Tú đã
cãi nhau với anh trai, Tú đã dẫm lên trái tim của mẹ và của những chị gái, Tú
đã bịt tai lại trước những tiếng gọi thảng thốt của em, Tú đã ngoảnh mặt đi
trước những dòng lệ tuôn rơi của bà, vào ngày đó, Tú đã dứt áo ra đi như thế.
Có một cái gì đó cứ xốn xang mãi trong lòng. Tại sao mọi việc không thể êm đẹp
hơn? Tại sao không là những lời ca tiếng hát cất lên đưa tiễn người lên đường?
Tại sao phải gây gỗ nhau khi bắt đầu một việc tốt đẹp như thế?...
Bốn giờ
sáng, Tú soạn ít quần áo và giấy tờ, mở cửa rồi nói lớn: “Con đi đây!”. Ngay
lập tức có nhiều tiếng chân chạy ra, tiếng mẹ hỏi Tú:
– Con
đi đâu?
Tú đáp:
– Con
đi Châu Đốc.
Mẹ hỏi
dồn:
– Con
có quen ai không? Con có tiền đi xe chưa?
Tú đáp
qua loa và bước chân ra. Không ai dám đến sát bên Tú cả, chỉ có những tiếng
khóc và những ánh mắt dõi theo…
Tú đi
Châu Đốc, là phải vô Sài Gòn, rồi qua bến Miền Tây đi tiếp. 17 tuổi rồi, nhưng
Tú chưa từng đi xa nhà quá 50 cây số. Sài Gòn, nghe nói là một nơi xa lắm, lớn
lắm. Còn Châu Đốc, nghe nói ở đó có nhiều người tu lắm, chắc xứ đó phải thật
huyền bí. Trên xe “ca” Tú đã mửa rất nhiều, đầu óc lừ đừ, trong bụng chẳng muốn
ăn gì. Đường phố Sài Gòn ngang dọc nhiều quá. Hai bên đường có những cây to,
cao, che mát rượi. Trên xe về Châu Đốc hầu như Tú chỉ ngủ. Cũng có vài lúc Tú
thấy những hồ sen, những cây cầu, những đám dừa xanh mát…
Đêm đầu
tiên xa nhà Tú ngủ ở núi Sam, kế bên chùa Tây An. Một bà cụ thương tình
cho Tú mượn một tấm lát, nhưng miệng thì không ngớt mắng chửi mấy đứa con
vô ơn gì đó của bà. Tú lấy giỏ làm gối, ngủ say sưa bên hiên chùa Tây An. Sáng
hôm sau Tú qua chùa Bà chơi, rồi leo lên núi. Ôi chao, nào chùa, nào am, nào
thất, thờ cúng đủ Thánh, Thần, Tiên, Phật. Gần trưa, Tú đã lên tới trên núi. Tú
đi ngang một chỗ hơi bằng, có một chòi tranh, hai ông lão mặc đồ bà ba màu
đen, tóc búi, râu lòa xòa, đang ngồi chơi. Một bà cụ vừa
xách lên một giỏ đồ ăn. Hai ông lão chỉ Tú cười với nhau:
– Khà,
khà, anh chàng này cũng muốn đi tu đây.
Núi Sam
chỉ để lại trong Tú những ấn tượng mờ nhạt như thế. Ăn trưa xong Tú lại đi
tiếp. Đêm thứ hai Tú ngủ ở bưu điện Nhà Bàng. Khuya, những người bắt ếch tập
trung về chợ Nhà Bàng, ngay trước bưu điện. Những người bán khoai mì cũng đem
ra mấy rổ khoai nóng hổi, thơm lắm. Cảnh mua bán ếch tấp nập thật lạ lùng đối
với Tú. Những ánh đèn loang loáng, những chiếc xe đạp chở thùng ếch phía sau…
Sáng
sớm ngày thứ ba Tú lại đi tiếp. Sau khi lên dốc là qua những cánh đồng, xoài,
lúa, thốt nốt. Có một người Miên đeo ống leo cây thốt nốt thoăn thoắt. Con
đường Tú đi qua nằm giữa những cánh đồng lúa. Đường chưa trải nhựa, bụi đỏ mù,
nắng chói chang. Tú đi bộ dưới ánh nắng gắt, chỉ một ngụm nước thôi cũng thấy
thèm. Trên con đường thiên lý Tú đang đi qua. Khi đến chỗ có nhà dân, Tú ghé
vào xin nước. Một lu nước mát, một gáo dừa nước, thì ra người ta để sẳn trước
nhà như thế. Có đoạn, đường đi ngang qua một chùa Miên. Tháp chùa nằm ngay sát
bên trái đường. Rồi đến một cái chùa mà trên cổng có những nàng tiên cá. Tú ghé
vào chùa, thấy thấp thoáng những nhà sư mặc đồ đỏ cam rực rỡ. Có một cái cây
lớn tỏa bóng mát rượi kỳ diệu. Lòng Tú xúc động vô vàn. Đâu như Tú đã biết cây
Bồ-đề từ kiếp nào vậy. Kính cẩn ngẩng nhìn cây một lát rồi Tú lại đi. Chỉ có
cây Bồ-đề kêu gọi Tú. Cái chùa này không hề kêu gọi Tú. Và các sư cũng vậy…
Trưa
ngày thứ ba Tú đến một ngã ba. Sau khi hỏi thăm đường đi, Tú rẽ về hướng Ba
Chúc. Buổi chiều, mệt lắm rồi, Tú đi qua những thôn xóm. Có nhiều bụi trúc mọc
hai bên đường xen với những tảng đá to. Người ta dùng chày giã những cọng gì
đó. Tiếng chày, tiếng người nói, chó và trẻ con chạy dỡn, đây là thôn xóm yên
bình. Khói bếp nhà ai bốc lên bay vào mũi Tú. Bóng trời chiều đang khuất sau
lưng. “Trời ơi, sao mình lại bỏ nhà mà đi! Mình đi đâu?”... Trong thoáng chốc
Tú đã xúc động như thế. Nhưng Tú vẫn đi, đi khắp nơi để tìm thầy học đạo.
Đạo là
gì, Tú không định nghĩa được. Chỉ biết rằng Tú có thể trực nhận được những gì
thiêng liêng, cao thượng, như vừa rồi Tú đã nhận ra cây Bồ-đề đại thọ vậy. Khi
bóng nắng tắt hẳn, tối đen mọi nơi, thì Tú đến Ba Chúc. Người ta chỉ cho Tú một
cái chùa. Những ngôi chùa cổ ở Nam Bộ không có mái lượn dài. Đi qua cây cột cờ
trước chùa, Tú bước lên một hành lang:
– Có ai
ở chùa không?
Tối
thui, và chỉ có tiếng ếch nhái. Bên hông chùa có nhiều người nằm trong một cái
mùng lớn. Nhưng vì không ai nói gì nên Tú lại đi. Đến hai ngày sau Tú mới nghe
nói đó là những đầu lâu và xương người bị giặc Pôn-pốt giết. Không có giấy tờ
tùy thân, Tú đã bị công an xã bắt, còng chân nằm trên sàng một đêm. Đêm đó Tú
ngủ ngon lành chứ chẳng biết gì khác. Sáng hôm sau, khoảng tám giờ, những người
công an tra hỏi Tú một hồi nữa rồi cho Tú đi. Sau khi bị phiền phức vì những
người này, Tú liền lên xe đi về thị xã Châu Đốc, trong lòng không còn mơ nghĩ
về một vị đạo sư nào ở vùng này nữa…
Tú đã
về nhà làm giấy chứng minh nhân dân. Một tháng chờ nhận giấy chứng minh rồi
cũng qua mau. Cầm tờ giấy trong tay, Tú không quyết định được sẽ đi đâu bây
giờ. Nhưng Tú đã lỡ nói với gia đình rồi. Đã có giấy chứng minh thì phải đi
thôi. Nhưng xứ Châu Đốc huyền bí đã làm Tú vỡ mộng. Chắc vị đạo sư của Tú không
ở vùng đó. Trong khi do dự, Tú đã lên nhà chị Cả ở một thời gian. Thỉnh thoảng
Tú đi đến các chùa trong phạm vi thành phố. Được người quen giới thiệu về
thượng tọa Thanh Từ, Tú đã hai lần xuống hồ Tuyền Lâm. Nhưng cả hai lần Tú đều
không tiếp xúc được với thượng tọa. Lần đầu Tú vào gần đến nơi thì gặp xe
thượng tọa đi ra. Lần thứ hai, Tú ở trong đó vừa đi ra thì lại gặp xe thượng
tọa đang vô. Nhìn chiếc xe jeep chở thượng tọa chạy ngang qua, Tú nghĩ:
– Chắc
mình không có duyên ở đây.
Hơn một
năm ở nhà chị Cả rồi Tú lại đi. Lần này Tú ra hướng miền Trung, ngược lại với
miền sông nước Nam bộ. Sáng hôm đó, sau chín tiếng ngồi trên xe đò, Tú đã có
mặt ở Bình Định. Có bao nhiêu thứ trong ruột Tú đã nôn mửa ra bằng hết trên xe.
Nên khi xuống xe thì Tú quá mệt mỏi. Những người bà con niềm nở đón mừng Tú.
Quê hương Bình Định, mỗi thôn làng theo một nghề truyền thống. Có thôn làm nghề
rèn, có thôn làm nhang, có thôn trồng lúa và làm gốm, có thôn làm bánh tráng… Ở
ngoài quốc lộ thì mọi người buôn bán, sửa xe, may vá… Tú dấu không cho mọi
người biết mục đích về Bình Định của mình. Đến ngày thứ ba, anh Tám dẫn Tú đi
chơi. Hai anh em đạp xe đi cùng mọi nẻo. Khi đến chùa cổ Thập Tháp, tranh thủ
lúc anh Tám đứng xa, Tú đã hỏi xin thầy tri khách cho mình ở lại tu. Thầy đáp
là thượng tọa Kế Châu đã nhập thất, các thầy không thể tự ý thâu nhận đệ tử
được.
Trên
đường về, anh Tám hỏi Tú:
– Em
muốn đi tu à?
Tú gật
đầu. Anh Tám có vẻ suy nghĩ. Tú rất tin tưởng ở sự thông cảm của anh. Ở bên anh
Tám, Tú cảm nhận được sự ấm áp, sự quan tâm chia sẻ.
Hôm sau
Tú đạp xe một mình ra chùa chơi. Tịnh xá Ngọc Duyên nằm gần bên trường học và
nhà máy nước đá. Cảnh tịnh xá cũng yên tĩnh như ở Thập Tháp, tuy có chật hơn.
Cổng tịnh xá nhỏ bé. Những lá vú sữa lấp loáng trong nắng sớm. Đức Phật
Thích-ca ngự trong bảo tháp ở giữa chánh điện. Chánh điện hình bát giác, vật
liệu đơn sơ. Phía sau tịnh xá có một cái giếng nhỏ và sâu. Tú vãn cảnh một lát
rồi quay ra. Ngay sát cổng có một cái cốc nhỏ. Một vị sư già đang ngồi im lặng
trong cốc. Cây lá, người vật thảy đều lặng yên tự nhiên. Sự im lặng này kêu gọi
Tú, khiến Tú xin phép nhà sư cho được ngồi chơi một lát. Vị sư gật đầu. Tú lượm
cái ghế đẩu ngồi sát bên ngoài cốc. Nắng sớm chiếu xuyên qua kẽ lá thật đẹp.
Tiếng chim chóp mào hót trong veo. Còn đâu sự ngăn cách để gọi là “con người và
thiên nhiên” nữa. Thật kỳ diệu, thật thảnh thơi êm ả vô cùng!
Ngồi
như thế một lát đã sung sướng lắm rồi. Bất giác trong tâm Tú khởi lên một ý
tưởng, mà sau này chính Tú cũng thấy là kỳ lạ. Tú chợt nghĩ:
– Ông
già này hiền quá, làm sao làm thầy của mình được!
Nghĩ
thế, Tú liền đứng dậy chắp tay xá chào nhà sư rồi đi ngay. Tuy rất cảm mến cảnh
ấy, nhưng tâm của Tú cảm thấy rằng đó chưa phải là chỗ cần tìm.
Tối hôm
đó, khi đi chợ về chị Hai bảo:
– Hồi
sáng đứa nào lên chùa đó, bây?
Thì ra
việc Tú lên chùa đã đến tai chị. Tú liền nói với chị Hai ý nguyện đi tu của
mình. Nhưng chị Hai không dám lên chùa Thập Tháp xin cho Tú. Chị sợ dì Bảy, mẹ
của Tú trách. Do bà con ngại, không giúp được, nên Tú muốn đi nơi khác. Ở chơi
quê ngoại thêm mấy bữa nữa rồi Tú đi về. Các anh chị đưa Tú ra tận xe, mua vé
cho Tú về tận nơi. Tú tìm cách xuống xe dọc đường. Sau khi hỏi thăm đường đến
Nha Trang, Tú đã xuống xe ở ngã ba Thành. Thành phố biển xinh đẹp này đã không
có gì kêu gọi Tú cả. Tú đi ngang qua Nha Trang như một người vô duyên.
Đêm đó
Tú đi tàu lửa vào Sài Gòn. Như vậy Tú có thể tranh thủ ngủ trên tàu. Gần năm
giờ sáng tàu đến ga Hòa Hưng. Tú hỏi địa chỉ chùa Từ Nghiêm ở quận 10. Khi đến
chùa, Tú may mắn gặp ngay Huệ Thi, một người bạn cũ. Huệ Thi là một người bạn
gái học cùng khối lớp chín với Tú. Sau khi tốt nghiệp cấp II, lấy cớ về Sài Gòn
học may, Huệ Thi đã nhờ dì xin cho tu ở chùa Từ Nghiêm. Hồi còn đi học, Tú và
Huệ Thi có biết nhau, nhưng chưa nói chuyện với nhau lần nào. Bây giờ gặp Tú,
Huệ Thi vui vẻ xin cho Tú ở tạm trong chùa, lại xin sư bà giúp cho Tú được đi
tu nữa.
Tối hôm
đó, dì của Huệ Thi dẫn Tú qua gặp thượng tọa Trưởng ban. Sau khi làm lễ thượng
tọa, dì trình bày với thượng tọa điều gì Tú cũng không rõ, tuy Tú quỳ ngay sát
bên. Lát sau ra ngoài, Tú mới được biết là thượng tọa Trưởng ban không nhận đệ
tử xuất gia. Nhưng dù sao thì lòng Tú vẫn thờ ơ, điều đó có nghĩa là chưa đủ
duyên…
Hôm
sau, sư bà viết giấy giới thiệu cho Tú qua một chùa bên quận I. Đến chùa, Tú
trình giấy cho hòa thượng. Hòa thượng xem giấy rồi nhận Tú ngay. Ngài bảo:
– Con cứ ở lại đây. Ở đây con chỉ tu và học mà thôi, không
phải làm gì hết.
Tú chắp
tay xá, cảm tạ lòng từ bi của hòa thượng. Chùa này chỉ có một thầy, một trò.
Nay Tú đến, Minh Thành, người đệ tử duy nhất mừng lắm, bởi vì Thành sẽ có được
một sư đệ. Minh Thành nhanh nhảu dẫn Tú đi xem phòng và kinh sách của mình.
Trong phòng Thành, mọi thứ đều bóng láng, lịch sự, thật tiện nghi. Tú mượn
quyển Hư Hư Lục của
Thành lên lầu I ngồi xem. Tú đọc qua loa vài trang thì đã đến giờ dùng tiểu
thực.
Một
Phật tử bưng lên cho hòa thượng một mâm cơm. Chùa chật, ít người, nên hòa
thượng ra ngay bàn khách ngồi dùng. Xới một chén cơm, hòa thượng đưa lên miệng
và. Ngay lúc thấy hòa thượng lua cơm vào miệng, bỗng nhiên trong lòng Tú khởi
lên một cảm giác bất kính. Tú liền tự nhủ:
– Nếu
mình đã không kính người ta thì mình không nên ở đây.
Không
kịp dùng cơm, Tú lập tức xin phép hòa thượng về quê làm giấy tạm vắng. Và từ đó
Tú không bao giờ trở lại chùa này nữa.
Đêm đó
Tú nghỉ ở Từ Nghiêm. Tú cũng không nhớ mình đã giải thích gì với mọi người
trong chùa. Khi vắng vẻ một mình, Tú đến quỳ dưới chân Thánh tượng đức Quán Âm.
Tú thành kính lạy đức Bồ-tát rồi nguyện:
– Kính lạy đức Bồ-tát! Xin đức Bồ-tát hãy giúp đỡ cho con.
Con muốn xuất gia học đạo giải thoát trong kiếp này. Nhưng con đã đi nhiều nơi
mà vẫn chưa được như ý nguyện. Có nơi con muốn ở lại thì người ta lại không
nhận. Có nơi người ta chịu nhận thì con lại không muốn ở. Xin đức Bồ-tát dẫn
con đến nơi cần phải đến. Xin đức Bồ-tát hãy xui khiến ba mẹ con cho phép con
đi…
Tú lạy
tạ đức Bồ-tát rồi đi ngủ. Qua sớm ngày sau Tú yên tâm đi thẳng về nhà, lòng
không còn có ý đi tìm bậc Đạo sư của mình nữa. Mọi việc sẽ có ơn trên sắp đặt,
Tú đinh ninh như thế.
Qua một
mùa nước nổi ở Châu Đốc, khi ấy núi Sam như một hòn non bộ khổng lồ nổi lên
giữa những cánh đồng ngập nước mênh mông; lại qua thêm một mùa Trung Thu ở Bình
Định, trăng sáng rỡ trên những lũy tre làng, con sông Cây Da phơi lòng cát
trắng, sức sống còn lại chỉ bằng một dòng suối lặng lẽ chảy dưới trủng sâu;
tròn hai năm bôn ba tìm thầy học đạo, Tú đã đi nhiều nơi, dựa vào trực giác của
mình mà đến mọi nơi. Trọn một tấm lòng Tú đã ra đi. Nơi cõi vĩnh hằng có chư
Phật, chư Bồ-tát, Thánh nhân. Còn nơi nhân gian này có các bậc Đạo sư, có những
người đang tìm thầy học đạo, có thiện và có ác, có hết thảy những gì cần phải
xảy ra…
Ba, mẹ,
mọi người đều rất vui khi thấy Tú trở về. Chắc mọi người đã nghe nói về việc Tú
làm ở Bình Định và ở Sài Gòn rồi, nên gia đình không ngăn cản Tú đi tu nữa.
Trái lại, ba và mẹ còn bàn với nhau là nên cho phép con mình được đi, vì như
thế thì thỉnh thoảng nó còn trở về thăm mình. Và hai người đã bàn là nên tìm
chùa gần nhà cho Tú tu, chứ đi xa quá thì gia đình sẽ ít có dịp đi thăm Tú.
Những
người thân của Tú chỉ biết được hai chùa, họ bảo Tú chọn một. Tú đã chọn ngay
ngôi chùa ở xa hơn mà không hề đắn đo. Những ngày đó, và đến ngày ba dẫn
Tú đi tu, bầu không khí trong gia đình có phần ấm cúng hơn hai năm trước. Tuy
nhiên mẹ Tú vẫn khóc. Cả một đàn con, khi cho bớt một đứa mẹ vẫn đau lòng.
Nhưng thật ra thì sớm muộn gì đàn con cũng trưởng thành, cũng phải ra đi mà
thôi.
Trên
thế gian này, có biết bao bậc cha mẹ đã đau khổ rất nhiều khi một đứa con ra
đi. Từ bỏ đời sống thế tục, đứa con ấy ra đi học Đạo giải thoát. Sự ra đi đó là
do những động cơ thật thiêng liêng thúc đẩy lòng con. Nhưng mẫu tử tình thâm,
phụ tử tình thâm, khiến cho các bậc làm cha làm mẹ chỉ thấy rằng con mình còn
bé bỏng lắm. Làm sao mà một đứa con thật thà, hiền hậu, lại có những lý tưởng,
những ước nguyện cao thượng được? Chắc rằng con mình đã bị thất vọng về gia
đình, về bạn bè, về xã hội… đó thôi. Những bậc làm cha làm mẹ cứ nghĩ như thế,
và cảm thấy ray rứt, cảm thấy xót thương con hơn nữa. Trong khi đó, từng đêm,
từng đêm, những ước nguyện từ tiền kiếp vọng về trong tâm con, thôi thúc con ra
đi để sống một đời giải thoát!
Vào
buổi sáng ba chở Tú xuống Prenn, nắng ấm rực rỡ, lòng Tú thật hân hoan vô vàn.
Tịnh xá Ngọc Thiền tọa lạc trên một gò đất, có sơn bao thủy bọc. Có một sinh
khí tinh khôi bao phủ khắp tịnh xá. Tú trực nhận được sức sống tự nhiên đó, mặc
dù chưa có ai chỉ dạy cho Tú về điều này, cũng như Tú không thể nói được sự cảm
nhận đó là thế nào. Chánh điện mới đang được xây dựng. Thượng tọa viện chủ đã đi
vắng. Sư quản chúng tạm thời nhận Tú. Tú tạm biệt ba rồi xách đồ vào phòng. Một
cuộc sống mới đang đến với Tú…
Khoảng
năm ngày sau thượng tọa viện chủ về. Sư quản chúng xuống nhà khói bảo Tú lên lễ
thượng tọa. Tú nói:
– Lễ
làm sao, sư?
Sư quản
chúng đáp:
– Thì
cứ chắp tay xá vài cái đi.
Tú theo
sư đi lên chánh điện cũ. Thượng tọa đang ngồi trên một cái ghế thấp, giỏ đồ để
bên cạnh, các sư xúm quanh. Tú đi vòng vào, đến trước thượng tọa chắp tay cúi
chào. Khi Tú ngước lên, thượng tọa đang nhìn Tú mỉm cười. Nụ cười của thượng
tọa mới thân quen làm sao, nó đang cười vào những bôn ba của Tú. Ánh mắt của
thượng tọa không lẫn với ai được, nó đang nhìn thẳng vào lòng Tú. Phải rồi,
không còn nghi gì nữa, đây chính là người thầy mà Tú đã đi tìm! Như thế là quá
đủ. Tú không cần hỏi thầy mình tên gì, cũng không cần để ý xem thầy cao hay
thấp, mập hay ốm… Phải rồi, chính là người này đây!
Nửa
tháng sau, Tú lên lễ thượng tọa xin được đi tu. Thêm nửa tháng sau thì Tú được
cạo tóc. Có niềm vui nào lớn bằng niềm vui được cạo tóc đi tu? Dù là tiểu đăng
khoa hay đại đăng khoa, đối với Tú đều chẳng là gì cả. Mỗi chùm tóc rớt xuống
cát là một niềm hân hoan in đậm trong lòng Tú. Thật là vui sướng biết bao!…
Mười
năm sau, có một nhà sư ngồi nhìn lại chặng đường đã qua… Tú được cạo tóc, được
nhập chúng làm huệ (làm tiểu).
Những ngày tháng làm huệ thần tiên đã trôi qua… Tú được thọ giới làm nhà sư. Từ
khi khoác chiếc y vào thì Tú không còn hồn nhiên nữa… Mười mùa cây hồng thay
lá, mười lần hoa cúc quỳ nở vàng rực núi đồi, nhà sư xét lại thấy mình mười năm
ngu si trong nhà đạo, không hơn gì gần hai mươi năm u mê nơi nhà đời! Thử hỏi
những tranh chấp thiện ác biết bao giờ mới dừng được đây? Sự khôn ngoan lanh lẹ
đâu phải là cách hành xử của một người tu hành chứ?…
Nhà sư ngồi đó. Không có nước mắt chảy, chỉ có lòng chua chát thôi.
Không có sự chán nản, chỉ có lòng chân thành tự hối. Sư đã cầm bút, muốn viết rất
nhiều, nhưng vọng tưởng đúng, sai gì nữa?… Để rồi, trên trang giấy trắng chỉ
còn một bài thơ:
Ngày
xưa tìm đến chốn Cửa Không
Chẳng
tìm chùa, miễu… chỉ theo lòng
Nơi nào
có đạo thì mình ở
Nguyện
được giác ngộ, rõ Tổ tông.
Tháng
lại, năm qua bao lầm lỗi
Nhờ
thầy đưa đẩy thật lắm công.
Nay
mình đầy thẹo mà chẳng tiếc,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét