Năm 1975, tôi đến trại Fort Chaffee với hai đứa bạn trong phi
đoàn: Thằng Tiến và thằng Hạnh. Ba đứa chúng tôi cùng ở chung một barrack. Thằng
Tiến giường trên, tôi giường dưới, thằng Hạnh giường bên cạnh. Tiến và tôi là
hai thái cực. Tôi xông xáo bao nhiêu thì nó tà tà bấy nhiêu. Thậm chí, ngày 30
tháng 4, nó đã vào phi trường Tân Sơn Nhất rồi mà lại tính quay trở ra. Chúng
tôi phải nhét nó lên tàu bay, cất cánh xong nó vẫn còn cằn nhằn là nếu mai mốt
phải ra tòa án quân sự, "cả lò nhà chúng mày" phải chịu trách nhiệm.
Tôi láu cá bao nhiêu thì nó thật thà bấy nhiêu. Thật thà đến độ nhiều khi tôi
phải tự hỏi tại sao một thằng cù lần như vậy mà lái tàu bay được.
Thằng Hạnh thì khác, lớn hơn tôi vài tuổi, ít nói, hay suy tư và rất khôn
ngoan. Nội chuyện nó có hai bà vợ ở Việt Nam mà không bà nào biết bà nào thì đủ
hiểu con người nó ghê gớm ra sao. Nó khôn hơn tôi, dĩ nhiên, nhưng phải cái
tính lười và hơi nhát gan, nên làm bất cứ chuyện gì cũng phải có tôi nhúng tay
vào mới xong. Vì thế, trong ba đứa, tôi luôn luôn được "giữ một địa vị
quan trọng".
Những ngày đầu tiên nơi đất khách này, vốn tánh lo xa, tôi lo sợ cho tương lai
lắm nên rủ chúng nó cắp sách đến trường học thêm Anh văn. Thằng Tiến mới đầu từ
chối nhưng nằm nhà thấy chán quá bèn ôm sách vở theo tôi. Tôi biết tính thằng
này, lè phè như nó mà học hành cái gì. Trong lớp học, sách vở và bài học nó chẳng
lo mà cứ hết nhìn ngang rồi đến nhìn ngửa để kiếm vợ. Gặp em nào đẹp đẹp một
chút là mắt nó sáng trưng, nhào tới thực tập câu Anh văn ruột chẳng hề biết mắc
cỡ: "Are you married?". Tôi có than phiền với nó về chuyện này, nó
còn lên mặt la mắng tôi:
- Đã ngu lại còn bày đặt đạo đức giả! Mình là dân nhà binh võ biền, suốt đời sống
giữa chốn ba quân, mấy khi được may mắn lọt được vào một chỗ có nhiều... con
gái như thế này? Phải biết lợi dụng thời cơ, đánh mau đánh mạnh, chốp ngay một
em đem về nhà, để lâu thiên hạ đớp hết thì hối hận không kịp.
Tôi lắc đầu, gằn giọng đem một câu trong tam quốc chí rẻ tiền để dạy dỗ nó:
- Làm trai đứng trong trời đất, chỉ sợ mình không lập được công danh, đừng sợ
không có vợ.
Thằng bạn dê sồm nhìn tôi cười nham nhở:
- Đù mẹ. Học Anh văn i tờ hạng bét mà cứ ham nói chuyện công danh, công danh
cái búa. Đấy, mày cứ chăm chỉ đèn sách để lo công danh đi, ông thì ông cứ cắp
sách đến trường để tán gái và kiếm vợ, để xem thử rồi thằng nào ngon hơn thằng
nào.
Tôi lắc đầu ngán ngẫm và thấy tội nghiệp cho nó, nhưng mãi về sau này tôi mới
thấy chính mình là kẻ đáng tội nghiệp chứ không phải nó. Người bạn còn lại, thằng
Hạnh, mỗi ngày tôi thấy nó cứ sáng sớm là đã bỏ đi đâu mất biệt, đến chiều mới
mò về, mặt mày hốc hác, mồ hôi mồ kê nhễ nhại.
Cuộc đời tị nạn của chúng tôi như vậy là coi như tạm yên sau vài tuần. Qua cơn
khủng hoảng của thời gian đầu, bình tâm trở lại, chúng tôi cảm thấy... thèm nhiều
thứ. Đi lính lâu năm, đứa nào lại chẳng mang tật "cà phê thuốc lá".
Chúng tôi thèm ly cà phê và tô phở buổi sáng như người nghiện thuốc phiện nhớ
bàn đèn. Phở thì chắc chắn không có rồi, chẳng ai dại gì mơ ước nhưng cà phê
thì may mắn thay, nơi sân đá banh gần barrack của tôi có một chiếc xe phát cà
phê và bánh ngọt miễn phí của Salvation Army. Tuy cà phê Mỹ mới uống vào thấy
nhạt nhẽo nhưng "có còn hơn không", chúng tôi là khách hàng thường trực
của chiếc xe ân huệ này. Khỏi cần nói, ai cũng có thể tưởng tượng được cái đuôi
xếp hàng lãnh cà phê free của dân tị nạn nhàn rỗi nó dài ra sao. Trung bình là
một tiếng đồng hồ và xui xẻo nhất là khi chỉ còn chục người nữa tới phiên mình
thì cô hàng đóng cửa cái rầm sau khi xổ một câu gọn lỏn: "Sorry, no more
coffee".
Ngày nọ, tôi và hai thằng bạn quý đã đứng chờ được chừng hơn tiếng thì từ đâu một
cơn mưa đổ ào xuống. Là trai đất Việt, chúng tôi "sương gió nào ngại
chi" nhưng cái cô phát cà phê người Mỹ lại ngại mới là kẹt. Cô ta ngước mặt
nhìn trời, rồi nhìn xuống đám tị nạn nghèo khổ chúng tôi lắc đầu. Lại câu nói cụt
ngủn cố hữu: "Sorry, I am closed". Cánh cửa gỗ xập xuống nghe đến xầm
một cái làm lòng tôi tan nát. Thế là tiêu hết một cữ cà phê. Không biết trút nỗi
tức giận cho ai, tôi đành nhìn trời, ngạo mạn trách: "Ông trời hại anh em
rồi, mưa gì mà độc vậy, chờ người ta lấy xong ly cà phê rồi mưa có được
không?". Miệng cằn nhằn, chân chúng tôi chạy đều dưới cơn mưa miền Nam nước
Mỹ đang trút xuống ào ạt.
Về phòng, tôi nằm trên giường suy nghĩ mãi. Mình xưa nay vẫn tự hào là người
khéo xoay xở, sang trại tị nạn gần tháng rồi mà vẫn chưa tìm được cách nào để
xoay tí tiền còm cà phê thuốc lá cho vui. Nhìn thằng Tiến đang dương cặp mắt ốc
lồi ngó mưa rơi ngoài cửa kính tôi lại càng thấy động lòng hơn. Chúng nó dù
không nói ra, đã đặt tin tưởng rất nhiều nơi tôi. Té ra tôi cũng chẳng hay ho
gì. Còn mặt thằng Hạnh mới là sầu thảm. Tôi biết nó ghiền thuốc lá rất nặng.
Con cá thiếu nước như thế nào thì nó thiếu thuốc lá cũng y như vậy. Đã có lần
tôi ái ngại bảo nó:
- Mày không chịu khó lo học Anh văn để hôm nào ra trại còn kiếm việc làm, ngày
nào cũng bỏ đi đâu mất biệt vậy?
Nó hằn học:
- Ông đíu cần học. "No cigarette no study."
Lại cái câu rẻ tiền ngày nào ở trại Tent City. Lúc ấy chúng tôi vừa mãn khoá Thủ
Đức, được đẩy về đó để học Anh văn. Một ngày, vì lương phát trễ, chúng tôi vào
lớp học làm ồn ào. Các ông giáo sư nhà binh Mỹ hỏi lý do, chúng tôi nửa đùa nửa
thật đồng thanh nói: "No money, no Study". Bây giờ, nước mất nhà tan
trên đất khách ông thần ghiền thuốc lá này bản cũ soạn lại. Tôi lên mặt dạy dỗ:
- Ngu bỏ mẹ. Ở trại tị nạn không học, ra ngoài làm sao tranh đấu với đời.
- Học cũng cu ly, không học cũng cu ly. Mày có học cho lắm ra ngoài cũng đâu có
hơn ông được mà làm tàng?
Câu trả lời của thằng Hạnh làm tôi giựt mình, thấy nó nói đúng quá. Những thằng
giở thầy giở thợ như chúng tôi mai mốt ra ngoài biết làm gì để sống ngoại trừ
cái nghề cu ly là nghề chẳng cần bằng cấp gì cả? Cả hai cùng im lặng. Một lúc
sau, thằng Hạnh mới đứng lên, nhìn tôi cất giọng buồn buồn:
- Mày biết ông đi đâu không?
Tôi cười:
- Dâm đãng như mày thì chắc là phải đi kiếm em út.
- Em con khỉ, cà bơ cà bấc như mình, trên răng dưới đồng hồ em chó nào nó thèm
mê.
- Vậy mày đi đâu mà ngày nào cũng biền biệt vậy?
- Tao đi xin thuốc lá!
Tôi đang còn ngạc nhiên thì nó tiếp luôn:
- Tao có quen một thằng ở mãi tận building 1008 (cách đó chừng 3 hay 4 dặm).
Sáng nào cũng cuốc bộ hai tiếng đồng hồ lên đó để xin điếu thuốc. Không lý mình
gặp nó, xin thuốc xong rồi bỏ đi về liền thì coi kỳ quá. Tao phải ở lại nói
chuyện trời trăng mây nước cho ra cái vẻ mình nhớ bạn lên thăm. Hết chuyện nói
mới bỏ về được. Đù mẹ mỗi ngày cuốc bộ 4 tiếng đồng hồ giữa trời nắng chang
chang cực quá, lại hèn nữa, mà không có thuốc lá thì nhịn không được.
Tôi phẫn nộ:
- Bạn bè gì mà chó đẻ thế! Sao nó không cho mày vài đồng để mua thuốc lá?
Thằng Hạnh lắc đầu thảm hại:
- Hồi mới gặp, nó có dúi vào tay tao mấy đồng đó chứ, nhưng thấm vào đâu? Mày
nghĩ coi, mình nhiều bạn bè mà đứa nào cũng nghèo hết, thằng này chĩa một điếu,
thằng kia xin một điếu.... Chỉ có mấy ngày là tao lại sạch túi. Xin nữa kỳ quá
không được.
- Thế mỗi lần lên đó, nó cho mày mấy điếu?
- Hút tại chỗ hai điếu, hai điếu nữa "sơ cua" mang về.
Tôi phê bình:
- Mày đúng là thằng có chí.
Chiều nay, nhìn cái mặt chảy xệ ra của nó, tôi biết nó nhớ cái gì. Bỗng tôi nẩy
ra một kế vặt, ngồi nhổm dậy, la toáng lên:
- Xong rồi, có tiền cà phê thuốc lá rồi!
Thằng Tiến vẫn nằm yên nhưng con nhà Hạnh ngồi bật dậy ngay như cái lò xo, mặt
mày hớn hở. Nó không lạ gì cái tài "an bang tế thế" của tôi từ những
ngày còn ở biệt đội. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào, tôi vẫn luôn luôn
nẩy ra vài cái kế độc để kiếm tiền lẻ ăn nhậu.
Nó nhìn tôi cười cười:
- Mày có tư tưởng mới?
- Không có sao dám nói?
Nó bốc tôi một câu:
- Biết ngay mà. Tao biết trước sau gì mày cũng có kế độc. Nói anh em nghe coi.
Cả mấy thằng độc thân khác nằm gần đó cũng nhỏm dậy, ào tới vây quanh giường
tôi. Đã lâu lắm rồi, kể từ ngày mất nước, lần đầu tiên tôi mới được trở thành một
nhân vật quan trọng như vậy nên rất lấy làm khoái chí. Tôi vỗ hai tay vào nhau
nghe đến đốp một cái:
- Phen này chúng mày cứ gọi là cà phê thuốc lá... mút chỉ thiên thần.
Thằng Hạnh hít hà, dục:
- Biết mày có tài rồi. Kế của mày là kế gì, nói nghe thử?
Tôi kênh kiệu:
- Đứa nào còn thuốc lá lấy một điếu ra mồi hút thì tao mới có cảm hứng mà nói
được.
Tôi nói câu đó và mắt nhìn thằng Hạnh. Tôi biết tõng nó còn thủ một điếu Pall
Mall trong túi áo chờ đến ăn cơm chiều xong thì hút. Ông phi công tị nạn giả vờ
lờ đi, dương cặp mắt "thủ đoạn" nhìn ra xa xôi.
Tôi liền xoay người nằm xuống giường trở lại:
- Đù mẹ, no cigarette no talk.
Thằng Hạnh chờ một lúc, thấy chẳng ai có gì thật, mới méo mặt móc điếu thuốc
gia bảo ra:
- Đây, đù mẹ thuốc lá đây, nói đi thằng phi công mất dạy. Kế nghe mà không hay
thì chết với ông.
Tôi ngồi bật dậy, cười hề hề sảng khoái:
- Chỉ cần vài ngày nữa là chúng mình tha hồ cà phê thuốc lá.
Chính tay thằng Hạnh bật lửa cho tôi. Điếu thuốc được chuyền tay nhau. Tôi lên
tiếng:
- Tao có một kế hoạch này hay lắm, nhưng tụi mày phải giúp tao mới được. Tiền
dư nhiều tao không biết nhưng tao bảo đảm chúng mình sáng sáng sẽ được vô
Hitching Post uống cà phê, mỗi đứa có bao pall mall đỏ choét bỏ vào túi áo để dợt
le với thiên hạ....
Ngoại trừ thằng Tiến là con người chẳng coi chuyện gì quan trọng, bốn năm cặp mắt
cùng sáng lên một lượt với hình ảnh của người tị nạn hạnh phúc trong trại Fort
Chaffee có bao Pall Mall đỏ trong túi áo. Chưa gì đã thấy có thằng muốn chảy nước
miếng rồi. Thằng Hạnh giục:
- Nói mẹ nó đi, cứ úp úp mở mở hoài.
Rồi như chợt nhớ ra rằng tôi vốn là một thằng lém lỉnh láu cá chẳng thua gì nó,
con nhà Hạnh giật mình, nghiêm sắc mặt nhìn tôi:
- Đù mẹ hay là mày lừa ông để hút thuốc lá lẻ. Có kế gì không, nói thật đi thằng
nhóc, không có thì biết tay ông.
- Có chứ, phải từ từ để tao nói. Tao sợ mai kia mày không có đủ miệng để hút
thuốc lá của ông.
- Kế gì?
- Ông mở tiệm hớt tóc tại đây!!!
Bốn năm cái miệng cùng ồ lên một lần.
Người Việt mình vốn có tinh thần mau thích ứng với hoàn cảnh mới. Chỉ sau vài
ngày đến trại tị nạn, đã có nhiều tấm biển quảng cáo thương mại dán khắp nơi.
Cái thì may sửa quần áo, cái thì hớt tóc, cạo gió, coi bói bài v.v.... Tôi có lần
đã nghĩ về vấn đề kiếm tiền bằng cách hớt tóc khi nhìn thấy một bảng quảng cáo
dán ở nơi nào đó với hàng chữ nguệch ngoạc: "Hớt tóc 50 cents. Con nít 30
cents" nhưng mãi đến hôm nay buồn quá mới nhớ ra.
Thằng Hạnh là người hớn hở nhất. Mặt nó tươi trẻ lại khoảng mười tuổi, nhìn
tôi... rất cảm tình:
- Mày hớt tóc được à? Có thật không?
Tôi phịa:
- Trước khi đi lính, tao có lần đã hành nghề hớt tóc.
Thằng Hạnh mừng rỡ ôm chầm lấy tôi, dáng điệu y hệt một thằng Mỹ con được quà.
Nếu nó chịu khó điều tra một chút thì sẽ biết ngay rằng tôi chỉ nói phét. Tôi
trẻ măng, sinh ra đi học từ nhỏ đến lớn, vừa rời ghế nhà trường là đi lính, thì
giờ đâu đi làm phó cạo mà giở trò nói phét. Đúng ra, ở gần nhà tôi có một tiệm
hớt tóc. Hồi nhỏ, những khi rảnh rỗi, tôi hay lang thang sang các tiệm hớt tóc
để coi các ông thợ đánh cờ tướng hoặc húi đầu cho thiên hạ. Nhìn nhiều lần đâm
quen. Tôi chưa bao giờ hớt tóc nhưng biết rõ từng động tác, từng điệu bộ của
người thợ, cách thức đi tông đơ, cắt xén v.v....
Lớn hơn chút nữa, vì nhà nghèo quá, bố mẹ ít khi có tiền cho các con đi hớt
tóc, nên tôi nẩy ra ý nghĩ mua tông đơ về hớt tóc cho các em. Hớt cho ai chứ
cho em thì quá dễ. Lần đầu tiên, cái đầu của mấy thằng em khốn khổ của tôi
loang lổ như những vườn hoa tươi đẹp bị bầy chó hoang vào quấy phá. Tội nghiệp
các em tôi. Chúng nó buồn lắm mà chẳng dám hé răng vì biết tính tôi vốn hung dữ
hà khắc. Đi học với cái đầu như vậy thì tránh sao nổi khỏi bị bạn bè cười chê.
Nhưng nhà nghèo quá và "tài của anh tao chỉ có vậy" thì biết làm sao?
Lần lần rồi tôi cũng cải tiến nghề được, nhưng chưa bao giờ lên đến trình độ đủ
để sống bằng nghề đi cầm tông đơ. Hôm nay, đã mấy chục năm không rờ cái tông
đơ, vì thèm cà phê thuốc lá vặt, tôi đã xâm mình trở thành ông thợ cạo. Tôi
cũng còn đủ trí khôn để biết cái nghề hớt tóc của mình chỉ có trong trí tưởng
tượng, nếu đem ra thực hành chắc chắn sẽ gặp rắc rối to nhưng lém lỉnh như tôi
thì làm chuyện gì cũng phải có kế hoạch hẳn hòi.
Có gì đâu, tôi sẽ dùng những thằng bạn ngô nghê đói thuốc này để thực tập trước.
Năm cái đầu là quá đủ cho tôi ôn lại và... học thêm nghề. Tôi lại nhớ đến những
mái tóc loang lổ của các em tôi mấy chục năm trước. Bất giác tôi thấy thương những
thằng phi công Việt Nam tị nạn này. Chỉ vì cái hình ảnh một người tị nạn hạnh
phúc với gói Pall Mall trong túi áo do lời vẽ vời của tôi mà vài hôm nữa đây,
có vài đứa sẽ trở thành những sư ông bất đắc dĩ. Tôi biết chắc, bàn tay vụng về
của tôi mà thực tập cái đầu nào rồi thì chỉ còn nước đem đi cạo trọc. Một cái đầu
nhẵn thín không có tí tóc nào coi vẫn còn đẹp hơn cái đầu loang lổ chỗ đen chỗ
trắng. Không phải tôi là thằng vô lương tâm, tôi cũng biết thương xót chúng nó
đấy chứ, nhưng việc này là việc chung: Tiền hớt tóc sẽ được mua thuốc lá cà phê
chia đều cho tất cả. Nghĩ thế nên lòng tôi cảm thấy bớt đi cái mặc cảm tội lỗi.
Những thằng lính trẻ tội nghiệp này, chúng nó nào có biết những tai ương đang
chờ sẵn, tất cả đều hăng hái bàn tán về cái tiệm hớt tóc của tôi. Chờ cho chúng
nó ngớt tiếng ồn, tôi lên tiếng, giọng uy nghiêm sang sảng tựa hồ một ông tướng
trước giờ ra quân:
- Tụi mày nghe kỹ đây. Sống ở đời, làm cái gì cũng phải có kế hoạch. Tao tuy
ngày xưa là thợ hớt tóc, nhưng tụi mày biết tao lái tàu bay gần năm năm, tay
chân tao nó lạng quạng rồi, không còn khéo léo như những ngày chưa đi lính.
Thằng Hạnh mau mắn phụ hoạ ngay:
- Tao hiểu. Nhà binh nó làm chúng mình hư đi.
Một giọng khác rất cảm động của thằng Hùng tây lai:
- Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi
e sông....
Tôi quay lại nhìn nó và tự hỏi lòng mình rằng sao quân đội tôi có nhiều lý thuyết
gia như thế này mà vẫn bị thua trận. Tôi đi mau vào phần rắc rối:
- Mình không làm thì thôi, nhưng đã làm thì làm cho đàng hoàng, không thể để
khách hàng than phiền được. Mình đánh là phải thắng, không thắng không đánh. Bắt
đầu ngày mai, tụi mày phải đưa... đầu cho tao thực tập trước.
Tôi im lặng chờ phản ứng. Chẳng có đứa nào nghi ngờ tài năng của tôi cả. Chỉ có
thằng Hạnh, tinh mắt nhất, nhìn tôi với đôi mắt nghi ngờ nhưng trở lại nồng nhiệt
ngay khi tôi nói:
- Dĩ nhiên. Mày biết mấy thằng đi xe đạp không? Đã biết đi rồi thì bỏ cả hai ba
chục năm vẫn phóng lên xe lái phom phom như thường. Tụi mày đừng lo, ngày xưa
tao lái tàu bay đẹp như thế nào thì bây giờ tao lái tông đơ cũng ngon như vậy.
Tôi nhìn quanh một lượt. Tốt, ngoại trừ thằng Tiến vẫn nằm lơ đãng nhìn ra
ngoài, xem ra ai cũng tin tưởng nơi tôi hoàn toàn. Người Việt Nam mình quả thật
là dễ tin, dễ bị lừa dối. Chả trách gì cả một nửa nước Việt Nam bị Việt Cộng lừa
dối trong bao nhiêu năm. Tôi qua đề tài thứ hai, ít rắc rối hơn:
- Mình sẽ hớt ngay tại phòng ngủ này. Thứ nhất, chúng mình sẽ vô nhà tắm công cộng
mượn tạm cái gương lớn đem về đây. Chơi hai cái luôn, một cái trước một cái sau
cho nó có vẻ nhà nghề. Khăn choàng thì thiếu mẹ gì, mấy tấm ra đây cứ tha hồ mà
xài. Lược thì có đủ. À quên, còn thiếu cái kẹp. Ngày mai đứa nào ra giây phơi đồ
chộp vài cái cho tao. Nhớ lựa cái mới mới mà chộp. Tiệm hớt tóc của mình
"nốp bồ" mà.
Lúc ấy tôi chẳng hiểu "nốp bồ" là gì, nhưng cũng nói đại vì thấy người
ta hay dùng chữ này để chỉ những sự gì sang trọng quý phái. Thằng
Hưng mập đưa ý kiến:
- Mình cũng nên có mấy cái ghế để khách đến có chỗ cho họ ngồi chờ.
Tiên sư, chưa mở được tiệm đã tính đến chuyện cho khách ngồi chờ rồi. Sao mà lạc
quan quá thế. Tôi nghĩ vậy nhưng lại nói khác đi, ra vẻ đồng ý với nó:
- Thằng Hưng nói đúng. Mình phải lấy thêm mấy cái ghế cho khách ngồi chờ. Tiệm
mình "nốp bồ" thì cái gì cũng phải "nốp bồ", phải bắt đầu
"nốp bồ" từ cách tiếp khách....
Bây giờ đến cái phần quan trọng nhất là moi tiền đâu ra để mua cái tông đơ? Tôi
đã đi PX một lần để... ngắm cảnh, biết ở Mỹ họ không có bán tông đơ tay mà xài
toàn tông đơ điện. Tông đơ điện hớt rất nguy hiểm cho những người lạng quạng
như tôi. Sơ xẩy một tí là dám đi luôn gần nửa mái tóc của người ta.
Thằng Hạnh kiên nhẫn chờ tôi trả lời về vấn đề then chốt này.
Tôi nhìn chúng nó, thông báo tiếp kế hoạch gây quỹ khóc thần sầu của mình:
- Về vấn đề tông đơ, tao có biết ông Lãm làm sở Mỹ ở Barrack 1701. Cha này có
tiền nhiều. Tao sẽ đề nghị với chả bỏ tiền mua tông đơ cho mình. Một cái đầu 45
cents, mình lấy 25 cents, chả lấy 20 cents là tốt chán.
Thằng Hạnh thở phào nhẹ nhỏm, xem ra mộng cà phê thuốc lá của tôi có cơ thành tựu
được. Nhưng nó vẫn chưa hết thắc mắc:
- Mày biết chả có chịu không?
- Chịu là cái chắc. Nếu chả không chịu, tao kiếm người khác. Đất Mỹ hiếm nhân
tài chứ thiếu gì tiền.
Thằng Hưng mập có ý kiến:
-Tại sao phải 45 cents? Người ta hớt 50 cent mà.
Tôi lên mặt dạy dỗ:
-Cạnh tranh. Thương mại là cạnh tranh tối đa. Thương mại mà không có cạnh tranh
là... độc tài cộng sản. Chúng nó hớt 50, mình chặt nhẹ 45 thôi, chúng nó chơi
30, mình lai rai 25 là đủ. Có vậy mới câu khách được.
Thằng Hạnh nhìn tôi khâm phục. Nó không ngờ có thằng bạn ghê quá, mới ngày nào
đây còn lái tàu bay hộc xì dầu mà bây giờ đã "tài phiệt" ra gì.
- Có ai còn thắc mắc gì nữa không?
Cả phòng im lặng. Vậy là ăn tiền rồi.
Thật ra, có một điều đáng thắc mắc nhất mà chẳng đứa nào chịu hỏi là nếu tôi hớt
hư đầu người ta thì lấy cái gì mà đền? Nếu chúng nó chất vấn câu này, tôi không
thể nào trả lời được bởi vì chính mình, tôi cũng chưa biết xử thế làm sao trong
trường hợp chết người đó....
Ngày hôm sau, tôi dậy sớm, ăn sáng xong là dắt thằng Hạnh tạt qua building 1701
để kiếm người bạn hùn vốn. Thằng Tiến vốn làm biếng, nhất định không thèm tham
gia hay đóng góp gì hết vào tiệm hớt tóc nên nằm nhà. Phòng của Lãm ở lầu hai.
Anh chàng này, tôi mới quen được cách đây vài tuần trong lúc chờ xếp hàng lãnh
cơm. Gã cỡ 40 tuổi, đầu tóc hớt cao, nước da đen ngòm làm cho tôi có cảm tưởng
gã là một anh cớm hơn là một người làm sở Mỹ. Lãm ít nói, khi cười thì hàm răng
rít lại. Ngày nọ, gã đang xếp hàng trước tôi chờ lãnh cơm thì kẹt công chuyện
gì đó phải bỏ hàng đi. Mười phút sau trở về, gã tính chui vô chỗ cũ thì bị một
đám anh em quân nhân tưởng gã cắt hàng nên la ó phản đối, bắt gã phải xếp hàng
lại từ đầu. Lãm càu nhàu đã tính bỏ đi thì tôi gọi lại, thanh minh thanh nga
cho gã và mời đứng trước chỗ mình. Gã có vẻ thích tôi từ dạo ấy. Tôi có ghé lên
building 1701 thăm gã một lần. Lăn lộn với đời, chỉ cần nhìn qua căn phòng là
tôi biết gã này có nhiều tiền nhưng không muốn làm thân. Nụ cười với hàm răng
rít chặt của gã làm tôi ngờ ngợ. Hôm nay tôi đột ngột tới kiếm làm gã ngạc
nhiên:
- Sáng sớm anh em lên thăm tôi có chuyện gì không?
Tôi kéo gã ngồi xuống giường rồi đi một đường cắt nghĩa về cái tiệm hớt tóc của
tôi. Quả đúng như tôi nghĩ, anh chàng Lãm mừng rỡ nhận lời ngay. Cũng giống như
thằng Hạnh, gã có ý nghi ngờ về tài năng của tôi:
- Anh ở Việt Nam làm nghề lái... phi công mà cũng biết hớt tóc à?
Tôi tưởng tượng ra ngay một hình ảnh thật đẹp:
- Nhà tôi có đến... 3 cái tiệm hớt tóc. Trước khi đi lính tôi đã phụ giúp gia
đình cắt tóc như điên.
Gã móc trong túi ra bao thuốc lá Pall Mall. Tôi và thằng Hạnh nhìn nhau sẵn
sàng để nếu gã mời là chúng tôi thò tay ra móc một điếu ngay. Nhưng gã làm như
không nhìn thấy sự thèm muốn trong ánh mắt chúng tôi, bình thản móc ra một điếu
thuốc rồi bỏ trở lại vào túi. Gã châm lửa. Mùi thơm của điếu thuốc bay ra, quyện
lấy chúng tôi. Tôi thấy hoa mắt nhưng nhất định không mở miệng ra hỏi. Đường đường
cũng là bạn làm ăn, xin thuốc lá coi nó kỳ quá. Gã tiếp tục phần phỏng vấn:
- Thế anh có biết ráy lỗ tai không?
- Thợ hớt tóc mà không biết ráy lỗ tai thì thợ con mẹ gì? Bảo đảm ráy không êm,
không đê mê là không lấy tiền.
Sợ gã bắt tôi chứng minh liền thì khốn khổ nên tôi nói lấp đi:
- Nhưng anh chưa biết luật bên Mỹ này, chỉ bác sĩ mới có quyền rờ vào lỗ tai
người ta thôi. Không phải thầy thuốc mà mò mẫm lạng quạng là đi tù hết. Chán thật,
đi hớt tóc mà không được ráy lỗ tai thì mất hết 80% cảm hứng....
Thằng Hạnh cũng phụ họa theo:
- Cần gì. Càng ít công việc càng đỡ rắc rối. Qua Mỹ, mình nên thực tế sống theo
kiểu Mỹ.
Gã Lãm nhíu mày tính toán một lúc rồi mới nói:
- Tôi đồng ý. Anh biết giá một cái tông đơ bao nhiêu tiền không?
Thằng Hạnh mau mồm:
- Tụi tôi coi kỹ rồi, mười hai đồng. Chỉ cần hớt chừng hai tuần là anh sẽ lấy lại
vốn.
Câu trả lời của Lãm làm chúng tôi ngạc nhiên:
- Cái anh nói là thứ tốt, cái rẻ nhất chỉ có 8 đồng. Nói thật với anh, tôi cũng
đã có ý định này lâu rồi, nhưng chưa biết tìm thợ ở đâu ra thôi.
Tôi hơi buồn một chút. Tưởng mình đã khôn lanh, nào ngờ cái gã này lại còn khôn
hơn mình. Gã đứng dậy, chìa tay ra:
- Mỗi cái đầu anh lấy 25 cents, tôi lấy 20. Dứt khoát nhé. Tối nay tôi đem tông
đơ qua cho anh. Anh về chuẩn bị quảng cáo và các thứ lặt vặt đi.
Bắt tay xong, thằng Hạnh còn tính đứng lại gỡ gạc một điếu thuốc nhưng tôi kéo
nó đi, bảo nhỏ:
- Mình là dân làm ăn, không để nó khinh được, ráng nhịn vài ngày nữa thì chúng
mình tha hồ mà hút.
Chiều hôm đó, y lời hẹn, gã Lãm hí hững bưng cái tông đơ qua. Nhìn thấy tiệm hớt
tóc dã chiến chúng tôi trang bị lộng lẫy, gã cười toét miệng:
- Tài thật mấy ông Không Quân! Đi đường tôi đã thấy quảng cáo dán khắp nơi.
Tông đơ đây, mai... chúng ta bắt đầu nhé.
- Chưa được.
- Sao vậy?
- Ông muốn làm ăn lâu dài hay làm ăn... không lâu dài?
- Lâu dài chứ.
- Chúng tôi cần thì giờ để chuẩn bị, dợt lại nghề một chút cho nó nhuyễn tay.
Không làm thì thôi, còn làm là làm cho nó đàng hoàng, cho nó "nốp bồ".
Mấy đứa trong phòng chỉ nhìn vào bao thuốc lá Pall Mall đỏ ké trong túi áo trên
của gã. Nhưng gã lờ đi, đưa tông đơ cho tôi rồi cáo từ ra về.
Không bỏ phí thì giờ, tôi dắt cả bọn ra khu cầu tiêu, bắt ghế trước mấy cái
lavabo có gương để thực tập liền. Tôi dụ khị thằng Hạnh:
- Mày dù gì cũng là bạn bè thân thiết trong phi đoàn với tao, mày ngồi lên để
tao hớt trước.
Con nhà Hạnh khôn như quỷ, dại gì đưa cái đầu cho một thằng tự xưng là thợ hớt
tóc thí nghiệm, nó kiếm cớ thoái thác ngay:
- Từ từ đã, tóc tao chưa dài, mày hớt đứa khác đi.
Biết tính nhau ai bằng bạn bè, tôi bất mãn lắm nhưng đâu có làm gì được. Nhưng
may cho tôi, thằng Hưng mập xung phong ngồi liền. Chao ôi, không ngờ trong cuộc
đời tị nạn này vẫn còn nhiều tráng sĩ can đảm không thua đời xưa. Tôi chịu
tráng sĩ Kinh Kha bao nhiêu thì cũng phục thằng này bấy nhiêu. Gần... trọc đầu
đến nơi mà vẫn biểu lộ được phí khách của con người. Tôi cắm điện cái tông đơ,
lẩm bẩm vài lời cầu kinh với thượng đế rất chân thành rồi... rón rén bắt đầu.
Tôi có cảm giác y hệt như ngày xưa xa lắm, lúc lao chiếc phi cơ xuống rừng
phòng không địch để bắn trái róc két đầu tiên của cuộc đời phi công. Phải công
nhận, con người trời sinh ra có một khả năng tự vệ phi thường trong những trường
hợp như vậy. Đã mấy chục năm nay, tôi có bao giờ cầm tông đơ đâu mà tối đó, thí
nghiệm cái đầu của thằng Hưng mập đẹp quá sức tưởng tượng. Sau ba tiếng đồng hồ
cặm cụi, lúc nghiêng phải, lúc uốn mình sang trái, lúc khác lại nhảy nhỏm lên
khi cái tông đơ điện đi một đường hơi sâu, tôi hoàn thành tác phẩm dưới những cặp
mắt thán phục của bạn bè. Thằng Hạnh, đứa nghi ngờ khả năng tôi nhất bây giờ lại
là thằng to miệng tán thưởng tôi nhiều nhất làm tôi tưởng mình là thợ hớt tóc
thật. Nó chìa tay ra, giọng cảm động:
- Tao xin lỗi mày.
- Mày làm gì?
- Ngày hôm qua tao đã trót dại coi thường và nghi ngờ khả năng của mày. Tao
không ngờ mày là con nhà... phó cạo thật. Tao phục mày quá, mày cho tao xin lỗi.
Tôi thấy có cái gì nhức nhối trong tim. Vừa mất nước, từ một ông thiếu úy phi
công xuống làm thằng di tản buồn tháng trước bây giờ lại được tặng câu khen thưởng
là "con nhà phó cạo thật". Đời tị nạn sao nhiều oan khiên thế này hỡi
trời, chỉ hai tháng mà bị xuống luôn hai cấp. Tôi đóng trọn vở kịch:
- Thì tao đã bảo chúng mày mà, tao có máu phó cạo trong người thật.
Chúng nó bu xung quanh thằng Hưng mập, bàn tán, xuýt xoa phê bình. Tôi thấy mặt
mũi đứa nào cũng rạng rỡ. Hình ảnh người tị nạn hạnh phúc có gói Pall Mall
trong túi áo chắc đã vừa tầm tay. Chờ cho chúng nó tiêu hóa xong niềm vui, tôi
nói với cả bọn:
- Bây giờ khuya rồi, đứa nào phụ trách vệ sinh phải lo dọn dẹp. Ngày mai ai muốn
hớt tóc.
Lần này thì 4, 5 bàn tay cùng giơ cao lên một lượt, có cả bàn tay của thằng Hạnh
mới là ly kỳ:
- Tao. Tao tình nguyện, ngày mai mày hớt tao trước đi.
Tôi đã tính vênh váo từ chối cho bỏ ghét nhưng nghĩ lại, tôi rộng lượng gật đầu:
- Ừ, mai tao hớt cho mày. Ăn sáng xong về mình bắt đầu liền. Thực tập hết ngày
mai, ngày mốt mình có thể khai trương tiệm hớt tóc được.
Tối hôm đó, lần đầu tiên kể từ ngày di tản, tôi gối đầu trên hộp tông đơ ngủ một
giấc ngon lành.
Hôm sau, tôi và thằng Hạnh bắt đầu rất sớm. Chúng tôi tính hớt ngay tại phòng
nhưng vì thấy nhiều người còn ngủ, đành phải xách ghế ra khu nhà vệ sinh. Sáng
sớm, tôi để ý thấy sự lưu thông trong khu nhà cầu công cộng này rất nhộn nhịp,
khác hẳn tối hôm qua. Đúng ra, chúng tôi không nên bắt đầu sớm như thế vì buổi
sáng là giờ của người ta hay giải quyết các vấn đề đi cầu và rửa mặt. Ai đi qua
gặp chúng tôi cũng đều tỏ vẻ khó chịu. Người Việt mình khác với các dân tộc Tây
phương, không bao giờ được tự nhiên khi hưởng thụ cái đệ tứ khoái ở những nơi
công cộng có nhiều người. Thậm chí, có người khó tánh còn ngồi trong cầu nói
nhiều câu xách mé ra ngoài, ngụ ý chửi chúng tôi. Trong nhà cầu lúc ấy chỉ có
vài thứ âm thanh: Gần nhất là âm thanh của cái tông đơ điện, nghe rè rè và êm
ái. Rồi đến tiếng nước chảy, nghe rõ có hai loại khác nhau. Một loại chảy ra từ
rô bi nê và một loại chảy ra từ... người. Chói tai nhất là loại tiếng động
chúng ta vẫn thường nghe khi ném một vật gì nặng xuống nước ở một cao độ thấp.
Xen lẫn với những âm thanh này là những tiếng thở phì phò và thỉnh thoảng tiếng
giựt nước cầu tiêu. Đã mấy lần, tôi tính bảo thằng Hạnh dời vào phòng ngủ mà hớt
tiếp nhưng nghĩ đến việc phải dọn dẹp sạch sẽ trước khi đi, hơn nữa đầu thằng Hạnh
đang dang dở, một bên trắng bên đen coi rất nham nhở, nên lại thôi.
Làm việc với những thứ âm thanh ghê gớm như vậy bên tai, làm sao khỏi bị chia
trí. Nếu là tay phó cạo thật chưa chắc đã hớt được đẹp, huống gì ông thợ cạo lại
là người đã mười mấy năm chưa sờ đến cái tông đơ. Chỉ sau mười lăm phút
"lái tông đơ," tôi hốt hoảng nhận ra cái đầu của thằng Hạnh đã loang
lỗ như đồi... Charlie, với đầy đủ hình ảnh những hố bom và giao thông hào chằng
chịt dọc ngang. Tôi tái mặt. Thằng Hạnh cũng tái mặt, còn tái hơn tôi. Thế này
thì trời hại hai thằng phi công tị nạn rồi. Thằng Hạnh khôn lắm. Nó rán giữ miệng,
không thèm nói gì cả, vì biết nói ra chỉ làm tôi cuống quít thêm.
Bây giờ thì phải nói là tôi không còn hớt tóc nữa mà đang làm công việc sửa chữa
các giao thông hào, lấp các hố bom bằng tông đơ trên đầu thằng bạn khốn khổ.
Tay và chân tôi mõi rã rời, mồ hôi đổ hột, nhỏ xuống cả lớp khăn choàng. Khổ nổi,
tôi như con muỗi đã bị lọt vào tổ nhện, càng loay hoay tháo gỡ, càng lọt sâu
vào đám dây tơ chằng chịt. Cái đầu thằng Hạnh mỗi ngày một ngắn hơn mà chẳng thấy
đẹp hơn chút nào. Tôi có bao giờ ngờ được cuộc đời anh phó cạo lại cay đắng đến
như thế này. Ngày xưa ở Việt Nam, mỗi lần bước vào tiệm hớt tóc, tôi nghênh
ngang như một ông tiểu tướng. Hớt xong, tôi quẳng ra trăm bạc nhưng luôn luôn
nghĩ rằng giá tiền đó quá cao cho một người chỉ đứng biểu diễn tông đơ trong mười
lăm phút. Bây giờ, tôi chỉ mơ ước được xuất thân là "con nhà phó cạo"
chính tông để giải quyết được cái đầu thằng bạn tôi. Ôi, đẹp biết chừng nào những
bàn tay... phó cạo.
Sau gần một tiếng đồng hồ đau khổ và kiên nhẫn ngồi im nhìn tôi xây dựng lại những
đổ vỡ... trên đầu nó, thấy mái tóc mình càng ngày càng trở nên trắng ra, thằng
Hạnh biết đã đến lúc phải tốp tôi lại. Thật ra lúc ấy không ngừng cũng không được,
vì cái đầu nó còn chỗ nào có tóc đâu mà sửa? Nó cay đắng mở miệng mà mồm méo xệch
đi:
- Đù mẹ mày chơi ông!
Tôi cứng họng, vừa hối hận vừa buồn. Nó nói vậy chỉ để mà nói vì nó biết tôi
nãy giờ hì hục lúi cúi sửa chữa cho nó.
- Đù mẹ tốp lại đi. Tháo khăn ra, ông đấm vỡ mặt mày.
Tôi lẳng lặng tắt cái tông đơ, tháo khăn ra, cũng chỉ mong nó đấm vào mặt mình
một cái cho tôi đỡ bị lương tâm dày vò. Nhưng nó không đấm, chỉ đứng nhìn vào tấm
gương, lấy tay xoa xoa tóc rồi thở dài não ruột:
- Đù mẹ mày chơi ông. Mày hớt thế này thì ông còn dám nhìn ai. Đù mẹ hỏi thật với
mày, ở VN mày có thù oán ông cái gì không? Đù mẹ mày giết ông rồi!
Như để đổ thêm dầu vào lửa, có vài người vào khu vệ sinh, nhìn thấy đầu thằng Hạnh,
không nín được liền bật cười lên thật to. Mãi đến lúc đó, tôi mới thấy rằng ai
nhìn thấy nó mà không cười ré lên thì kẻ đó chắc bị bệnh thần kinh nặng. Chính tôi
là người đang nát tan ruột gan mà cũng không nhịn được. Đằng nào cũng đã lỡ,
tôi đành chìu theo bản năng, để những tiếng cười sằng sặc tuôn ra một lần. Từ
khi di tản, đây là lần đầu tiên tôi được cười một trận ra gì. Thằng Hạnh càng lộn
gan:
- Mày mà cũng cười được à thằng "giặc lái khốn nạn"? Đù mẹ đồ đểu
cáng, ông biết mày chơi ông mà, coi chừng ông đá bỏ mẹ mày. Giá còn cây súng
ông phơ cho một phát chết nhăn răng ra rồi tới đâu thì tới.
Nó vừa nói vừa nhìn vào tấm gương, rờ đầu rờ tai nhăn nhó khổ sở. Chả mấy chốc,
tụi thằng Hưng Mập, thằng Hùng cũng đã có mặt tại chỗ. Đứa nào cũng ôm bụng cười
no nê.
Tôi đứng sát bên thằng Hạnh năn nỉ nói với nó bằng tất cả sự thống thiết và
chân thành của một con người:
- Tao xin lỗi mày. Số mày xúi quẩy làm sao đó. Mày thấy không, tao đã cố gằng hết
sức....
Nhìn thấy cái đầu của Hưng mập đẹp đẽ ngon lành, thằng Hạnh lại đau đớn:
- Đù mẹ mày chơi ông, sao tối qua mày hớt cho thằng Hưng đẹp vậy?
- Không phải đâu, tại tối qua tao cố gắng quá sức.
- Thế hớt cho ông, mày không cố gắng quá sức được à?
- Không phải, tại tao chia trí. Giá hồi sáng mình hớt ở trong phòng thì đâu đến
nỗi nào.
Vốn là một đứa biết lo xa nên vừa năn nỉ nó tôi vừa nghĩ đến những "hậu quả
thương mại" của vấn đề. Nếu để thằng Hạnh đem cái đầu như thế này ra ngoài
cho thiên hạ nhìn thấy thì tiệm húi cua của chúng tôi chưa mở cửa coi như sẽ bị
đóng cửa vĩnh viễn. Húi đẹp vậy, họa có bọn bộ đội ngu dốt của bác Hồ mới thèm
mò đến cho tôi cắt tóc. Chờ cho nó nguôi nguôi, tôi bèn đem thực tế ra "lễ
phép trình bày". Con nhà Hạnh tuy vừa bị một vố ra gì nhưng rất khôn ngoan
và vẫn còn tin tưởng nơi tôi lắm, nhất quyết không để cái hình ảnh thê thảm
sáng nay làm mờ đi cái hình ảnh đẹp tuyệt vời của người tị nạn với gói Pall
Mall trong túi áo. Nó chắc lưỡi, vẫn còn hậm hực:
- Tao mà ra đường như thế này thì con nít gặp nó cũng khóc thét lên, nói gì đến
chuyện có thằng ngu nào dám đến hớt tóc.
- Đúng đúng, vậy tao mới phải bàn với mày. Bây giờ tính sao?
- Phải đem cái đầu này nhờ thợ sửa.
- Mày làm gì có tiền?
- Trước khi di tản, vợ tao có dúi vào tay tao 5 đô, tao ghiền thuốc đốt hết 3 đồng,
còn lại 2 tính để phòng khi đau ốm và khẩn cấp. Trường hợp này là... đại khẩn cấp
rồi.
Ghê gớm thay cái thằng Hạnh. Nếu tôi biết nó còn 2 đô la thủ kỹ trong người mà
sáng sáng phải cuốc bộ ba bốn dặm đường đi xin thuốc thì tôi đã từ nó rồi. Phi
công Việt Nam nổi tiếng hào hoa phong nhã, sao lại có một thằng bần tiện lọt
vào đây?
Nó ôm quần áo chui vào nhà tắm vặn nước, nói vọng ra:
- Mày phải kiếm cho tao một cái mũ, nếu không có thì lấy đỡ cái khăn cũng được.
Tắm xong là tao đi liền. Phải... di tản khỏi đây liền lập tức trước khi người
ta gọi tao là Hạnh... thầy chùa.
Và nó đi thật. Thằng Hạnh đi mãi đến tối mịt, mọi người đã lên giường cả mới trở
về. Chúng tôi ào ra bật đèn lên.
- Dỡ mũ cho tao coi cái đầu cái nào. Thợ sửa có đẹp không?
Thằng Hạnh dỡ cái mũ lưỡi trai nhà binh mà giờ này coi rất là lố bịch với bồ đồ
civil ra. Thằng Tiến phê bình câu đầu tiên:
- Đù mẹ tưởng thợ sửa ra sao, sửa vậy thì có hơn gì thợ nhà.
Thằng khác góp ý:
- Coi đỡ hơn hồi sáng nhưng nếu cạo trọc thì vẫn đẹp hơn.
Một đứa khác:
- Trọc mẹ nó rồi chứ còn nếu gì nữa.
Tôi ngồi yên trên giường, "mặc cảm tội lỗi" tràn trề hơn hồi sáng vì
sau khi nó đi, tôi có thực tập thêm hai cái đầu nữa, cái nào coi cũng tạm được.
Chỉ nhìn thoáng một vòng, con nhà Hạnh nhận ra ngay. Nó ngồi xuống giường, cởi
đôi giày, thảy gói Pall Mall lên giường tôi:
- Tao mới mua bao thuốc lá đấy hút đi. Đù mẹ, mở tiệm hớt tóc tiền vô đâu chưa
thấy, đã thấy đầu tao bị cạo trọc lóc và mất tiêu hết đồng bạc quý giá của vợ
tao. Chúng mày mỗi đứa rút một điếu thôi, xong rồi trả lại bao thuốc lá đây.
Chúng tôi ngồi quây quần hút thuốc lá. Thằng Hạnh lui cui gói mấy bộ quần áo.
Dù đã tan nát ruột gan, nó vẫn không quên chuyện "đại sự", hỏi:
- Ngày mai khai trương được chưa?
- Được rồi. Thằng Hưng mập có nhờ cả thầy bói coi ngày nữa, thầy phán đại cát
lia lịa.
Đột nhiên, nó nói:
- Ngày mai tao đi, dọn lên tuốt khu 1000 ở cho "xa vắng thế tục."
Bốn năm cái mồm cùng ồ lên một tiếng. Thằng Hạnh mồi điếu thuốc lá:
- Chúng mày coi xem, cái đầu tao như thế này ở đây đâu có tiện. Sáng giờ, tao
đi đâu cũng cứ thập thò như thằng ăn trộm, chỉ sợ gặp em Trang thì khốn nạn.
Đã có hai vợ ở Việt Nam, giờ lại Trang nào nữa đây? Thằng... trọc này, cứ lâu
lâu là nó xì ra một chuyện bí mật. Nó đểu hơn tôi nhiều. Cả tháng nay, thấy mặt
nó lúc nào cũng u sầu, tưởng rằng nó nhớ vợ con, ai ngờ chưa gì đã quen được em
Trang nào rồi. Nhưng câu nói của nó chạm tính tò mò của chúng tôi. Đứa nào cũng
xích lại gần một chút, mắt tròn xoe hy vọng nó sẽ nói tiếp.
- Phải em Trang con ông Đại Tá Khanh ở lầu 2 không?
- Ừ!
Thằng Tiến buột miệng:
- Mẹ, đừng có trèo cao quá mà có ngày té nặng. Em thơm như thế, sức mấy mà em
thèm mê cái thằng vô tài bất tướng như mày?
Thằng Hạnh chống chế:
- Thì tao có bảo là em mê tao đâu. Tao đang ở giai đoạn một, sắp sửa bước vào
giai đoạn hai thì bị cái tai nạn này. Đù mẹ tao chán thằng Nhị quá. Tao tính rồi,
lên khu 1000 xa vắng, có thể tu thân được, lại gần gũi thằng Minh, đỡ phải nhịn
thuốc.
Kinh thật ông phi công tị nạn này, nó đi o mèo mà cũng chia ra làm hai ba giai
đoạn như đi đánh giặc.
- Mày tính đi luôn à?
Thằng Hạnh nhìn tôi, bỉu môi:
- Luôn sao được? Bỏ em Trang lại đây cho chúng mày sơi tái à. Liệu hồn, vài tuần
nữa tóc dài ra là tao trở lại. Thằng nào muốn tán em ông cho phép, cứ việc tán
thả dàn nhưng cấm không được nham nhở, cấm không được nói xấu người vắng mặt.
Em là gái nhà lành, không quen la cà với bọn lính tráng mất dạy như chúng mày....
Tao cũng cần thông báo cho chúng mày một tin buồn quan trọng nữa: Tao biết em
chỉ có cảm tình với tao thôi....
Thằng Tiến phản đối:
- Thằng... trọc, đừng có chủ quan khinh địch quá, coi chừng có ngày chết.
- Ông chẳng khinh thằng nào cả. Đấy, thằng nào muốn vào em thì xin cứ tự nhiên,
ông long trọng thách thức chúng mày đấy.
Thằng Tiến ngồi trên giường cười một mình. Mãi sau này, tôi mới hiểu nụ cười của
nó. Câu chuyện xoay sang đề tài gái. Thằng Hạnh nhất định ra đi thật. Nó nhắn
tôi:
- Mỗi ngày mày nhớ lên thăm tao.
Dù sao thì tôi cũng là người chịu trách nhiệm hoàn toàn về sự ra đi của nó, nên
gật đầu:
- Mày đừng lo. Hai ngày một lần tao sẽ đi..."thăm nuôi" mày. Mà trên
đó cũng thiếu gì người, thiếu gì con gái đẹp, sao lại bảo là đi "xa lánh
thế tục"?
Thằng Hạnh thở dài:
- Thằng Minh nó hại tao. Nó có đứa em gái, sợ em nó mê tao thì khổ nên đã đồn rầm
lên rằng tao đã có vợ nên ai cũng biết. Sơ múi gì được nữa....
Ngày khai trương tiệm hớt tóc của tôi có đầy đủ văn võ bá quan, chỉ thiếu thằng
Hạnh. Gã Lãm còn đem qua một hộp dầu thơm rẻ tiền để yểm trợ tinh thần. út ưu
khuyết điểm từ cái đầu thằng Hạnh, tôi cứ theo chiến thuật "vết dầu
loang" của bộ binh mà lái tông đơ chạy đều đều. Bắt đầu, tôi chỉ hớt ngắn
ngắn ở vòng ngoài, thấy đẹp mới "vào sâu" thêm chút nữa. Vì cẩn thận
nên cái đầu thứ nhất tôi mất khoảng gần 3 tiếng đồng hồ. Kết quả rất khích lệ.
Nhận 45 cents và một lời cám ơn từ tay người khách, tôi mừng quá muốn hét to
lên một tiếng. Lần đầu tiên trong cuộc đời tị nạn, tôi làm ra tiền. Bọn thằng
Hưng và Hùng cũng vui không kém. Chỉ có thằng Tiến là chẳng nói chẳng rằng, vẫn
lơ đãng nằm ngó ra ngoài sân.
Ngày đó, tôi hớt tất cả 3 cái đầu. Đúng như thầy bói coi, "đại cát"
không thể tả, còn đến ba bốn người chờ, tôi phải hẹn họ ngày hôm sau. Chưa bao
giờ được xài tiền Mỹ, tôi phải loay hoay lựa mãi mới đếm được 60 cents đưa cho
gã Lãm. Gã cười rạng rỡ, khen tôi rốt rít rồi hứng tình, móc bao Pall Mall đỏ
ké trong túi mời anh em chúng tôi mỗi đứa một điếu. Tôi học thêm được một bài học
ở trường đời. Nếu mình thành công thì ai cũng xum xoe điếu đóm, còn nghèo hèn
thì ra ngồi ở giữa chợ suốt ngày cũng chả có ma nào mò đến bắt tay.
Dọn dẹp đồ đạc và làm sạch sẽ xong, với 75 cents còn lại, tôi và mấy thằng bạn
kéo ra Hitching Post. Rủ thằng Tiến đi luôn, nhưng nó từ chối. Có lẽ nó bị
"mặc cảm dày vò" vì đã không hết lòng hưởng ứng chương trình làm ăn của
tôi. Kệ nó, chúng tôi kéo ra khỏi phòng. Đường từ barrack đến tiệm giải khát
quân đội Mỹ cuốc bộ chỉ mất 10 phút, tôi đã đi nhiều lần, nhưng chiều nay tôi
thấy khác hẳn. Tôi thọc tay vào túi, miệng huýt sáo, vừa đi vừa nhún nhẩy dáng
điệu như anh chàng công tử du xuân. Tôi thấy mình xứng đáng được liệt vào hạng
"tư bản" hay "tài phiệt" gì đó của Mỹ Quốc. Thì tôi chẳng vừa
từ hai bàn tay trắng mà tạo nên cơ nghiệp là gì?
Tôi đã tính kỹ với số tiền 75 cents này rồi. Thứ nhất mua 3 bao thuốc lá Pall
Mall. Với giá PX rẻ rề, 20 cents một gói, mua ba gói, tôi còn dư được 15 cents.
Cái khoản này tôi dự tính chỉ để riêng cho tôi. Sáng mai, tôi sẽ oai vệ bước
vào đây mua một ly cà phê nóng, đem ra ngồi nơi bàn nhâm nhi. Tôi thèm đến chết
được cái thông lệ ngồi nhâm nhi cà phê sáng với điếu thuốc lá trong tay. Cái
hình ảnh thật tầm thường của ngày xưa, ngày nay bỗng trở thành một giấc mơ to lớn.
Cầm ba bao thuốc lá trong tay, tới quày tính tiền, dù biết là thừa thãi, tôi vẫn
muốn biểu diễn một màn nói tiếng Mỹ cho cái đám lính trẻ này nó khiếp. Cái tật
thích dợt le của tôi từ ngày còn ở VN sang đến đây vẫn không bỏ được:
- Madam, would you please tell me how much do I owe you?
Cô bán hàng người Mỹ không hiểu hỏi lại:
- What?
- Madam, would you please tell me how much do I owe you?
- What?
Nói xong cô ta tròn cặp mắt xanh nhìn tôi dáng điệu rất khổ sở. Tôi đỏ mặt.
Hàng mua đồ rất dài và phía sau lưng tôi đã có vài giọng giục giã. Đù mẹ, tiếng
Mỹ sao mà khó nói thế này. Chỉ một câu đơn giản như vậy mà nói nó vẫn không hiểu,
mai mốt ra trại biết ăn nói thế nào đây? Tôi cố gắng thử một lần chót:
- I... tell you... madame, how much do I owe you?
Lần này con Mỹ lắc đầu, nhìn tôi nhăn nhó:
- Sorry, I can't understand you. Is there any body understanding this guy?
Thế này thì xệ quá. Tính dợt le với đám bạn bè cho chúng nó thấy tôi là thằng
văn hay chữ tốt, hóa ra lại bị lột mặt nạ. Cáu quá, tôi dí ba gói thuốc lá vào
mặt con Mẽo ngu si kia, hét to lên:
- How much?
Lần này thì nó hiểu ra, vừa bấm máy tính tiền vừa gật đầu lia lịa:
- Sorry. I thought you asked me about something else. It's 60 cents.
Nó nói một tràng dài, tôi chỉ nghe được hai tiếng "sorry" và "60
cents". Phần còn lại, nó nói thì nó tự mà hiểu lấy, tôi không hiểu được.
Vừa bước khỏi tam cấp của Hiching Post là chúng tôi làm thịt gói thuốc lá đầu
tiên liền. Nhìn những cặp mắt hăm hở, những bàn tay run run nâng niu từng điếu
thuốc, tôi thấy rằng cuộc phiêu lưu... hớt tóc quả thật có ý nghĩa. Ít nhất,
tôi cũng làm cho 4, 5 đứa bạn bè được sung sướng. Chúng tôi ngồi trên vệ cỏ, dưới
tàng cây, đốt thuốc lá Mỹ nhìn mặt trời... Mỹ đang từ từ chìm xuống. Sau vài
giây phút "say men chiến thắng", khói thuốc lá se sắt làm lòng tôi lại
hướng về quê hương nghèo nàn mà mình vừa bỏ lại. Cũng một mặt trời đó, ở Việt
Nam giờ này, tôi không biết các bạn bè của tôi kẹt lại khi nhìn thấy nó sẽ nghĩ
gì? Tôi đau đớn nhận ra một điều là kể từ nay trở về sau, niềm vui trong chúng
ta sẽ chẳng thể nào trọn vẹn được, luôn luôn thấy mất mát một cái gì....
- Hết điếu thuốc, tụi mình đi "thăm nuôi tiếp tế" cho thằng Hạnh.
Một thằng ý kiến:
- Xa quá, thôi để mai đi.
Thằng khác:
- Không được, không nhờ cái đầu thằng Hạnh, mình đâu có thành công.
Thế là chúng tôi lên đường. Nước Mỹ là một nước vĩ đại nên cái gì cũng vĩ đại,
từ con người cho đến... trại lính. Trại Fort Chaffee là trại huấn luyện của bộ
binh mùa đông của lục quân Hoa Kỳ. Khu cư trú là một dãy với hàng trăm căn nhà
mà từ đầu đến đuôi dài có đến 4, 5 dặm. Chúng tôi ở cuối khu, thằng Hạnh
"đi tu" ở mãi gần cổng ra vào, phải cuốc bộ gần hai tiếng mới tới. Có
đi như thế này mới thấy thương thằng bạn khốn khổ. Con đường kiếm cơm trong
tương lai chưa biết thế nào chứ con đường kiếm thuốc lá lẻ của những ngày đầu tị
nạn quả thật trần ai. Chân bước mỏi rã rời mà vẫn chưa thấy đâu. Đến nơi, trời
đã chạng vạng nhưng tìm nó không khó lắm vì đã biết building, cứ vào đấy hỏi
ông... đầu trọc mới dọn lên đây ở thì ai cũng biết.
Gặp tôi, nhìn thấy bao thuốc lá Pall Mall đỏ chói trên túi áo nó hớn hở ra mặt.
Đúng điệu không quân, nó đưa một ngón tay trỏ chỉ lên trời và cười toét miệng.
Chúng tôi cũng làm dấu hiệu tương tự rồi kéo nhau ra ngoài, ngồi hút thuốc lá
dưới tàn cây và tán dóc. Thằng Hạnh xem ra đã hết cay cú về cái đầu trọc. Nó hỏi
tôi:
- Khá không mày?
Thằng Hưng mập trả lời thế:
- Ngày đầu mà được ba cái, còn mấy người tới nữa phải cho về.
Thằng Hạnh vỗ vai tôi, bốc:
- Tuyệt! Tao đã biết là thế nào mày cũng thành công mà.
Đúng là thằng không có lập trường, mới được hút vài điếu thuốc lá lẻ mà
"nhân sinh quan" của nó đã đổi thay rồi. Tuy khoái chí lắm nhưng nhìn
thấy cái đầu trọc của nó, tôi ngượng ngùng không dám trả lời. Tôi đưa cho nó
bao Pall Mall mới tinh chưa bóc, ân cần dặn dò như đi thăm tù nhân thật:
- Phần của mày đây, ráng liệu mà hút cho đến ngày mốt tao mới lên "thăm
nuôi" được. Lần tới nếu khấm khá tao còn có thể cho mày mấy chục cents đi
uống cà phê vung vít....
Con nhà Hạnh cười híp mắt lại với cái hạnh phúc "cà phê thuốc lá" đơn
giản, hỏi tôi:
- Thằng Tiến đâu rồi?
Tôi lắc đầu, lên mặt đàn anh:
- Cái thành phần biếng nhác và an phận đó nhắc tới làm gì, sang tới Mỹ rồi chứ
đâu phải còn như ở Việt Nam mà sống lè phè như vậy. Chắc nó đang nằm ngủ hay lại
đi cua đào.
- Con nào thèm mê hạng người như nó mà đòi cua. Thằng đó chẳng bao giờ khá được.
- Khá hay không thì tao không biết nhưng sang Mỹ mà tà tà kiểu đó thì chỉ có chết
đói.
Chợt nhớ ra cái gì, con nhà Hạnh hỏi tôi:
- Mày có gặp em Trang của tao không?
Đã hai ngày tôi không thấy em nhưng cũng phịa cho nó vui lòng:
- Em vẫn phây phây, chờ mày trở về.
Thằng Hạnh đưa tay lên sờ đầu:
- Người ta nói bên Mỹ này ăn uống nhiều đồ bổ nên tóc mọc mau lắm. Hai tuần nữa
là tao có thể "hạ sơn" trở về được.
Nhìn ra xa xa, nó nói một câu làm tôi giật nẩy mình:
- Tao sẽ cưới em Trang!
Trong một giây phút, tôi muốn giật lại bao thuốc lá vừa cho nó. Người ta đồn
lính không quân đa tình chưa đủ, phải thêm chữ bạc tình mới đúng. Tiên sư, mới
xa hai bà vợ có hai tháng mà đã ăn nói "vô liêm sỉ" như thế rồi.
Nhưng tôi bình tĩnh được ngay vì tôi chấp cả lò nhà nó cũng không thể nào vô nổi
em Trang. Tuy không nói ra, tôi vẫn luôn luôn cho rằng chỉ có mình tôi là người
xứng đáng nhất. Lúc chia tay, thằng Hạnh cười rạng rỡ:
- Mày ráng... hớt tóc. Tao ở trên này buồn quá vì ai cũng biết đã có vợ, lại
thêm cái đầu trọc nên ít dám đi đâu....
Gần hai tiếng đồng hồ cuốc bộ về nhà, đầu óc tôi tự nhiên miên man nghĩ đến thằng
Tiến. Tuy nó không hợp tác, nhưng dù sao cũng là bạn bè thân thích và là kẻ có
lòng. Hình như "sách có câu" đại khái như là "... phú quý không
bỏ bạn bè". Chiều nay, với mấy chục cents trong túi, tôi cảm thấy mình phú
quý thật, phải giữ lời cổ nhân dạy. Tôi sẽ chia sẻ sự phú quý của tôi với nó.
Nhưng về tới barrack kiếm nó không thấy, giường còn bỏ trống. Tay chân rã rời
sau một ngày lao động và cuốc bộ, tôi leo lên giường ngủ ngon lành.
Sáng hôm sau, tôi dậy sớm, mồm ngậm điếu Pall Mall, hai tay thọc sâu vào túi quần
tà tà bước ra Hitching Post mua ly cà phê như một kẻ phong lưu thừa tiền dư bạc.
Kiếm một chỗ ngồi rộng rãi thư thái, tôi rình rang chuẩn bị tận hưởng giây phút
trang trọng nhất của buổi sáng: Uống cà phê và hút thuốc lá. Tôi cúi đầu xuống
chiêu ngụm cà phê mua bằng tiền của mình làm ra lần đầu kể từ ngày tị nạn. Khi
ngửng mặt lên, chút xíu nữa thì ngụm cà phê tôi vừa uống phun đầy xuống sàn
nhà: Trước mặt tôi, xéo xéo phía trong một chút, thằng Tiến đang ngồi tư tình với
em Trang. Không hiểu chúng nó quen nhau lúc nào mà coi có vẻ thân tình quá đỗi.
Anh dũng như tôi, đã xông pha trăm trận đánh khắp vùng II chiến thuật mà khi
nhìn thấy hình ảnh đó, mặt vẫn méo đi một cách thảm hại vô cùng. Hình như tay
nó đang vuốt ve tay cô nàng mới là bỏ mẹ chứ.
Dù chưa bao giờ mở miệng ra tán tỉnh em, tôi thấy tự ái mình bị tổn thương trầm
trọng. Bây giờ tôi mới hiểu được nụ cười bí mật của con nhà Tiến cách đây mấy
ngày. Tôi tính bước qua bàn nó nói vài câu xã giao nhưng lại thôi. Trong đời,
tôi ghét nhứt những thằng giả dối, những thằng thất tình ruột đau như cắt mà
ngoài mặt vẫn giả vờ cười cười nói nói với tình địch. Tôi chỉ muốn ôm kín nỗi
buồn cho riêng tôi thôi.
Trên đường lủi thủi về lại barrack, tôi cố gắng xua đuổi hình ảnh "hai đứa
chúng nó mùi mẫn bên nhau" nhưng không thể được. Tôi lại thắc mắc không hiểu
rằng cái thằng Tiến này, nghèo kiết xác như chúng tôi, lại là con bà phước thì
đào đâu ra tiền mà cà phê cà pháo vi vút với em như thế? Thôi đúng rồi, tiền của
em Trang chứ của ai vào đây nữa? Ngày xưa, tôi đã từng nghe thiên hạ nói câu
"cơm no bò cưỡi", bây giờ mới thấy câu nói đó thật thấm ý nghĩa. Cái
đau đớn nhất, người cưỡi bò đã chẳng phải là tôi.
Ngày hôm đó, với cõi lòng nát tan trong người, cố gắng lắm tôi mới hớt được hai
cái đầu. Một người lớn và một đứa bé. "Đời vắng em rồi, hớt tóc cho
ai?" Thỉnh thoảng tôi lẩm bẫm đọc lại câu thơ nổi tiếng của Vũ Hoàng
Chương mà tôi đã sửa lại cho nó hợp với hoàn cảnh mình. Buổi tối, tôi đi ngủ sớm.
Ngủ cho quên nỗi buồn.
Hôm sau, vừa đi uống cà phê về thì thằng Hưng mập chạy ra, khều tôi:
- Đù mẹ có chuyện rồi.
- Chuyện gì?
- Ông trưởng barrack hồi nãy đến kiếm ông.
- Hớt tóc hả?
- Không biết, hình như là chuyện... gì đó.
Tôi đoán ông ta đi kiếm tôi để hớt tóc nên không để ý lắm. Tôi vừa kéo ghế, sửa
soạn đồ nghề thì ông trưởng Barrack bước vào. Tôi liền toét miệng biểu diễn nụ
cười cầu tài đúng điệu phó cạo, chỉ cái ghế. Ông ta lắc đầu, đưa cho tôi cái
thư, cười nhỏ nhẹ:
- Qua tới đây không phải để hớt tóc đâu em.
Tôi cầm lấy lá thơ, ngạc nhiên khi nhìn thấy hai ba cái dấu hiệu của cơ quan
chính quyền trại FortChaffee trên phong bì. Tôi vừa mò từng chữ đọc, vừa hỏi:
- Họ muốn gì đây?
- Qua nói em đừng buồn. Cái thư họ muốn em đừng hớt tóc ở trong nhà nữa, vì mất
vệ sinh và trái luật lệ.
Tôi thấy xây xẩm mặt mày. Thằng Hưng mập hỏi:
- Vậy đem ra ngoài khu nhà vệ sinh hớt được không?
- Cũng không luôn. Tóm tắt, từ nay nếu có ai hớt tóc thì phải lên khu hớt tóc
mà hớt. Mấy em thông cảm cho qua, qua chỉ biết làm phận sự.
Khỏi cần đọc tiếp, tôi vò lá thư ném đi. Ông trưởng trại nói vài câu thanh minh
thanh nga rồi rút êm. Cả bọn chúng tôi ngồi bên nhau, ôm đầu rầu rỉ. Thằng Hùng
Tây lai cho ý kiến:
- Hay là mình cứ hớt đại đi, cứ cho người canh thật kỹ, thằng nào biết mà sợ?
Tôi lắc đầu:
- Cho tao can. Mình mới sang đất Mỹ, không biết luật pháp bên này làm sao,
không thể liều mạng như kiểu ở Việt Nam được.
Chẳng còn giải pháp nào cả, anh em chúng tôi đành thu dọn đồ nghề. Hai cái kiếng
của phòng vệ sinh được đem trả lại, khăn khiếc chúng tôi ném luôn vào sọt rác.
Cảnh tượng trong phòng bây giờ tiêu điều nghèo khó như phi đoàn tôi ngày
"di tản chiến thuật". Hình ảnh của người tị nạn hạnh phúc với gói thuốc
lá Pall Mall trong túi áo sao thật giống như lời ca của bài hát tôi nghe ngày
nào ở VN: "Tuy xa mà gần... tuy gần mà xa".
Chiều đó, một mình tôi u sầu thả bộ lên khu 1000 gặp thằng Hạnh để thông báo
chuyện thằng gà rù Tiến đã vồ được em Trang và tiệm hớt tóc bị "đóng cửa
vĩnh viễn". Nghe liền hai tin sét đánh cùng một lúc, ông phi công tị nạn
rưng rưng nước mắt và méo mặt đi làm tôi cũng mủi lòng. Nó nằm ngửa người trên
bãi cỏ, nhìn lên trời than thở:
- Ai có ngờ cái thằng lù đù như gà mắc nước mà lại ghê gớm thế. Nói thật, ngày
bỏ lên đây đi tu, tao chỉ sợ mình mày vì mày là thằng có nhiều tài vặt và táo bạo
nhất. Ai có ngờ!!!
Tôi an ủi nó, dù lòng mình cũng tan nát không kém gì:
- Đời này thiếu gì con gái. Đẹp trai và ngon lành như mày thì lo gì.
- Ngon lành mà mang cái đầu trọc thì cũng hết ngon. Tao chán mày quá, nếu đầu
tao không bị trọc thì tao chấp cả nhà thằng Tiến cũng không vô nổi em Trang.
Tôi lại cảm thấy hối hận. Nó tiếp:
- Nghĩ mà... thương em. Em đài các quá, em kiêu sa quá mà tại sao lại bị vướng
vào một thằng cà chớn như thằng Tiến. Mày biết nó, suốt ngày chỉ ăn no rồi đi nằm....
Tao thấy tội cho em quá, đời em rồi sẽ khổ mày ạ. Cứ tưởng tượng cảnh em Trang
ngày ngày phải giặt quần áo và nấu nướng cho thằng chồng... xấu trai và làm biếng,
tao hết muốn bay bổng.
Nó quen miệng nói vậy chứ giờ này thì kiếm đâu ra phi cơ cho nó bay mà đòi chuyện
"hết muốn bay bổng". Tôi đồng ý với thằng Hạnh là em Trang không nên
cặp với thằng Tiến. Nhưng tự đáy lòng, tôi vẫn nghĩ nếu em không cặp thằng Tiến
thì chỉ nên đến với tôi thôi, đi với một thằng đã có hai đời vợ như thằng Hạnh
thì đời em lại càng khốn khổ hơn. Nghĩ vậy nhưng tôi im thin thít, làm như đồng
ý. Tôi biết lúc nào nên mở miệng và lúc nào nên im lặng, làm bộ mặt thảm sầu.
Gần tối, thằng Hạnh ngồi dậy, mặt đanh lại rất cương quyết:
- Mày lên phụ tao dọn đồ về chỗ cũ trở lại.
-Không chờ cho tóc mọc dài thêm chút nữa à?
- Tao đếch cần nữa. Sở dĩ tao phải "bỏ phố lên rừng" là bởi vì em
Trang. Bây giờ mất em rồi thì đời còn nghĩa lý mẹ gì nữa. Tao trở về ở với
chúng mày, "sớm tối bầu bạn có nhau" cũng đỡ. Trên này buồn quá.
Có thằng Hạnh trở lại, căn phòng cũng vui lên một chút. Tối đó, chúng tôi đang
ngồi tán dóc thì một người đàn bà dắt đứa con nhỏ đến phòng gõ cửa. Nhìn kỹ lại
thì ra thằng bé tôi mới hớt tóc cho ngày hôm qua. Bộ mặt hầm hầm của bà ta cho
tôi biết là đêm hôm khuya khắc bà không dắt con đến đây để nói chuyện vu vơ. Chắc
bà ta đã kiếm tôi suốt ngày, bây giờ mới gặp. Lại có chuyện rồi. Nhìn kỹ hơn,
tôi thông cảm với bà ngay, vì đầu thằng bé được hớt vụng về quá, chỗ trắng chỗ
đen coi nham nhở lạ lùng. Cái tông đơ hồi chiều đã trả lại cho gã Lãm, tôi
không biết lấy gì mà sửa cho nó.
Thôi thì trong 36 kế, chỉ còn cách xuống nước năn nỉ là hay nhất. Nhưng lời năn
nỉ của một anh phi công tị nạn không còn tàu bay, thiếu cây súng Colt lủng lẳng
bên hông xem ra chẳng có hiệu lực gì. Bà ta nhất định ngồi đó ăn vạ. Bực mình
quá, tôi hỏi:
- Tôi không còn tông đơ, bây giờ bà muốn tôi làm gì?
- Tôi muốn ông giả lại tiền cho tôi, tôi đem con tôi đi chỗ khác sửa tóc.
Tôi tưởng hỏi vậy để chạy tội, ai ngờ câu trả lời thẳng thừng của bà làm tôi kẹt.
Tôi làm gì còn tiền. Không biết tính sao, tôi móc hết hầu bao chỉ còn có 10
cents của ly cà phê cuối cùng mà tôi dự trù sẽ thưởng thức vào sáng mai. Đang
khổ sở thì thằng Hạnh nhảy vào cứu bồ. Nó đau khổ móc ra 25 cents đưa cho tôi:
- Mày trả lại người ta cho êm chuyện đi.
Tôi nhìn nó ngạc nhiên và cảm động. Thằng Hạnh lắc đầu:
- Đưa cho người ta đi, mai mốt tính sau.
Tôi làm y lời. Con mụ khó tính nhận tiền, chẳng thèm cảm ơn, dắt thằng nhỏ đi
ra. Tôi nhìn thằng Hạnh, lúng túng tìm một câu cám ơn:
- Mày còn tiền à?
Thằng Hạnh mếu máo, giọng nó như sắp khóc thật:
- 5 đồng vợ cho ngày di tản chỉ còn 25 cents cuối cùng, tao tính đục lỗ xỏ dây
treo nó trước ngực làm kỷ vật để đời mà nhớ đến vợ con. Mày lại hại tao lần nữa
rồi.... Đù mẹ tao chán mày quá.
Nói xong nó buồn bã leo lên giường, nằm quay mặt vào vách, lấy chăn trùm kín
người chỉ chừa cái đầu trọc. Tôi đứng yên lặng giữa phòng, lòng áy náy suy nghĩ
về những lời nó nói. Nếu mai mốt ra trại, thằng phi công này bỏ vợ quên con để
đắp xây duyên tình mới, chắc tôi phải là người chịu trách nhiệm không ít.
Tối đó, căn phòng chúng tôi im lặng lạ thường. Cái im lặng não nề của những kẻ
vừa thua cuộc. Thằng Hưng chắc nằm mơ tưởng hình ảnh của người tị nạn hạnh phúc
với gói Pall Mall trong túi áo. Thằng Hùng tây lai ca nho nhỏ vài câu tân cổ
giao duyên để quên hiện tại. Con nhà Hạnh thì thỉnh thoảng xoay mình và thở dài
lên một tiếng rất là ảo nảo, không hiểu nó nhớ 2 bà vợ còn kẹt ở Việt Nam hay
nhớ đến em Trang. Đa tình như nó, chắc phải nhớ cả 3 người cùng một lúc. Còn
tôi, tôi buồn héo người vì thương nhớ cái cửa tiệm hớt tóc đầu đời cùng những đồng
25 cents đẹp đẽ bóng lóang có khắc hình ông Mỹ đẹp trai tóc dài. Thấp thoáng
sau những đồng tiền đó, dĩ nhiên, là hình ảnh của em Trang đang đứng xõa tóc mơ
màng nơi cửa sổ lầu 2 của building 1704....
Một lúc thật lâu sau đó, đột nhiên, tôi ngồi bật dậy, nói lớn:
- Ê tụi mày, tao có một kế hoạch kiếm tiền khác!
Thằng Hạnh, tưởng nó đã ngủ từ lâu, ai ngờ lại là đứa đầu tiên nhảy ra khỏi giường,
nhìn tôi hớn hở:
- Thật không mày? Kế gì hay không nói anh em nghe với....
Thư Viện Trần Quốc Tuấn, 10/20/1989 Trường Sơn Lê Xuân Nhị Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét