Thứ Ba, 28 tháng 2, 2023
Hữu Loan - Cây gỗ vuông màu tím
Nhà thơ Hữu Loan đã qua đời ở tuổi 95. Thơ Hữu Loan ở lại với
người đời. Thơ đó “có niềm khát khao cháy bỏng cho một đất nước được tự do, cho
dân tộc được giải phóng khỏi ách đô hộ. Cái sức sống mạnh mẽ trong mỗi tác phẩm
thi ca là ở chỗ phải ghi được dấu ấn trong một thời khắc đặc biệt”, như ông đã
nói và đã làm được. Từ thơ, có thêm một màu là màu tím Hữu Loan. Cây gỗ vuông
màu tím – đó chính là chân dung Hữu Loan đời và thơ.
Có một câu chuyện dài về Covid-19
Có một câu chuyện dài về Covid-19!
Câu chuyện dài về dịch cúm có vẻ như hoàn toàn ngẫu nhiên,
không sớm hơn hay muộn hơn mà xuất hiện ngay Tết Nguyên Đán Canh Tý.
Nhà thơ Bình Địa Mộc
Người phụ nữ trước khi làm mẹ phải làm vợ; trước khi làm vợ
phải làm người yêu; trước khi làm người yêu phải làm cô gái xinh đẹp, dịu dàng,
nết na với quỹ thời gian tính bằng đời người. Đó là câu chuyện dài! Nhưng với đại
dịch Covid – 19 thì câu chuyện ngắn hơn. Chỉ cần sơ ý hắt hơi một cái hay một
cái bắt tay; một cái ôm của người mang mầm bệnh có thể lây lan cho hằng trăm
người khác trong tích tắc vài giây, với phạm vi bán kính 1m². Khoảnh khắc lây
lan nhanh chóng đó diễn ra trong không gian một toa tàu; một hàng ghế máy bay
hay xe khách; một bữa tiệc… Có thể đặt dấu chấm hết cho một niềm hy vọng lớn
lao, được gieo hạt từ cánh đồng lao động cần cù của mấy ngàn người ở một thị trấn;
mấy triệu người ở một tỉnh lỵ; mấy tỷ người ở một quần thể kiến trúc nhân sinh
tồn tại vài ngàn năm sẽ bị hủy diệt trong chốc lát. Đó là câu chuyện đau lòng!
Câu chuyện dài về dịch cúm có vẻ như hoàn toàn ngẫu nhiên,
không sớm hơn hay muộn hơn mà xuất hiện ngay Tết Nguyên đán Canh Tý. Thậm chí
các nước châu Á còn đang kỳ nghỉ Tết; chưa đi làm, công nhân chưa trở lại công
ty; học sinh chưa đi học. Thời khắc này dư âm mùa Xuân nồng nàn còn phảng phất
đó đây! Mùa dịch lại bắt đầu ngay Năm Tài chính 2020, tức vào khoảng giữa tháng
1, đến đầu tháng 2 dương lịch kéo dài cho đến hôm nay. Hậu quả gần 240.000 người
trên toàn thế giới nhiễm bệnh, gần 9000 ca đã tử vong. Số liệu này sòng phẳng
chia đôi, một nửa cho Trung Quốc Đại lục – Quốc gia đông dân nhất thế giới. Quốc
gia được cho là tâm dịch, ổ dịch; nơi phát tán con virus corona đầu tiên gây chết
người. Một nửa thiệt hại còn lại chia cho các quốc gia bên ngoài lãnh thổ Trung
Quốc, mà phần lớn tập trung tại châu Âu. Câu chuyện đến đây không phải dài nữa,
đau lòng nữa mà là rất lan man!
Nói gì thì nói thế giới cũng đã mắc dịch rồi, nhân loại cũng
đã có vài ngàn người chết, vài chục ngàn người đang điều trị, người cách li
theo dõi. Thậm chí có người tháo chạy khỏi nơi cư trú, người kiên trì bám trụ nước
sở tại, người hồi hương về quê. Tuy nhiên nếu ai đó trở về đất mẹ Việt Nam xin
hãy tuân thủ khai báo y tế tại sân bay, đầy đủ và rõ ràng. Nếu có cách li xin
hãy nghiêm túc chấp hành nội quy, quy chế cách li. Nếu ngột ngạt, khó chịu đôi
chút xin hãy thông cảm, đừng đòi hỏi thái quá. Miễn phí mà! Đừng manh động hành
xử cá nhân theo kiểu hoang dã, vô tình phương hại đến cộng đồng. Bởi thời gian
cách li 14 ngày so với “Ba vạn sáu ngàn ngày” thì bõ bèn gì mà hốt hoảng, nhảy
nhót? Xin hãy chậm mà chắc các bạn ạ! Như PTT Vũ Đức Đam – Trưởng Ban Chỉ đạo
Quốc gia phòng chống nCoV trăn trở “Hãy ngồi yên khi đất nước cần bạn ngồi
yên”.
Đồng thời cũng nên hiểu rằng qua đại dịch lần này, chúng ta
thấy rõ các quốc gia, vùng lãnh thổ thuộc khu vực, châu lục khác nhau nhưng bộc
lộ những ưu điểm, khuyết điểm giống nhau về các lãnh vực như kinh tế, chính trị,
tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế… Vô hình chung tạo nên một bức tranh toàn cầu
gồm các gam màu sáng tối, nhợt nhạt, lung linh kể cả ảm đạm được nét cọ virus
Covid – 19 khắc họa mỗi lúc, mỗi nơi một rõ nét, lổn nhổn cung bậc cảm xúc.
Bình tĩnh chủ động; lo lắng, sợ sệt kể cả vụng về, lúng túng trong khâu cách
li, khoanh vùng, dập dịch. Đó là câu chuyện dài của các vị Nguyên thủ Quốc gia
hùng mạnh và chưa hùng mạnh; phát triển và chưa phát triển xoay quanh sự cố khủng
hoảng chiếc khẩu trang y tế, mặc dầu giá trị xuất xưởng của nó chỉ vài trăm đồng
tiền Việt!
Trước sau gì dịch cúm Covid – 19 cũng sẽ chấm dứt. Bởi hàng
trăm, hàng ngàn giáo sư, y bác sĩ, tiến sĩ khoa học khắp nơi trên thế giới về
lãnh vực dịch tễ; y tế đang khẩn trương nghiên cứu chế tạo vaccine đặc trị
virus corona chủng mới này. Các quốc gia có điều kiện kinh tế cũng đã sẵn sàng
chi hằng triệu USD nhằm phục vụ cho dự án thử nghiệm, sản xuất; kể cả bù lỗ cho
doanh nghiệp, chi tiền hỗ trợ cho nhân dân thất nghiệp, hạ lãi suất tiền vay
ngân hàng. Tuy còn sớm nhưng chúng ta có quyền lạc quan, tin tưởng các trường học
sẽ mở cửa trở lại đón học sinh, sinh viên vào học; các công ty tái hoạt động hiệu
quả; các cửa hàng, cửa hiệu mở cửa kinh doanh. Đêm xuống ánh đèn sẽ lung linh
huyễn hoặc trên khắp phố phường. Hy vọng con người sẽ chung tay tiêu diệt con
virus bé nhỏ này, kết thúc chuỗi ngày sống trong hoang mang sợ hãi!
Đó là câu chuyện ở thì tương lai không dài, không ngắn; cứ lấp
ló, thập thò trước mắt chúng ta. Song theo anh, cái mất thì đã mất rồi, không
riêng gì Việt Nam em ạ, mà ngay cả thế giới nói chung, các quốc gia có nền kinh
tế ổn định như Mỹ, Pháp, Anh, Italya nói riêng… Cũng chới với, chênh vênh hà huống
gì mình! Đây thật sự là một đợt Tổng diễn tập Phòng chống Thiên tai Dịch bệnh
trên bình diện quốc tế. Biểu hiện sức nước nào mạnh, sức nước nào yếu, sức nước
nào chưa dâng lên thì thuyền đã úp. Riêng đối với Việt Nam cái được nhiều nhất
theo anh là tính nhân văn; tình đồng loại, tình người vốn đã ngủ quên trên vòng
tay cuộc sống ấm áp mấy thập kỷ qua; nay mới có dịp hong hơ trở lại. Và sự sống
bắt đầu ấm dần lên ngay trên mảnh đất hình chữ S thân yêu của chúng ta. Hiện
nay số ca dương tính là 85. Trong có có 16 ca chữa khỏi, đã xuất viện; số ca
nghi nhiễm 122. Gần 42.000 ca đang cách li theo dõi; trong đó gần 35.000 ca
cách li tại nhà. May mắn nước ta chưa có ca tử vong. Một câu chuyện dài những
mong các nhà khoa học, chính trị gia thế giới phải ngồi lại suy nghĩ và tìm ra
một phương án phòng tránh tối ưu cho nhân loại sau này, khi mà môi trường tự
nhiên, môi trường sống bị hủy hoại nghiêm trọng.
Câu chuyện một chai nước diệt khuẩn, một vài trăm cái khẩu
trang y tế may thủ công cấp miễn phí cho bà con. Ổ bánh mì vài ngàn, đến hộp
cơm bụi mấy chục ngàn đồng cho người bị cách li kể cả người kiều bào hồi hương
cũng hoàn toàn miễn phí. Chưa kể hàng trăm y bác sĩ ngày đêm tác nghiệp trong
phòng thí nghiệm; bệnh viện, khu dã chiến nhằm cứu chữa bệnh nhân trong điều kiện
tốt nhất có thể. Hằng trăm chiến sĩ công an, quân đội ra quân, cắm trại 24/24 ở
các khu cách li, biên giới, đường mòn, lối mở chưa đến mức phải “nằm gai nếm mật”
nhưng thực sự cuộc sống, ăn ở, sinh hoạt, đi lại, canh gác… Của anh em ở những
nơi này còn rất khiêm tốn, thiếu thốn mọi thứ, nhưng họ vẫn vui vẻ ở đây làm
nhiệm vụ hạn chế số người nhập cư trái phép để phòng ngừa lây nhiễm, có khi cả
tháng chưa về thăm nhà. Mà khi về đến nhà còn phải tự cách li với vợ con, người
thân trong gia đình thêm 14 ngày nữa.
Ngoài ra Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng phát động
phong trào hưởng ứng, ủng hộ tinh thần lẫn vật chất cho công cuộc phòng chống dịch
cúm ngày càng diễn biến phứt tạp. Từ thùng mì tôm đến một triệu đồng; từ một
triệu đồng đến một tỷ… Lan tỏa khắp cộng động người Việt ở trong nước và nước
ngoài. Từ các doanh nghiệp, văn nghệ sĩ, mạnh thường quân; đến các em học sinh
và nhân dân sẵn sàng chung tay quyên góp. Phong trào này đã kịp thời phát huy
tinh thần đoàn kết dân tộc; lá lành đùm bọc lá rách te tua. Đã khơi dậy lòng tự
hào dân tộc, thái độ sống có ý nghĩa của người dân và trách nhiệm của chính quyền
các cấp, từ địa phương đến trung ương. Đặc biệt là sự chỉ đạo sâu sắc, toàn diện
của cả hệ thống chính trị; sự tham mưu và cung cấp thông tin kịp thời của các Đại
sứ quán Việt Nam ở nước ngoài. Đó câu chuyện lịch sử sáng ngời trong thập niên
hai mươi. Mà mỗi người chúng ta là một ngoài bút phản biện sắc sảo chống tin giả
trên mạng xã hội, lợi dụng dịch cúm tung tin đồn thất thiệt; một chiến sĩ dũng
cảm trên pháo đài chống virus; một ngọn đuốc soi đường trên mặt trận y tế, văn
hóa, giáo dục với ý chí quyết tâm cao nhất. Chống dịch như chống giặc!
Sài Gòn, 20. 3.2020
B.Đ.M
20/3/2020
Bình Địa Mộc
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Họa sĩ Levitan - Vị đắng của thiên tài
Họa sĩ Levitan
Vị đắng của thiên tài
Levitan (1860-1900) tên đầy đủ là Isaac
Ilyich Levitan, người Nga, là họa sĩ không chỉ của nước Nga mà cả thế giới vào
nửa sau thế kỷ thứ 19. Vốn là học sinh năng khiếu rất giỏi mỹ thuật, ông tốt
nghiệp trường Hội họa, Điêu khắc và Kiến trúc Moskva (1885) và được xem
là họa sĩ thiên tài về vẽ tranh phong cảnh.
Họa sĩ Levitan.
Những tuyệt tác để đời của Levitan như Mùa thu vàng
(1895), Rừng bạch dương (1885-1889), Đường Vladimir (1892)… mang
dấu ấn rõ nét của trường phái hiện thực (realism) sở hữu những nét độc đáo về kỹ
thuật và tinh tế về phong cách, sắc màu, khiến người xem tranh không thể nhầm lẫn
với bất cứ tranh phong cảnh của họa sĩ nào khác cùng khuynh hướng. Ông được bầu
vào Hàn Lâm viện Nghệ thuật Nga (1897) và là bạn của nhà văn Nga A. P.
Chekhov (1860-1904).
Levitan mở mắt chào đời ngày 18 tháng 8 năm 1860 trong một
gia đình trung lưu trí thức ở thị trấn Kibarty, tỉnh Kovno (nay là Kaunasa,
Litva) của nước Nga lạnh giá mênh mông với rừng bạch dương sương trắng nắng
tràn. Năm cậu con út Levitan trong gia đình lên 10, người cha giáo viên quyết định
chuyển cả gia đình về sống tại Moskva nhằm tạo điều kiện học tập để con cái có
được tương lai về sau. Gia đình không dư dả lại không có quan hệ thân thiết hay
bà con quen thuộc tại thành phố lớn, cả nhà phải chật vật nương náu trong một
căn hộ nhỏ hẹp nằm của một tòa nhà to lớn với những bữa ăn đạm bạc và những bộ
quần áo sờn cũ chắp vá. Nhưng bù lại những thiếu thốn của gia đình là niềm vui
trông thấy thành tích rạng rỡ của con cái trong học tập và cơ hội thuận tiện được
trau dồi thêm kiến thức.
Mỗi sáng sớm, khi cha đi làm, các anh chị đến trường, ở nhà
chỉ còn mẹ và cậu con út Levitan. Cậu bé trèo lên bậc cửa sổ, ngồi chăm chú mải
mê ngắm nhìn không biết chán những mái nhà san sát nhau, chập chùng đây đó bên
những ống khói phủ đầy tuyết lạnh, với ánh bình minh rực rỡ từ chân trời xa tít
tắp cùng ánh sáng của ngày tàn bàng bạc tím dần trước khi chìm vào biển đêm mịt
mùng. Không gian thủ đô Moskva hoa lệ trở nên huyền ảo và đầy vẻ kỳ bí như những
lâu đài trong truyện cổ mà Levitan thường nghe mẹ kể. Chính từ khung cửa sổ nhỏ
bé của căn hộ chật hẹp kia, cậu bé Levitan đã đến và gắn kết với thiên nhiên suốt
cả cuộc đời mình.
Mới mười ba tuổi, năm 1873, Levitan thi đỗ vào trường Hội họa,
Điêu khắc và Kiến trúc Moskva, nơi người anh ruột Adolf của cậu bé cũng đã theo
học trước hai năm. Ở trường học, Levitan may mắn được các họa sĩ phong cảnh nổi
tiếng Nga lúc bấy giờ là Savrasov, Perov và Polenov hướng dẫn. Do hoàn cảnh gia
đình khó khăn nhưng học giỏi, Levitan bắt đầu nhận được học bổng của nhà trường.
Thành tích học tập của hai anh em vẫn luôn là niềm tự hào cho gia đình nhưng nổi
trội hơn vẫn là cậu em. Sang năm học 1874-1875, Levitan tiếp tục được hội đồng
nhà trường thưởng một hộp màu, cùng bút cọ vẽ do năng khiếu đặc biệt về hội họa.
Niềm vui rạng rỡ của cha mẹ và các anh chị làm ấm áp gia đình chưa được bao lâu
thì cuối năm học, mẹ Levitan qua đời do bệnh suy nhược cơ thể. Mất đi nguồn an ủi
tinh thần ở người mẹ hiền, cha lại kiệt sức không còn đi dạy học cộng thêm tuổi
cao sức yếu, bị bệnh thương hàn mất đi hai năm sau đó khiến cho đứa con ngoan,
hiếu thảo và học giỏi Levitan đôi lúc trở nên ngớ ngẩn vô hồn.
Gia đình hai chị sống chật vật, người anh trai lại ngày càng
xa lánh Levitan vì những thành tích học tập xuất sắc của đứa em trai. Không còn
nơi nương tựa, Levitan buồn cho thân phận, âm thầm bỏ nhà ra đi, chịu sống
trong cảnh nghèo túng. Thường khi Levitan phải nhịn đói hoặc xin ngủ lại ở nhà
để xe, có khi trong xưởng họa nhà trường để tiếp tục việc học. Do cuộc sống quá
cơ cực thiếu thốn và học tập vất vả, sức khỏe và tinh thần bắt đầu giảm sút.
Tuy nhiên, thời gian mong đợi cũng đã đến.
Mùa xuân năm 1977, trong một cuộc triển lãm lưu động tại
Moskva có kèm theo cuộc triển lãm của học sinh trong đó có Levitan. Hai bức
tranh “Mùa thu” và “Cái sân bỏ hoang” của Levitan, được giới
thưởng ngoạn nghệ thuật đánh giá cao và các nhà phê bình nồng nhiệt viết bài
khen ngợi tác giả trên tạp chí mỹ thuật. Khi ấy Levitan mới 17 tuổi.
Bức họa “Thu vàng” của Levitan.
Ở hai bức tranh phong cảnh này, với một năng khiếu mỹ thuật sẵn
có, chàng họa sĩ trẻ Levitan đã mô tả bằng cảm xúc cực kỳ tinh tế những đường
nét và sắc màu từ ánh sáng, những căn nhà gỗ đến rừng cây, phiến lá thật tuyệt
vời. Nét bình dị, hồn hậu của thiên nhiên tác giả thể hiện trong tranh đã âm thầm
nói lên vẻ đẹp của cuộc sống con người mà những ai không có tình yêu thiên
nhiên sâu đậm ắt không chút nào dễ dàng nhận ra.
Ngưỡng mộ tài năng, công chúng mỹ thuật đã gọi chàng họa sĩ
tài hoa này là “Ngài Levitan”. Phấn khởi với thành quả đạt được, tiếp tục vươn
lên bằng ý chí và nghị lực phi thường, cuối năm 1877, Levitan được cấp học bổng
của nhà trường.
Dù cuộc sống khổ cực, đói kém khiến Levitan xa lánh với mọi
người chung quanh nhưng càng làm cho chàng gần gũi với thiên nhiên và làng quê
nước Nga. Levitan thường ẩn mình trong những cánh rừng thưa hay ngồi vẽ một
mình trên thuyền. Trong nỗi cô đơn của thân phận và không gian mênh mông bát
ngát của đại ngàn, Levitan có cơ hội cảm nhận sâu sắc được hoàn cảnh khắc nghiệt
những con người cùng khổ đè nặng lên từng nóc nhà nhỏ ở làng quê Nga dưới chế độ
chuyên chế trong cảnh mùa đông giá buốt. Bức tranh “Làng quê mùa
đông” (1877-1878) đã thể hiện rõ nét trong nội dung những nỗi niềm đó.
Trong lần trưng bày tác phẩm hội họa lần 2 do nhà trường tổ
chức, Levitan tham gia với bức tranh lụa “Một ngày mùa thu”. Họa phẩm
đưa ta đến một công viên hiu quạnh một ngày mùa thu với rừng lá phong ngả vàng,
tô điểm và làm nổi bật lên con đường nhỏ vắng vẻ, đơn độc đi trên con đường
ấy là một người vẻ mặt buồn rười rượi, xộc xệch mang bộ váy dài đen cũ bạc màu.
Nhà sưu tầm tranh nổi tiếng Châu Âu Tretyakov để vào mắt xanh, đã mua bức tranh
ấy với giá 100 rúp, làm cho Levitan vô cùng sung sướng. Không chỉ trong trường
mà cả giới nghệ thuật trong phạm vi nước Nga đã bắt đầu chú ý đến người học
sinh họa sĩ trẻ tuổi tài hoa Levitan. Có được uy tín, Levitan dễ tìm ra chỗ dạy
vẽ cho con cái những gia đình khá giả khiến cuộc đời anh đỡ phần đói rét.
Nhưng sau vụ Nga hoàng Aleksandr II (1818 – 1881) bị mưu sát vào thán 05 năm
1879, hàng loạt người Do Thái bị trục xuất ra khỏi các thành phố lớn của đế quốc
Nga, gia đình Levitan bị buộc phải chuyển đến vùng ngoại ô Saltykovka. Nhưng nhờ
vào tài năng nhiều người biết đến, Levitan được chính quyền cho phép quay trở lại
Moskva dưới áp lực của những người hâm mộ nghệ thuật.
Bức họa “Sắc thu”.
Trong những năm từ thập niên 1880, Levitan vẽ hàng loạt bức
tranh về phong cảnh làng quê nước Nga từ vùng ngoại ô Moskva: “Làng quê”, “Liễu
rủ quanh nhà”, “Bờ sông”, “Hoa anh đào”, “Làng ven sông”… Dù không hề có
bóng dáng người,nhưng tất cả những bức tranh đó ngụ ý mô tả cuộc sống, tâm trạng
của con người sống trong những làng quê ấy. Riêng bức tranh “Ngày thu Sokolniki” của
Levitan cũng được nhà sưu tập tranh nổi tiếng của nước Nga là P.M. Tretyakov
mua lại. Cũng như danh họa Picasso mới ở lứa tuổi 19 – 20, vượt lên trên mọi
nghiệt ngã của cuộc sống.
Levitan bằng cảm xúc cực kỳ nhạy bén và nghệ thuật tinh tế đã
bắt đầu thể hiện một độ chín thực sự, đầy trải nghiệm ở sự lột tả cuộc sống đời
thường trong lao động và tình cảm con người qua những bức tranh phong cảnh
thiên nhiên trữ tình đáng được coi là tuyệt tác.
Trong cuộc triển lãm Mỹ thuật công nghiệp hoành tráng năm
1882 tại nước Nga, cả đoàn người triền miên nối đuôi nhau vào xem. Họ đã trầm
ngâm rất lâu trước họa phẩm “Những người kéo thuyền trên sông
Volga” của họa sĩ Rêpin, một bức tranh mà chủ đề như gắn liền hơi thở của
tác giả với cuộc sống của nhân dân lao động. Chính tác phẩm của họa sĩ Repin đã
tác động và thôi thúc chàng thanh niên Levitan hãy đến với sông Volga để ngộ ra
cho được vẻ đẹp một con sông hùng vĩ, có sức sống mãnh liệt và ngập tràn hứa hẹn.
Mùa xuân năm 1884, Levitan tham gia cuộc triển lãm của nhóm họa sĩ lưu động và
về sau đã trở thành viên chính thức của nhóm này cùng với nhiều họa sĩ nổi tiếng
khác. Năm gần cuối khóa học sắp kết thúc, học sinh của xưởng dạy vẽ phong cảnh
gấp rút hoàn thành tác phẩm tốt nghiệp để chuẩn bị ra trường. Chủ đề bức tranh
tốt nghiệp của Levitan mô tả một cánh đồng mênh mông trong mùa gặt dưới bầu trời
âm u dày đặc những đám mây đen như tiềm ẩn một dấu hiệu báo trước điều không tốt
lành.
Quả thực điều không hay đã đến với Levitan. Trong thời điểm
thẩm định bức tranh tốt nghiệp của anh đã thiếu vắng đi những người thầy thân
tín. Người thầy ân cần tận tụy Perov của anh đã mất trước đó 2 năm. Còn thầy
Savrasov, người đánh giá cao bức tranh tốt nghiệp của anh xứng đáng với “Huy
chương bạc lớn” thì đang tiều tụy chìm dần trong căn bệnh nghiện ngập. Hội
đồng nhà trường không thể công nhận ý kiến của một người bị sa thải như
Savrasov. Tình huống thật đắng cay, một học sinh năng khiếu giỏi giang như
Levitan đành chấp nhận ra trường với một bằng tốt nghiệp loại thường !
Do vậy, dù tốt nghiệp đàng hoàng vào năm 1885, nhưng sống giữa
thành phố lớn Moskva với cảnh nhà phố tráng lệ ấm áp, lấp lánh ánh đèn điện
ngày đêm, Levitan vẫn là người cô đơn bữa no bữa đói trong bộ quần áo cũ bạc
màu không lành lặn. Nhưng mỗi lần đứng trước chiếc giá vẽ như người bạn đường
thân thiết, khi nhận ra mùi thơm ngây ngây quen thuộc tỏa ra từ những tuýp màu
xinh xắn, Levitan lại cảm thấy yêu đời, không ngừng say mê sáng tác, và khám
phá thêm. Những sắc màu sáng tạo, đường nét mới lạ cho từng phiến mây mắt lá, đến
trảng cỏ triền sông trong những bức tranh phong cảnh sở trường của mình.
Trong thời gian còn theo học ở trường hội họa, Levitan kết bạn
với nhiều nghệ sĩ tạo hình, kiến trúc sư. Họa sĩ N.P. Chekhov, bào huynh của
nhà văn nổi tiếng A. P. Chekhov – nhà văn sau này đã trở thành người bạn thân
thiết, an ủi, sẻ chia với Levitan trong thời gian anh bị khủng hoảng tinh thần.
Cuối năm 1885, đang ở tại gia đình nhà văn Chekhov, không khí bạn bè làm vơi đi
bớt phần nào nỗi buồn về người chị ruột kém may có người chồng nghiện ngập và
những đứa con khổ sở của họ. Nhưng căn bệnh trầm cảm mắc phải từ ngày mẹ mất có
lúc làm Levitan cảm thấy lạc lõng bơ vơ trong cuộc đời. Khi tinh thần hồi phục,
thường ngày Levitan hay cùng Chekhov vào rừng hái nấm. Maria, em gái nhà văn
Chekhov đôi khi cũng xin tham dự vào những buổi đi này.
Điều làm cô gái Maria nhí nhảnh rất thích thú là được đi vẽ
cùng với Levitan. Cô có năng khiếu hội họa, có dịp được ngồi hàng giờ bên
Levitan để xem anh xây dựng bố cục, phối màu, xem cách anh cầm bút và hoa tay
ký họa bằng mực như phượng múa rồng bay. Xem ra, chàng họa sĩ có cảm tình với
người em gái yêu nghệ thuật của bạn mình. Sau một lần vẽ chân dung cho Chekhov,
Levitan đánh bạo, sôi nổi tỏ tình với Maria. Nhưng Levitan thất vọng, lòng thêm
nặng mối u hoài vì mối tình chân thành của anh không được Maria đáp lại. Bởi lẽ
một lẽ không ngờ, từ trước tới nay, cô gái xinh đẹp hồn nhiên chỉ coi Levitan
như một người anh. Thêm nữa Chekhov cũng nhận thấy cô em gái bé bỏng ngây thơ của
mình không hợp với tính cách phức tạp như Levitan.
Dù rất thương mến bạn, trân trọng tài năng của bạn, Chekhov vẫn
muốn tránh cho em gái mình những đau khổ có thể gặp phải sau này trong cuộc sống
lứa đôi với Levitan. Thật đau buồn cho nhà nghệ sĩ tài hoa vì đây là lần tỏ
tình đầu tiên mà cũng là lần sau cùng với Levitan. Từ làng quê trở lại Moskva để
nguôi ngoai chuyện tình buồn nhưng Levitan lại bị sốt viêm niêm mạc, phải nằm
liệt giường, mặt mày hốc hác, cũng không còn sức để đọc thư và viết thư cho bạn
bè.
Cuối năm 1885, quên đi tấm thân bệnh hoạn yếu ớt và cái giá lạnh
ghê người của mùa đông Moskva, ánh nắng long lanh và màu xanh cây cỏ trở nên
quyến rũ, thôi thúc anh cầm cọ. Biển Crưm viền quanh những vách đá chông chênh,
trên đó những chiếc thuyền đang lướt sóng, không xa lắm là lớp lớp mái ngói đỏ
tươi thắm nằm dọc theo bờ biển, dưới bầu trời xanh thẳm… Tất cả cảnh trí hữu
tình thi vị đã được Levitan thể hiện trong 50 bức phác thảo của mình.
Chekhov vội vã báo tin vui cho một người bạn: “tài năng của
anh ấy phát triển không phải qua từng ngày mà là từng giờ!”.
Người ta còn nhớ lại, khi vừa ra trường một năm, Levitan được
chọn vào làm việc ngay tại xưởng vẽ của họa sĩ Savrasop – một giáo sư họa sĩ
giàu kinh nghiệm và óc sáng tạo, luôn yêu thương học trò, đặc biệt có lòng yêu
thiên nhiên mãnh liệt. Nhờ cơ hội thuận lợi, Levitan cảm thấy vơi bớt đi mặc cảm
phiền muộn cho thân phận và ngày càng nỗ lực phát huy năng khiếu theo hơi nóng
ngọn lửa đam mê nghệ thuật đang cháy bỏng trong lòng. Ta cũng nên nhớ lại, đây
là thời kỳ sáng tạo phong phú nhất của các họa sĩ lưu động mà Levitan là một
thành viên. Những bức tranh của Levitan trong giai đoạn này, anh đã vẽ bằng những
nhát cọ, màu sắc trí tuệ và tất cả năng lượng của một trái tim thông cảm với một
đất nước Nga thống khổ lúc bấy giờ.
Trong cuộc triển lãm tranh lưu động lần thứ 12, Levitan đã
hăng hái góp mặt 4 họa phẩm, nổi trội nhất là bức tranh “Buổi chiều trên cánh đồng
đã cày”. Với hình ảnh của người nông dân dáng dấp bé nhỏ, đang cúi gập người
một cách khốn khổ để điều khiển chiếc lưỡi cày nặng nề vô tri giác trước một
không gian rộng lớn là trời và đất. Người xem tranh không khó nhận ra ý
nghĩa tố cáo sự ngược đãi toát lên từ họa phẩm qua sự cảm thông của tác giả dù
vẫn giữ được sự dè dặt trong bút pháp. Với bức “Chiếc cầu nhỏ”, tác
giả, với lòng nhân ái bao la, cho thấy sau chiếc cầu nhỏ bé kia là những căn
nhà gỗ không mấy khang trang vốn là nơi trú ngụ của những cuộc đời lầm than đói
khổ, bế tắc đáng thương hại vô cùng. Bức tranh “Hồ đầy cỏ 1887” vẽ ra
trước mắt ta cảnh trên mặt hồ phẳng lặng, yên ả là một lớp bèo dày đặc. Levitan
mô tả ánh nắng mặt trời màu xanh trong, vàng ối, vạch lên lớp bèo hoang dại khiến
hồ như sâu hơn, trên mặt hồ nước lung linh nổi bật bóng những cây tùng, cây
bách. “Ngày nắng – 1884” là bức tranh mà họa sĩ đã khéo cho ta cái ấn
tượng về một khu rừng như hun hút sâu thẳm hơn và cũng mênh mông hùng vĩ hơn.
“Mùa thu vàng nước Nga”.
Mùa xuân năm 1887, dòng sông Volga vốn đã in đậm trong tâm
trí Levitan trong những năm tháng tuổi thơ cùng với những bức tranh của các thầy
Savrasov và Repin đã giục giã Levitan đến với sông Volga. Anh trở lại đây vào
mùa nước lũ chưa rút. Nước mênh mông tràn ngập các cánh rừng ven sông. Một mùa
xuân ảm đạm đã hòa với tâm trạng cô đơn, nặng nề của họa sĩ. Nhưng ngày ngày,
Levitan lại mang bản phác thảo ra bờ sông ngồi vẽ, vẽ miệt mài, đến khi sắp mưa
hoặc chiều muộn mới về nhà. Anh nỗ lực chọn từng đường nét, gam màu để đưa hình
ảnh của sông Volga vào mùa xuân hiện ra trên bản vẽ của mình. Nhưng “người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ’. Người ta thấy, sau những sắc màu rực rỡ
trong tranh vẽ màu tro xám xịt tràn ngập lên các phác thảo vẽ vào mùa xuân đầu
tiên ở Volga. Họa sĩ đã xây dựng bức tranh “Hoàng hôn trên sông Volga – 1888”.
Một hoàng hôn đầy suy ngẫm và chan chứa u hoài với những tia nắng yếu ớt cuối
cùng của một ngày đang chìm dần vào những đám mây đen dầy đặc.
Rồi ta lại bắt gặp một “Sông Volga 1887-1888” với
gam màu sáng hơn, nhưng hình ảnh trong bố cục vẫn gợi lên một tâm trạng buồn
man mác. Bên cạnh những con thuyền chờ đợi trên dòng nước in rõ cảnh vật bên
kia bờ, là một con thuyền nhỏ đơn độc giữa dòng, một sông Volga trầm tư sau những
giờ phút sôi động. Bức tranh “Sau cơn mưa – 1889” minh họa phong cảnh
một thị trấn bên bờ sông Volga có thuyền và xà-lan đậu bên cạnh những ngôi nhà,
xa xa cắt nét lên không gian xanh thẳm là những gác chuông nhà thờ. Cảnh vật chủ
đạo bằng sự kết hợp giữa nước sông trong vắt với bầu trời quang đảng biêng biếc,
không khí mát rượi trong lành sau một cơn mưa nặng hạt.
Đến những tuyệt tác được coi là những họa phẩm để đời của
Levitan làm cho tên tuổi họa sĩ càng thêm rạng rỡ. Phải kể đến: “Rừng bạch
dương – 1885-1889”. Ở bức tranh nổi tiếng này, qua sự mô tả cảnh rừng
bạch dương mênh mông chan hoà ánh nắng thủy tinh, Levitan đã thể hiện một kiến
thức vững vàng về hình khối và bản lĩnh chủ động đường nét rất trí tuệ. Kèm
theo nữa là nghệ thuật sử dụng màu sắc tinh tế trong sự diễn tả ánh sáng rất
nên thơ và biểu cảm không khác gì những danh họa trong nhóm ấn tượng: Claude
Monet (1840-1926), Auguste Renoir (1841-1919), Édouard Manet (1832-1883)
Camille Pissaro (1830-1903)… Các nhà phê bình mỹ thuật tại Moskva đặc biệt
chú ý đến những bức tranh vẽ sông Volga của Levitan. Chính màu sắc đặc thù, cảm
xúc tinh tế như tiềm ẩn nỗi trắc trở, đắng cay thể hiện trong tranh đã mang lại
vinh quang cho Levitan.
Năm 1897, Levitan được bầu vào Viện Hàn lâm Nghệ thuật Nga và
ngay năm sau, họa sĩ trở thành người phụ trách xưởng tranh phong cảnh tại trường
học cũ của mình. Từ ngày sức khỏe trở nên bệ rạc và tinh thần suy sụp, Levitan
thường dưỡng bệnh tại nhà Chekhov và có lần không tự chủ được đã dùng súng tự tử
nhưng không chết.
Từ cuối năm 1889, Levitan có cơ hội đi Pháp và Italia. Sau
khi đi tham quan một vài địa điểm văn hóa nổi tiếng ở Paris – kinh đô nghệ thuật
thế giới, anh quay sang nghỉ ngơi tại Italia vào mùa xuân. Tại đây, sự hấp dẫn
của những ngôi nhà cổ kính đầy dấu ấn Levitan cảm hứng khai sinh ra nhiều phác
thảo “Mùa xuân ở Italia”, thể hiện một sự thanh bình tĩnh tại vô ưu. Khoảnh
khắc dừng chân tại đây làm chàng họa sĩ quên đi sự buồn chán bệnh tật, nỗi bất
hạnh và bao sự đố kỵ của những kẻ bất tài vô tướng.
Nhưng với lòng đam mê hội họa và niềm tin bất biến, Levitan vẫn
bỏ ngoài tai mọi lời ong tiếng nhặng để tiếp tục sáng tác. Bức tranh “Tu
viện yên tĩnh” được tán thưởng trong một cuộc triển lãm lớn. Tiếp đến, họa
phẩm “Phong cảnh mùa thu với nhà thờ-1890” , rồi “Tiếng chuông chiều
-1892”… Bức tranh phong cảnh nào cũng điêu luyện nghệ thuật và bút pháp, đã
chuyển tải đến người thưởng ngoạn cảm giác thư thái trong lòng từ một cảnh trí
tĩnh mịch yên bình từ xa văng vẳng tiếng chuông ngân. Riêng họa phẩm “Tiếng
chuông chiều” được trưng bày ở phòng tranh Nga trong cuộc triển lãm quốc tế
ở Chicago (Mỹ). Bức “Đường Vladimir” có nội dung hiện thực, tố cáo chế
độc chuyên quyền; Bức “Mặt nước phẳng lặng -1892” thể hiện một sự nhẫn
nhục, chịu đựng gần như là thái độ phản kháng bị tắc nghẹn.
Nhưng chính họa phẩm “Mùa thu vàng -1895” trưng bày
trong cuộc triển lãm tranh lưu động năm 1896 đã làm cho tên tuổi Levitan trở
nên bất tử trong danh sách họa sĩ vẽ phong cảnh lỗi lạc trên thế giới. Ở bức
tranh mô tả một mùa thu buồn rất Nga độc đáo này, họa sĩ sử dụng sắc vàng chủ đạo,
vẽ ra trước mắt ta hình ảnh cành lá những cây bạch dương, cây phong, cây hoàng
diệp liễu rực rỡ tươi sáng chan hòa màu sắc buổi hoàng hôn. Màu lam dìu dịu của
dòng sông uốn khúc dường như muốn xoa bớt đi nỗi buồn của mùa thu mà vẫn như đọng
mãi một nỗi lưu luyến nơi lòng người trước cảnh rực rỡ cuối cùng trong năm của
thiên nhiên, để sau đó nhường lại cho mùa đông lạnh giá, tối tăm và ảm đạm.
Phải chăng ở đây phong cảnh cũng chỉ là một trạng thái của tâm
hồn (le paysage n’est qu’un état d’âme. Tác phẩm nào của Levitan cũng có thể
đem đến cho sinh viên, học sinh mỹ thuật những điều hay đáng được khám phá và học
hỏi về nghệ thuật vẽ tranh phong cảnh. Dù sức lực ngày một kiệt dần, Levitan hằng
ngày vẫn tận tụy với học trò ở trường dạy vẽ và không ngừng sáng tác. Những bức
tranh phong cảnh vẽ lúc gần cuối cuộc đời ngắn ngủi của họa sĩ: “Làng quê trăng
sáng- 1897”, “Đồng cỏ ở bìa rừng – 1898”, “Đồng cỏ khô”, “Giông tố và mưa”, “Hồ
– 1890” (còn gọi là “Nước Nga hay “Tổ quốc”), “Tia nắng cuối cùng”, … Đặc biệt
trong bức tranh “Tia nắng cuối cùng”, vẫn với phong cách trữ tình
trong bút pháp, Levitan đã như muốn mượn cảnh làng quê nhập nhoạng trong ánh
chiều tà đang chìm dần vào bóng đêm, để gợi lên một sự lắng đọng tâm tư và lòng
bồi hồi xao xuyến ở con người trước cảnh hoàng hôn của thiên nhiên.
Phải chăng là “Tài mệnh ghét nhau” như lời một thi hào
đã nói mà cuộc đời như một trái đắng. Ở nước ta cũng không hiếm những minh chứng
định đề này trong lịch sử văn học nghê thuật: Bích Khê (1916-1946), Hàn Mặc Tử
(1912-1940),Thạch Lam (1910-1942), Vũ Trọng Phụng (1912-1939)… Trong khi tài
năng nghệ thuật của Levitan đang tiếp nối bay cao thì căn bệnh tim trong người
anh lặng lẽ tàn phá đến mức nguy kịch: họa sĩ bị giản động mạch chủ và có băng
trên ngực. Có những cơn đau tim đột ngột làm vật ngã Levitan trước cầu thang của
viện Bảo tàng, người ta phải vội đỡ họa sĩ dậy để đưa về nhà. Ngày 26 tháng 09
năm 1897, giáo sư hội họa Savrasov, người thầy tận tụy đáng kính của Levitan
qua đời. Khi nghe tin, anh vẫn cố gượng dậy viết một bức thư thăm hỏi bạn bè và
cho đăng bức thư ấy trên báo như một vòng hoa dâng lên mộ người thầy học đáng
kính trong đời mình.
Dù sớm được biết tới về tài vẽ tranh phong cảnh, họa sĩ
Levitan đã phải sống nghiệt ngã suốt cuộc đời ngắn ngủi trong cảnh đói nghèo, bệnh
tật cũng như nỗi đau buồn về chuyện tình ái lứa đôi nên anh mất khi mới 40 tuổi.
Mộ phần Levitan đặt tại Dorogomilovo, sau được cải táng về nghĩa trang
Novodevichy (Moskva), nằm cạnh bên mộ người bạn thân là nhà văn Chekhov.
Họa sĩ tài hoa Levitan đã để lại một sự nghiệp phong phú và
giá trị đặc biệt về tranh phong cảnh trữ tình ấn tượng của bậc thầy trong di sản
nghệ thuật thế giới!
Đan Thanh
20/3/2020
Trần Hoài Anh
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Cảm thức lịch sử trong Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên
Cảm thức lịch sử trong Việt Nam
diễn nghĩa của Cao Văn Liên
Đọc Việt Nam diễn nghĩa, Cao Văn Liên, Nxb. Hồng
Đức, 2019
Cảm thức lịch sử trong Việt
Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên chính là những trăn trở, những suy tư, dằn
vặt của một nhà nghiên cứu lịch sử mang cảm quan của một nhà văn trước vận mệnh
dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước. Bộ tiểu thuyết này, vì thế không
chỉ luận bàn chuyện quá khứ của lịch sử mà Cao Văn Liên muốn dùng lịch sử đã
qua như một gương soi những vấn đề hiện tại của đất nước mà một trí thức, một
nhà nghiên cứu lịch sử như ông không thể không thao thức, nghĩ suy.
Tác phẩm Việt Nam diễn nghĩa của tác giả Cao Văn Liên
Dẫn nhập
Có thể nói, lịch sử Việt Nam là lịch sử của những tháng năm
chiến đấu, bảo vệ độc lập tự do, chủ quyền tổ quốc. Thế nên, cảm thức lịch sử
trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong văn học, rõ nhất là các tiểu thuyết về đề
tài lịch sử.
Những năm gần đây, từ nhiều điểm nhìn và phương thức thể hiện
khác nhau, các nhà văn đã tập trung khai thác nhiều vấn đề về lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc, nhất là thời kỳ phong kiến. Song, nếu những tiểu thuyết
lịch sử phần lớn tìm hiểu các sự kiện lịch sử để luận giải về một nhân vật, một
triều đại, một giai đoạn nhìn từ một lát cắt lịch sử và mang tính hư cấu của thể
tài tiểu thuyết như: Thăng Long nổi giận của Hoàng Quốc Hải, (Nxb.Phụ
nữ,1993); Danh tướng Trần Hưng Đạo của Hoàng Công Khanh (Nxb. Văn học,
H, 1995); Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, (Nxb.Phụ nữ, H,
2000); Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác (Nxb. Văn học, H,
2003); Hội thề của Nguyễn Quang Thân (Nxb.Phụ nữ, H, 2009); Đức
Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh (Nxb. Hội Nhà văn, H, 2018)… thì, ở Việt
Nam diễn nghĩa (3 tập, Nxb. Hồng Đức, 2019), Cao Văn Liên tập trung tìm hiểu
lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam từ thời Hùng Vương dựng nước và kết
thúc ở thời kỳ Quang Trung đại phá quân Thanh. Nghĩa là, cảm thức lịch sử của
nhà văn chỉ dừng lại ở giai đoạn chống xâm lược phương Bắc, giữ độc lập, chủ
quyền của tổ quốc như một sự nhất quán trong chủ đề, tư tưởng mà người viết muốn
thể hiện, nên không đề cập về thời kỳ nhà Nguyễn, vì lúc này, dân tộc đã trải
qua một thời kỳ khác của lịch sử chống ngoại xâm mà có thể, tác giả sẽ giành cảm
hứng sáng tạo cho một công trình khác chăng!? Phương thức thể hiện trong bộ tiểu
thuyết lịch sử này là luận giải vấn đề lịch sử theo cách diễn nghĩa, phi
hư cấu, (hoặc nếu có hư cấu thì tính chất hư cấu cũng rất mờ nhạt). Và từ
phương thức diễn nghĩa, phi hư cấu này, tác giả thể hiện cảm thức lịch
sử của mình với tư cách là một nhà nghiên cứu lịch sử viết văn, không phải là
nhà văn viết lịch sử. Đây là điểm khác biệt nếu không nói là sự mới/ lạ, thể hiện
một hướng đi riêng về cách tiếp cận lịch sử của của Cao Văn Liên trong Việt
Nam diễn nghĩa so với các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử khác trong đời sống
văn học hiện đại nước nhà. Vì thế, cảm thức lịch sử này cũng là những thông điệp
mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn về lịch sử dân tộc, tác giả gửi đến người đọc
qua những diễn ngôn mang tính giao thoa giữa hai thể văn và sử, vốn khá quen
thuộc trong tiến trình văn học dân tộc.
2. Cảm thức lịch sử nhìn từ niềm tự hào nòi giống và văn hóa
dân tộc
Có thể nói, căn tố để khẳng định
sự tồn sinh của một dân tộc trong cộng đồng thế giới không phải là hệ ý thức,
là thể chế chính trị mà chính là cội nguồn nòi giống, là giòng sinh mệnh
văn hóa dân tộc định hình trong quá trình lịch sử. Vì vậy, dân tộc nào
cũng tạo ra huyền thoại thiêng liêng, cao đẹp về nguồn gốc giống nòi và
những phẩm tính riêng cho giòng sinh mệnh văn hóa của mình. Và đây là một cảm
thức lịch sử luôn tiềm ẩn trong tâm thức mỗi người, trong đó, có nhà văn, nhà
nghiên cứu lịch sử. Đọc bộ tiểu thuyết lịch sử Việt Nam diễn nghĩa của
Cao Văn Liên, ấn tượng đầu tiên thức nhận trong tâm cảm người đọc đó là Cảm
thức lịch sử nhìn từ niềm tự hào nòi giống và văn hóa dân tộc, mà với một
cái nhìn khoa học và quá trình nghiệm sinh của một nhà nghiên cứu lịch sử dân tộc
và thế giới, trong cảm quan một nhà văn, tác giả đã luận giải sự hình thành và
phát triển của dân tộc Việt Nam, không chỉ qua những cuộc chiến chống ngoại xâm
mà còn qua hệ hình văn hóa ngàn đời của nền văn minh nông nghiệp, khi ông xác
quyết: “Khác với những nơi khác trên thế giới, chiến tranh góp phần thúc đẩy,
làm bà đỡ cho sự ra đời nhà nước thì người Lạc Việt có những nhu cầu bức thiết
hơn. Đó là nhu cầu trị thủy các con sông lớn: Sông Hồng, sông Mã, sông Lam,
sông La… nhu cầu chống lại các cuộc xâm lược của các triều đại Thương – Chu – Tần
ở phía Bắc, nhu cầu trao đổi kinh tế văn hóa giữa các Bộ lạc”.[1] Nghĩa
là: “Cư dân Văn Lang đã xây dựng và phát triển một nền văn hóa tinh thần, vật
chất phong phú, đặt nền tảng lâu dài cho một nền văn hóa Lạc Việt”.[2] Đây là một
cái nhìn có chiều sâu văn hóa, thể hiện sự đổi mới tư duy khi lý giải về lịch sử
dân tộc !? Trong cảm thức Cao Văn Liên, vấn đề xây dựng niềm tự hào về nòi giống
và văn hóa dân tộc là một sứ mệnh lịch sử đã được các thế hệ cha ông ý thức, đắp
bồi như: “Đức Thế Tổ Kinh Dương Vương, Đức Thái Tổ Lạc Long Quân, Đức Mẹ Âu Cơ
đã trải qua bao gian lao khó nhọc mở mang giữ gìn bờ cõi, dựng nên Quốc gia đất
nước”. (…) Và “Dòng họ Hồng Lạc của ta không chỉ có công dựng nước mà còn dạy
cho cư dân biết cày cấy, trồng trọt đánh cá, săn bắn, chăn nuôi, khai phá ruộng
nương, làm nhà làm cửa, sản xuất vật dụng và vũ khí, trồng dâu nuôi tằm dệt vải.
Dạy cho dân biết thuần phong mỹ tục, tôn kính trời đất, tổ tiên, hiếu thảo với
gia đình, thương yêu nhau… Vì thế, cơ nghiệp của họ Hùng Lạc ta bền vững đến
nay đã gần 1000 năm với 17 đời Tiên đế”.[3] Đây là cội nguồn tạo sức mạnh diệu
kỳ để dân tộc ta đứng vững suốt trường kỳ lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước.
Trong cảm quan của mình, Cao Văn Liên không chỉ nhìn thấy sức
mạnh mà còn nhìn thấy sứ mệnh của văn hóa đối với sự hưng vong của
đất nước, khi ông khẳng định: “Văn hóa là nguồn sức mạnh, là linh hồn của
dân tộc. Một dân tộc khi bị ngoại bang thống trị, nếu vẫn giữ được nền văn hóa
thì còn linh hồn, còn sức sống. Khi kẻ thù yếu thì còn có thời cơ quật khởi đứng
dậy lật đổ chúng mà giành độc lập dân tộc”.[4] Chính vì vậy, tác giả đã vạch trần
thủ đoạn và âm mưu đồng hóa văn hóa của nhà Hán như một “diệu kế” đầy “ngụy
tín” gọi là “khai hóa” mà bọn xâm lược phương Bắc “rêu rao” nhằm thực hiện chủ
trương tiêu diệt đến tận gốc rễ cội nguồn văn hóa dân tộc ta. Vì thế, Tô Định
đã ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền bằng mọi cách: “Phải tiêu diệt nền văn
hóa Việt, buộc chúng phải theo văn hóa Hán”. Và “Bên cạnh chính sách bóc lột,
nhà Hán còn tiến hành chính sách đồng hóa văn hóa, tiêu diệt văn hóa Việt, buộc
dân Việt phải theo văn hóa Hán (…) Chúng du nhập chữ Hán, du nhập phong tục tập
quán Hán vào Âu Lạc và buộc cư dân Việt phải học và phải theo phong tục tập
quan Hán. (…) Dã man hơn, chúng giết hại đàn ông Việt, buộc phụ nữ Việt phải lấy
đàn ông Hán, con người Việt sinh ra phải khai họ Hán. (…) Chúng đập phá văn
bia, đền miếu của người Việt”.[5] Nhưng mặc dù tiến hành rất nhiều thủ đoạn
gian xảo thì “Người Hoa không đồng hóa được người Việt, ngược lại bị người Việt
đồng hóa”.[6] Bởi, không như những dân tộc khác dễ dàng bị đồng hóa, sức mạnh nội
sinh trong văn hóa Việt luôn là một ẩn số mà những kẻ xâm lược dù
giàu mạnh và nham hiểm đến đâu cũng không thể giải mã được sự nhiệm
màu của giòng sinh mệnh văn hóa Việt mà những việc làm sau đây của
dân tộc ta qua lời “tự thú” của quan lại nhà Hán là một xác chứng “Công việc bắt
những đứa bé mới sinh của người Việt khai theo họ Hán bị người Việt kịch liệt
chống lại, dù chết không theo (…) Việc bắt phụ nữ Việt lấy chồng người Hán cũng
bị dân Việt phản đối kịch liệt, dù chết không làm (…) Còn việc đập phá đền
chùa miếu mạo của người Việt cũng không kết quả. Đập phá đền chùa miếu mạo
nhưng trên đống gạch đổ nát ấy dân Việt vẫn ra cúng tế và lễ bái. Việc bắt dân
Việt cưới hỏi theo phong tục tập quán Hán cũng rất khó khăn. Dân Việt vẫn cưới
hỏi theo phong tục của họ đã có từ thời Hùng Vương”[7]. Niềm tự hào về giống
nòi và lịch sử dân tộc như một sức mạnh tinh thần kỳ diệu cũng được thể hiện vô
cùng cảm động qua lời khấn vái đậm sắc màu văn hóa tâm linh của Nữ tướng Trưng
Trắc trước khi xuất quân tiêu diệt Tô Định để trả thù nhà, đền nợ nước: “Kính
thưa thiên thần, địa thần, long thần Văn Lang, Âu Lạc, kính thưa liệt tổ tông,
Kinh Dương Vương, Lạc long Quân và Mẹ Âu Cơ, 18 vua Hùng Vương, đã hơn 200 nay
đất nước Văn Lang Âu Lạc mất vào tay bọn giặc phương Bắc. Dân tình điêu linh và
sớm muộn cũng diệt vong trong bàn tay độc ác của quân thù. Nay chúng con không
ngại hy sinh để cứu giống nòi. Kính mong quí thần nước Nam phù hộ cho chúng con
chiến thắng quân thù để cứu nguy dân tộc, bảo vệ giống nòi Lạc Việt, Âu Việt
tránh được họa diệt vong”.[8] Và sau khi chiến thắng quân xâm lược nhà Hán, ý
thức về cội nguồn nòi giống và văn hóa dân tộc còn được Trưng Nữ Vương thể hiện
ở việc lấy “Quốc hiệu Hùng Lạc”, chủ trương khôi phục nền văn hóa dân tộc bằng
cách:“Phát huy tất cả những phong tục, tập quán trang phục, lễ nghĩa trong quốc
gia và trong gia đình của giòng giống Lạc Việt, Âu Việt và Bách Việt tại quốc
gia Hùng Lạc, xóa bỏ những phong tục tập quán, trang phục lễ phục, lễ nghi,
trang phục của Hán mà bọn thống trị Hán buộc ta phải theo suốt trong 200 năm
nay”.[9] Không chỉ có Trưng Nữ Vương mà cảm thức lịch sử, ý thức về cội nguồn
và văn hóa dân tộc trong Việt Nam diễn nghĩa còn được Cao Văn Liên thể
hiện ở lời tuyên thệ của Nhụy Kiều tướng quân, Triệu Thị Trinh ở cuộc khởi
nghĩa chống giặc Ngô như sự tiếp nối về ý thức dân tộc của những con dân nước
Việt: “Ta sẽ cố gắng hết sức cùng các Huynh và tướng sĩ ra sức giết giặc Ngô, thỏa
lòng mơ ước và hoài bảo của chúng ta, đáp ứng lòng mong mỏi của bách tính Lạc Hồng”.[10]
Cảm thức lịch sử về sức mạnh nguồn cội và giòng sinh mệnh văn
hóa dân tộc trong Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên không chỉ thể
hiện ở việc khẳng định vai trò của văn hóa đối với sự tồn sinh của đất nước mà
còn nhận thức được mối quan hệ biện chứng, sự tác động giữa kinh tế và văn hóa
qua lời Khúc Hạo: “Cải cách chính trị, kinh tế sẽ tác động đến văn hóa và tinh
thần của bách tính, tăng cường ý thức dân tộc, độc lập tự chủ, bảo vệ và xây dựng
nền văn hóa mang màu sắc Việt của tổ tiên để lại”.[11] Phải chăng, chính niềm tự
hào về giống nòi và ý thức giữ gìn “giòng sinh mệnh văn hóa” mà dân tộc ta đã đứng
vững và không chỉ đứng vững mà còn chiến đấu và chiến tháng mọi kẻ thù xâm lược
để bảo vệ độc lập tự do và chủ quyền dân tộc, điều mà đến hôm nay vẫn là một sứ
mệnh, một thách thức to lớn và thiêng liêng đặt trên vai mỗi cư dân Con Lạc
Cháu Hồng. Cảm thức lịch sử nhìn từ niềm tự hào nòi giống và giòng sinh mệnh
văn hóa dân tộc trong Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên, vì
thế, là một thông điệp có giá trị thức nhận đối với chúng ta trong ý thức bảo vệ
chủ quyền và bảo vệ nền văn hóa dân tộc không chỉ hôm nay mà cho cả mai sau.
Cảm thức lịch sử nhìn từ quan hệ giữa dân tộc và người lãnh đạo
đất nước
Kịch tác gia Tào Mạc
khi viết lời đề từ cho vở chèo Lý Thánh Tông chọn người tài có chia sẻ:
“Biết kén chọn người hiền tài ở giữa chốn trần ai/ Thì mới là ông Vua thông
minh sáng láng”.[12] Như thế, trong suy niệm của Tào Mạc, khi viết Bài ca
giữ nước, thì việc chọn người hiền tài cũng là một nhân tố không chỉ liên quan
đến sự tồn vong của một vị Vua, một triều đại, mà còn liên quan đến sự tồn vong
của một quốc gia, một dân tộc. Tuy, “một con én không làm nên mùa xuân”, nhưng
để có mùa xuân không thể không có chim én, nhất là những con chim én
có sức mạnh gọi đàn. Vai trò người lãnh đạo đất nước dù ở bất cứ thời kỳ lịch
sử nào, cũng quan hệ mật thiết với dân tộc, vì những quyết định của họ luôn
liên quan đến vận mệnh tổ quốc, nhân dân.
Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước,
trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử dân tộc, bên cạnh niềm tự
hào về nòi giống và bản sắc văn hóa dân tộc, một điều không thể không bàn đến
đó là mối quan hệ giữa dân tộc và người lãnh đạo đối với sự tồn sinh của tổ quốc.
Đây cũng là một bình diện thể hiện cảm thức lịch sử trong Việt Nam diễn
nghĩa của Cao Văn Liên, không thể không quan tâm mà biểu hiện trước tiên
là việc giải quyết mối quan hệ giữa lợi quyền dân tộc với lợi quyền của cá
nhân, của dòng tộc, của triều đại. Bởi lẽ, nhìn vào sự hưng vong của các triều
đại trong lịch sử dân tộc, ta thấy một vấn đề mang tính qui luật phổ quát, đó
là triều đại nào biết đặt quyền lợi của tổ quốc, nhân dân trên quyền lợi của
triều đại, của gia tộc, và tìm được người lãnh đạo anh minh, tận hiến vì nước,
vì dân, thì đất nước hưng vong, thịnh trị, vững bền, và ngược lại!?. Đây là điều
được lịch sử dân tộc xác chứng mà với tư duy của một nhà nghiên cứu lịch sử
cùng cảm quan của một nhà văn, Cao Văn Liên đã luận giải qua tâm ý của Vua Hùng
Vương thứ 18: “Làm vua một nước là công việc rất nặng nề, phải lo cho nước, cho
dân”.[13] Và, việc “chọn vua một nước là vô cùng trọng đại, nó quyết định sự sống
còn của đất nước, phồn vinh hay bại vong, hưng thịnh hay suy tàn. Cho nên truyền
ngôi phải chọn người tài đức, không nhất thiết phải truyền cho con trưởng nếu
như người đó không có tài đức”.[14]
Tính quyết định của vai trò người lãnh đạo trong suy niệm của
Cao Văn Liên là vô cùng quan trọng, bởi dù: “Thần dân cần cù thông minh sáng tạo
có nền tảng văn hóa lâu đời, có truyền thống đánh giặc tài giỏi. Nhưng tất cả
nguồn lực đó cũng chỉ là thế khả năng. Muốn biến khả năng thành hiện thực làm
cho đất nước hùng mạnh, thần dân no ấm, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược thì phải
có những vị vua tài đức”.[15] Chính từ ý thức này, Trưng Nữ Vương, sau khi đánh
đuổi nhà Hán, tiến hành xây dựng đất nước đã rất chú trọng đến vai trò người
lãnh đạo qua việc “Bổ nhiệm quan lại đã căn cứ vào học thức và công lao trong
cuộc khởi nghĩa giành độc lập nhưng phải có tài, năng lực trình độ, có lòng
thương dân, sự trung thành với triều đình Mê Linh, với đất nước Hùng Lạc”.[16]
Một vấn đề chi phối sâu sắc cảm thức lịch sử của Cao Văn Liên
về mối quan hệ giữa dân tộc và vai trò người lãnh đạo đất nước trong Việt
Nam diễn nghĩa đó là việc đề cao tư tưởng thân dân trong quốc sách xây dựng
đất nước. Minh chứng cho vấn đề này là hành động Tướng Trương Hát can ngăn Triệu
Việt Vương không nên chia đất cho Lý Phật Tử vì hắn là kẻ gian xảo, bất tài
nhưng ham mê quyền lực: “Trả ơn cho Lý Nam Đế, Bệ hạ phong cho hắn quan cao chức
trọng là được, còn nước là của dân, không thể mang cái của dân đi tặng được, vả
lại nước là phải thống nhất, một nước không thể có hai vua. Bệ hạ không thể đem
vận mệnh quốc gia mà trao cho môt kẻ gian tham như vậy”.[17] Hay lời khẳng định
của Khúc Thừa Dụ trước Tướng sĩ sau khi đã chiến thắng người Hán giành lại độc
lập tự do cho dân tộc: “Nay chúng ta đã giành được chính quyền về tay người Việt,
việc cốt tử nhất là phải bảo vệ củng cố vững chắc nền độc lập, tự chủ, muốn làm
được như vậy phải cải cách, củng cố chính quyền để cho chính quyền thực sự là của
người Việt, thực hiện một nền chính trị thân dân”.[18] Vì thế, trong cai trị đất
nước Khúc Thừa Dụ yêu cầu cử các “hào trưởng người Việt” thay thế cho quan chức
Hán “Nhưng dù là người Việt nếu là quan tham nhũng cường hào, ác bá bóc lột
bách tính thì cũng bãi miễn. Quan lại người Việt phải có đức có tài, tuyệt đối
vì bách tính vì nước và trung thành với Tiết độ sứ”.[19] Và khi Khúc Thừa Dụ mất,
con là Khúc Hạo lên thay cũng duy trì tư tưởng thân dân trong chính sách cai trị,
ông yêu cầu “khi cai trị, quan lại các cấp phải khoan dung, giản dị để nhân dân
được yên vui. Khoan dung là không bắt buộc khắt khe quá đối với nhân dân. Kiên
quyết chống tham quan ô lại, giản dị là nền hành chính không quan liêu, không
nhũng nhiễu, phiền hà nhân dân, tạo cho nhân dân yên vui, an cư lạc nghiệp. Đó
là lý tưởng ước mơ nơi làng xã. Đó là nền chính trị thân dân”.[20]
Xuất phát từ tư tưởng thân dân, Cao Văn Liên cũng chỉ ra những
hạn chế trong việc lãnh đạo đất nước của Triệu Việt Vương khi xây dựng nhà nước
Vạn Xuân. Trong cái nhìn của Cao Văn Liên: “Nước Vạn xuân đang đứng trước tai họa
mà trước tiên là Hoàng gia họ Triệu và Triệu Việt Vương, một con người nhân từ,
tín nghĩa nhưng nhân từ tín nghĩa đã đặt nhầm chỗ” khi chia một phần lãnh thổ
quốc gia cho Lý Phật Tử, “một kẻ bất tài hèn nhát nhưng tham lam danh vọng, địa
vị, quyền lực, tiền tài, khi kháng chiến gian khổ thì bỏ trốn, khi đất nước phục
hưng thì giở đủ trò gian manh để được vinh thân phì da… không quan tâm gì đến sự
tồn vong của dân, của nước”.[21] Sai lầm của Triệu Việt Vương, không chỉ thể hiện
ở hành động cụ thể đó, mà nguy hiểm hơn là ở tư tưởng: “Đặt quyền lợi gia đình
trên lợi ích quốc gia, không nhận rõ bạn thù, không nghe lời những trung thần,
những người trí thức biết nhận rõ thời cuộc”[22] nên phải nhận sự thất bại
trong xây dựng đất nước và chống ngoại xâm là tất yếu. Đây là bài học thiết thực
trong hành trình dựng nước, giữ nước đã được lịch sử xác chứng mà những người
có vai trò lãnh đạo đất nước ở mọi thời kỳ lịch sử không thể không lưu tâm, nếu
có tấm lòng với đất nước, với dân tộc, với nhân dân…
Và để có nhà nước thân dân, một vấn đề được các triều đại
phong kiến quan tâm sau khi đánh thắng ngoại xâm, tiến hành xây dựng đất nước
là việc chọn người lãnh đạo, không chỉ đủ tài thao lược mà còn phải có tư tưởng
vì dân. Thế nên, sau khi thắng quân Nam Hán, Đinh Công Tráng đã đề nghị Đương
Đình Nghệ nhận chức Tiết độ sứ để lãnh đạo đất nước vì: “Công việc đứng đầu quốc
gia là một trọng trách nặng nề, khó nhọc phải đủ tài đức, nhiều kinh nghiệm, lại
phải được anh hùng hào kiệt quan chức các cấp và bách tính tín nhiệm, uy đức
vang xa bốn biển, vua chúa phương Bắc phải khâm phục, nể sợ. Nay chúa
công là người tài đức, uy vũ vang bốn phương, bách tính đều mong muốn, xin chúa
công đừng từ chối”.[23] Là người lãnh đạo chính trực, có tư tưởng thân dân, được
tướng sĩ kính trọng, nên khi bố trí cán bộ, Dương Đình Nghệ luôn đặt quyền
lợi dân tộc lên trên quyền lợi gia tộc xóm làng, địa phương, vì theo ông: “Xưa
nay kẻ làm quan ở quê nhà sẽ trở nên hư hỏng vì họ hàng anh em nhờ cậy, Nhờ cậy
quan không được thì họ nhờ vợ con quan. Nể tình anh em họ hàng, vợ con quan vi
phạm và cuối cùng quan vì vợ con cũng vi phạm phép nước”.[24] Đây không chỉ là
chuyện của lịch sử xa xưa mà là chuyện của muôn đời, là bài học cấp thiết cho
hôm nay về việc đào tạo và bố trí cán bộ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước, nếu chúng ta không muốn đi ngược lại những vấn đề có tính qui luật phổ
quát mà tiền nhân đã giáo huấn.
Tư tưởng xây dựng người cán bộ có đức tài, có tư tưởng thân
dân trong cảm quan của Cao Văn Liên ở Việt Nam diễn nghĩa còn được
minh chứng qua là lời Kiều Công Chuẩn, con trai Kiều Công Tiễn cảnh tỉnh cha
mình, khi Kiều Công Tiễn cho biết âm mưu lật đổ Dương Đình Nghệ, giành chức Tiết
độ sứ để thỏa mãn tham vọng muốn đứng đầu thiên hạ: “Cha và thúc thúc nói sai rồi,
chúng ta nghèo khó, tài năng có hạn nên về với Dương Đình Nghệ để lập thân. Thực
ra trong 14 năm qua anh em ta đóng góp cho sự nghiệp của Tiết độ sứ chúa công,
cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước không đáng kể, nhưng vẫn được cất nhắc (…) Nay
chúng ta giết Dương Đình Nghệ là phụ nghĩa, là bất hiếu, giết người nâng đỡ
mình là bất nghĩa, giết người cầm đầu đất nước là bất trung, giết người chính
nghĩa là bất đạo. Bất hiếu, bất trung, bất đạo, bất nghĩa thì giàu sang quyền lực
làm gì cũng không xứng đáng đứng trên cõi đời này nữa. Xin cha và thúc thúc đừng
đưa chúng ta vào con đường phản bội”.[25] Và không chỉ có lời cảnh báo của Kiều
Công Chuẩn mà Lưu Định, gia tướng của Kiều Công Tiễn cũng mạnh dạn chỉ trích, vạch
trần những việc làm sai trái của Kiều Công Tiễn, khi làm Thứ sử Phong Châu, chẳng
những Kiều Công Tiễn không thực hiện đúng chủ trương khoan sức dân của Dương
Đình Nghệ mà còn ra sức vơ vét tiền, của, nhân dân “Đẩy bách tính Phong Châu
vào cuộc sống khổ cực, oan trái mà không biết kêu vào đâu được. Chúng ta thủ
tiêu tất cả những cư dân nào dám kiêu ca phàn nàn, tỏ sự căm thù oán hận. Chúng
ta đã hoành hành bá đạo, không coi quốc pháp là gì. Chúng ta đã dung túng cho
các huyện trưởng, giáp trưởng, xã trưởng, thôn trưởng hoành hành ngang ngược với
bách tính. Họ không sợ gì vì có chúng ta dung túng. Chúng ta đã bá đạo thì cũng
không thể ngăn cấm, trừng phạt được họ khi họ bá đạo. Nhà dột từ nóc, thượng bất
chính, hạ tất loạn. Nay chúa công lại muốn mưu đồ phản nghịch đó là bất trung,
bất hiếu, bất đạo, phản quốc và phản bách tính. Cúi xin Chúa công từ bỏ tham vọng
thì họ Kiều chúng ta mới tồn tại lâu dài được”.[26] Hay khi Kiều Công Tiễn bàn
với Kiều Công Thuận mưu toan rước nhà Hán đem quân tiêu diệt Ngô Quyền đã bị Kiều
Công Thuận phản đối, cho rằng đó là “hành động bán nước, là phản quốc (…) Với
dân Việt tội gì họ cũng có thể tha thứ, nhưng tội phản quốc thì họ không tha, lại
còn bị muôn đời nguyền rủa, hàng nghìn năm, con cháu không ngóc đầu lên được”.[27]
Tư tưởng thân dân trong cảm thức lịch sử của Cao Văn Liên về mối quan hệ giữa
dân tộc với người lãnh đạo đất nước còn thể hiện rõ trong lời truyền ngôi của
Ngô Quyền cho con là Ngô Xương khi ông căn dặn: “Con phải làm một ông vua tốt với
dân, trung với nước, đặc biệt phải giữ được cơ nghiệp độc lập mà cha ông gian
khó, bách tính hy sinh to lớn mới giành lại được”.[28] Hoặc lời xác quyết của
Dương Thái Hậu khi trao áo Long Bào cho Lê Hoàn: “Áo long bào và Quốc Ấn là quyền
lực của Hoàng đế, là quyền lực của quốc gia. Quyền lực quốc gia thì không phải
là của riêng một dòng họ nào”.[29] Đây là những mỹ ý không phải dễ nói ra, nhất
là khi đất nước còn trong vòng kiềm tỏa của chế độ phong kiến, một thể chế mà
Vua được xem là “Thiên tử” thay trời cai trị muôn dân. Vì vậy, trong cảm thức lịch
sử của Cao Văn Liên ở Việt Nam diễn nghĩa, tư tưởng thân dân là một hệ giá
trị, một phẩm tính đạo đức mang tính nhân văn cần có nơi người lãnh đạo trong vấn
đề trị quốc. Và hôm nay lời xác quyết ấy của Dương Thái Hậu, không phải, không
còn tính thời sự, khi vận mệnh của đất nước, của dân tộc không phải lúc nào
cũng “ca khúc thái bình muôn thuở” như khát vọng ông cha hằng mong ước. Vì vậy,
cảm thức về mối quan hệ giữa dân tộc và vai trò của người lãnh đạo đối với sự tồn
sinh của đất nước còn được Cao Văn Liên thể hiện ở tâm ý của Hoàng Thái Hậu Ỷ
Lan khi trả lời Lý Thánh Tông trong giấc mơ về tâm kế trị nước: “Muốn nước giàu
dân mạnh, điều quan trọng là phải biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời
nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm, thuốc đắng khó uống nhưng lại
chữa được bệnh. Phải xem quyền hành là thứ đáng sợ. Quyền lực và danh vọng thường
làm thay đổi con người. Tự mình lấy đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh lệnh,
dân bắt chước người trên thì sâu hơn pháp luật. Muốn nước mạnh thì Hoàng đế phải
nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo. Hội
đủ phương diện ấy, nước đại Việt sẽ vô địch”.[30] Và sự thức nhận về mối quan hệ
giữa dân tộc và vai trò lãnh đạo đối với vận mệnh đất nước, dân tộc, được kết
tinh sâu sắc trong Trần Thái Tông khi ông ý thức rằng: “Vua chỉ là một cá nhân
nhưng đôi khi vua có thể quyết định số phận của hàng chục triệu con người, số
phận của một quốc gia, của đất nước, nhất là trong giờ phút nghiêm trọng của
dân tộc. Vua phải sáng suốt, quyết tâm, phải hiểu ra rằng còn dân tộc mới còn
triều đình, còn quí tộc, mất dân tộc thì mất cả triều đình, mất cả quý tộc.
Không thể bán dân tộc để bảo vệ quyền lợi cho một tầng lớp”.[31] Tư tưởng thân
dân mà Cao Văn Liên ngợi ca trong Việt Nam diễn nghĩa không phải là
điều gì mới, đó chính là sự kết tinh truyền thống đạo đức đã hiện hữu trong lịch
sử dân tộc. Nhưng với tinh thần “ôn cố tri tân”, Cao Văn Liên muốn làm mới một
vấn đề tưởng như xa xưa nhưng không bao giờ cũ, và vẫn còn nguyên giá trị, bởi
tính thời sự của nó đối với cuộc sống hiện tại, để thức nhận chúng ta, những thế
hệ người Việt Nam đang tiếp bước cha ông bảo vệ và xây dựng đất nước. Bởi, khi
con người còn bị “hấp dẫn” trước những chủ thuyết mơ hồ, với các làn sóng văn
minh hiện đại gắn nhãn hiệu những dấu chấm không rồi quay lưng lại
với những giá trị nền tảng đạo đức của dân tộc, trong đó có tư tưởng thân dân,
yêu dân, kính dân, vốn là một phẩm tính mà người lãnh đạo đất nước cần phải có
như Nguyễn Trãi đã từng xác quyết trong Bình Ngô đại cáo: “Việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” thì tư tưởng thân dân thể hiện
trong cảm thức lịch sử của Cao Văn Liên ở Việt Nam diễn nghĩa vẫn rất
quan thiết và cần được trân quí.
Thay lời kết
Lịch sử của một dân tộc
không đơn thuần là những sự kiện, những con số, những trận đánh gắn với những địa
danh như lâu nay người ta vẫn nghĩ mà lịch sử dân tộc còn là tâm hồn, là tinh
anh, là tâm thức của dân tộc. Người viết lịch sử, kể cả viết lịch sử bằng tiểu
thuyết phải là người tái hiện tâm hồn dân tộc mình. Thế nên, phẩm tính cần thiết
của người viết lịch sử không chỉ có khối óc mà còn phải có trái tim, biết đau nỗi
đau của phận số dân tộc, của phận số mỗi con người, biết suy tư, biết xa xót,
trăn trở trước lẽ hưng vong của vận nước qua từng trang sử. Có như vậy, lịch sử
mới chạm được tâm thức, tâm cảm người tiếp nhận. Cảm thức lịch sử trong Việt
Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên chính là những trăn trở, những suy tư, dằn
vặt của một nhà nghiên cứu lịch sử mang cảm quan của một nhà văn trước vận mệnh
dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước. Bộ tiểu thuyết này, vì thế không
chỉ luận bàn chuyện quá khứ của lịch sử mà Cao Văn Liên muốn dùng lịch sử đã
qua như một gương soi những vấn đề hiện tại của đất nước mà một trí thức, một
nhà nghiên cứu lịch sử như ông không thể không thao thức, nghĩ suy. Tìm về với
cảm thức lịch sử trong Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn Liên là tìm về
với những ưu tư của một công dân trước vận mệnh đất nước, vì thế ta dễ bắt gặp
sự đồng cảm, sự sẻ chia vì những trăn trở của tác giả cũng chính là trăn trở của
những người con dân nước Việt luôn chất chứa trong tâm mình tình yêu tổ quốc và
nỗi ưu lo trước sự tồn vong, thịnh suy của dân tộc, một tình yêu mà nhạc sĩ Phạm
Duy đã chia sẻ trong nhạc phẩm Tình ca nổi tiếng: “Tôi yêu biết bao
người/ Lý, Lê, Trần… và còn ai nữa/ Những anh hùng của thời xa xưa/ Những anh
hùng của một ngày mai”. Phải chăng, Việt Nam diễn nghĩa của Cao Văn
Liên cũng là khối tình về đất nước, về dân tộc mà ông gửi lại cho đời…
Xóm
Đình An Nhơn, Gò Vấp, 7/3/2020
T.H.A
—
[1]Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa, tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.6
[2] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.5
[3] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.20 -21
[4] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.92
[5]Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.93
[6] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.99
[7] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.99 -100
[8] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức,2019, tr.119
[9] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.154-155
[10]Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.239
[11]Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1,Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.435
[12] Tào Mạc, Bài ca giữ nước,
Bộ ba chèo lịch sử, Nxb. Sân khấu, Hà Nội 1986, tr.19
[13] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.12
[14] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.14
[15] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019. tr.16
[16] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.115
[17]Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.310
[18] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.423
[19] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.423
[20] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.434
[21] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.315
[22] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.316
[23] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.467
[24] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.469
[25] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.475
[26] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.476
[27] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.499
[28] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 2, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.8
[29] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 2, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.229
[30] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 3, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.12
[31] Cao Văn Liên, Việt Nam diễn
nghĩa tập 3, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.91 – 92
20/3/2020
Trần Hoài Anh
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Làng Mới
Làng Mới Làng Mới dựng ven suối dưới chân thác Voi Trắng. Núi rừng mênh mông thả sức phá phách, chẳng ma nào dòm ngó. Lửa khói ngập trời. ...
-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...