Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA)
Nói đến văn học Đông Nam Á là
phải nói đến sức mạnh dân gian hoá. Nền tảng của sức mạnh dân gian hoá đó là
nền văn hoá dân gian còn đang bao trùm hầu như toàn bộ đời sống tinh thần của
họ. Văn học dân gian là một trong những cội nguồn của văn học dân tộc.
Trước khi tiếp xúc với những nền văn
hoá lớn của Phương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc, thì văn học Đông
Nam Á đã được hình thành trên cơ tầng văn hoá nói chung của Đông Nam Á thời
tiền sử, đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
Đây là nền tảng, là cơ sở quy định sự phát
triển văn hoá tinh thần, văn hoá vật chất, cơ cấu xã hội và đời sống tâm
linh, tư duy triết lý của con người Đông Nam á trong suốt quá trình vận động
của xã hội Đông Nam Á từ xưa cho tới nay. Nền văn minh nông nghiệp lúa nước
này là cội nguồn và bản sắc riêng, phát triển liên tục trong lịch
sử. Lớp văn hoá nguyên sơ này được nhiều nhà nghiên cứu gọi là cơ tầng văn
hoá Đông Nam Á. Trên cơ tầng văn hoá này, văn học dân gian nảy nở, phát triển.
Văn học dân gian được xem là ngọn nguồn của văn học dân tộc khu vực Đông Nam
Á và đây cũng là lớp văn hoá bản địa trước khi Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của
các nền văn hoá lớn từ bên ngoài.
+ Văn học dân gian chiếm phần lớn, nổi bật,
bao trùm lên toàn bộ quá trình văn học Đông Nam Á vì nó xuất phát từ một nền
văn hoá nông nghiệp với cơ cấu tổ chức làng, xã ở các nước Đông Nam Á.
Khi có văn học viết, văn học dân gian vẫn
phát triển mạnh mẽ, phong phú và vẫn đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy, khi nghiên
cứu bức tranh văn học Đông Nam Á, đặc biệt là văn học dân gian, phải
nghiên cứu nó trong mối quan hệ liên ngành và đa ngành như: tôn giáo, tín
ngưỡng, nghệ thuật...
Chứng minh:
- Trước khi tiếp nhận
chịu ảnh hưởng văn hoá từ bên ngoài, các cộng đồng tộc người ở Đông Nam Á đều
có tín ngưỡng bản địa, tín ngưỡng đa thần giáo, vạn vật hữu linh và tục thờ
cúng tổ tiên. Tín ngưỡng này gắn chặt chẽ với sự phát sinh phát triển của văn
học dân gian trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
- Sự ra đời các nghi lễ nông nghiệp ban đầu
còn gắn với tôn giáo, mang ý nghĩa tôn giáo và dần dần trở thành các sinh hoạt
văn nghệ, văn học dân gian. (từ các hình thức diễn xướng đám rước, múa
thiêng, lễ ca, lễ nhạc đến các nghi thức tế tự đều có mối tương tác đan xen với
các hình thức hát giao duyên, múa vui, diễn trò tạo nên một sự đồng nhất giữa
đạo và đời, giữa cái thánh thiện và cái trần tục. Vì vậy, nghệ thuật diễn xướng
bao giờ cũng gắn với tôn giáo và giải trí).
- Văn học dân gian thời kỳ này mang màu sắc
nguyên sơ của các cộng đồng làm nông nghiệp, trồng trọt, săn bắn, đánh cá. Thần
thoại, truyền thuyết phản ánh rõ nét các sinh hoạt nghi lễ tín ngưỡng của các
cư dân Đông Nam á trước sức mạnh của thiên nhiên và những quan niệm cổ sơ của
họ về vũ trụ, về thế giới bao quanh mình. Thần thoại về lụt, về nguồn gốc dân
tộc, về các nhân vật văn hoá phổ biến ở các nước Đông Nam Á. Nhân
vật văn hoá là những anh hùng của thị tộc, bộ lạc. Họ là những nhân vật có
công lao, có tài hơn người khác. Những người anh hùng ấy được quần chúng bộ lạc
tôn thờ, tô vẽ, phóng đại, thêu dệt thành những thần thoại vì họ là những ông
tổ giúp loài người, dạy loài người làm ăn sinh sống. ở Đông Nam á ta bắt gặp
nhân vật văn hoá lên trời lấy thóc giống đem về mặt đất gieo trồng. Điều đó
phản ánh một hiện thực là văn hoá nông nghiệp hình thành, con người đã biết lấy
lúa về để canh tác. Những thần thoại còn lại đến ngày nay như Sự tích cây
lúa, tục lệ thờ cúng cây lúa, các sản phẩm làm ra từ lúa...(Sự tích Bánh
chưng bánh dày của Việt Nam).
Thần thoại về Nhân vật văn hoá phản ánh bước
chuyển mình của cư dân Đông Nam Á từ cuộc sống săn bắn, hái lượm tự nhiên
chuyển sang trồng trọt, chế tác ra công cụ lao động. Trong kho tàng truyện cổ
Đông Nam Á có các truyện về cách đan lưới bắt cá, và cơ sở của một loạt truyện
khác sau này có liên quan đến tục ăn trầu, sử dụng trầu, cau, rễ, vôi của cư
dân Đông Nam Á. Gắn với tín ngưỡng vạn vật hữu linh, trong văn học dân gian
Đông Nam Á có nhiều bài mo cầu nguyện thần linh mà đến nay còn lưu lại ít nhiều.
Từ quan niệm tín ngưỡng này mới nảy sinh ra các tập quán như kiêng cữ, tránh
né các thần, các hồn ở trong các sự vật làm phương hại đến cuộc sống của con
người. Tất cả các hiện tượng nêu trên là nền tảng của một cơ tầng văn hoá
Đông Nam Á, một thứ văn học nguyên bản hỗn hợp trước khi có tiếp xúc với văn
hoá Ấn Độ và Trung Quốc.
Trước khi chuyển từ thời tiền sử sang thời
kỳ lịch sử (với sự hình thành của các nhà nước cổ đại) tức là vào khoảng các
thế kỷ VI,V, IV trước Công nguyên thì các cư dân ở Đông Nam Á đã
có một trình độ tương đối phát triển. Những quan niệm về tính chất lưỡng
phân- lưỡng hợp của thế giới như đối lập mặt trăng với mặt trời, trời với đất,
núi với biển, loài có cánh với loài thuỷ tộc, cư dân miền Thượng lưu và cư
dân miền Hạ lưu....được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau trong thần thoại
và truyền thuyết của vùng Đông Nam Á tiền sử.
Từ
đầu Công nguyên (thậm chí còn sớm hơn) cho đến nay, Đông Nam Á là nơi tiếp
xúc và chịu ảnh hưởng của các nền văn hoá lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập,
Ba Tư, Tây Âu. 10 thế kỷ đầu sau Công nguyên, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của
văn hoá Ấn Độ, văn hoá Trung Quốc qua các con đường, những cách thức khác
nhau. Người ấn Độ thâm nhập vào vùng Đông Nam Á đem tới đây các tôn giáo
(Bàlamôn giáo; Phật giáo...) và các loại hình văn hoá của Ấn Độ, trong đó có
văn học. Các dân tộc ở Đông Nam Á đã tiếp thu một cách đầy sáng tạo các đề
tài, cốt truyện, các phong cách nghệ thuật của Ấn Độ và biến cải
nó cùng với vốn văn hoá của mình để rồi tạo nên những công trình điêu khắc kiến
trúc đồ sộ như Bôrôbuđua;
ĂngcoVat, những áng văn học đậm đà tính chất
dân gian lấy từ Jataka, Panchatantra, Ramayana, Mahabrrahata....
Những tác phẩm văn học cổ đại Ấn Độ khi vào
Đông Nam Á gặp ngay đời sống dân gian vô cùng sống động ở vùng này nên chúng
được dân gian hoá, được “tái sinh’ trong dân gian, chúng làm giàu thêm cho
kho tàng văn học dân gian vùng này.
Mối quan hệ qua lại giữa văn học nói
và văn học viết là một trong những đặc trưng cơ bản của nền văn học Trung đại
Đông Nam Á.
* Hầu như văn học Đông Nam Á đều hình thành
hai bộ phận: văn học bằng tiếng vay mượn (Sanskrit, Pali, Hán, Ả rập, Tây Ban
Nha) và văn học bằng tiếng dân tộc.
Nền văn minh nông nghiệp với sự phát triển
của văn học dân gian đã làm cho văn học thành văn của Đông Nam Á ra đời muộn.
10 thế kỷ đầu sau Công nguyên, các nước ở Đông Nam Á chưa có chữ viết, trong
khi đó tôn giáo Ấn Độ và Phật giáo du nhập & phát triển ở các quốc gia
Đông Nam Á. Tiếng Pali, Sanskrit, tiếng Hán không những đóng vai trò ngôn ngữ
trong truyền giáo mà còn đóng vai trò ngôn ngữ văn học ở các quốc gia Đông
Nam Á. ban đầu các quốc gia ở Đông Nam Á đã vay mượn trực tiếp các chữ viết của
ấn Độ, Trung Quốc. Sau đó cư dân Đông Nam á mới dựa trên những mẫu chữu đó để
sáng tạo ra chữ viết rieng của mình. Thứ chữ viết này chủ yếu dùng trong công
việc hành chính ở các quốc gia cổ đại Đông Nam Á.
Từ xu hướng bản địa hoá các tác phẩm văn học
cổ ấn Độ tiến đến dân tộc hoá nền văn học viết, đó cũng là đặc điểm chung của
văn học Đông Nam Á.
Quá trình đó diễn ra trong văn học viết
truyền thống từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII khi văn học Hồi giáo ả Rập-
Batư, văn học châu Âu thâm nhập vào các nước này, đặc biệt ở Philippines,
Indonesia, Malaysia...
Trước thế kỷ thứ X, các dân tộc ở Đông Nam
Á chưa có chữ viết, thường phải sử dụng tiếng Pali, Sanskrit, chữ Hán. Các
dân tộc Đông Nam Á đã mượn mẫu chữ trên để sáng tạo ra một loại chữ viết của
dân tộc mình.. Có nhiều nhà ngôn ngữ học cho rằng, các dân tộc Đông Nam Á biết
đến chữ viết từ thế kỷ III, IV hoặc có thể ở thế kỷ V, VI, những mãi đến thế
kỷ X họ mới sử dụng trong văn học.
Thời kỳ đầu của của văn học thành văn (khoảng
thế kỷ X- XV), tiếng Pali, Sanskrit, Hán đóng vai trò ngôn ngữ văn học. (Ví dụ:
văn học thế kỷ VII-XIII ở Mã lai-Indonesia lấy Sanskrit làm ngôn ngữ thơ ca.
Trong khi đó tiếng Mã Lai cổ, tiếng Gia va chỉ dùng trong công việc hành
chính và trong sinh hoạt.)
Như vậy có thể thấy điểm mốc văn học viết của
Đông Nam Á bắt đầu khoảng thế kỷ XII-XIII, tuy có nước văn học víet xuất hiện
sớm hơn và có nứoc văn học viết xuất hiện muộn hơn. Đông Nam Á thực sự tạo ra
nền văn học viết phải tính từ thế kỷ XIV trở đi.
Văn học viết thế kỷ XIII-XVIII nói chung là
văn học cung đình, còn ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ, Trung Quốc. (riêng
Indonesia, Malaysia chịu ảnh hưởng của văn hoá Giava và văn hoá Hồi giáo của Ả
Rập- Ba tư. Cá biệt như Philippines đã tiếp thu ảnh hưởng của văn học châu Âu
sớm hơn cả- thông qua Tây ban Nha, vì thế sau này, văn học Philippines cách
tân sang thời kỳ hiện đại sớm hơn các nước khác trong khu vực).
Văn học viết truyền thống ở Đông Nam Á bao
gồm dòng văn học viết bằng tiếng và chữ vay mượn ở ngoài và dòng văn học viết
bằng chữ viết dân tộc.
Bộ phận văn học viết bằng ngôn ngữ vay mượn
lúc đầu có ưu thế trội hơn bộ phận văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc vì ngôn
ngữ vay mượn chuyển tải văn học được xem là cao quý, bác học. Dần dần văn học
viết bằng ngôn ngữ dân tộc chiếm ưu thế, trở thành phương tiện biẻu đạt đời
sống tinh thần của dân tộc. Về phương diện nội dung, văn học truyền thống các
nước Đông Nam Á lúc ban đầu còn đi vào những đề tài xa lạ với đời sống thực tế
của dân tộc; những câu chuyện văn học thường nói tới những xứ sở xa xôi, những
nhân vật thần thoại, hoang đường.
Văn học trung cổ Đông Nam Á phần nhiều mang
tính chất nửa lịch sử, nửa nghẹ thuật. Truyện thơ giai đoạn này là phổ biến,
thường là truyện thơ khuyết danh.(ở Việt Nam có các truyện thơ nôm khuyết
danh; ở thế giới Melayu có các Hykayat....)
Thế kỷ XV,XVII, XVIII, văn học Đông Nam Á
phát triển mạnh (ở Indonesia, vào thế kỷ XV, văn học Giava phát triển nở rộ,
xuất hiện những tác phẩm lớn hoàn toàn đoạn tuyệt với văn hoá Ấn Độ. Tác phẩm
Pararaton- nghĩa là sách của các ông vua viết vào thế kỷ XV là một ví dụ. Tác
phẩm này viết bằng ngôn ngữ Giava trung cổ, gần gũi với ngôn ngữ sinh hoạt
hàng ngày cảu nhân dân thời đó. Tác phẩm viết về sự cai trị của vua Giava, phản
ánh sự hưng thịnh của nhà nước Magiapahit. Trong văn học chung
Malay-Indonesia xuất hiện tác phẩm nổi tiếng: “Truỵện về Hang Tuak” viết vào
thế kỷ XVII.
Ở Thái Lan, văn học phát triển nở rộ hơn cả
cũng ở thế kỷ XVII, nhất là dưới thời vua Pra Narai. Vua Pra Narai đã tập hợp
các nhà thơ tài năng xung quanh mình. Họ nói về cung vua Narai vĩ đại thời đó
“tất cả đều hít thở bằng thơ’. Có những nhà thơ lớn như Maharachakru, Si
Mahosot...Không khí sáng tác văn học, thưởng thức văn học sôi nổi làm cho đời
sống văn học ở Thái Lan thế kỷ XVII phong phú hẳn lên và rõ ràng là nó có những
thành tựu văn học nhất định.
Ranh
giới giữa văn học viết và văn học truyền miệng ở Đông Nam Á nhiều
khi không rõ rệt. Những tác phẩm văn học viết nổi tiếng lại chính là những
tác phẩm văn học dân gian đã từng được lưu truyền qua các thế hệ và trở nên nổi
tiếng.
Đến thế kỷ XVII, XVIII, XIX mới nở rộ một loạt
tác phẩm xuất sắc viết bằng chữ của dân tộc mình như: Truyện Kiều ở Việt Nam;
XỉnXay ở Lào; Phrra Aphaymani, Khủn Chang Khủn Phèn ở Thái Lan; truyện Hang
Tuak (Hikayat Hang Touah) ở Indonesia; truyện Apđula (Hikayat Abdoullah) ở
Malaysia.
Văn
học viết dân tộc ngày càng phát triển, mang đậm tính dân tộc, đó chính là sự
kế thừa, tiếp nối và sáng tạo văn học dân gian. Có thể nói không nơi nào sức
sống của văn học dân gian mãnh liệt và bền vững như ở vùng Đông Nam á này.
Văn
học dân gian vẫn tiếp tục cung cấp cho văn học viết đề tài, hình thức thể hiện
và chất trữ tình, làm cho màu sắc dân tộc càng đậm nét trong các tác phẩm văn
học. ở Việt Nam thể ca dao lục bát; ở Thái Lan thể Klon 8, ở Indonesia thể
Pantun 4 câu đều được các nhà thơ sử dụng rất điêu luyện. Do sử dụng hình thức
đó mà thể loại truyện thơ phát triển mạnh tạo tiền đề cho tiểu thuyết ra đời
khi tiếp cận được với văn học Phương Tây ở thế kỷ XIX, XX.
* Văn học viết truyền thống của
Đông Nam Á được nuôi dưỡng từ ba nguồn lớn: văn học dân gian, văn học lịch sử,
văn học nước ngoài.
Thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, văn học Đông Nam
Á tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây.
Cuối thế kỷ XIX, việc xuất hiện
các nhà in, các cơ quan báo chí ngôn luận trong thời gian này tạo thành một
môi trường xã hội thuận lợi cho văn học phát triển. Văn học khai sáng và những
nhân tố của chủ nghĩa hiện thực hình thành trong văn học. Thời kỳ này, nhiều
tác phẩm sao phỏng được công bố, in ấn công bố và phát hành rộng rãi ở Đông
Nam Á. Tầng lớp tiểu tư sản trí thức đã đóng vai trò quan trọng trong việc
làm quen với văn học Phương Tây, hình thành nên những thể loại mới, hiện đại ở
các nền văn học Đông Nam á như tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa.
Thế kỷ XVI, Philippines bị Tây Ban
Nha xâm chiếm. Kẻ chiếm đóng mang theo nền văn hoá Phương tây có thể xem như
mở màn cho cuộc hội nhập văn hoá lần thứ hai của Đông Nam Á. Tiếp đó vào thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX, văn hoá phương Tây đã ăn sâu bén rễ trên mảnh đất này. Ở
Philippines sau Tây Ban Nha đến Mỹ, ở Indonesia chủ yếu là Hà Lan, ở Việt
Nam, Campuchia, là Pháp, ở Myanmar là Anh...
Trong cuộc hội nhập lần này, các nước Đông
Nam Á cũng rất tỉnh táo và nhạy bén. Họ biết “gạn đục khơi trong”, biết kế thừa
những tinh hoa của văn hoá nhân loại qua các tác phẩm văn học của phương Tây.
Văn
học Đông Nam Á tiếp thu được ở văn học phương Tây trước hết là tư tưởng tự
do, dân chủ, tư tưởng khoa học được phản ánh trong các tác phẩm văn học như
thơ ca, tiểu thuyết của Anh, Pháp, tác phẩm của Secxpia, Bairơn, Victo Huygo,
Giun Vecnơ....bằng nguyên văn hoặc được dịch ra tiếng dân tộc. Những tư
tưởng đó đã bồi dưỡng, soi sáng, kích thích thêm tinh thần yêu nước, đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc của các dân tộc ở đây trong những
đêm dài nô lệ.
Văn
học Đông Nam Á tiếp thu thêm những thể loại văn học mới như thơ tự do, kịch
nói, truyện ngắn, tiểu thuyết.... Đặc biệt tiểu thuyết là loại văn xuôi
chóng thích ứng với đời sống tinh thần của các dân tộc ở đây.
Đầu thế kỷ XX, văn học Đông Nam Á bước sang
thời kỳ hiện đại
Văn xuôi chiếm ưu thế trong văn học và đó
là điều mới mẻ trong truyền thống văn học. Thể loại hình thành sớm
nhất là thơ ca và từ xưa đến nay, thơ ca luôn “ngự trị” trong văn học Đông
Nam Á. Hiện tượng văn xuôi nổi lên chiếm ưu thế có thể thấy rõ trong văn học
Thái Lan và trong một số nền văn học khác. ở Philippines, tiểu thuyết xuất hiện
rất sớm vào những năm 1877 (cuốn Urbane và Phelisa viết bằng tiếng Tagan của
Modesto de Kasta) và 1887 (cuốn Đừng đụng vào tôi viết bằng tiếng Tây Ban Nha
của nhà văn nổi tiếng Hose Rizal).
+ Nhìn chung, những năm 20,30 của thế kỷ
XX, thể loại tiểu thuyết ra đời hầu hết ở các nền văn học Đông Nam á. Tiểu
thuyết đầu tiên ra đời ở Indonesia năm 1921(cuốn Bất hạnh và đau khổ của
M.Siregar), ở Việt Nam năm 1925 (cuốn Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách)....sau những
mốc thời gian đó, tiểu thuyết nở rộ, hàng loạt những cuốn tiẻu thuyết xuất hiện
là cho tiểu thuyết trở thành thể loại tiêu biểu trong những năm 20,30 của văn
học Đông Nam Á.
+ Cùng với tiểu thuyết, thể loại truyện ngắn
cũng ra đời vào cuối thế kỷ XIX, đầu XX. Truyện ngắn ra đời muộn hơn các thể
loại khác nhưng là thể loại phát triển mạnh từ sau Chiến tranh Thế giới thứ
Hai. Từ đó trở đi, truyện ngắn luôn luôn là thể loại thường trực trong văn học
hiện đại Đông Nam Á.
+ Văn học Đông Nam Á phản ánh những vấn đề
về đấu tranh giải phóng dân tộc, vấn đề độc lập, tự do, dân chủ. đặc biệt
trong thể loại văn xuôi, vấn đề đáu tranh chống ngoại xâm, đấu tranh vì nền
dân chủ, chính nghĩa, tự do xã hội, bình đẳng để có quyền sống làm người là nội
dung tư tưởng trong các sáng tác văn học Đông Nam Á. Đông Nam Á
cũng đang hoà nhập vào khu vực và quốc tế, nhất là trong giai đoạn toàn cầu
hoá như hiện nay.
Bước vào thời kỳ hiện đại, văn học
Đông Nam Á thay đổi toàn diện sâu sắc- thay đổi nội dung chức năng của văn học,
thay đổi về hình thức, thể loại văn học và ngôn ngữ văn học.
+ Văn học hiện đại Đông Nam Á tiến bước
trên con đường quanh co, khúc khuỷu, luôn luôn phải đấu tranh để tiến lên: cuộc
đấu tranh để xác định chức năng của văn học, cụôc đấu tranh giữa truyền thống
và đổi mới, cuộc đấu tranh giữa yêu cầu thống nhất toàn quốc và tính hẹp hòi
địa phương, cuộc đấu tranh giữa dòng văn học cách mạng và dòng văn học phản động....
+ Do hoàn cảnh
đặc biệt ở Đông Nam Á, người ta có thể nói đến một nền văn học cách mạng
trong thời kỳ hiện đại.
+ Văn học hiện đại Đông Nam Á đã góp phần
quan trọng vào làm cho tiếng nói dân tộc trong vùng Đông Nam Á thích ứng với
đời sống hiện đại.
+ Đông Nam Á vốn quen với sân khấu múa và
sân khấu hát, vào thời kỳ hiện đại bắt đầu tìm thấy trong kịch nói một khả
năng mới giúp chuyển đạt những vấn đề xã hội đương thời đến đông đảo quần
chúng. Cùng với những hoạt động báo chí, ngành phê bình văn học, nghiên cứu
văn học, sáng tác văn học là những bộ phận không thể thiếu được của đời sống
văn học tạo nên bộ mặt hoàn chỉnh của văn học hiện đại Đông Nam Á.
Vũ Tuyết Loan
Theo http://trieuxuan.info/
|
hãng bay eva
Trả lờiXóavé máy bay eva đi mỹ
hãng máy bay korean air
đặt vé máy bay đi mỹ online
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich