Thứ Tư, 27 tháng 3, 2024

Cõi chết

Cõi chết

Lời nói đầu
Tháng 7 năm 1998 Hội đồng cố vấn của Modern Library, một bộ phận của nhà xuất bản Random House, gồm 10 thành viên trong đó có một phụ nữ đã bỏ phiếu chọn một danh sách gồm 100 tiểu thuyết hay nhất viết bằng Anh Ngữ của thế kỷ 20 (Newsweek, 3 Aug. 1998, "Battle of the Books"). Trong số 100 tiểu thuyết được chọn có 6 tác phẩm được viết trong 25 năm qua. Cuốn Ulysses của James Joyce, một nhà văn người Áí nhĩ lan xuất bản năm 1922 đứng đầu danh sách. Cuối cùng là cuốn The Magnificent Ambersons của Booth Tarkington xuất bản năm 1918.
Không phải nhà văn nào cũng đồng ý với lựa chọn này, nhưng ít nhất sự lựa chọn cho chúng ta một tiêu chuẩn tương đối giúp giới thưởng ngoạn văn học quan sát một phần sinh hoạt văn học của thế kỷ này.
Riêng nhà văn James Joyce có 3 tác phẩm được chọn trong số 100. Ngoài cuốn Ulysses là cuốn A Portrait of the Artist As a Young Man xuất bản năm 1916, sắp hạng 3 và cuốn Finnegans Wake xuất bản năm 1939 sắp hạng 77.
James Joyce sinh tại thành phố Dublin, Ái nhĩ lan năm 1882 và là người độc nhất trong gia đình được ăn học đến nơi đến chốn, Năm 16 tuổi ông vào đại học Dublin và tốt nghiệp năm 20 tuổi. Lúc đó James Joyce đã được biết đến qua bài bình luận về Ibben ông viết đăng trên tờ Fortnightly Review có uy tín trong giới văn học Anh. Năm 1904 James Joyce rời nước qua lục địa Âu châu sống ở Paris, Zurich, Trieste sinh nhai bằng nghề dạy Anh Ngữ, và sống trong nghèo túng cho đến năm 1919 ông được ông Harriet Weaver vì mến tài giúp đỡ một số tiền lớn. Lúc này James Joyce đã nổi tiếng trong giới văn học Âu châu. Việc xếp cuốn Ulysses của ông lên hàng đầu của các tác phẩm viết bằng Anh ngữ hay nhất của thế kỷ dù chỉ là một lựa chọn tương đối đã xác nhận văn tài của ông.
Chuyện ngắn "The Dead" tôi dịch sau đây ông viết năm 25 tuổi (khi Anh quốc còn đô hộ Ái nhĩ lan, một quốc gia có hai tôn giáo, hai ngôn ngữ do ảnh hưởng của người Anh) và được xem là một trong những chuyện ngắn xuất sắc nhất của ông. James Joyce qua đời năm 1941, hưởng thọ 59 tuổi.
Trần Bình Nam
Lily, cô con gái của người quản gia tiếp khách không ngớt. Treo nón mũ và áo choàng của người này chưa xong chuông cửa đã reo, cô phải vội chạy ra mở cửa cho một người khách khác. Cũng may Lily không phải lo tiếp các bà. Dì Kate và dì Julia đã cho biến cải một phòng tắm trên gác làm chỗ để nón mũ cho phái nữ và lo luôn việc tiếp khách. Dì Kate và dì Julia cười nói tíu tít với khách, thỉnh thoảng ngoái cổ xuống thang hỏi Lily ai vừa tới.
Dạ vũ hằng năm của nhà họ Morkan là một dịp vui lớn trong vùng. Ai cũng đến tham dự. Họ hàng bà con ở xa về, bạn bè thân thiết, thành viên trong ca đoàn của dì Julia, học trò lớn tuổi của dì Kate và có cả học trò nhỏ tuổi hơn của Mary Jane, cháu cưng của hai bà. Ðêm dạ vũ năm nào cũng rất thành công, mỗi năm một kiểu cách riêng, ngay cả sau khi Pat, người em trai độc nhất của hai bà chết, Kate và Julia bỏ ngôi nhà xinh xắn ở Stoney Batter dọn về một ngôi nhà nhỏ hơn trên đảo Usher thuê của ông Fulham để nuôi Mary Jane. Tính ra cũng gần 30 năm, khi Mary Jane còn là một cô gái thích mặt váy ngắn nổi tiếng trong vùng nhờ tài chơi đàn ống ở nhà thờ. Tốt nghiệp trường mỹ thuật, Mary Jane mở lớp dạy nhạc. Học trò của cô thuộc các gia đình quí phái trong vùng như Kingstown và Dalkey. Tuy đã lớn tuổi hai người cô của Mary Jane cũng được mọi người chú ý nhờ hát hay và giỏi âm nhạc. Julia dẫn đầu giọng cao trong ban nhạc Adam và Eve. Kate, sức khỏe kém hơn dạy piano cho những người mới học trong một phòng nhỏ phía sau nhà. Lily lo việc nhà cửa và nấu nướng. Ba cô cháu sống không phô trương nhưng biết chọn món ăn và hơi cầu kỳ một chút: thịt thăn bò hảo hạng, trà ướp hoa lài và bia đen đựng trong chai. Lily biết ý chọn thức ăn cẩn thận nên hợp tính với ba cô chủ. Nói chung ba cô chủ cũng dễ chìu, miễn là đừng có thói cãi lại tay đôi với chủ.
Ðêm dạ vũ ba cô chủ có khó tính đòi hỏi này nọ một chút cũng dễ hiểu. Hơn mười giờ rồi mà chưa thấy vợ chồng Gabriel đến. Còn Freddy Malins, sợ nhất là uống rượu đâu ngà ngà say mới đến. Mấy bà chủ ngại học trò của Mary Jane thấy Freddy Malins lúc chàng say, lúc say chàng ta ăn nói rất bừa bãi. Freddy Malins thường đến trễ, nhưng không biết sao hôm nay Gabriel cũng trễ. Cách hai ba phút hoặc Kate, hoặc Julia ngoái cổ xuống lầu hỏi Lily Gabriel hay Freddy đã tới chưa.
- Chào ông Conroy, Lily vừa mở cửa vừa chào Gabriel, dì Kate dì Julia tưởng ông bà không tới được, và xin chào bà Conroy.
- Tôi cũng tưởng không tới được, Gabriel hóm hỉnh nhìn vợ trả lời, mấy dì đâu có biết bà vợ tôi sửa soạn sắc đẹp mất ba giờ đồng hồ.
Gabriel đứng nơi ngưỡng cửa phủi tuyết dính vào giày, trong khi Lily dẫn bà vợ đến chân cầu thang nói vọng lên trên.
- Dì Kate, bà Conroy đã đến.
Kate và Julia vội chạy xuống thang lầu hôn bà Conroy rối rít, nói tưởng bà ta bị tuyết chôn rồi và hỏi Gabriel có đến không.
- Tôi đến có trễ lắm đâu, dì Kate. Dì lên trước đi, tôi sẽ theo ngay, vừa nói bà Conroy vừa gọi Gabriel nhanh lên.
Gabriel tiếp tục phủi tuyết dính trên vai áo choàng và mũi giày trong khi ba người phụ nữ bước lên phòng cất áo mũ, vừa cười vừa nói oang oang. Gióù lạnh buốt lùa vào phòng qua khe cửa vừa đóng.
- Tuyết lại rơi phải không, thưa ông Conroy? Lily hỏi.
Cô đi trước vào phòng nhỏ bên cạnh dùng để vắt áo mũ, sẵn sàng giúp Gabriel cởi chiếc áo choàng. Gabriel mĩm cười cung cách xưng hô của Lily, chàng ngước nhìn cô gái duyên dáng. Lily thon nhỏ, đang độ nẩy nở, tóc vàng, nước da ngăm ngăm. Ánh sáng bập bùng nơi lò sưởi tỏa ra làm nước da cô ngăm hơn. Gabriel biết Lily từ hồi cô còn là một cô bé tí xíu hay ngồi dựa vào bậc thang gác gỗ chơi búp bê.
- Vâng, cô Lily, tuyết lại xuống, ít nhất suốt đêm nay. Gabriel ngước nhìn trần nhà rung rinh theo bước chân trên sàn phòng nhảy trên lầu, lắng nghe tiếng đàn piano một lúc rồi quay nhìn Lily đang xếp áo choàng của chàng đặt lên kệ gỗ.
- Cô còn đi học không Lily? Gabriel thân mật hỏi.
- Thưa ông, không. Năm nay tôi đã nghỉ học.
- Gabriel vui vẻ, vậy chúng tôi sắp được ăn cưới của cô với người thanh niên trẻ tuổi đó rồi.
Lily ngoái nhìn Gabriel, trả lời giọng không vui.
- Ðàn ông bây giờ chỉ biết ba hoa để chiếm đoạt thôi, thưa ông.
Gabriel biết mình lỡ lời. Chàng tránh đôi mắt của Lily, cúi xuống dùng chiếc khăn quàng cổ đập mạnh vào đôi giày da còn bám tuyết.
Gabriel còn trẻ, nước da như sạm nắng, lưỡng quyền cao nhô ra thi đua với chiếc trán vồ điểm những vết đỏ không hình dáng. Ðôi mắt sáng như thấu suốt mọi chi tiết chung quanh ẩn dưới đôi kính gọng vàng lóng lánh. Mái tóc đen dày chải lật ra sau, nằm hai bên một đường ngôi ở giữa, uốn cong lên dưới vành mũ.
Phủi đôi giày thật bóng xong, Gabriel đứng lên kéo thẳng chiếc áo gi-lê trên thân hình đẫy đà, xong lấy trong túi một đồng dúi vào tay Lily.
- Cô Lily, tôi có chút ít này, mùa Giáng sinh đến rồi, vừa nói vừa rảo bước đến bậc thang dẫn lên lầu.
- Lily vừa chạy theo Gabriel vừa nói, không, thưa ông, tôi không nhận đâu.
- Gabriel đi như muốn chạy vừa khoác tay ra sau vừa bảo, mùa Giáng sinh, mùa Giáng sinh mà cô Lily.
Thấy Gabriel đã bước lên mấy bậc thang Lily đành nói với theo.
- Cám ơn ông vậy.
Bản đàn khiêu vũ chưa dứt, Gabriel đứng đợi ngoài cửa lắng tai nghe tiếng động nhè nhẹ trên sàn. Gabriel còn áy náy về thái độ của Lily lúc nãy, hai tay sửa áo và nơ cổ để cố quên. Chàng rút trong túi áo gi-lê một mảnh giấy ghi đại ý những gì chàng sẽ phát biểu trong bữa cơm hôm nay. Chàng ghi vài ý của Robert Browning nhưng do dự không biết có nên dùng không, sợ cử tọa không hiểu. Nhắc đến Shakespeare hay Melodies chắc ai cũng biết. Nghe tiếng chân nhảy trên sàn, Gabriel đoán biết đa số khách không thuộc lớp tuổi và giáo dục của ông. Ðem văn thơ nói chuyện với họ là một sự lố bịch và họ có thể nghĩ ông muốn khoe sự hiểu biết của ông. Ông sẽ thất bại với giới trẻ như câu hỏi vô ý tứ vừa rồi với Lily. Ông nghĩ những gì đã soạn sẵn không dùng được.
Vừa lúc đó hai bà dì và vợ ông từ phòng vắt áo của các bà bước ra. Hai dì trộảng tuỗi, ăn mặt đúng cách. Dì Julia cao hơn dì Kate mấy phân, tóc bạc phủ xuống quá vành tai, da mặt trắng, sậm hơn tóc, vết nhăn trông rõ trên khuôn mặt rộng. Dì còn khỏe, lưng thẳng, nhưng đôi mắt không nhanh nhẹn, đôi môi trề làm cho dì có dáng dấp của một phụ nữ không biết mình đang ở đâu và làm gì. Dì Kate tuy không khỏe bằng nhưng sắc sảo hơn. Khuôn mặt còn đầy sức sống dù có những vết nhăn, mái tóc vẫn còn giữ được màu nâu của tuổi trẻ, quấn theo kiểu phụ nữ lớn tuổi.
Hai bà vui mừng hôn Gabriel. Gabriel là cháu cưng của hai bà, con trai của chị Ellen đã qua đời. Bà Ellen làm dâu dòng họ Conroy giàu có ở Port & Docks.
- Gretta nói với dì hôm nay cháu sẽ không dùng xe ngựa về khách sạn phải không, dì Kate hỏi.
- Dạ phải, Gabriel vừa đáp vừa nhìn vợ, nhớ năm trước ngán quá phải không em? Chắc dì còn nhớ Gretta đã bị lạnh như thế nào. Cửa xe kêu lạch cạch suốt đoạn đường, và sau khi qua khỏi Merrion gió đông lùa vào xe lạnh không chịu được. Vui thì có vui, nhưng Gretta sau đo bị cảm cúm.
Dì Kate vừa nghe vừa gật gù.
- Gabriel, nhưng cũng vậy thôi. Cẩn thận là tốt, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng cẩn thận được. Dì Kate nói.
- Nhưng với Gretta, Gabriel nói, nếu để tùy ý thì trời tuyết cũng vẫn muốn đi bộ thôi.
Gretta cười, tiếp lời Gabriel.
- Dì Kate, đừng để ý những gì ảnh nói. Ảnh rất nhiều chuyện. Ảnh bắt Tom đeo kính mầu lục ban đêm, tập tạ và bắt Eve ăn cháo bắp trộn sữa. Tội nghiệp Eva, thấy cháo đã muốn ói nói gì đến ăn. Chưa hết, nếu dì đoán được ảnh muốn cháu ăn mặc như thế nào. Ảnh bảo cháu mang ủng mỏng bọc ngoài đôi giày. Ảnh nói trời tuyết trên lục địa ai cũng dùng. Mang ủng mỏng bọc giày thì còn gì là đôi chân của phụ nữ. Hôm nay ảnh bắt cháu mang, cháu nhất định không mang. Cứ đà này ảnh sẽ mua cho cháu một bộ đồ thợ lặn để dùng khi trời mưa.
Vừa nói Gretta vừa cưới ngất nhìn chồng đang nhìn nàng dắm đuối từ trang phục đến khuôn mặt, mái tóc. Hai bà dì cũng cười thích thú với lối nói diễu cợt của Gretta.
- Gretta, dì Kate bỗng hỏi, mấy đứa nhỏ ở nhà một mình cháu có lo không?
- Dạ, một đêm thì không sao. Hơn nữa còn có Bessie coi tụi nó.
- Dì hỏi để yên bụng thôi, dì Kate nói. Không gì tốt bằng có một người giúp việc tin cậy. Ở đây dì có Lily. Có điều gần đây không biết vì sao cô ta hơi đổi tính.
Gabriel định hỏi thêm chuyện đó, bỗng thấy dì Kate ngừng nói ngoái cổ xuống cầu thang nhìn Julia đang chạy xuống lầu. Dì hỏi, Julia, Julia em đi đâu vậy. Cái gì đó?
Julia bước lên, không vội vã, trả lời:
- Freddy tới
Vào lúc đó có tiếng vỗ tay vọng ra từ phòng khiêu vũ. Tiếng đàn piano kết thúc bản nhạc vanxơ. Cửa phòng dạ vũ mở, nhiều cặp nam nữ bước ra. Dì Kate kéo Gabriel ra một bên ghé vào tai dặn dò:
- Gabriel, cháu giúp dì xuống tiếp Freddy. Nếu thấy hắn say đừng cho hắn lên, phiền lắm. Dì chắc hắn say.
Gabriel đứng trên bậc thang nghiêng tai vào tay vịn cầu thang để nghe cho rõ. Có tiếng hai người đang nói chuyện với nhau dưới lầu. Nhận ra tiếng cười của Freddy Malins, Gabriel vội vã chạy xuống, đế giày ròn rã trên bậc thang.
- Có Gabriel ở đây dì yên tâm, bà Kate nói với Gretta. Quay sang Julia, Kate nói, cô Daly và cô Power đang khát nước. Cám ơn Daly, cô đàn bản vanxơ hay quá. Cô làm cho buổi dạ vũ thêm phần giá trị.
Một người đàn ông cao lớn da mặt nhăn, ngăm ngăm đen, bộ râu cứng đã ngả màu, từ phòng dạ vũ bước ra với một người phụ nữ, nói với dì Kate.
- Bà Morkan, chúng tôi có thể dùng nước giải khát không?
- Dì Kate nói với Julia, đây là ông Browne và cô Furlong. Em đưa họ và các cô Daly, Power vào phòng giải khát luôn.
- Tôi là người đàn ông của phụ nữ, ông Browne nói, môi mím chặt làm bộ râu dựng lên như bàn chải, cười toe toét làm nổi bật thêm các vết nhăn trên mặt. Bà Morkan, bà có biết tại sao phụ nữ thích tôi không?
Chưa nói hết câu ông Browne thấy dì Kate bỏ đi chỗ khác, ông vội đưa ba người phụ nữ vào phòng giải khát. Giữa phòng có hai bàn hình vuông kê sát nhau. Dì Julia và người quản gia đang trải và vuốt thẳng tấm khăn bàn. Góc phòng có một bàn nhỏ để một chồng đĩa, li, dao, muỗng, nỉa. Trên cây đàn piano sát tường có thịt nguội và thức uống, rượu li-cơ, rượu vang, nước ngọt và bánh. Gần đó hai người trẻ tuổi đứng uống nước ngọt trước một bàn nhỏ khác.
Ông Browne đưa ba người phụ nữ đến chỗ để nước uống và rượu. Ba người phụ nữ nói không uống được rượu, ông Browne mở ba chai nước chanh lịch sự mời. Xong tự rót đầy một ly whiskey, nhắp nhắp thử rượu rồi nốc cạn ly. Hai người trẻ tuổi nhìn ông Browne ra vẻ thán phục.
- Xin đừng lấy làm lạ, ông vừa cười vừa nói, bác sĩ bảo whiskey là thuốc của tôi.
Ba người phụ nữ ngặc nghẹo cười theo ra chiều khoái trá. Một cô bạo dạn hỏi:
- Này ông Browne, ông nói vậy chớ chẳng có bác sĩ nào viết toa như vậy phải không?
- Chưa chắc, cũng tùy bác sĩ thôi, ông Browne trả lời.
Ông Browne vừa nói vừa dí mặt nóng hổi gần mặt mấy người phụ nữ trẻ tuổi, giọng nói thuộc giới hạ lưu Dublin làm ba người phụ nữ thấy chột dạ không ai muốn trả lời. Cô Furlong, một người học trò của Mary Jane hỏi cô Daly bản nhạc vanxơ cô vừa đàn là bản gì, và ông Browne cảm thấy bị bỏ rơi quay sang nói chuyện với hai thanh niên trẻ tuổi.
Một phụ nữ hồng hào, mặc một chiếc áo ngắn sặc sỡ bước vào phòng vỗ tay nói lớn:
- Ai muốn nhảy quadri, ai muốn nhảy quadri?
- Chúng ta cần hai nam và ba nữ, Mary Jane. Dì Kate theo sau dặn với.
- Ðây rồi, ông Bergin và ông Kerrigan, Mary Jane vui mừng nói, ông Kerrigen, ông nhảy với cô Power nhé? Còn cô Furlong, tôi giới thiệu cô nhảy với ông Bergin, như vậy tạm đủ rồi.
- Chưa đủ Mary Jane, cần ba nữ lận.
Trong khi Bergin và Kerrigan mời cô Power và Furlong vào phòng khiêu vũ, Mary Jane hỏi cô Daly.
- Cô Daly, cô đã đánh hai bản đàn mệt rồi tôi không dám mời, nhưng hôm nay thiếu phụ nữ, cô nhảy quadri nhé?
- Không sao đâu, tôi còn sức mà, cô Morkan.
- Tôi có một bạn nhảy lý tưởng cho cô, ông Bartell D'Arcy, người hát giọng cao trong ban nhạc. Nhưng ông ta sẽ hát sau. Cả thành phố Dublin này đang nói về ông ta.
- Giọng của ông D'Arcy thì tuyệt, dì Kate phụ họa.
Nghe piano trổi nhạc Mary Jane dẫn mọi người bước nhanh ra khỏi phòng. Họ vừa ra dì Julia bước vào, vừa đi vừa ngoái nhìn phía thang lầu.
- Gì vậy Julia? Dì Kate hỏi có vẻ lo lắng. Ai vậy?
Julia, hai tay ôm một chồng giấy lau tay, quay nhìn dì Kate, hơi ngạc nhiên về câu hỏi của chị.
- Có gì đâu Kate. Freddy tới và Gabriel đang mời ông ta lên.
Ngay lúc đó Gabriel và Freddy Malins bước vào. Freddy Malins, trạc bốn mươi, thân hình chắc chắn như Gabriel, đôi vai gọn. Mặt đầy, da hơi tái, mũi thấp nằm giữa hai trái tai đỏ ửng. Dáng dấp hơi thô, trán cong núp sau đôi lông mày rậm, môi mọng hơi trề. Mí mắt lớn che một phần đôi mắt và bộ tóc thưa lộn xộn làm cho ông ta như người buồn ngủ. Freddy đang khoái chí cười kể một câu chuyện gì đó cho Gabriel, vừa dùng lưng bàn tay trái dụi mắt.
- Chào Freddy, dì Julia nói.
Freddy Malins đáp lễ dì Julia cho có lệ vì giọng vốn khó nghe, bước nhanh băng qua phòng đến nơi ông Browne đang đứng, nhìn ông ta vừa cười, vừa kể lại câu chuyện vui vừa kể cho Gabriel nghe.
- Hôm nay Freddy không say lắm phải không? Dì Kate hỏi Gabriel.
- Chút chút thôi, Gabriel trả lời.
- Không đến nổi gì đâu, dì Kate nói tiếp. Trước ngày đầu năm vừa rồi mẹ anh đã bắt anh thề không uống rượu. Nhưng thôi, Gabriel mình vào phòng nhảy đi cháu.
Trước khi rời phòng với Gabriel, dì Kate nhíu mày ra hiệu cho ông Browne và đưa ngón tay qua lại. Ông Browne hiểu ý gật đầu. Dì Kate vừa ra khỏi ông Browne quay sang nói với Freddy.
- Tôi sẽ mời anh uống một li nước chanh cho khỏe.
Freddy khoát tay từ chối, muốn kể tiếp câu chuyện đang kể, trong khi ông Browne nhắc Freddy sửa lại vạt áo gi-lê vừa rót đưa tận tay Freddy một ly nước chanh đầy. Không tỏ ý quan tâm, Freddy đưa tay trái cầm ly nước chanh, tay phải sửa lại vạt áo cho ngay. Ông Browne tự rót cho mình một ly whiskey trong khi Freddy Malins đặt vội ly nước chanh đầy chưa đụng môi xuống bàn đưa lưng bàn tay dụi mắt, giọng khàn khàn cười thích thú kết thúc câu chuyện.
Phòng dạ vũ chật ních. Gabriel không chú ý thưởng thức bản đàn Academy Mary Jane đang dạo, từng đoạn từng khúc như lên thác xuống ghềnh. Gabriel thích âm nhạc, nhưng bản Academy không mang lại cho ông một giai điệu gợi nhớ nào, và ông ta nghĩ thính giả trong phòng cũng vậy, mặc dù chính họ đã yêu cầu Mary Jane dạo một bản đàn. Bốn người trẻ tuổi bên phòng giải khát đi sang, dừng lại nghe tiếng đàn, rồi sau vài phút chia nhau từng cặp tiến ra sàn nhảy. Hình như không ai để ý đến nhạc ngoại trừ Mary Jane đôi bàn tay thoăn thoắt trên phím đàn và dì Kate đứng bên cạnh lật từng trang nhạc cho Mary Jane.
Tránh ánh sáng phản chiếu xuống sàn bóng nhoáng từ chùm đèn treo trên trần nhà Gabriel ngước mắt nhìn mấy bức tranh lông treo phía trên cây đàn piano. Một bức minh họa Juliet đứng trên bao lơn tình tự với Romeo tả trong cuốn Romeo và Juliet treo bên cạnh một bức khác minh họa hai vị hoàng tử bị giết trong cuốn Tower, cả hai do dì Julia thực hiện bằng len mầu đỏ, xanh và nâu lúc dì còn là một cô gái. Có lẽ vào thời đó ở trường người ta dạy các nữ sinh thực hiện những tác phẩm như vậy, vì có một năm nhân sinh nhật mẹ chàng làm cho chàng một chiếc áo gi-lê bằng nhung tím, trên có mấy đầu chồn bằng lông nho nhỏ viền bằêng sa-tanh màu nâu, đơm nút mầu xanh lá dâu. Gabriel lấy làm lạ không hiểu sao mẹ chàng không có khiếu âm nhạc vẫn được dì Kate xem là người thừa kế tinh hoa của nhà họ Morkan. Dì Kate và dì Julia lúc nào cũng tự hào về người chị nghiêm khắc của mình. Gabriel nhìn kỹ bức hình của mẹ gắn trên một khung gỗ bóng nhoáng treo gần đó. Bà ngồi một tay đỡ một cuốn sách mở trên đầu gối, tay kia chỉ một cái gì trên trang giấy cho Constantine mặc quân phục đang quì bên cạnh chăm chú nhìn. Bà đích thân chọn tên cho các con vì bà rất quan tâm đến truyền thống của dòng họ. Nhờ bà Constantine trở thành phó mục sư địa hạt Balbriggan và Gabriel tốt nghiệp được tại đại học Hoàng gia. Một kỷ niệm không vui khi Gabriel nhớ lại sự phản đối của mẹ đối với hôn nhân của chàng. Những lời mẹ nói về Gretta chàng vẫn còn nhớ. Có lần bà cho Gretta chỉ là một cô gái quê nhí nhảnh đa tình, và đến nay Gabriel vẫn khó đồng ý với mẹ. Chính Gretta là người đã tận tụy chăm sóc bà trong những ngày tháng dài bà nằm trên giường bệnh tại nhà ở Monktown trước khi qua đời.
Gabriel biết bản đàn sắp dứt, Mary Jane đang đạo lại đoạn mở đầu, lòng chàng dịu lại. Mary Jane kết thúc bản đàn, cung điệu vút lên cao đột nhiên xuống thấp rồi tắt hẳn. Tiếng vỗ tay vang dội trong khi Mary Jane thoải mái đậy nắp đàn đứng dậy bước ra khỏi phòng. Mấy người trẻ tuổi nãy giờ ở bên phòng giải khát vừa trở lại phụ họa vỗ tay ròn rã nhất.
Bản nhạc tới Gabriel được xếp nhảy với cô Ivors. Ivors là một phụ nữ trẻ tuổi ăn nói tự nhiên đến độ không giữ gìn, mặt tàn nhang và đôi mắt nâu sắc sảo. Cô không mặc áo ngắn phủ lên trên chiếc áo đầm như các phụ nữ khác làm hiện rõ một con bướm nhựa to tướng gắn trước cổ áo.
Ðiệu vũ vừa bắt đầu Ivors đột ngột nói với Gabriel.
- Tôi có một câu đố cho anh.
- Cho tôi? Gabriel hỏi.
Cô Ivors gật đầu một cách quan trọng.
- Gì vậy? Gabriel nhìn Ivors cười, nghiêm nghị
- Ai là G.C.? Ivors trả lời, nhìn thẳng vào mắt Gabriel.
Gabriel hơi nóng mặt, cau mày định tỏ ý không hiểu câu hỏi của Ivors thì Ivors nói một hơi.
- Ông Amy ngây thơ ơi! Tôi biết tỏng anh viết cho tờ Daily Express. Anh không thấy ngượng sao?
- Tại sao tôi phải ngượng, Gabriel hỏi, mắt chớp nhanh, cố gắng giữ nụ cười trên môi.
- Vâng. Tôi thì rất ngượng cho anh, cô Ivors thẳng thừng trả lời. Anh mà lại viết cho một tờ báo lá cải như vậy. Tôi không thể nghĩ anh là người Ái nhĩ lan.
Vẻ lúng túng hiện trên nét mặt Gabriel. Ðúng, chàng có phụ trách mục văn học mỗi ngày Thứ tư cho tờ The Daily New, mỗi kỳ mười lăm bản Anh. Nhưng không vì vậy mà chàng không phải là người Ái nhĩ lan. Sách tòa báo gởi đến cho chàng để phê bình giá trị hơn mười lăm đồng mỗi kỳ nhiều. Chàng không quên cảm giác khoái trá khi nhìn những chiếc bìa sách mới tinh và lật những trang chữ còn thơm mùi giấy ở nhà in. Hằng ngày sau giờ dạy họĩc Gabriel hay tạt qua mấy tiệm sách cũ bên bờ sông từ tiệm Hickey's trên đường Bachelor's Walk, tiệm Webb's, tiệm Massey's cho đến tiệm O'Clohussey nằm một con đường nhỏ khác. Gabriel không biết nên trả lời Ivors sao. Gabriel muốn nói văn học trên chính trị. Nhưng hai người vốn là bạn lâu năm, từ những ngày học ở đại học, nay cùng đi dạy, Gabriel không muốn dùng lời lẽ quan trọng với Ivors. Gabriel tiếp tục chớp mắt, giữ nụ cười vô thưởng vô phạt và trả lời đại khái chàng không thấy có gì là chính trị khi phụ trách một mục phê bình văn học.
Ðến lúc cần xoay mình theo điệu vũ, Gabriel vẫn còn bối rối. Cô Ivors vội nắm chặt bàn tay của Gabriel nói một cách thân mật.
- Tôi chỉ nói đùa thôi. Nào hãy chuẩn bị.
Xoay xong, Ivors kể chuyện bàn tán ở trường đại học và tại sao cô biết chuyện viết phê bình văn học của Gabriel làm Gabriel thấy dễ chịu. Một người bạn cho cô xem một bài nhận định về thơ Browning và cô đoán biết ngay ai là tác giả. Ivors nói cô thích bài phê bình đó. Bỗng cô Ivors đổi đề tài.
- Này anh Connor. Mùa hè này có ra mũi Aran chơi không? Chúng tôi ra nghỉ hè ở đó một tháng. Mùa hè Ðại tây dương đẹp lắm. Anh nên đi. Ông Clancy cũng đến, và các ông Kilkelly, Kathleen Kearney. Nếu Gretta cùng đi với anh thì tuyệt. Gretta người vùng Galway phải không?
- Hình như vậy, Gabriel đáp gọn lỏn.
- Ðến nghe, hứa đi, vừa nói Ivors vừa đặt bàn tay ấm áp của cô trên cánh tay của Gabriel để thuyết phục.
- Rất tiếc, tôi đã có một chương trình nghỉ hè.
- Anh đi đâu? Ivors hỏi.
- Cô biết năm nào tôi và một số bạn cũng đi một vòng du lịch bằng xe đạp.
- Nhưng đi đâu? Ivors nhắc lại câu hỏi.
- Thường chúng tôi đi Pháp, Bĩ hay Ðức, Gabriel miễn cưỡng trả lời.
- Tại sao anh đi Pháp và Bĩ, cô Ivors nói, trong khi nước mình có biết bao chỗ đáng xem.
- Ðúng vậy, Gabriel trả lời, nhưng một phần để học thêm ngoại ngữ, một phần để thay đổi không khí.
- Còn tiếng Ái nhĩ lan, ngôn ngữ của chúng ta thì sao, cũng cần được trau dồi vậy? Ivors hỏi.
- Ồ, Gabriel đáp, nếu lý luận như cô thì tôi phải thành thật nói rằng tiếng Ái nhĩ lan không phải là ngôn ngữ của tôi.
Nhận thấy những người đang nhảy bên cạnh chú ý đến câu chuyện giữa hai người Gabriel lúng túng nhìn chung quanh, cố giữ thái độ bình thản mặc dù trán ông bừng nóng.
- Anh cũng có một quê hương, Ivors tiếp tục tấn công, một dân tộc, một xứ sở mà anh chưa biết được nhiều.
- Nói thật với cô, Gabriel trở nên khó chịu, tôi chán quê hương của tôi lắm rồi, chán lắm.
- Tại sao? Ivors hỏi
Gabriel không trả lời, người nóng ran.
- Tại sao? Ivors gặng hỏi
Thấy Gabriel không muốn trả lời, cô Ivors nói, giọng làm hòa
- Lẽ dĩ nhiên, anh không có câu trả lời thỏa đáng.
Không muốn Ivors thấy mình bực mình, Gabriel giả vờ chú ý nghe nhạc và nhảy một cách thích thú, tránh đôi mắt soi mói của Ivors. Khi điệu nhạc đổi đoàn người khiêu vũ nắm tay nhau thành một vòng tròn Ivors nắm chặt bàn tay Gabriel và nhìn chàng đấu dịu cho đến khi Gabriel hiểu ý mĩm cười. Nhạc lại đổi, vòng tròn trở thành từng cặp trên sàn, Ivors nhón chân nói nhỏ vào tai Gabriel
- Anh chỉ là một người Anh trên đất Ái nhĩ lan!
Bản nhạc dứt, Gabriel bước đến nói chuyện với mẹ Freddy Malins đang ngồi ở một góc phòng. Bà đã già, người nhỏ con, thân hình chắc chắn, mái tóc trắng như tuyết. Khi bà nói, lời chập vào nhau giọng khàn khàn như Freddy. Có người cho bà biết hôm nay Freddy có mặt và không say lắm. Gabriel hỏi thăm bà đi qua eo biển có say sóng không. Bà ở với gia đình cô con gái tại Glasgow, mỗi năm về Dublin thăm một lần. Bà nói biển đẹp và ông thuyền trưởng đối đãi rất lịch sự với bà. Bà tả ngôi nhà xinh đẹp của con gái ở Glagow và các bạn của con bà. Bà vui miệng kể chuyện này sang chuyện khác không ngừng làm Gabriel thấy vui lây quên sự bực mình với cô Ivors mấy phút trước. Ivors vốn là một phụ nữ dễ thương, nhưng cái gì cũng có lúc. Gabriel nghĩ, đáng ra chàng không nên trả lời cô như vậy. Nhưng cô ta đâu có quyền xem mình là "một người Anh trên đất Ái nhĩ lan" trước mặt người khác dù là nói đùa. Cô không coi mình ra gì, cật vấn và nhìn mình bằng đôi mắt xoi mói.
Gabriel thấy vợ lách giữa mấy cặp đang nhảy vanxơ tiến về phía chàng. Ðến gần nàng nói khẻ.
- Gabriel, dì Kate hỏi anh có muốn cắt thịt ngỗng như thường lệ không. Cô Daly cắt đùi thịt lợn ướp khô, còn em cắt bánh put-đinh.
- Ðược, được, Gabriel trả lời.
- Sau bản vanxơ này dì Kate sẽ nhờ mấy người trẻ tuổéi chuẩn bị phòng ăn.
- Em có nhảy không? Gabriel hỏi
- Có. Anh không thấy em nhảy sao? Anh trao đổi gì có vẻ gay cấn với Molly Ivors vậy?
- Có gì gay cấn đâu. Sao em hỏi vậy? Ivors có nói gì với em hả?
- Ðại ý như vậy, Gretta lảng sang chuyện khác, em đang thuyết phục ông D'Arcy hát. Em nghĩ ông ta quá tự hào giọng hát của mình.
- Anh không tranh luận gì với cô ta cả, Gabriel trở lại câu chuyện, cô ta mời chúng ta về miền tây Ái nhĩ lan chơi và anh cho biết anh không đi được.
Gretta vỗ tay thích thú.
- Ði đi anh. Em muốn có dịp về thăm Galway.
- Em muốn đi thì đi, anh không đi được, Gabriel lạnh nhạt trả lời
Gretta nhìn chồng một giây, rồi quay qua nói với bà Malins
- Thôi, tôi xin để ông chồng yêu quí của tôi hầu chuyện bà.
Nói xong Gretta lách qua sàn nhảy đầy người bước ra khỏi phòng. Bà Marlins không tỏ ý quan tâm đến Gretta, tiếp tục nói về cảnh đẹp ở Scotland cho Gabriel nghe. Năm nào con rễ bà cũng mời gia đình bà lên Scotland nghỉ hè và đi câu cá. Rễ bà câu cá rất giỏi. Có hôm ảnh câu được một con cá lớn mấy người đàn ông ở cùng khách sạn đã nấu một bữa ăn rất ngon.
Gabriel chỉ nghe bà nói cho có chuyện. Khách sắp dùng cơm tối, chàng nghĩ đến bài nói chuyện, nói gì và trích dẫn gì. Thấy Freddy Malins đến nói chuyện với mẹ Gabriel nhường ghế cho Freddy, bước đến khung cửa sổ, nhìn ra bên ngoài. Sàn nhảy đã vắng, một số khách nhảy đã thấm mệt đứng thành từng nhóm nói chuyện với nhau. Phòng giải khát bên cạnh đang được dọn dẹp, tiếng bát đĩa dao nghe lách cách sau lưng. Gabriel đưa ngón tay gõ gõ vào kính cửa sổ. Bên ngoài trời lạnh, yên tĩnh, thật nên thơ. Ước gì lúc này được tự do thả bộ dọc bờ sông, ra phía công viên nhìn tuyết phủ trên cành cây và nhìn chiếc mũ tuyết trắng lớn trên pho tượng tướng Wellington. Ðược ở ngoài đó lúc này thích hơn ở đây ăn cơm nhiều.
Gabriel nghĩ đến mấy điểm chính của bài nói chuyện: tính hiếu khách của người Ái nhĩ lan, những kỷ niệm đau buồn của đất nước, trích dẫn Browning... Gabriel lẩm bẩm câu văn chàng viết trong mục phê bình văn học mới đây: "Ðọc thơ ông như nghe một điệu nhạc bi hùng làm tâm hồn người nghe trăn trở." Ivors khen hay. Cô ta khen thật không? Ivors có một đời sống cho riêng cô không hay chỉ sống để rao giảng điều cô ta tin tưởng? Giữa hai người chưa hề có chuyện bất hòa cho đến hôm nay. Gabriel thấy khó chịu khi nghĩ đến chốc nữa đây Ivors sẽ nhìn chàng chòng chọc với đôi mắt nghi ngờ khi chàng nói. Có thể cô ta mong chàng làm cho cử tọa thất vọng. Một ý nghĩ thoáng qua làm Gabriel can đảm. Chàng sẽ gián tiếp nhắc đến dì Kate và dì Julia, thí dụ như : Thưa quí vị, không phải thế hệ trước chúng ta lúc nào cũng hoàn hảo nhưng theo tôi họ có một số đức tính như hiếu khách, trào phúng và nhân bản mà thế hệ trẻ chúng ta hôm nay thiếu. Câu đó dành cho Ivors, nghĩ đến đó Gabriel thấy khoái trá, chàng không quan tâm đến việc hai bà dì của chàng chỉ là hai người đàn bà tầm thường thôi.
Gabriel chú ý đến tiếng rì rào quanh mình. Ông Browne đang đưa dì Julia bước vào phòng. Tay dì dựa vào cánh tay của ông Browne, miệng mĩm cười, đầu ngẩng cao tự tin. Cử tọa vỗ tay khuyến khích cho đến khi dì Julia đến gần bên cây đàn piano. Mary Jane ngồi vào chiếc ghế trước cây đàn, dì Julia nghiêm trang quay về phía cử tọa bắt đầu thử giọng trong khi tiếng rì rào trong phòng tắt dần chờ đợi. Gabriel nhận ra điệu nhạc. Ðó là bài Arrayed for the Bridal rất ưa thích của dì Julia. Giọng hát của dì âm vang trong căn phòng mang sức sống đến cho bài hát ngay từ lúc bắt đầu với giọng hát mạnh mẽ trong trẻo, và mặc dù dì hát nhanh dì không nuốt một âm nhỏ nào. Không nhìn dì, chỉ nghe giọng hát người nghe có cảm tưởng như đang bay bổng giữa từng mây một cách an toàn đầy khoái cảm. Gabriel nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng cùng với cử tọa khi bài hát vừa dứt. Từ phòng giải khát tiếng vỗ tay tiếp sức nổ như pháo ran. Sự tán thưởng của cử tọa làm khuôn mặt dì Julia ửng hồng khi dì cúi xuống khép tập nhạc bìa da đã cũ trên có khắc hai chữ đầu tên dì. Freddy Malins nghiêng nghiêng đầu thưởng thức khi nghe hát vẫn còn vỗ tay một mình khi tiếng vỗ tay trong phòng đã tắt vừa bày tỏ sự thán phục với mẹ trong khi bà Malins gật gật đầu đồng ý. Sau cùng, Freddy thôi vỗ tay tiến đến bên dì Julia hai tay cầm đôi tay dì và lắp bắp nói không thành lời.
- Tôi vừa nói với mẹ tôi tôi chưa bao giờ nghe dì hát hay như hôm nay, chưa bao giờ! Dì có tin tôi không? Ðó là sự thật. Tôi nói với danh dư,ĩ đó là sự thật. Tôi chưa bao giờ nghe giọng của dì có hồn và trong trẻo như hôm nay, chưa bao giờ!
- Dì Julia cười thỏa mãn, nói vài lời cám ơn và rút đôi bàn tay ra khỏi đôi bàn tay của Freddy. Ông Browne đến gần dì Julia, khoác cánh tay phải qua lưng dì như cung cách của một người trình hàng cho khách.
- Xin giới thiệu, Julia Morkan, một khám phá mới của tôi.
Nói xong, ông Browne thích thú cười một mình. Freddy ngoảnh nhìn ông Browne nói,
- Anh Browne, công bình mà nói khám phá của anh không có gì đặc sắc. Từ trước đến nay tôi chưa nghe dì Julia hát hay bằng một nửa hôm nay. Và đó là một sự thật không ai có thể chối cãi.
- Tôi đồng ý, ông Browne nói, giọng hát của dì Julia càng ngày càng có sức lôi hút.
Dì Julia nhún vai, nói một cách tự hào
- Nếu nói về giọng hát, ba mươi năm trước cũng chưa có ai chê giọng tôi.
- Tôi thường nói với Julia, dì Kate lên tiếng một cách dứt khoát, Julia đã phí phạm quá nhiều thì giờ với ca đoàn.
Dì Kate nhìn mọi người tìm sự đồng tình trong khi dì Julia nhìn phía trước một cách bâng quơ, môi hé cười như nhớ lại những năm tháng cũ.
- Dì Kate nói tiếp, đáng ra người ta không nên khai thác Julia như vậy, hát cho ca đoàn ngày này qua ngày khác, đêm này qua đêm khác. Ngày lễ Giáng sinh hát từ sáu giờ sáng. Và để làm gì?
- Không phải để vinh danh Chúa sao Cô Kate? Mary Jane hỏi, quay mình trên chiếc ghế đang ngồi, nhỏ nhẹ mĩm cười.
- Cô biết vì nhân danh Chúa, nhưng cô thấy phụ nữ hát suốt đời sau cùng đức Giáo hoàng vẫn trọng phái nam hơn. Cứ cho rằng đức Giáo hoàng làm theo luật giáo hội, nhưng không công bằng, Mary Jane, không đúng.
Dì Kate còn muốn bênh em vì đó là chuyện dì ấm ức từ lâu, nhưng Mary Jane dịu dàng nói lảng sang chuyện khác khi thấy mấy người vừa nhảy xong bước vào phòng.
- Dì Kate, dì có biết dì làm phật lòng ông Browne không? Ông ta tin khác.
Dì Kate quay lại nhìn ông Browne đang cười ngất vì nghe người ta bàn đến cách tổ chức tôn giáo của mình, vội vàng nói
- Tôi không muốn nói đức Giáo hoàng sai. Tôi là một phụ nữ tầm thường không có quyền nghĩ vậy. Nhưng trong đời sự biết ơn và sự lịch sự tối thiểu là điều cần phải giữ. Nếu tôi là Julia tôi sẽ nói thẳng với các Cha như vậy.
- Thôi, dì Kate! Mary Jane nói, ai cũng đang đói bụng, và khi đói người ta dễ nổi cáu.
- Và khi khát người ta cũng dễ nổi cáu như đói, ông Browne chêm vào.
- Vậy nên đi ăn cái đã, Mary Jane nói, sau sẽ tranh luận tiếp.
Trước cửa phòng giải khát đã dọn thành phòng ăn Gabriel thấy vợ và Mary Jane đang thuyết phục cô Ivors ở lại dùng cơm. Nhưng Ivors đã đội mũ và đang gài nút áo choàng không muốn ở lại. Cô không thấy đói và đã trễ đối với cô.
- Chỉ mười phút thôi, Molly, bà Conroy nói, không trễ giờ của cô đâu.
- Ăn một cái gì đi, Mary Jane nói, sau khi đã nhảy nhiều như vậy.
- Tôi xin lỗi, cô Ivors nói, tôi không ở lại được.
- Tôi nghĩ cô không được vui hôm nay, Mary Jane nói một cách thất vọng.
- Vui hơn thường lệ là đằng khác, Ivors nói, nhưng tôi phải đi thôi.
- Nhưng cô về bằng gì? Bà Conroy hỏi.
- Chỉ đi hai bước dọc bờ sông là tới.
Do dự một chút, Gabriel nói,
- Cô Ivors, nếu cô phải về, tôi xin phép được đưa cô về nhà.
- Xem như tôi không nghe đề nghị của anh, Ivors nói lớn, nửa đùa nửa nghiêm trang. Xin quí vị dùng cơm ngon miệng và đừng quan tâm tới tôi. Tôi tự lo được.
- Cô thật là một người phụ nữ khó hiểu, Molly, bà Conroy thẳng thắn nói.
- Xin chào tất cả mọi người, cô Ivors bật cười thốt lên lời chào bằng tiếng Ái nhĩ lan và chạy nhanh xuống thang lầu.
Mary Jane nhìn theo Ivors hơi thắc mắc, trong khi bà Conroy nghiêng mình trên tay dựa cầu thang chờ nghe tiếng cửa mở. Gabriel tự hỏi không biết có phải vì chàng đề nghị đưa về mà Ivors vội vàng như vậy. Nhưng Ivors không tỏ vẻ bực mình, cô cười vui vẻ khi ra về đôi mắt nhìn thẳng vào các bậc thang như chẳng bận tâm điều gì.
Vào lúc đó đì Kate từ phòng ăn bước ra khoát tay hỏi một cách vội vàng.
- Gabriel đâu rồi? Thực khách chờ mà không thấy ai cắt ngỗng cả.
- Tôi đây! Gabriel hăng hái lên tiếng tưởng chừng sẵn sàng cắt bao nhiêu con ngỗng cũng được. Nói xong, Gabriel nhanh nhẹn buớc vào phòng ăn.
Một con ngỗng nướng vàng rực nằm ở một đầu bàn, đầu kia một đùi lợn muối đã bóc da, phía dưới còn dính giấy đặt trên một cái rá, trên rắc rau thơm, hạt tiêu nghiền nhỏ và các mẫu bánh mì dòn, bên cạnh là một đĩa lớn thịt bò ướp cay hình tròn đã được cắt thánh từng lát. Trên bàn giữa hai thức ăn chính là các thức phụ: hai tảng thạch, một đỏ một vàng đúc hình dáng một tu viện, một đĩa lớn đựng nhiều miếng bánh fờ-lăng, một hũ mức mầu đỏ, một đĩa hình lá cây mầu xanh trên có nhiều chùm nho tím và hột hạnh đào lột vỏ.
Gabriel mạnh dạn ngồi xuống ở đầu bàn, một tay đặt lưỡi dao đúng vị trí, tay kia đẩy mạnh nĩa để giữ con ngỗng quay không di chuyển được, và cắt từng lát thịt thơm phức. Gabriel thấy hứng thú làm một việc chàng quen làm, trước chiếc bàn đầy thức ăn và mọi người đang chờ đợi.
- Cô Furlong, Gabriel hỏi, cô muốn cánh hay thân.
- Cho tôi một lát nhỏ nơi thân.
- Còn cô Higgins?
- Cám ơn ông Conroy, tôi không ăn thịt ngỗng.
Trong khi Gabriel và Daly chuyền cho khách các đĩa thịt ngỗng quay, đùi heo ướp muối, thịt bò ướp cay, Lily đi từ người này đến người khác mời khoai tây nghiền nát còn nóng hỗi đặt trên một cái mâm nhỏ lót giấy trắng. Món ăn này do ý của Mary Jane. Lúc đầu Mary Jane định mời khách ăn thịt ngỗng với nước lèo làm bằng táo nghiền, nhưng dì Kate nói ăn ngỗng quay không cũng ngon chán. Mary Jane săn sóc mấy người học trò, trong khi dì Kate và Julia mở bia và nước suối mời khách. Ðàn ông uống bia, các bà các cô uống nuớc suối. Trong phòng ăn tiếng cười tiếng nói chen lẫn lời mời mọc lẫn nhau, xin thức này thức khác, tiếng dao nĩa chạm nhau, tiếng mở nút chai nhộn nhịp. Gabriel vẫn chưa ăn, bắt đầu cắt vòng thứ hai. Một số người yêu cầu chàng ăn cái gì trước khi cắt tiếp. Gabriel chưa muốn ăn, nhưng chìu ý mọi người, chàng chỉ nốc một ngụm bia cho đả khát. Mary Jane yên lặng ngồi ăn, nhưng dì Kate và Julia vẫn đi từ bàn này sang bàn khác mời khách, thỉnh thoảng bảo nhau làm những điều không cần thiết. Ông Browne và Gabriel khẩn khoản mời hai dì ăn, nhưng hai dì nói còn nhiều thì giờ. Freddy Malins không chịu được đứng dậy nhẹ nhàng kéo dì Kate đến một chiếc ghế trống ấn dì ngồi xuống làm mọi người cười ồ.
Khi ai nấy đã no, Gabriel cười hỏi:
- Ai thích ăn các thức nhồi bụng ngỗng cho tôi biết.
Nhiều người lên tiếng yêu cầu Gabriel ăn đi đừng lo cho khách nữa, và cô Lily mang đến cho Gabriel ba củ khoai tây cô để dành cho chàng.
- Cám ơn quí vị, Gabriel giọng thân mật, bây giờ xin quí vị quên tôi đi trong một chốc lát.
Gabriel ngồi ăn ở một chỗ trống Lily vừa dọn, trong khi câu chuyện về buổi nhạc kịch ở rạp hát hoàng gia đang được bàn cãi sôi nổi. Bartell D'Arcy, người hát giọng cao trong buỗi dạ vũ hôm nay, một thanh niên da ngăm đen, có một bộ râu tỉa gọn gàng, hết lời khen ngợi người nữ ca sĩ giọng trầm, nhưng cô Furlong cho rằng cô ấy hát cũng thường thôi. Freddy Malins khen người ca sĩ da đen đóng vai tù trưởng có một giọng tuyệt vời ông chưa từng nghe.
- Anh nghe hắn hát bao giờ chưa? Malins hỏi Bartell D'Arcy ngồi đối diện qua chiếc bàn ăn.
- Chưa, ông Bartell D'Arcy trả lời không chút do dự.
- Tôi hỏi, Malins giải thích, vì tôi muốn biết ý của anh đối với giọng hát của hắn. Giọng của hắn thật là hay.
- Ai cũng muốn tìm cái hay và cái đẹp, ông Browne nói, giọng làm hòa.
- Tại sao hắn không thể hát hay, Freddy Malins cao giọng hỏi, hay chỉ vì hắn là người da đen duy nhất trong buổi nhạc kịch?
Không ai trả lời câu hỏi của Malins, và Mary Jane xoay trọng tâm cuộc thảo luận về đề tài nhạc kịch. Một người học trò gởi cho cô một vé xem vỡ nhạc kịch Mignon. Vỡ nhạc kịch thật hay làm cô nhớ đến Georgina Burns. Ông Browne kể chuyện xa hơn về các đoàn nhạc kịch người Ý trước kia thường đến trình diễn ở Dublin như Tietjens, Ilma de Murzka, Campanini, the Great Trebella, Giulini, Ravella và Aramburo. Ông ta nói nếu nói ca hát thì những ngày xa xưa đó mới thật có ca hát ở thành phố này. Ông Browne kể rằng hồi đó tối nào rạp hát Old Royal cũng chật ních người, và có một đêm một nam ca sĩ Ý hát năm lần bản Let Me Like a Soldier Fall mà đến lần thứ năm khán giả vẫn còn vỗ tay, và nhiều buổi nhạc kịch hấp dẫn đến nổi mấy người thanh niên coi trật tự nhà hát thay ngựa dích thân kéo đào hát chính về khách sạn. Tại sao bây giờ người ta không diễn các tuồng đại nhạc kịch như Dinorah, Lucrezia Borgia nữa? Ôâng Browne hỏi, và tự trả lời, vì không có ai có giọng tốt như ngày đó.
- Cũng không chắc lắm, ông Bartell D'Arcy nói, tôi thấy bây giờ vẫn có nhiều ca sĩ có tài.
- Ở đâu? Ông Browne hỏi một cách thách thức.
- Ở Luân Ðôn, Ba Lê, Milan, ông Bartell D'Arcey từ tốn nói. Thí dụ ca sĩ Caruso, giỏi đấy chứ, nếu không muốn nói giỏi hơn các ca sĩ trước đây.
- Có thể, ông Browne trả lời, nhưng tôi nghi lắm.
- Trả giá nào để nghe Caruso hát tôi cũng trả, Mary Jane chen vào.
- Ðối với tôi, dì Kate nói, tay với lấy một chiếc xương ngỗng còn dính tí thịt, bây giờ chỉ có một giọng cao đáng gọi là giọng chuông vàng, nhưng chắc chưa ai nghe đâu.
- Ai đó bà Morkan? Bartell D'Arcey lễ phép hỏi.
- Tên ông ta là Parkinson, dì Kate nói. Lúc còn trẻ ông Parkinson có một giọng hát thiên phú.
- Cũng lạ, Bartell D'Arcy nói, tôi chưa hề nghe danh ông ta.
- Vâng, vâng, bà Morkan nói đúng, Browne phụ họa, tôi có nghe Parkinson hát khi ông đã già, đối với tôi ông thuộc thế hệ trước.
- Ðó mới là giọng tươi vui , trong sáng, ngọt lịm của người Anh, dì Kate nói một cách phấn khởi.
Gabriel ăn xong, đĩa bánh put-đinh được mang qua bàn chính, tiếng nĩa muỗng lẻng kẻng chạĩm nhau. Gretta nhanh nhẹn xén bánh ra đĩa đẩy ra đầu bàn, Mary Jane bỏ thêm vào dĩa hoặc trái mâm xôi hoặc thạch hoặc bánh fơ-lăng và mức trái cây rồi mời từng người khách. Bánh put-đinh dì Julia làm, và thực khách khen không tiếc lời. Dì nói nếu vàng chút nữa thì ngon hơn.
Gabriel cữ ngọt, lấy một đĩa cần tây. Freedy Malins ăn cần tây với bánh put-đinh. Malins đang chữa bệnh và người ta nói ăn cần tây bổ máu. Mẹ của Malins, nãy giờ im lặng, nói tuần tới con trai bà đi chơi núi Mellray, và mọi người quay qua nói về núi Malleray, nào không khí trong lành, các tu sĩ tin lành hiếu khách, cho đủ thứ mà không bao giờ xin đóng góp.
- Quí vị có nghĩ rằng, Browne lên tiếng, bất cứ ai cũng có thể đến tu viện đó như đến một khách sạn, xài cho đả rồi đi không trả một xu nào sao?
- Ô, không, ai cũng có tặng một số tiền nào đó cho tu viện trước khi về, Mary Jane nói
- Ước gì Giáo hội chúng ta có một cơ sở như vậy. Ông Browne nói một cách thành thật.
Nghe nói chuyện dòng đó tu câm không được nói, tối ngủ trong quan tài gỗ và hai giờ sáng phải thức dậy ông Browne rất ngạc nhiên, hỏi làm vậy để làm gì?
- Ðó là luật của dòng tu, dì Kate trả lời không thắc mắc.
- Vâng, nhưng tại sao? Ôâng Browne hỏi.
Dì Kate lặp lại rằng đó là luật, thế thôi. Thấy ông Browne còn ấm ức Freddy Malins giải thích thêm rằng các tu sĩ tu khổ hạnh để chịu tội thay cho người khác ở ngoài đời. Lời giải thích có lẽ không ổn đối với ông Browne nên ông ta cười nói.
- Chịu tội thay người khác là một hảo ý, nhưng ngủ trên giường hay ngủ trong quan tài thì khác nhau ở chỗ nào?
- Cái quan tài, Mary Jane nói, nhắc người tu sĩ nhớ đến ngày chết.
Bàn ăn im lặng vì câu chuyện vừa tế nhị vừa u ám. Mọi người nghe rõ tiếng bà Malins thì thầm vào tai của người bạn ngồi cạnh.
- Mấy người tu sĩ đó tốt lắm, họ dâng tất cả cho Chúa.
Nho, hạnh đào, sung, táo, cam, chô cô la và kẹo được dọn ra, và dì Julia hỏi thực khách dùng rượu póc-tô gốc Bồ Ðào Nha hay rượu sê-ri gốc Tây Ban Nha. Ông Bartell D'Arcy định từ chối vì không uống được hai thứ đó, một người ngồi bên cạnh thúc cùi chỏ vào hông D'Arcy, rồi nghiêng mình nói nhỏ gì đó, ông Bartell D'Arcy đổi ý đưa li lấy một li đầy. Li rượu chót vừa đượĩc rót đầy, mọi người ngừng nói chuyện im lặng chờ đợi. Chỉ còn vài tiếng ho dè dặt và tiếng động chân ghế sửa lại thế ngồi. Ba thanh niên ngồi cạnh nhau bên phải Gabriel gõ tay vào bàn ra hiệu. Căn phòng im bặt tiếng. Gabriel đẩy ghế ra sau lưng đứng dậy. Dựa mười ngón tay trên tấm vãi bàn, Gabriel mĩm cười vẻ lo âu. Thấy bao nhiêu con mắt đổ vào mình Gabriel lảng nhìn cây đèn treo giữa trần nhà. Có tiếng đàn piano điệu vanxơ, và Gabriel nghe tiếng chân dìu nhau nhè nhẹ trên sàn phòng bên cạnh. Chàng tưởng tượng có người đang đứng bên bờ sông đầy tuyết nhìn lên chiếc cửa sổ có ánh sáng bên trong, lắng tai nghe điệu nhạc vanxơ. Không khí ngoài kia quá trong lành. Xa xa là công viên cành cây tuyết trĩu nặng bên cạnh bức tượng Wellington chóp mũ phủ đầy tuyết hiên ngang đưa tay chỉ cánh đồng trắng xóa trước mắt phía trời tây.
Gabriel bắt đầu:
- Thưa quí vị,
- Hôm nay đến phiên tôi nói, một vinh dự, nhưng thật khó cho tôi vì tôi không có tài ăn nói.
- Không đúng đâu, không đúng đâu, ông Browne nói.
- Tôi chỉ xin quí vị rộng lượng để tôi được trình bày cảm tưởng của tôi.
- Thưa quí vị. Ðây không phải là lần đầu tiên chúng ta gặp nhau dưới mái nhà mạnh thường quân này. Cũng không phải đây là lần đầu tiên chúng ta dược hưởng - hay nói cách khác là nạn nhân - tính hiếu khách của mấy bà chủ nhà này.
Gabriel chấm dứt câu mở đầu bằng một vòng tay khoát trước cử tọa. Mọi người cười tán đồng. Dì Kate, Julia và Mary Jane mặt ửng hồng e lệ. Thêm can đảm Gabriel tiếp:
- Thời gian càng trôi qua tôi càng cảm thấy rõ rằng tính hiếu khách là tính mang lại cho đất nước chúng ta nhiều vinh dự và là đức tính chúng ta trân trọng giữ gìn nhất. Truyền thống đó đặc biệt cho đất nước chúng ta trong số các nước văn minh lân cận, ít nhất với kinh nghiệm cá nhân của tôi qua nhiều chuyến du lịch nước ngoài. Có thể có một số người cho rằng tính hiếu khách chỉ để bị lợi dụng. Dù vậy đi nữa, tôi vẫn nghĩ đó là một tính cao thượng, quí báu và chúng ta vẫn muốn duy trì. Với tôi đó là một chân lý. Chừng nào còn mái nhà này, còn mấy người phụ nữ đáng kính kia - và tôi hy vọng còn kéo dài nhiều năm nữa - cái truyền thống hiếu khách, lịch sự, trải lòng ra sống với người khác của người Ái nhỉ lan mà cha ông chúng ta để lại và chúng ta sẽ truyền lại cho con cháu vẫn còn mãi mãi.
Có tiếng rì rầm tán thưởng trong cử tọa. Gabriel thoáng nghĩ tiếc cô Ivors không có mặt, cô đã bỏ về trước một cách thiếu xã giao khó hiểu, và chàng tiếp một cách tự tin:
- Thưa quí vi.
- Một thế hệ mới đang lên trong chúng ta với những tư duy và nguyên tắc mới. Một chuyển biến tự nhiên, đứng đắn và đáng khích kệ. Nhưng chúng ta đang sống trong một thời đại mà giới trẻ trăn trở và ngờ vực mọi giá trị, và tôi lo ngại rằng thế hệ mới này với bằng cao học, tiến sĩ, thạc sĩ trong tay không còn giữ các giá trị nhân bản, thương người và tính khôi hài của thế hệ trước. Lúc nãy nghe quí vị nói đến các nghệ sĩ và ca sĩ nổi danh ngày trước tôi thú thật rằng tôi có cảm tưởng không gian chúng ta sống như bị thu hẹp lại. Nói không sợ quá lời, những ngày qua là những ngày phóng khoáng: và nếu thời gian đi qua không kéo lại được chúng ta cũng hy vọng rằng qua những buổi gặp gỡ như hôm nay chúng ta có cơ hội nhắc đến chúng với tự hào và trìu mến, và ghi trong tâm khảm những người đã khuất mà tên tuổi thế giới không hề quên.
- Tuyệt! Tuyệt! Ông Browne kêu lên.
- Nhưng, Gabriel tiếp, giọng trầm xuống dịu dàng, trong những buổi gặp gỡ nhau như thế này chúng ta không khỏi thấy buồn khi nhớ lại quá khứ, tuổi trẻ, những biến đổi, và những khuôn mặt một thời quen thuộc. Ðời sống mỗi người đều có những kỷ niệm buồn, nhưng chúng ta có nên đắm chìm trong những suy tư đó để quên bổn phận đối với những người chung quanh hôm nay không? Chúng ta có bổn phận với những người chung quanh và đòi hỏi sự hăng hái của chúng ta.
- Vì vậy, tôi sẽ không nói nhiều về quá khứ. Tôi sẽ không làm quí vị nản lòng. Hôm nay chúng ta gặp nhau giữa dòng đời bận rộn. Chúng ta gặp nhau như bạn, trong tinh thần bằng hữu, như những người đồng sự, và như những người khách của - tôi tạm gọi - của ba người phụ nữ kiều diễm của thế giới âm nhạc Dublin.
Tiếng vỗ tay lẫn tiếng cười vang dội cả phòng. Dì Julia nghiêng mình hỏi cô cháu ngồi bên cạnh Gabriel vừa nói gì.
- Gabriel nói chúng ta là ba người phụ nữ kiều diễm, Mary Jane trả lời.
Dì Julia không hiểu rõ câu trả lời, nhưng vẫn ngước mắt nhìn Gabriel mĩm cười. Thấy dì Kate nước mắt như muốn tuôn ra trên khóe mắt Gabriel biết đã đến lúc cần kết thúc. Nâng cao ly rượu póc-tô - làm mọi người tự động nâng theo - Gabriel nói lớn:
- Xin cùng chúc mừng cả ba. Xin cạn ly cho sức khỏe, cho sự sung túc, tuổi thọ, hạnh phúc và chúc cả ba tiếp tục duy trì vị trí đáng kính tự hào trong nghề nghiệp và sự quí mến của chúng ta.
Cử tọa đồng loạt dứng dậy, tay nâng li, hướng về phía Kate, Julia và Mary Jane ngồi, đồng thanh hát theo nhịp tay của ông Browne:
Hãy hát tặng những người chủ nhà khả ái.
Hãy hát tặng những người chủ nhà khả ái.
Dì Kate lấy khăn bỏ túi lau nước mắt. Dì Julia cố kềm chế xúc động. Freddy Malins dùng nĩa đánh nhịp. Thực khách hướng vào nhau hai người một vừa cạn li vừa hát:
Ngoại trừ anh tự gạt mình.
Ngoại trừ anh tự gạt mình.
Rồi hướng về hai dì và Mary Jane cao giọng:
Những người chủ nhà khả ái.
Những người chủ nhà khả ái.
Tiếng vỗ tay vang dội từ phòng ăn qua phòng bên cạnh, và lặp đi lặp lại nhiều lần theo nhịp nĩa cầm tay của Freddy Malins.
Trời sắp sáng. Khí lạnh tạt vào cửa chính nơi nhiều người khách đang đứng chuẩn bị ra về nên dì Kate bảo:
- Ai đứng gần đóng cửa giúp. Bà Malins có thể bị cảm lạnh đó.
- Ông Browne đang ở ngoài, Kate, Mary Jane nói
- Ông Browne ở đâu cũng có mặt, dì Kate thấp giọng.
Mary Jane cười trước giọng e dè của dì Kate.
- Ðúng vậy, Mary Jane bóng bẩy, ông ta lo cho mọi người.
- Vẫn thấp giọng dì Kate nói, mùa Giáng sinh trước ông ta cũng không lúc nào vắng mặt ở đây.
Dì cười một cách tự nhiên điểm chú khôi hài, rồi nói nhanh:
- Nói ông ta đi vào đi Mary Jane, hy vọng ông ta không nghe những gì Cô nói.
Vừa lúc cửa phòng mở ông Browne bước vào miệng cười toe toét. Ông mặc áo khoác nĩ dài đến đầu gối, cổ choàng khăn, đầu đội nón chống tuyết. Chỉ bờ sông đầy tuyết lạnh lẫn tiếng còi xe inh ỏi, ông Browne nói:
- Freddy đang cho gọi hết xe của thành phố Dublin lại đây.
Gabriel từ phòng để áo bước ra, khoác áo choàng vào người, nhìn quanh phòng hỏi
- Gretta chưa xuống nhỉ?
- Gretta đang lấy áo mũ Gabriel, dì Kate nói.
- Ai đánh đàn trên đó?
- Không ai cả, mọi người về cả rồi.
- Không cô Kate! Mary Jane nói, Bartell D'Arcy và cô O'Callaghan còn trên đó.

James Joyce
Trần Bình Nam dịch
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm nhận ngàn đêm

Cảm nhận ngàn đêm MỘT Dân gian nói, hoàng hôn là lúc người dương và người âm có thể gặp nhau. Trong bộ phim nổi tiếng “Bao giờ cho đến Thá...