CHƯƠNG XI
phân bố địa lý
Tình trạng phân bổ hiện tại không thể là do sự khác nhau về
điều kiện vật lý- Tầm quan trọng của các giới hạn- Sự giống nhau của các sinh vật
ở cùng một lục địa- Các trung tâm của sự tạo thành- Các phương tiện phân tán, bằng
cách thay đổi khí hậu và điều kiện đất, và các biện pháp được áp dụng tùy theo
thời điểm khác-Sự phân bố theo địa lý trên thế giới trong thời kỳ Băng hà Khi
xem xét sự phân bố của các sinh vật có tổ chức trên bề mặt trái đất, chúng ta sẽ
thấy ngay một thực tế rằng, sự tương đồng hoặc không tương đồng giữa các cư dân
trên các vùng khác nhau không thể do điều kiện tự nhiên và nhiệt độ giữa các
vùng đó. Hầu hết tất cả các tác giả đã nghiên cứu về vấn đề này cũng đều đi đến
kết luận như vậy. Chỉ riêng trường hợp của Mỹ cũng đã đủ để chứng minh cho thực
tế này: Nếu không tính đến vùng phía bắc- nơi quá trình băng hóa đất đai diễn
ra liên tục-thì tất cả các tác giả đều thống nhất rằng một trong nhữnng sự phân
bố cơ bản nhất về địa lý là giữa vùng Cựu lục địa và Tân thế giới. Nhưng nếu đi
hết các vùng lục địa của Mỹ, từ miền Trung nước Mỹ đến điểm cực nam, chúng ta sẽ
gặp các điều kiện sống hầu như rất khác nhau; từ các vùng ẩm ướt nhất, đến những
sa mạc khô cằn, những dãy núi cao sừng sững, những thảo nguyên cỏ xanh, những rừng
già, đầm lầy, hồ và các sông lớn..., mỗi nơi có một kiểu khí hậu khác nhau. Khó
có một kiểu khí hậu hay điều kiện sống nào không tồn tại song song giữa vùng Cựu
lục địa và vùng Tân thế giới- ít nhất là các loài có thể di chuyển từ hai vùng
không có những khác nhau cơ bản về điều kiện sống, rất khó tìm thấy những loài
có điều kiện sống hoàn toàn khác biệt, ràng các điều kiện đó chỉ khác nhau chút
ít. Ví dụ, vùng Tân thế giới nóng hơn so với Cựu lục địa, nhưng ở đó không có
các loài động thực vật khác hoàn toàn. Tuy vậy, các sản phẩm sống giữa hai vùng
này thì khác nhau khá nhiều.
*
Một thực tế quan trọng khác chúng ta cần lưu ý là giới hạn của
bất kỳ loài nào, nói cách khác là những cản trở đổi với việc di cư tự do, có
liên quan chặt chẽ và quan trọng tới sự khác nhau giữa các sản phẩm của các
vùng khác nhau. Điều này có thể thấy rõ qua những khác biệt to lớn của hầu hết
các sinh vật sống trên cạn ở vùng Tân thế giới và Cựu lục địa, trừ vùng phía bắc,
nơi đất đai gần như nối liền, và ở đó sự khác nhau về khí hậu là rất ít nên các
dạng sinh vật ôn đới ở miền bắc có thể di cư tự do, giống như các sinh vật biển
ngày nay. Sự khác biệt này có thể thấy giữa các cư dân ở Ôxtrâylia, châu Phi và
Nam Mỹ có cùng vĩ độ, ở các nước này các loài hàu như là sống tách biệt với
nhau. Ở các lục địa cũng có hiện tượng tương tự; do sự khác nhau giữa những dãy
núi cao ngất nối tiếp nhau với các sa mạc mênh mông, đôi lúc là với những dòng
sông lớn, chúng ta sẽ tìm thấy sự khác nhau giữa các sinh vật; mặc dù những dãy
núi, những con sông,... là không thể vượt qua, hoặc có vẻ như sẽ tồn tại rất
lâu, những khác biệt đó ở mức độ thấp nếu xét về những đặc điểm của từng lục địa
riêng biệt.
Đối với môi trường biển, chúng ta cũng thấy có hiện tượng
tương tự. Không có hai loài động vật biển nào có sự khác biệt rõ ràng hơn khi
so sánh giữa bờ biển phía đông và phía tây của vùng phía Nam và Trung Mỹ; tuy
nhiên những động vật này chỉ bị ngăn cách bởi eo biển nhỏ nhưng không thể vượt
qua Panama. Hướng tây của các bờ biển ở châu Mỹ, một không gian rộng cho biến lấn
vào và không có một hòn đảo nhỏ như một nơi không chào đón sự di cư; và ngay
khi vượt qua chướng ngại vật này, sẽ gặp bờ đông của Thái Bình Dương, với những
động thực vật hoàn toàn khác. Như vậy là có ba loài động vật biển trải dài từ
phía bắc sang phía nam, theo đường song song không cách xa nhau mấy, dưới điều
kiện khỉ hậu tương tự nhau; nhưng bị ngăn cách với nhau bởi những rào cản không
thể vượt qua như đất liền hoặc cửa biển nên chúng hoàn toàn khác biệt nhau. Mặt
khác, nếu tiếp tục đi tiếp về hướng tây từ những hòn đảo phía đông ở những khu
vực nhiệt đới của Thái Bình Dương, thấy vô số các hòn đảo hạn chế di cư, cho
mãi tới sau khi sang nửa bán cầu bên kia đến các bờ biển của châu Phi; và trong
suốt quãng đường dài đó, cũng không có bất cứ động vật biển nào được định nghĩa
rõ ràng hoặc hoàn toàn khác biệt. Mặc dù hiếm khi một con cua, con sò, hay cá
có điểm chung với các động vật đã nói ở trên của vùng Đông và Tây Mỹ, vùng phía
đông các đảo ở Thái Bình Dương, nhưng có nhiều loài cá từ Thái Bình Dương đến Ấn
Độ Dương; và nhiều loài sò cũng rất phổ biến ở các đảo phía đông của Thái Bình
Dương và bờ phía đông của châu Phi, dù chúng ở cùng một kinh độ nhưng có vĩ tuyến
trái ngược nhau.
Một thực tế thứ ba, phần nào đã nam trong những điều đã đề cập
ở trên là sự đồng dạng của những sản phẩm của cùng lục địa đó hoặc biển, mặc dù
các loài được phân biệt rõ ràng ở một số điểm và mức độ khác nhau. Đó là quy luật
tổng quát, và mỗi lục địa lại có vô số các ví dụ minh hoạ cho quy luật ấy. Tuy
vậy, ví dụ nhà tự nhiên học đi từ phía bắc đến phía nam không bao giờ bị ẩn tượng
bởi cách rằng nhóm được phân biệt với nhau, rằng là bởi mối liên hệ, khả năng
thay thé lẫn nhau. Anh ta nghe tiếng những loài chim cùng giống, và nhận thấy
chúng gần như nhau, cách xây tổ của chủng cũng tương tự nhau, nhưng không hoàn
toàn giống nhau, các quả trứng cũng như vậy. Ở đồng bằng gần eo biển Magellan
có loài đà điếu châu phi Mỹ, và về phía bắc là đồng bằng của La Plata có những
loài khác nhưng cũng thuộc giống đó; chúng có những đặc điểm khác với đà điểu
châu Phi cũng sống cùng ở vĩ độ đó.
Trên cùng các đồng bằng của La Plata, có thể thấy các con
agouti và bizcacha, những động vật có thói quen giống thỏ rừng và thỏ nuôi, có
cùng đẳng cấp nhưng chủng mang những đặc điểm về cấu trúc giống châu Mỹ.
Chúng ta lên những đỉnh cao ngất ở Cordillera và sẽ thấy những
loài bizcacha; xuống biển chúng ta chỉ có thể tìm thấy hải ly hoặc hươu xạ
nhưng có cấu tạo cơ thể kiểu châu Mỹ. Nếu để ý tới những hòn đảo của châu Mỹ,
chủng có thể khác về cấu trúc thuộc địa lý, về các sinh vật cư trú nhưng chủng
là những loài mang đặc trưng của Mỹ là loài sinh vật kiểu Mỹ phổ biến cả ở trên
cạn và dưới mặt nước.
Chúng ta có thể thấy đặc điểm này dạng hữu cơ nằm sâu dưới
lòng đất, vượt qua cả không gian và thời gian, trong cùng những vùng đó đất và
nước, độc lập với các điều kiện bên ngoài.
Mối ràng buộc này, theo lý thuyết của tôi, đơn giản là sự thừa
kế, đã tự có, như chủng ta đã biết, sản sinh những tế bào tương đối giống, hoặc,
giống trường hợp những biến dị có đặc điểm gần như giống nhau. Sự khác nhau giữa
các loài cư trú ở những vùng khác nhau có thể được cho là biến đổi thông qua chọn
lọc tự nhiên, và phụ thuộc ở mức tương đối những ảnh hưởng trực tiếp của các điều
kiện vật lý khác nhau.
Mức độ khác nhau sẽ phụ thuộc vào sự di trú của những dạng trội
hơn từ vùng này đến vùng khác với mức độ ít hoặc nhiều hơn, trong một số giai
đoạn; trong các hành động và phản ứng của chúng, bên trong cuộc đấu tranh cho
cuộc sống; quan hệ giữa các dạng hữu cơ, như tôi đã từng nhận xét là quan trọng
nhất trong tất cả các quan hệ. Do đó tầm quan trọng cao của những rào cản được
thể hiện thông qua việc kiểm tra hoạt động di cư khi quá trình biến đổi diễn ra
chậm chạp, thông qua chọn lọc tự nhiên.
Trong vô số loài, việc có nhiều những cá nhân, đã từng chiến
thắng nhiều đối thủ bên trong họ hàng của chính mình sẽ có cơ hội tốt nhất để
thống lĩnh những nơi ở mới, khi chúng đến một đất nước mới. Ở nơi ở mới của
mình, chúng sẽ được sống trong các điều kiện mới, và sẽ thường xuyên biến đổi
hơn nữa; do đó chúng sẽ tiếp tục chiến thắng, và sẽ sản sinh những nhóm con
cháu đã tiến hoá. Trên nguyên lý này về sự thừa kế có tiến hoá, chúng ta có thể
hiểu làm sao nó lại là một thế hệ, các thế hệ và thậm chí là cả một họ đang sống
trong cùng một vùng lại có thể phổ biến và nổi tiếng đến thế.
Tôi tin rang, như đã nhận xét trong chương trước, không có
quy luật nào về những tiến hoá cần thiết vì tính biến thiên của mỗi loài là một
thuộc tính độc lập, được phát huy thông qua chọn lọc tự nhiên, cho đến lúc nó
kiếm hệ, khả năng thay thế lẫn nhau. Anh ta nghe tiếng những loài chim cùng giống,
và nhận thấy chúng gần như nhau, cách xây tổ của chủng cũng tương tự nhau,
nhưng không hoàn toàn giống nhau, các quả trứng cũng như vậy. Ở đồng bằng gần
eo biển Magellan có loài đà điểu châu phi Mỹ, và về phía bắc là đồng bằng của
La Plata có những loài khác nhưng cũng thuộc giống đó; chúng có những đặc điếm
khác với đà điểu châu Phi cũng sống cùng ở vĩ độ đó.
Trên cùng các đồng bằng của La Plata, có thể thấy các con
agouti và bizcacha, những động vật có thói quen giống thỏ rừng và thỏ nuôi, có
cùng đẳng cấp nhưng chúng mang những đặc điểm về cấu trúc giống châu Mỹ.
Chúng ta lên những đỉnh cao ngất ở Cordillera và sẽ thấy những
loài bizcacha; xuống biển chúng ta chỉ có thể tìm thấy hải ly hoặc hươu xạ
nhưng có cấu tạo cơ thể kiểu châu Mỹ. Nếu để ý tới những hòn đảo của châu Mỹ,
chúng có thể khác về cấu trúc thuộc địa lý, về các sinh vật cư trú nhưng chúng
là những loài mang đặc trưng của Mỹ là loài sinh vật kiểu Mỹ phổ biến cả ở trên
cạn và dưới mặt nước.
Chúng ta có thể thấy đặc điểm này dạng hữu cơ nằm sâu dưới
lòng đất, vượt qua cả không gian và thời gian, trong cùng những vùng đó đất và
nước, độc lập với các điều kiện bên ngoài.
Mối ràng buộc này, theo lý thuyết của tôi, đơn giản là sự thừa
kế, đã tự có, như chúng ta đã biết, sản sinh những tế bào tương đối giống, hoặc,
giống trường hợp những biến dị có đặc điểm gần như giống nhau. Sự khác nhau giữa
các loài cư trú ở những vùng khác nhau có thể được cho là biến đổi thông qua chọn
lọc tự nhiên, và phụ thuộc ở mức tưomg đối những ảnh hưởng trực tiếp của các điều
kiện vật lý khác nhau.
Mức độ khác nhau sẽ phụ thuộc vào sự di trú của những dạng trội
hơn từ vùng này đến vùng khác với mức độ ít hoặc nhiều hơn, trong một số giai
đoạn; trong các hành động và phản ứng của chúng, bên trong cuộc đấu tranh cho
cuộc sống; quan hệ giữa các dạng hữu cơ, như tôi đã từng nhận xét là quan trọng
nhất trong tất cả các quan hệ. Do đó tầm quan trọng cao của những rào cản được
thể hiện thông qua việc kiểm tra hoạt động di cư khi quá trình biến đổi diễn ra
chậm chạp, thông qua chọn lọc tự nhiên.
Trong vô số loài, việc có nhiều những cá nhân, đã từng chiến
thắng nhiều đối thủ bên trong họ hàng của chính mình sẽ có cơ hội tốt nhất để
thống lĩnh những nơi ở mới, khi chúng đến một đất nước mới. Ở nơi ở mới của
mình, chúng sẽ được sống trong các điều kiện mới, và sẽ thường xuyên biến đổi
hơn nữa; do đó chúng sẽ tiếp tục chiến thắng, và sẽ sản sinh những nhóm con
cháu đã tiến hoá. Trên nguyên lý này về sự thừa kế có tiến hoá, chúng ta có thể
hiểu làm sao nó lại là một thế hệ, các thế hệ và thậm chí là cả một họ đang sống
trong cùng một vùng lại có thể phổ biến và nổi tiếng đến thế.
Tôi tin rằng, như đã nhận xét trong chương trước, không có
quy luật nào về những tiến hoá cần thiết vì tính biến thiên của mồi loài là một
thuộc tính độc lập, được phát huy thông qua chọn lọc tự nhiên, cho đến lúc nó
kiếm lợi cho cá nhân trong cuộc đấu tranh vất vả vì cuộc sống, vì vậy mức độ tiến
hoá của các loài khác nhau sẽ là không thống nhất về số lượng. Nếu, ví dụ, một
số loài, trong sự cạnh tranh trực tiếp với nhau, di cư tới một tập thể trong một
nước mới, phát triển sau và hoàn toàn cô lập, thì chúng sẽ phải biến dị chút
ít, nếu không chúng không thể tồn tại và phát triển được;
Những nguyên lý này được thực hiện thông qua việc mang các dạng
hữu cơ vào trong những quan hệ mới với nhau, và trong một độ nhỏ hơn trong điều
kiện sống mới. Như chúng ta đã thấy trong chương trước có vài dạng giữ gần như
nguyên tất cả đặc tính của mình từ một thời kỳ thuộc địa lý từ xa xôi, vì thế
mà các loài nhất định đã di trú qua những khoảng không rộng và đã biến đổi đi rất
nhiều.
Xét về quan điểm này, rõ ràng là một vài loài cùng giống mặc
dù sổng ở những vùng xa nhất của thế giới, trước đấy nhất định đã xuất phát từ
cùng một nguồn gốc, bước chúng đã thừa kế từ cùng một tổ tiên. Trong trường họp
của những loài đó, vốn đã trải qua tất cả các giai đoạn địa lý và đã tiến hoá rất
ít, không khó để tin rằng chúng đã cùng di cư đến từ một vùng do những thay đổi
lớn về địa lý và thời tiết với số lượng rất lớn. Nhưng trong nhiều trường họp
khác, chúng ta có lý do để tin rằng những loài trong cùng một giống đã được sản
sinh ra trong giai đoạn tương đối gần đây là rất khó. Cũng là điều hiển nhiên rằng,
các cá thể cùng loài đó sống ở cô lập và xa xôi, chắc chan phải xuất phát từ một
nơi duy nhất, nơi cha mẹ của chúng đã được sinh ra. Như đã giải thích trong
chương trước, không thể tin được những cá nhân giống nhau ở chỗ được sinh ra
thông qua chọn lọc tự nhiên từ cha mẹ hoàn toàn khác nhau. Do đó chúng tôi đặt
ra câu hỏi liệu có phải các loài đã được tạo ra chỉ ở một hoặc hay nhiều điểm
trên bề mặt trái đất. Chắc chắn có nhiều trường hợp cực kỳ khó khăn, trong việc
hiểu làm sao những cùng loài giống nhau có thể đã di trú từ một điểm nào đó đến
vài địa điểm cô lập và xa xôi, và chúng được tìm thấy trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên tính đơn giản của suy nghĩ này là mỗi loài đều được sinh ra tại một
điểm nào đó trên trái đất
Nói chung mọi người thường cho rằng, trong đa số các vùng sống
của một loài liên tục; và khi một cây hoặc động vật sống ở hai điểm quá xa
nhau, hoặc với một khoảng lặng của tự nhiên như vậy, vì không gian đó không thể
dễ dàng băng qua bởi sự di trú, nên tạo ra một số điểm ngoại lệ và khá đặc biệt.
Khả năng di cư ngang qua biển có giới hạn phân biệt hơn đối với những động vật
có vú và do đó chúng ta không thể giải nghĩa được những trường hợp của động vật
có vú đó sống ở các điểm khác nhau của thế giới.
Không có nhà địa chất nào những trường hợp như nước Anh trước
đây đã được hợp nhất với châu âu, và vì vậy cùng sở hữu các đặc điểm đó. Nhưng
nếu cùng những loài đó có thể được sản sinh ở các điểm riêng biệt, thì tại sao
chúng ta không tìm một loại động vật có vú duy nhất phổ biến ở cả châu âu và
châu úc hoặc Nam Mỹ? Điều kiện sống cũng gần như thế, do đó vô số những động vật
và những cây châu Ẩu đã nhập quốc tịch trong Mỹ và châu Úc; và vài cây nguyên
thủy giống hệt là như thế cũng ở những điểm rất xa nhau trên các bán cầu nam và
bắc? Tôi tin rằng, câu trả lời là những động vật có vú đó không có khả năng di
trú, trong khi vài loài cây, do nhiều cách phân tán, đã di trú ngang qua khoảng
cách rộng lớn. Những ảnh hưởng lớn và ấn tượng của những cản trở đối với việc
phân tán của mỗi loại, chỉ dễ hiểu nếu xét trên quan điểm phần lớn những loài
đã được sinh ra ở nửa bên này trái đất và không có khả năng để di trú tới nửa
khác. Một số họ, chi, hoặc các thế hệ sau, và một nhóm lớn các chi của cùng một
loài vẫn sống trong một vùng duy nhất, và các nhà tự nhiên học nhận thấy những
thế hệ đầu tiên hoặc những thế hệ các loài có liên quan chặt chẽ đến nhau, nói
chung thường cư trú hoặc phải cư trú trong cùng một khu vực. Điều khác thường
là, nếu, đến các thế hệ thấp hơn, tới từng cá nhân của cùng một loài đó, một
quy tắc đối diện trực tiếp thịnh hành; và các loài không phải cư trú, mà là đã
được sản sinh trong hai hoặc nhiều hơn địa điểm khác nhau. Do đó đối với tôi,
cũng như nhiều nhà tự nhiên học khác, nhất trí quan điểm rằng mỗi loài chỉ được
sinh ra trong một vùng, và sau này đã di trú từ vùng đó khi có khả năng di cư
và những điều kiện sổng phù hợp.
Chắc chắn nhiều trường hợp xảy ra mà chúng ta không thể giải
thích làm thế nào những loài đó có thể di cư từ vùng này tới vùng khác. Nhưng nếu
khí hậu và điều kiện địa lý thay đổi, chắc chắn diễn ra trong bên niên đại địa
lý gần đây, nhất định sẽ bị ngắt quãng hoặc chuỗi quan hệ của loài đó sẽ không
liên tục. Do đó chúng ta không cần xem xét nhiều xem liệu những ngoại lệ của
tính liên tục có nhiều trong tự nhiên hay không, mà chúng ta nên bỏ lòng tin đối
với những nhận xét thông thường, rằng mồi loài đã được sản sinh ửa trong cùng một
vùng, và đã di cư xa hết mức có thể.
Nhưng sau vài nhận xét sơ bộ, tôi sẽ bàn luận về một lớp nổi
bật nhất của những sự việc; đó là, sự tồn tại những loài đó trên những đỉnh núi
cao, và ở những nơi xa xôi vùng nam cực và Bắc cực; và hai là (trong chương
sau), sự phân bố rộng các sinh vật sống trong vùng nước ngọt và thứ ba là biến
đổi của những loài đó trên những hòn đảo và trên đất liền tách ra bởi hàng trăm
dặm biển. Nếu sự tồn tại của loài đó ở những địa điếm cô lập và cách xa trên bề
mặt trái đất, hay có thể trong nhiều trường hợp được giải thích trên quan điểm
là mồi loài đã di trú từ một nơi đơn lẻ; rồi sau đó, do sự thiếu hiểu biết của
chúng ta đối với những thay đổi về khí hậu địa lý và các phương tiện chuyên chở,
có thể kết luận rằng đây là một quy luật chung.
Để bàn luận về chủ đề này, chúng ta sẽ vài loài phân biệt rõ
ràng của một giống, trên lý thuyết của tôi đã được thừa kế từ một tổ tiên
chung, có thể đã di trú (trải qua sự biển hoá trong thời điểm nào đó trong thời
gian di trú của chung) từ vùng tổ tiên của chúng đã sống. Phải chăng điều này
cho thấy những trường hợp gần như không thay đổi, ở một vùng, hầu hết các sinh
vật cư trú của nó thì có quan hệ gần gũi với nhau, hoặc thuộc về cùng một thế hệ
với những loài ở một vùng thứ hai, có thể đều là con cháu của các sinh vật đã
di cư từ nơi khác đến. Chúng ta có thể rõ ràng chịu đựng, dựa trên nguyên lý tiến
hoá, tại sao cư dân của một vùng lại liên quan tới cư dân của vùng khác, từ đâu
nó đã được cung cấp. Một hòn đảo núi lửa, cho thấy, đã bùng nổ và thành hình ở
khoảng cách hàng trăm dặm từ lục địa, có lẽ nhận nó trong quá trình xâm lăng,
và những con cháu của nó sau khi đã biến hoá, vẫn còn có liên quan rõ ràng bởi
sự thừa kế tới những cư dân của lục địa châu âu. Những trường hợp này khá phổ
biến trong tự nhiên nhưng chúng ta không thể giải nghĩa được trên lý thuyết về
sự tạo thành độc lập. Quan điểm về quan hệ của những loài trong một vùng với những
loài trong vùng khác, không khác nhiều (do được thay thể bởi sự đa dạng của
loài).
Với những dạng hữu cơ không bao giờ được lai giống (nếu từng
tồn tại), những loài, nhất định đã được thừa kế từ một sự các thế hệ trước là
con lai, sẽ không bao giờ đã lẫn với những cá nhân hoặc những thể lai khác,
nhưng sẽ có thể loại bỏ lẫn nhau; do đó, ở các giai đoạn sau của thể lai và đã
tiến hoá, tất cả các cá thể của từng thể lai sẽ được thừa kế từ một cha mẹ đơn.
Nhưng trong đa số các trường hợp, tức là, với thể hữu cơ thường xuyên họp nhất
khi sinh ra, hoặc những thể lai, tôi tin rằng trong thời gian rất chậm của quá
trình biến dị, những cá thể của các loài sẽ đã được giữ gần như đồng dạng bởi
lai giống; như vậy các cá nhân đó sẽ tiếp tục thay đoi đồng thời, và toàn bộ số
lượng các thể lai sẽ không giới hạn ở mỗi giai đoạn, từ một cha mẹ đơn. Để minh
họa những gì đã nói ở trên, có thể lấy ví dụ: Loài ngựa đua nước Anh của chúng
ta khác rất ít so với những con ngựa thuộc các giống khác; nhưng chúng không có
sự khác nhau vượt trội đó từ một cặp bổ mẹ đơn ghép đôi nào, và tiếp tục được
chăm sóc trong quá trình lựa chọn và huấn luyện nhiều cá nhân trong nhiều thế hệ.
Trước khi bàn luận về ba lớp của các dẫn chứng, tôi đã lựa chọn
đế giới thiệu số lượng lớn nhất những khó khăn trong lý thuyết “Những trung tâm
đơn lẻ của các tạo vật", Tôi phải nói thêm một chút về những phương tiện
phân tán.
NHỮNG PHƯƠNG CÁCH PHÂN TÁN
Ngài C.Lyell và những tác giả khác có thể đã từng đề cập đến
vấn đề này. Tôi chỉ có thể đưa ra ở đây những giới thiệu trừu tượng và ngắn gọn
nhất về những lý lẽ quan trọng nhất mà thôi. Sự thay đổi của khí hậu nhất định
phải có tầm ảnh hưởng mạnh đối với di trú: Một vùng khi khí hậu của nó thay đổi
có thể tạo cơ hội lớn để các loài di trú, nhưng hiện tại điều này là không thể.
Tuy nhiên, tôi sẽ nói kỹ hơn về vấn đề này.
Những sự thay đối của các lớp đất phải cũng có ảnh hưởng lớn:
một eo đất hẹp có thể phân ra hai hệ động vật biển khác nhau đã bị nhấn chìm,
hoặc các thế hệ trước đã bị nhấn chìm, và hai hệ động vật bây giờ sẽ hòa họp hoặc
có thể trước đây đã hòa hợp: nơi biển bây giờ mở rộng, đất ở các thời kỳ trước
đã nối các hòn đảo với nhau hoặc thậm chí những lục địa cùng nhau, và như vậy
đã cho phép các sinh vật trên trái đất đi từ một nơi này đến nơi khác. Không có
nhà địa chất nào phản đối việc thay đổi của các tầng đã xuất hiện trong thời kỳ
các thể hữu cơ tồn tại. Edward Forbes nhấn mạnh rằng tất cả các hòn đảo ở Đại
Tây Dương sau này mới được nối với châu âu hoặc châu Phi, và
châu âu giống như với Mỹ. Các tác giả khác đã theo giả thuyết như vậy mà kết luận
ra tính bắc cầu qua từng đại dương, và đã hợp nhất gần như mồi hòn đảo tới một
vùng đất liền nào đó. Nếu thực chất những lý lẽ của Forbes là đáng tin cậy, mọi
người cần thừa nhận rằng hiếm có một hòn đảo nào tồn tại đơn lẻ mà gần đây
không hợp nhất với lục địa nào đó. Quan điểm này đã giải thích những điều rắc rối
về sự phân tán của cùng một loài ở các địa điếm cách xa nhau, và loại bỏ nhiều
khó khăn.
Đối với tôi, có thừa bằng chứng về dao động lớn trong những lục
địa của chúng ta; nhưng không phải là những thay đổi lớn về vị trí và sự mở rộng
của các lục địa này, vì chúng đã họp nhất với nhau trong thời kỳ gần đây và với
một vài hòn đảo ngoài đại dương. Tôi thừa nhận sự tồn tại trước đây của nhiều
hòn đảo, ngày nay đã bị chôn vùi dưới đáy biển, có thể được coi như nơi cư trú
cho các loài thực vật và cả các động vật trong quá trình di cư của mình.Và tôi
tin rằng trong những đại dương có san hô, những hòn đảo bị chìm như vậy bây giờ
đã được đánh dấu bởi những cái vòng san hô hoặc những đảo san hô vòng quanh
chúng. Bất cứ khi nào quan điểm nảy được thừa nhận hoàn toàn, tôi tin rằng sẽ
có ngày đó, mỗi loài đã xuất phát từ một nơi sinh đơn lẻ, và khi khoảng thời
gian chúng ta biết đến những phương tiện phân bố, chúng ta sẽ có thể quan tâm đến
sự an toàn của việc mở rộng các lục địa trước đây. Nhưng tôi không tin rằng có
thể chứng minh trong những thời kỳ gần đây, vốn khá tách biệt, đã liên tục, hoặc
gần như liên tục, họp nhất với nhau, và với nhiều hòn đảo đại dương. Một vài dẫn
chứng về sự phân bố, ví dụ như sự khác biệt lớn trong các hệ động vật biển ở
hai bờ của mỗi lục địa, quan hệ gần gũi các cư dân thuộc kỷ thứ ba của một vài
khu vực và thậm chí là cả biển với cư dân của chúng, quan hệ trong một mức độ
nhất định (như chúng ta có thể thấy sau đây) giữa sự phân bố của những động vật
có vú và độ sâu của biển, những yếu tố này và các dẫn chứng khác đối với tôi có
vẻ như chống lại việc có những thay đổi lớn về mặt địa lý đã diễn ra trong thời
kỳ gần đây, cũng như trong các lý thuyết của Forbe và những người ủng hộ ông. Tỷ
lệ tự nhiên và tương đối của các sinh vật cư trú trên các hòn đảo đại dương
cũng có vẻ như chống đối lại niềm tin về sự liên quan của những hòn đảo này với
đất liền trong quá khứ.
Tôi phải nói vài điều về cái gọi là các phương tiện ngẫu
nhiên có nghĩa, nói chính xác hơn là các phương tiện phân bố ngẫu nhiên.
Tôi sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi các thực vật mà thôi. Trong
công việc làm vườn, cây này hoặc cây kia sẽ được cho là không thích ứng tốt với
việc phân bố rộng nhưng có thể di chuyển qua biển trong các điều kiện như thế
nào thì hoàn toàn không được biết đến. Cho đến khi tôi thử nghiệm với sự giúp
đõ của ngài Berkeley, tôi không thể giải thích được tại sao các hạt giống có thể
chống lại được tác động của nước biển. Và tôi đã rất ngạc nhiên khi tìm thấy
trong 87 loại, 64 loại nảy mầm sau bị nhúng nước trong 28 ngày, và một số hạt
ít sống sót được sau khi bị nhúng chìm trong 137 ngày. Đe thuận tiện, tôi đã
thí nghiệm với các hạt nhỏ và chỉ sau vài ngày, chúng đã không thể noi lên trên
bề mặt biển, do đó không thế biết được chúng ra sao sau khi gặp nước biển, về
sau, tôi thử với vài hạt trái cây lớn hơn, hạt điều., và một số hạt đã đó nổi
lên một thời gian dài. Ai cũng biết về sự khác nhau giữa cây xanh và cây cho gỗ
khi những trận lụt có thể rửa trôi tất cả những hạt giống mới gieo trồng hoặc
các nhánh cây, những hạt này có thể sẽ được làm khô trên các bờ sông, sau đó những
d òng chảy sẽ cuốn những hạt này chảy ra biển. Do đó tôi đã làm khô những thân
và nhánh của 94 cây có quả chỉn, và để chúng trong nước biển. Đa số hạt chìm
nhanh chóng, sau đó một vài hạt m àu xanh lục nổi lên trong một khoảng thời
gian rất ngắn, trong khi các hạt khô nôi lâu hơn; ví dụ, hạt dẻ chìm ngay lập tức,
nhưng khi khô, chúng nổi được 90 ngày và về sau nảy mầm; cây măng tây và những
quả dâu tây chín noi được 23 ngày, khi khô chúng nổi được 85 ngày, và những hạt
giống về sau này cũng nảy mầm; hạt giống chín của cây Helosciadium chìm trong
vài ngày, khi khô chúng nổi được trên 90 ngày, và về sau cũng nảy mầm. Trong số
tất cả 94 hạt khô được thử nghiệm, 18 hạt nổi hơn 28 ngày, vả một vài hạt trong
số 18 hạt đó nổi trong một khoảng thời gian dài hơn rất nhiều. Như vậy là có 64
/ 87 hạt giống nảy mầm sau khi bị nhúng chìm trong hai mươi tám ngày; và 18/ 94
cây với quả chín (nhưng không phải là tất cả các loài trong thí nghiệm được tiến
hành trước đó) nối, sau khi phơi khô, hơn 28 ngày, từ những dẫn chứng này chúng
ta có thể kết luận rằng hạt giống của 14/100 cây của bất kỳ vùng nào cũng có thể
nổi trên mặt biển trong thời gian hai mươi tám ngày, và vẫn còn nguyên khả năng
nảy mầm của mình.
Trong Tập bản đồ vật lý của Johnston, tốc độ trung bình của
dòng hải lưu ở Đại Tây Dương là ba mươi ba dặm Diem (Vài dòng chảy với tốc độ
sáu mươi dặm Diem), với tốc độ trung bình này những hạt giống của 14 / 100 cây
từ nước này có thể được thả nổi ngang qua 924 dặm biển tới nước khác; và khi mắc
cạn, nếu được cuốn tới những địa đi ê ể m thuận tiện, chúng sẽ nảy mầm.
Sau này, Martens đã từng thừ theo cách tương tự, nhưng theo
cách tốt hơn nhiều anh ta đặt những hạt giống trong một cái hộp trong biển thực
tế, để chúng có thể bị ướt và phơi bày trong không khí như thật đáng thả trên
biển thật vậy. Anh ta thử 98 hạt giống, phần lớn khác với của tôi; nhưng anh ta
chọn nhiều quả lớn và các hạt tương tự từ những cây sống gần biển; và điều này
đã tạo thuận lợi cho việc nổi và chống lại các tác động tiêu cực của nước biển.
Mặt khác trước đó anh ta không làm khô cây hoặc những nhánh có quả; và điều
này, như chúng ta đã thấy nhìn thấy, sẽ giúp chúng nổi được lâu hơn. Kết quả là
18/98 của những hạt giống của anh ấy nổi được 42 ngày, và sau đó vẫn nảy mầm được.
Nhưng tôi cho rằng những cây đó được nổi trên sóng trong khoảng thời gian ít
hơn so với sự thí nghiệm của chúng tôi. Do đó sẽ an toàn hơn để giả thiết rằng
khoảng 10/ 100 cây của một hệ thực vật, sau khi đã khô, có thể được thả nổi
ngang qua 900 dặm biển rộng, và rồi vẫn nảy mầm. Điều thủ vị là các hạt lớn thường
nổi lâu hơn các hạt nhỏ, vì những cây có hạt hay quả lớn khó có thể phân tán bằng
các phương tiện khác. Nhưng hạt giống đôi lúc có thể phân tán bằng cách khác. Gỗ
làm nhà có mặt trên đa số các hòn đảo, thậm chí cả trên những hòn đảo ngoài những
đại dương rộng lớn nhất;và các cư dân trên các hòn đảo san hô ở Thái Bình
Dương, sừ dụng các công cụ bằng đá, đơấn độc từ những gốc của những cái cây
trôi dạt đến, và đá trở thành một loại công cụ đặc biệt. Tôi tìm thấy trong quá
trình thử nghiệm, khi đá thường được đắp quanh gốc cây, sẽ làm lấp hết các khe
hở khiến các hạt không thể được rửa sạch trong quá trình vận chuyển mất nhiều
thời gian: một phần đất nhỏ được bao quanh bởi một cây sồi trên 50 tuổi,có ba
cây hai lá mầm nảy ra: Tôi rất chắc chắn về sự chính xác trong quan sát này. Một
lần nữa, tôi có thể cho thấy những xác chim nổi trên về biển thi thoảng mới
tránh được sự phân huỷ của nước biển và hạt của nhiều loại hoa, ví dụ, những hạt
đậu Hà Lan chỉ sau vài ngày nhúng nước biển đã chết nhưng một vài hạt thức ăn của
chim bồ câu, có thể nổi trên nước biển nhân tạo tới 30 ngày, sau đó, rất ngạc
nhiên là vẫn có thể nảy mầm. Những chú chim hiếm khi thất bại trong việc thực
hiện nhiệm vụ là cơ quan vận chuyển các hạt giống. Tôi có thể đưa ra nhiều dẫn
chứng cho thấy nhiều loài thường xuyên có thể vượt đại dương ra sao. Tôi nghĩ
chúng ta có thể đặt ra giả thiết rằng trong điều kiện tốc độ bay trung bình của
một con chim thường là 35 dặm một giờ; những hạt cứng được vận chuyển không xây
xát chút nào qua hệ tiêu hoá của một chú gà tây.
Trong hai tháng, tôi nhặt được trong vườn của mình 12 loại hạt
giống, có trong phân của những con chim nhỏ, và chúng có vẻ khá hoàn hảo, và một
vài trong số chúng đã nảy mầm khi tôi thử trồng. Tuy nhiên có một thực tế quan
trọng hơn là: Các hạt giống được vận chuyển trong bị dạ dày chim không dạ dày
ép nát, cũng như không bị hỏng, vì như tôi đã thử nghiệm, hạt vẫn nảy mầm; sau
khi một chú chim phát hiện và tiêu thụ hết một lượng thức ăn lớn, có thể khẳng
định rằng tất cả các hạt không được chuyển vào diều chim trong 12 hoặc thậm chí
18 giờ. Một con chim có thể dễ dàng bị cuốn đi tới 500 dặm, riêng diều hâu luôn
tìm kiếm nhữnng con mồi mệt mỏi thì số lượng hạt giống được phân tán còn nhiều
hơn nhiều. Ông Brent đã cho tôi biết một người bạn của anh ta đã không thả bồ
câu bay từ Pháp đến Anh nữa, vì chúng thường bị giết bởi chim diều hâu. Vài
loài diều hâu và những con cú thường ăn hết con mồi cúa mình, và sau một khoảng
từ mười hai đến hai mươi giờ, thải ra những chất, theo tôi biết từ những sự thí
nghiệm về động vật học, có chứa các hạt có khả năng nảy mầm. Vài hạt giống của
yến mạch, lúa mỉ. cây kê, bạch yến, cây gai, cỏ ba lá, và cây củ cải đường có
thể nảy mầm sau mười hai đến hai mươi mốt giờ trong dạ dày của những con chim mồi
khác nhau; và hai trong số các hạt củ cải đường đã phát triển chỉ sau hai ngày
và mười bốn giờ
Tôi nhận thấy, nhung loài cá nước ngọt, thường ăn hạt giống của
nhiều cây trên cạn và dưới nước: cá lại thường xuyên bị chim ăn thịt, và như vậy
hạt giống có thể được chuyên chở từ chỗ này đến chỗ khác. Tôi đã nhồi nhiều loại
hạt giống vào trong dạ dày của những con cá chết, và sau đó cho các loài như đại
bàng, cò, và bồ nông ăn; những con chim này sau nhiều giờ, hoặc thải các hạt giống
này ra từ miệng hoặc chuyên chúng vào trong phân của mình; và một vài trong số
các hạt này vẫn còn khả năng nảy mầm. Tuy nhiên, một số hạt nhất định bị phân
huỷ trong quá trình này. Mặc dầu mỏ và chân chim nói chung là khá sạch, nhưng
tôi có thể thấy rằng đất đôi khi có dính vào chúng, có lần tôi đã loại bỏ hai
mươi hai gam đất sét khô bàn chân của một chú gà gô, và trong đất này có cả hạt
giống của một số cây. Như vậy hạt giống có thể thỉnh thoảng được chuyên chở qua
những khoảng cách lớn; nhiều dẫn chứng có thể cho thấy rằng trong đất luôn có
nhiều hạt giống.
Do trong các tảng băng đều có nhiều đất và đá, thậm chí có cả
bụi cây, xương, và tổ của các loài chim đất, tôi tin rằng chúng đôi lúc đã
chuyên chở những hạt giống từ vùng này sang vùng khác của vùng Nam cực và Bắc cực,
như giả thuyết của Lyell; và trong kỷ Băng hà từ những vùng ôn hòa bây giờ này
sang các vùng khác. Trong kỷ Azores, do số lượng lớn của các cây phổ biến ở
châu âu, khi so sánh với cây của các hòn đảo khác gần đất liền hơn, như ngài H.
Watson đã nhận xét, từ đặc tính miền bắc của hệ thực vật khi so sánh với vĩ độ,
tôi cho rằng những hòn đảo này phần nào được cung cấp hạt giống trong những tảng
băng trôi của kỷ băng hà. Theo yêu cầu của tôi, ngài
Lyell đã viết cho ngài M. Hartung hỏi về việc liệu có phải
ông ta đã quan sát những hòn đá cuội bất thường trên những hòn đảo này, và ông
ta trả lời rằng ông đã tìm thấy những mẫu đá hoa cương lớn và những mẫu đá khác
chưa bao giờ xuất hiện trên các quần đảo. Từ đây chúng ta có thể suy ra rằng những
tảng băng trôi trước đây đã dừng lại bên bờ những hòn đảo này, và có thể đã
mang đến đây hạt giống của các cây miền bắc. Khi xem xét những phương tiện
chuyên chở trên, và vài phương tiện khác, chắc chắn sẽ được khám phá tiếp, có
thể hoạt động sau nhiều năm, nhiều thế kỷ và hàng nghìn năm, tôi nghĩ đó sẽ là
một dẫn chứng tuyệt diệu nếu nhiều loài thực vật được phân bố rộng rãi. Những
phương tiện chuyên chở này đôi khi được gọi là ngẫu nhiên, nhưng cách gọi đó
không chính xác: các dòng hải lưu không phải là ngẫu nhiên, cũng như hướng gió
của một vài cơn bão hay xảy ra.
Rõ ràng là không phải tất cả các phương tiện chuyên chở mang
những hạt giống qua nhũng khoảng cách rất lớn; do những hạt giống không đủ khả
năng tồn tại lâu dài khi phải chịu những tác động của nước biển trong một thời
gian dài, chủng cũng không thể tồn tại quá lâu trong cơ thể các loài chim. Tuy
nhiên, những phương tiện này đủ sức thỉnh thoảng chuyên chở qua nhũng khoảng rộng
hàng trăm dặm của biển, từ đảo này đến đảo kia, từ đất liền ra đảo chứ không phải
từ lục địa này sang lục địa khác. Nhũng hệ thực vật của những lục địa cách xa
không thể được trộn lẫn nhờ các phương tiện này vẫn mang những đặc điểm khác biệt
như chúng ta vẫn thấy hiện nay. Những
dòng hải lưu, theo hướng của chúng sẽ không bao giờ mang những
hạt giống từ Bắc Mỹ đến Anh, tuy nhiên chúng có thể mang những hạt giống từ tây
Ấn Độ Dương đến bờ biển phía tây của Mỹ, ở đó, nếu không bị phân huỷ sau một thời
gian dài trôi nổi trên mặt biển thì cũng chết vì điều kiện khí hậu của Mỹ. Gần
như mỗi năm, đều có một hoặc hai lần chim bị cuốn đi qua cả Đại Tây Dương, từ Bắc
Mỹ đến bờ tây của Ailen và Anh; nhưng các hạt giống chỉ có thể được vận chở những
chú chim này theo một cách duy nhất, đó là, trong đất dính vào chân của chúng-
điều này không hề là ngẫu nhiên. Thậm chí ngay cả trong trường hợp này, cơ hội
để hạt giống rơi vào những vùng đất thuận lợi và phát triển cũng là rất nhỏ.
Nhưng đó sẽ là một sai lầm lớn khi cho rằng do các hòn đảo phát triển đầy đủ,
ví dụ như Anh, từ lâu đã không tiếp nhận một sinh vật di cư nào được đưa đến từ
châu âu và các lục địa khác nên các hòn đảo xa hơn cũng sẽ có hiện tượng như vậy.
Tôi tin rằng trong số hai mươi hạt được mang tới các đảo xa xôi bởi các động vật,
hiếm khi có nhiều hơn một hạt có thể thích nghi được với nơi ở mới như bình thường.
Nhưng đối với tôi điều này có vẻ không hợp lý cho lắm khi phản bác lại ý kiến
là các phương tiện phân tán ngẫu nhiên xuất hiện trong một thời gian dài mất đi
trong các bằng chứng địa lý, trong khi các đảo dâng lên và thành hình, và trước
khi nó có đầy đủ các cư dân của mình trên mặt đất trần trụi, với rất ít hoặc hầu
như không có sâu bọ có hại hoặc các loài chim sinh sống, gần như mồi hạt giống,
tình cờ di cư đến chắc chắn đều này mầm và sống sót.
SỰ PHÂN TÁN TRONG KỶ BĂNG HÀ
Các đặc điểm nhận dạng của nhiều động thực vật, trên các đỉnh
núi cao, được phân ra bởi những vùng đất thấp dài hàng trăm dặm, nơi những loài
trên dãy An pơ không có khả năng tồn tại, là một trong những trường hợp nổi bật
nhất từng được biết về cùng một loài sống ở những nơi cách xa nhau, mặc dù khả
năng chúng di cư từ nơi này đến nơi khác đã bị loại trừ. Có thể thấy ví dụ là
những cây hoa tuyết mọc trên dãy Anpơ có mặt ở cả châu âu và châu Mỹ. Những dẫn
chứng đó đã đưa Gmelin đến kết luận rằng những cùng loài được tạo ra độc lập tại
các địa điểm khác nhau nhưng được đưa đến các vùng khác nhau qua các phương tiện
phân tán.
Khắp một vùng rộng lớn của nước Mỹ, có những tảng đá bất thường,
những tảng đá ghi lại sự trôi dạt đến của những tảng băng trôi, cho thấy thời kỳ
vô cùng lạnh giá trước đây. Những ảnh hưởng trước đây của khí hậu băng giá đối
với sự phân bố của các cư dân châu âu, như đã được giải thích rất rõ ràng bởi
Edward Forbes. Nhưng chúng ta sẽ đi theo quan điểm về các biến dị với việc giả
thiết sẽ đến một kỷ Băng hà mới, sau đó sẽ tan biến như trước đây. Những cư dân
của những vùng ôn hòa hơn cùng lúc đi về hướng nam, nhưng chúng bị ngăn lại bởi
những rào cản và bị tiêu diệt. Những ngọn núi bị bao phủ bởi băng tuyết, những
cư dân trước đây trên dãy An pơ chuyển xuống tới những miền đồng bằng. Trước
khi thời tiết lạnh đạt đến mức cao nhất, chúng ta sẽ có một hệ động vật và hệ
thực vật Bắc cực tương đồng, có mặt ở khắp châu âu, kê cả những vùng phía nam của
dãy An pơ, thậm chí vào cả trong Tây Ban Nha. Những vùng ôn hòa bây giờ của Mỹ
cũng vậy, có đầy những động thực vật Bắc cực, và ở châu âu cũng có hiện tượng
tương tự; đối với cư dân tồn tại quanh các cực, mà chúng ta ta giả thiết là có
xu hướng đi xuống hướng nam, cũng sống trong môi trường tương tự như vậy. Chúng
ta có thể nghĩ ràng kỷ Băng hà đến Bắc Mỹ không cùng lúc đến châu âu, do đó hiện
tượng di cư đến miền nam cũng sẽ diễn ra không đồng đều; nhưng kết quả cuối
cùng vẫn không mấy khác biệt.
Khi trái đất nóng trở lại, những dạng địa chất Bắc cực rút
lui về phía bắc, kéo theo sự di chuyển về phía bắc của các sinh vật ôn đới.
Trong khi tuyết tan từ những ngọn núi, nhũng dạng địa chất Bắc cực tiếp tục bị
rửa trôi và tan ra nhanh hơn khi sức nóng tăng, trong khi những bạn đồng hành của
chúng tiếp tục bắc tiến. Từ đây, khi sức nóng đã hoàn toàn trở lại, những loài
Bắc cực đó, vốn vừa sống trên vùng đất thấp của Tân thế giới và Cựu lục địa, được
để lại lẻ loi trên những đỉnh núi cao ở những vùng cực của cả hai bán cầu.
Như vậy chúng ta có thể hiểu đặc diểm nhận dạng của các thực
vật trên những ngọn núi ở Mỹ và châu Au là rât lớn. Và chúng ta cũng có thể cho
ràng những cây trên dãy An pơ có liên quan đến các sinh vật đang sống ở Bắc cực
và ở cả những vùng phía bắc, trong khi thời tiết vẫn tiếp tục lạnh, sự di cư và
tái di cư thường là từ phía bắc xuống phía nam và ngược lại. Vi dụ, thực vật
trên dãy An pơ
Xcotlan theo như nhận xét của ngài H. c. Watson, và của
Pyrenees có quan hệ đặc biệt hơn với thực vật ở phía bắc bán đảo Scandinavia, của
Mỹ với Labrador; thực vật trên các ngọn núi của Siberia tới những điểm cực bắc
của nước đó. Quan điểm này cho thấy do những biến đổi đã được thừa nhận của kỷ
Băng hà, tôi có thể hài lòng kết luận rằng sự phân bố các sinh vật đã tồn tại của
Bắc cực và dãy An pơ ở châu âu và Mỹ, rằng ở những vùng khác chúng ta cũng tìm
thấy cùng những loài đó trên những đinh núi cao, chúng ta có thể, chứng minh
khí hậu lạnh hơn sẽ khiến các sinh vật phải di cư đến những nơi ấm hơn.
Nếu khí hậu, từ kỷ Băng hà đến nay luôn ấm hơn so với trước
đó (như nhận xét của một vài nhà địa chất Mỹ từ sự phân bố các hóa thạch
Gnathodon), những sinh vật ôn hòa và Bắc cực sau đó đã di cư trở lại về phía bắc,
và đã tới những vùng đất cư trú hiện tại của chúng; nhưng tôi chưa tìm thấy bất
cứ bằng chứng đáng tin cậy nào về điều này.
Những dạng địa chất Bắc cực, trong thời gian di cư xuống miền
nam và có xu hướng quay trở lại định cư lâu dài ở phía bắc, cũng sẽ sống dưới
cùng các điều kiện khí hậu đó, và, chúng sẽ tiếp tục sống cùng trên một cơ thể;
do đó các quan hệ của chúng với nhau không hề bị phá vỡ, và theo những nguyên tắc
đã nêu ra trong chương này, chúng sẽ không biến dị nhiều. Nhưng với những sinh
vật ở dãy An pơ của chúng ta, sau khi bị cô lập một khoảng thời gian trái đất
nóng trở lại, trên những vùng đất thấp và trên các ngọn núi cao sẽ dần bị biến
đổi khác trước và sống sót, và chúng sẽ bị nhầm lẫn với các sinh vật nguyên thuỷ
của dãy An pơ cổ xưa, những loài đã tồn tại trên ngọn núi này trước khi kỷ
nguyên Băng giá bắt đầu, và trong thời kỳ lạnh nhất chúng sẽ tạm thời tự điều
chỉnh bằng cách di chuyển xuống đồng bằng; chúng sẽ bị tác động bởi những điều
kiện khí hậu khác. Mối quan hệ của chúng do đó phần nào cũng sẽ bị ảnh hưởng và
phải biến đổi; và chúng ta tìm thấy những trường hợp mà động thực vật của dãy
An pơ giống hệt một số loài ở châu âu.
*
Việc tin rằng, từ những lý do được nhắc đến trước đây, các lục
địa của chúng ta, tuy nhiên có dài (lâu) còn lại gần như cùng vị trí tương đối
khi những sinh vật di cư mới đến, một phần do những biếấn động về mực nước và đất,
tôi nghiêng về quan điểm ở trên, có thể thấy rằng thời kỳ trái đất ấm lên và ổn
định hơn, như thời kỳ kỷ Pliocene, một số lớấn động thực vật đó sống ở xung các
khu vực đất liền gần như liên tục trong cả vùng Tân thế giới và Cựu lục địa, bắt
đầu dần di cư về hướng nam nơi có khí hậu ấm hơn, rất lâu trước khi bắt đầu kỷ
Băng hà. Chúng ta cỏ thể thấy, những con cháu của chúng, phần lớn sổng trong
các điều kiện đã biến đổi, ở Trung Âu và Mỹ. Trên quan điểm này chúng ta có thể
hiểu mối quan hệ, với rất ít sự nhận biết, giữa những sinh vật của Bắc Mỹ và
châu âu, mối quan hệ rất đáng chú ý, về khoảng cách của hai vùng, và sự phân
cách bởi Đại Tây Dương của chúng. Chúng ta có thể hiểu những dẫn chứng và nhận
xét của một số nhà quan sát, rằng những sinh vật đó của châu âu và Mỹ trong thời
gian về sau thuộc kỷ thứ ba có quan hệ chặt chẽ với nhau hơn chúng so với hiện
tại; trong thời kỳ trái đất ấm trở lại và phân ra thành Tân thế giới và Cựu lục
địa, các vùng lục địa gần như là liên tục.
Trong thời kỳ sức nóng giảm dần xuống của kỷ Pliocene, một số
loài phổ biến ở Tân thế giới và Cựu lục địa, di trú xuống phía nam của Vòng
tròn Cực, quan hệ giữa chủng chắc chắn đã bị cắt đứt hoàn toàn. Và khi những động
thực vật di trú về hướng nam, chúng sẽ dần bị pha trộn với các cư dân của Mỹ,
đã phải cạnh tranh với chúng và với cả những loài của cựu lục địa. Do các điều
kiện biến dị đều rất thuận lợi, nên đã xảy ra nhiều biển dị. Khi so sánh những
sinh vật hiện tại của những vùng ôn đới ở Tân thế giới và Cựu lục địa, chúng ta
sẽ tìm thấy rất ít những loài đồng nhất, nhưng chúng ta tìm thấy nhiều dạng
phân loại, vài nhà tự nhiên học dựa vào những bằng chứng địa lý, và những người
khác thì lại phân biệt dựa trên cơ thể của những sinh vật có quan hệ gần gũi với
nhau hoặc những dạng sinh vật tiêu biểu có những đặc điểm nhận dạng rõ ràng.
Giống như trên đất liền, trong biển cũng có hiện tượng di cư
chậm chạp xuống miền nam của một hệ động vật biển, trong kỷ Pliocene hoặc thậm
chí sớm hơn, xuống các bờ biển, theo lý thuyết về sự biến dị, nên nhiều dạng có
quan hệ gần gũi hiện nay đã từng sống trong những vùng hoàn toàn tách biệt. Như
vậy, tôi nghĩ, chúng ta có thể hiểu được sự có mặt của nhiều dạng tiêu biểu thuộc
kỷ thứ ba và tồn tại trên trên các bờ biển phía Tây và phía Đông của Bắc Mỹ ôn
hòa; trường hợp tiêu biểu là các loài sò biển (như được mô tả trong công trình
đáng nể của Dana), của các loài cá và những động vật biển khác, trong Địa Trung
Hải và những vùng biển của Nhật Bản, những vùng bây giờ đã được phân cách ra bởi
một lục địa.
Những trường hợp về các mối quan hệ này của những cư dân của
đại dưcmg bây giờ đã tách ra, và của những cư dân quá khứ và hiện tại của những
vùng đất ôn hòa Bắc Mỹ và châu âu, là không thể giải thích được dựa trên lý
thuyết của sự tạo thành. Chúng ta không thể nói rằng chúng đã được tạo ra giống
nhau, trong các điều kiện vật lý tưcmg tự như nhau; ví dụ, những nước Nam Mỹ với
những nước miền Nam châu âu, chúng ta có thể thấy rằng tuy các điều kiện sống ở
đây tưcmg đối giống nhau nhung các cư dân của chúng thì hoàn toàn khác nhau.
Nhưng khi quay lại bàn về kỷ Băng hà, tôi hoàn toàn bị thuyết
phục bởi quan điểm của Forbes về sự phát triển. Ở châu âu chúng ta có những bằng
chứng rõ ràng nhất về thời kỳ băng hà, từ những bờ biển nước Anh đến vùng
Oural, và từ phía nam đến Pyrenees. Chúng ta có thể suy ra rằng, từ những động
vật có vú bị đóng băng và các cây cỏ núi trong tự nhiên của Siberia chịu những ảnh
hưởng tưcmg tự nhau. Dọc theo Himalaya, ở những khu vực rộng tới 900 dặm, những
dòng sông băng đã để lại dấu ấn về sự xuất hiện của mình; và trong Sikkim, có
thể thấy cây ngô bám chắc vào những tảng băng khổng lồ có từ xa xưa. Phía Nam
đường xích đạo, chúng ta có những bằng chứng chính xác những biến đổi về khí hậu
lạnh giá ở Niu Dilân; và đối với các thực vật cũng vậy, do được phân bố rộng
rãi trên những ngọn núi trong hòn đảo này cũng có hiện tượng tương tự. Nếu có một
tài liệu đáng tin cậy công bố về hiện tượng này, thì chúng ta sẽ có bằng chứng
xác thực về những vậấn động của băng tuyết ở vùng đông nam châu úc.
*
Chúng ta không biết rằng chính xác kỷ Băng hà giai đoạn nào nếu
chỉ thông qua các bản ghi địa lý. Nhưng chúng ta có đầy đủ các bằng chứng cho
thấy kỷ nguyên đó nằm trong thời kỳ địa lý gần đây nhất. Chúng ta cũng có những
bằng chứng tuyệt vời cho thấy thời kỳ này kéo dài trong một thời gian khổng lồ.
Không có bằng chứng rõ ràng nào mang nghĩa ngược lại, chúng ta ít nhất có thể
chấp nhận băng giá đồng thời diễn ra ở phía tây và phía đông Bắc Mỳ, ở
Cordillera dưới đường xích đạo và dưới ở các khu vực ấm áp hơn, và ở cả vùng cực
nam châu Ẩu. Nếu điều này được thừa nhận, thì thật khó tránh khỏi việc tin rằng
nhiệt độ của toàn bộ thế giới ở thời kỳ này phần nào đã dịu mát hơn. Nhưng theo
tôi sự dịu mát này là do xuống các kinh độ thấp hơn.
Trên quan điểm này về thế giới, hoặc ít nhất là về một số lục
địa, khí hậu dần lạnh lên sẽ dẫn đến sự phân bổ lại sinh vật từ cực này đến cực
kia của trái đất. Ở Mỹ, có thể thấy rằng trong số bốn mươi và năm mươi những
cây có hoa của vùng Tieưa del Fuego, không có một bộ phận hệ thực vật khác biệt
hoàn toàn so với châu âu. Trên những đỉnh núi cao của Mỹ có những loài đặc biệt
thuộc về chủng châu âu đã xuất hiện. Trên những núi cao nhất của Brazil, ít chủng
châu âu được tìm thấy gần Gardner, chúng không tồn tại ở những vùng nóng hơn.
Cũng như vậy trên đỉnh Silla của dãy Caraccas Humboldt lừng danh đã từ lâu tìm
thấy những loài măng những đặc trưng của chủng Cordillera. Trên những dãy núi của
dãy Abyssinia, vài dạng sinh vật châu âu và một số đại diện nào đó của hệ thực’
vật đặc biệt của mũi Cape xuất hiện. Ở mũi Hy vọng, có một vài dạng sinh vật
châu âu, vốn chưa được con người biết đến, và trên những ngọn núi, ít dạng sinh
vật châu âu tiêu biểu nào được tìm thấy, và cả những loài chưa được khám phá ở
hai vùng nhiệt đới biệt lập của châu Phi. Trên đỉnh Himalaya, và trên những ngọn
núi cô lập của bán đảo Ấn Độ, trên những dãy núi cao ở Ceylon, và trên những
dãy núi lửa của Java, nhiều thực vật của châu Ảu cũng xuất hiện, nhưng chưa được
phát hiện ra ở những vùng đất thấp. Một danh sách của chủng tập họp trên những
đỉnh cao ngất của Java càng làm nổi bật bức tranh về tập họp các loài trên các
ngọn đồi châu âu. Còn có dẫn chứng cho thấy những cây bám chắc vào những đỉnh
cao của những núi của Borneo là những đại diện tiêu biếu của châu úc, có mặt
trên khắp bán đảo của Malacca, rồi xuất hiện thưa thớt rải rác ở Ấn Độ và Nhật
Bản.
Trên những ngọn núi miền nam châu úc, giáo sư F. Myller đã
khám phá vài loài đại diện cho châu âu; những loài khác chưa được con người biết
đến, xuất hiện trên những vùng đất thấp; và có một danh sách dài của các chủng
châu âu ở châu úc. Từ đây chúng ta có thể thấy rằng trên thế giới, những cây
bám chắc vào những núi cao ngất hơn, và ở những vùng đất thấp ôn đới của những
bán cầu nam và bắc, tuy chúng có những đặc điểm khác nhau nhưng đều có quan hệ
mật thiết với nhau.
Có thể gọi ngắn gọn các sự việc trên bằng một khái niệm
chung, đó là sự phân bố địa lý. Tôi xin trích dẫn một nhận xét của một người
đáng kính, giáo sư. Dana, rằng chắc chắn rất kỳ diệu khi các sinh vật ở Niu
Dilân gần giống với các sinh vật ở Anh và các lục địa khác. Ngài J. Richardson
cũng nói về sự tái xuất hiện trở lại của một số loài cá phía Bắc ở Niu Zealand,
Tasmania... Tôi cũng được biết rằng có hai mươi nhăm loài của dãy Algae di cư tới
Niu Zealand và châu âu nhung không tạo ra các sinh vật biển nhiệt đới trung
gian.
Nếu quan sát có thể thấy rằng có những dạng sinh vật cực bắc ở
bán cầu nam, trên những dãy núi ở giữa hai vùng nhiệt đới, thì đó không phải là
các loài đến từ Bắc cực mà là đến từ các vùng ôn đới. Như ông H. c. Watson mới
đây đã nhận xét: "Khi lùi dần về phía xích đạo từ hai cực, những hệ thực vật
trên dãy An pơ hoặc các dãy núi khác trở nên ít hơn và ít mang đặc tính Bắc cực
hơn". Nhiều dạng sinh vật sống ở vùng núi các vùng nhiệt đới của trái đất
và ở bán cầu miền nam, được xếp hạng theo sự phân biệt rõ ràng các đặc tính do
vài nhà tự nhiên học tiến hành, trong đó có cả các biến dị và một số loài có
quan hệ mật thiết với nhau cũng được xếp thành các loài riêng rẽ.
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét kỹ những dẫn chứng đã được đề cập
ở trên, rằng theo các bằng chứng địa lý toàn bộ thế giới, hoặc một bộ phận của
nó, trong kỷ Băng hà đồng thời lạnh nhiều hơn so với hiện nay. Kỷ Băng hà chắc
chan đã kéo dài rất lâu; và khi chúng ta biết được sự rộng lớn của giai đoạn
này, chúng ta sẽ biết được mức độ phân tán và di cư của các động thực vật giai
đoạn này lớn đến mức nào. Khi khí hậu dần trở nên lạnh hơn, tất cả những cây
nhiệt đới và những sinh vật khác sẽ rút lui về phía đường xích đạo, mang theo
các sinh vật ôn đới. Những cây nhiệt đới có lẽ đã tuyệt chủng khá nhiều; không
ai có thể nói nhiều ra sao;có lẽ trước đây ở mũi Hy vọng, và một phần của châu
úc ôn đới đã có rất nhiều loài sinh vật sinh sống. Do chúng ta đều biết nhiều động
thực vật nhiệt đới có thể chống cự khá tốt với khí hậu lạnh, nhiều loài có thể
đã tránh khỏi sự diệt vong trong khí hậu ôn đới, đặc biệt hơn là việc tránh bị
rơi vào trong những nơi ấm nhất. Nhưng điều cần nhớ là tất cả các sinh vật nhiệt
đới sẽ chỉ chịu đựng tới một phạm vi nhất định. Mặc khác, những sinh vật ôn đới,
sau khi di cư đến gần đường xích đạo, chúng sẽ sống trong các điều kiện mới, và
ít đau đớn hơn. Và nhất định là nhiều hạt giống ôn đới, nếu được bảo vệ khỏi những
sự tấn công của các đối thủ khác, có thể chống cự tốt với khí hậu ấm. Tôi cho rằng
điều này là có thể xảy ra, khi nghĩ đến những sinh vật nhiệt đới đã bị tổn
thương do các thay đổi và không thể chống cự lại các đối thủ cạnh tranh ôn đới
mạnh mẽ và trội hơn, những loài có thể có thâm nhập vào rất nhiều quốc gia, thậm
chí cả vượt qua đường xích đạo. Những loài mới đến, được hưởng các điều kiện
như đất cao, khí hậu khô; và tôi được biết độ ẩm ở các vùng chí tuyến sẽ phá huỷ
những cây cổ thụ đến từ vùng khí hậu ôn hòa. Mặt khác, những khu ẩm ướt nhất và
nóng nhất đã cung cấp một chỗ trú ẩn tuyệt vời cho các cư dân nhiệt đới bản xứ.
Các vùng phía bắc trong phạm vi phía tây Himalaya, và dãy Cordillera, có vẻ đã
cung cấp nơi ở cho các loài mới đến này: và một dẫn chứng nổi bật là tất cả các
thứ cây có hoa, khoảng bốn mươi sáu cây, phổ biến ở Tierra del Fuego và châu âu
vẫn còn tồn tại ở Bắc Mỹ. Tôi tin rằng rằng khí hậu biển dưới đường xích đạo
cũng giống như trên đỉnh núi cao khoảng sáu hoặc bảy nghìn feet. Trong thời kỳ
lạnh nhất này, những vùng đất thấp nhiệt đới rộng lớn được bao phủ bởi cả cây cỏ
ôn đới và nhiệt đới, càng làm tăng thêm sự sum suê kỳ lạ của dãy Himalaya.
Do đó, tôi tin rằng, một số cây, động vật trên đất, các sinh
vật đã di trú trong thời gian kỷ Băng hà từ vùng ôn đới ranh giới giữa cực nam
và cực bắc của vùng nhiệt đới, và vài loài thậm chí còn vượt qua cả đường xích
đạo. Khi trái đất ấm trở lại, những dạng ôn đới này tự nhiên di cư đến những
vùng núi cao hơn, do chúng bị tiêu diệt ở những vùng đất thấp; những loài đã
không di cư được đến đường xích đạo, lại quay trở về phía bắc hoặc về hướng
nam, quê hương cũ của chúng; nhưng những loài, chủ yếu là từ phía bắc, vượt qua
đường xích đạo, vẫn tiếp tục di cư đến những vĩ độ ôn hòa hơn của bán cầu đối
diện. Mặc dầu chúng ta có lý do để tin rằng những bằng chứng địa lý thấy toàn bộ
các cá thể của vùng Bắc cực đều đã trải qua gần như mọi biến dị trong thời gian
di trú đến miền nam và quay trở lại miền bắc, trường hợp này khác với những
loài di cư ở vùng núi ở giữa hai vùng nhiệt đới, và ở bán cầu miền nam. Và các
kẻ lạ mặt phải đấu tranh với nhiều dạng sống mới; chúng tự lựa chọn những sự biến
dị trong cấu trúc của mình, những thói quen, và những đặc tính có lợi cho chủng.
Do đó, tuy những loài di cư này vẫn có những điểm giống với các loài này ở Bắc
cực hoặc ở bán cầu nam, nhưng khi tồn tại trong những vùng đất mới của mình,
các biến dị trở nên rõ nét hơn và trở thành đặc điểm phân biệt
Và như vậy, khi những dạng này được trộn lẫn với nhau trong kỷ
Băng hà, những dạng sinh vật miền bắc sê tiêu diệt những dạng miền nam yếu hơn.
Cũng theo cách đó chúng ta thấy rằng hiện nay, có nhiều sinh vật châu âu sổng ở
La Plata, và với một số lượng ít hơn ở châu úc, trong một phạm vi nhất định đã
tiêu diệt hết các sinh vật bản xứ natives; trong khi đó rất ít dạng sinh vật miền
nam, đã trở thành các cư dân của châu âu, sau khi di chuyển đến đây trong hai
hoặc ba thế kỷ trước từ La Plata, và trong ba mươi hoặc bốn mươi năm trước từ
châu úc. Những loài này cũng đã xuất hiện trên những vùng núi giữa hai vùng nhiệt
đới. Không nghi ngờ gì rằng trước kỷ Băng hà với những dạng sinh vật trên dãy
An pơ; đã phát triển trội hơn và phát triển sang các vùng rộng lớn hơn và định
cư ở phía bắc. Ở nhiều hòn đảo, số lượng các sinh vật địa phương gần như được
cân bằng hoặc thậm chí đông hơn so với các sinh vật mới di cư đến; và nếu các
sinh vật bản xứ không thật sự bị tiêu diệt, số lượng của chúng cũng giảm bớt
đáng kể, và đây là giai đoạn đầu tiên của sự tuyệt chủng. Một ngọn núi là một
hòn đảo trên mặt đất; và những ngọn núi ở giữa hai vùng nhiệt đới trước kỷ Băng
hà chắc chắn là hoàn toàn tách biệt; tôi tin rằng các sinh vật của các hòn đảo
trên đất liền này đã sinh ra các loài ở những vùng rộng lớn hơn về phía bắc,
theo đúng cách những sinh vật của các đảo phải nhượng bộ các sinh vật đến từ đất
liền, phù hợp với sự phân bố của loài người. Sau đây tôi sẽ nói về những điều cần
lưu tâm, đó là những biến cố của những loài đồng nhất ở những nơi xa xôi như
Kerguelen, Niu Dilân, và Fuegia, tôi tin rằng khi kỷ Băng hà kết thúc, những
núi băng trôi, như ý kiến của Lyell, phần lớn được quan tâm đến sự phân tán của
chúng. Nhưng sự tồn tại của vài loài khá khác biệt so với các loài khác, thuộc
về những chủng riêng ở phía nam, ở những nơi xa xôi khác ở bán cầu nam. Theo lý
thuyết của tôi về sự di truyền các biến dị, có một khó khăn cần lưu tâm. Do một
ít trong số những loài này rất khác biệt, chúng ta không thể giả thiết rằng
chúng bắc đầu di cư và cso những biến dị cần thiết từ kỷ Băng hà. Đối với tôi,
các dẫn chứng trên cho thấy sự phân biệt rõ ràng và đặc biệt giữa những loài di
cư; và tôi buộc phải quan tâm đến vùng phía nam, giống như ở bán cầu bắc, trước
khi kỷ Băng hà bắt đầu, trên đất liền của cực nam hạ cánh bao trùm toàn nước,
có một hệ thực vật bậc cao và hoàn toàn cô lập. Tôi nghi ngờ rằng trước khi hệ
thực vật này bi tiêu diệt bởi kỷ nguyên Băng giá, một số đã được phân tán rộng
rãi tới nhiều vùng của bán cầu nam do các phương tiện vận chuyển ngẫu nhiên và
những dạng trung gian ở những hòn đảo đã bị chìm hoặc vẫn đang, và có lẽ bởi những
núi băng trôi trong kỷ Băng hà. Do những phương tiện này, tôi tin rằng, những bờ
biển miền nam của Mỹ, úc, và Niu Dilân đã có rất nhiều loài thực vật đa dạng.
Ngài c. Lyell cũng cùng quan điểm với tôi khi nói về tác động
của những thay đổi lớn về khí hậu đối với phân bố địa lý. Tôi tin rằng thế giới
mới trải qua một quá trình biến đổi lớn; điều này cùng với những tiến hoá trong
chọn lọc tự nhiên có thể giải thích được sự phân tán của một số loài hiện hữu
và các loài có quan hệ gần gũi với nhau. Những sinh vật sống dưới nước có thể
trong một thời gian ngắn trôi từ phía bắc đến phía nam, đi qua đường xích đạo.
Tuy nhiên, thuỷ triều để lại những vật mà nó cuốn theo trên các bờ biển, do đó
các sinh vật sống dưới nước được đưa lên các đỉnh núi, dần từ vùng nhiệt đới
kéo dài đến đường xích đao. Nhiều loài đã trải qua những thời kỳ khó khăn và sống
sót được lâu dài trên mặt đất, đóng góp vào các bản ghi địa lý rằng chúng ta
quan tâm ở những vùng đất thấp xung quanh.
CHƯƠNG XII
phân bố địa lý - tiếp theo
Sự phân bố các sinh vật nước ngọt - về các sinh vật trên các
đảo ở đại dưcmg - Sự vắng mặt các loài ếch nhái và các loài thú sống trên cạn -
về quan hệ của các sinh vật trên các hòn đảo với các sinh vật ở vùng đất liền gần
đảo nhất - về sự thuộc địa hóa từ nguồn gần nhất với sự biến đổi thường xuyên -
Tóm tắt chương hiện tại và các chương trước
Con người hẳn đã từng nghĩ rằng, bởi vì hồ và các hệ thống
sông bị ngăn cách với nhau bởi các dải đất, nên các loài nước ngọt sẽ không thể
biến đổi nhiều trong cùng một nước, và bởi vì biển rõ ràng là một rào cản khó
có thể vượt qua, nên các loài này không thể vươn tới các đất nước xa xôi được.
Nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Chủng ta không chỉ có các loài nước ngọt,
thuộc những lớp hoàn toàn khác nhau, với vô số chủng loại, mà những loài cùng họ
còn xuất hiện rất nhiều trên khắp thế giới. Tôi nhớ rất rõ ràng, khi lần đầu
tiên thu thập các loài sinh vật tại các vùng nước ngọt ở Braxin, tôi đã hết sức
ngạc nhiên vì sự tương đồng của các loài côn trùng nước ngọt, các mảnh vỏ sò...
cũng như sự khác biệt của các sinh vật sống trên cạn ở xung quanh so với các
loài này của nước Anh.
Nhưng khả năng biến đổi mạnh mẽ này của các loài nước ngọt, mặc
dù hết sức đáng ngạc nhiên, song tôi nghĩ, trong hầu hết các trường hợp, vẫn có
thể giải thích bằng việc các loài ngày càng biến đổi để phù hợp hơn, theo hướng
có ích, cho những cuộc di cư ngắn và thường xuyên từ ao này sang ao khác, hoặc
từ dòng suối này sang dòng suối khác; và khả năng phân tán rộng rãi gần như là
hậu quả tất yếu của năng lực này. Ở đây, chúng ta có thể xem xét một vài trường
hợp. Liên quan đến cá, tôi nghĩ rằng, những loài giống nhau không bao giờ xuất
hiện trong những thủy vực ở những lục địa xa xôi. Nhưng trên cùng một lục địa,
các loài biến đổi rất nhiều và gần như không theo quy luật nào; vì vậy, hai hệ
thống sông sẽ có một số loài cá giống nhau và một số loài cá khác nhau. Có một
số bằng chứng thực tế thiên về khả năng cho rằng, các loài này đôi khi có thể
được phát tán một cách tình cờ, giống như việc loài cá live đôi khi bị những
cơn gió cuốn theo ở n Độ, cũng như khả năng tồn tại trứng của các loài này khi
bị tách khỏi môi trường nước. Tuy nhiên, cá nhân tôi lại tin rằng, sự phát tán
các loài cá nước ngọt chủ yếu là do những thay đổi nhỏ của đất liền trong thời
kỳ gần đây, làm cho các con sông chảy vào nhau. Cũng vậy, có thể đưa ra những
ví dụ cho thấy hiện tượng này đã xảy ra trong các cơn lũ, mà không có sự thay đổi
nào trong đất liền. Chúng ta đã có được những bằng chứng trong hoàng thổ của
sông Rhine về những thay đổi đáng kể trong mực đất liền trong phạm vi một thời
kỳ địa chất rất gần đây, và khi bề mặt trái đất có đầy rẫy những vỏ sò nước ngọt
và sò trên cạn. Sự khác biệt rõ rệt giữa những loài cá ở hai sườn của những dãy
núi liên tiếp có vẻ cũng đưa đến cùng một kết luận. Những dãy núi này hẳn đã
chia rẽ các hệ thống sông và ngăn hoàn toàn không cho các hệ thống sông này nối
với nhau, về sự tồn tại của các loài cá nước ngọt có cùng họ ở những nơi rất xa
trên thế giới, rõ ràng là có rất nhiều trường hợp mà hiện tại chúng ta không thể
giải thích được; nhưng một số loài cá nước ngọt nào đó thuộc về một dạng rất cổ,
và trong những trường họp đó, hẳn sẽ có nhiều thời gian cho những biếấn động địa
chất mạnh mẽ, và kết quả là thời gian và cả phương tiện để cho các loài đó có
thể di cư. Tiếp theo, cá nước mặn có thể dần dần quen với việc sống trong môi
trường nước ngọt; và, theo Valenciennes, hiếm có một nhóm các loài cá duy nhất
nào chỉ có thể sống trong môi trường nước ngọt, và vì vậy, chúng ta có thể tưởng
tượng rằng, một loài cá biển của nhóm cá nước ngọt có thể di chuyển đi dọc bờ
biển, dần dần biến đổi và thích nghi với những vùng nước ngọt ở một mảnh đất xa
xôi nào đó.
Một số loài sinh vật biển có vỏ bảo vệ bên ngoài sống ở vùng
nước ngọt có phạm vi phân bố rất rộng, và các loài cùng họ, mà theo thuyết của
tôi phải có chung bố mẹ và phải tiến hóa từ một nguồn duy nhất, xuất hiện khắp
nơi trên thế giới. Sự phân bố của các loài này ban đầu rất khó hiểu vì các con
chim không thể vận chuyển trứng của các loài này, và loại trứng này sẽ bị nước
biển làm hỏng ngay tức khắc, giống như những con trưởng thành. Thậm chí tôi đã
không thể hiểu làm thế nào mà một số loài đã được thích nghi lại có thể phát
triển nhanh đến vậy trên cùng một đất nước. Song có hai thực tế mà tôi quan sát
được -và không còn nghi ngờ gì nữa, vẫn còn nhiều sự kiện nữa cần được quan sát
- đã giúp làm sáng tỏ phần nào vấn đề này. Khi một con vịt đột ngột xuất hiện ở
một cái ao phủ đầy bèo tấm, tôi đã hai lần nhìn thấy những thực vật bé nhỏ này
dính chặt vào lưng con vịt; và tôi ngẫu nhiên phát hiện ra rằng, mặc dù không
chủ tâm song con vịt đã mang đến một ít sinh vật nước ngọt từ một cái ao khác
khi con vịt cố gắng rũ bỏ một chút bèo tấm khi đi từ ao này sang ao kia. Nhưng
một tác nhân trung gian khác có lẽ còn hữu hiệu hơn: Lấy một chú vịt làm đại diện
cho một trong những con chim đang ngủ trong một cái ao tự nhiên, hay trong một
bể nuôi thủy sinh, nơi có rất nhiều trứng của sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ
bên ngoài nước ngọt đang nở. Tôi treo chân của một con vịt lên và thấy rằng, có
vô số những sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài bé tí xíu và vừa mới nở
đang bò trên chân con vịt, và bám chặt vào chúng đến mức mà khi nhấc chân vịt
ra khỏi nước thì những sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài này cũng không
thể rơi ra, nhưng nếu những con sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài này lớn
hơn một chút thì chúng sẽ tự nguyện rời khỏi chân con vịt. Những động vật thân
mềm vừa mới nở này, mặc dù đã hoàn chỉnh về bản chất, chỉ sổng được trên chân
con vịt, trong điều kiện không khí ẩm ướt, từ mười hai đến hai mươi giờ; và
trong khoảng thời gian này, một con vịt hay con diệc có thể bay được ít nhất
sáu đến bảy trăm dặm, và chắc chắn sẽ phải đậu xuống một cái ao hay một dòng suối
nhỏ, nếu nó định bay qua biển đến một hòn đảo trên đại dương hay đến một nơi xa
xôi nào đó. Ngài Charles Lyell cũng báo cho tôi biết rằng, người ta đã bắt được
một con Dyticus, mà trên người nó có một con Ancylus (một con Shell nước ngọt
giống con sao sao) đang bám chặt; và một con bọ cánh cứng water cùng họ đó, một
con Colymbetes, từng đậu trên boong tàu Beagle, khi con tàu này đang ở cách xa
vùng đất liền đến bốn mươi dặm: không ai có thể biết được, con Ancylus này có
thể bay được bao xa nữa khi có một cơn gió thuận chiều.
về các loài thực vật, từ lâu người ta đã biết rằng, nhiều
loài nước ngọt và ngay cả những loài sinh sống ở đầm lầy xuất hiện ở những môi
trường sống ở rộng lớn, kể từ các lục địa cho đến những hòn đảo xa xôi nhất
trên đại dương. Như ông Alph De Candolle đã nhận xét, đáng chú ý nhất là điều
này được tìm thấy ở những nhóm lớn cac loài thực vật trên cạn, vốn chỉ có một số
ít thành phần sống được trong môi trường nước; vì những thành phần này dường
như ngay lập tức có được những phạm vi sống rất rộng, cứ như thể đó là một kết
quả tất yếu. Tôi nghĩ, những phương tiện phát tán thuận lợi giúp giải thích được
thực tế này. Trước đây, tôi đã từng nói đến việc là, đất, một đôi khi, tuy hiếm,
bám một chút vào chân hoặc mỏ của những con chim. Những con chim đang ngụp lặn
trong nước, thường hay kiếm ăn ở những rìa ao đầy bùn, nếu bỗng nhiên bị xua
bay đi, chắc chắn chân chúng sẽ dính đầy bùn. Tôi có thể chỉ ra rằng, những con
chim thuộc bộ này là những con vật hoang dã nhất, đôi khi được tìm thấy ở những
hòn đảo hoang xa xôi nhất trên đại dương. Những con chim này khó có thể đậu
trên mặt biển, vì thế mà bùn trên chân chúng khó có thể được rửa sạch, khi những
con chim này trông thấy đất liền, chẳc chan chúng sẽ bay đến những bãi nước ngọt
tự nhiên kiếm ăn. Tôi không tin rằng, các nhà thực vật biết rõ ràng, bùn chứa
bao nhiêu hạt giống trong nó. Tôi đã làm thử vài thí nghiệm nhỏ, nhưng sẽ chỉ dẫn
ra đây thí nghiệm đáng chú ý nhất: Vào tháng 2, tôi lấy 3 thìa cà phê đầy bùn từ
ba điểm khác nhau, dưới nước, trên bờ của một cái ao nhỏ, lượng bùn này khi khô
chỉ nặng có 6,75 aoxơ. Tôi giữ nó để nghiên cứu trong vòng 6 tháng, nhổ ra và đếm
từng loài thực vật khi chúng lớn lên; những loài thực vật này thuộc rất nhiều
loại, con số cuối cùng lên đến 537 loài; vậy mà tất cả chỗ bùn lỏng đó chỉ được
chứa vỏn vẹn trong có một cái chén cà phê dùng để ăn sáng! Xem xét những sự kiện
này tôi cho rằng, chúng ta sẽ không thể giải thích nổi nếu những con chim biển
không mang những hạt giống của các loài thực vật nước ngọt đi đến những nơi cực
kỳ xa xôi, và do đó, số lượng những loài thực vật này không lớn đến như vậy. Có
thể cũng chính trung gian này giúp chuyên chở trứng của một số loài động vật nước
ngọt nhỏ hơn.
Các trung gian khác có thể chưa được biết đến cũng có vai trò
nhất định. Tôi đã chỉ ra rằng, các loài cá nước ngọt ăn một số loại hạt, mặc dù
sau đó chúng thải ra nhiều loại khác; ngay cả những con cá nhỏ cũng nuốt các hạt
cỡ vừa, như hạt của cây súng và cây Potamogeton. Con diệc và những con chim
khác, từ thế kỷ này qua thế kỷ khác, đã ăn các loài cá, sau đó chúng bay đi và
đến những vùng nước khác; hoặc bị cuốn bay qua biển, và chúng ta đã thấy rằng,
những hạt cây đó vẫn có thể nảy mầm, khi được thải ra trong phân của chim nhiều
giờ sau đó. Khi tôi nhìn thấy hạt của những cây súng, Nelumbium, có kích thước
rất to,và nhớ đến lời nhận xét của ông Alph De Candolle về loài thực vật này,
tôi đã nghĩ rằng, sự phân bố của loài này vẫn không thể giải thích được. Nhưng
Audubon tuyên bố, ông đã tim thấy hạt của cây súng miền nam loại lớn (có lẽ
theo tiến sỹ Hooker, là cây Nelumbium luteum) trong dạ dày của một con diệc,
cho dù tôi không được biết sự thực, song phép loại suy khiến tôi tin rằng, một
con diệc bay đến một cái ao khác và ăn một bữa cá lớn ở đó, rồi sau đó có thể
đã thải phân có chứa hạt của cây Nelubium chưa tiêu ra ngoài; hoặc các hạt cây
đó có thể đã bị rơi khi con chim mẹ mớm mồi cho chim con, giống như trường hợp
cá đôi khi cũng bị rơi mà ta đã biết.
Trong khi xem xét các cách phân tán này, cần phải nhớ rằng,
khi lần đầu tiên một cái ao hoặc một dòng suối hình thành, ví dụ, trên một hòn
đảo nhỏ đang nổi lên, thì ban đầu chưa có sinh vật nào sinh sống; và một hạt giống
hay một cái trứng duy nhất sẽ có nhiều cơ hội sống sót được. Mặc dù sẽ có một
cuộc đấu tranh đế giành lấy sự sống giữa các cá thể của các loài, cho dù ít, vốn
đã đang cư ngụ trên một cái ao, song do số lượng loài nhỏ, so với số lượng loài
trên cạn, nên sự cạnh tranh giữa các loài sống trong nước có lẽ sẽ ít khốc liệt
hơn so với những loài sống trên cạn; kết quả là, một loài mới từ vùng nước của
một nước khác xâm nhập vào sẽ có nhiều cơ hội chiếm được một chỗ trú ngụ hơn so
với một loài trên cạn. Chúng ta cũng nên nhớ rằng, một số, có lẽ rất nhiều loài
sinh vật nước ngọt có mức độ tiến hóa thấp, và chúng ta có lý do để tin rằng,
những sinh vật tiến hóa thấp đó thay đổi hoặc trở nên thích nghi chậm hơn so với
các loài tiến hóa cao; và do đó cần nhiều thời gian hơn so với mức trung bình đế
chúng di cư so với các loài cùng thang tiến hóa nhưng sống trong môi trường nước.
Chúng ta không nên quên khả năng có nhiều loài mà trước đây đã xuất hiện liên tục
như những loài nước ngọt từng xuất hiện ở những khu vực rộng lớn, rồi sau đó lại
bị tuyệt chủng ở những vùng trung gian. Nhưng tôi tin rằng, sự phân bố rộng rãi
của những loài thực vật nước ngọt và các loài động vật cấp thấp hơn, dù là duy
trì đúng dạng sống ban đầu hay đã biến đổi ở một mức độ nào đó, vẫn phụ thuộc
chủ yếu vào sự phát tán rộng rãi các hạt hay trứng của chúng nhờ các loài động
vật, đặc biệt là nhờ vào các loài chim nước ngọt, là những loài có khả năng bay
xa, và thường di chuyển từ nơi này đến nơi kia và thường là đến những vùng nước
khác nhau. Tự nhiên, cũng giống một người làm vườn cẩn thận, vì vậy lấy các hạt
giống của mình từ một môi trường tự nhiên cụ thể, sau đó thả chúng ở những nơi
khác cũng có những điều kiện phù hợp với chúng như vậy.
về các loài sinh vật cư trú trên những hòn đảo ở đại dương -
Giờ đây chúng ta đến với lớp sự kiện cuối cùng trong ba lớp sự kiện thực tế, mà
tôi coi là thể hiện mức độ khó và cao nhất, với quan điểm cho rằng, tất cả mọi
cá thể của cùng một loài hoặc các loài cùng họ đều xuất phát từ cùng một bố mẹ
duy nhất, và vì vậy tất cả đều xuất phát từ một địa điểm chung, cho dù theo thời
gian, chúng đã đến cư trú tại một điểm xa xôi nào đó trên trái đất. Tôi cũng đã
chỉ ra rằng, tôi không thế trung thực mà thừa nhận quan điểm của Forbes về sự mở
rộng lục địa. Quan điểm này nếu được theo đuổi đến cùng sẽ dẫn đến niềm tin rằng,
trong phạm vi thời kỳ gần đây, tất cả các hòn đảo hiện có gần như hoặc thực sự
nối với một lục địa nào đó. Quan điểm này sẽ giúp loại bỏ đi khá nhiều khó
khăn, song tôi nghĩ, nó lại không giúp giải thích tất cả các sự kiện liên quan
đến các sinh vật ở đảo. Trong những nhận xét dưới đây, tôi sẽ không giới hạn
mình trong chỉ duy nhất một câu hỏi về sự phát tán, mà sẽ xem xét một số sự kiện
khác, có liên quan tới tính đúng đắn của hai học thuyết về sự hình thành độc lập
và về nguồn gốc có sự biến thái.
Số lượng tất cả các loài thuộc tất cả các loại sinh sống trên
các hòn đảo ở đại dưcmg là rất ít ỏi so với số lượng các loài trên cùng một diện
tích tưcmg đưcmg ở lục địa: ông Alph De Candoỉle xác nhận thực tế này đúng với
các loài thực vật, và Wollaston đối với các loài côn trùng. Nếu chúng ta xem
xét tới yếu tố phạm vi rộng và môi trường biến đổi của Niu Di Lân, trải dài
trên một vùng rộng 780 dặm, và so sánh các loài thực vật bậc thấp của chúng, với
số lượng chỉ có 750 loài, với các loài đó trên một diện tích tưcmg đưcmg tại
mũi Hảo vọng hoặc ở Otxtrâylia, thì tôi nghĩ, chúng ta cũng buộc phải thừa nhận
răng, có một yêu tố nào đó, hoàn toàn độc lập với bất kỳ khác biệt nào về điều
kiện tự nhiên đã làm nên sự khác biệt lớn đến như vậy về số lượng các loài.
Ngay một hạt Cambridge thôi cũng đã có đến 847 thực vật, và hòn đảo Anglesea nhỏ
bé cũng có đến 764 thực vật, song chỉ có một số cây dương xỉ và một số cây nhập
nội có trong số các loài này và kết quả so sánh về một số khía cạnh khác cũng
không thực sự hợp lý. Chúng ta có bằng chứng cho thấy, hòn đảo hoang Ascension
thời nguyên thủy đã từng có một số loài thực vật ra hoa; tuy nhiều loài đã tự
thích nghi được, như chúng đã thích nghi ở Niu Di Lân và ở mỗi hòn đảo trên đại
dương khác có thể gọi tên được. Ở Saint Helena, chúng ta có lý do để tin rằng,
các loài thực vật và động vật đã thích nghi gần như hoặc thực sự đã hủy diệt
các loài thực vật bản xứ. Nếu người nào đó thừa nhận học thuyết về sự sáng tạo
của từng loài riêng biệt, người đó sẽ phải thừa nhận rằng, một số lượng đủ lớn
các loài thực vật và động vật có khả năng thích nghi tốt nhất đã không được tạo
ra trên các hòn đảo ở đại dương; bởi vì con người đã vô tình mang chúng đến từ
nhiều nguồn khác nhau mà còn lâu mới đầy đủ và hoàn hảo so với tự nhiên.
Mặc dù trên các hòn đảo ở đại dương, số lượng chủng loại các
loài sinh sống rất ít ỏi, song tỷ lệ các loài đặc hữu (là những loài không tìm
thấy ở một nơi nào khác trên thế giới) thường cực kỳ lớn. Ví dụ, nếu chúng ta
so sánh số lượng các loài sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài trên cạn đặc
hữu ở Madeira hoặc số lượng loài chim đặc hữu trên quần đảo Galapagos với số lượng
các loài đặc hữu tìm thấy trên bất kỳ lục địa nào, và sau đó so sánh diện tích
của các hòn đảo với diện tích của lục địa, thì ta đều sẽ thấy điều này là hoàn
toàn đúng. Theo lý thuyết của tôi thì điều này hoàn toàn có thể xảy ra, vì như
đã giải thích, các loài, đôi khi đến được một nơi sau nhiều chặng hành trình ở
những vùng mới và cô lập, và buộc phải cạnh tranh với những sinh vật khác, rõ
ràng sẽ có khả năng tiến hóa, và sẽ tạo ra một nhóm các thế hệ sau đã tiến hóa.
Song vì trong một hòn đảo, gần như tất cả các loài thuộc cùng một lớp nào đó là
đặc hữu mà các loài của một lớp khác hoặc của một bộ phận khác trong cùng một lớp
cũng phải là đặc hữu, và sự khác biệt này dường như phụ thuộc vào những loài
không trở nên thích nghi được đã du nhập vào với những điều kiện thuận lợi và
theo một nhóm, vì thế mà mối quan hệ qua lại giữa các loài đó không bị thay đổi
nhiều. Vì vậy, trên các hòn đảo Galapagos, gần như mỗi loài chim đất liền, chỉ
có hai trong số 11 loài chim biển là đặc hữu; và rõ ràng là các con chim biển
có thể đến các hòn đảo này dễ hơn nhiều chim đất liền. Mặt khác, Bermuda, cũng
cách xa Bắc Mỹ tương tự như từ quần đảo Galapagos đến Nam Mỹ, và có điều kiện đất
đai riêng biệt, song lại không có một loài chim đất liền đặc hữu nào; và qua sự
miêu tả tài tình của ngài J.M. Jones về hòn đảo Bermuda, chúng ta biết rằng, rất
nhiều loài chim Bắc Mỹ, trong suốt những chuyến di cư hàng năm của mình, thường
xuyên hoặc đôi khi dừng chân ở hòn đảo này. Madeira cũng không có một loài chim
riêng biệt nào, song rất nhiều loài chim châu âu hoặc châu Phi gần như mỗi năm
đều bay qua đây, như ngài E.v. Harcout thông báo cho tôi. Như vậy, hai hòn đảo
Bermuda và Madeira đều có nhưng loài chim, mà qua những thời kỳ dài đã đấu
tranh cùng nhau ở quê hương cũ của chúng, và sau đó đã tự thích nghi lẫn nhau,
đến khi định cư ở quê hương mới của mình, mỗi loài sẽ được những loài khác giúp
chúng giữ đúng những đặc điếm cũng như thói quen của mình, và kết quả là gần
như không biến hóa gì. Lại lấy ví dụ của Madeira. Hòn đảo này có một số lượng lớn
các loài Shell trên cạn riêng biệt, trong khi không có được dù chỉ 1 loài sò biển
nào: giờ đây, mặc dù chúng ta không biết rằng sò biển đã được phát tán như thế
nào, song chúng ta có thể thấy rằng, trứng hoặc ấu trùng của sò biến có lẽ bám
vào rong biển hoặc những tấm gỗ trôi nổi, hoặc vào chân của những con chim lội,
có thể sẽ được mang đi xa hơn nhiều so với sò đất, xa 3 đến 400 dặm trên biển.
Các bộ khác nhau của các loài côn trùng ở Madeira minh chứng rõ ràng những thực
tế giống nhau.
Các đảo trên đại dương đôi khi thiếu đi một số lớp nhất định,
và chỗ của những lớp này rõ ràng sẽ bị những loài sinh vật khác chiếm lấy; trên
quần đảo Galapagos, các loài bò sát, và ở Niu Di Lân là các loài chim không có
cánh khống lồ đã chiếm chỗ của các động vật có vú. Trong hệ thực vật của quần đảo
Galapagos, tiến sĩ. Hooker đã chỉ ra rằng, một số lượng lớn các lớp khác nhau
khác hẳn so với chúng song sống ở nơi khác. Những trường hợp như vậy thường được
giải thích là do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên của đảo; nhưng cách giải
thích này đối với tôi dường như còn chưa thỏa đáng. Tôi tin rằng, phương thức
du nhập ít nhất cũng có tầm quan trọng như tính chất của các điều kiện tự
nhiên.
Có thể đưa ra những sự kiện nhỏ nổi bật về các sinh vật sinh
sống trên các hòn đảo xa xôi. Ví dụ, ở một số hòn đảo nhất định không có động vật
có vú sinh sống, một số thực vật đặc hữu với các hạt có móc rất đẹp, tuy nhiên
gần như không có quan hệ nào đáng chú ý hơn là sự thích nghi của các hạt có móc
để có thể mang đi nhờ da và lông của các loài động vật bốn chân. Theo quan điểm
của tôi, trường hợp này không khó giải thích, vì một hạt có móc có thể được
mang đến một hòn đảo nhờ một số cách; và loài cây sau này có thể được biến đổi
đi một ít, nhưng vẫn giữ các hạt có móc của mình, sẽ hình thành nên một loài đặc
hữu, có thêm một bộ phận phụ vô dụng như bất kỳ một cơ quan thô sơ nào - ví dụ,
như những cái cánh bị teo lại từ cánh trước của nhiều loài bọ cánh cứng trên đảo.
Lại nữa, các hòn đảo thường có nhiều cây hay bụi rậm thuộc những bộ mà ở những
nơi khác thường chỉ có các loài thuộc dạng thảo mộc; bởi vì các loài cây, như
ông Alph De Candolle đã chỉ ra, cho dù nguyên nhân là gì đi nữa, thường chỉ xuất
hiện ở những phạm vi hẹp. Vì thế, các cây khó có thể vươn tới những hòn đảo xa
xôi trên đại dương; vả một loài thảo mộc, cho dù không có cơ hội cạnh tranh được
về tầm vóc so với một cây đã phát triển hoàn chỉnh, khi đã được đặt vào một hòn
đảo và chỉ phải cạnh tranh với các loài cây thảo thôi, thì nó hoàn toàn có thể
chiếm được lợi thế bằng cách lớn nhanh hơn và cao hơn so với các thực vật khác.
Nếu đúng như vậy, thì chọn lọc tự nhiên thường có xu hướng tăng thêm tầm vóc
cho các loài cây thảo khi phát triển trên một hòn đảo, đến bất kỳ bộ nào mà các
cây thuộc về, và vì vậy, thường trước tiên biến chúng thành các bụi rậm và cuối
cùng thì thành các cây to.
về sự vắng mặt của toàn bộ các bộ trên các đảo ngoài đại
dương, Bory St Vincent từ lâu đã nhận xét rằng, các loài ếch nhái (ếch, cóc, sa
giông) chưa bao giờ được tìm thấy trên bất kỳ hòn đảo nào trong rất nhiều hòn đảo
rải khắp các đại dương lớn. Tôi đã dồn hết tâm trí để khẳng định nhận định này,
và tôi thấy điều này tuyệt đối đúng. Tuy nhiên, tôi cũng cam đoan rằng, thực sự
có ếch tồn tại trên những dãy núi của hòn đảo lớn của Niu Di Lân; nhưng tôi
nghi ngờ rằng, ngoại lệ này (nếu thông tin này là chính xác) có thể được giải
thích nhờ trung gian băng hà. Sự vắng mặt chung của ếch, cóc, và sa giông trên
rất nhiều hòn đảo ngoài đại dương không thể là do điều kiện tự nhiên của chúng,
thực tế dường như các hòn đảo này lại đặc biệt phù hợp với những động vật này;
vì ếch đã được du nhập vào Madeira, Azores, và Mauritus và đã nhân lên gấp bội
đến mức trở thành một loài gây hại. Nhưng bởi vì chúng ta biết rằng các động vật
này và trứng của chúng không tồn tại được trong môi trường nước biển, nên theo
quan điểm của tôi, chúng ta có thể hiểu được tại sao, khó có thể có trường hợp
các loài này được vận chuyển qua biển, và vì vậy mà tại sao chúng không tồn tại
trên bất kỳ hòn đảo ngoài đại dương nào. Nhưng, khó mà giải thích tại sao, theo
lý thuyết sáng tạo, những loài này lại không được tạo ra ở đó.
Các loài động vật có vú là một trường hợp khác tương tự. Tôi
đã tìm kiếm kỹ càng những chuyến đi từ xa xưa nhất nhưng chưa kết thúc tìm kiếm.
Tuy nhiên, tôi vẫn chưa tìm thấy dù chi một trường hợp duy nhất khiến tôi không
nghi ngờ về một loài động vật có vú sống trên cạn (không kể các loài động vật
đã được thuần hỏa mà người bản xứ nuôi) sinh sổng trên một hòn đảo cách lục địa
hơn 300 dặm hay những hòn đảo thuộc lục địa, và nhiều hòn đảo ở những vị trí gần
hơn nhiều cũng hoang vắng như vậy. Quần đảo Falkland, nơi có loài cáo giống
sói, gần như là một trường hợp ngoại lệ. Song nhóm này không thể được coi là đảo
ngoài đại dương vì nó nằm trên bờ sông nối với đất liền; hơn thế nữa, những núi
băng trước đây đã mang các tảng đá đi về phía bờ tây của nó, và các núi băng
này có thể trước đây đã mang theo cả những con cáo, như ngày nay chúng ta vẫn
thường thấy ở các vùng cực. Tuy nhiên, không thể nói rằng, những hòn đảo nhỏ sẽ
không thích hợp cho các loài động vật có vú nhỏ, vì các loài có vú này xuất hiện
tại rất nhiều vùng trên thế giới ở những hòn đảo rất nhỏ, nếu gần với một lục địa,
và hiếm có thể gọi tên ra một hòn đảo nào có những loài vật bốn chân nhỏ hơn lại
không thích nghi và nhân lên gấp bội.
*
Ngài Windsor Earl đã có một số quan sát đáng chủ ý theo hướng
này đối với quần đảo rộng lớn Malay, quần đảo cắt ngang bởi một đại dương lớn gần
Celebes; và chính đại dương này đã chia cắt hai hệ động vật có vú hoàn toàn
riêng biệt. Ở cả hai phía của đại dương, các hòn đảo đều nằm trên các bờ chìm
dưới mặt biển khá sâu, và đều có những loài bốn chân giống hệt hoặc có quan hệ
họ hàng khá gần gũi sinh sống. Không còn nghi ngờ gì nữa, có rất ít điểm khác
thường trên quần đảo rộng lớn này, và trong một số trường hợp ta khó có thể đưa
ra được một đánh giá do có thể có một quá trình thích nghi của một số động vật
có vú thông qua trung gian là con người; nhưng chúng ta sẽ sớm có nhiều điều
giúp làm sáng tỏ về lịch sử tự nhiên của quần đảo này nhờ nhiệt huyết đáng khâm
phục cùng các nghiên cửu của ngài Wallace. Tuy tôi vẫn chưa có thời gian để
nghiên cửu vấn đề này ở tất cả các nơi khác trên thế giới, song như tôi đã tìm
hiểu và nhìn chung, mối quan hệ này được giữ vững. Chúng ta thấy rằng, Anh bị
ngăn cách với châu âu bởi một kênh hẹp, và các loài động vật có vú có ở cả hai
phía; chúng ta bắt gặp những hiện tượng giống thế trên nhiều hòn đảo ngăn cách
với Ôtxtrâylia bởi những con kênh tương tự. Quần đảo Tây n nằm trên một bờ biển
gần chìm, sâu gần 1000 sải, và ở đây, chúng ta tìm thấy những dạng sống châu Mỹ,
song các loài và thậm chí các chi hoàn toàn khác biệt. Bởi vì mức độ biến đổi
trong mọi trường hợp đều phụ thuộc vào khoảng thời gian ở một mức độ nhất định,
và theo những thay đổi về độ sâu, rõ ràng là những hòn đảo bị ngăn cách bởi những
con kênh hẹp sẽ dễ có khả năng không ngừng hợp lại với đất liền trong một thời
gian ngắn
so với những hòn đảo bị ngăn cách bởi những con kênh sâu hơn.
Vì thế chúng ta cỏ thể hiểu rằng, mối quan hệ thường có giữa độ sâu của biển và
mức độ tương đồng về cấu trúc giữa các sinh vật có vú sinh sống trên đảo với
các sinh vật đó trên một lục địa láng giềng - đó là một mối quan hệ không thể
giải thích nổi trên quan điểm các hành vi độc lập của sự sáng tạo.
Tất cả những nhận xét đã nói ở trên về những sinh vật sinh sống
trên những hòn đảo ở đại dương - cụ thể là, sự khan hiếm chủng loại, sự phong
phú về các dạng sống đặc hữu ở những lớp hay phần của lớp cụ thể, sự vắng mặt của
cả một nhóm, ví dụ nhóm ếch nhái, và của các động vật có vú sống trên cạn không
kể sự có mặt của các loài dơi trên không, sự cân xứng khác thường của một số thứ
thực vật nhất định, ví dụ các dạng thân thảo đã và đang phát triển thành cây
v.v... - đối với thuyết tôi dường như có vẻ phù hợp hơn nếu ta lưu tâm đến các
hình thức vận chuyển đặc biệt khá hiệu quả trong suốt một thời gian dài hơn là
chú tâm vào vấn đề các hòn đảo trên đại dương trước đây đã từng được nối với những
lục địa gần nhất bằng những dải đất liên tục. Vì đối với quan điểm thứ hai thì
sự di trú sẽ có thể hoàn chỉnh hơn, và nếu chúng ta thừa nhận có sự biến đổi,
thì tất cả các dạng sống sẽ phải được biến hoá đồng đều hơn theo đúng tầm quan
trọng bậc nhất của mối quan hệ giữa sinh vật này với sinh vật khác.
Tôi không phủ nhận rằng khó có thể hiểu được làm thế nào mà một
số sinh vật sinh sống trên những hòn đảo xa xôi hơn, cho dù vẫn duy trì cùng một
dạng sống hay đã biến đổi kể từ khi lần đầu xâm nhập vào đảo, lại có thể đến được
những nơi ở hiện nay của chúng. Nhưng chúng ta không nên xem nhẹ khả năng nhiều
hòn đảo đã tồn tại như những bến nghỉ chân cho dù bây giờ không còn một bằng chứng
nào về vấn đề này. Ở đây, tôi sẽ đưa ra một ví dụ duy nhất cho một trong số rất
nhiều trường hợp khó khăn. Đó là, trên gần như tất cả các hòn đảo trên đại
dương, ngay cả những hòn đảo nhỏ nhất và bị cô lập nhất đều có những loài giáp
xác trên cạn sinh sống, chủ yếu là các loài đặc hữu, nhưng đôi khi cũng có một
số loài mà ta có thể tìm thấy ở những nơi khác. Tiến sĩ. Aug. A. Gould đã đưa
ra nhiều trường hợp khá thú vị về các loài giáp xác trên cạn trên những hòn đảo
của Thái Bình Dương. Ngày nay ai cũng biết rằng, các loài giáp xác trên cạn có
thể dễ dàng bị tiêu hủy bởi muối, trứng của các loài này, ít nhất là những quả
trứng mà tôi đã thử, khi chìm trong nước biển sẽ bị hỏng. Tuy nhiên, theo quan
điểm của tôi, hẳn phải có một cách chuyên chở nào đó đặc biệt hiệu quả mà chúng
ta chưa được biết. Liệu những sinh vật vừa mới nở có khi nào bò lên và bám chặt
vào chân của những loài chim đậu trên mặt đất ngủ qua đêm và nhờ thế mà được
mang đi không? Tôi đã chợt nảy ra ý nghĩ là, các loài giáp xác trên cạn, có thể
trôi trong những khe nứt của những mảnh gỗ vụn trôi nổi đi qua các nhánh biển
khá rộng. Và tôi thấy rằng, một số loài đúng là tồn tại trong trạng thái này mà
không hề bị hư hỏng khi bị chìm trong nước biển trong suốt 7 ngày: một trong số
những loài giáp xác này là loài Helix pomatia, tôi đặt nó vào nước biển trong
20 ngày và nó vẫn hồi phục được hoàn toàn. Do loài này có một lớp vảy bàng đá
vôi dày, nên tôi gõ bỏ lớp vảy đó và khi nó hình thành nên một lớp màng mới,
tôi lại đặt nó vào nước biển mười bốn ngày nữa, và nó vẫn phục hồi và bò đi;
tuy nhiên, chúng ta vẫn cần tiến hành thêm nhiều thí nghiệm nữa theo hướng này.
Sự kiện đáng chú ý nhất và quan trọng nhất đổi với chúng tôi
liên quan đến các sinh vật sinh sống trên đảo là sự giống nhau về cấu trúc giữa
những sinh vật này với các sinh vật sống trên vùng đất liền gần đó nhất, mặc dù
thực sự không thuộc cùng một loài. Có thể đưa ra vô số các ví dụ về điều này.
Tôi sẽ chỉ đưa ra một ví dụ, đó là ví dụ của quần đảo Galapagos, nằm dưới đường
xích đạo, cách bờ biển Nam Mỹ khoảng 500-600 dặm ở đây, gần như mỗi sản vật của
đất liền và biển đều mang một đặc trưng không thể nhầm lẫn của châu Mỹ. Có hai
mươi sáu loài chim trêif đất liền, và hai mươi nhăm loài trong số đó được ngài
Gould xếp vào các loài đặc hữu, mà người ta giả thiết là được hình thành nên tại
quần đảo này; tuy nhiên, sự tương đồng gần gũi của hầu hết các loài chim này với
các loài ở châu Mỹ trong từng đặc điểm, trong sự phát triển, dáng vẻ, giọng
hót, thì hết sức rõ ràng. Điều này cũng xảy ra tương tự với các loài động vật
khác, và với gần như tất cả các loài thực vật, như ngài Hooker đã chỉ ra trong
ký sự tuyệt vời của ông về thảm thực vật của quần đảo này. Nhà tự nhiên học
này, khi quan sát các sinh vật sinh sống trên những hòn đảo có nguồn gốc từ núi
lửa này ở Thái Bình Dương, cách xa đất liền hàng trăm dặm, vẫn có cảm giác như
ông đang đứng trên đất Mỹ. Tại sao lại như vậy? Tại sao những loài sinh vật được
coi là đã được hình thành nên từ quần đảo Galapagos, và không thể tìm thấy ở một
nơi nào khác, lại có thể mang những đặc trưng rõ ràng giống với những loài ở
châu Mỹ? Không có gì trong các điều kiện sống, trong đặc điểm địa chất của các
hòn đảo, trong độ cao hay khí hậu, hay trong tỷ lệ một số lớp liên quan đến
nhau giống với những điều kiện của bờ biển Nam Mỹ: thực tế là giữa hai địa điểm
này còn có sự khác biệt đáng kể trên nhiều khía cạnh. Mặt khác, giữa hai quần đảo
Galapagos và quần đảo Cape de Verde, sự giống nhau về đặc tính của đất là phát
triển từ núi lửa, về khí hậu, độ cao, và quy mô quần đảo lại khá giống nhau:
song các loài sinh vật sinh sống trên hai hòn đảo này lại hoàn toàn khác biệt!
Các sinh vật trên đảo Cape de Verde giống các sinh vật *của châu Phi, cũng như
các sinh vật trên Galapagos giống sinh vật của châu Mỹ. Tôi tin rằng, thực tế
rõ ràng này không thể được giải thích bàng quan điểm thông thường về sự sáng tạo
độc lập; trong khi trên quan điểm vẫn được duy trì ở đây, thì rõ ràng là quần đảo
Galapagos có khà năng tiếp nhận các sinh vật mới, cho dù bằng những phương thức
vận chuyển đặc biệt, hay vì trước kia hòn đảo này được nối liền với vùng đất liền
thuộc châu Mỹ; còn quần đảo Cape de Verde thì với châu Phi; và những sinh vật mới
đó có thể đã biến đổi; tuy nhiên nguyên tắc của di truyền vẫn làm lộ ra nguồn gốc
ban đầu của chúng.
Có thể đưa ra rất nhiều hiện tượng tương tự; thực sự thì có một
nguyên tắc gần như phổ biến là, các loài sinh
vật đặc hữu trên các hòn đảo luôn có sự liên quan đến các
sinh vật ở châu lục gần hòn đảo đó nhất, hoặc ở những quần đảo khác gần đó. Có
rất ít ngoại lệ, và phần lớn các ngoại lệ này đều có thể giải thích được. Vì vậy
mà theo chúng tôi được biết từ báo cáo của tiến sĩ Hooker, các thực vật trên
vùng đất Kerguelen, mặc dù có vị trí gần châu Phi hơn châu Mỹ, lại có liên
quan, và rất mật thiết với các loài sinh vật ở châu Mỹ. Song trên quan điểm cho
rằng, hòn đảo này chủ yếu có các loại hạt do đất và đá trên núi băng do các
dòng hải lưu mang đến, thì ta hoàn toàn có thể hiểu được trường hợp ngoại lệ
này. Niu Di Lân nếu xét về các loài sinh vật đặc hữu cũng có liên quan chặt chẽ
hơn với châu Úc, vùng lục địa gần nhất, so với bất kỳ vùng nào khác; và điều
này hoàn toàn có thể thấy trước được; song đất nước này rõ ràng cũng liên quan
tới Nam Mỹ, một lục địa, tuy gần Niu Di Lân thứ hai sau úc, song lại quá xa xôi
và do đó sự liên quan đó lại trở nên khác thường. Song khó khăn này gần như biến
mất khi xét trên quan điểm cho rằng, cả Niu Di Lân, Nam Mỹ và các hòn đảo phía
Nam khác từ trước đây rất lâu rồi đều đã xuất phát từ một điểm gần như trung
gian mặc dù rất xa xôi, đó là từ các quần đảo nam cực, khi mà chúng được bao phủ
bởi một lớp phủ thực vật, trước khi thời kỳ băng hà bắt đầu. Sự giống nhau mà
tiến sĩ Hooker đã bảo đảm với tôi là có thực, mặc dù không rõ ràng, giữa thảm
thực vật ở góc phía tây nam của Úc và mũi Hảo vọng còn là một trường hợp đáng
chú ý hơn nhiều, và hiện tại vẫn không thế giải thích nổi; song sự tương đồng
này chỉ hạn chế trong phạm vi các loài thực vật, và tôi tin tưởng rằng, một
ngày nào đó chúng ta sẽ giải thích được trường hợp này.
Đôi khi chúng ta quan sát được quy luật nào đó khiến cho các
loài sinh vật trên một hòn đảo, mặc dù hoàn toàn khác biệt song vẫn liên kết chặt
chẽ với các sinh vật trên lục địa gần nhất, được thể hiện trên quy mô nhỏ, song
theo một cách thức thú vị, trong giới hạn của cùng một quần đảo. Vì vậy, như
tôi đã chỉ ra, nhiều hòn đảo của quần đảo Galapagos có rất nhiều loài sinh vật
có quan hệ chặt chẽ với nhau một cách hết sức kỳ lạ, nên các sinh vật trên mỗi
hòn đảo riêng biệt, mặc dù hầu như đặc hữu, lại liên quan tới nhau nhiều hơn tới
sinh vật ở bất kỳ nori nào khác trên thế giới. Và điều này theo quan điểm của
tôi hoàn toàn có thể xảy ra, vì các hòn đảo ở gần nhau đến mức chúng có thể tiếp
nhận các sinh vật nhập cư có cùng một nguồn gốc hoặc tiếp nhận các sinh vật của
nhau. Song sự khác biệt giữa các sinh vật đặc hữu trên các đảo lại có thể là một
luận cứ chống lại quan điểm của tôi; vì chúng ta hoàn toàn có thể đặt ra câu hỏi:
tại sao có những hòn đảo ở rất gần nhau, có cùng một đặc trưng địa chất, cùng độ
cao, khí hậu, v.v... lại có nhiều loài sinh vật nhập cư lại bị biến đối đi khác
nhau cho dù ở mức độ nhỏ. Trong suốt một thời gian dài, luận cứ này vẫn là một
khó khăn lớn đối với tôi; song thực ra, luận cứ này phần lớn bắt nguồn từ một
sai lầm ăn sâu vào tiềm thức khi cho rằng điều kiện tự nhiên của một đất nước
là yếu tố quan trọng nhất đối với một sinh vật nhập cư; trong khi tôi nghĩ rằng,
không phải tranh cãi gì nữa, đặc trưng của các loài sinh vật nhập cư khác, mà
môi loài phải cạnh tranh, ít nhât cũng là một nhân tô có tầm quan trọng tưcmg
đương, và nhìn chung là hơn quyết định khả năng thành công của sự nhập cư. Bây
giờ nếu chúng ta xem xét các khu vực khác trên thế giới (tạm gác sang một bên
các loài đặc hữu mà chúng ta chưa thể đưa vào ở đây khi đang xem xét xem làm thế
nào mà các loài này lại bị biến đổi từ khi nhập cư vào đảo), chúng ta sẽ tìm thấy
ở nhiều hòn đảo vô số sự khác biệt. Sự khác biệt này có thể hiểu được theo quan
điểm cho rằng, cây phát triển trên các hòn đảo nhờ các phương tiện vận chuyển,
lấy ví dụ có 1 hạt giống của một loài thực vật được mang đến một hòn đảo và một
hạt giống của một loài khác được mang đến một hòn đảo khác. Vì vậy, trước đây,
một loài nhập cư ở lại sinh sống trên bất kỳ một hay nhiều hòn đảo, hoặc sau đó
nó được phát tán từ một hòn đảo sang các hòn đảo khác, nó sẽ phải tồn tại trong
những điều kiện sống khác nhau ở những hòn đảo khác nhau, vì nó phải cạnh tranh
với những nhóm sinh vật khác nhau: ví dụ, một loài thực vật có thể tìm được điều
kiện sống phù hợp nhất, với những loài sinh vật đặc hữu phù hợp hơn trên một
hòn đảo so với trên một hòn đảo khác, và nó có thể phải đối mặt với các cuộc tấn
công của những kẻ thù phần nào khác nhau. Nếu khi đó nó biến đổi, thì chọn lọc
tự nhiên hẳn sẽ nuôi dưỡng những loài khác nhau trên những đảo khác nhau. Tuy
nhiên, một số loài sinh vật có thể phát tán và vẫn duy trì những đặc điểm ban đầu
của cả nhóm, như chúng ta nhìn thấy trên các lục địa, một số loài sống rải rác
rộng khắp song không hề biến đổi gì.
Điều thực sự đáng ngạc nhiên trong trường hợp của quần đảo
Galapagos, và ít ngạc nhiên hơn một chút trong một số trường hợp tương tự, là,
những loài mới hình thành trên những hòn đảo riêng biệt không nhanh chóng phát
tán đi những hòn đảo khác. Song các hòn đảo này, mặc dù có vị trí cực kỳ gần
nhau, lại bị ngăn cách bởi các eo biển sâu, hầu hết các eo này đều rộng hơn eo
biển Anh và vì vậy không có lý do gì để chúng ta cho rằng, vào thời điểm bất kỳ
nào đó trước đây, các hòn đảo này nối liên tục với nhau. Các dòng hải lưu của
biển mạnh và chảy ngang qua quần đảo, và hiếm khi có các cơn gió mạnh ở những
hòn đảo này. Vì vậy, các hòn đảo thực sự bị ngăn cách với nhau nhiều hơn so với
những gì cho thấy trên bản đồ. Tuy thế có rất nhiều loài, kể cả những loài tìm
thấy ở những nơi khác trên thế giới, và những loài chỉ có riêng ở quần đảo hiện
rất phổ biến ở nhiều quần đảo, và chúng ta, dựa trên những sự kiện nhất định có
thể suy luận ra rằng, những loài này có lẽ đã phát tán từ đảo này sang đảo
khác. Nhưng chúng ta thường có một quan điểm sai lầm về khả năng các loài có họ
gần với nhau xâm chiếm lãnh thổ của nhau, khi các lãnh thổ thông với nhau. Điều
ấy cho thấy, nếu một loài sinh vật có được một lợi thế nào đó so với một loài
khác, trong một thời gian rất ngấn, nó sẽ thay thế toàn bộ hay một phần loài
kia; song nếu cả hai loài đều thích nghi tốt với nơi ở của riêng mình trong tự
nhiên, thì có lẽ chúng sẽ duy tri lãnh thổ riêng đó, và giữ riêng cho mình lâu
dài. Đã quen với thực tế là, nhiều loài, nhập cư thông qua vật trung gian là
con người, đã phát tán nhanh một cách đáng ngạc nhiên sang những nước mới,
chúng ta dễ suy đoán rằng, vì thế mà các loài sinh vật sẽ phát tán, song chúng
ta cũng nên nhớ rằng, các dạng sống đã nhập cư vào những nước mới, thường không
có quan hệ họ hàng gần gũi với các loài sinh vật bản địa, song là những loài hết
sức riêng biệt của một giống riêng, chiếm một tỷ lệ lớn trong rất nhiều trường
hợp, như Alph De Candolle đã chỉ ra. Tại quần đảo Galapagos, rất nhiều loài, thậm
chí các loài chim, mặc dù đã thích nghi tốt với điều kiện sống liên tục bay từ
hòn đảo nọ sang hòn đảo kia, song vẫn hoàn toàn khác nhau; vì vậy, ở đó có 3
loài chim nhại tiếng có quan hệ họ hàng gần gũi, mỗi loài chỉ sinh sống trên một
hòn đảo của riêng nó. Bây giờ hãy giả sử rằng, loài chim nhạn của đảo Chatham bị
gió mang đến đảo Charles, nơi cũng có một loài chim nhạn riêng: nếu như vậy, tại
sao loài chim này lại có thể phát triển được ở đây? Chúng ta có thể suy luận rằng,
trên đảo Charles đã có đầy những loài riêng biệt của mình, vì mỗi năm, số trứng
được sinh ra là rất lớn và các loài trên đảo Charles có chung những đặc điểm giống
như trên đảo Chatham. Ngài c. Lyell và ông Wollaston đã nói chuyện với tôi về một
sự kiện nổi bật về chủ đề này, cụ thể là: Madeira và hòn đảo nhỏ Porto Santo tiếp
giáp với Madeira có rất nhiều lòài giáp xác trên cạn đặc hữu song mang tính đại
diện, một số sống trong những khe đá; và mặc dù có rất nhiều đá hàng năm được vận
chuyển từ Porto Santo đến Madeira, song các loài của đảo Porto Santo vẫn chưa
xâm chiếm đảo Madeira; tuy nhiên, cả hai hòn đảo đều có một số loài giáp xác của
châu âu. Những loài này rõ ràng có lợi thế so với các loài bản địa. Từ các cân
nhắc này, tôi nghĩ rằng chúng ta không cần phải quá ngạc nhiên về vấn đề tại
sao các loài đại diện và các loài đặc hữu cư trú ở các hòn đảo trong quần đảo
Galapagos lại không phát triển rộng khắp từ đảo này sang đảo khác. Trong nhiều
trường hợp khác, giống như các vùng trên cùng một lục địa, cần phải đặc biệt
quan tâm đến việc kiểm tra sự tương đồng của các loài trong cùng một điều kiện
sống. Vì vậy, mặc dù các vùng đông nam và tây nam của úc có cùng điều kiện tự
nhiên,và lại được hợp thành một khối nhờ đất liền liên tục, song chúng vẫn có
vô số các loài thực vật, chim và động vật có vú đặc hữu.
Những nguyên lý quy định tính chất chung của quần thể động vật
và quần thể thực vật trên các đảo đại dương có thể được áp dụng trên diện rộng
lớn nhất. Nguyên lý đó chính là những sinh vật khi không giống nhau hoàn toàn,
nhưng rõ ràng có quan hệ với những sinh vật ngụ cư vùng mà từ đó những sinh vật
xâm chiếm lúc nào cũng sẵn sàng xuất hiện - những kẻ xâm chiếm này sau đó biến
đổi theo chiều hướng tích cực và trở nên thích nghi hơn với nơi ở mới của
chúng. Chúng ta nhìn thấy nó trên tất cả các ngọn núi. ở trên tất cả các hồ và
trong tất cả các đầm lầy. Đối với loài sống ở núi Alpơ, trừ ra trong những dạng
thực vật 'ương tự nhau cho đến nay, chủ yếu là cây cối, đã lan rộng xhăp thế giới
trong kỷ nguyên Băng hà, có mối quan hệ với những cây cối bao mọc trên vùng đất
thấp lân cận; do vậy ở vùng Nam Mỹ có các con chim bắt ruồi Alpơ, loài gặm nhấm
Alpơ, các cây cối Alpơ... tất cả đều là dạng của nước Mỹ; và hiển nhiên là một
quả núi khi đang trong quá trình trồi chậm chạp lên thì một cách tự nhiên những
sinh vật từ các vùng đồng bằng xung quanh sẽ chiếm cứ quả núi đó. Tình trạng
tương tự cũng xảy ra đối với các sinh vật sống ở hồ và đầm lầy, chỉ trừ ra một
điều là những phưomg thức giúp vận chuyển dễ dàng đã góp phần thúc đẩy sự lan tỏa
rộng khắp của cùng những hình thái như nhau trên nhiều nơi của trái đất. Những
đặc tính của đa số các động vật mù sống trong hang vùng châu Mỹ và châu âu, và
nhiều trường hợp tương tự khác cung cấp các thí dụ cho sự áp dụng của cùng
nguyên lý ấy. Khi mà trong hai vùng, dù ở cách xa nhau thế nào đi chăng nữa,
người ta bao giờ cũng gặp những dạng loài rất giống nhau hay tiêu biểu; bất cứ ở
đâu khi con người bắt gặp những loài có quan hệ gần gũi với nhau, thì họ cũng
thấy ở đấy có nhiều hình thái mà một số nhà tự nhiên học coi là những loài khác
biệt và những nhà tự nhiên học khác lại coi chúng là biến thể; đó là hai điểm
mà theo tôi là không thể chối cãi được; vậy mà các loại hình mập mờ đó lại chứa
đựng những bước chuyển tiếp trong qua trình tiến hóa dần dần chậm chạp.
Người ta có thể chứng minh bằng cách này hay cách khác mối
quan hệ giữa sức manh và tầm di cư của một loài, hoặc là tại thời điểm hiện tại
hoặc là ở một thời điểm trước đó trong các điều kiện sống thay đổi; và sự tồn tại
một loài họ hàng với chúng ở một nơi xa xôi nào đó trên quả đất này. Ông Gould
cách đây đã lâu nói với tôi rằng trong những chi họ chim mà trải rộng khẳp thế
giới, rất nhiều loài trong số chúng có tầm hoạt động rất rộng. Tôi cho rằng quy
luật này nói chung là đúng, mặc dù rất khó để có thể chứng minh. Trong số các
loài động vật có vú, chúng ta chứng kiến điều này được thể hiện hết sức rõ nét ở
những con dơi, và ở mức độ thấp hơn là ở Felidae và Calnidae. Chúng ta sẽ nhận
ra nó nếu đem so sánh những con bướm và con bọ cánh cứng. Và cũng như vậy đối với
đa số sinh vật nước ngọt, mà vô số chi của chúng xuất hiện khắp trên thế giới,
cũng như rất nhiều cá thể có tầm hoạt động rất lớn. Điều này không có nghĩa là
trong thế giới của những chi tầm xa, tất cả các loài đều có tầm hoạt động rộng,
và thậm chí là chúng có mức độ rộng trung bình mà chỉ có thể là vài loài lan rất
rộng; vì những sự hỗ trợ mà nhờ đó các loài tầm rộng biến đổi và tạo ra những dạng
thức mới sẽ chủ yếu quyết định tầm trung bình của chúng. Chẳng hạn hai biến thể
của cùng một loài cư ngụ ở châu âu và châu Mỹ, và như thế tức là loài này có tầm
hoạt động cực xa; nhưng nếu sự biến đổi mạnh hơn rnột chút, thì hai biến thể
này đã có thể được xếp vào dạng loài, và tầm hoạt động chung do vậy sẽ bị giảm
đáng kể. Nó vẫn còn hàm chứa một điều, mặc dù ít rõ ràng, là nếu một loài có khả
năng vượt qua các rào cản dễ dàng và xuất hiện nhiều nơi, chẳng hạn như trường
hợp của những con chim có đôi cánh khỏe mạnh, nhất định sẽ có tầm hoạt động lớn
vì chúng ta không nên quên để có tầm hoạt động rộng không chỉ hàm ý sức mạnh đê
vượt qua các chưởng ngại vật, mà quan trọng hơn đó là sức mạnh để chiến thắng
trong cuộc đấu tranh sinh tồn với những kẻ cạnh tranh trên những vùng đất xa
xôi. Nhưng khi đứng trên quan điểm tất cả các sinh vật đều bắt nguồn từ một cặp
cha mẹ chung duy nhất, mặc dù bất giờ đã bị mang đến những điểm hẻo lánh nhất của
trái đất, chúng ta phải tìm thấy và đó là quy luật chung cho thấy ít nhất vài
loài có tầm hoat động rất rộng; vì nó là cần thiết cá thể gốc không biến đoi
phân bố rộng khắp, trải qua sự biến chuyển trong quá trình phát tán, và đã sống
trong nhưng trong điều kiện đa dạng phong phú thích hợp cho việc chuyển đổi con
cháu của chúng, đầu tiên thành các biến thể mói và cuối cùng thành loài mới.
Khi xem xét sự phân bố rộng lớn của một số chi nhất định,
chúng ta nên luôn nhớ một số chi là cực kỳ co đại, và chắc đã phải tách nhánh
khỏi bố mẹ chung tại một thời điểm xa xưa; để cho trong những trường hợp như thế,
có vô khối thời gian cho những thay đổi khi hậu và địa chất mạnh mẽ và cho những
tai nạn trong quá trình vận chuyên; kết quả là đối với sự di trú của một vài
loài tới tất các vùng trên thế giới, những nơi mà chúng có thể đã bị sửa đổi ít
theo mối quan hệ của nó với điều kiện mới của chúng. Chủng ta cũng có vài lý do
để tin rằng, dựa vào các bằng chứng địa chất học rằng những sinh vật bé trong mỗi
lớp lớn; thông thường thay đổi với tốc độ chậm hơn so với dạng thức cao hơn; và
kết quả là các dạng thức thấp hơn có cơ hội tốt hơn để lan tỏa rộng mà vẫn giữa
lại được đặc điểm cụ thể tương tự. Thực tế này, cùng với hạt giống và trứng của
nhiều dạng thức thấp rất bé và thích nghi tốt hơn cho sự vận chuyển đi xa có lẽ
sẽ giải thích cho một quy luật mà lâu nay con người đã quan sát thấy và sau này
được ông Alph de Candolle thảo luận đặc biệt liên quan đến cây cối, tức là bất
cứ nhóm sinh vật nào càng thấp thì chúng càng dễ dàng lan tỏa rộng.
Mối quan hệ mà chúng ta vừa mới bàn tới - Các sinh vật thấp
và chậm biến đổi trải khắp rộng lớn hơn các sinh vật cao; vài loài thuộc chi có
tầm hoạt động rộng bản thân chúng là hoạt động rộng; những thực tế như các sinh
vật sống trên núi cao, ở hồ và trên đầm lầy có liên hệ (với những ngoại lệ trước
đó đã nêu ra) với những cá thể sổng tại vùng đất thấp và khô xung quanh, mặc dù
điều kiện của những vùng đất này là rất khác biệt; mối quan hệ hết sức gần gũi
của các loài đặc hữu mà sống trên các đảo thuộc cùng một quần đảo; và nhất là mối
quan hệ đáng chú ý của những cư dân của toàn bộ mỗi quần đảo hay đảo với những
cá thể trên vùng đất liền gần nhất, theo tôi nghĩ - là không thể giải thích được
nếu dựa trên quan điểm hiện tại về sự sáng tạo riêng rẽ mồi loài. Nhưng chúng
ta có thể giải thích tốt các mối quan hệ này nếu dựa vào quan điểm về quá trình
thuộc địa hóa từ nguồn gần nhất và sẵn sàng nhất, cùng với biến đổi và sự thích
nghi tốt hơn sau này của các cá thể định cư mới với ngôi nhà mới của chúng.
Tóm tắt chương hiện tại và các chương trước - Trong những
chưomg này tôi đã cố gắng chứng minh rằng nếu chúng ta chấp nhận trong chừng mực
có thể sự hiểu biết của chúng ta về toàn bộ ảnh hưởng của thay đổi khí hậu và độ
cao vùng đất, mà chắc chắn đã xuất hiện trong giai đoạn gần đây, và của những
thay đổi khác mà có lẽ đã xuất hiện trong cùng thời gian đó; nếu chúng ta nhớ
là chúng ta rất ít kiến thức về nhiều phương cách kỳ lạ của sự vận chuyển không
thuờng xuyên - một chủ đề mà từ trước tới nay vẫn chưa được kiểm chứng nghiêm
túc; nếu chúng ta không quên là một loài có thể đã thường hay trải khắp liên tục
trên một khu vực rộng lớn, và sau đó bị tuyệt chủng trong những miền đất trung
gian thì tôi nghĩ khó để tin rằng tất cả các cá thể thuộc cùng một loài, cho dù
ở nơi đâu, là con của cùng cha mẹ, là không thể không giải thích được. Và chúng
ta đi tới kết luận này, mà nhiều nhà tự nhiên học đã rút ra trong sự chỉ định của
những trung tâm đơn lẻ của sự sáng tạo, bởi một vài suy xét chung, nhất là từ tầm
quan trọng của các rào cản và từ sự phân bố tương đồng của những tiểu chi và họ.
Khi nói đến các loài riêng biệt thuộc cùng một chi, mà theo
lý thuết của tôi chúng đã phải trải ra từ một nguồn bố mẹ; nếu như chúng ta
trong chừng mực cho phép chấp nhận sự thiểu hiểu biết của mình như trước, và nhớ
rằng một vài dạng sống thay đổi chậm nhất, và thời gian chúng di cư là vô cùng
dài thì tôi không nghĩ rằng những khó khăn là không thể vượt qua; cho dù những
khó khăn đó trong trường hợp này và trường hợp của các cá thê thuộc cùng một
loài là rất đáng sợ.
Khi đưa ra ví dụ minh họa về các ảnh hưởng của thay đổi khí hậu
đến sự phân bố, tôi đã cố thử nêu ra tầm quan trọng vô cùng của ảnh hưởng của kỷ
Băng hà, mà tôi hoàn toàn tin rằng nó đã ảnh hưởng cùng lúc tới toàn bộ trái đất
hay ít nhất là tới vành đai phía nam. Như chúng ta đã thấy, phương cách vận
chuyển không thường xuyên đa dạng như thế nào, tôi đã thảo luận khá dài về
phương cách phân tán các sinh vật nước ngọt.
Nếu như những khó khăn không phải là không thể vượt qua trong
việc thừa nhận theo thời gian dài các cá thể của cùng một loài, và tương tự như
thế của các loài họ hàng, đã phát triển từ cùng một nguồn; thì tôi nghĩ tất cả
các thực tế quan trọng nhất của sự phân bố địa lý có thể giải thích được dựa
vào lý thuyết về sự di cư (thông thường của nhiều dạng thức sống nổi trội hơn),
cùng với sự biến đổi và nhân bản các dạng sống mới sau đó. Chúng ta nhờ đó có
thể hiểu được tầm quan trọng đặc biệt của những rào cản, là nước hay đất liền,
mà cách ly vài thảm động vật và thực vật. Chúng ta nhờ đó có thể hiểu sự địa
phương hóa của những tiểu chi, chi và họ; và như thế nào mà ở những độ cao khác
nhau, chẳng hạn như vùng Nam Mỹ, các sinh vật sống trên đồng bằng và cao
nguyên, trong rừng, hồ và trên đầm lầy, sa mạc lại liên hệ một cách vô cùng bí
hiểm với các thực thể tuyệt chủng mà trước đó đã cư ngụ trên cùng một lục địa.
Khi nhớ là mối quan hệ tương tác của các sinh vật là quan trọng nhất, chúng ta
có thể hiểu tại sao hai vùng cỏ điều kiện tự nhiên gần như giống nhau lại thường
có những dạng sống rất khác nhau tồn tại trên đó; bởi vì theo dòng thời gian kể
từ khi các sinh vật mới tới một vùng; theo bản năng tự nhiên cho phép những dạng
nhất định nhưng không cho phép những dạng khác xâm nhập vào với số lượng ít hoặc
nhiều. Đúng hay không những sinh vật xâm nhập vào lại phải ít nhiều cạnh tranh
trực tiếp với nhau và với sinh vật bản địa; và tùy thuộc vào khả năng của những
sinh vật di cư biến đổi ít hay nhiều, có thể xảy ra trong các vùng khác nhau, độc
lập về điều kiện tự nhiên, những điều kiện sống vô cùng đa dạng - có thể có vô
số những tác động và phản ứng hữu cơ - chúng ta phải tìm thấy, như chúng ta đã
tìm thấy, một số nhóm các cơ thể sống thay đổi rất nhiều và nhóm khác lại thay
đổi rất ít - một số phát triển vô cùng mạnh mẽ, một số cực kỳ ít ỏi - trong những
vùng địa lý rất khác biệt trên thế giới.
Dựa vào chính những nguyên lý này, chúng ta có thể hiểu, như
tôi đã cố gắng chứng minh, tại sao các đảo ngoài đại dương lại chỉ có ít sinh vật
tồn tại nhưng đa phần chúng là có tính chất địa phương và đặc biệt; và tại sao,
trong mối quan hệ với phương cách di cư, một nhóm cơ thế sống, thậm chí trong
cùng một lớp, toàn bộ loài của nó lại có tính địa phương cục bộ, và các loài của
nhóm khác lại phổ biến trên các vùng khác của thế giới. Chúng ta có thể thấy tại
sao toàn bộ nhóm của các sinh vật, như các động vật có vú trên cạn và dạng ếch
nhái, lại vang mặt trên các đảo đại dương, trong khi những hòn đảo cách ly nhất
lại có những loài động vật có vú bay được kỳ lạ của riêng chúng hay các con
dơi. Chúng ta có thể hiểu tại sao phải có những mối quan hệ nhất định giữa sự
xuất hiện của các động vật có vú, trong điều kiện biến đổi ít hay nhiều, với độ
sâu của vùng biển giữa một hòn đảo và đẩt liền. Chúng ta có thể hiểu rõ tại sao
tất cả các cư dân trên một quần đảo, mặc dù tồn tại trên các hòn đảo khác biệt,
lại có moi quan hệ gần gũi với nhau, và tương tự vậy, có quan hệ nhưng kém gần
gũi hơn với những sinh vật sống ở lục địa gẩn nhất hay từ các nguồn khác mà từ
đó những sinh vật di cư bất nguồn. Chúng ta có thể hiểu tại sao trong hai khu vực,
cho dù cách rất xa nhau, lại có sự tương tác, trong sự xuất hiện của các loài
giống nhau, giữa các biến thể, giữa các loài đang bị nghi ngờ, và giữa những
loài đặc hữu và điển hình.
Như ông Edward Forbes khi còn sống thường khăng định là có một
sự tương đồng trong các quy luật cúa sự sống khắp không gian và thời gian: các
quy luật điều chính sự kế thừa của các dạng thức trong quá khứ gần giống như những
quy luật điều chỉnh trong gian đoạn hiện tại nhưng khác biệt trong những khu vực
khác nhau. Chúng ta nhìn thấy nó trong nhiều thực tế. Sự tồn tại của mỗi loài
và nhóm loài là liên tục theo thời gian; vì ngoại lệ đối với quy luật này ít đến
mức mà chúng được coi là do chúng ta chưa phát hiện ra trong các dạng trung
gian ở đây, nhưng xuất hiện trước và sau: tương tự như thế trong không gian, một
quy luật chung là khu vực chỉ có một loài duy nhất sinh sống, hay một nhóm
loài, là liên tục; và những ngoại lệ, không phải là hiếm, như tôi đã cố thử làm
rõ, được giải thích nhờ vào sự di cư tại một giai đoạn nào trước đó trong các
điều kiện khác nhau hoặc nhờ vào các phương cách vận chuyển đặc biệt, và nhờ
vào những loài đã bị tuyệt chủng trên vùng đất trung gian. Xét cả về mặt không
gian và thời gian, loài và nhóm loài có các điểm mà tại đó chúng phát triển mạnh
nhất. Nhóm loài, thuộc về hoặc là một giai đoạn thời gian nhất định, hay vào một
khu vực nhất định, thường hay có những đặc điểm tiểu biểu là các đặc điểm không
quan trọng, như là màu sắc của đường vân. Khi xét tới các giai đoạn kế thế thừa
lâu dài, như là xét đến các vùng xa xôi trên khắp thế giới, chúng ta nhận thấy
vài sinh vật khác biệt ít, trong khi đó những sinh vật thuộc về một lớp khác,
hay một bộ khác, hay thậm chí chỉ thuộc về một họ khác của cùng bộ, lại khác
nhau rất nhiều. Trong cả không gian và thời gian những thành viên thấp hơn của
mỗi lớp thường thay đổi ít hơn là những thành viên cao hơn; nhưng trong cả hai
trường hợp đều cỏ ngoại lệ đáng chú ý. Đứng trên quan điểm của tôi thì những mối
quan hệ này trên khắp không gian và thời gian là có thể giải thích được; vì cho
dù chúng ta nhìn vào các dạng thức sống thay đổi qua các thế hệ kế tiếp nhau
trên cùng một khu vực của thế giới, hay nhìn vào những dạng có sự thay đổi sau
khi di cư tới những vùng đất xa xôi, trong cả hai trường hợp các dạng trong mồi
lớp đã liên kết với nhau bởi sự ràng buộc của thế hệ thống thường; và nếu hai dạng
thức càng gần nhau về huyết thống, thì chúng càng gần nhau hơn theo thời gian
và không gian; trong cả hai trường hợp, các quy luật của sự biến đổi là như
nhau, và các sự chỉnh sửa đã được tích tụ bởi cùng sức mạnh của sự lựa chọn tự
nhiên.
CHƯƠNG XIII
sự tương đồng lẫn nhau của các thể hữu cơ
HÌNH THÁI HỌC:
PHÔI SINH HỌC: CÁC CƠ QUAN BAN ĐẦU
Sự phân loại, các nhóm nhỏ trong các nhóm sinh vật -Các quy
luật của hệ thống tự nhiên và những khó khăn trong việc phân loại, giải thích
theo lý thuyết di truyền cùng với tiến hoá- Sự phân loại các biến dị - Di truyền
thường được sử dụng trong phân loại - Các đặc tính tương đồng hoặc được chấp nhận
- Các liên kết chung, phức tạp và phân kỳ - Các nhóm tuyệt chủng riêng biệt -
Hình thái học giữa các thành viên trong cùng một lớp, giữa các bộ phận trong một
cá thể - Phôi sinh học, quy luật của nó giải thích bởi việc các biến dị xuất hiện
khi sinh vật còn nhỏ, và được thừa kế vào cùng độ tuổi tương đồng - Các cơ quan
sơ khai và giải thích nguồn gốc của chúng - Tóm tắt Từ thuở ban đầu của sự sống,
tất cả các thể hữu cơ giống nhau về mức độ di truyền các độ, do đó chúng có thể
được xếp vào các nhóm nhỏ trong các nhóm. Sự phân loại này rõ ràng không giống
nhóm lại các ngôi sao trong các chòm sao. Sự tồn tại của các nhóm có của ý
nghĩa đơn giản, nếu một nhóm chỉ phù hợp với cuộc sống trên mặt đất, và nhóm
khác lại chỉ sống trong nước; một nhóm ăn thịt, nhóm khác lại chỉ ăn rau quan
trọng, vân vân; các trường họp rất khác nhau trong tự nhiên; cho mọi người đều
biết rằng các thành viên trong cùng một nhóm con cũng có các thói quen khác
nhau. Trong chương II và chương IV về Biến dị và Quá trình chọn lọc tự nhiên,
tôi đã thử chứng minh biến dị, rộng lớn và phố biến của các loài thuộc các chủng
lớn. Các biến dị, hoặc phôi thai của các loài, sau đó tiến hoá lên thành các
loài khác và mới; và các loài đó, theo nguyên tác về thừa kế, có xu hướng tạo
ra các loài trội và mới khác. Và các nhóm lớn, mà nói chung thường bao gồm nhiều
loài trội, sẽ tăng thêm vô tận. Tôi cũng đã thử chứng minh biến dị và thống trị
của con cháu các loài đó trong tự nhiên, có một xu hướng các đặc tính không
thay đổi trong của họ sẽ được phân tán rộng rãi. Kết luận này còn được hỗ trợ bởi
ý kiến về tính đa dạng lớn của các sinh vật, trong bất kỳ vùng nhỏ nào, tham
gia vào cuộc cạnh tranh gay gắt nhất bằng cách nhìn vào các dẫn chứng nhất định
của quá trình tự nhiên hoá.
Tôi cũng đã cố gắng chỉ ra rằng có một xu hướng không thay đổi
là các loài đang ngày càng tăng về số lượng và các đặc tính được phân tán rộng,
tiêu diệt và thay thế các loài ít nổi bật hơn, ít tiến hoá hơn, và các loài ban
đầu. Người đọc có thể xem lại sơ đồ minh họa hoạt động, như đã giải thích, của
các nguyên lý này; và anh ta sẽ thấy kết quả tất yếu là sự biến đổi trong các
thế hệ con cháu, từ một tổ tiên trở thành nhiều nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau. Trong sơ đồ mỗi chữ cái trên hàng trên cùng có thể đại diện cho một giống
bao gồm vài loài; và tất cả chủng trên hàng này cùng nhau tạo thành một lớp, và
vì tất cả đều từ một cha mẹ cổ xưa nên đều có cái gì đó chung. Nhưng ba chủng
trên ở phía bên trái, cũng theo nguyên tắc này, có nhiều điểm chung, và tạo ra
một mức dưới nữa -họ, chi khác với hai chủng tiếp theo bên tay phải, cũng rẽ ra
từ một cha mẹ chung ở giai đoạn (thứ) năm của chuỗi quan hệ. Năm chủng này, có
thể nhiều hoặc ít hơn, có các điểm chung; và chúng hình thành họ khác gồm ba chủng
nữa ở phía tay phải, vốn đã rẽ nhánh từ trước. Tất cả các chủng này, xuất phát
từ một loài (A) và khác hẳn so với loài (I). Như vậy có nhiều loài cùng có
chung một tổ tiên duy nhất được nhóm lại vào trong chủng; và chủng bao gồm nhiều
chi, họ, bộ... tất cả gọi chung là một lớp. Nhờ vậy, các dẫn chứng quan trọng
trong lịch sử tự nhiên về sự lệ thuộc của nhóm nhỏ với nhóm lại không phải lúc
nào cũng khiến chúng ta bất ngờ, nếu theo giải thích của tôi.
Các nhà tự nhiên học đã cố gắng xếp các loài, chủng, họ, chi
trong mỗi lớp, trong cái gì được gọi là Hệ thong tự nhiên. Nhưng hệ thống này
mang ý nghĩa gì? Một vài tác giả xem nó đơn thuần chỉ là một sơ đồ sắp xếp các
đối tượng sống mà đa số là giống nhau, và từ đó phân ra các đối tượng phần lớn
là không giống; hoặc nói một cách tóm tắt, là các mệnh đề chung, trong đó gồm
các câu có một đặc tính chung, ví dụ, tất cả các động vật có vú khác với động vật
ăn thịt, giữa loài chó thường và chó giống, và sau đó bàng việc thêm một câu
đơn, sẽ mô tả đầy đủ các đặc tính của mỗi loại chó. Sự linh hoạt và hữu ích của
hệ thống này là không thể bàn cãi. Nhưng nhiều nhà tự nhiên học nghĩ rằng Hệ thống
Tự nhiên còn có nhiều ý nghĩa hơn thế; họ tin rằng hệ thống này sẽ giúp hé mở
các kế hoạch của Thượng đế; nhưng không xác định cách sắp đặt về thời gian và
không gian, hoặc thực vật cso ý nghĩa thế nào trong kế hoạch của Thượng đế, đối
với tôi các điều này không mấy ý nghĩa trong việc tích luỹ kiến thức. Các cách
diễn giải ấy là của ông Linnaeus, và chúng ta thường bắt gặp một hai nhiều dạng
ẩn có các đặc tính không tạo nên giống mà là được hưởng các đặc tính của một giống,
cho thấy các cá thể trong các nhóm phân ra không giống nhau hoàn toàn, chúng chỉ
có các điểm chung mà thôi. Tôi tin rằng nó còn hàm chứa nhiều ý nghĩa hơn; sự gần
gũi đó của các thế hệ con cháu, điều duy nhất được biết là nguyên nhân của sự
giống nhau của các thể hữu cơ, là mối ràng buộc ẩn do có nhiều cấp độ tiến hoá
mà phần nào đã để lộ ra sự phân loại.
Chúng ta sẽ xem xét các quy luật theo sau sự phân loại, và
các khó khăn của quan điểm rằng sự phân loại không chỉ giúp chúng ta biết những
kế hoạch bí mật cúa tạo vật mà còn là một sơ đồ trong đó đặt các mệnh đề chung
và các câu vào thành các nhóm tương tự nhau. Người ta có thể nghĩ rằng (giống
như trong thời cổ đại), các bộ phận của cấu trúc quyết định các thói quen của
cuộc sống, và vị trí của mỗi thế hữu cơ trong tự nhiên là điều quan trọng rất
cao trong sự phân loại. Điều này hoàn toàn đúng. Không ai chú ý đến sự giống
nhau bề ngoài của một con chuột cống và một con chuột chù, của con cá nược và
con cá voi, của con cá voi và các loài cá khác. Tuy nhiên sự giống nhau này có
quan hệ mật thiết tới toàn bộ cuộc sống của thể hữu cơ, vẫn chỉ đơn giản được xếp
là “Những đặc tỉnh đơn thuần được chấp nhận hoặc các đặc tính tương tự”; Nhưng
nếu xem xét các giống nhau này chúng ta sẽ phải suy nghĩ lại. Nó có thể thậm
chí đã trở thành một quy luật chung, rằng nếu bất cứ nào trong một tổ chức có một
thói quen đặc biệt, nó sẽ tạo ra sự phân loại. Ví dụ: ông Owen, khi nói chuyện
về cá nược, đã nói: “Các cơ quan khả năng sinh sản thường có liên quan tới các
thói quen và thức ăn của một động vật, tôi đã rất chú ý về mối quan hệ này.
Chúng thường cho rằng những biến đổi của cơ quan này đơn thuần chỉ là để có một
đặc tính cần thiết nào đỏ”. Như vậy với các thực vật, điều đáng chú ý là cơ
quan của cây cỏ, mà toàn bộ cuộc sống của chúng phụ thuộc vào đó, có ý nghĩa rất
nhỏ bé, trong khi các cơ quan sinh sản, với sản phẩm là các hạt giống, lại là
quan trọng nhất!
Do đó, trong việc phân loại, chúng ta không được chỉ tin vào
sự giống nhau của các bộ phận bên trong, dù chúng có quan trọng như thế nào đối
với thế giới bên ngoài. Có lẽ từ nguyên nhân này mà gần như tất cả các nhà tự
nhiên học đã nhấn mạnh nhiều nhất vào sự giống nhau giữa các cơ thể có tầm quan
trọng sống còn hoặc về sinh lý học cao. Rõ ràng quan điếm này có sự quan trọng
của các cơ quan trong phân loại là chung nhất, nhưng không phải lúc nào cũng
đúng như vậy. Tầm quan trọng của chúng trong sự phân loại, tôi tin rằng, phụ
thuộc vào tính không thay đổi của chúng trong tất cả các nhóm của các loài; và
sự không thay đổi này phụ thuộc vào các cơ quan ít thay đổi trong quá thích
nghi của các loài với các điêu kiện sông. Chỉ có tầm quan trọng sinh lý học của
một cơ quan là không có giá trị xác định trong sự phân loại, có thể thấy rõ qua
dẫn chứng duy nhất đó là trong các nhóm liên quan, ở cùng một cơ quan, chúng ta
có lý do để giả sử rằng, có cùng giá trị sinh lý học, giá trị phân loại của nó
lại rất khác nhau. Không nhà tự nhiên học nào có thể nghiên cứu với những dẫn
chứng này; và nó hoàn toàn được thừa nhận trong các ghi chép của hầu hết các
tác giả. Tôi xin trích ra đây câu nói của một nhà tự nhiên học có uy tín nhất,
ông Robert Brown, nói về một sổ cơ quan bên trong loài Proteaceae, về tầm quan
trọng chung của chúng như sau: “Như tất cả các bộ phận của chúng, không phải chỉ
trong trường hợp này, tôi e là trong tất cả các họ đều không bàng nhau, và
trong vài trường hợp có vẻ như còn thiếu”. Trong một công trình khác ông nói về
chủng Connaraceae: ”Khác nhau trong việc cỏ một hoặc nhiều buồng trứng, có hoặc
không có chất albumin. Các đặc tính nào quan trọng hơn nhiều đặc tính về gen,
dù tất cả chúng đã đủ giúp ta phân biệt giữa Cnestis và Connarus”. Có thể lấy một
ví dụ trong loài sâu bọ, trong nhánh Hymenoptera, Antennae, như Westwood đã nhận
xét, đa số là giống nhau trong cấu trúc; những trong các bộ phận khác chúng
khác nhau nhiều, và sự khác nhau lại khá phụ thuộc vào sự phân loại; tuy thế
không nói rằng mà hai bộ phận này trong antennae có tầm quan trọng sinh lý học
không bằng nhau. Bất kỳ ví dụ nào đưa ra cũng cho thấy sự khác nhau về tầm quan
trọng trong phân loại cùng một cơ quan quan trọng trong cùng một nhóm của các
thê hữu cơ.
Một lần nữa, không ai có thể nói rằng các cơ quan nguyên thuỷ
và yếu ớt là các cơ quan có tầm quan trọng sinh lý học hoặc sống còn cao nhất;
vậy mà, chắc chắn, các cơ quan trong điều kiện này thường có giá trị cao trong
sự phân loại. Không ai có thể bàn cãi rằng những chiếc răng ban đầu trong quai
hàm trên của các con thuộc loài nhai lại sơ sinh, hoặc một sổ xương ban đầu nhất
định của bàn chân, rất có ích trong việc thể hiện sự tương đồng giữa loài nhai
lại và các loài vật da dày. Ông Robert Brown đã cố đưa ra những dẫn chứng rằng
hoa nhó sơ khai là quan trọng nhất trong phân loại các loài cỏ.
Nhiều ví dụ có thề đã cho của các đặc tính bắt nguồn từ các
phần được xem là có tầm quan trọng sinh lý rất nhỏ, nhưng thường được cho là rất
có ích trong việc nhận dạng tất cả các nhóm. Ví dụ, theo Owen, việc có hay
không đường thông lỗ mũi đến miệng, là đặc tính duy nhất giúp phân biệt cá và
các loài bò sát, giống như độ uốn của góc quai hàm của các thú có túi, cách gấp
cánh của các loài sâu bọ, màu của một số loài tảo nhất định, lông tơ của cỏ tự
nhiên, các lông chim. Nếu loài Ornithorhynchus chỉ có lông vũ thay vì tóc. đặc
điểm bên ngoài rất nhỏ này đã được các nhà tự nhiên học coi là rất quan trọng
trong việc xác định độ tương đồng của tạo vật kỳ lạ này với chim và các loài bò
sát, như một cách tiếp cận cấu trúc trong bất kỳ một cơ quan quan trọng bên
trong nào.
Sự quan trọng, đối với sự phân loại, của các đặc tính bình
thường, chủ yếu phụ thuộc vào mối tương quan giữa chúng với các đặc tính khác
ít quan trọng hoặc quan trọng hơn. Giá trị thực của tổng thể các đặc tính là rất
rõ ràng trong lịch sử tự nhiên. Do đó, như đã nhận xét ở trên, một loài có thể
tách khỏi các mối liên kết của nó do một vài đặc tính, của tầm quan trọng về mặt
sinh lý học vừa về mức độ phổ biến, và giúp chúng ta không khó khăn gì khi xếp
hạng các loài đó. Từ đây, đồng thời, người ta cũng nhận thấy, nếu sự phân loại
được thực hiện do bất kỳ đặc tính đơn nào, dù tầm quan trọng của nó ra sao, đều
sai lầm; vì không bộ phận nào của các cơ thể lại không thay đổi. Tầm quan trọng
của một tổng thế của các đặc tính, thậm chí là không quan trọng, như cách nói của
Linnaeus, là các đặc tính đó không tạo ra các giống, nhưững giống có các đặc
tính chung; có nghĩa là những điểm chúng đó có thể rất nhỏ. Một số thực vật nhất
định, thuộc họ Malpighiaceae, có hoa hoàn hảo; như.lussieu đã từng nói: “Số lượng
lợn các tính cách phù hợp với các loài, giống, chủng, họ, chi, và phù hợp với ự
phân loại của chúng ta.
Thực tế khi các nhà tự nhiên học nghiên cứu, họ không tự quấy
rầy mình về giá trị sinh lý học của các đặc tính mà họ sử dụng để định nghĩa một
nhóm, hoặc trong việc phân loại các loài. Nếu họ tìm thấy một đồng dạng gần như
đặc tính, và chung cho một số lớn các loài, và không chung cho các loài khác,
thì họ sử dụng chúng là đặc tính duy nhất có giá trị cao; còn các đặc tính khác
ít chung hơn thì chúng sử dụng nó như giá trị phụi thuộc. Nguyên lý này đã được
chấp nhận bởi nhiều nhà tự nhiên học. Nếu một số đặc tính nhất định, tuy luôn
được tìm thấy được sự tương quan với các loài khác, dù không phát hiện ra mối
ràng buộc hiển nhiên nào, chúng sẽ trở thành giá trị đặc biệt của nhóm. Trong
khi trong đa số các nhóm của các động vật, các cơ quan quan trọng, ví dụ như
máu... được coi là có ích nhất trong sự phân loại; nhưng trong vài nhóm động vật
thì các cơ quan sống còn quan trọng nhất, được phát hiện nhờ các đặc tính của
giá trị khá phụ thuộc.
Chúng ta có thể thấy tại sao các đặc tính bắt nguồn từ phôi
thai có sự quan trọng bằng với các đặc tính bắt nguồn từ động vật trưởng thành,
vì sự phân loại tất nhiên bao gồm tất cả các giai đoạn của mỗi loài. Nhưng nó
rõ ràng, dựa trên quan điểm bình thường, tại sao cấu trúc của phôi thai lại
quan trọng hơn cấu trúc này của động vật trưởng thành, vì nó đóng vai trò quan
trọng trong tự nhiên. Vậy mà các nhà tự nhiên học lớn như Milne Edwards,
Agassiz đã cho rằng các đặc tính phôi thai là quan trọng nhất trong bất kỳ sự
phân loại động vật nào; và học thuyết này đã được chấp nhận. Cùng dẫn chứng đó
cũng đúng với các cây có hoa, trong đó hai đặc tính chính đều bắt nguồn từ phôi
thai vị trí của noãn rụng hoặc các từ diệp, và trên cách phát triển của đọt cây
non (lông tơ) và rễ mầm. Theo ý kiến của chúng tôi về phôi sinh học, chúng ta sẽ
thấy tại sao các đặc tính như vậy lại rất quý, theo quan điểm của sự phân loại
ngầm bao gồm cả sự di truyền.
Sự phân loại rõ ràng thường bị ảnh hưởng bởi các chuỗi tương
đồng. Không gì có thể dễ hơn việc định nghĩa một số đặc ffilh chung của tát cả
các loài chim; nhưng trong trường hợp của loài giáp xác, định nghĩa như vậy
không thể đạt được. Có loài giáp xác khó có đặc tính chung; tuy thế chúng có
quan hệ rõ ràng với các loài khác, và với các loài trước nó.
Phân bố địa lý, tuy đã được sử dụng không hợp lý, trong sự
phân loại, đặc biệt trong các nhóm lớn có quan hệ với nhau. Temminck đã nhấn
manh vào tính có ích hoặc thậm chí nhu cầu thực tế của các nhóm chim; và nó đã
được một số nhà côn trùng học và các nhà thực vật học học tập.
Cuối cùng, trong việc so sánh giá trị những khác nhau giữa
nhóm các loài, như các chi, họ, chủng. Vài nhà thực vật học tốt nhất, ví dụ như
ngài Bentham và những người khác, nhấn mạnh vào giá trị chuyên quyền của họ. Ví
dụ như trong số các cây và các sâu bọ, có một nhóm của các loài, trước hết được
các nhà tự nhiên học xếp vào một giống duy nhất, và sau đó nâng tới mức chi, họ
không phải vì họ nghiên cứu thêm và phát hiện cấu trúc quan trọng của các khác
biệt, trước hết giám sát, nhưng vì nhiều liên minh các loài, với các thứ bậc
hơi khác nhau của sự khác nhau, đã sau này được khám phá.
Tẩt cả các quy luật và các sự giúp đỡ và các khó khăn đã đề cập
trước về sự phân loại được giải thích, nếu tôi không rất lừa dối mình, thì dựa
trên quan điểm rằng hệ thống tự nhiên có được là do di truyền của các biến dị;
các đặc tính mà các nhà tự nhiên học xem xét cho thấy sự tương đồng thật sự giữa
các hai loài hoặc nhiều hơn bất kỳ nào, vốn được thừa kế từ một cha mẹ chung,
và cho đến lúc này tất cả sự phân loại đều mang tính phả hệ; cộng đồng các di
truyền che giấu các mối ràng buộc mà các nhà tự nhiên học nào vô tình tìm thấy,
và không phải là kế hoạch bí mật của Thượng đế, hoặc việc phát biểu của các mệnh
đề chung, mà là sự phân ra các nhóm ít nhiều giống nhau.
Nhưng tôi phải giải thích rõ ràng hơn quan điểm của mình. Tôi
tin rằng rằng sự sắp đặt của các nhóm bên trong mỗi lớp trong sự lệ thuộc trực
tiếp và quan hệ tới các nhóm khác, phải mang tính phả hệ chính xác về bản chất
tự nhiên; nếu không, có thể số lượng những biến dị trong vài nhánh hoặc các
nhóm liên kết có cùng một cấp, nhưng so với tổ tiên, có thể khác nhiều, vì các
độ khác nhau của các biến đổi mà chúng trải qua; và điều này được biểu thị qua
cách xếp hạng các thể hữu cơ khác nhau vào các chủng, chi, họ. Chúng ta sẽ giả
thiết các chữ cái từ A đến L đại diện cho liên minh chủng, sống trong kỷ nguyên
Silurian, và thừa kế từ một loài tồn tại ở một thời kỳ trước. Các loài của ba của
chủng này ( A, F, Và I) có con cháu mang các biến dị, thể hiện bởi mười lăm chủng
nhỏ (từ a14 tới z14) nằm trên hàng ngang. Bây giờ tất cả con cháu tiến hoá từ
các một loài đơn, được đại diện có liên quan trong máu hoặc cùng mức độ di truyền;
chúng có thể được gọi các anh em họ; vậy mà chúng rất khác nhau, mức độ tiến
hoá cũng khác nhau. Các loài tiếp nối của A, phát triển thành hai hoặc ba họ, cấu
thành khác hẳn với những dạng phát sinh từ thừa kế từ I, cũng phát triển thành
hai họ. Một số loài, phát sinh từ A, được xếp trong cùng giống với cha mẹ A; hoặc
các dạng từ I, với cha mẹ I. Nhưng giống F14 có thể giả định là có mang những
biến dị nhỏ và nó sẽ xếp cùng với cha mẹ giống F; giống như thể hữu cơ hữu cơ vẫn
còn sống nào đó thuộc về chủng thuộc kỷ
Silurian. Như vậy số lượng hoặc giá trị của các biến dị giữa
các thể hữu cơ tất cả liên quan đến nhau và cũng có rất nhiều điểm khác nhau.
Tuy vậy sự sắp đặt phả hệ của họ còn lại rất chính xác, không phải chỉ về thời
gian hiện hữu, mà còn ở các thời kỳ liên tiếp của di truyền. Các con cháu đã tiến
hoá từ A sẽ thừa kế cái gì đó chung từ cha mẹ chung của họ, giống như các con
cháu của I. Nhưng dường như các thế hệ con cháu sau này còn mang rất ít đặc điểm
chung của các thế hệ trước. Tất cả các con cháu của giống F, theo phả hệ, giả định
là có những biến dị nhỏ bé, nhưng chúng vẫn là một loài duy nhất nhưng bị cô lập
và là loài trung gian giữa I và A; do F trước đấy là trung gian về đặc tính giữa
A và I, và các chủng sau của hai chủng sẽ thừa kế một số đặc tính nhất định của
chúng. Nếu rẽ nhánh của A bị đào thải, tên các nhóm được điền thêm theo một đường
thẳng, số loài trong sơ đồ sẽ ít đi và chúng ta sẽ thấy sự tương đồng giữa các
nhóm giảm dần. Do đó, dựa trên quan điểm hệ thống tự nhiên sắp đặt theo phả hệ,
mức độ biến dị của các nhóm phải được biếu thị bàng việc xếp hạng chúng vào các
nhóm có cấp bậc khác nhau.
Sẽ dễ hiểu điều này hơn thông qua minh hoạ bằng các câu chữ.
Nếu loài người chúng ta là một nòi giống hoàn hảo, thì một sự sắp đặt phả hệ của
chủng người có thể đưa ra sự phân loại tốt nhất về các ngôn ngữ đang được nói
trên thế giới; và nếu tất cả các ngôn ngữ bị tuyệt chủng, và tiếng địa phương
và các ngôn ngữ trung gian chậm chạp thay đổi, phải là kể cả, chỉ có thể là xuất
hiện một số ngôn ngữ vượt trội và làm giảm đi số lượng các ngôn ngữ. Do việc phổ
biến các nền văn minh của các tộc người, thường từ một chủng người có nhiều biến
dị, và làm xuất hiện nhiều ngôn ngữ và các tiếng địa phương, cấp độ khác nhau
trong các ngôn ngữ cũng vậy cũng do sự tồn tại và suy vong của các tộc người.Nhưng
tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều vẫn có điểm chung là vẫn sử dụng đến lưỡi.
Để xác nhận quan điểm này, hãy liếc qua sự phân loại của các
biến dị, được thừa kế từ một loài. Chúng nhóm lại dưới các loài, với mức biến dị
nhỏ trong số các biến dị; và trong các vật nuôi cây trồng cuả chúng ta, chúng
ta cũng thấy được các cấp độ khác nhau. Thử lấy ví dụ từ loài bồ câu. Nguồn gốc
sự tồn tại của các nhóm làm các nhóm phụ thuộc lẫn nhau, biến dị của các loài
cũng vậy, tức là mức độ di truyền của các biến dị cũng tương tự nhau. Quy luật
này cũng đúng trong việc phân loại các biến dị, giống như với các loài. Các tác
giả nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc phân loại các biến dị trong tự nhiên
thay vì theo một hệ thống nhân tạo.Trong việc phân loại các biến dị, tôi e rằng
nếu chúng ta có các giống thực tế, thì một sự phân loại phả hệ phổ biến sẽ thuận
lợi hơn; và thực tế là vài tác già đã thử làm việc này.
Với các loài trong một trạng thái tự nhiên, mỗi nhà tự nhiên
học thật ra mang yếu tố di truyền vào trong sự phân loại của anh ấy; anh ta cho
vào đó thứ bậc thấp nhất của anh ấy, hoặc thứ bậc thấp nhất của một loài, hai
giới tính; và đôi khi sự khác biệt trong các đặc tính quan trọng nhất to lớn
tùy theo ý kiến của mỗi nhà tự nhiên học: một dẫn chứng đơn lẻ như việc xác định
con đực và con cái của
loài hà trưởng thành, điều này là rất khó. Nhà tự nhiên học gộp
cả những ấu trùng đ ơ n lẻ trong giai đoạn ban đầu của các cá thể riêng lẻ, dù
chúng có thể rất khác nhau và kh á c với thể trưởng thành; nh ư ng anh ta xung
gộp các thế hệ thay thế của loài Steenstrupvốn chỉ được coi là cá thể V ề mặt kỹ
thuật. Anh ta gộp cả các quái vật; biến dị, không chỉ vì chúng gần giống với
cha mẹ mà vì chúng được sinh ra từ dạng bố mẹ đó. Anh ta tin rằng cây hoa ngọc
trâm được thừa kế từ cây hoa anh thảo vàng, và thế nên xếp chúng vào cùng các một
loài đơn, đưa ra một định nghĩa duy nhất. Ngay khi ba loài lan Orchidean
(Monochanthus, Myanthus, và Catasetum), vốn được xếp vào ba chủng khác nhau,
nhưng được biết là đôi khi được tạo ra từ cây oải hưomg, ngay lập tức chúng được
gộp vào thành một loài đơn. Câu hỏi đặt ra có thể là làm sao chúng ta có thể chứng
minh được rằng loài canguru đã được sinh ra, qua quá trình tiến hoá từ loài gấu?
Liệu chúng ta có nên xếp chúng vào cùng một loài với gấu hay không? Sự phỏng
đoán này tất nhiên là phi lý; và tôi có thể trả lời bằng cách hỏi ngược lại là
chúng ta sẽ làm gì nếu thấy một con canguru hoàn hảo được một con gấu sinh ra?
Theo suy luận, nó sẽ được xếp ngang hàng với gấu; nhưng chắc chắn là tất cả các
loài khác thuộc họ canguru sẽ phải được phân loại dưới giống gấu. Như vậy là
phi lý, do sự di truyền nói chung nên những nét tưomg đồng là có thể hiểu được.
Vì di truyền thường được sử dụng trong việc phân loại các cá
thể của cùng một loài, mặc dù các con đực và cái hay lưỡng tính thì rất khác
nhau; và vì nó đã được sừ dụng trong việc phân loại các biến dị, với một lượng
nhất định, đôi khi là một số lượng đáng kể các cải biến, chưa chắc các yếu tố
này đã được sử dụng để phân biệt các loài dưới chủng, và các chủng dưới, dù
trong các trường hợp này những biến dị là rất nhiều, và mất rất nhiều thời gian
mới hoàn thành? Tôi tin rằng nó đã được sử dụng một cách vô tình; và chỉ có thể
tôi mới có thể hiểu các quy luật và các hướng dẫn mà các nhà hệ thong giỏi nhất
của chúng ta đã áp dụng. Chúng ta không có các phả hệ giống bằng văn bản; chúng
ta phải dựng lên tính di truyền bởi các đặc giống nhau của bất kỳ loại nào. Bởi
vậy chúng ta chọn các đặc tính bé nhất có vẻ đã được sửa đổi trong quan hệ với
các điều kiện sống của mỗi loài. Các cấu trúc sơ khai được cho là tốt, thậm chí
đôi khi tốt hơn các bộ phận khác của tổ chức. Chúng ta quan tâm không chỉ là một
đặc tính có thể nhỏ đến mức nào - được thế hiện qua sự uốn của góc quai hàm,
cách gấp cánh của sâu bọ, da chim được bao trùm bởi tóc hoặc lông - nếu chúng
đúng với nhiều loài khác nhau, đặc biệt những loài có thói quen sống khác nhau,
nó sẽ có giá trị cao; chúng ta có thể tính toán được sự có mặt của nó trong nhiều
loài có các thói quen khác nhau, chỉ bởi sự thừa kế của nó từ một cha mẹ chung.
Chúng ta cũng nên lưu tâm tới các điểm đơn của cấu trúc, nhưng khi một vài đặc
tính dù nhỏ xuất hiện ở một nhóm lớn các thể hữu cơ có các thói quen khác nhau,
thì chúng ta có thể chắc chắn rằng, theo lý thuyết về di truyền, các đặc tính
này đó đã được thừa kế từ một tổ tiên chung. Và chúng ta biết rằng sự tương đồng
đó hoặc tập hợp các đặc tính đó có giá trị đặc biệt trong sự phân loại.
Chúng ta có thể hiểu tại sao các loài hoặc một nhóm các loài
có thể không có một số đặc trưng quan trọng nhất giống các họ hàng nó, mà vẫn
được an toàn xếp cùng loại với nhau. Đó là do các đặc tính đó không quan trọng
hoặc chúng là các đặc tính lặn trong quá trình di truyền. Thử liên kết hai dạng
không có các đặc tính đơn chung bởi một chuỗi các nhóm trung gian, chúng ta có
thể ngay lập tức suy ra rằng chủng thuộc một nhóm di truyền, và xếp chúng tất cả
vào trong cùng lớp đó. Do chúng ta cho rằng sinh lý học rất quan trọng trong việc
duy trì cuộc sống nói chung là không thay đổi nhất, chúng ta gắn cho chúng giá
trị đặc biệt; nhưng nếu cùng các cơ quan đó, trong nhóm khác hoặc phần khác của
một nhóm có vai trò khác chúng ta sẽ đánh giá chúng thấp hơn khi phân loại.
Chúng ta có thể thấy rõ các đặc tính sinh lý lại quan trọng đến vậy trong việc
phân loại. Phân bố địa lý đôi khi cũng có ích trong các chủng lớn và phân bố rộng,
bởi vì tất cả các loài của cùng giống đó, dù sống ở bất kỳ vùng tách biệt nào đều
có bên trong các đặc điểm thừa kế từ cùng một dạng cha mẹ.
Từ đây chúng ta hiểu sự khác biệt rất quan trọng giữa các sự
tương đồng thực tế và tương tự hoặc các điểm giống nhau được chấp nhận. Ông
Lamarck là người đầu tiên lưu ý nên quan tâm tới sự phân biệt này, và ý kiến đó
được ông Macleay và một số người khác ủng hộ. Sự giống nhau, ví dụ như về hình
dạng của thân thể và trong các chi như chân tay trước, giữa cá nược- động vật
da dày, và cả voi, và giữa cả hai loài động vật có vú này và các loài cá. Trong
các loài sâu bọ có rất nhiều ví dụ:Linnaeus, sai lầm do các tin vào các biểu hiện
bên ngoài đã xếp một loài bọ cánh vào loài mối. Chúng ta nhìn thấy điều này
ngay trong các vật nuôi của chúng ta, ví dụ giữa những cây thân đặc và cây cải
Thụy Điển. Sự giống nhau giữa chó săn và ngựa đua thi khó đánh đồng hơn so với
các ví dụ về các động vật khác. Trên quan điểm về các đặc tính thực sự quan trọng
cho sự phân loại, tôi cho rằng chỉ khi nào các đặc tính di truyền này lộ ra,
chúng ta có thể hiểu rõ ràng tại sao sự tương tự hoặc các đặc tính chung được
thừa nhận, mặc dù rất quan trọng đối với các thể hữu cơ, nhưng lại gần như
không có giá trị đối với những người nghiên cứu hệ thống. Các động vật, thuộc về
hai dòng di truyền khác nhau nhất, có thể sằn sàng thích nghi trong cùng các điều
kiện, và như vậy giải thích về sự giống nhau ở bên ngoài; nhưng những giống
nhau như vậy sẽ không lộ ra mà thường có xu hướng giấu đi để truyền cho các con
cháu huyết thống của chúng qua di truyền. Chúng ta có thể cũng hiểu nghịch lý
hiển nhiên rằng những đặc tính rất giống nhau thường tương đồng khi so sách các
loài trong một lớp hoặc các lớp trong một chủng, trong khi sự tương đồng xuất
hiện khi các thành viên của cùng lớp đó so sánh với một lớp khác. Do đó hình
dáng cơ thế và các chi chỉ tương tự nhau khi cá voi được so sánh với các loài
cá, do thích nghi trong cả hai lớp này do phải bơi xuyên trong nước; nhưng hình
dạng thân thể và các chi chỉ cố đặc tính tương đồng khi so sánh giữa vài thành
viên của họ cá voi; các loài động vật có vú này cũng rất đa dạng, nhỏ và lớn,
mà chúng ta không thể nghi ngờ rằng chúng đã thừa kế hình dạng thân thể và cấu
trúc của các chi từ một tổ tiên chung. Điều này cũng đúng với các loài cá.
Do thành viên của các lớp khác nhau đã thích nghi hơn nhờ các
biến dị nhỏ và liên tiếp trong các điều kiện sống tương tự nhau, ví dụ như sống
trong ba môi trường là đất, không khí và nước, chúng ta có thể hiểu làm thế nào
có thể quan sát quan hệ song song giữa các nhóm nhỏ trong các lớp khác nhau. Một
nhà tự nhiên học, ấn tượng bởi tính song song của tự nhiên này trong mọi lớp
sinh vật, bằng cách tùy ý nâng hoặc hạ giá trị của các nhóm trong các lớp (kinh
nghiệm cho thấy điều này thường xảy ra), có thể dễ dàng phát triển đặc tính
song song đó trong một phạm vi rộng; và nhờ đó xuất hiện các dạng tam phân, nhị
phân, tứ phân, ngũ phân, thất phân...
Do con cháu tiến hoá của các nhóm trội, thường thuộc những chủng
lớn hơn, có xu hướng thừa kế các lợi thế, từ đó mở rộng các nhóm của chúng và
trội hơn cha mẹ chúng, chắc chắn chúng sẽ lan truyền rộng rãi, và chiếm lĩnh
ngày càng nhiều nơi trong tự nhiên. Các nhóm trội hơn và lớn hơn như vậy lại có
xu hướng tiếp tục tăng thêm về quy mô; và chúng tiêu diệt nhiều nhóm yếu ớt hơn
nhỏ đơn. Từ đó, chúng ta có thể kết luận rằng tất cả các cơ quan, tồn tại thời
kỳ gần đây hoặc đã bị tuyệt chủng, đều thuộc một số trật tự lớn, dưới đó vẫn
còn một số lớp, và tất cả nằm trong một hệ thống tự nhiên lớn. Vì số lượng các
loài bậc cao ngày càng ít và mức độ phân tán rộng rãi của chúng trên khẳp thế
giới, thực,tế khá ấn tượng là việc khám phá ra châu úc đã không chỉ bổ sung
thêm một loài sâu bọ đơn vào một nhóm mới mà chúng còn thêm hai hai ba nhóm thực
vật vào hệ thống tự nhiên.
Trong chương nói về sự kế thừa về mặt địa lý tôi đã thử chỉ
ra, theo nguyên lý của mỗi nhóm sinh vật nói chung đều phân kỳ trong thời gian
dài của quá trình tiến hoá, cách các loài tổ tiên đã thể hiện các đặc tính của
mình trong một mức độ trung gian giữa các nhóm đang tồn tại. Một vài dạng cha mẹ
trung gian cổ xưa đôi lúc đã truyền lại cho con cháu chúng ngày nay một vài đặc
tính và đã được cải biến chút ít, cái mà chúng ta gọi là các nhóm trung gian hoặc
các nhóm khác thường. Các nhóm càng khác thường thì số lượng các loài liên kết
bị tuyệt chủng càng lớn. Và chúng ta có những bằng chứng cho thấy các nhóm khác
thường đã bị tổn thất rất lớn bởi sự tuyệt chủng, vì chúng nói chung được đại
diện bởi rất ít loài; và các loài như vậy như xuất hiện nói chung thường rất
khác nhau, điều này cũng mang đến sự tuyệt chủng. Ví dụ, chủng Omithorhynchus
và Lepidosiren là khác thường vì chúng không chỉ đại diện cho một loài mà là cả
chục loài khác nhau; nhưng sự đa dạng về loài, theo tôi sau khi tiến hành các
khảo sát, thông thường không phải do vài chủng khác thường. Tôi nghĩ chúng ta
có thể dựa vào dẫn chứng này bằng cách xem các loài khác thường như các nhóm bại
trận bởi các đối thủ khác thành công hơn, với một số ít thành viên giữ gìn do một
vài thay đổi có lợi của tự nhiên.
Mr.Waterhouse đã nhận xét rằng, khi một thành viên của một
nhóm của động vật thể hiện một sự tương đồng với một nhóm khác, sự tương đồng
này trong đa số các trường họp thường phổ biến và không đặc biệt: giống quan điểm
của ông Waterhouse, loài Rodent, loài thú có túi có những đặc điếm gần giống
loài Marsupial; nhưng trong các điểm loài này tiếp cận thứ tự này, các quan hệ
của nó rất chung chung, và không phải riêng với bất kỳ một loài thú có túi nào.
Trong khi các điểm tưomg đồng của Bizcacha với các thú có túi được tin là có thật
và không đơn thuần là đặc tính được chấp nhận, chúng phù họp với lý thuyết của
tôi về sự thừa kế chung. Bởi vậy chúng ta phải giả thiết rằng tất cả loài
Rodents, bao gồm cả Bizcacha, đều rẽ nhánh từ một loài thú có túi rất cổ xưa
nào đó, và sẽ có một đặc tính với tất cả các loài thú có túi hiện hữu; hoặc cả
các loài gặm nhấm lẫn thú có túi đều phân nhánh ra từ một tổ tiên chung, cả hai
nhóm lại từng trải qua rất nhiều tiến hoá trong các hướng phân kỳ. Theo quan điểm
rằng chúng ta có thể giả sử rằng Bizcacha, do sự thừa kế, mang nhiều của đặc
tính của to tiên cổ xưa của nó hơn các loài gặm nhấm khác; và bởi vậy nó sẽ
không có liên quan đặc biệt tới bất kỳ một loài thú có túi đang hiện hữu, nhưng
có quan hệ gián tiếp với tất cả hoặc gần như tất cả các loài thú có túi, do đã
giữ được các đặc tính của tổ tiên chung của chúng, hoặc của các thành viên ban
đầu của nhóm. Mặt khác, như ông Waterhouse đã nhận xét, trong số tất cả thú có
túi, loài Phascolomys không gần giống với hầu hết các loài gặm nhấm. Trong trường
hợp này, có thể nghi ngờ rằng sự giống nhau chỉ là sự tưomg tự, do Phascolomys
dần phải thích nghi với các thói quen giống như các thói quen của loài gặm nhấm.Trước
đây, De
Candolle đã từng có nghiên cứu tương tự về sự tương đồng giữa
các thực vật khác nhau.
Theo nguyên lý của sự nhân giống và dần dần phân kỳ đặc tính
của các loài thừa kế từ một cha mẹ chung, cùng với sự duy trì nhờ sự thừa kế của
vài đặc tính chung của chúng, chúng ta có thể hiểu sự tương đồng lan truyền và
hết sức phức tạp trong tất cả các thành viên của cùng họ, chi hoặc các nhóm cao
hơn được nối với nhau. Bố mẹ chung của các họ, phân nhánh ra do sự tuyệt chủng
của các nhóm khác nhau và của dại diện các nhóm sẽ truyền một ít các đặc tính của
nó, qua các sửa đổi khác nhau tới mọi loài con cháu; và vài loài sẽ được liên hệ
với nhau bởi rất nhiều sự tương đồng lòng vòng rất dài (điều này có thể nhìn thấy
qua sơ đồ nêu trên), tăng lên do các thế hệ trước. Do khó thể hiện các mối quan
hệ máu thịt giữa tất cả các của các dòng họ quý phái và cổ xưa trước, thậm chí
khi có sự giúp đỡ của một cây phả hệ, và điều này gần như không thể làm được nếu
không có sự giúp đỡ này, chúng ta có thể hiểu những khó khăn khác thường mà các
nhà tự nhiên học đã trải qua để mô tả, không có sự giúp đỡ của một sơ đồ, nhiều
mối tương đồng giữa các thành viên của hệ thống tự nhiên.
Sự tuyệt chủng, như chúng ta đã thấy trong chương IV, đã đóng
một vai trò quan trọng trong việc định nghĩa và mở rộng các khoảng giữa vài
nhóm trong mỗi lớp. Chúng ta có thể chỉ dựa vào đó để nhận thấy sự phân biệt
trong toàn bộ các lớp, của chim với tất cả các động vật có cánh khác bởi lòng
tin rằng nhiều dạng sống cổ xưa đã hoàn toàn biến mất, qua đó tổ tiên của loài
chim được liên kết với tổ tiên các loài có cánh khác. Các loài tổ tiên trung
gian giữa cá và ếch nhái thì không biến mất hoàn toàn như vậy. Ở đó đã vẫn còn
ít hơn trong vài lớp khác, ở các lớp khác, ví dụ như các loài giáp xác vẫn được
liên kết với nhau bởi một chuỗi tương đồng dài nhưng dễ vỡ. Sự tuyệt chủng giúp
phân ra các nhóm: không có phương tiện tuyệt chủng, vì các loài sống trên trái
đất này đều thình lình tái xuất hiện; mặc dù không thể định nghĩa được sự khác
nhau giữa các nhóm những có thể liên kết chúng với nhau như đã làm với các loài
từng tồn tại, bởi các bước tinh tế như giữa các biến dị hiện hữu tinh tế nhất,
tuy vậy một sự phân loại tự nhiên, hoặc ở mức sắp đặt tối thiểu trong tự nhiên,
là có thể. Chúng ta sẽ thấy điều này khi xem lại sơ đồ: các chữ cái, từ A đến
L, có thể đại diện cho 11 chủng Silurian, trong số đó có những chủng tạo ra các
nhóm con cháu biến dị lớn. Mỗi liên kết trung gian giữa một chủng này và cha mẹ
nguyên thủy của họ, và mỗi liên kết trung gian trong mỗi nhánh và mức dưới
nhánh của các con cháu của họ, có thể được giả thiết vẫn còn sống; và các mối
liên kết do đó trở thành tinh tế như mối liên kết giữa các biến dị tinh tế nhất.
Trong trường hợp này khó có thể đưa ra bất kỳ định nghĩa nào vì các thành viên
của vài nhóm có thể được phân biệt với cha mẹ của chúng ngay lập tức; hoặc với
tổ tiên cổ xưa và chưa biết đựoc biết đến của chúng. Vậy mà sự sắp đặt tự nhiên
trong sơ đồ vẫn còn tốt; và, trên nguyên lý của sự thừa kế, tất cả các con cháu
từ A, hoặc từ I, đều có những điểm chung. Trong một cái cây chúng ta có thể chỉ
rõ ra nhánh này hoặc nhánh kia, dù ở hai hướng khác nhau và ghép chúng lại cùng
nhau. Chúng ta không thể định nghĩa vài nhóm; nhưng chúng ta có thể chọn ra các
loại, hoặc các mẫu dạng, đại diện hầu hết đặc tính của mỗi nhóm, dù lớn hay nhỏ,
và từ đó đưa ra một ý tưởng chung về giá trị của những khác biệt giữa chúng.
Chúng ta sẽ chắc chắn không bao giờ thành công trong việc tạo ra một tập hợp
hoàn hảo; tuy vậy, chúng ta đang hướng tới trong phương thức này ứong các lớp
nhất định, và Milne Edwards đã nhấn manh rằng, qua tầm quan trọng của mỗi loài
chúng ta có thể phân loại chúng.
Cuối cùng, chúng ta đã thấy rằng quá trình chọn lọc tự nhiên
dẫn đến cuộc tranh đấu cho sự tồn tại, và tất yếu sẽ gây ra sự tuyệt chủng và
phân kỳ của đặc tính con cháu từ một loài cha mẹ trội - giải thích đặc tính phổ
biến và lớn đó trong các sự tương đồng của tất cả các thể hữu cơ, tức là, sự lệ
thuộc của chúng trong nhóm và dưới nhóm lại. Chúng ta sử dụng các yếu tố di
truyền trong việc phân loại các các cá thể của các giới tính lẫn của mọi lứa tuổi,
mặc dù có ít đặc tính chung của một loài; chúng ta sử dụng di truyền bên trong
phân loại ghi nhận các biến dị, tuy nhiên sự khác nhau chúng có thể từ cha mẹ;
và tôi tin rằng phần tử này của di truyền đã che giấu các mối ràng buộc mà bất
cứ nhà tự nhiên học nào tìm thấy trong hệ thống tự nhiên. Trên ý tưởng này về hệ
thống tự nhiên, được sắp đặt theo phả hệ trong của nó,' với các thứ bậc của sự
khác nhau giữa các con cháu từ một cha mẹ chung, được biếu thị bằng các chủng,
chi, họ, các thứ tự,... mà chúng ta có thể hoàn toàn biến mất, qua đó tổ tiên của
loài chim được liên kết với tổ tiên các loài có cánh khác. Các loài tổ tiên
trung gian giữa cá và ếch nhái thì không biến mất hoàn toàn như vậy. Ở đó đã vẫn
còn ít hơn trong vài lớp khác, ở các lớp khác, ví dụ như các loài giáp xác vẫn
được liên kết với nhau bởi một chuỗi tưcrng đồng dài nhưng dễ vỡ. Sự tuyệt chủng
giúp phân ra các nhóm: không có phưomg tiện tuyệt chủng, vì các loài sống trên
trái đất này đều thình lình tái xuất hiện; mặc dù không thể định nghĩa được sự
khác nhau giữa các nhóm những có thể liên kết chúng với nhau như đã làm với các
loài từng tồn tại, bởi các bước tinh tế như giữa các biến dị hiện hữu tinh tế
nhất, tuy vậy một sự phân loại tự nhiên, hoặc ở mức sắp đặt tối thiểu trong tự
nhiên, là có thể. Chúng ta sẽ thấy điều này khi xem lại sơ đồ: các chữ cái, từ
A đến L, có thể đại diện cho 11 chủng Silurian, trong số đó có những chủng tạo
ra các nhóm con cháu biến dị lớn. Mỗi liên kết trung gian giữa một chủng này và
cha mẹ nguyên thủy của họ, và mỗi liên kết trung gian trong mỗi nhánh và mức dưới
nhánh của các con cháu của họ, có thể được giả thiết vẫn còn sống; và các mối
liên kết do đó trở thành tinh tế như mối liên kết giữa các biến dị tinh tế nhất.
Trong trường hợp này khó có thể đưa ra bất kỳ định nghĩa nào vì các thành viên
của vài nhóm có thể được phân biệt với cha mẹ của chúng ngay lập tức; hoặc với
tổ tiên cổ xưa và chưa biết đựoc biết đến của chúng. Vậy mà sự sắp đặt tự nhiên
trong sơ đồ vẫn còn tốt; và, trên nguyên lý của sự thừa kế, tất cả các con cháu
từ A, hoặc từ I, đều có những điểm chung. Trong một hiểu các quy luật chúng ta
phải tuân theo khi phân loại. Chúng ta có thể hiểu tại sao phải đánh giá kỹ các
điểm giống nhau nhất định xa hơn các điểm khác; tại sao chúng ta sử dụng các cơ
quan vô ích và sơ khai, hoặc đặc tính sinh lý học nhỏ nhưng quan trọng; tại sao
trong việc so sánh một nhóm với một nhóm khác chúng ta thường loại bỏ các tương
tự hoặc các đặc tính được chấp nhận, và sử dụng các đặc tính đó cùng các đặc
tính bên trong các giới hạn của cùng nhóm đó. Chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng
tất cả các mẫu dạng đã tuyệt chủng và còn sống có thể được nhóm lại cùng nhau
trong một hệ thống lớn; và là tại sao vài thành viên của mỗi lớp được liên kết
với nhau bởi các chuồi sự tương đồng phức tạp nhất. Chúng ta có lẽ sẽ không bao
giờ thoát khỏi hệ thống các sự tương đồng giữa các thành viên của bất kỳ một lớp
nào; chúng ta có một đối tượng khác trong suy nghĩ, và không quan tâm đến kế hoạch
không bí mật của tạo hóa, chúng ta có thể hy vọng củng cố những chuyển biến dần
dần.
HÌNH THÁI HỌC
Chúng ta đã thấy rằng các thành viên của cùng lớp với các
thói quen độc lập của chúng trong cuộc sống, giống nhau trong kế hoạch chung của
tổ chức. Sự giống nhau này thường được biểu thị bởi khái niệm ' Đồng nhất về kiểu;’
Hoặc bởi việc nói rằng vài phần và các cơ quan trong các loài khác nhau của lớp
có cùng vị trí. Toàn bộ đề tài được gọi với tên chung là Hình thái học.
Đây là ngành học thú vị nhất của lịch sử tự nhiên, hay chính là linh hồn của
ngành này. Một khi mọi thứ được xây dựng trên cùng mô hình đó, và trong đó có
xương, được xếp vào cùng các vị trí, liệu cái gì có thể kỳ lạ hơn bàn tay đó của
con người, vừa có thể nắm chặt, vừa có thể đào bới để xây đê chắn sóng, so với
chân của con ngựa, vầy điều khiển của cá heo, và cánh của doi? Geoffroy St
Hilairdoi đã nhấn mạnh sự quan trọng cao của mối quan hệ tưomg đối giữa các vị
trí trong một cơ quan: các phần có thể thay đổi trong phạm vi của mẫu dạng và về
kích thước, và tuy thế chúng luôn luôn được nối cùng nhau trong cùng thứ tự đó.
Chúng ta không bao giờ tìm thấy, ví dụ, xương của cánh tay và tay, hoặc của bắp
đùi và chân, bị đổi chỗ. Xương của các loài tương tự nhau cũng sắp xếp tương tự
nhau. Chúng ta nhìn thấy quy luật lớn đó trong cấu trúc miệng sâu bọ: miệng con
sên có thể uốn thành hình xoắn ốc, con ong hoặc con rệp có thể gấp miệng lại,
và các quai hàm lớn của một bọ cánh cứng? Tuy tất cả các cơ quan này phục vụ
cho các mục đích khác nhau, đều được hình thành bởi vô số các biến dị của môi
trên, các hàm dưới. Quy luật tương tự cũng đúng với cấu trúc miệng và chân tay
của loài giáp xác và cả các cây hoa.
Không thể giải thích được sự giống nhau này của thành viên của
cùng lớp đó, bởi tính có ích hoặc bởi học thuyết về mục đích. Cuộc thử nghiệm
thất bại của Owen vẫn được chấp nhận bởi đây là công trình thú vị nhất của ông ấy.
Ông nói “ Dựa trên quan điểm về sự tạo thành độc lập của mỗi thể hữu cơ bình
thường, chúng ta chỉ có thể nói rằng; câú trúc của các động thực vật như vậy là
do ý Thượng đế”.
Theo lý thuyết của quá trình chọn lọc tự nhiên của các biến dị
nhỏ liên tiếp, mỗi sự cải biến và có lợi cho cá thể nhưng thường ảnh hưởng đến
tưomg quan trong của sự tăng trưởng của các bộ phận của tổ chức. Trong các sự
thay đổi của tự nhiên này, rất ít hoặc không có sự sửa đổi mẫu nguyên bản hoặc
đổi chồ các phần. Các xưcmg của chân tay có thể được rút ngắn và mở rộng tới bất
kỳ phạm vi nào, và dần dần được bao bọc trong màng dày, do đó vây cá; hoặc một
bàn chân có màng có thể có tất cả xương, hoặc một số xưomg nhất định, có thể
dài ra vì một mục đích nào đó: tuy thế số lượng những biến dị lớn sẽ không làm
thay đổi khung xương hoặc mối quan hệ tương đổi giữa các bộ phận. Nếu chúng ta
giả thiết tổ tiên cổ xưa của tất cả các động vật có vú, có chân tay có cấu trúc
giống các loài hiện nay do các mục đích khác nhau nên chúng ta có thể ngay lập
tức hiểu ý nghĩa rõ ràng của cấu trúc cùng vị trí chân tay của toàn bộ lớp. Do
đó với miệng của loài sâu bọ, chúng ta chỉ có thể nghĩ ràng tổ tiên chung của
chúng có một môi trên, hàm dưới. Các phần này rất đơn giản; quá trình chọn lọc
tự nhiên và sau đó sẽ tạo ra các biển dị vô hạn trong cấu trúc và hàm của miệng
của sâu bọ. Tuy nhiên rõ ràng là các đặc điểm của các chủng nếu bị dần mờ đi
thì cuối cùng sẽ mất hẳn bởi sự yếu ớt và cuối cùng bởi sự loại bỏ hoàn toàn
các phần nhất định, bởi sự ghép nối cùng nhau của các phần khác, và bởi sự gấp
đôi hoặc sự nhân lên của các bộ phận khác, các sự biến dị đều trong giới hạn
cho phép. Vòi điều khiển của các con thằn lằn biển khổng lồ đã tuyệt chủng, và
chất dính trong miệng loài giáp xác là những đặc tính đã mất đi.
Trên lý thuyết của quá trình chọn lọc tự nhiên, chúng ta có
thể thỏa mãn trả lời các câu hỏi này. Trong những loài có cánh, chúng ta thấy đốt
xương sống bên trong mang các quá trình và các phần phụ thêm nhất định; trong động
vật chân khớp, chúng ta thấy thân thể chúng được chia thành các đoạn, sinh ra
ngoài các phần phụ thêm; và trong các thứ cây có hoa, chúng ta nhìn thấy một đợt
của đường xoắn ốc vòng xoan liên tiếp. Một sự lặp lại bất định của phần đó hoặc
cơ quan là điển hình chung (như Owen đã quan sát) của tất cả các mẫu dạng có biến
đổi thấp hoặc nhỏ bé -bởi vậy chủng ta có thể sẵn sàng tin rằng tổ tiên của
loài có cánh sở hữu nhiều đốt xương sống; tổ tiên của loài chân khớp thì thân
có nhiều đoạn; và tổ tiên các thứ cây có hoa, đều có nhiều đường xoắn. Trước
đây chúng ta thấy các cấu trúc này liên tục lặp lại và tăng về số lượng; do đó
trong quá trình chọn lọc tự nhiên, trong thời gian đã dần biến đổi để thích
nghi với các mục đích đa dạng nhất. Và trong khi toàn bộ số lượng của các biến
dị đã được đem lại bởi các bước nhỏ liên tiếp, chúng ta không cần phải ngạc
nhiên khi khám phá ra trong các phần hoặc các cơ quan, có một sự giống nhau cơ
bản nhất định, được giữ lại bởi sức mạnh của nguyên lý thừa kế.
Các nhà tự nhiên học thường xuyên ghi nhớ các dạng biến hoá của
các động vật có đốt xương sống: Quai hàm của cua bể được biến thành các chân;
nhị hoa và các nhụy của các hoa dần mất đi; nhưng trong các trường hợp này có lẽ
là đúng hơn, như giáo sw Huxley đã nhận xét, khi nói cả đầu óc lẫn đốt xưcmg sống,
cả quai hàm lẫn các chân,... đều đã tiến hóa, không phải là một từ các bộ phận
khác, mà từ một phần từ chung nào đó. Tuy nhiên, các nhà tự nhiên học nói như vậy
theo nghĩa ẩn dụ: do thời gian dài của di truyền, các cơ quan nguyên thủy của bất
kỳ đốt xương sống nào đã được sửa đổi vào biến thành đầu óc hoặc quai hàm. Tuy
sự cải biến của tự nhiên này đã xuất hiện khá rõ, các nhà tự nhiên học đó khó
có thể tránh dùng ngôn ngữ bóng bẩy để thể hiện ý nghĩa rõ ràng này.
PHÔI SINH HỌC
Khi tình cờ xem xét một số cơ quan nhất định đó trong các cá
thể, phát triển nhằm các mục đích khác nhau, nhưng trong phôi thai chúng hoàn
toàn giống nhau. Các phôi thai của các động vật khác nhau trong cùng một lớp
thì thường tương tự nhau trong trường hợp của ấu trùng, các phôi thai phát triển
tích cực, và đã được làm cho thích nghi với cuộc sống đặc biệt. Sự giống nhau của
các phôi thai đôi khi kéo dài rất lâu. Nghĩa là các loài chim của cùng một giống
và các chủng họ hàng, thường giống trước hết là bộ lông; như chúng ta nhìn thấy
trong hoá thạch phôi thai chim hét có lông chim. Trong họ mèo, sư tử được phân
biệt rõ nhất. Tuy nhiên chúng ta hiếm khi nhìn thấy phôi thai bỏ đi của hoa kim
tước hoặc cây kim tước, của phyllodineous acaceas, thường giống nhau về lá mọc
đối.
Các điểm của cấu trúc, các phôi thai của các động vật khác
nhau của cùng lớp đó giống lẫn nhau, thường không có quan hệ trực tiếp đến các
điều kiện tồn tại của chúng. Chúng ta không thể, ví dụ, nghĩ rằng trong các
phôi thai của loài có cánh có các động mạch gần mang cá chẻ có liên quan đến
các qui định tương tự, ở động vật có vú sơ sinh được nuôi nấng trong dạ con của
mẹ, trong trứng của con chim được ấp trong tổ, và trong trứng của một ếch ở dưới
nước. Chủng ta phải tin tưởng vào điều đó, hơn là chúng ta phải tin rằng các
xương đó trong bàn tay của con người, cánh của một con dơi, và vây của một cá
heo, đều liên quan đến qui định tương tự của cuộc sống.
Phôi thai trong quá trình phát triển nói chung là có tổ chức.
Tôi ý thức vì khó có thể định nghĩa rõ ràng điều gì quyết định tổ chức cao hơn
hoặc thấp hơn. Nhưng không ai có thể tranh cãi xem con bướm thì phát triển cao
hơn sâu bướm. Trong vài trường hợp, động vật đã trưởng thành nói chung là được
xem là thấp hơn về quy mô so với phôi thai ấu trùng, với một số loài giáp xác
ký sinh nhất định ví dụ như loài hà: các ấu trùng trong giai đoạn đầu tiên có
ba cặp chân, một mắt đơn rất đơn giản, và một miệng, sau đó chúng tăng thêm nhiều
về kích thước. Trong giai đoạn thứ hai, giai đoạn nhộng của bướm, chúng có sáu
cặp chân xinh đẹp dùng để bơi lội, một cặp mắt lộng lẫy, và râu vô cùng phức tạp.
Khi cấu trúc này được hoàn thành chúng sẽ cố định cho cuộc sống: chân của chúng
được chuyển đổi vào trong các cơ quan có thể bắt; miệng chúng cũng có cấu trúc
hoàn chỉnh; nhưng chúng có không có râu và hai mắt biến trở lại thành một đốm mắt
đơn. Như vậy con hà có thể được coi là động vật bậc thấp hơn so với cấu trúc.
Nhưng trong các chủng khác ấu trùng lại có cấu trúc bình thường, hoặc nhập vào
cái mà tôi gọi là các con đực complemental và trong đó, sự phát triển chắc chắn
sẽ thụt lùi; vì con đực là một chỉ là bao tải, sống một thời gian ngắn, và
không có miệng, dạ dày, hoặc cơ quan quan trọng khác, trừ cơ quan sinh sản.
Chúng ta đã quen nhiều với vậy việc xem xét sự khác nhau
trong cấu trúc giữa phôi thai và loài trưởng thành, và sự giống nhau giữa các
phôi thai của các động vật rất khác nhau được phân loại, chúng ta có thể đưa ra
các dẫn chứng về vấn đề này. Nhưng hiển nhiên không có lý do tại sao cánh của
con dơi, hoặc vây của cá heo, không cần lộ ra ngoài với tất cả các phần trong tỉ
lệ thích hợp, ngay khi bất kỳ cấu trúc nào có rõ ràng trong phôi thai. Và trong
vài nhóm của các động vật và các thành viên nhất định bên trong của các nhóm
khác, phôi thai không khác nhiều so với dạng trưởng thành: như Owen đã nhận xét
trường hợp con mực: “Không tiến hóa; đặc tính cephalopodic được biểu lộ lâu trước
khi các bộ phận của phôi thai được hoàn thành”; và một lần nữa trong con nhện,
“ở đó không gì là xứng đáng được gọi là tiến hóa”. Ấu trùng của sâu bọ, thích
nghi với các thói quen đa dạng và tích cực nhất, hoặc không hoạt động, được cha
mẹ cho ăn hoặc đặt trong môi trường dinh dưỡng thích hợp.
Rất khó để chúng ta có thể giải thích những dẫn chứng về phôi
sinh học, đó là sự khác nhau rất chung, nhưng không lớn trong cấu trúc giữa
phôi thai và thể trưởng thành; của các phần trong cùng phôi thai riêng lẻ đó,
mà cuối cùng không phục vụ cho các mục đích đa dạng, các phôi thai tăng trưởng
giống nhau; các phôi thai của các loài khác nhau bên trong cùng lớp đó, nói
chung giống nhau; cấu trúc của phôi thai không phải là thể hữu cơ có quan hệ gần
gũi đến điều kiện tồn tại của nó, nhưng phôi thai trở nên tích cực ở bất kỳ thời
kỳ nào của cuộc sống và phải nuôi dưỡng cho chính nó; phôi thai rõ ràng đôi khi
là một tổ chức bậc cao hơn hơấn động vật trưởng thành. Tôi tin rằng rằng tất cả
các dẫn chứng này có thể được giải thích dựa trên quan điểm của di truyền với sự
cải biến.
Có một giả thiết thường hay đặt ra, có lẽ từ các dị hình ảnh
hưởng phôi thai ở một thời kỳ rất sớm, mà là các biến dị tất yếu xuất hiện ở thời
kỳ đó. Nhưng chúng ta có ít bằng chứng về vấn đề này; rõ ràng là những người
chân nuôi gia súc như ngựa, và một số loài khác cũng không thể nói chính xác
cho đến lúc động vật được sinh ra, mẫu dạng cuối cùng sẽ ra đời. Chúng ta nhìn
thấy điều này rõ ràng trong con cháu của chính mình; chúng ta không thể luôn
luôn biết chúng sẽ cao hay thấp, hay có các đặc tính chính xác nào. Câu hỏi
không phải ở thời kỳ mà của cuộc sống luôn có biến dị, nhưng ở thời kỳ nào biến
dị đó hoàn toàn lộ ra ngoài. Sự biến dị sẽ do các yếu đố giống cái và giống đực
chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện sống của cha mẹ, hoặc tổ tiên của chúng. Tuy vậy
tác động chỉ ở thời kỳ rất sớm, thậm chí trước khi hình thành phôi thai, có thể
xuất hiện muộn trong cuộc sống; trong khi một bệnh di truyền, nếu đã xuất hiện
trong trong thế hệ trước sẽ được truyền lại cho con cháu. Hoặc một lần nữa, sừng
của thú nuôi lai đã bị ảnh hưởng bởi hình dạng sừng của cả hai giống cha mẹ. Vì
lợi ích của một động vật sơ sinh, nó còn trong dạ con của mẹ nó, hoặc trong trứng,
hoặc nó được nuôi nấng và bảo vệ bởi cha mẹ của nó, không phải là điều quan trọng
nếu hầu hết các đặc tính đều được nó hoàn toàn thu nhận từ khi còn bé hoặc khi
đã trưởng thành. Nó không ảnh hưởng, ví dụ, đến một con chim nếu có mỏ nó dài
hơn thì sẽ có nhiều thức ăn hơn, vì khi còn bé chúng được cha mẹ mớm mồi. Từ
đây, tôi kết luận, có thể do trải qua những cải biến liên tiếp, bởi các loài đã
thu nhận cấu trúc hiện hữu của nó, có thể điều này đã xảy ra bất ngờ ở một thời
kỳ sau này của cuộc sống; ví dụ chính qua những con vật nuôi của chúng ta.
Nhưng trong các trường hợp khác thật là khó có thể những biến dị này xuất hiện.
Các sự biến dị nhất định có thể chỉ xuất hiện ở các tuổi
tương ứng, ví dụ, đặc biệt trong sâu bướm, tổ kén, hoặc các trạng thái thành
trùng của bướm tằm; hoặc, lần nữa, trong sừng của thú nuôi trưởng thành. Nhưng
hơn thế, các sự biến dị này có thể có xuất hiện vào cùng một tuổi tương ứng ở
cha mẹ và con cái. Tôi không chỉ muốn nói đến các trường hợp bất biến; và tôi
có thể đưa ra rất nhiều trường hợp có biến dị đã xảy ra không ngờ ở một tuổi sớm
hơn ở con cái so với ở cha mẹ.
Hai nguyên lý này, nếu sự thật của chúng được chấp nhận sẽ,
(tôi tin rằng sẽ giải thích rằng tất cả xác định trong các dẫn chứng về phôi
sinh học). Nhưng trước hết chúng ta sẽ xem một vài trường hợp tương tự của các
biến dị vật nuôi. Một tác giả nào đó mà đã viết về loài chó, khẳng định rằng
chó săn và chó chăn cừu có vẻ khác nhau nhưng thật sự là các biến dị cơ quan hệ
gần gũi, và có lẽ thừa kế từ cùng loài hoang dã; theo những người chăn nuôi, chủng
khác nhiều so với cha mẹ chủng, đây là trường hợp xét đoán bằng mắt. Tôi nhận
thấy mà các con chó con đã thu nhận đầy đủ số lượng các khác biệt giữa cha mẹ
chúng. Như vậy, một lần nữa, tôi được nghe rằng con bê bò và ngựa đua non khác
nhiều so với các động vật này khi trưởng thành; điều này làm tôi ngạc nhiên, vì
tôi nghĩ đó có thể là sự khác nhau giữa hai dòng giống thuộc một lớp gây ra bởi
sự chọn lọc dân các giống nhập cư; nhưng việc này đã được đo tính cẩn thận. Tôi
nhận thấy các con ngựa non không có cách nào thu nhận đầy đủ số lượng của các
biến dị của cha mẹ chúng.
Các bằng chứng trên cho phép tối kết luận rằng vài loài bồ
câu nuôi đã thừa kế các đặc tính từ loài bồ câu hoang dã, khi so sánh bồ câu
non của nhiều giống, trong mười hai giờ sau khi chúng được sinh ra tôi cẩn thận
đo ti lệ của mỏ chim, chiều rộng của miệng, chiều dài của lỗ mũi và của mi mắt,
kích thước của bàn chân và chiều dài của chân và đuôi của loài hoang dã và cả vật
nuôi. Và chắc chắn là chúng được xếp và các chủng khác nhau và là sinh vật tự
nhiên. Một vài đặc tính sự khác nhau ví dụ, của chiều rộng của miệng khó có thể
được phát hiện ra dạng non. Nhưng có một ngoại lệ đáng đó là loài chim mặt ngắn
non rất khác với bồ câu núi non trong tất cả các tỉ lệ của nó trong khi chúng
giống nhau khi trưởng thành.
Hai nguyên lý trên giúp tôi giải thích các dẫn chứng về các
giai đoạn về sau của các phôi thai biến dị của vật nuôi. Những người sành lựa
chọn ngựa, chó và bồ câu khi chúng đã trưởng thành, chứng không khác mấy về chất
lượng và cấu trúc mong muốn sau này. Và các trường hợp cho thấy, đặc biệt là của
bồ câu, các sự khác nhau điển hình của giá trị mỗi dòng giống(lớp), được tích
lũy bởi sự chọn lọc con người nói chung không xuất hiện ở một thời kỳ sớm của
cuộc sống, và đã được thừa kế bởi con cái ở một cách tương ứng, cũng không phải
là thòi kỳ sớm. Nhưng trường hợp của chim bồ câu mặt ngắn, sau 12 giờ thu nhận
các tỉ lệ thích hợp của nó, cho thấy rằng đây không phải là quy luật phổ biến;
các sự khác nhau đặc trưng phải xuất hiện ở một thời kỳ sớm hơn hơn thông thờng,
hoặc, nếu không phải vậy thì cũng là một thời điểm tương ứng cha mẹ khi trưởng
thành.
Bây giờ chúng ta áp dụng các dẫn chứng này và hai nguyên lý ở
trên, mặc dù chưa được chứng minh. Chúng ta thử xem một giống chim, trên lý
thuyết của tôi là từ một loài cha mẹ nào đó, và vài loài mới sửa đổi thường
xuyên qua quá trình chọn lọc tự nhiên để thích nghi với các thói quen. Sau đó,
từ những bước biến dị liên tiếp đã xảy ra không ngờ ở một tuổi khá muộn, và đã
được thừa kế ở một tuổi tương ứng, con của các loài của giống mới giả định của
chúng ta sẽ có xu hướng biểu lộ sự giống nhau với các cá thể trưởng thành, đúng
như chúng ta đã thấy trong trường hợp của bồ câu. Chúng ta có thể mở rộng quan
điểm này tới toàn bộ họ, hoặc thậm chí phân loại. Các (kẻ) chi trước, ví dụ, giống
các các chân trong các loài cha mẹ, có thể trở thành các bàn tay sau khi tiến
hoá, cũng có thể thành chi điều khiển, cánh; và theo hai nguyên lý ở trên tức
là sự cải biến liên tiếp xảy ra không ngờ ở một tuổi khá muộn, và thể hữu cơ thừa
kế ở một tuổi muộn tương ứng, các chân tay trong các phôi thai của con cháu sẽ
gần giống loài cha mẹ của cha mẹ vì chúng chưa được sửa đổi. Nhưng trong các
loài mới riêng lẻ, các chi trước trong phôi thai sẽ khác các chi trước của động
vật đã trưởng thành; các chi đó đã cải biến ở một thời kỳ khá muộn của cuộc sống,
và đã được chuyển đổi thành các bàn tay, hoặc các chi điều khiển, hoặc các
cánh. Dù ảnh hưởng của việc liên tục sử dụng hoặc không sử dụng đến một bộ phận
có thể sẽ có trong việc sửa đổi một cơ quan những chủ yếu là ở động vật đã trưởng
thành, đã có đầy đủ sức mạnh của nó và phải tự kiếm sống; và các tác động như vậy
được tạo ra sẽ được thừa kế ở một tuổi tương ứng khi đã già đi. Trong khi đó
các động vật nhỏ sẽ không thay đổi, hoặc biến đổi với mức độ nhỏ hơn do các tác
dụng này.
Các cơ quan sơ khai, yếu ớt, hoặc bị loại bỏ - Các cơ quan hoặc
các phần trong các điều kiện lạ lùng này thường vô dụng, nói chung có rất nhiều
trong tự nhiên. Ví dụ, các con đực ban đầu đều có vú, hay như các cánh ngắn của
chim, hoặc ở rắn phổi bị teo đi, một số loài rán khác lại có các chi bị teo.
Vài trường hợp các cơ quan sơ khai vô cùng kỳ lạ; ví dụ, sự có mặt của răng
trong của thai nhi cá voi, nào khi và sự có mặt của răng, mà không bao giờ đâm
thủng ra ngoài lợi của.Đó là do nguyên tắc cơ sở răng có thể được phát hiện ra
trong mỏ chim của phôi thai một số con chim nhất định. Không gì có thể rõ ràng
hơn là các cánh của sâu bọ, được hình thành để bay nhưng đã giảm bớt về kích
thước.
Ý nghĩa của các cơ quan sơ khai thường khá hoàn hảo. Ví dụ có
các bọ cánh cứng của cùng giống đó ( và thậm chí của các cùng loài có cảnh giống
kích thước cánh của các loài họ hàng nhưng không phát triển đẩy đủ, giống như
vú ở các con đực. Các con bò cái nuôi trong nhà chúng ta thường có bốn vú trong
đó có hai vú bị teo đi, hai vú còn lại rất phát triển và cho sữa. Trong các cây
riêng lẻ cùng loài, các cánh hoa đôi khi xuất hiện như các cơ quan sơ khai, và
đôi khi ở trong một trạng thái được phát triển kỹ. Khi phân ra các giới tính
trong các cây Với, các hoa giống đực thường có một nhụy bị teo; và Kelreuter đã
phát hiện ra đó là do viêc phối giống giữa các cây giống đực với loài cây lưỡng
tính, trong con cái lai kích thước nhuỵ tăng lên hoàn toàn giống trong tự
nhiên.
Một cơ quan phục vụ được hai mục đích, có thể sẽ thành sơ
khai hoặc bị loại bcKnhường chỗ cho các cơ quan khác có ích hơn. Trong các cây,
nhụy sẽ cho phép các ống phấn hoa phát triển bảo vệ phấn hoa bên trong. Nhưng
trong họ hoa cánh kép, các hoa nhỏ giống đực, mà tất nhiên là không thể được thụ
phấn, có một nhụy trong một trạng thái sơ khai, các bộ phận khác phát triến tốt
và được bao phủ bởi các lông mao như trong các hoa cánh kép khác, nhằm quét phấn
hoa ra khỏi các nhụy hoa lân cận.
Do đó có thể nói, một cơ quan có thể trở thành sơ khai cho mục
đích thích hợp của nó, và được sử dụng cho một đối tượng khác. Ngoài ra còn có
các ví dụ tương tự khác.
Các cơ quan sơ khai trong cá thể của các loài phụ thuộc vào sự
thay đổi trong độ phát triển và trong các khía cạnh khác. Hơn nữa, các loài họ
hàng, mức độ sơ khai của các bộ phận cũng khá nhiều. Ví dụ như trạng thái cánh
của các con mối cái trong các nhóm nhất định. Các cơ quan sơ khai có thể bị loại
bỏ hoàn toàn; và điều này ngụ ý vì chúng ta thấy hoàn toàn không gìm thấy một
cơ quan nào đó trên một cơ thể vì nó đã biến mất. Đối với cây hoa mõm chó hầu
như không tìm thấy nhị hoa thứ năm; nhưng đôi khi lại có thể nhìn thấy. Trong
việc lần theo dấu vết các sự tương hợp của cùng bộ phận trong các thành viên
khác nhau của một lớp, không gì là chung hơn, hoặc cần thiết hơn, việc sử dụng
và khám phá ra các cơ quan sơ khai. Điều này được cho thấy trong các bản vẽ của
Owen đưa ra về xương đầu và xương chân của ngựa, con bò, con tê giác.
Đó là một dẫn chứng quan trọng về các cơ quan sơ khai, như
răng trong ví dụ nói trên và ở cá voi và loài ruminants, thường đợc phát hiện
ra trong phôi thai, nhưng về sau biến mất hoàn toàn bộ.Tôi tin rằng đây cũng là
một quy luật phổ biến mà một phần sơ khai của cơ quan lớn hơn tiếp tục được
chia ra trong phôi thai, hơn là trong thể trưởng thành; và ở cơ quan ở động vật
nhỏ ít sơ khai hơn, hoặc thậm chí không biết là đang trong độ sơ khai nào.
Bây giờ tôi sẽ trình bày về các nguyên nhân dẫn đến các cơ
quan sơ khai. Trong khi đó số các cơ quan là hoàn hảo thì những cơ quan sơ khai
này lại vô dụng và không còn giá trị nhiều cho sinh vật sở hữu nó. Trong các
công trình về lịch sử tự nhiên, các cơ quan sơ khai nói chung được nói là đã được
tạo ra vì mục đích làm cân đối, hoặc là theo đúng trật tự trong sơ đồ của tự
nhiên; “Nhưng điều này đối với tôi không thể giải thích các dẫn chứng đơn giản
nhất. Như vậy không lẽ vì các hành tinh quay tròn trong quỹ đạo xung quanh mặt
trời, các vệ tinh xung quanh các hành tinh này cũng chỉ có mặt vì mục đích của
sự đối xứng và hoàn thành sơ đồ của tự nhiên hay sao?” Một nhà sinh lý học nổi
tiếng cho rằng sự có mặt của các cơ quan sơ khai thực tế là sự dư thừa, hoặc có
hại tới hệ thống. Chúng ta có thể giả thiết sự hình thành các răng sơ khai
trong phôi thai con bê là do sự gia tăng nhanh chóng lượng vôi bài tiết ra? Dựa
trên quan điểm của di truyền với sự cải biến, nguồn gốc của các cơ quan sơ khai
thường đơn giản. Chúng ta có nhiều trường hợp xuất hiện các cơ quan sơ khai
trong các vật nuôi của chúng ta, ví dụ như đốt xương cụt thay cho đuôi thứ hai,
vết tích của một cái tai phụ, các sừng nhỏ trong các vật nuôi hoặc hoa của súp
lơ. Chúng ta thường nhìn thấy các cơ quan sơ khai trong các quái thai. Nhưng
tôi nghi ngờ rằng nếu đưa dù bất kỳ trường hợp có thể đặt trong một trạng thái
của tự nhiên của các cơ quan sơ khai, xa hơn nữa là các cơ quan sơ khai đó thể
được tạo ra; tôi nghi ngờ rằng liệu có phải tất cả các loài trong tự nhiên đều
đã từng trải qua các thay đổi đột ngột. Nhưng tôi tin sự đào thải đã dẫn đến việc
giảm dần dần của nhiều cơ quan, cho đến khi chúng trở về mức sơ khai, như trường
hợp mắt của các động vật sống ở các hang động tối, và cánh của chim sống ở các
hòn đảo ngoài khơi vì ít bay mà mất khả năng bay. Các cơ quan hữu ích sống
trong một số điều kiện nhất định có thể bị tổn thương khi thay đổi môi trường sống
ví dụ cánh của bọ cánh cứng sống bằng các hòn đảo nhỏ và biệt lập; và gặp quá
trình chọn lọc tự nhiên tiếp tục giảm bớt một cách chậm chạp các cơ quan, cho đến
khi nó được trở lại vô hại và ở trạng thái sơ khai.
Bất kỳ thay đổi về chức năng, có thể được đem lại bởi các biến
đổi nhỏ của quá trình chọn lọc tự nhiên; do đó một cơ quan theo thời gian thay
đổi các thói quen sống, vô ích hoặc có hại cho một mục đích, có thể dễ dàng được
sửa đổi và sử dụng cho mục đích khác. Hoặc cơ quan đó có thể được giữ chỉ cho một
trong các chức năng cũ của nó. Một cơ quan, khi trở thành vô ích, có thể là do
sự biến dị của nó không thể được kiểm tra bởi quá trình chọn lọc tự nhiên. Ở bất
kỳ thời kỳ nào của cuộc sống sự đào thải hoặc sự chọn lọc giảm bớt một cơ quan
nói chung khi thế hữu cơ đã trưởng thành và có các sức mạnh đầy đủ nguyên tắc sự
thừa kế ở các tuổi tương ứng sẽ tái sản xuất cơ quan trong trạng thái giảm của
nó ở cùng tuổi đó, và vậy thì sẽ ít khi ảnh hưởng hoặc giảm bớt nó trong phôi
thai. Từ đây chúng ta có thể hiểu các cơ quan sơ khai trong phôi thai tương đối
lớn hơn, và tương đối nhỏ hơn ở động vật trưởng thành. Nhưng nếu mỗi bước của
quá trình giảm bớt này sẽ được thừa kế, không phải ở tuổi tương ứng mà sớm hơn
cơ quan sơ khai có xu hướng bị mất toàn bộ, hay là đã bị loại bỏ hoàn toàn.
Nguyên tắc này đã được giải thích trong một chương trước, bởi nguyên liệu nào
hình thành bất kỳ phần nào hoặc cấu trúc, nếu không hữu ích cho người sở hữu chủng
sẽ được cất giữ như thời nó đã có từ xưa, điều này sẽ dẫn đến sự loại bỏ hoàn
toàn các cơ quan sơ khai.
Trong khi các cơ quan sơ khai có mặt trong mọi bộ phận của tổ
chức, thường tồn tại lâu dài, sẽ được thừa kế là điều chúng ta có thể hiểu được
dựa trên quan điểm phân loại theo phả hệ. Dựa trên quan điểm của di truyền với
sự cải biến, chủng ta có thể kết luận sự tồn tại của các cơ quan sơ khai là
không hoàn hảo, và vô ích, bị loại bỏ, như theo học thuyết bình thường của sự tạo
thành, có thể thậm chí đã được đoán trước, và có thể được tính toán theo bởi
các quy luật thừa kế.
Tóm tắt chương - Trong chương này tôi đề cập đến sự lệ thuộc
của các nhóm vào tất cả các cơ quan trong cơ thể; bản chất của mối quan hệ đó,
từ các thể hữu cơ đã tuyệt chủng hoặc còn sống được hợp nhất từ sự tương đồng
phức tạp trong một hệ thống; các quy luật và các khó khăn mà các nhà tự nhiên học
gặp phải trong việc phân loại giá trị của đặc tính, nếu phổ biến và không thay
đổi, rằng liệu sự quan trọng cuả các đặc tính sống còn cao hay của các đặc tính
nhỏ bé quan trọng hơn, sự đối lập trong những đánh giá tương tự giữa các đặc
tính được chấp nhận, và các đặc tính tương đồng; và các quy luật tương tự khác;
mọi thứ tự nhiên dựa trên quan điểm rằng của bậc cha mẹ chung của các mẫu loài
đều được nhà tự nhiên học xem xét như những loài có quan hệ gần gũi liên minh,
cùng với sự cải biến của họ qua quá trình chọn lọc tự nhiên, với các sự ngẫu
nhiên sự tuyệt chủng và sự phân kỳ của các đặc tính. Khi đánh giá quan điểm này
về sự phân loại, cần nhớ rằng các phần tử của di truyền thường được sử dụng
trong việc xếp hạng giới tính, tuổi, và ghi nhận những biến dị của loài đó, tuy
nhiên chúng có thể khác nhau trong cấu trúc. Nếu chúng ta sử dụng phần tử này
nhiều hơn, chắc chắn là sự giống nhau trong các thể hữu cơ, thì chúng ta sẽ hiểu
ý nghĩa của hệ thống tự nhiên: đó là sự sắp đặt theo phả hệ, với các thứ bậc của
sự khác nhau được đánh dấu bởi các thuật ngữ như biến dị, các loài, chủng, họ,
chi, và các lớp.
Trên quan điểm về sự di truyền của các biến dị, tất cả các dẫn
chứng lớn trong Hình thái học trở nên dễ hiểu, dù chúng ta xem xét các cơ quan
cùng vị trí, vì bất cứ mục đích, của các loài khác nhau của một lớp; hoặc cấu tạo
và vị trí của cùng một bộ phận trên các động vật và cây riêng lẻ.
Trên nguyên lý về các biến dị liên tiếp, ít, không tất yếu hoặc
nói chung xảy ra không ngờ ở một thời kỳ rất sớm của cuộc sống, và thể hữu cơ
thừa kế ở một thời kỳ tương ứng, chúng ta có thể hiểu phần lớn các dẫn chứng
trong Phôi sinh học; tức là, sự giống nhau trong một phôi thai riêng lẻ của
cùng một cơ quan, nào khi phát triển sẽ rất khác nhau cả về cấu trúc và hàm; và
sự giống nhau trong các loài khác nhau của một lớp, tuy nhiên là các cơ quan
trùng hợp của các thành viên trưởng thành cho các mục đích càng khác nhau càng
tốt. Larvae là các phôi thai tích cực, đã được sửa đổi trong quan hệ với các
thói quen của chúng trong cuộc sống, qua nguyên lý biển dị di truyền ở các thời
kỳ tương ứng. Khi các cơ quan giảm bớt về kích thước, hoặc do bị đào thải hoặc
chọn lọc, nói chung ở thời kỳ đó của cuộc sống khi thể hữu cơ phải có mong muốn
thừa kế những biến dị của chính mình trong các cơ quan nguyên thuỷ và sự loại bỏ
chúng, điều này đã không cho chúng ta thấy những khó khăn không thể giải nghĩa
được; ngược lại, sự có mặt của chúng thậm chí có thể được đoán trước. Sự quan
trọng của các đặc tính sinh lý và của các cơ quan sơ khai trong sự phân loại rất
dễ hiểu, dựa trên quan điểm sự sắp đặt tự nhiên là mang tính phả hệ.
Cuối cùng, theo các dẫn chứng đã được xem xét trong chương
này, tôi thấy rõ ràng có vô số các loài, chủng, và họ các thể hữu cơ, giống như
thế giới của con người, cũng có tất cả dòng dõi, các nhóm, từ cha mẹ chung, và
đã biến đổi trong quá trình di truyền,và tôi không ngần ngại gì khi chấp nhận
quan điểm này, dù nó không được ủng hộ bởi các dẫn chứng hoặc các lý lẽ khác.
CHƯƠNG XIV
tóm tắt và kết luận
Tóm tắt lại những khó khăn trong lý thuyết chọn lọc tự nhiên-
Tóm tắt những trường hợp tổng quát và cụ thể của lý thuyết trên- Nguyên nhân của
quan niệm chung về tính không thay đổi của loài- Mức độ phát triển của lý thuyết
về chọn lọc tự nhiên- Những tác động của việc áp dụng lý thuyết này trong
nghiên cứu về lịch sử tự nhiên- Một số kết luận.
Do cả tập sách này đều chỉ đưa ra một vấn đề duy nhất nên rất
thuận tiện cho người đọc khi tóm lược lại những dẫn chứng và kết luận chính.
Nhiều ý kiến phản đối yếu ớt lý thuyết này có thể được phát
triển dựa trên lý thuyết về nguồn gốc loài với những thay đổi thông qua chọn lọc
tự nhiên. Tôi không phủ nhận điều ấy. Tôi đã cố gắng tạo ra sức mạnh thật sự
cho những ý kiến này. Không có gì khó tin hơn việc các tổ hữu cơ và sinh vật
càng phức tạp càng hoàn thiện, không chỉ do phát triển ở mức cao hơn, ví dụ như
con người, mà còn do sự tăng lên của vô số các biến dị, thường là tốt cho các
cơ thể mang biến dị đó. Tuy nhiên, dù trong trí tường tượng của chúng ta, khó
khăn này là không thể vượt qua nhưng không thể coi đó là sự thật nếu chúng ta
thừa nhận những lý lẽ sau đây. Đó là sự phát triển dần dần tính hoàn thiện của
tất cả các thể hữu cơ và cá thể, vốn được chúng ta có thể coi như đã tồn tại hoặc
đang tồn tại; biến dị của tất cả các thể hữu cơ và cá thể dù chỉ ở mức độ nhỏ;
và cuối cùng là sự tranh đấu để tồn tại đã dẫn đến sự bảo tồn của những cấu
trúc và sinh vật. Tôi nghĩ, tính chân thực của những giả thiết này là điều
không cần phải tranh cãi.
Không nghi ngờ gì rằng rất khó để phỏng đoán mức độ hoàn thiện
của các sinh vật, đặc biệt là đối với những nhóm thể hữu cơ đã bị hỏng hoặc phá
vỡ; nhưng trong tự nhiên chúng ta có thể thấy rất nhiều dạng nâng cấp kỳ lạ, ví
dụ như những trường hợp được quy định theo tiêu chuẩn Natura non facit saltum.
Chính vì vậy cần hết sức thận trọng khi phát biểu rằng bất cứ loại thể hữu cơ
hay sinh vật nào, thậm chí là cả giới tự nhiên, sẽ không thể trở lại tình trạng
ban đầu sau rất nhiều bước nâng cấp. Nhưng phải thừa nhận rằng có nhiều trường
họp đặc biệt khó giải thích trong lý thuyết chọn lọc tự nhiên, và một trong những
tình huống khó khăn nhất đó là sự tồn tại của hai hoặc ba đẳng cấp đã được xác
định giữa kiến thợ và kiến chúa (có khả năng sinh sản) trong đàn kiến; nhưng
tôi đã cố gắng giúp người đọc biết cách khắc phục khó khăn này.
Xét về khả năng sinh sản của các loài khi lai ghép lần đầu
tiên, điều sẽ tạo ra sự đối lập về khả năng sinh sản của các thể lai khi lai
ghép, tôi phải nhắc lại với bạn đọc những kết luận đã được đưa ra cuối chương
VIII, trong đó nói khả năng sinh sản này chỉ là một đặc quyền hơn là sự vô sinh
của hai cây được ghép với nhau; nhưng đó là những khác biệt tình cờ hoặc ít có
giữa bộ máy sinh sản của hai loài lai ghép. Chúng ta có thể thấy tính đúng đắn
của kết luận này trong các kết quả rất khác nhau, khi hai loài giống nhau được
lai ghép qua lại; nghĩa là mồi loài sẽ lần lượt là bố, sau đó là mẹ trong các lần
lai ghép.
Khả năng sinh sản của thể lai khi được lai ghép và của các thế
hệ con cháu lai sau này không có kết luận tổng quát, do đó không có gì đáng ngạc
nhiên về khả năng sinh sản của chúng khi chúng ta nhớ rằng thể trạng cũng như bộ
máy sinh sản của chúng đã bị thay đổi đáng kế. Hon nữa, hầu hết thể loại đã được
thí nghiệm đều được sinh ra trong điều kiện được nuôi dưỡng; và vì sự thuần hoá
này có xu hướng sẽ triệt tiêu khả năng sinh sản nên chúng ta không thể hy vọng
kết quả sẽ là thể lai có khả năng sinh sản bình thường.
Khả năng sinh sản của thể lai rất khác so với loài được lai
ghép ban đầu, do các cơ quan sinh sản của chúng trở thành bất lực về chức năng;
trong khi ở thế hệ đi lai ghép đầu tiên, hệ thống này là hoàn toàn bình thường.
Do tế bào của tất cả các loài được nhận biết về khả năng sinh sản thông qua thể
trạng đã bị làm xáo trộn do những điều kiện sống mới hoặc đã có biến đổi, nên
thể trạng của chúng khó lòng không bị xáo trộn do sự kết hợp giữa các tổ chức
khác biệt nhau. Quan hệ song song này lại được hỗ trợ bởi một quan hệ song song
khác nhưng theo hướng ngược lại giữa các dẫn chứng; đó là sức mạnh và khả năng
sinh sản của tất cả các tổ chức tể bào được tăng lên do những thay đổi nhỏ
trong điều kiện sống của chủng, và do đó khả năng này của con cháu các thể lai
sau này được biến đổi chút ít. Do đó, những thay đổi đáng kể trong điều kiện sống
và sự lai ghép giữa những thể đã được biến đổi nhiều sẽ dẫn đến suy giảm khả
năng sinh sản. Sự thay đổi của điều kiện sống và các thể lai ghép càng ít thì
khả năng sinh sản càng lớn.
Quay trở lại sự phân bố tự nhiên, những khó khăn xuất hiện
trong lý thuyết về nguồn gốc của các biến dị đã đủ nghiêm trọng. Tất cả các cá
thể của cùng một loài, và tất cả các loài trong cùng một giống, hoặc thậm chí
trong các nhóm cao hơn, phải được sinh ra từ những bố mẹ bình thường; và từ đó,
dù ở bất kỳ vùng hẻo lánh hay biệt lập nào trên thế giới mà chúng tôi nghiên cứu,
chúng phải theo tiến trình mà các thế hệ nối tiếp nhau đã trải qua. Thường thì
chúng tôi không có khả năng đưa ra bất kỳ kết luận nào, dù chỉ là phỏng đoán về
tác động của hiện tượng này. Tuy nhiên, do chúng tôi có lý do để tin rằng một
vài loài đã có cùng cấu trúc chi tiết trong một thời gian dài, dài nhất có thể
tính theo năm, sẽ có rất nhiều sức ép đối với sự phổ biến rộng rãi vào từng thời
điểm của cùng một loài; trong một thời kỳ dài sẽ có nhiều cơ hội tốt cho sự di
cư ồ ạt bàng rất nhiều cách. Một dãy bị vỡ hoặc gián đoạn có thể thường được
cho là do sự tuyệt chủng của các loài ở các vùng trung gian. Không thể chối cãi
rằng chúng tôi vẫn chưa quan tâm đúng mức đến đầy đủ các khía cạnh của sự thay
đổi vô cùng về thời tiết và địa lý đã tác động đến trái đất trong thời kỳ hiện
đại; và những thay đổi này rõ ràng sẽ làm thay đổi về tình hình di cư của các
loài. Tôi đã đưa ra ví dụ để chứng minh sức ảnh hưởng của các yếu tố trên trong
thời kỳ băng hà đến sự phân bố của các loài hiện tại và một số loài đại diện
trên cả thế giới. Chúng tôi cũng bỏ qua rất nhiều các phương tiện vận chuyển tạm
thời. Xét về các loài khác nhau trong cùng một giống sống ở những khu vực biệt
lập, xa xôi, do quá trình biến đổi đã chậm lại đến mức cần thiết, tất cả các
phương tiện di cư sẽ trở thành có thể trong một thời kỳ rất dài; và kết quả là
sự khó khăn trong phân bố các loài trong cùng một giống sẽ giảm đi một mức độ
nào đó.
Do trong lý thuyết chọn lọc tự nhiên, một số lượng rất lớn
các thể trung gian phải là đã tồn tại, liên kết tất cả các loài trong từng nhóm
bằng cách thay đổi dần dần đến mức hoàn thiện như các thể lai ngày nay, người
ta có thể đặt ra câu hỏi sau: Tại sao chúng ta không thấy những thể liên kết
này ở xung quanh chúng ta? Tại sao không phải tất cả các thể hữu cơ không pha
trộn với nhau trong một thể hỗấn độn? Đối với những thể đang tồn tại, chúng ta
cần nhớ rằng chúng ta không có quyền hy vọng (trừ một số trường hợp hiếm hoi)
trực tiếp khám phá ra được mối liên kết giữa chúng, chỉ có thể là giữa từng
loài và một số thể đã bị tuyệt chủng. Ngay cả trên một diện tích rất rộng đã tồn
tại liên tiếp trong một thời gian dài, ở đó khí hậu và các điều kiện sống khác
thay đổi một cách vô tình từ một vùng bị chiếm lĩnh bởi một loài, chúng ta
không chỉ có quyền hi vọng thường xuyên tìm thấy những thể lai trung gian trong
các vùng trung gian. Vì vậy chúng tôi có lý do tin rằng chỉ có một số ít loài
đang trải qua quá trình biến đổi ở bất cứ thời kỳ nào; và tất cả các thay đổi
này đang có tác động một cách từ từ. Tôi cũng đã chỉ ra rằng các thể lai trung
gian lúc đầu có thể tồn tại ở các vùng trung gian sẽ có khả năng bị thay thế hở
những loài cùng giống, và những loài này, do tồn tại với số lượng lớn hơn, nói
chung sẽ bị biến đổi và cải thiện với tổc độ cao hơn so với các thể lai trung
gian; vốn có số lượng ít hơn. Vì vậy dần dần thể lai trung gian sẽ bị thay thế
và biến mất.
Theo lý thuyết về sự biến mất của một số lượng lớn các moi
liên kết, giữa những cư dân đang sống và đã bị tuyệt chủng của thế giới, và
trong từng giai đoạn nối tiếp giữa những loài đã bị diệt chủng và những loài cổ,
tại sao không phải tất cả những các cấu trúc địa lý đều có liên quan đến những
mối liên hệ này? Tại sao không phải tất cả các bộ sưu tập hoá thạch vẫn còn lưu
lại những bằng chứng rõ ràng về sự biến đổi dần dần và đột biến của các dạng sống?
Chúng tôi đã không tìm được những bằng chứng đó, và đó chính là lý do rõ ràng
và có uy lực nhất để tạo ra các ý kiến phản đối lý thuyết của tôi. Một lần nữa,
tại sao không phải tất cả các nhóm của những loài có quan hệ thân thuộc lại có
vẻ sẽ xuất hiện trong những giai đoạn khác nhau về địa lý? Tại sao chúng ta
không tìm ra những tầng địa lý khác nhau thời kỳ Silua, được lưu giữ cùng với tổ
tiên của những nhóm sinh vật hoá thạch của thời kỳ này? Tất nhiên, trong lý
thuyết của tôi, những tầng địa chất này phải ở đâu đó, đã lắng xuống cùng với tổ
tiên các sinh vật trên và dần thuộc về những thời kỳ không còn được ngày nay biết
tới.
Tôi có thể trả lời những câu hỏi trên và loại bỏ những ý kiến
phản đối về giả thuyết cho rằng các di tích địa lý còn lâu mới hoàn thiện được
như những gì các nhà địa lý học đã nghĩ. Điều này không thể bị bác bỏ ý kiến
cho là sẽ không có đủ thời gian cho bất cứ thay đổi hữu cơ nào, sau một khoảng
thời gian đã trở nên vô cùng lớn, vượt quá tầm hiểu biết của con người, số lượng
mẫu vật trong tất cả các bảo tàng của chúng ta gần như chẳng là gì nếu so với
vô số thế hệ của muôn vàn loài chắc chắn đã tồn tại. Chúng ta không nên tìm hiểu
một loài với tư cách là cha mẹ của bất cứ loài nào nếu chúng ra muốn nghiên cứu
loài đó thật kỹ, trừ khi chúng ta muốn có nhiều liên kết trung gian giữa quá khứ
hoặc cha mẹ của chúng với tình trạng hiện tại; và có nhiều mối liên hệ chúng ta
khó có hy vọng sẽ phát hiện ra, do sự không hoàn chỉnh của các di tích địa lý.
Một số cấu trúc trong vòng nghi vấn đang tồn tại có thể được gọi tên nghe như
tên các thể lai; nhưng ai sẽ giả sử được rằng trong tương lai, rất nhiều các mối
liên hệ giữa các hoá thạch sẽ được phát hiện, rằng các nhà tự nhiên học sẽ có
thể quyết định, dựa trên quan điểm chung, xem các thể nghi ngờ có phải là các
thể lai hay không? Người ta càng chậm phát hiện ra mối liên hệ giữa hai loài
càng lâu bao nhiêu thì càng đơn giản bấy nhiêu khi phân loại bất cứ quan hệ hay
thể lai trung gian nào như một loài khác. Chỉ một phần nhỏ của thế giới đã được
khám phá về mặt địa lý. Chỉ cỏ dạng hữu cơ của một sổ lớp sinh vật có thể được
lưu giữ dưới dạng hoá thạch. Các loài rất đa dạng, và các giống thì thường chỉ
là các giống địa phương, hai điểu này khiến cho việc xác định các mối liên hệ
trung gian trở nên khó hơn.Các giống địa phương sẽ không di cư sang các vùng
khác, dù là vùng lân cận hay xa xôi, cho đến khi chúng được cải tạo và biến đổi
một cách tương đối; và khi chúng đã di cư sang các vùng khác, nếu được phát hiện
ra dưới dạng các tầng địa chất, chúng sẽ có vẻ ngoài như thể xuất hiện bất ngờ ở
vùng đó, và sẽ được xếp vào các loài mới một cách đơn giản. Hầu hết các quá
trình hình thành đều bị gián đoạn khi bắt đầu phát triển, và tôi tin rằng tuổi
thọ của chúng ngắn hơn so với tuổi thọ trung bình của các loài cụ thể. Các dạng
địa chất khác nhau được phân tách bằng những khoảng trống thời gian khổng lồ; đối
với quá trình hình thành các hoá thạch đến mức đủ dầy để chống đỡ với sự xuống
cấp của đất trong tương lai chỉ có thể thực hiện ở những nơi nhiều trầm tích lắng
xuống vùng bờ biển. Vào thời điểm thay đổi thuỷ triều và lúc nước biển đứng
yên, tầng đất này sẽ trống. Khi mực nước biển không thay đổi các dạng sinh vật
sẽ đa dạng hơn, còn khi thuỷ triều thay đổi, sẽ có nhiều sinh vật biến mất.
về hiện tượng không có các dạng hoá thạch ở các tầng địa chất
Silua thấp nhất, tôi chỉ có thể đưa lại giả thuyết đã trình bày trong chương
IX. Nếu chúng ta nghiên cứu đủ lâu những khoảng lặng thời gian, địa lý học sẽ
chỉ ra rằng các loài đều có sự biến đổi, và chúng biến đổi đúng theo cách lý
thuyết của tôi đưa ra, tức là thay đổi một cách chậm chạp và dần dần. Chúng ra
có thể thấy rõ điều này qua những hoá thạch còn đến ngày nay, từ những quá
trình hình thành liên tiếp một cách đều đặn và có liên quan mật thiết với nhau,
hơn là từ những hoá thạch được hình thành trong những giai đoạn tách biệt nhau.
Tất cả những ý kiến phản đối và những khó khăn trên có thể được
đưa ra phản bác lại lý thuyết của tôi, và tôi đã tóm tắt lại những câu trả lời
để giải thích cho những thắc mắc đó. Nhưng cần phải đặc biệt lưu ý những sự phản
đối quan trọng hơn liên quan tới những vấn đề mà hiện nay chúng ta vẫn chưa chú
ý một cách đúng mức; chúng ta cũng không nói là chúng ta không quan tâm tới những
vấn đế đó. Chúng ta không biết tất cả các sự nâng cấp chuyển đổi có thể xảy ra
giữa những tổ chức hữu cơ đơn giản nhất và phức tạp nhất; không thể giả vờ là
chúng ta biết tất cả những phương tiện phân bố hết sức đa dạng trong suốt một
thời gian dài, hoặc giả vờ biết rằng các di tích địa lý không hoàn thiện đến mức
nào. Nhưng trong suy nghĩ của tôi, những khó khăn trên không thể phá hỏng lý
thuyết về di truyền có biến dị.
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét vấn đề dưới một góc độ khác.
Chúng tôi nhận thấy động vật được thuần hoá rất đa dạng. Điều này dường như là
do hệ thống sinh sản có mức độ dễ biến đổi cao trong các điều kiện sống; do đó
hệ thống này khi không bị bất lực sẽ không thể sinh ra những con cháu có dạng
giống như cha mẹ. Tính dễ thay đổi được quy định bở một số quy luật phức tạp bằng
mối tương quan của tăng trưởng, bằng việc sử dụng hay bỏ qua không sử dụng, và
bằng những tác động trực tiếp của các điều kiện vật chất của cuộc sống. Rất khó
để đánh giá mức độ biến đổi của vật nuôi, nhưng chúng tôi có thể yên tâm nói rằng
số lượng những biến đổi đó là rất lớn, và chúng được truyền từ đời này sang đời
khác trong suốt một thời gian dài. Chừng nào các điều kiện sống còn chưa thay đổi,
chúng ta có lý do để tin rằng sự biến đổi, vốn được di truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác, sẽ tiếp tục được di truyền cho một số không đếm được các thế
hệ nữa. Mặt khác, chúng tôi có bằng chứng về việc sự biến đổi nếu đã diễn ra một
lần thì sẽ không bao giờ ngừng; các giống mới đôi lúc vẫn được sinh ra bởi
chính các sinh vật đã được thuần hoá.
Con người trên thực tế không tạo ra tính hay biến đổi; anh ta
chỉ vô tình đưa các dạng hữu cơ vào những môi trường sống mới, sau đó các điều
kiện tự nhiên đã gây ra những biến đổi. Nhưng con người có thể và đang chọn lọc
các biến dị do tự nhiên mang lại, rồi nhân chúng lên theo cách mà mình mong muốn.
Anh ta có thể tự do sử dụng các biến dị này vì lợi ích và ham muốn của bản
thân. Anh ta có thể làm điều này theo đúng lý thuyết, hoặc cũng có thể làm một
cách vô thức bằng cách bảo tồn các cá thể có ích lợi nhất cho anh ta vào thời
điểm đó, không cần suy nghĩ đến việc thay đổi nòi giống. Có một điều chắc chắn
là anh ta có thể gây ra những tác động rất lớn tới đặc điểm của các giống thông
qua việc chọn lựa trong mỗi thế hệ những cá thể có ít khác biệt, vốn không có
ít giá trị đối với những người không nghiên cứu kỹ về sinh vật. Quá trình chọn
lọc này là một khâu quan trọng trong việc tạo ra những giống vật nuôi khác biệt
và có ích. Việc nhiều giống do con người tạo ra phần lớn có những đặc điểm của
các loài trong tự nhiên được thể hiện qua những nghi ngờ không được giải quyết
về việc liệu có phải đa số chúng là các giống hay là các loài không thuần chủng.
Hiện không có lý do rõ ràng nào giải thích cho việc các thành
phần hoạt động rất hiệu quả trong điều kiện được thuần hoá lại không làm được
như vậy trong tự nhiên. Trong quá trình bảo vệ các cá thể và nòi khỏe mạnh,
trong cuộc chiến không bao giờ chấm dứt để tồn tại. chúng tôi đã bắt gặp những
phương pháp chọn lọc mạnh và hiệu quả nhất. Cuộc đấu tranh để tồn tại rõ ràng
là kết quả của hiện tượng tăng lên theo cấp số nhân của tất cả các dạng hữu cơ.
Tỷ lệ tăng cao này có thể thấy được qua tính toán, qua những ảnh hưởng của sự
thay đổi giữa các mùa (đã giải thích ở chương III). Có nhiều cá thể được sinh
ra hơn là chết đi. Sự cân bàng về thức ăn sẽ quyết định cá thể nào sẽ sống và
cá thể nào bị tiêu diệt. Do các cá thể của cùng một loài sẽ phải cạnh tranh với
nhau nên cuộc chiến sinh tồn giữa chúng là khốc liệt nhất. Cuộc chiến giữa các
giống trong cùng một loài cũng vậy, sau đó là đến giữa các loài trong cùng một
họ. Nhưng cuộc chiến sẽ rất khốc liệt giữa các sinh vật thiểu số trong tự
nhiên. Lợi thế tối thiểu của mỗi sinh vật, dù ở bất cứ thời đại hay khí hậu nào
là chúng có thể cạnh tranh, hoặc thích nghi tốt hơn với những thay đổi về điều
kiện sống dù là nhỏ nhất, sẽ trở lại cân bằng.
Với những sinh vật có giới tính phân biệt, các cuộc đấu tranh
trong hầu hết các trường hợp đều là giữa các con đực để sở hữu con cái. Các cá
thể mạnh nhất, hay những cá thể chiến đấu thành công nhất trong các điều kiện sống
khác nhau, sẽ có nhiều con cháu nhất. Nhưng sự thành công sẽ phụ thuộc nhiều
vào các vũ khí đặc biệt hoặc các phưcmg tiện tự vệ, hoặc vào sự duyên dáng của
con đực, và một chút lợi thế sẽ mang lại thắng lợi.
Xét về địa lý thì rõ ràng là mỗi vùng đất đều đã trải qua những
biến đổi vật chất vô cùng to lớn, do đó chúng ta có thể hy vọng rằng các dạng hữu
cơ sẽ trở nên đa dạng trong tự nhiên, giống như cách khi chúng được nuôi trong
nhà. Và nếu có bất kỳ sự biến dị nào trong tự nhiên, đó sẽ là những dẫn chứng
không thể đếm hết nếu chọn lọc tự nhiên chưa được thực hiện. Người ta thường
đánh giá mà không dựa trên các căn cứ chính xác rằng khối lượng các biến dị
trong tự nhiên thì thường bị giới hạn. Con người mặc dù chỉ có thể tác động lên
các đặc điểm bên ngoài và không thường xuyên, nhưng trong một thời gian ngắn có
thể tạo ra những kết quả quan trọng bằng cách bổ sung những khác biệt của các
cá thể vào những sinh vật đang được thuần hoá, và tất cả đều phải thừa nhận rằng
ít nhất là có sự khác biệt giữa các các thể trong cùng một loài trong tự nhiên.
Nhưng bên cạnh những khác biệt này, tất cả các nhà tự nhiên học đều phải thừa
nhận rằng sự tồn tại của các giống mà họ cho là đủ khác biệt để được ghi lại
trong các công trình mang tính hệ thống. Không ai có thể đưa ra những sự khác
biệt rõ nét giữa sự các khác biệt đặc biệt và các giống hơi khác nhau, hay giữa
các giống khác nhau nhiều hơn và các loài nhở, và loài. Hãy quan sát những điều
này theo cách phân cấp các nhà tự nhiên học trong bộ máy đại diện ở châu âu và
Bắc Mỹ.
Vậy nếu chúng ta đang ở trong tình trạng hay biến đổi của tự
nhiên và có một tác nhân luôn sẵn sàng hoạt động và chọn lọc, tại sao chúng ta
không nghi ngờ rằng những sự biến đổi có ích cho con người, dưới những mối quan
hệ sống phức tạp, có thể được bảo tồn, tăng cường và thừa kế lại? Và nếu con
người có thể kiên nhẫn chọn lọc những giống có ích cho mình, tại sao tự nhiên lại
không thể làm như vậy đối với các sinh vật sống của mình trong các điều kiện sống
khác nhau? Giới hạn nào có thể đưa ra đối với sức mạnh này, có tác dụng trong một
thời gian dài và xem xét kỳ về thể chất, cấu trúc và thói quen của mỗi sinh vật
theo hướng thiên về cái tốt và loại bỏ những yếu tố xấu? Tôi không nhìn thấy bất
cứ hạn chế nào đối với sức mạnh này, trong việc áp dụng từ từ và hợp lý từng dạng
trong mối quan hệ phức tạp nhất của cuộc sống. Lý thuyết về chọn lọc tự nhiên đối
với tôi là đã khá phù họp, ngay cả khi chúng ta không xem xét những lý thuyết
khác. Tôi đã cổ tóm tắt một cách tương đối những khó khăn cản trở và những phản
đối, bây giờ chúng ta sẽ trở lại với những dẫn chứng đặc biệt và những lý lẽ ủng
hộ cho thuyết này.
Trên quan điểm loài chỉ là những giống đặc biệt và vĩnh cửu,
và rằng mồi loài lúc ban đầu tồn tại chỉ là một giống, chúng ta có thể thấy tại
sao không thể vẽ ra những ranh giới phân cách giữa các loài, thường được giả sử
là đã được tạo ra bằng các hoạt động sáng tạo đặc biệt, và các giống được biết
là đã được tạo ra từ các quy luật thứ cấp. Cùng quan điểm này, chúng ta có thể
hiểu quá trình này diễn ra như thế nào ở từng khu vực nơi rất nhiều loài trong
cùng một nòi đã được sinh ra, và nơi chủng lớn lên, nơi các nhóm loài trở nên
năng động, chủng ta có thể hy vọng rằng, như một quy luật chung, sẽ tìm thấy
các nhóm này vẫn đang hoạt động, và đây là trường hợp nếu các giống chỉ mới là
những loài đang phôi thai. Hơn nữa, các loài trong một nòi lớn hơn, có thể nuôi
dưỡng nhiều giống hoặc các loài đang phôi thai hơn sẽ giữ lại một mức độ nhất định
đặc điểm của các giống; do chúng khác nhau với số lượng những khác biệt nhỏ hơn
so với loài hay các nòi ít hơn. Các loài có quan hệ họ hàng gần với nhau về mặt
hình thức thuộc những nhóm nòi lớn hơn đã tự giới hạn lại về phạm vi, và chủng
tụ tập lại với nhau trong những nhóm nhỏ bên cạnh các loài khác. Có những mối
quan hệ lạ lùng dựa trên quan điểm rằng mỗi loài đã được tạo ra một cách độc lập,
nhưng rất dễ hiểu khi nói tất cả các loài ban đầu tồn tại dưới dạng các thứ.
Do tuỳ theo tỷ lệ sinh sản cấp số nhân của từng loài nên mỗi
loài sẽ có xu hướng tăng lên về số lượng; và vì những thế hệ con cháu đã bị biến
đổi của mỗi loài đều có thể tăng lên nhanh nên chúng sẽ trở nên đa dạng hơn về
thói quen và cấu trúc, do đó có thể chiếm lĩnh ngày càng nhiều khu vực trong cơ
cấu tổ chức của tự nhiên, và sẽ tạo ra trong chọn lọc tự nhiên khuynh hướng bảo
tồn tất cả các thế hệ sau khác nhau của tất cả các loài.
Trong khi mỗi loài có xu hướng tăng lên theo cấp số nhân quá
trình sinh sản của mình; và những biến dị của con cháu mỗi loài sẽ được phép
tăng thêm khi chúng trở nên đa dạng về thói quen và cấu trúc, và sẽ được phép
tiếp tục sinh sống ở những chỗ rộng rãi khác nhau trong môi trường thiên nhiên,
đây sẽ là một xu hướng không thay đổi trong chọn lọc tự nhiên để giữ gìn con
cái của bất kỳ loài nào. Từ đây trong thời gian không ngừng kéo dài của quá
trình tiến hoá, những sự khác nhau chút ít, điển hình của các giống trong cùng
một loài đó, sẽ có xu hướng tăng thêm những đặc trưng khác nhau lớn hơn của những
loài của cùng chủng đó. Sự tiến hóa đa dạng và mới tất yếu sẽ loại bỏ và tiêu
diệt những sự giống trung gian và già, ít tiến hoá hơn; và như vậy những loài
được trả lại trong một phạm vi nhận dạng và phân biệt rõ ràng. Những loài trội
trong những nhóm lớn hơn có xu hướng cho những dạng trội và mới; như vậy nhóm lớn
sẽ trở nên lớn hơn, và cùng lúc đó có sự phân biệt rõ ràng hơn về đặc tính.
Nhưng trong khi tất cả các nhóm không thể thành công trong việc tăng lên về quy
mô, vì trái đất không bảo vệ chúng, những nhóm trội hơn tiêu diệt những nhóm ít
trội hơn. Xu hướng này theo qui mô nhóm lớn lại tiếp tục tăng thêm về quy mô và
tách ra về đặc tính, cùng với sự ngẫu nhiên gần như tất yếu của sự diệt vong,
giải thích cho sự sắp đặt tất cả các dạng sinh vật, để nhóm lại những nhóm bị lệ
thuộc, tất cả bên trong một tầng đất rộng, mà chúng ta bây giờ vẫn nhìn thấy khắp
nơi xung quanh chúng ta, và đã phổ biến ở mọi nơi mọi lúc. Hiện tượng này của
các thể hữu cơ là không thể giải nghĩa được nếu chỉ hoàn toàn dựa trên lý thuyết
về sự tạo thành.
Vì chọn lọc tự nhiên diễn ra đơn lẻ thông qua tích lũy những
biến dị ít ỏi, liên tiếp, thuận tiện, nó có thể không tạo ra những cải biến lớn
hoặc đột ngột; nó có thể diễn ra từng bước chậm chạp và rất ngắn. Đây là quy luật
lệ của tự nhiên. Mỗi sự bổ sung mới mẻ nào cho kiến thức của chúng ta giúp
chúng ta suy nghĩ đúng đắn và chính xác hơn, trên lý thuyết đơn giản này. Chúng
ta có thể rõ ràng nhận thấy tại sao thiên nhiên, có rất nhiều các giống nhưng lại
có rất ít người phát hiện ra. Nhưng tại sao cần phải là một quy luật của thiên
nhiên nếu từng loài đều được tạo ra một cách độc lập. Điều này con người vẫn
chưa giải thích được.
Nhiều thực tiễn khác theo tôi có thể giải thích dựa trên lý
thuyết này. Những con chim, dưới hình dạng của chim gõ kiến, có thể đã được tạo
ra để bắt sâu bọ trên mặt đất; hay những con ngỗng vùng cao, không bao giờ hoặc
hiếm khi bơi, cần phải đã được sinh ra có màng chân; những con chim hét ra đời
để lặn và ăn côn trùng dưới nước; và chim hải âu ra đời với những thói quen và
cấu trúc phù hợp với cuộc sống của chim hải điểu hoặc chim Grebe.. và trong vô
số các trường họp khác. Nhưng trên quan điểm mỗi loài đều liên tục cố gắng tăng
thêm về số lượng, chọn lọc tự nhiên luôn luôn sẵn sàng thừa nhận những con cháu
đã biến đổi chậm chạp hoặc từ các vùng không thuận lợi về điều kiện tự nhiên,
những sự việc này loại bớt đi tính kỳ lạ của tự nhiên, thậm chí còn có thể đoán
trước được.
Trong khi chọn lọc tự nhiên diễn ra do sự cạnh tranh, nỏ chỉ
khiến những cư dân của mỗi nước được thích nghi trong quan hệ ở một mức nào đó
của sự hoàn thiện đối với nhóm của chúng, để chúng ta không cần cảm thấy ngạc
nhiên vì cư dân của bất kỳ một nước nào, mặc dầu trên quan điểm bình thường giả
thiết rằng chúng được đặc biệt tạo ra và làm cho thích nghi với điều kiện sống
của nước đó, và đã tiêu diệt và loại bỏ bởi những kẻ di cư từ những vùng đất
khác. Mà chúng ta cũng không nên cho rằng đó là điều gì kỳ diệu nếu tất cả các
sự dự tính trong tự nhiên không, trong khả năng xét đoán của chúng ta, tuyệt đối
hoàn thiện; và nếu một số trong chúng trái ngược với những ý tưởng của chúng ta
về sự tưorng thích. Chúng ta không cần phải tự hỏi về việc ngòi của con ong gây
ra cái chết cho chính bản thân chúng; ong đực được sản sinh nhiều như vậy chỉ để
làm một việc duy nhất rồi lại bị tiêu diệt bởi những chính chị, em gái tàn nhẫn
của chúng, sự lãng phí phấn hoa đáng ngạc nhiên của cây linh sam, ở lòng thù
ghét bản năng của con ong nữ hoàng đối với những con cái chính mình; ở việc nhộng
được cung cấp sự sống ngay trong cơ thể sâu bướm; và ở những trường hợp khác
tương tự như vậy khác. Thực tế, điều kỳ diệu là, trên lý thuyết chọn lọc tự
nhiên, có nhiều trường hợp hoàn hảo hơn nhưng chưa được phát hiện ra.
Những quy luật phức tạp và ít được biết đến điều khiển biến dị
cũng tương tự, như chúng ta có thể thấy, những quy luật điều khiển việc tạo ra
những dạng đặc biệt. Trong cả hai trường hợp điều kiện vật lý có vẻ đã gây ra
nhưng hiệu ứng trực tiếp nhưng nhỏ bé; vậy mà khi những biến dị này xâm nhập
vào bất kỳ khu vực nào, chúng thỉnh thoảng lại nhắc lại vài đặc tính của những
loài thích hợp với khu vực đó. Trong tất cả các giống và những loài, sự sử dụng
và sự không dùng đến có vẻ đã gây ra một vài hiệu ứng nào đó; khó có thể phản
bác lại những kết luận này khi chúng ta nhìn, ví dụ, những con thiên nga, có
cánh nhưng không bay được cũng sống trong điều kiện sống gần giống vịt nhà.
Trong cả các giống lẫn các loài, việc cùng tăng trưởng có vẻ đóng phần quan trọng
nhất, để khi một phần đã được tiến hoá những phần khác tất yếu sẽ tiến hoá
theo. Trong cả loài và giống sự đảo lộn các đặc tính mất đã lâu cũng thường xuất
hiện. Thật không thể giải nghĩa được nếu dựa trên lý thuyết của sự tạo thành là
sự xuất hiện thỉnh thoảng của vệt vằn trên vai và chân của vài loài ngựa và cả
trong những vật lai của chúng! Thật đơn giản khi lý lẽ này giải thích cho chúng
ta tin rằng những loài này đều thừa kế từ một tổ tiên chung, trong cùng một
cách, giống như các nòi bồ câu đã được sinh ra từ bồ câu núi và bồ câu xanh.
về quan điểm chung cho rằng mỗi loài được sinh ra một cách độc
lập, vậy tại sao những đặc tính đặc biệt, hoặc những đặc tính thiết yếu của các
loài cùng giống đó lại không giống nhau, thường là nhiều hơn so với những đặc
tính chung mà tất cả chúng đều có? Tại sao, ví dụ, màu của một bông hoa sẽ có vẻ
thay đổi theo giống của cùng một loài hoa, nếu những loài khác, giả sừ là được
tạo ra độc lập, có khác nhau về màu của hoa, hơn là nếu tất cả các loài của giống
cỏ hoa cùng một màu? Nếu loài chỉ là những biến dị đặc biệt của những đặc tính
đã trở thành vĩnh cửu, chúng ta có thể hiểu sự việc này; vì chúng đã thay đổi một
khi chúng rễ nhánh từ một tổ tiên chung trong những đặc tính nhất định, bởi đó
chúng đã đến và phân biệt đặc biệt với nhau; và bởi vậy đó là những đặc tính lặn
có vẻ dễ biến hơn những đặc tính chung đã được thừa kế mà không có sự thay đổi
trong một thời kỳ dài. Điều không thể giải nghĩa được dựa trên lý thuyết về sự
tạo thành là tại sao một bộ phận các loài trong một họ phát triển theo cách rất
khác thường và bởi vậy, như chủng ta có thể dễ dàng suy ra, tầm quan trọng lớn
của mỗi loài, nhất định phải là thông qua biến dị, nhưng theo quan điểm của
tôi, bộ phận này đã trải qua, do một vài loài đã rẽ nhánh từ một tổ tiên chung,
một số khác lại có xuất hiện những biến dị và tiến hoá mới, do đó chúng ta có
thể nói rằng bộ phận này nói chung là thể biến dị. Nhưng bộ phận này có thể
phát triển theo cách thức khác thường nhất, giống như cánh của dơi, và tuy thế
nhưng không biến dị hơn so với các dạng cấu trúc khác, nếu bộ phận này đã được
thừa kế trong một thời kỳ rất dài; nên trong trường hợp này nó sẽ đã được trả lại
không thay đổi bởi chọn lọc tự nhiên không ngừng kéo dài.
Xem xét vấn đề bản năng, điều tuyệt vời là chúng không gây ra
khó khăn lớn nào ngoài việc cấu trúc lại lý thuyết chọn lọc tự nhiên của những
biến dị liên tiếp, dù ít nhưng có lợi. Chúng ta có thể hiểu tại sao tự nhiên
phát triển từng bước một với những động vật khác nhau của cùng một lớp với một
vài bản năng của chúng. Tôi đã thử đưa ra nguyên lý tiến hoá đã dần ảnh hưởng
như thế nào đến kiến trúc đáng nể tổ ong. Thói quen, không nghi ngờ gì, đôi khi
đóng vai trò quan trọng trong việc sửa đổi những bản năng; trừ phi nó chắc chắn
không cần thiết, như chúng ta đã thấy, trong trường hợp của những sâu bọ trung
lập, chết đi mà không có con cháu nào để thừa kế những thói quen ngừng kéo dài.
Trên quan điểm cho ràng tất cả các loài cùng một chủng đều sinh ra từ một cha mẹ
chung, và đã thừa kế nhiều điểm chung, chúng ta có thể hiểu làm thế nào những
loài họ hàng đó, khi được đặt trong những điều kiện sống tương đối khác nhau,
mà vẫn gần như giữ nguyên được các bản năng đó; ví dụ, tại sao loài chim hét của
Mỹ Nam vẫn đắp tổ bằng bùn giống như tổ tiên của chúng ở Anh. Trên quan điểm về
việc bản năng đã dần được thu nhận thông qua chọn lọc tự nhiên chúng ta không cần
phải tự hỏi tại sao vài bản năng rõ ràng là không hoàn hảo mà vẫn được duy trì,
trong đó có cả những bản năng gây hại cho các loài khác.
Nếu loài chỉ là những giống lâu dài và được đánh dấu kỹ, thì
chúng ta có thể ngay lập tức thấy rằng tại sao con cháu của chúng lại vẫn tuân
theo những quy luật phức tạp đó theo đúng như mức độ của cha mẹ chúng, — Trong
việc thu hút lẫn nhau bởi sự lai giống liên tiếp chéo quá, và trong một vài đặc
điểm khác, “ và các thế hệ con lai của các biến dị cũng như vậy. Mặt khác, sẽ
là khá lạ lùng nếu những loài được sinh ra độc lập, và các biến dị đã đwược sản
sinh bởi quy luật thứ cấp.
Nếu chúng ta thừa nhận bản ghi địa lý không hoàn hảo tuyệt đối,
thì những sự việc ghi nhận được từ bản ghi, sẽ hỗ trợ cho lý thuyết di truyền của
sự tiến hoá. Những loài mới đã đạt đến những khoảng lặng chậm chạp và liên tiếp;
và số lượng các loài thay đổi, sau một khoảng thời gian dài tương đương như vậy,
trong các nhóm khác nhau thì khác nhau rẩt nhiều. Sự tuyệt chủng của những loài
và của những toàn bộ nhóm loài đã đóng vai trò nổi bật trong lịch sử của thế giới
hữu cơ, gần như tất yếu sẽ diễn ra theo nguyên lý chọn lọc tự nhiên; trong đó
những loài già cũ sẽ bị tiêu diệt và thay thế bởi các loài mới và tiến hoá hơn.
Không chỉ riêng từng loài đơn mà cả những nhóm loài sẽ không xuất hiện khi các
chuỗi loài bình thường bị gãy. Sự khuếch tán dần dần của những dạng trội, với
con cháu tiến hoá dần dần, tạo ra những dạng sống mới, sau một khoảng thời gian
dài, xuất hiện như thể là chúng đã thay đổi đồng thời trên khắp thế giới. Những
dấu tích hóa thạch còn lại của mỗi dạng địa chất ở mức độ trung gian giữa các đặc
tính của hóa thạch trong các tầng địa chất ở trên và ở bên dưới, thì đơn giản
được giải thích là do vị trí trung gian của chúng trong quá trình sụt lún. Thực
tế cho thấy tất cả các thể hữu cơ tuyệt chủng đều thuộc về cùng một hệ thống với
các thể hữu cơ gần đây, cùng rơi vào những nhóm trung gian, đi theo từ sự tồn tại
đến sự tuyệt chủng giống như cha mẹ chúng. Trong khi những nhóm đã thừa kế từ một
tổ tiên cổ xưa một số đặc tính chung, các thế hệ con cháu đi trước sẽ thường có
nhiều đặc tính trung gian hơn so với những con cháu về sau của nó; và như vậy
chúng ta có thể hiểu tại sao hóa thạch càng cổ, nó càng hay đứng trong mức
trung gian cao giữa các loài đang tồn tại với các nhóm có quan hệ họ hàng. Những
dạng gần đây nói chung thường được xem là, theo nghĩa nào đó, ở bậc cao hơn so
với tổ tiên và các loài đã tuyệt chủng; và chúng còn cao hơn cả những loài mà
chúng đã đánh bại trong quá trình tiến hoá. Cuối cùng, quy luật về sự chịu đựng
lâu dài của các loài có quan hệ họ hàng sống trên cùng một lục địa, ví dụ giữa
các loài thú có túi ở châu úc và ở Mỹ, và một số ví dụ khác — là rất dễ hiểu,
do đó trong cùng một vùng, những loài đang tồn tại và những loài đã tuyệt chủng
tự nhiên được liên kết bởi sự di truyền.
Xét về sự phân bố địa lý, nếu chúng ta thừa nhận trong một thời
gian dài đã diễn ra hiện tượng di trú từ phần này của thế giới này sang phần
khác, do điều kiện khí hậu và địa lý thay đổi và bàng rất nhiều các phương tiện
phân bổ, chúng ta có thể hiểu, theo lý thuyết di truyền của các biến dị, những
dẫn chứng cụ thể của hiện tượng phân bố địa lý. Chúng ta có thể thấy tại sao
luôn có sự song song giữa phân bố các thể hữu cơ cả không gian, và địa lý trong
cả thời gian; trong cả hai trường hợp những thể hữu cơ đã được kết nối với nhau
bởi mối ràng buộc về nguồn gốc phát sinh, và những phương tiện tiến hoá cũng
như thế. Chúng ta có thể thấy ý nghĩa của các dấu tích địa lý đã gây ấn tượng
cho mọi người khi đi qua, đó là, trong cùng một lục địa, trong cùng những điều
kiện đa dạng nhất, giữa nóng và lạnh, trên núi và dưới đồng bằng, trên những sa
mạc và ở những đầm lầy, hầu hết cư dân bên trong mỗi lớp địa chất đều có mối
liên quan rõ ràng với nhau; do chúng nói chung cùng là con cháu của cùng tổ
tiên và những loài đến sớm nhất. Cũng theo nguyên lý kẻ đến trước, kết hợp
trong đa số các trường hợp với sự tiến hoá, chúng ta có thể hiểu được, với sự
giúp đỡ của thời kỳ Băng giá, đặc điểm của một số ít cây nào đó, và các loài có
quan hệ gần với một số loài khác, trên hầu hết các đỉnh núi, dưới những điều kiện
khí hậu khác nhau nhất; và giống như vậy đối với những loài có quan hệ gần gũi
với các cư dân của biển ôn đói ở miền nam và miền bắc, mặc dù đã được phân tách
bởi biển ở giữa hai vùng nhiệt đới. Mặc dù hai vùng có thể có những điều kiện sống
về cơ bản là giống nhau nhưng chúng ta thường ngạc nhiên khi thấy cư dân của
chúng khác nhau khá nhiều, nếu chúng đã hoàn toàn tách biệt với nhau sau một thời
kỳ dài; vì quan hệ giữa các dạng hữu cơ là mối quan hệ quan trọng nhất của tất
cả các quan hệ, và vì hai vùng sẽ đã tiếp nhận những cư dân từ một địa điểm thứ
ba nào đó hoặc từ lẫn nhau, trong nhiều thời kỳ và với những tỉ lệ khác nhau,
quá trình tiến hoá ở hai vùng tất yếu sẽ diễn ra khác nhau.
về sự di cư, với những tiến hoá liên tiếp, chúng ta có thể hiểu
tại sao những hòn đảo ở đại dương cần phải có một số loài sinh sống trên đó,
nhưng những loài đó phải rất đặc biệt. Chúng ta có thể thấy rõ ràng tại sao những
động vật không thể vượt qua những không gian rộng của đại dương, ví dụ như ếch
và những động vật có lông vũ trên mặt đất, lại không thể sống ở những hòn đảo
ngoài khơi; và mặt khác, tại sao những loài dơi đặc biệt và mới, vốn có thể vượt
qua đại dương, lại thường có mặt ở những hòn đảo xa xôi với đất liền. Những dẫn
chứng như sự có mặt của những loài dơi đặc biệt, và sự thiếu vắng tất cả các động
vật có vú khác, trên những hòn đảo ngoài khơi, sẽ không thể được giải nghĩa
hoàn toàn nếu dựa trên lý thuyết về sự tạo thành độc lập.
Sự tồn tại của những loài có quan hệ gần gũi hoặc những loài
đại diện trong hai vùng bất kỳ nào, đều ngụ ý rằng, theo lý thuyết về sự di
truyền của các biến dị, do cả cha mẹ trước đó đều sống ở cả hai vùng; và chúng
ta gần như không nhận thấy rằng ở mọi nơi nhiều loài có quan hệ họ hàng gần gũi
sống ở hai vùng, vài loài đồng nhất chung của cả hai loài hiện vẫn còn tồn tại.
Ở bất cứ nơi nào xuất hiện nhiều loài có quan hệ họ hàng nhưng được phân biệt
rõ ràng, nhiều dạng và những biến dị đáng ngờ của cùng những loài đó cũng xuất
hiện. Đó là một quy tắc mang tính tổng quát cao trong đó cư dân của mỗi vùng sẽ
liên quan đến những cư dân ở vùng gần nhất mà từ đó các sinh vật nhập cư sinh
ra. Chúng ta nhìn thấy điều này trong gần như tất cả các thực vật và động vật ở
quần đảo Galapagos, của Juan Femandez, và ở những hòn đảo khác ở Mỹ thì có mối
quan hệ đặc biệt giữa các động thực vật ở đất liền; ở quần đảo Cape de Verde và
những hòn đảo châu Phi khác với lục địa châu Phi cũng có quan hệ như vậy. Phải
thừa nhận rằng những sự việc này không thể giải thích được nếu xét theo lý thuyết
của sự tạo thành.
Thực tế là, như chúng ta đã thấy, tất cả các thể hữu cơ trong
quá khứ và hiện tại đã cấu thành một hệ thống tự nhiên to lớn, nhóm này lệ thuộc
vào nhóm khác, và những nhóm đã tuyệt chủng thường đứng sau các nhóm mới đây,
là điều dễ hiểu nếu dựa trên lý thuyết chọn lọc tự nhiên với tính ngẫu nhiên của
sự tuyệt chủng và tính phân kỳ của các đặc tính. Cũng trên những nguyên tắc như
vậy mà chúng ta thấy được sự tương đồng của những loài và chủng bên trong mỗi lớp
phức tạp và quanh co ra sao. Chúng ta sẽ hiểu tại sao một số đặc tính nhất định
lại có ích hơn so với những đặc tính khác trong sự phân loại; tại sao, tuy
nhiên là những đặc tính đã được chấp nhận, mặc dù vô cùng quan trọng, lại hiếm
khi có được từ quá trình phân loại khó khăn; tại sao những đặc tính, tuy bắt
nguồn từ những bộ phận đơn giản, không mang lại lợi ích gì cho thể hữu cơ lại
thường là kết quả của quá trình phân loại bậc cao; và tại sao những đặc tính tự
nhiên lại là những đặc tính quý giá nhất của mọi thể hữu cơ. Những sự tương đồng
thực tế của tất cả các thể hữu cơ đều là do thừa kế hoặc do di truyền. Hệ thống
tự nhiên là một một sự sắp đặt phả hệ, trong đó chúng ta phải khám phá ra những
dòng di truyền bởi những đặc tính lâu dài nhất, tuy nhiên tầm quan trọng của
chúng đôi lúc không được chú ý đúng mức.
Khung xương của bàn tay của con người, cánh của con dơi, vây
của cá heo, và chân của con ngựa tương tự nhau, giống như vậy sổ đốt xương sống
cổ của hươu cao cổ và của voi, và vô số các dẫn chứng khác một lần nữa được giải
thích theo thuyết di truyền của những biến dị liên tiếp, nhỏ bé và và chậm. Tuy
nhiên, sự giống nhau về mẫu xương trong cánh và chân của một con dơi giống nhau
nhưng chúng được sử dụng cho những mục đích khác nhau, hoặc như càng và quai
hàm của con cua, trong những cánh hoa, nhị hoa, và nhụy của cùng một bông hoa,
cũng dễ hiểu nếu xem xét trên quan điểm tiến hoá dần dần của những phần hoặc những
cơ quan mà giống nhau trong tổ tiên ban đầu của mỗi lớp. Theo nguyên tắc các tiến
hoá dần dần không thường xuyên diễn ra vào các thời kỳ ban đầu, và nên quá
trình di truyền cũng không diễn ra sớm như vậy, rõ ràng chúng ta có thể hiểu tại
sao những phôi thai của những động vật có vú, chim, bò sát, và cá thường giống
nhau đến như vậy, nhưng dạng trưởng thành lại không giống nhau. Chúng ta có thể
không thắc mắc vì sao phôi thai của một động vật có vú hoặc chim thở bằng phổi
được phân biệt với những động mạch mang cá, do cá phải thở không khí hoà tan
trong nước, bởi hệ hô hấp phát triển tốt.
Sự đào thải, được hỗ trợ đôi khi bởi chọn lọc tự nhiên, sẽ
thường có xu hướng giảm bớt một cơ quan, khi nó đã trở thành vô ích do những
thói quen thay đổi hoặc do nhũng thay đổi về điều kiện sống; và chúng ta có thể
hiểu rõ điểu này dựa trên ý nghĩa của những cơ quan sơ khai. Nhưng sự đào thải
và chọn lọc nói chung sẽ diễn ra ở từng tạo vật, khi nó trưởng thành và tham
gia đầy đủ của vào cuộc tranh đấu sinh tồn, và như vậy trong thời gian ban đầu,
các cơ quan sẽ có một chút sức mạnh; từ đây cơ quan sẽ không là giảm nhiều hoặc
trở lại buổi ban đầu. Ví dụ, con bê đã có bộ răng, vốn không bao giờ cắt vào lợi
của hàm trên, bắt nguồn từ một loài tổ tiên có răng; và chúng ta có thể tin rằng,
số răng trong động vật trưởng thành đã giảm bớt, trong thời gian phát triển
liên tục, bởi sự đào thải hoặc bởi lưỡi và vị giác đã được điều chỉnh phù hợp bởi
chọn lọc tự nhiên; trong khi ở con bê vẫn còn răng mà không hề bị tác động bởi
chọn lọc hoặc sự đào thải, và trên nguyên lý sự thừa kế từ thời kỳ xa xưa đến
ngày nay. Trên quan điểm của mỗi thể hữu cơ và mỗi cơ quan riêng biệt đã được đặc
biệt tạo ra, không thể giải nghĩa hoàn toàn được cách phân chia, giống như răng
trong phôi thai con bê hoặc việc cánh dưới của một vài loài bọ cánh cứng bị teo
đi, nhất định là mang dấu ấn của sự vô dụng! Có thể nói rằng tự nhiên phải trải
qua nhiều đau đớn mới có thể phát triển được bởi những cơ quan sơ khai và bởi
những cấu trúc cùng vị trí, sơ đồ tiến hoá của tự nhiên, những thứ mà có lẽ
chúng ta không thể hiểu nổi.
Bây giờ tôi sẽ tóm tắt lại những sự việc và những ý kiến
chính đã hoàn toàn thuyết phục tôi rằng các loài đã thay đổi, và vẫn còn đang
thay đổi chậm chạp bởi sự bảo tồn và sự tích tụ những biến dị phù hợp. Tại sao
tất cả các nhà tự nhiên học nổi tiếng nhất và những nhà địa chất lại loại bỏ
quan điểm về tính có thể biến đổi của các loài? Không thể khẳng định rằng những
thể hữu cơ trong trong điều kiện tự nhiên lại không có sự biến đổi nào; cũng
không thể chứng minh rằng số lượng các biến dị trong một thời gian dài là có hạn;
không có sự phân biệt rõ ràng nào, hoặc có thể, được đưa ra giữa các loài và những
biến dị được đánh dấu kỳ. Không thể bảo tồn các loài khi lai ghép trở thành những
loài vô sinh, và khả năng sinh sản của các biến dị không thay đổi; hoặc sự vô
sinh đó là một dấu hiệu đặc biệt của tạo hoá. Niềm tin rằng các loài là những tạo
vật không thay đổi gần như là không thể tránh được do lịch sử của thế giới được
cho là chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn; và bây giờ nếu chúng ta đã chấp
nhận ý tưởng về sự thiếu sót của thời gian, chúng ta đã quá vội vàng đưa ra giả
thuyết mà không có sự chứng minh, cho rằng bản ghi địa lý hoàn hảo đến nỗi nó
có cung cấp cho chúng ta những bằng chứng rõ ràng về biến đổi của những loài nếu
đã từng xảy ra.
Nhưng nguyên nhân chính gây ra sự miễn cưỡng trong việc thừa
nhận một loài đã sinh ra loài khác và các loài được phân biệt rõ ràng với nhau,
đó là việc chúng ta luôn chậm trong việc thừa nhận bất kỳ sự thay đổi lớn nào của
tự nhiên vì chúng ta không nhìn thấy những liên kết trung gian. Khó khăn là nhiều
nhà địa chất cũng nghĩ như vậy, như Lyell đã từng nhấn mạnh rằng những vách đá
dốc đứng, những thung lũng mới được khai quật đều được hình thành bởi tác động
từ từ của sóng biển. Đầu óc chúng ta có lẽ không thể lĩnh hội hết ý nghĩa đầy đủ
của thời hạn của một trăm triệu năm; nó không thể làm tăng thêm những tác động
của các biến dị ít ỏi, nhưng được tích lũy qua vô số các thế hệ.
Mặc dù tôi hoàn toàn công nhận sự đúng đắn của quan điểm đưa
ra trong chương này dưới dạng chủ đề, nhưng tôi không hy vọng sẽ bị thuyết phục
các nhà tự nhiên học giàu kinh nghiệm, trong một thời gian dài, từ một quan điểm
của đối lập trực tiếp với quan điểm của tôi. Sẽ là rất dễ để che giấu sự không
hiểu biết của chúng ta dưới những cụm từ như “Kế hoạch của sự tạo thành”, “Sự
thống nhất của các thiết kế”... và để nghĩ rằng chúng ta đưa ra một cách giải
thích khi chủng ta chỉ tuyên bố lại cho rõ ràng một sự việc. Bất kỳ ai chỉ quan
tâm đến việc cân đo đong đếm những khó khăn chứ không phải cách giải quyết những
khó khăn đó chắc chắn sẽ phản bác lý thuyết của tôi. Một vài nhà tự nhiên học,
vốn có đầu óc linh hoạt, và những người đã bắt đầu nghi ngờ về sự bất biến của
các loài, có thể bị ảnh hưởng bởi chương này; nhưng tôi tin rằng trong tương
lai sẽ có những nhà tự nhiên học trẻ trung và tiến bộ, những người sẽ có thể
nhìn thấy cả hai mặt của vấn đề bằng cách nhìn khách quan.
Một vài nhà tự nhiên học nổi tiếng đã phát biểu về lòng tin của
họ rằng có một số loài trong mỗi chủng trên thực tế không phải là loài; nhưng
những loài khác thực tế, thì lại được độc lập tạo ra. Điều này đối với tôi có vẻ
là một kết luận lạ lùng. Phần lớn của những nhà tự nhiên học tự xếp một số loài
vào các nhóm dựa trên những đặc tính điển hình bên ngoài của những loài thật, họ
thừa nhận răng những đặc điểm đó đã được sản sinh do biến dị, nhưng họ từ chối
mở rộng quan điểm đó cho những loài có những đậc điểm hơi khác nhau. Tuy vậy họ
không giả vờ rằng họ có thể định nghĩa, hoặc thậm chí là giả thuyết, rằng loài
nào được sinh ra từ tự nhiên và loài nào được sinh ra bởi quy luật thứ sinh. Họ
thừa nhận biến dị như một trường hợp cụ thể, họ tự ý loại bỏ yếu tố này trong
các trường hợp khác, mà không đưa ra bất kỳ sự phân biệt nào giữa hai trường hợp.
Sẽ đến lúc cách suy nghĩ đó được coi là mù quáng. Nhưng liệu họ có thật sự tin
rằng trong vô số những thời kỳ nhất định lịch sừ, những nguyên từ cơ bản của
trái đất đã thình lỉnh chiếu sáng vào các mẫu vật mỏng manh hay không? Liệu họ
có tin rằng ở mỗi giai đoạn của sự tạo thành, có một cá thể hoặc nhiều cá thể sản
sinh? Liệu có phải nhiều loại những động thực vật được tạo ra như những quả trứng
hoặc hạt giống, là một cơ thể đầy đủ? Và trong trường hợp của những động vật có
vú, liệu có phải chúng được tạo ra như thức ăn từ dạ con của mẹ? Mặc dầu những
nhà tự nhiên học rất đúng mức yêu cầu có một giải thích đầy đủ cho những khó
khăn về khả năng có thể biến đổi của các loài, nhưng họ đã lờ đi toàn bộ đề tài
về sự xuất hiện đầu tiên của những loài mà họ thấy cần phải giữ kín.
Câu hỏi đặt ra là tôi sẽ mở rộng thuyết tiến hoá loài của
mình đến đâu. Câu hỏi này rất khó trả lời, vì các dạng sinh vật là rất đa dạng.
Nhưng một vài lý thuyết có thể được mở rộng rất xa. Tất cả các thành viên của một
lớp có thể được nối với nhau bởi những chuỗi tương đồng, và hoàn toàn có thể được
phân loại theo cùng nguyên lý đó, thành từng nhóm phụ thuộc để nhóm lại. Các
hóa thạch còn lại đôi khi cũng có xu hướng lấp đầy những khoảng giữa tồn tại những
thứ tự rất rộng. Những thể hữu cơ trong điều kiện sơ khai rõ ràng cho thấy có từng
tồn tại một loài tổ tiên hữu cơ phát triển hoàn thiện; và điều này tất yếu là
ngụ ý một số lượng khổng lồ những biến dị còn lại trong con cháu. Trong khắp cả
nhiều lớp cấu trúc có mẫu như nhau, trong thời kỳ phôi thai những loài gần gũi
thì giống nhau. Bởi vậy tôi không nghi ngờ lý thuyết về sự di truyền đã bao
trùm tất cả hiện tượng trên. Tôi tin rằng những động vật đó được thừa kế ít nhất
là từ bốn hoặc năm tổ tiên.
Sự tương đồng cũng dẫn tôi đến một suy nghĩ mới, đó là, tất cả
các động thực vật có bắt nguồn từ một nguyên mẫu nào đó. Nhưng tính tương đồng
có thể là một hướng dẫn không đáng tin cậy. Tuy vậy tất cả các sinh vật có nhiều
điểm chung, trong sự cấu trúc hóa học của chúng, cấu trúc tế bào của chúng, và
những quy luật về sự tăng trưởng và sinh sản của chúng. Chúng ta thấy rằng
trong một điều kiện chật hẹp, một chất độc nào đó thường có ảnh hưởng đếấn động
thực vật như nhau; hoặc chất độc đó cất cẩn thận trong những túi tạo ra những
phát triển quái dị cây hoa hồng hoang hoặc cây sồi. Bởi vậy tôi suy ra rằng
tính tương đồng mà có lẽ tất cả các thể hữu cơ đã từng sống trên trái đất này đều
là thừa kế từ một mẫu nguyên thủy nào đó, vào ngay những cơ thể hấp thụ chúng đầu
tiên.
Khi những quan điểm nêu ra trong chương này về nguồn gốc của
các loài, hoặc các quan điểm tương tự nói chung được thừa nhận, chúng ta có thể
lờ mờ nhìn thấy trước rằng đó sẽ là một cuộc cách mạng đáng kể trong lịch sử tự
nhiên. Các nhà nghiên cứu hệ thống sẽ có thể tiếp tục theo đuổi công việc của họ
như hiện nay; nhưng họ sẽ không ngừng thắc mắc rằng liệu mẫu dạng này và mẫu dạng
đó thực chất là một loài. Tôi cảm thấy chắc chắn từ kinh nghiệm của bản thân rằng
sẽ không dễ dàng tìm ra câu trả lời. Các nhà nghiên cứu hệ thống sẽ chỉ phải
quyết định (nếu không có việc này mọi việc sẽ dễ dàng hơn) xem liệu một loài bất
kỳ nào có khác biệt hoàn toàn so với các loài khác không, từ đó đưa ra định
nghĩa; và nếu có thể định nghĩa, thì liệu những sự khác nhau đó có đủ quan trọng
để có một tên gọi đặc biệt. Điểm mới này sẽ trở thành là một ý kiến quan trọng
hơn nhiều hơn nó hiện nay; đối với sự khác nhau, dù rất nhỏ giữa bất kỳ hai
loài nào, nếu không hòa hợp bởi những chuyển biến trung gian từ từ, thì sẽ được
xem xét bởi đa số các nhà tự nhiên học đế nâng cả hai loài này trong dãy các
loài. Từ nay trở đi chúng ta phải bắt buộc thừa nhận sự phân biệt duy nhất đó
giữa những loài và những biến dị được đánh dấu kỹ. Mà các biến dị được biết đến,
hoặc được tin là, được nối với hiện tại bởi những thay đổi từ từ trung gian, giống
như các loài trước đây. Từ đây, không cần xem xét sự tồn tại của những biến đổi
từ từ trung gian giữa bất kỳ hai loài nào, chúng ta sẽ xem xét cẩn thận hơn và
đánh giá cao hơn số lượng thực tế những khác biệt giữa các loài. Có khả năng là
những loài bây giờ nói chung được ghi nhận đơn thuần là những biến dị từ nay trở
đi có thể sẽ được xứng đáng với những cái tên đặc biệt, như cây hồng dại và cây
hoa ngọc trâm; và trong trường hợp này các tên chung và tên khoa học sẽ thống
nhất với nhau. Nói một cách ngắn gọn, chúng ta sẽ nhìn nhận các loài giống cách
các nhà tự nhiên học nhìn nhận các chủng vậy, họ thừa nhận rằng chủng là sự kết
hợp không tự nhiên có lợi cho nhau. Điều này có thể không là một viễn cảnh vui
vẻ; nhưng chúng ta ít nhất cũng sẽ được giải phóng khỏi việc tìm kiếm vô ích những
đặc điểm chưa được khám phá của các loài.
Những bộ môn khác của ngành lịch sử tự nhiên phát triển lên
nhiều trong sự quan tâm của mọi người. Những khái niệm các nhà tự nhiên học sử
dụng như sự tương đồng, mối quan hệ, nhóm kiểu, mô hình, hình thái học, những đặc
tính được thừa nhận, những cơ quan sa sẩy và sơ khai,., sẽ không chỉ mang tính
trừu tượng mà sẽ có ý nghĩa rõ ràng. Khi chúng ta không còn quan tâm đến việc
nhìn nhận các thể hữu cơ theo cách quan sát một con tàu bình thường, như nhìn
những gì ngoài tầm hiểu biết của chúng ta; khi chúng ta lưu tâm tới các tạo vật
của tự nhiên như một cá thể có lịch sử phát triển; khi chúng ta xem xét các cấu
trúc và bản năng phức tạp giống như tổng của các cấu trúc đơn giản và hữu ích
cho sinh vật sở hữu nó, gần giống cách khi chúng ta xem bất kỳ phát minh cơ khí
lớn nào là sự nâng cấp của lao động, kinh nghiệm, lý lẽ và thậm chí là những
sai lầm ngu ngốc của nhiều công nhân; khi nào chúng ta nhìn các thể hữu cơ như
vậy, tôi nói điều này từ kinh nghiệm của bản thân, rằng ngành nghiên cứu lịch sử
tự nhiên sẽ trở nên thú vị hơn nhiều.
Một lĩnh vực gần như chưa có dấu chân người và nhất định sẽ
được mở, dựa trên những nguyên nhân và quy luật tiến hoá, về tương quan tăng
trưởng, trên những ảnh hưởng của việc sừ dụng và sự đào thải, của tác động trực
tiếp của những điều kiện bên ngoài và những thứ tương tự. Việc nghiên cứu những
cây trồng vật nuôi trong nhà sẽ có giá trị to lớn. Một giống mới đang được nuôi
trồng sẽ là đề tài quan trọng và thú vị hơn nhiều so với việc nghiên cứu thêm nữa
những loài đã có vô số trong tự nhiên. Sự phân loại của sẽ dẫn đến khoa học phả
hệ học; và rồi sẽ đưa ra được chính xác cái gọi là “kế hoạch của sự tạo thành”.
Những quy tắc phân loại không nghi ngờ gì sẽ trở nên đơn giản hơn khi trong suy
nghĩ của chúng ta có một đối tượng xác định. Chúng ta không sở hữu bất cứ nòi
giống nào; và chúng ta phải khám phá và lần theo vô số các sự phân nhánh phả hệ
học tự nhiên của chúng ta, bằng những đặc tính của bất kỳ loại nào đã được thừa
kế. Những thể hữu cơ sơ khai sẽ nói lên được một cách chính xác của những cấu
trúc mất đã lâu trong tự nhiên. Những loài và những nhóm loài có thể được gọi
là hóa thạch sống, sẽ giúp chúng ta trong việc hình thành một bức tranh loài cổ
xưa của cuộc sống. Phôi sinh học sẽ để lộ cho chúng ta biết cấu trúc, có thể là
không hoàn chỉnh trong một mức độ nào đó, của những nguyên mẫu của mỗi lớp loài
lớn.
Khi chúng ta có thể cảm thấy đảm bảo rằng những cá thể trong
cùng một loài, và tất cả các loài có quan hệ mật thiết trong cùng một chủng đều
cùng bắt nguồn từ một tổ tiên, và đã di cư đến từ cùng một vùng, và khi chúng
ta biết rõ hơn các phương tiện phân tán, nhờ những tiến bộ của ngành khoa học địa
chất, sẽ tiếp tục tìm được những thay đổi của khí hậu và của mức đất, chủng ta
chắc chắn sẽ được phép lần theo dấu vết sự di trú của những cư dân của toàn thế
giới. Thậm chí hiện nay, bảng cách so sánh những khác biệt giữa những sinh vật
sinh sống dưới biến và trên cạn, và bản chất của nhiều cư dân của lục địa đó
trong mối quan hệ với các phương tiện phân bổ có thể giúp hiểu thêm nhiều điều
về địa lý trong quá khứ.
Khoa học địa chất cao quý mất đi sự chính xác của nó là do sự
không hoàn hảo của các bản ghi địa lý. Lớp vỏ cứng của trái đất và những phần
đã bị chìm lấp của nó còn lại cần phải được xem như một bảo tàng tương đối đầy
đủ, nhưng vẫn có những khoảng trống. Sự tích luỹ một khối lượng lớn các dạng
hóa thạch sẽ được xem là phụ thuộc vào sự trùng khớp khác thường của các hoàn cảnh
sống, và những khoảng để trống giữa giai đoạn liên tiếp có thể là những khoảng
thời gian rộng lớn. Nhưng chúng ta nên thận trọrig khi đánh giá khoảng thời
gian của những khoảng này khi so sánh với các dạng địa chất của các giai đoạn
trước và sau đó. Chúng ta phải thận trọng trong việc cố gắng liên kết chính xác
hai dạng địa chất, bao gồm một ít loài đồng nhất, vì sự những đặc điểm chung được
thừa hưởng lại của những loài này. Trong khi những loài được sản sinh và tiêu
diệt một cách từ từ bởi những loài hiện vẫn đang tồn tại và trong khi điều quan
trọng nhất của tất cả các nguyên nhân thay đổi hữu cơ gần như độc lập của những
biến đổi thình lình về điều kiện vật lý, tức là, quan hệ lẫn nhau của cơ quan của
các thể hữu cơ, sự tiến hoá của thể hữu cơ ảnh hưởng đến sự tiến hoá hoặc diệt
vong của những loài khác; theo đó, số lượng hóa thạch hữu cơ những lớp địa chất
liên tiếp thay đổi cỏ lẽ là để đo lại những khoảng sai lệch về thời gian. Một số
loài, tuy nhiên, tiếp tục tồn tại mà không thay đổi gì trong một thời gian dài,
trong khi một số loài khác do phải canh tranh để tồn tạo nên đã có những biến đổi
nhất định; do đó chúng ta không được đánh giá quá cao sự chính xác về những biến
đổi hữu cơ như là cách ghi lại thời gian. Trong thời kỳ ban đầu của lịch sử
trái đất, khi các sinh vật còn ít hơn và có lẽ đơn giản hơn, nhịp độ thay đổi
có lẽ chậm hơn ; và vào lúc bình minh đầu tiên của cuộc sống, khi có ít loài có
cấu trúc đơn giản nhất tồn tại, nhịp độ thay đổi thậm chí còn chậm hơn. Toàn bộ
lịch sử của thế giới như vẫn được biết mặc dù dài một cách khá khó hiểu nhưng từ
nay trở đi sẽ trở nên dễ dự đoán như một giai đoạn nhất định mà thôi, so sánh với
những kỷ nguyên mà những tạo vật đầu tiên, tổ tiên của vô số các loài đã tuyệt
chủng và con cháu chúng, được tạo ra.
Trong tương lai xa tôi có thể nhìn thấy những khoảng trống
dành cho những nghiên cứu quan trọng hơn. Tâm lý học sẽ được phát triển trên cơ
sở một nền tảng mới, đó là sự thu lượm năng lực trí tuệ cần thiết và khả năng
thích ứng do những thay đổi diễn ra từ từ. Nguồn gốc và lịch sử loài người sẽ
được soi sáng.
Những tác giả nổi tiếng nhất có vẻ hoàn toàn bằng lòng với
quan điểm rằng mỗi loài đã được tạo ra một cách độc lập. Tôi cũng đồng ý rằng
những gì chúng ta biết về những quy luật gây ấn tượng về vấn đề trên, các loài
đã xuất hiện và tuyệt chủng trong quá khứ và sự tồn tại của các sinh vật cư trú
của thế giới, vì sự sống chết của mỗi cá thể đã được xác định. Khi tôi xem xét
tất cả các dạng ngoài những dạng địa chất đặc biệt, nhưng trong khi những con
cháu dòng họ của ít hiện thân nào đó sổng ước ao trước cái giường đầu tiên của
kỷ Silurian đã được đặt, chúng có vẻ từ tôi tớ trở thành quý tộc. Xét đoán từ
đã qua, Chúng ta có thể yên tâm suy ra rằng không phải là sự sống của các loài
sẽ truyền cho con cháu mà không thay đổi trong một tương lai xa. Và những loài
bây giờ đang tồn tại ít nhiều gì sẽ truyền cho con cháu bất kỳ loài nào tới
trong một tương lai xa; theo cách mà trong đó tất cả các thể hữu cơ đều được
nhóm lại, trưng bày với số lượng lớn hơn số loài của mỗi giống, và tẩt cả các
loài thuộc nhiều chủng, không có thể hệ sau và bị tuyệt chủng hoàn toàn. Cho đến
lúc này chúng ta có thể tiên đoán một chút về tương lai rằng hiện tượng này sẽ
là phổ biến và lan rộng trong những loài, thuộc về những nhóm trội và lớn hơn,
mà cuối cùng sẽ rất phổ biến và sinh ra những loài trội và mới. Trong khi tất cả
các dạng sinh vật đều là con cháu của những dòng họ sống rất lâu từ trước kỷ
nguyên Silurian, chúng ta có thể cảm thấy chắc chắn sự kế tiếp thông thường
theo quy luật đã bị phá vỡ, và không có bất cứ trận đại hồng thủy nào đã tàn
phá toàn bộ thế giới. Từ đây chúng ta có thể tin rằng một lúc nào đó trong
tương lai, hiện tượng này sẽ trở lại theo đúng độ dài lịch sử như nó đã từng diễn
ra. Và trong khi duy nhất sự chọn lọc tự nhiên có tác động tốt cho các sinh vật,
nó sẽ giúp cả phần trí não và thể trạng của các loài tiến hoá hoàn thiện hơn.
Sẽ rất thú vị khi quan sát ven các bờ sông, có rất nhiều dạng
thực vật, trên đó có nhiều chim chóc sinh sống, ca hát trên những bụi cây, với
nhiều sâu bọ sống xung quanh, và giun bò xuyên qua lớp đất ẩm ướt, cho thấy rằng
những dạng có cấu trúc tỉ mỉ này, có đặc điểm khác nhau, tùy thuộc lẫn nhau
theo cách tương đối phức tạp, đã được sinh ra theo quy luật hành động xung
quanh chúng ta. Những quy luật này, khả năng bắt nguồn lớn nhất, là từ sự tăng
trưởng với quá trình tái tạo nòi giống; sự thừa kế gần như có mặt trong cả quá
trình này; tính linh hoạt từ những tác động trực tiếp và gián tiếp của các điều
kiện sống bên ngoài, và từ việc sử dụng hay không sử dụng; tỷ lệ của việc tăng
thêm rất cao trong khi đi tới cuộc tranh đấu vì cuộc sống, và là một hệ quả của
quá trình chọn lọc tự nhiên,thay vì quá trình phân kỳ của các đặc tính và sự
tuyệt chủng của các loài ít tiến hoá hơn. Như vậy, từ cuộc chiến trong thiên
nhiên, từ nạn đói và sự tử vong, điều quan trọng nhất mà chúng ta có thể cảm nhận
được là sự xuất hiện những động vật bậc cao hơn, trực tiếp đi theo sự tuyệt chủng
đó. Đối với quan điểm này về cuộc sống, với sức mạnh của mình, trước đấy được
hút vào trong một số dạng nhất định và trong khi hành tinh này đã đi tiếp tục
đi theo quy luật cố định của lực hút, từ một sự bắt đầu đơn giản như thế hình
thành vô tận đa số các dạng sống tự nhiên đẹp đẽ và kỳ diệu, và chúng không ngừng
sinh sôi phát triển.
charles darwin
dịch giả: ngọc linh
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét