch. Họ thích gọi khoảng thời gian từ 1859 đến 1945 là "thời Pháp thuộc" hơn là nêu thẳng con số. Hình như cái gì "thuộc Pháp, thuộc Tây" đều cao quý, hoàn mỹ và cần được nâng niu. Những khúc quanh đèo Prenn thơ mộng ăn vào vách núi. Những mảng tường, mái ngói rêu phong tạo nên các ngôi biệt thự mỹ lệ. Trong đó, mấy ai còn nhận ra vết tích hóa thạch của hàng ngàn cánh tay khẳng khiu mười ngón bật máu, ánh mắt tủi nhục căm phẫn vì bị đối xử như súc vật giữa công trường xây dựng.
Vẻ đẹp nhân tạo xa xưa của Đà Lạt rất dễ gây mặc cảm. Toàn quyền Đông dương chủ tâm xây dựng Đà Lạt thành khu nghỉ mát Tây dương cho người da trắng nếu không kể vài dinh thự nguy nga của vua bù nhìn Bảo Đại. Thời điểm Yersin mò đến Cao nguyên Lâm Viên và tư vấn cho Paul Doumer cát cứ Đà Lạt như địa điểm du lịch kỳ thị chủng tộc, được đếm xuôi để tính tuổi mảnh đất này quả là nông cạn hết chỗ nói. Chắc chắn đâu đây, dưới lòng đất Đà Lạt còn lưu giữ vài nền tháp Chàm như ở Xã Loan, Đức Trọng. Buổi chiều hiện tại mê lạc, linh hồn người Hời vẫn lảng vảng trong sương. Họ đánh đu trên những ngọn cỏ dại trùm phủ hàng tà vẹt hoang phế nối từ Phan Rang đến ga Đà Lạt. Con tàu thời gian cố tình lãng quên chủ nhân đầu tiên của Đà Lạt. Các dân tộc thiểu số tài hoa, thật thà như Mạ, Chăm pa, Chu ru, Kơ ho; dân tộc Việt Nam kiêu hùng thừa thờ ơ trước nỗi buồn trăm năm của Đà Lạt.
Mặc cho lòng người hẹp hòi bụi bặm, hào quang bất diệt của quá khứ biệt tích là gương mặt đáng ghi nhận nhất của Đà Lạt. Vết thương lịch sử rất cần khơi gợi thường xuyên như bài học vỡ lòng của tinh thần dân tộc. Sự nô lệ tư tưởng luôn dẳng dai, rất khó gột rửa.
Đà Lạt trong Phương cũng đẹp và buồn như nhận xét chung của mọi người. Bao nhiêu bí tích ái tình hư hư thực thực rất mộng mơ nhưng chẳng đáng gọi là nỗi buồn muôn thuở. Khí hậu ôn đới, thời tiết nhiều mưa ít nắng khiến người ta có điều kiện gặm nhấm, nhai lại tâm tư phiền muộn của chính mình. Đà Lạt buồn kiểu khác, rất riêng mà mấy ai thấu hiểu. Nỗi buồn vong bản nhiều lần, chưa đến hồi kết thúc, mênh mang phả lên sắc vẻ thiên nhiên. Màu xanh nâu ẩn lắng giữa mặt nước hồ Xuân Hương không khác mấy ánh mắt cô liêu của những người con gái bản địa mang làn da bánh mật. Họ hay đứng bán lan rừng bên lề đoạn đường ồn ào náo nhiệt dẫn vào chợ Đà Lạt.
Năm mươi năm trước chỉ bọn Tây dương mới được hưởng thụ khung cảnh xa hoa này. Phương thầm nghĩ và kín đáo quan sát nội thất lộng lẫy của quán Rabelairs. Nếu làm sang, nếu Phương ngồi vào dãy bàn ăn kê sát khung cửa kính khổng lồ nhìn xuống hồ Xuân Hương, anh sẽ được tiếp đãi nồng hậu nhất bằng ngôn ngữ ngoại lai, từ thực đơn trở đi. Đã một lần Phương nhói lòng vì lời chào hỏi toàn âm gió. Cái nhìn vô lo trước hàng chục món ăn đắt đỏ biến Phương thành người nước ngoài trong mắt đội ngũ phục vụ.
Ly trà ô long Bảo Lộc giá vài Mỹ kim. Phương ngang hàng với hậu duệ lũ thực dân đang xì xồ ở bàn bên cạnh, ít ra là ở chỗ ngồi. Nhưng để cánh cổng nặng nề phía ngoài rộng mở đón anh, bao thế hệ Việt Nam đã chiến đấu, hy sinh. Á đông và lịch sử hàng ngàn năm của mình ngậm ngùi chịu sức ép "khai hóa, nhân quyền, đầu tư" tới bao giờ nữa đây. Chỉ có những thế hệ kém cỏi chứ không có một dân tộc nhược tiểu. Tối thiểu khi nào người Việt Nam nói chuyện với người Việt Nam hoàn toàn bằng tiếng Việt Nam, khi nào tất cả loài hoa ở Đà Lạt được gọi thống nhất bằng âm tiết đơn, mới mong xuất hiện con cháu làm rạng danh cha Rồng mẹ Tiên. Ở thì tương lai mù mịt ấy, biết đâu người ta sẽ gọi Đà Lạt là thành phố Vạn Xuân, như niềm tri âm ước vọng hòa bình và tự chủ của Lý Nam Đế.
- Anh ta chơi lại bản đầu tiên - Giọng mũi tiếng Anh lơ lớ âm Pháp hơi lớn làm Phương giật mình, thoát khỏi dòng suy tưởng.
- Xin lỗi ngài. Khó kiếm ai ở Đà Lạt đánh đàn hay hơn nhạc công này - Cô phục vụ xinh xắn nhanh nhảu xoa dịu.
- Hãy cho con gái tôi mượn đàn.
Mái tóc vàng yểu điệu rời bàn. Cô ta không tự tin lắm, khá nông cạn với Beethoven nhưng rực rỡ ánh mặt trời của Mozart. Nguyên, người nghệ sĩ bị từ chối nét mặt còn vương tự ái đến chào Phương:
- Phải cảm ơn đại tiểu thư.
- Anh khỏe chứ?
- Nhì nhằng thôi. Hiền Phương ra trường chưa Phương? Rảnh ta lại ghé Ánh Trăng nhé.
- Anh vẫn thích rượu vang Ý, Martini đỏ pha đá đúng không? Hãy thư thả cảm nhận dòng máu chúa của anh. Đừng lo bị khiển trách, tôi xin anh cây đàn trong nửa tiếng.
- Ngày nào cũng phải gõ phím từ bảy tới mười giờ tối, dù đại sảnh không một mống khách. Nhiều lúc sạn chai hết…
- Sinh nghề tử nghiệp mà. Tôi thèm cuộc mưu sinh như anh lắm. Phải chi tôi có năng khiếu và lòng kiên nhẫn tôi xin đổi chỗ với anh ngay.
Phương ngồi vào đàn khi quán không còn người khách nào, trừ anh. Mấy nốt láy quen thuộc ngân nga, giai điệu mượt mà. Những gam đồng thuận không cân đối của vài bản dạ khúc Chopin dịu dàng cất lên.
Phương tung đôi cánh phiêu bồng, lãng đãng giữa hoa đồng cỏ nội. Đêm thuần khiết. Đêm luôn là cứu cánh. Đêm xóa nhòa bề ngoài hào nhoáng dễ lầm tưởng. Đêm loại trừ chiếc bóng thô kệch không biết tự định hướng. Đêm trả lại nguyên nghĩa sự chay tịnh của nội tâm. Chỉ còn lại với đêm là hương đời chân thật, là bao nỗi nhớ không tên nhưng cùng một niềm day dứt. Xạc xào đêm, tiếng lá thu cứa vào hoài niệm. Gót lá giòn vụn, tan trong bè trầm của hơi thở. Âm ỉ suốt đêm cảm giác hồi hộp chờ mong.
Đêm dài. Đêm huyễn hoặc. Đêm thâm u. Đêm mênh mông diệu vợi. Đêm khai sinh tâm hồn chuộng cô độc giữa tiếng thét tắc ngẹn trong mơ. Hoài vọng của đêm nhiều khi hão huyền tột độ. Đêm bừng sáng ảo tưởng, lập lòe lân tinh liêu trai ngược chiều ký ức. Đêm xói mòn không tiếc thương những phần thanh xuân quí báu nhất.
Đã bao lần Phương đau đớn rạch vào bóng đêm đặc quánh gạch nối chia cắt quá khứ và hiện tại. Đêm giúp anh bỏ lại đằng sau chặng đường vừa qua. Thẩn thơ chơi đêm là câu hỏi gởi đến con đường gập ghềnh khúc khuỷu trước mặt. Miền mây trắng tinh khôi nhuốm màu cổ tích uống cạn bóng đêm và tất cả hư ảnh mù mờ tăm tối.
Gió luồn qua đêm, qua mọi biên giới của lãng quên. Và quá bất ngờ, Phương nghe vẳng trong gió tiếng hát rất đỗi xa xăm nhưng bội phần tha thiết. Ngọn đồi cỏ cháy vàng hoe cuối chân mây. Người con gái ngả đầu bên lớp vỏ nâu xám của cội thông già chơ vơ. Sương tím giăng giăng.
Đêm dịch hạch
Ai trốn chạy tình yêu trần thế
Sự hiển linh vẫn mãi xa vời
Áo xiêm đâu vẽ được thần tiên
Em xứng đáng ngàn lần với một đời bình lặng
Anh về nghiện lại đắng cay
Ừ thì thôi...
Chẳng dám tìm may rủi
Bài thơ viết trong đêm lại sáng giữa ánh ngày
Em lại cười và tôi lại trộm vui
Em lại cười và tôi lại trộm vui
Bài thơ cháy, chói hơn mặt trời chính ngọ
Ngày chưa kịp xanh đã trùm phủ tàn tro
Mai tuyệt vọng hay mai là hạnh phúc
Vẫn ngát lên hương dịu ngọt hồng hoa
Chất nhạc Phương chơi chuyển điệu lúc nào không rõ. Nét ngũ cung trầm lắng đượm buồn. Phương nhìn xuống bàn tay nhẹ bẫng đang lướt trên hàng phím. Xúc giác đã tê liệt. Các phím đen được sử dụng triệt để. Ứng tác thần diệu của miền tâm khảm sâu kín. Hoang tưởng ngọt ngào đến nỗi Phương tin anh sẽ chẳng bao giờ cố nhớ, cố chơi khúc nhạc này một lần nữa. Tiếng hát bay mãi trên ngàn hoa, lướt qua Phương, dẫn theo thứ gió mát lành của cao nguyên đang vào hạ.
Sáng tiếp theo Phương ra cà phê Ánh Trăng rất sớm. Anh biết mình đang đợi Hiền Phương. Cuộc đợi chờ phó mặc cho duyên may, cho số phận, cho linh cảm khó minh chứng về thần giao của những người đang nghĩ về nhau. Tán dù đỏ sờn cũ nắng mưa. Vẫn đây, mờ mờ nét chữ tinh nghịch của Hiền Phương viết ngược ngày nào: "Chiếc bàn của chúng ta".
Phương thấy Hiền Phương từ rất xa, cuối đoạn dốc ngã năm đại học. Ban đầu anh chỉ hơi mất bình tĩnh. Khi Hiền Phương bước vào và thẳng tiến đến bên Phương thì anh thật sự run rẩy.
- Em đang học, tự nhiên nóng ruột không thể tả. Em ra đây như mộng du.
Tuổi hai mươi của Hiền Phương ửng hồng trên má. Đôi mắt bồ câu trốn mưa buồn đến lạ. Và tuyệt vời thay, tận cùng nét buồn nhu thuận, Phương nhận ra giọt sương hội ngộ. Giọt sương long lanh chứa cả ngày nắng đẹp.
Phương khoanh tay trước ngực tận hưởng từng hơi thở. Trong mắt anh Đà Lạt đẹp quá, đẹp từ búp cỏ đến tán thông. Màu xanh núi xa. Màu trắng mây thấp. Vạn bông hoa muôn màu lung linh hư ảo như ánh hoa đăng đêm giao thừa trong lòng hồ Xuân Hương. Bản giao hưởng của màu sắc làm Phương xúc động, nói chẳng nên lời. Hiền Phương lại bên anh như giữa họ chưa trải qua bốn mùa xa cách hoang đường và nông nổi.
Rất nhiều thứ xung quanh Hiền Phương và Phương chưa kịp đổi thay. Mong sao thiên nhiên Đà Lạt trăm năm sau hãy còn dáng dấp ngày nay. Hai ngọn cao nhất của dãy Lâm Viên cứ thích trốn tìm trong mây mù. Hàng thông non bên bờ rào Đồi Cù nhọn vút trên nền trời, tập tành vi vu reo gió. Thảm cỏ nhung mượt mà long lanh dưới nắng nhẹ.
Có một miền tâm linh sâu thẳm vừa được khai sáng, giấc mơ vĩnh hằng đang tiếp nối. Chiếc xương sườn đã tìm đúng nơi trú ngụ xa xưa của mình, tận trong truyền thuyết thần thánh rất khập khểnh, phi lý nhưng hàm chứa ý nghĩa đẹp đẽ và tuyệt đối hoàn hảo. Phương tin "Thượng đế đã chết". Anh cũng tin thượng đế của riêng mỗi con người mãi mãi còn. Tình yêu mang sức sống riêng, vượt qua mọi thời cuộc, mọi vật cản của thời gian và những cái tôi hèn kém. Tình yêu kỳ diệu hơn hạnh phúc, cao hơn khổ đau, mất mát, lớn lao hơn muôn vạn sầu não truyền kiếp của nỗi đời. Phải chăng đó là cái còn lại chứ không phải ảo ảnh từ phút giây đầu tiên khi hai con người gặp nhau để yêu nhau rồi lại chia ly.
Họ ngồi bên triền đồi nhìn xuống khe Hoa. Sườn đèo Prenn đối diện thấp thoáng những mái nhà giữa các mảng rừng thông. Thung lũng vảng vất khói lụa dịu mát như tóc tiên. Không gian thanh bình tĩnh lặng. Nghe rõ tiếng chạm nhẹ vào nhau của hàng triệu chiếc lá kim. Đôi mắt Hiền Phương mở to nhưng chẳng dừng lại ở bất cứ ảnh hình nào. Mặt hồ thời gian sóng sánh nắng. Mây trắng lãng lờ trôi.
- Cảm ơn cuộc đợi chờ ẩn mình trong sâu thẳm tiềm thức, khó lòng tan biến giữa cám dỗ.
- Đừng gọi em là truyện cổ tích của đời anh.
- Em biết quên mình?
- Sao anh không nghĩ đó là sự dâng hiến cho nó mãnh liệt hơn, thật hơn?
- Anh không muốn biến em thành miếng mồi ngon cho dục năng. Tầm thường quá!
- Anh đề phòng mưu đồ chiếm hữu nơi em, hay anh sợ bản chất chiếm đoạt của gã đàn ông trong anh? Em chẳng nghĩ em sắp cho đi thứ gì. Ở em lòng khao khát hiến dâng và tình yêu là một. Em muốn trở thành đàn bà bên cạnh người em yêu. Cô gái trinh nguyên là con người trống rỗng, chưa ra đời. Ai đó từng bảo "Đàn bà là danh hiệu cao quí nhất mà ta có thể phong cho linh hồn, cao quí hơn nhiều danh hiệu thiếu nữ". Mọi loại chúa trời đông tây kim cổ đều là đàn ông nhưng mẹ của họ tất phải là đàn bà. Con người nhỏ bé và đáng thương nhất khi họ quì gối, cúi đầu trước biểu tượng trinh trắng phi lý.
Phương nghe tai mình lùng bùng. Giọng nói sôi ra từ đáy lòng anh: "Tôi không biết khái niệm hiến dâng. Đơn giản, tôi hành động như mọi người con gái khác đã hành động trước cả cái tuổi hai bảy này thôi".
- Tuyết sống bằng thói thường của thiên hạ. Không ngờ Hiền Phương mạnh mẽ và bất ngờ đến thế - Phương lẩm bẩm.
- Anh nói gì vậy? - Hiền Phương níu tay Phương.
- À không. Tốt hơn hết em hãy để dành lòng khao khát cho tuổi đời chín chắn hơn.
- Dù gì đi nữa em tin mình sẽ là một cô vợ thủy chung, tiết hạnh. Có đấng mày râu nào trên thế gian này từ chối người bạn đời như vậy đâu anh.
Giọng Tuyết: "Ít ai dám nghĩ em còn trong trắng. Xét tuổi em, chẳng ma nào dại dột mơ tưởng hão huyền. Em không cần lập lờ đánh lận".
Màn sương ảo ảnh của Đà Lạt lại đón về cặp tình nhân vừa mới vừa cũ. Đêm mông lung và sâu thẳm. Âm u trong gió tiếng ngàn thông hay là lời nguyện ước tiếp nối tháng năm còn dang dở.
Có lẽ Hiền Phương nghĩ đúng. Ở chừng mực nào đấy sự trinh trắng gần như vô nghĩa. Người ta thích nhìn vào mắt trẻ thơ và vẽ vời các ý niệm chủ quan. Tự thân, đôi mắt trong suốt chỉ gợi nhớ hồi ức niên ấu. Chính việc ngầm so sánh hiện hữu nhá nhem với con số không, vô tình biến số không thành giá trị lớn. Ngưỡng mộ hoặc bằng lòng với hư vô là chứng bệnh tưởng khủng khiếp.
Hiền Phương muốn đặt bút viết bài thơ cuộc sống trên tờ giấy trắng đầu tiên. Không có lý do ngăn cản nàng. Biết đâu một tuyệt tác sẽ được thai nghén. Phương bỗng nhớ tới Tuyết. Anh và cô đã hè nhau bôi bẩn trang sách thứ nhất của họ. Rõ ràng đau khổ hay hạnh phúc của một cá nhân chỉ phụ thuộc vào chính người đó. Tất thảy trắc ẩn là cần thiết nhưng hơi thừa.
Thể xác cũng như tinh thần hai con người dần đi đến điểm chung tuyệt đối. Xúc cảm thiêng liêng, thần bí. Lần đầu tiên Phương sợ bóng đêm và giấc ngủ. Những chiêm bao thường trực chẳng hề vô hại. Nó rình rập chia cắt ý thức và ý nghĩ của họ về nhau. Họ sẽ tách khỏi nhau, không còn cảm nhận được hơi ấm của nhau. Thế giới của giấc ngủ, dù ngắn hay dài đều là thế giới nặng nề của tự ngã phản trắc.
- Anh vừa mơ thấy chúng ta cùng chờ đón phút giao thừa thiên niên kỷ. Em là đứa trẻ hiếu động nhưng đáng yêu kinh khủng…
- Mỗi người nói một câu xem anh có dẫn em vào giấc mơ của anh không nhé - Phương biết Hiền Phương đang mỉm cười. Mắt nàng khẽ chớp, hàng mi chạm nhẹ vào khuôn ngực anh - Trời tối đen như mực. Lờ mờ bóng dáng chiếc chuông đồng to ơi là to. Mép chuông dán đầy những mảnh giấy nhỏ chứa đựng lời nguyện cầu siêu thoát cho vong linh.
- Người ta gởi gắm cả giấc mơ thanh bình ngày mai trong các chữ nho sống động và có hồn.
- Anh bảo em đứng cạnh chiếc dùi khổng lồ chụp hình kỷ niệm. Đèn chớp yếu quá, ảnh không rõ.
- Trong đêm mà. Tuy nhiên đâu khó khăn gì để đọc nét hoa văn của tháp chuông. Ừ mà lạ! Em như thủy tinh trong suốt nên chẳng thấy em đâu.
- Chiếc chuông bị ngâm trong bóng tối. Những mảnh giấy được dán lên mép chuông phát sáng.
- Đúng không giờ dùi chuông tự động dịch chuyển. Âm thanh mê hoặc linh thiêng loang ra thinh không, len lỏi vào tận tầng vô thức băng giá và tĩnh lặng.
- Nép mình giữa ranh giới của nhiều bồi âm là giọng anh gọi em. Xa xăm nhưng trung thực lạ lùng, rung cảm cộng hưởng đến từng tế bào già nua sắp bị cơ thể đào thải.
- Chẳng biết ai gọi ai nữa. Anh nghe rõ giọng em. Chỉ có tiếng "Phương ơi!". Hai ta cùng gọi nhau đấy.
Đến lúc này Phương mới dám tin anh và Hiền Phương đã sánh vai trong giấc mơ nọ. Sự việc họ có nhau, đang ở bên nhau là hoàn toàn thực.
Phương cố tình không bật đèn. Trong bóng tối anh mò mẫm thu dọn mớ hành trang giản đơn của một lữ khách thiếu tính cẩn thận. Ông chủ nhà đáng kính tóc hoa râm không giấu vẻ ngạc nhiên vì Phương trả phòng quá đột ngột. Hiền Phương chờ anh bên gốc Bích Đào cỡ hơn trăm tuổi.
- Nghe bảo cây Bích Đào này nở hoa đẹp lạ lùng. Hoa Đào hữu sắc vô hương nhưng được cái thần. Nó vượt qua mùa đông khắc nghiệt để đem đến cho ta mùa xuân và tất cả hy vọng.
- Anh không nghĩ anh đã quên một thứ mà anh luôn coi trọng và ý thức gìn giữ như kỷ vật sao?
Nụ hôn là câu trả lời, dài hơn vạn lần khoảng thời gian từ lúc họ biết nhau. Người ta hôn nhau bằng miệng và mũi, lối đi của hơi thở, của sự sống. Qua nụ hôn, linh hồn người này tìm được linh hồn người kia, tiến tới hòa hợp và gắn kết muôn đời.
- Năm phút nữa đến ngày mới rồi em biết không. Anh đưa em về nhà. Sau đó anh sẽ lang thang trong đêm sương cho đến lúc mệt mỏi rã rời. Anh muốn tạm dọn qua phòng trọ khác.
- Cái ngày Bích Đào nở hoa còn xa không Phương? Rất nhiều vẻ đẹp có được nhờ khoảng cách…
- …và trí tưởng tượng. Cửa căn phòng ta vừa ở đến gốc Bích Đào này không thể đo bằng mấy bước chân. Nó dài hơn hành trình luân lý gượng gạo của những kẻ ái kỷ, của trọn vẹn thân phận người phụ nữ và tất thảy trò đồng bóng mang dấu ấn vô tưởng của tâm thức.
- Anh thay đổi nhanh quá.
- Tấm lòng như em rất khó tìm được. Anh may mắn và anh đã chọn cái phi hình thức nhưng bền vững nhất, sâu sắc nhất. Bức tượng vũ nữ ngoài kia đang rực sáng giữa đêm sương mịt mù. Vũ điệu tinh thần lúc nào cũng rạng rỡ và giá trị.
- Cuộc đoạn tuyệt của anh mập mờ, nhiều thỏa hiệp nhẹ dạ. Em khác anh ở chỗ em không cần căn cứ cho tình yêu. Mê muội quá phải không? Anh hãy đi bất cứ nơi nào anh thích. Em chờ anh cuối con đường, một khi anh tình cờ muốn quay về. Em chưa chắc Bích Đào sẽ đơm hoa. Em không tin trời đất nơi ấy mãi là mùa xuân. Nhưng em vẫn là em hôm nay và hôm qua, của anh, bất di bất dịch. Hơn một câu nói suông, em biết em sẽ sống vì điều này, bằng tất cả nghị lực và lòng kiêu hãnh của tuổi hai mươi.
Đêm ấy là đêm dài nhất Phương từng trải qua. Anh khép gần hết vòng hồ Xuân Hương và không rõ mình đang đi đâu, đang nghĩ gì. Kiệt sức, Phương tắp vào một phòng trọ sơ sài. Cơ hồ anh không ngủ. Không chỉ bị bóng đè, Phương còn sống lại hai ngày đêm đắm tàu kinh hoàng. Tâm trí anh bất định, chập chờn nửa tỉnh nửa mê.
Rõ ràng Phương cần căn cứ và bằng chứng cho tình yêu của anh dành cho Hiền Phương. Anh chưa thoát khỏi ám thị ngộ nhận hay vẫn là kẻ ái kỷ không hơn không kém. Một lần nữa Phương lại vội vàng. Chuyến xe cuộc đời anh rẽ sang hướng khác mà Phương không hề hay biết. Chỉ Phương mới có thể minh định anh xứng đáng hay không với những gì Hiền Phương trao gởi, nhưng anh hoàn toàn mất tự tin đến nỗi bấn loạn.
Phương đã tồn tại bằng tất cả nỗ lực và ý chí. Trước tình yêu Phương lại quá hoang mang hay đại loại anh cho rằng như vậy. Đà Lạt đặt anh vào con đường mới, gần như sự ràng buộc. Số phận yêu cầu Phương làm tròn nhân cách trước khi xác định rõ anh đang trên hành trình đến với tình yêu. Chẳng hiểu đây là thiên ân hay bất hạnh. Cái quan trọng là Phương vừa tìm ra ý nghĩa mới cho ngày mai bằng linh tính khác thường. Người ta cần lý do để tiếp tục sống dù đời sống trước mắt không hơn gì sự chấp nhận thụ động kém tươi sáng. Mớ bòng bong rối bời này trở thành chiếc tổ ấm, ngấm ngầm khoác lên Phương, xua đi cảm giác lạnh lẽo chốn trần ai trong buổi giao thời của nhận thức và tuổi tác.
Sài Gòn đón Phương về với bao lo toan. Thường nhật rảnh rỗi lạnh người. Phương có nhiều thời gian dành cho chiếc đàn Dương cầm. Anh hay nghĩ đến Hiền Phương khi chơi đàn. Hiền Phương viết cho anh đều đặn. Nàng cứng cáp và chững chạc lên từng ngày. Có điều Phương khó hiểu là Hiền Phương bắt anh phải hứa không tự ý lên Đà Lạt nếu nàng chưa đồng ý. Cái cớ nên chăm chú công việc của Phương và bài vở cho năm học cuối cùng của Hiền Phương không nói hết bản chất vấn đề. Phương nhất trí và cầu mong mùa xuân chóng đến. Cũng có thể công ty ít tiếng người quá, Phương không dám vắng mặt nên dễ thuận ý Hiền Phương. Khi kẻ bán nhiều hơn người mua, mỗi đơn hàng là một chiếc phao cứu sinh bên vực phá sản. Mọi quan hệ đều trở thành cơ hội sống còn và được đón lõng nhằm khai thác triệt để.
Hiền Phương rất vui vì nàng không khó khăn nhiều khi thuyết phục Phương. Phương viết cho Hiền Phương rất nhiều, thư nào cũng dài. Anh viết mọi thứ và ở mọi nơi có thể viết. Giờ nghỉ trưa hoặc khi rảnh tay Phương gõ máy vi tính. Chiều anh in ra, khuya lại tiếp nối dòng tâm sự bằng bút bi.
Nếu không có chiếc đàn Dương cầm chắc chắn buổi tối của Phương sẽ trống trải vô độ. Anh tập lại những bản nhạc mình từng yêu thích đến thuần thục. Các ngón tay chăm chỉ mềm xuống ở mức độ chấp nhận được. Âm nhạc giúp Phương tâm sự với chính mình và với cả Hiền Phương. Nỗi nhớ du dương, tha thiết băng qua tất cả khoảng cách và sự đơn độc ngỡ là trường tồn.
Đi ngoài đường Phương mắc thêm chứng bệnh lầm tưởng. Một tà áo, một dáng lưng, một mái tóc thiếu nữ hơi giống Hiền Phương đập vào mắt, Phương lập tức nhấn mạnh ga vượt lên. Chỉ thiếu tiếng gọi giật thảng thốt "Hiền Phương!" là anh đã biến mình thành kẻ vô duyên. Phương nhận thấy Sài Gòn rất nhiều xe gắn máy hiệu Kawasaki Max. Hiền Phương cũng đi loại xe này. Nhìn dọc nhìn ngang đều thấy xe Max. Mất công Phương đọc hàng mấy chục bảng số xe mỗi ngày. Mã đăng ký tỉnh Lâm Đồng là 49 chỉ lác đác xuất hiện. Chẳng xe nào có nàng Hiền Phương ngồi cả! Chuyện này biến thành thói quen mà Phương không chủ tâm dứt bỏ. Dù sao phố phường cũng bớt đơn điệu.
Phương chưa bao giờ vẽ ra tương lai sáng sủa ru ngủ Hiền Phương. Anh không dấu nàng bất cứ điều gì, kể cả sự thụt lùi của công việc. Ý nghĩ Hiền Phương không đủ trưởng thành để chia sẻ với anh lo toan của đời sống cũng mờ dần.
“Anh cần em xin cha mẹ vài mẫu đất vườn dưới thung lũng Trại Mát không? Chúng ta sẽ cuốc đất trồng rau. Xung quanh ngôi nhà gỗ đơn sơ ươm thật nhiều hoa hồng. Đó là công thức phi hiện thực của văn chương giải trí tiểu thị dân.
Em chỉ nhắc lại những gì chúng ta đã tranh luận. Thành phố chính là gương mặt của thời đại. Đừng lùi bước vì khó khăn trước mắt. Tư tưởng thối lui, ẩn dật hoặc quên mình là nhu nhược.
Em rất mong thời gian nhanh qua. Chúng ta sẽ sát cánh bên nhau trên từng sự bận tâm nhỏ nhặt nhất, tầm thường nhất đến những điều tưởng rất xa vời, như hòa mình trong cộng đồng phố xá, góp phần tạo nên chuẩn mực văn minh.
Làn sóng nhập cư ào ạt vào đô thị của các nước đang phát triển mang tính tích cực. Người ta chấp nhận tất cả tạm bợ từ nơi ăn chốn ở đến công việc để được học hỏi, phấn đấu. Tìm kiếm thu nhập khá hơn là mối lợi lộ thiên. Động lực thúc đẩy cho phát triển, phồn vinh và văn minh chính là sự mở mang đầu óc, sáng tạo hoặc tiếp thu có sáng tạo tư tưởng tân thời phù hợp áp dụng trên đất nước mình.
Can đảm lên anh nhé!”.
Mùa thu Phương định vượt rào đem đến cho Hiền Phương sự bất ngờ nhưng không thành. Trước sinh nhật Hiền Phương, Phương vờ vô tư gởi quà và thiệp chúc mừng từ Sài Gòn. Đúng ngày anh đáp máy bay lên cao nguyên. Phương tạt qua chợ Đà Lạt chọn kỹ bó hồng nhung hai mươi hai bông thật đẹp. Mười chín giờ anh hồi hộp xuôi hẻm dốc nhỏ bên cạnh đồi trà. Phương gõ cửa. Những năm phút mới có người bước ra.
- Hiền Phương hả? Nó không trọ lâu rồi… Nó vẫn đi học nhưng cha mẹ nó gọi về Trại Mát ở. Dạo này dưới đấy bận rộn lắm hay sao ấy. Đường xá vòng vèo khó tìm. Hay sáng mai tôi bảo thằng con tôi dẫn cậu xuống.
- Dạ thôi. Cám ơn cô.
- Mà nè, cậu tên Phương phải không… Chút thì tôi quên. Hôm kia bạn của nó ghé lại lấy giùm bưu phẩm. Nhỏ đó nhắn nếu cậu tới tìm thì đưa cậu phong thư này.
Phương thất vọng. Hoa hồng bọc giấy bóng kiếng, kim tuyến lấp lánh như trêu ngươi. Phương dúi bó hoa cho chủ nhà: "Cháu tặng cô". Dợm đi được hai ba bước Phương chột dạ và quay phắt một trăm tám mươi độ. Anh chộp lấy bó hoa vẫn hờ hững nằm trên tay người đàn bà xa lạ.
- Cháu xin lỗi. Cháu nhầm…
- Cái thằng… Tiếng nguýt dài khó hiểu đuổi theo Phương. Giọng người Đà Lạt thánh thót như chim hót.
Phương đứng cạnh cột điện thoại dùng thẻ trước Đại học Đà Lạt và căng mắt đọc lá thư của Hiền Phương. Chiếc đèn cao áp bên đường già nua. Ánh sáng không những quá yếu ớt mà còn bị sương hút gần hết. Vỏn vẹn vài chữ: "Em không chơi với anh nữa. Anh anh ăn gian quá đấy! Bây giờ đang là trung thu. Một mùa rưỡi sau anh mới được gặp em… Ngoéo tay rồi mà!"
Phương vừa bực vừa buồn vừa ngạc nhiên. Anh buộc cẩn thận bó hoa trong hộp điện thoại. Phương lật ngược tờ giấy in câu "chúc mừng sinh nhật". Anh nắn nót viết rồi đồ đi đồ lại nét chữ thật đậm: "Nếu bạn không phải là Hiền Phương xin hãy để hoa chờ chủ. Cám ơn!". Lời nhắn được treo ở chỗ dễ nhìn nhất, bên cạnh cái miệng cười rất dễ ghét của tấm hình quảng cáo kem đánh răng.
Đêm đó Phương quá giang chuyến xe chở thư của bưu điện về Sài Gòn. Gối đầu trên các bao tải anh ngủ rất ngon. Trong mơ Phương thấy mình và Hiền Phương bơi thiên nga qua mặt hồ xanh trong của thung lũng Tình yêu. Họ đến mảnh rừng vắng lặng bờ bên kia. Hai người chơi đuổi bắt vòng vèo dưới gốc thông cổ thụ. Cứ mỗi lần Phương sắp chạm vào Hiền Phương là nàng biến mất. Thay vào khoảng trống là bó hoa sinh nhật. Những nhánh hồng được chăm sóc tốt, gai nhọn rất cứng và dài. Tiếng cười khúc khích của Hiền Phương chẳng ngớt. Phương gạt đi cảm giác đau nhói giữa bàn tay để nhận lấy cái nhí nhảnh của Hiền Phương. Miệng anh vừa cười vừa méo trông hài hết mức.
…Mười bảy giờ ngày 31 tháng 12 năm 2000, buổi liên hoan cuối năm mở màn bằng tiếng nổ khăn lạnh. Phố nhậu Thi Sách sắp tàn thời, quán mở quán đóng. Vỉa hè quang đãng và đã hết cảnh lôi kéo, giành giật khách huyên náo của đám cò mồi. Bia sùi bọt trên mép người. Một… hai… ba… dz..ô..ô..ô… Phương chưa lần nào tiêu hóa được lối nâng cốc kỳ quái của Sài Gòn "ba trăm lẻ ba năm"!. Anh khép miệng, tì tì uống và tâm niệm sẽ cố quên một năm tăm tối cùng viễn cảnh chưa đến lúc sáng sủa trong cơn say. Những lời chúc ớn lạnh, vô nghĩa và sáo rỗng. Con người cứ thay nhau sử dụng vài câu nói mòn vẹt, thế hệ này qua thế hệ khác. Nổi gai ốc và buồn nôn.
- Chú mua hoa hồng tặng cô đi chú.
- Xin lỗi cháu, "cô" của chú phải gọi cháu bằng chị đó. Rất tiếc cô ở xa quá.
- Nè Phương, cuối năm em Đà Lạt ra trường là đón nàng về dinh luôn há. Một chầu nhậu ve sầu nha - Giọng lè nhè quàng vai Phương - Mua đi, mở hàng cho "cháu" nhi đồng cụ.
Phương chọn cành tươi nhất, cẩn thận nhúng vào cốc bia và rẩy sạch. Anh ngả nghiêng rứt từng cánh hoa cho vào miệng và nhai nuốt ngon lành: "Xin gởi em bông hồng đỏ thắm qua bưu cục nỗi nhớ!". Câu nói cực sến nhưng bàn tiệc vẫn vỗ tay rầm rầm.
- Hiền Phương phải không? Anh mong điện thoại em quá chừng. Em gọi từ đâu mà số lạ vậy?
- Đây có phải là số máy…
- Dạ đúng, tôi là Hoài Phương. Xin lỗi tôi đang tiếp chuyện ai đấy ạ.
- Tôi là dì ruột của cháu Hiền Phương. Nó đang chuyển dạ tại khoa sản bệnh viện Đà Lạt.
Phương cứng lưỡi. Giọng phụ nữ:
- Nó kiên quyết không khai cha đứa bé là ai cho đến lúc nãy. Bác sĩ bảo con so sinh non. Cuộc phẫu thuật lành ít, dữ nhiều. Cơ sở y tế và thầy thuốc ở đây khó chống đỡ nổi sự phức tạp trong trường hợp này. Đã quá muộn để chuyển xuống Sài Gòn. Con anh cần có cha nếu chẳng may mẹ nó không qua khỏi.
- Thưa dì cháu có lỗi. Cháu sẽ… Phương lắp bắp. Bà Dì cắt lời anh:
- Gia đình chúng tôi túc trực tại bệnh viện ba ngày nay. Cha mẹ nó quá mệt mỏi để bắt lỗi hay hỏi tội anh. Anh đi mau cho!
Máy cúp. Phương cố nghe những tiếng tít tít xa xăm. Hình như nó vọng tới từ cõi cổ tích đã tuyệt chủng.
- Trời ơi tôi sắp có con - Phương bật dậy và thốt lên trong niềm xúc động không thể kiềm chế.
- Con trai hay gái? Ai đó hỏi.
- Một con người. Một tâm hồn. Một khối óc Á đông ra đời để nối tiếp hàng ngàn năm văn hóa của tổ tiên, tuy lúc hưng thịnh, khi yếm thế nhưng chưa bao giờ bị diệt vong. Con người ấy xứng đáng với chữ con người hơn bao giờ hết. Thế hệ ngày mai phải được và sẽ được sống trong tình yêu thương đồng loại, trong hòa bình, tự do…
Phương quá say rồi. Anh bước khỏi bàn nhậu nhớp nhúa. Miệng anh lảm nhảm, chân xiêu vẹo hướng về bến xe du lịch Đông Du.
"…Hiền Phương ơi, mẹ con em sẽ qua khỏi, sẽ an toàn tuyệt đối. Cha sẽ đặt tên con là Linh Phương. Mẹ Hiền Phương là vẻ đẹp say ngủ của nàng công chúa kiều diễm giữa rừng rậm hoang sơ, đầy gai nhọn và thú dữ. Con được hoài thai bên bìa cánh rừng thế kỷ hai mươi tang tóc loạn ly. Thế kỷ man rợ ẩn tích trong những thành tựu khoa học kỳ vĩ. Thế kỷ bạo tàn, nước mắt hòa với máu, mỗi tháng đều có chiến tranh nổ ra, tự dối trá bằng nhiều tên gọi mỹ miều, vô cảm nhưng hết sức mị dân. Thế kỷ của bọn giết người hàng loạt vì danh và lợi, được tôn vinh là anh hùng. Thế kỷ của nhận thức phũ phàng, con người chợt hiểu thiên địch lớn nhất của mình chính là mình. Thế kỷ nhan nhản học thuyết. Mỗi triết gia tự cho mình là ông trời toàn năng, tự cho mình quyền cưỡng đoạt, lừa phỉnh đồng loại bằng bánh vẽ nhân quyền, tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái và cơ man giáo điều, khẩu hiệu. Thế kỷ không biết thay cừu địch muôn đời bằng tình yêu thương, chỉ cần lợi ích đem lên bàn cân đong đếm. Thế kỷ ngạo mạn, con người chà đạp không thương tiếc bà mẹ tự nhiên. Họ cày xới loang lỗ mặt địa cầu bằng hàng ngàn vụ thử bom nguyên tử, bằng cách hủy diệt gần hết những cánh rừng nguyên sinh đất mẹ từng nuôi nấng. Biết bao thành phố công nghiệp lởm chởm ống khói xám đã xé toạc tấm áo ozone hằng chở che cho mẹ. Thế kỷ của những căn bệnh thể xác và nhân phẩm vô tiền khoáng hậu mang mầm mống tuyệt diệt chúng sinh. Thế kỷ băng hoại. Con người trở thành nô lệ của nhục cảm ti tiện. Thế kỷ nghèo đói lạc hậu. Tám mươi phần trăm nhân loại lao động cơm không no, áo chưa đủ ấm, làm kiếp trâu ngựa phục dịch hai mươi phần trăm còn lại. Thế kỷ đớn hèn xoay quanh đồng tiền, nỗi ô trọc truyền kiếp của hành trình văn minh. Không có ý tưởng mang tính thời đại hoặc hơn thế để khuất phục quyền lực cực đoan âm thầm nhuộm đen mặt đất trong bóng đêm trăm năm cũ..."
"…Nhưng con ơi, cha không hề ân hận khi được sinh ra và lớn lên trong một phần ba chuỗi ngày ảm đạm ấy. Thẳm sâu nơi góc tối tăm nhất của mỗi trái tim nhân loại luôn là mảnh vỡ sót lại của tâm linh, của lương tâm. Từng phút từng giây, lớp vỏ bọc bền vững của siêu ngã hướng thiện bị khứa đứt một cách kiên nhẫn. Hãy nhận lấy thế kỷ của con với tất cả anh linh bất tử mà tiền nhân để lại. Hãy đứng lên đạp đổ hết những thiên đường giả trá, lòe bịp và vờ vĩnh ngây thơ thần bí. Thiên đường duy nhất của ta là nơi ta đang sống. Dù cuộc sống đêm ngày chật vật rên xiết trong phiền toái, bất mãn, thậm chí tủi nhục và ươn hèn, đó vẫn là cuộc sống đáng sống nhất nếu còn nguyên khát vọng, hoài bão và lòng nhân từ chưa kịp mai một…"
"…Bây giờ thì cha chẳng cần tự hỏi cha có thực lòng yêu mẹ con không. Cha từng nghĩ gia đình, con cái là điều tầm thường nhất mà người ta dễ dàng tìm được. Nhưng cha đã lầm. Tình cảm của cha dành cho mẹ con có thì tốt, mà chỉ mới chớm nở cũng chẳng sao. Tất cả đang ở đằng trước. Tình yêu tìm được sau hôn nhân luôn bền chắc. Nó sẽ biến gia đình thành tổ ấm, thành nơi trú ngụ an toàn sau biết bao trúc trắc, bực dọc ngoài xã hội. Ngày mai cha buộc phải bắt đầu, buộc phải đứng lên từ thất bại hôm qua. Cha không còn đơn độc. Chúng ta có ít nhất là ba người. Ba người lúc nào cũng mạnh mẽ hơn một người là hiển nhiên! Qua mỗi vấp ngã cha thấy mục tiêu mới lớn lao thêm chút nữa. Lần này mẹ Hiền Phương và con tạo nên sự khác biệt không thể so sánh. Hãy đón nhận cuộc đời bằng tiếng khóc con nhé. Người ta cười trước niềm vui hạn chế và chỉ khóc với hạnh phúc tột bậc, hoặc ngược lại…"
"…Chẳng hề có kiếp người nào trong hàng tỉ kiếp người đã đến và đi qua mặt đất này là vô dụng. Mỗi sinh linh đều mang nặng trên vai sự thống khổ của nhân gian, nỗi đớn đau của con đường truân chuyên tạo dựng nhân cách. Gánh nặng kia dù được khải niệm rõ ràng như trong trường hợp của Lão Tử, Khổng Tử, Thích Ca Mâu Ni, Muhammad, Jesus hay vẫn còn bàng bạc vô thức giữa những cuộc đời không tên đều giá trị như nhau. Phải tự hào về sự đồng đẳng của mình giữa vạn vật nhưng hoàn hảo hơn vạn vật ở nhận thức sinh tồn và ý nghĩa cuộc sống…"
"…Linh Phương ơi, của hồi môn cha tặng con chỉ là mớ niềm tin đáng ngờ nhưng được chuyển tải bằng con đường huyết thống không bao giờ nhầm địa chỉ…"
- Anh Hai về đâu.
- Tôi lên Đà Lạt.
- Anh Hai thuê hẳn một chiếc xe cho lẹ.
- Đúng, một chiếc xe tốt nhất, chạy nhanh nhất.
- Nhanh lắm cũng phải năm tiếng.
- Nếu quá năm tiếng chưa tới Đà Lạt thì đừng đòi tiền nhé.
- Có liền… có liền. Thế kỷ hai mốt muôn năm!
Phương dần tỉnh rượu trên con đường hun hút hướng lên Đà Lạt. Chiếc xe lầm lũi nuốt những khoảnh khắc cuối cùng của trăm năm cũ. Mênh mông lòng người, mênh mông đêm tối. Tiếng bánh cao su xiết xuống mặt đường. Vũ trụ thu hẹp bằng tầm sáng đèn pha. Cuộc vượt cạn của thời gian vô cùng đớn đau trong hoài niệm về những năm tháng đặc quánh bóng đêm. Hiển nhiên chúng ta sinh ra đời để nhận lấy khổ đau, mang theo khổ đau và nếm trải nó như hành trang không thể thiếu trên đường về với chân lý và hạnh phúc. Thế kỷ đã qua chỉ có mỗi khổ đau là báu vật, là cái còn lại, là giá trị vĩnh định cho mọi thời cuộc. Đáng buồn thay!
Và đáng buồn hơn nữa khi Phương xót xa tự trách: Bé Linh Phương sẽ ra sao nếu Hiền Phương không đồng ý để gia đình điện thoại cho anh giữa cơn nguy cấp? Phương có phải là kẻ vô tình, chẳng chút thiện chí với chính giọt máu của mình?
"…Linh Phương ơi, hãy tha lỗi cho cha! Mong con đừng phủ lên thế kỷ xấu xa của cha sự khinh bỉ vô phương bào chữa. Khi người ta chấp nhận mặt trái và bóng tối như một phần không thể không có thì từng búp xanh nhỏ nhoi giữa bình minh ngày mai sẽ muôn phần đáng quí, đáng trân trọng. Cái xấu không còn là cái xấu nếu ta đã vẽ được hình hài của nó… Con người sở hữu hai loại bản năng là bản năng sinh tồn và bản năng chết. Bản năng chết chứ không phải bản năng tìm đến cái chết, bản năng tự hủy diệt con à. Bản năng sinh tồn đã tạo ra con. Tình yêu cha dành cho con vừa thăng hoa khỏi tiềm thức. Mong rằng tình yêu ấy sẽ biến tất cả xấu xa của thế kỷ hai mươi thành thứ bản năng vô hại, bản năng chết. Với sự ra đời của con trong bình minh thiên niên kỷ, cha mong mình sẽ trút được gánh nặng, gánh nợ của thói đời ô hợp lố lăng mà chính cha là thành tố không thể phủ nhận…"
Bên kia bóng đêm là thế kỷ hai mươi mốt, một con số vô tình, là bình minh như mọi bình minh từ thuở khai thiên lập địa. Nhân loại vẫn nôn nao chờ đón bởi đã gởi gắm vào đó khát vọng về một thế giới tốt đẹp hơn, nhân tính nhiều hơn. Và Phương là một trong số ít người mãn nguyện nhất hành tinh. Chắc chắn Hiền Phương sẽ mẹ tròn con vuông. Anh biết mình sẽ làm tất cả để ngày mai mãi mãi là thời điểm đáng nhớ của nỗi khát khao đăng quang, của hạnh phúc và thương yêu. Có tiếng lòng cất lên, êm ái du dương như nét thơ ru Phương vào giấc miên du lâng lâng, nửa tỉnh nửa mê.
… Bé Vương Linh Phương đón Thiên niên kỷ mới bằng hai đám tang cùng lúc. Mẹ Hiền Phương không qua khỏi cơn hậu sản, cha Hoài Phương đột quỵ do cảm mạo dẫn đến trụy mạch. Ban đầu người nhà định lén mai táng họ trên mé đồi trong khu vườn của gia đình Hiền Phương nơi Trại Mát. Tuy nhiên câu chuyện "Đồi thông hai mộ" buông tuồng thê thiết của cao nguyên Lâm Viên đã không bị nhân bản. Đêm trước ngày đưa tang mọi người có giấc mơ giống nhau đến kỳ dị. Trong mơ hai âm hồn mong muốn được hỏa thiêu và rải tro cốt xuống thác Cam ly. Dòng thác mang cái tên rất hay ấy dạo gần đây luôn nồng nặc mùi nước thải của gần nửa cư dân Đà Lạt thời bê tông hóa. Hy vọng, vượt qua bao thác gềnh về xuôi, nếu không ra được với biển, cát bụi một đời sẽ thành phù sa, ít ra cũng nuôi mớm cho khóm Cúc quỳ dại nào đó bên mép suối hoang vu. Những cánh hoa vàng đến nao lòng, toả ra như tia sáng mặt trời chứa đựng khát khao vô danh sau những năm tháng háo danh, tầm danh nông nổi của kiếp người khinh mạn…
- Dậy đi cậu, tới Quảng trường Hòa Bình rồi. Bệnh viện đi đường nào?
Phương choàng tỉnh mà miệng còn lẩm bẩm Cam ly… Cúc quỳ…
- Anh vòng sau lưng nhà hát, quẹo phải lên dốc Hải Thượng - Phương trả lời tài xế trong khi đầu óc vẫn váng vất vì giấc mơ ban nãy.
"Sinh dữ, tử lành" Phương tự trấn an. Anh nhớ lại rành rọt tất cả suy nghĩ của mình từ lúc bắt đầu bước lên xe. Chẳng minh xác được ranh giới giữa chiêm bao và đời thực. Cũng có thể anh không còn thời gian. Cổng chính khu điều trị nội trú Bệnh viện Đà Lạt hiện ra trước mũi xe.
- Chị làm ơn chỉ giùm… Câu nói của Phương lẫn vào nhịp thở dồn dập.
- Nhập viện ngày nào, tên tuổi?
- Dạ, Trần Thị Hiền Phương - Hai mươi mốt tuổi. Vợ tôi vô đây ba ngày rồi...
- Đàn ông thật đáng sợ. Đang mổ. Phòng 112, lầu trên, bên trái.
Không kịp trao lời cảm ơn Phương phóng lên cầu thang ba bậc một. Dọc sống lưng anh xuất hiện luồng phong hàn tê tê. Cơ thể Phương biết thế nhưng tinh thần thì không. Anh đã bỏ quên cái lạnh tám độ bách phân, ngoài lớp vải phong phanh của chiếc sơ mi tay ngắn vẫn mặc từ buồi chiều Sài Gòn của thế kỷ hôm qua.
Dãy hành lang ngút mắt. Khi bảng đèn "Phòng giải phẫu" nằm dưới số 112 đập vào mắt Phương cũng là lúc anh nghe tiếng khóc sơ sinh òa lên. Sững người, anh hét đến vỡ cả giọng:
- Con tôi… con tôi khóc. Khóc… chứ… không… cười…
Gần như đã cố gắng quá mức, Phương khựng lại, đầu óc quay cuồng vô định. Mọi vật xung quanh anh đang chuyển động. Bê tông, xi măng, sắt thép nứt toác ra và đổ sập xuống. Bình minh tràn qua miền cổ tích mù sương. Mang theo nỗi tuyệt vọng, Phương bay về phía chân trời bắt đầu ửng hồng. Anh không thể giữ lại tiếng khóc của con mình, để làm điểm tựa cho tất cả giá trị của những ngày đang tới. Cột mốc chói lòa: mùng một tháng giêng năm hai ngàn không trăm lẻ một.
Trương Thái Du
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Miền cổ tích hoang hư 2

Miền cổ tích hoang hư 2 7 - Ngọ... Chiếc tàu thu mua hải sản ném Phương lên bờ tại cảng cá tanh hôi và ồn ào của Hải Phòng. Lôi thôi lếch ...