Thứ Bảy, 12 tháng 4, 2025

Valentine cho người chưa gặp mặt

Valentine cho người chưa gặp mặt

Trong nhiều lần bay qua Mỹ thăm gia đình, chúng tôi thỉnh thoảng có những chuyến layover tại một trong những phi trường lớn nhất nước Mỹ, đó là Denver International Airport. Tuy chưa bao giờ đi vào trong thành phố, mà chỉ nhìn qua cửa kiếng sân bay, qua những chuyến xe bus, xe lửa đổi terminal, tôi vẫn phóng tầm mắt nhìn xa hơn, cộng với trí tưởng tượng bay bổng của mình, để tìm một bóng dáng thân quen, để thấy một Denver mến thương…từ thuở nào!
Khi tôi vượt biên cuối năm 1989 đến trại tỵ nạn Panatnikhom, Thailand, liền viết thư cho ông anh bên Mỹ về tình hình trại tỵ nạn đã bị Cao Uỷ đóng cửa từ ngày 14/3/1989, những ai đến trại sau ngày này sẽ phải chịu thanh lọc rất khắt khẹ Nghe tin đó, anh vội vàng nghĩ suy mọi cách để cứu tôi, chứ dứt khoát không cho tôi quay trở về Việt Nam.
Rồi một hôm tôi nhận được hơn hai mươi lá thư từ Mỹ, chỉ có một cái thư của anh tôi, còn lại là những cái tên Mỹ lạ hoắc.
Ôm một đống thư về chỗ ở trại tỵ nạn, tôi đọc thư anh tôi trước. Anh giải thích rằng đã tự ý giúp tôi bằng cách đăng trên mục “Tìm Bạn Bốn Phương” của Mỹ với ước mong tôi sẽ tìm được một người nào đó, tốt đẹp, và biết đâu sẽ…tiến xa hơn, đưa tôi qua khỏi cuộc thanh lọc đáng ghét. Anh cũng nói, tôi đừng sợ hãi, cứ chọn lọc trong các lá thư, tìm ra người nào có vẻ tin cậy thì hồi âm, dù sao cũng là cách giết thời gian và học thêm English, làm bạn bè cũng tốt.
Giờ thì xin mở ngoặc nói về ông anh Th. yêu quý của tôị Trước đây ở Việt Nam anh làm thầy giáo, rồi sau năm lần bảy bận đi vượt biên vào tù tội mới trót lọt, với câu nói cương quyết: “Nếu bỏ xác ngoài biển thì đành chịu, chớ còn đôi chân là còn đi vượt biên, đi hoài cũng tới, trời không phụ lòng người”. Không biết anh có uy tín cỡ nào, mà kể từ khi anh bắt đầu toan tính ra đi, vài bạn thân trong xóm với gia đình tôi cứ hay đến nhà tôi thầm thì có chỗ nào vượt biên thì kêu tui nhe, đi chung với anh Th. cợ Người có quyết tâm và niềm tin như anh thì chắc sẽ gặp maỵ
Trước năm 1975, anh đã từng học Anh Văn ở Hội Việt Mỹ nên rất khát khao đến được xứ tự do dân chủ nàỵ Khi qua đến Mỹ như mong ước thì anh càng yêu Mỹ nhiều hơn. Anh còn khuyến khích tôi, đừng e ngại nếu kết hôn với người Mỹ vì có rất nhiều điểm lợi, nào là học được English hàng ngày hàng giờ, nào là sinh ra con sẽ cao lớn, xinh đẹp, nào là sẽ mang last name của chồng là last name Mỹ, khi đi học đi làm rất khó bị phân biệt chủng tộc…vân vân...và vân vân.
Nghe anh nói vậy tôi cũng yên tâm và hứng thú phần nào, dù lúc đó tôi vẫn có suy nghĩ phải quen và lấy chồng người Việt, chứ không hình dung được cái cảm giác sống chung với một người Mỹ mắt xanh, tóc vàng, tay chân đầy… lông lá.
Tình hình trại tỵ nạn lúc ấy quá căng thẳng, không còn chọn lựa nào khác, nên theo lời khuyên của ông anh, tôi mở các lá thư Mỹ ra đọc. Ðầu tiên, tôi loại bỏ những thư không có hình kèm theo, tiếp theo là loại những người…viết chữ xấu, cẩu thả, (thói quen nghề nghiệp cô giáo khi còn ở Việt Nam), rồi loại tiếp những lá thư có hình nhưng nhìn… hổng đẹp trai và loại luôn những người viết thư …vô duyên (dù trình độ Tiếng Anh của tôi lúc ấy chả có là bao!).
Cuối cùng tôi chọn được một lá thư với nét chữ đều đặn, mềm mại, giọng văn chân tình nghiêm túc, nghề nghiệp vững vàng (giáo viên dạy English ở một trường Trung Học ở Denver, Colorado, vậy là đồng nghiệp với tôi), và tấm hình một chàng trai Mỹ trắng có nét hiền hoà, dễ mến, tên họ đầy đủ là Don Garner.
Với tất cả vốn liếng English có được, tôi viết thư cho Don, giới thiệu bản thân, cám ơn Don đã vui lòng kết bạn, giúp tôi trau dồi thêm Anh Ngữ trong thời gian chờ đợi ở trại tỵ nạn và tôi cũng gởi một tấm hình tôi mặc chiếc áo màu đỏ thắm, chụp trước căn “nhà” của tôi trong trại tỵ nạn. Don hồi âm và nói thích tấm hình, thích... màu áo của tôi, khen tôi nụ cười tươi như hoạ Don phóng to tấm hình này với size bằng cuốn vở rồi gửi lại trại cho tôi làm kỷ niệm.
Cứ hai tuần một lần, Don gửi một lá thư, kèm thêm tái bút những đoạn dạy tôi grammar mà thư trước tôi đã viết sai và luôn luôn có những tấm hình phong cảnh Colorado, vì nhiếp ảnh là niềm say mê của Don sau giờ đi dạỵ
Chắc tôi cũng có máu di truyền từ ông anh. Nếu ông anh đã từng yêu nước Mỹ từ khi còn học ở Hội Việt Mỹ, thì tôi trước đây đã yêu Wichita, Kansas, hay San Antonio, Texas qua những hình ảnh anh tôi gửi qua, thì giờ đây, qua ống kính của Don, tôi đã yêu thêm Denver của Colorado và những địa danh xung quanh: Rocky Mountain, thượng nguồn nước chảy xuôi theo dòng Mississippi vào Vịnh Mexico, những trang trại trồng lúa mì. Từ miền tây qua bên đông, đất của tiểu bang này là lưu vực giống sa mạc, trở thành cao nguyên, rồi núi Alpine, rồi đồng cỏ của đồng bằng Lớn. Núi Elbert là đỉnh cao nhất của dãy núi Rockỵ Ðỉnh Pike nổi tiếng một tí về phía tây của Colorado Springs. Có thể nhìn thấy đỉnh hiu quạnh của nó từ gần biên giới Kansas vào những ngày nắng và mùa đông tuyết phủ trắng một vùng núi bao la, kỳ vỹ…
Ðã có lúc, tôi viết thư cho ông anh, đồng ý rằng, người Mỹ hay người ngoại quốc da trắng, có những người rất dễ thương, đáng tin cậỵ Vì ngoài Don mà tôi dần thân thiện qua những lá thư, trong bưu điện trại tỵ nạn lúc ấy có thêm mấy chàng thiện nguyện người Tân Tây Lan, trong đó có chàng Peter thật hiền lành, nhút nhát và cực kỳ tốt bụng. Peter có râu quai nón, cánh tay rậm rạp lông, vậy mà nở nụ cười là thấy… hiền khộ Ngoài giờ làm cho bưu điện, cuối tuần nhóm thiện nguyện vào trại có Hội Thánh Tin Lành để rao giảng Thánh Kinh. Lần đó bưu điện làm tiệc sinh nhật cho tôi (bất cứ ai đến ngày sinh nhật đều được có một tiệc rất ấm cúng), Peter bị ép lên tặng hoa và ôm tôi, mà mặt anh chàng đỏ rực như ánh mặt trời, thấy thương làm saọ
Trở lại câu chuyện với Don, mùa Giáng Sinh, Don gửi cho tôi một gói bưu phẩm, trong đó có một máy cassette nhỏ xài bằng batteries để tôi học English, có cả đồ charge, vài country music tapes, đồ lặt vặt, một hộp bánh cookies và tấm thiệp chúc Noel bên trong có 4 cây candy canes (Don tinh tế biết tôi ở chung với ba cô bạn gái), loại kẹo hình cán dù dùng để trang trí cây thông Giáng Sinh. Nhưng lúc đó chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy candy canes, nên cứ ngỡ đó là một cái gì đó, chắc là để trong thiệp làm vật trang trí theo truyền thống Phương Tây, nên quăng chúng vào một góc nhà. Vài ngày sau, một đứa vô tình làm bể một cây, lấy tay sờ và nếm thì thấy ngọt, lúc đó cả đám mừng húm vì biết đó là…kẹo, bốn đứa xúm lại ăn liền một mạch hết sạch và khen ngon rối rít.
Tôi dần dần cảm mến Don, dù chỉ qua những lá thư, những hình ảnh và những món quà bé nhỏ xinh xinh. Tôi cảm nhận được một chàng trai đứng đắn, mô phạm, có trái tim ấm áp với tình yêu thiên nhiên bao la rộng lớn.
Don luôn muốn cho tôi hiểu biết nhiều hơn về nước Mỹ, giải thích chi tiết từng sự việc, những tấm hình phong cảnh anh chụp đều ghi chú rõ ràng, địa điểm, thời gian và cả những điều thú vị liên quan đến nơi ấỵ
Ðể giải thích sự chậm trễ thư từ mùa cuối năm, Don chụp những tấm hình khi đến post office gửi quà cho tôi, nào là những chiếc xe của post office chất đầy ứ những bao tải chứa thư, những nhân viên đang chuyển những gói parcels ra xe dù ngoài trời đã sập tối lất phất tuyết rơị Don bảo, mùa này người ta gửi thư gửi quà cho nhau nhiều lắm, dù nhân viên làm việc tăng thêm giờ cũng sẽ vẫn có những thư từ, bưu phẩm chậm hơn những thời gian khác trong năm và nhắn nhủ tôi nếu thư Don đến chậm thì hãy thông cảm cho Don và đừng giận Don, đừng giận... nước Mỹ nhé (thấy thương ghê chưa!)
Như một cái gì đó rất quen thuộc, mỗi lần đợi chờ thư của Don thật háo hức, một niềm vui dịu dàng êm ái vì thư của Don lúc nào cũng có vài tấm hình và ít nhất là 4 đến 6 trang thư, đem đến cho tôi một nước Mỹ tuy xa xôi nhưng quá đỗi gần gũi, đầy quyến rũ mộng mợ
Qua mùa Giáng Sinh năm ấy, thư của Don bắt đầu thưa thớt và sau đó là lá thư thật dài, Don nói về bệnh skin cancer vừa mới phát hiện vài ngày trước lễ Giáng Sinh. Bác sỹ nói bệnh trong giai đoạn sớm nên chữa trị không khó khăn, có nhiều hy vọng nhưng sẽ mất nhiều thời gian, nên Don xin nghỉ việc, điều trị và về an dưỡng nơi nông trại lúa mì của cha mẹ vùng ngoại ô Denver.
Ðó cũng là lá thư cuối cùng của Don, dù tôi tiếp tục gửi vài lá thư thăm hỏi bệnh tình về địa chỉ của Don và nơi trang trại của cha mẹ Don đều không thấy hồi âm. Tôi tin rằng mình chẳng làm điều gì phật lòng người bạn phương xa, nhưng thực sự không tìm được câu giải đáp của sự im lặng nàỵ
Cuối cùng, tôi tạm thời đưa ra hai giả thuyết. Một là, bệnh của Don đã chuyển biến xấu nên anh ấy không còn thời gian và tâm trí dành cho tôị Hai là, Don cảm thấy mệt mỏi vì mối quan hệ với cô gái Việt Nam nơi trại tỵ nạn với hoàn cảnh quá bấp bênh nên nhân dịp này Don ngưng liên lạc để sau này bắt đầu mối quan hệ mới, có khả năng tiến xa hơn trong tầm taỷ
Tôi vẫn mong giả thuyết thứ hai là đúng, tôi sẽ không bao giờ buồn phiền hay trách móc một lời và xin chân thành cám ơn anh đã đến với tôi như một người bạn, Don ơi!
Khi tôi kể câu chuyện này cho các chị trong một nhóm Văn Thơ, mọi người xúm lại đưa ra những giả thuyết khác nhau về sự “biến mất” của Don, thậm chí các chị còn rủ nhau “viết tiếp đoạn kết” cho câu chuyện “tình” vượt đại dương giữa tôi và Don.
Người thì diễn tả như trong phim ngôn tình, chàng khi chữa bệnh thì mặc cảm, tuyệt vọng nên không thư từ cho nàng, cho đến khi bệnh tình khá hơn, chàng vội viết thư cho “người em gái tỵ nạn” thì hỡi ôi, nàng đã lên đường định cư!
Người khác, cho đoạn kết mang dấu ấn phim Hàn Quốc, chàng sau một thời gian hóa trị và xạ trị, đã mắc bệnh... mất trí nhớ, nên những lá thư nàng gửi tới chỉ làm chàng hờ hững như đám giấy lộn vô tri vô giác.
Vui hơn là một chị cho câu chuyện theo kiểu Quỳnh Giao, là cha mẹ chàng đã phát hiện ra chàng đang có “tình xa” với một cô gái Châu Á, trong khi họ muốn chàng lấy vợ da trắng, môn đăng hộ đối, nên đã cấm đoán và nhân dịp chàng về nhà chữa bệnh, họ đã dấu hết các lá thư của nàng, gây cho chàng hiểu lầm là nàng đã đổi thay khi chàng ngã bệnh nên từ đó... ly tan.
Dĩ nhiên đó chỉ là những “đoạn kết” tưởng tượng vui vẻ, nhưng cuối cùng các chị ấy cũng nghiêm túc, đề nghị giúp tôi tìm Don trên Googles, vì với đầy đủ tên họ và số tuổi thì việc tìm tung tích không đến nỗi khó khăn nếu Don vẫn còn ở Denver.
Tôi bèn nghe lời khuyên, search trên Googles, sau khi narrow down, tôi cũng tìm được vài người mang tên Don Garner, ở lứa tuổi đó, nhưng tiếc là không có hình ảnh (cũng có thể tôi đã không tìm đúng cách). Tôi cũng chẳng muốn làm phiền người khác tìm giúp Don, vì để làm gì chứ?
Tôi và Don, định mệnh cho gặp nhau qua những lá thư, trong một hoàn cảnh đặc biệt ở trại tỵ nạn. Dù tình cảm vừa nhẹ nhàng chớm nở, mến nhau nhiều hơn qua những tâm sự, những câu chuyện của nhau và qua những tấm hình, Don nói yêu mến đất nước và con người Việt Nam, cũng như tôi đã yêu thương Denver, Colorado và nước Mỹ của Don.
Nhưng chúng tôi chưa hề nói lời yêu nhau, chưa một lần nói nhớ thương, chưa dự định những hứa hẹn dài lâu vì đâu biết chuyện thanh lọc ở trại tỵ nạn của tôi sẽ ra saọ Anh vẫn đang là một người bạn, một người thân, một người đều đặn mang cho tôi niềm chia sẻ, ủi an trong mỗi lá thư, giúp những ngày trại tỵ nạn của tôi thêm niềm vui dù tương lai còn mong manh xa vờị
Ðể rồi Don bỗng mang bệnh hiểm nghèo, định mệnh mang Don đến với tôi rồi lại mang Don ra khỏi đời tôi không một lời giải thích để lòng tôi vẫn xốn xang khắc khoải đi tìm một lý dọ
Dù sao đi nữa, tôi vẫn nhớ ơn Don về những tháng ngày ấy, nhớ nhiều những điều mới lạ Don giới thiệu với tôi về nước Mỹ, về những cây candy canes mùa Noel, về mùa Valentine nào đó Don gửi một gói bưu phẩm với hộp chocolate và kể cho tôi nghe về ngày lễ dễ thương này, không hẳn dành cho những đôi yêu nhau, mà còn cho cả bạn bè thân, gia đình, ngay cả đám học trò cũng tặng thiệp Valentine cho Thầy giáo Don.
Ðể giờ đây mỗi lần có dịp qua Mỹ, khi máy bay dừng chuyển tiếp ở Denver, tôi lại thấy lòng bâng khuâng, bồi hồi như sắp gặp lại người bạn cũ. Dù anh còn đó hay không, dù anh thế nào, đối với tôi, Denver vẫn là một địa danh đẹp luôn có bóng hình anh.
Valentine năm nay tôi viết lại câu chuyện này, cho Don, một người chưa hề gặp mặt, như một món quà ghi dấu kỷ niệm của chúng tôi, của một thời đã qua khi cả hai còn rất trẻ.
Và đây là bài thơ tôi viết tại phi trường Denver trong một lần chờ chuyến bay và nghĩ về Don:
LẠC NHAU Ở DENVER
Máy bay vừa hạ cánh
Denver lạ mà quen
Phi trường tôi vừa đến
Chờ mong được gặp Don
Người người lướt qua nhau
Terminal kiếm tìm
Hành lý cũng vui theo
Tôi và những niềm riêng
Tôi đứng đây, ngơ ngẩn
Giữa đám đông đợi chờ
Hỡi anh, Don thân mến
Ðừng để tôi bơ vơ
Chuyến bay này nối tiếp
Hẹn gặp tại Denver
Quán café Starbucks
Mình nhắc lại chuyện xưa
Anh mặc áo màu gì?
Xung quanh tôi xa lạ
Những bước chân vội vã
Vẫn thiếu vắng một người
Lẽ nào anh không nhớ!
Hay anh trễ chuyến baỷ
Phi đạo trong nắng gió
Người thì như bóng mây
Tôi phải boarding rồi
Qua gate mà ngập ngừng
Thế là anh và tôi
Chẳng được phút tương phùng
Máy bay tung đôi cánh
Chìm vào trong mây trời
Anh vẫn là hình ảnh
Trong ký ức mà thôi!.
Kim Loan
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Tháng mười hai nhớ bạn

Tháng mười hai nhớ bạn

Bốn đứa chúng tôi chơi rất thân, từ khi còn là giáo sinh Sư Phạm cho đến lúc ra trường mỗi đứa dạy một nơi nhưng vẫn gặp gỡ nhau thường xuyên vì hợp tính tình hay quậy phá, và có chút máu điên.
Trong nhóm, tôi với Trang là hai đứa có sở thích đọc sách và gu nghe nhạc giống nhau. Gia đình Trang thuộc loại khá giả, ngoài căn nhà nó ở với ba má cùng hai đứa em ở khu Hàng Xanh, nó còn có nhà ông bà ngoại ngay mặt đường Hiền Vương sầm uất, (sau này là đường Võ Thị Sáu), đó là căn nhà lầu đúc 3 tầng kế bên tiệm giò chả Phú Hương thuở xưa, và một căn nhà trong hẻm lớn gần đó, đi bộ hai phút là ra phở Hoà Pasteur và viện Pasteur ngay đầu ngõ. Cả ba căn nhà này, tôi đã nhiều lần đến chơi, ăn dầm nằm dề những ngày cuối tuần, hoặc mùa hè rảnh rỗi?
Trang có nét đẹp đậm đà, đôi mắt to, lông mì dài, chiếc mũi cao xinh xắn, nhất là cặp lông mày dày và đen, dù trang điểm hay không, nó vẫn nổi bật nhất trong nhóm bốn đứa.
Nó cũng biết yêu sớm, với mối tình 'high school sweetheart' kéo dài từ ba năm trung học cho tới lúc nó ra trường làm cô giáo. Long, người yêu của nó, là chàng công tử con nhà giàu nhất nhì khu cư xá Thanh Ða. Long học Ðại Học Tổng Hợp môn Tiếng Anh vì chủ đích cùng gia đình chờ ngày qua Mỹ diện ODP. Long cao ráo, trắng trẻo và đẹp trai, ăn nói lanh lợi và rất có duyên.
Tôi hỏi Trang:
- Long sẽ đi định cư qua Mỹ, tụi bay tính sao? Tình đang rất đẹp và thơ mộng biết bao!!!
Nó buồn buồn:
- Thì Long hẹn tao ba năm sau, nếu tao không đi vượt biên thì Long sẽ quay về Việt Nam cưới tao.
- Úi, nghe sao xa vời và mong manh quá?
- Biết làm sao hơn khi hoàn cảnh như thế, mà thôi, đây cũng là thử thách cho cả hai đứa.
Ngày tiễn Long ra phi trường, theo lời Trang tả, là mưa ào ạt nhưng vẫn chưa nhiều bằng nước mắt của Trang. Chàng và nàng cứ đứng nắm tay không rời, Long bị loa phóng thanh phi trường gọi tên mấy lần mới dứt được nhau. Rồi nàng chạy xe thẳng về nhà tôi, nằm khóc vùi suốt buổi chiều.
Thư qua tin lại cho vơi nỗi nhớ nhung được khoảng một năm, thì cô bạn cũ thời trung học của cả chàng và nàng đi vượt biên qua trại tỵ nạn Bidong, Malaysia, sau đó qua định cư bên Mỹ chung thành phố với chàng. Ban đầu, cô bạn giữ lời hứa 'chăm sóc' chàng giùm nàng, rồi sau đó tiện thể (dù không được nhờ vả), đã chăm sóc luôn cả trái tim và cuộc đời của chàng. Người ta bảo xa mặt cách lòng quả không sai, và lửa gần rơm lâu ngày cũng đã bén!
Thế là 'thiệp hồng viết tên Anh' và con kia đã gửi về Việt Nam cho nàng đúng vào những ngày rét mướt của Sài Gòn giữa tháng mười hai. Nhận tin sét đánh ngang tai, nàng khóc lóc vật vã hận đời (còn tin ai trên cõi đời này nữa chớ, khi mà người yêu và bạn thân rủ nhau phản bội bất ngờ!). Chúng tôi chẳng biết nói gì để khuyên lơn ủi an nó, ngoài việc đến thăm, đưa nó đi chơi cho khuây khoả. Tưởng vết thương lòng rồi sẽ nguôi ngoai, đùng một cái, chúng tôi nghe tin nó...mất dạy, bỏ trường lớp bỏ học trò, bỏ Sài Gòn trốn về Ðà Lạt vì không chịu nổi sự cô đơn, lạnh lẽo của Mùa Noel đang đến. (Ở Ðà Lạt không lạnh sao, con dở hơi!?).
Chúng tôi tá hoả, chưa biết tính toán sao, một đứa trong nhóm còn đổ thêm dầu vào lửa, bảo rằng:
- Ðà Lạt là thành phố Tình Yêu của đôi lứa, nhất là mùa Noel, nó đến đó, cái "Thành Phố Buồn, lắm tơ vương, cơn gió chiều lạnh buốt tâm hồn" của ông Lam Phương khi đang thất tình, nó dám nhảy xuống hồ Than Thở lắm á!
Ðứa kia cũng đồng tình:
- Ðúng rồi! Người ta có Ðồi Thông Hai Mộ còn nó sẽ là Ðồi Thông Một Mộ lẻ loi, tội quá!
Tôi cuống cuồng:
- Vậy thì ba đứa tụi mình phải lên ngay Ðà Lạt giải cứu nó, mang nó về Sài Gòn?.
Chúng tôi bàn qua tính lại vài ngày rồi quyết định đi lên thành phố sương mù, chấp nhận để lại Sài Gòn sau lưng, để lại "người thương" để đi tìm bạn. Ðến ngày lên đường, thì đứa em nó chạy đến tìm tôi, báo tin:
- Chị Trang đã về nhà rồi mấy chị ơi!
Tôi vui mừng, thở phào nhẹ nhõm rồi đùa với em nó:
- Vậy là quá tốt! Té ra nó cũng nhát, chưa dám nhảy xuống hồ Than Thở, chắc sợ lạnh, mà nó cũng chẳng biết bơi! Ðể chiều này tụi chị sẽ ghé thăm liền.
- Dạ không được rồi chị ơi!!
- Là sao??? Có chuyện gì nữa?
- Chị ấy về chiều qua, người mệt mỏi rã rời, chẳng nói với ai lời nào, rồi đi nghỉ trong phòng. Ðến tối chị ấy bảo đi ra đường cho khuây khoả, mà đến giờ vẫn chưa thấy về, gia đình em lo sợ quá chị ơi!!!
Mấy cái "chị ơi!!!" của thằng em nó làm chúng tôi thêm rối bời, hoang mang, âu sầu não nề giữa trời Sài Gòn hiu hiu gió lạnh.
Suốt cả tuần lễ sau đó, vào mỗi buổi chiều tối sau giờ đi dạy, ba đứa tôi đạp xe đi khắp nơi tìm nó. Ðến nhà các người thân, bạn bè quen biết, đến các quán café mà nó và Long thường hẹn hò, thậm chí đến cả phi trường Tân Sơn Nhất, cũng chẳng có tăm hơi của nó. Thành phố lung linh muôn sắc màu của mùa Giáng Sinh đang tới, mà chúng tôi buồn so, rầu rĩ, mấy giai điệu nhạc Noel bỗng trở nên nhạt nhẽo không còn gợi chút cảm hứng lâng lâng như ngày nào. Có ai định nghĩa hết được Tình Bạn không? Bạn, một chữ ngắn gọn nhưng hàm chứa biết bao ân tình tuyệt vời, khó quên?
Cho đến hôm nay, khi tôi viết những dòng chữ này, thì nó vẫn độc thân, chưa bao giờ lập gia đình, sống một mình ở Sài Gòn, nhưng tâm trí vẫn đi lang thang!
Năm 2009, tôi có về Sài Gòn, bạn bè mấy đứa gặp nhau đi ăn uống tâm tình, nó vẫn bình thường khi nói về những tháng ngày đi học vui vẻ, nhưng chỉ một lát sau, nó lại chuyển qua nói huyên thuyên những chuyện tầm phào, không đầu không đuôi, đầy hoang tưởng.
Chúng tôi cố khuyên nhủ, đưa nó về thực tại, nhưng hễ nó bắt đầu hoang tưởng thì chẳng còn để ý đến xung quanh, cứ độc thoại một mình, khi nào xong mới thôi, không ai có thể cản nổi.
Ông bà ngoại và ba má nó đều đã mất, căn nhà ở Hàng Xanh cũng đã bán, hai đứa em trai nó có vợ con chia nhau ở căn nhà mặt tiền đường Võ Thị Sáu, còn nó được riêng cả căn nhà trong hẻm phở Hoà, gặm nhấm nỗi cô đơn với căn bệnh hoang tưởng ngày càng trở nặng!
Tháng Mười Hai lại về, ước gì nó đừng nghe tiếng vọng của quá khứ, đừng nhớ lại cái tháng Mười Hai oan nghiệt thuở nào, cái tháng làm nó trở nên điên dại, đớn đau, đi hoang để chúng tôi phải khổ sở đi tìm khắp các ngõ ngách Sài Gòn giữa những âm điệu bơ bơ tái tê của những bài nhạc Giáng Sinh thật buồn....
Trang ơi! Tụi mình bốn đứa có chút "máu điên" cho đời thêm vui, sao mày lại điên thật??.
12/2021
Kim Loan
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Sinh nhật mùa không trăng

Sinh nhật mùa không trăng

Trái tim Ngọc đập loạn xạ. Một cảm giác vừa hồi hộp vừa hạnh phúc dâng trào trong cơ thể. Nhưng ai lại "dễ lún" thế! Ngọc hất tóc nghiêng mặt nói với Đạt:
- Bạn nói gì cở Mình chẳng hiểu...
Một cái cười vờ vĩnh đầy tinh nghịch, Ngọc quay đi như tìm kiếm một cái gì đó. Hình như Đạt cũng run lắm, tay Đạt len lén nắm lấy tay Ngọc và đặt vào đấy một bông hoa nhỏ nhắn, thơm thơm.
- Hoa kẹo?- Ngọc ngạc nhiên.
- Hoa kẹo đấy... Ngọc... Hoàng hậu... Đạt...
Đạt lấp lửng câu nói gương mặt trang nghiêm đến khổ sở. Ngọc khẽ rút tay ra, tránh cái nhìn hun hút của Đạt bằng các vân vê bông hoa cho tới nát nhàu. Tiếng Đạt nhẹ thoảng bên tai:
- I love you!
Những ngón tay Đạt khẽ vuốt lân mái tóc Ngọc, Ngọc chỉ khẽ khàng được mỗi một câu:
- Bạn hãy nói từ đó bằng tiếng Việt!
Đạt khẽ đặt nhẹ một nụ hôn lên má Ngọc. Ánh trăng trên đầu như lóe lên một cách tinh quái như thể bắt qủa tang họ làm điều gì vụng trộm. Ngọc ngồi yên nghe Đạt thì thầm gì đó. Tâm trí cô như gần gũi, như xa xôi, khi qúa khứ, khi tương lai...
Và tự dưng cô cảm thấy buồn vô cớ. Cô yêu rồi ư? Đạt ư? Vì sao? Sao lại chóng vánh đến thế? Đạt giàu và kiêu kỳ, tài hoa tiêu chuẩn mà cô thích. Đạt đa tình - điều này làm cô sợ không phải với riêng Đạt mà với chung tất cả đàn ông. Cô muốn người mình yêu cần nhất là lòng chung thủy. Thế mà cô lại nhận lời yêu Đạt - yêu cả cái nhược điểm "chết người" ấy. Ngọc nhớ Hà Phương có lần cảnh cáo:"Yêu cái loại đó nó đá mình không tiếc đâu. Mày khờ, loại đàn ông chỉ thích chinh phục đàn bà "chân gầy, dáng đẹp" đó chỉ thuộc loại chơi bời cho thỏa sĩ diện thôi". Ngọc không tin lời Hà Phương vì Ngọc yêu Đạt. Ngọc tin chứ. Lẽ nào khi người ta yêu thật lại là khi người ta giả dối? Nhưng điều quan trọng là Ngọc chấp nhận yêu Đạt rồi.
Em đi với người con trai khác
Cỏ úa nhàu lặng lẽ khóc trên tay.
Bức ảnh Cường gửi kèm thư cho Ngọc chỉ vỏn vẹn hai dòng đầy trách cứ đó. Bức thư bỏ trắng. Một thuở "tình thư một bức" đã xa rồi.
Ngọc buồn không tả, không hẳn vì luyến tiếc, không hẳn vì xót xa mà vì thương thương, nhớ nhớ một dáng hình tội nghiệp. Cường càng cố tỏ ra người lớn trước Ngọc thì cô càng thấy Cường trẻ con. Cường kém Ngọc hai tuổi nhưng lại "đòi" yêu Ngọc đến cháy lòng. Ngọc càng giảng giải, càng nói cho cường tỉnh ngộ" thì cường lại càng yêu Ngọc như con thiêu thân.
Ngọc hiểu Cường qúa xốc nổi khi cho rằng tình yêu chỉ là thế! Với Ngọc, Cường là một cậu bé đáng thương chỉ biết sống cô đơn trong căn nhà tiện nghi mà thiếu hạnh phúc. Giữa cô và Cường có một hoàn cảnh chung là mẹ bỏ đi lấy chồng khác còn bố thì bỏ đi cờ bạc, rượu chè tối ngày. Cả hai đều thiếu tình thương và dễ tổn thương khi vấp vào cuộc đời. Hai con chim én lẽ ra phải gặp nhau vào mùa xuân mới đúng. Nhưng đằng này Ngọc lại mơ một chân trời khác: ở chân trời ấy có những cánh đồng xanh tươi để "con ngựa hoang" được sống trong thanh bình, êm ả. Bởi tuổi thơ cô đã từng chịu qúa nhiều vết đòn roi của cha mẹ. Cô chỉ là kết qủa của một lần lầm lỡ mà cả cha và mẹ không muốn. Cô khao khát sự giàu sang, đài các và cô qúa sợ cái nghèo, cái khổ. Niềm mơ ước ấy cứ lớn dần theo năm tháng. Cô biết mình đẹp lôi cuốn nên cô không hề bỏ lỡ một cơ hội giao du nào. Cô đã quen với Đạt trong những lần đi khiêu vũ và chịu ơn rất nhiều bởi lòng hào hiệp và những món qùa mà cô ước muốn. Cô đã trở thành Hoàng hậu của riêng Đạt. Còn Cường - dù cô biết cô cũng có cảm tình với Cường nhưng Cường khờ qúa, Cường phụ thuộc vào gia đình nhiều thế thì làm sao có thể cưu mang, bao bọc được cô?
- Xòe tay ra Đạt cho một cái này!
Ngọc xòe tay ra: Chao! Một đôi hoa tai đẹp tuyệt vời. Ngọc sung sướng gắn lên tai. Đạt giao ước:
- Qùa thưởng cho ai đỗ đại học trong năm tới!
Ngọc xịu mặt:
- Thế có nghĩa là...
Đạt nhắc lại:
- Chỉ thưởng cho ai xứng đáng thôi!
- Ngọc hứa...
Nhưng kỳ thi năm ấy thật là đen đủi cho Ngọc, cô trượt cả 2 trường. Còn Đạt lại đỗ cả Kinh tế, cả Xây dựng với điểm số rất cao. Được tin, Ngọc òa khóc như mưa như gió. Còn Đạt hững hờ nhìn cô như giễu cợt một đấng thiên thần kiêu kỳ chẳng còn đôi cánh nào để bay lên được nữa. Ngọc đau xót nhìn Đạt van lơn, cầu cứu. Cô linh cảm một tình yêu đẹp đẽ sẽ trôi đi như dòng nước bị người ta xua đuổi. Nhưng Đạt quay đi và nổ máy, gửi lại cho Ngọc một cái nhìn thương hại.
- Ngọc hiểu cho Đạt và cũng đừng buồn nữa, số phận mà!
"Số phận", cô thấy cổ họng mình khô rát. Khi người ta muốn rũ bỏ, muốn dối trá người ta đều đổ cho số phận hay sao? Sao Đạt không nói trắng ra là bây giờ Đạt không còn yêu Ngọc nữa. Sao Đạt không nói rằng Ngọc đâu có xứng đáng với Đạt: Ngọc trượt đại học còn Đạt sẽ tiếp tục giấc mơ học hành, Ngọc chỉ là bông hoa kẹo ngớ ngẩn nhàu nát ngày nào. Bây giờ Ngọc mới thấm thía lời Hà Phương đến thế!
Cường vui sướng khi Ngọc trở về. Cậu ta sợ nơm nớp lo Ngọc sẽ đi xa mãi mãi. Gương mặt Ngọc tái đi, Ngọc không muốn nói cho Cường biết hết mọi chuyện, cô chỉ ậm ừ cho xong, Cường càng hào hứng:
- Công chúa cứ đi học trước còn Cường sẽ cố gắng đỗ đại học năm tới. Cường hứa mà...
- Đừng gọi Ngọc là công chúa nữa, Ngọc chán lắm rồi!
Cường không hiểu gì cả. Nụ cười vẫn tươi rói và cái chất giọng khỏe khoắn ngân nga một bài tiếng Anh nào đó.
- Gọi là cho vui mà, Ngọc bận tâm làm gì!
Đúng là Cường ngốc. Nếu như một cháng trai tinh ý khác sẽ không nói câu đó. Nó chỉ làm cho người con gái đang bực bội càng bực bội hơn mà thôi. Nhưng Cường thật thà, mà tìm người con trai đến mức thật thà ấy không phải dễ. Ngọc có bực mình thật nhưng Ngọc thấy lòng nhẹ bỗng. Cô chẳng muốn suy nghĩ gì nữa thêm cho mệt. Ở đời người chỉ có điên thì mới tuyệt vọng vì tình. Cô còn qúa trẻ, còn qúa trẻ và cuộc đời còn tạo nhiều cơ hội cho cộ Giọng Cường nịnh nọt:
- Công chúa ăn chè ba màu nhé. Món này công chúa vẫn thích cơ mà?
Ngọc thấy mình vô lý khi giận Cường. Cậu ta chẳng có lỗi gì trong chuyện này cả. Và cô cũng thấy mình bất lịch sự - dù trước Cường cô luôn được bỏ qua những nhược điểm ấy. Mình không được sống khác đến thế. Mình phải là mình.
Ngọc nhớ hôm nay là ngày sinh nhật Đạt. Mọi năm vẫn thế. Cứ vào ngày này trời lăn phăn mưa. Cái mùa đến lạ. Ngày trước Đạt vẫn tự hào nói Đạt được mùa sinh. Nhưng Ngọc cãi: mùa xấu lắm, chẳng có trăng gì cả. Ừ mà không có trăng nhỉ! Tại sao? Tại vì mùa quên mất lời thề nguyền. Thế đấy, ánh trăng chốn đi cũng đồng nghĩa với lời thề nguyền không linh ứng. Ngọc mới hiểu rằng mọi toan tính trong tình yêu luôn đi với thất bại.
Kim Loan
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Những mùa xuân kỷ niệm

Những mùa xuân kỷ niệm

Đó là những mùa Xuân ở trại tỵ nạn.
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand.
Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).
Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả:
- Mấy em ở vùng nào?
- Dạ, gần chợ Xóm Mới ạ! Còn các anh?
- Mấy anh thì ở khu chợ Gò Vấp, kéo dài trên đường Lê Quang Định.
Ôi, nếu còn ở Việt Nam, thì Xóm Mới và khu Lê Quang Định cách xa nhau, như kẻ đầu sông người cuối sông, có khi cả đời cũng chẳng gặp nhau, nhưng vì nơi đây trên xứ người, lại mang thân phận tỵ nạn, nên bỗng dưng “tình mến thương” dạt dào. Nhìn mặt mũi chúng tôi còn “ngơ ngác nai vàng” và bộ dạng xốc xếch như mới chui ra từ vùng kinh tế mới, nên các anh động lòng trắc ẩn, nổi máu “Lục Vân Tiên”:
-Thôi, hãy cứ vui hưởng đời tỵ nạn trước đã! Buổi chiều giao thừa mời các em đến nhà đón Tết, có món chè đậu xanh và bánh chiên.
Chúng tôi sung sướng nhận lời, ít ra cũng có “độ” như mọi người xung quanh. Vài ngày sau, tôi gặp lại Thầy giáo xóm cũ ở Việt Nam. Thầy chẳng dạy tôi ngày nào nhưng là hàng xóm và là bạn đánh cờ tướng với ba tôi. Thầy mừng rỡ hỏi thăm chuyện chòm xóm và trước khi ra về cũng không quên mời chúng tôi đến nhà Thầy 8 giờ tối giao thừa ăn chè đậu đỏ và đậu phộng da cá chiên bơ. Chúng tôi lại sung sướng nhận lời, vì tiệc của mấy anh đồng hương là 5 giờ chiều, nên vẫn còn thời gian để “chạy sô” qua nhà ông Thầy giáo.
Vậy mà vẫn chưa hết, chỉ hai ngày trước Tết, một cô bạn trong nhóm tôi tình cờ gặp lại bạn tù vượt biên ngày xưa khi chúng tôi đang xếp hàng chờ lãnh nước. Qua vài câu trao đổi, thấy chúng tôi còn bơ vơ chưa có tiền tiếp tế, người bạn này cũng mời chúng tôi ăn chè đậu đen và bánh ngọt đêm giao thừa lúc 10 giờ tối. Lần này thì chúng tôi không còn… sung sướng nữa, đành phải gật đầu, mà trong lòng đã bắt đầu bội thực... chè. Kể từ ngày đó, chúng tôi không dám đi lang thang trong trại, vì sợ gặp người quen mời ăn... chè thì làm sao dám từ chối? (nghèo mà chảnh dữ!)
Sau đêm giao thừa chạy ba “sô” để ăn chè đậu xanh, chè đậu đỏ, và chè đậu đen, chúng tôi sợ chè đến tận mấy tháng trời. Chẳng lẽ câu “ớn chè đậu” là do chúng tôi phát minh ra!?
Tôi cũng chẳng ngờ người Việt mình vẫn mang theo những phong tục tập quán quê hương. Đêm giao thừa, nhiều người vẫn chưng hoa quả, nhang khói ngay trước cửa nhà như bàn thiên tại Việt Nam. Sáng mồng một, tôi và mấy cô bạn còn đang ngủ nướng sau một đêm ăn chè liên tục, đã nghe tiếng người xôn xao đi chúc Tết, nên cũng vội vã trở dậy, sắp xếp lại chỗ ở cho gọn gàng để xuất hành đầu năm.
Chúng tôi dự tính đi lang thang một vòng trại rồi về nhà ăn mì gói với thịt hộp, và ngôi Chùa sát bên khu nhà được chúng tôi thăm viếng đầu tiên. Người ta ra vào tấp nập, khói hương ngào ngạt, chúng tôi được Thầy trụ trì tươi cười tiếp đón có lẽ vì bộ dạng “nhà nghèo” với bộ quần áo Cao Ủy, khác với áo quần tươm tất của những người khác. Sau vài câu thăm hỏi, biết rõ chúng tôi là “ma mới” nhập trại, Thầy đứng lên, rồi bảo:
- Các con chờ đây, Thầy có chút quà cho mấy đứa.
Chúng tôi liếc mắt nhìn nhau với ánh mắt rạng ngời hy vọng, chứa chan niềm vui. Tết nhứt chắc Thầy sẽ lì xì chứ còn gì nữa! Ôi, thế là chúng tôi có thể dẹp mấy gói mì gói để ra chợ ăn hủ tíu, nghĩ tới mà bụng reo liên hồi vì thèm. Hoặc ít ra Thầy sẽ cho chúng tôi thức ăn, mấy dĩa xôi và mấy dĩa bánh tét nhưn chuối ngoài bàn thờ kia cũng hấp dẫn vô cùng. Lát sau Thầy quay trở lại, trao cho chúng tôi một túi ni lông kha khá... nặng, tôi bẽn lẽn hỏi Thầy:
- Cái gì ở trỏng vậy Thầy?
- Là tem thư, phong bì, giấy, bút... chứ còn gì nữa. Tụi con mới vừa nhập trại chưa liên lạc được với gia đình mà!
Chúng tôi cười méo xẹo, lí nhí cám ơn, nhưng hình như Thầy hiểu được nỗi “khát khao” của chúng tôi nên cười mỉm chi:
- Chút nữa sau giờ Ngọ, Chùa có đãi cơm chay cho phật tử, các con nhớ ở lại dùng bữa tân niên với nhà Chùa nghen.
Chúng tôi lại nhìn nhau, vui mừng. Một bữa cơm chay, có thể không đậm đà bằng tô hủ tíu ngoài chợ, nhưng chắc chắn là ngon hơn mì gói.
Vậy đó, cái Tết đầu tiên tại trại tỵ nạn của tôi thắm đượm tình người với nhau khi khó khăn bỡ ngỡ.
Ba cái Tết sau đó thì tôi đã trở thành một người tỵ nạn thực sự với kinh nghiệm Tết đầy mình. Người Việt nổi tiếng cần cù và thông minh, nhất là trong cái khó ló cái khôn, nên Tết đến cũng tìm ra được vài hương vị quê mình dù đang lạc loài nơi trại tỵ nạn. Từ đầu tháng Chạp, trời Thailand cũng se lạnh, nắng hanh vàng và gió Xuân mát rượi vào những buổi sáng. Chẳng biết ai mách bảo với người Thái, mà lúc này ra chợ đã thấy hàng hóa phong phú hơn ngày thường: dưa hấu, trái cây, hoa tươi, đậu xanh, nếp, măng, củ hành, dừa khô làm mứt và các sạp thịt, bò, gà, cá tôm cũng nhiều thêm nên hầu như nhà nào cũng có nồi thịt kho trứng và hành muối.
Chiều hăm ba đưa Ông Táo, đã nghe người ta bảo nhau đi mua bánh chưng, bánh tét, tôi cũng đi dạo ngay một vòng làm cuộc “phỏng vấn bỏ túi”. Ở một điểm nấu bánh tét, kẻ gói bánh, người buộc dây, rồi đặt vào nồi, chộn rộn tiếng cười nói. Tôi hỏi chị chủ nhà:
- Gạo, thịt, đậu xanh thì mua ở chợ. Còn lá chuối, củi lửa, nồi bự chị mua ở đâu?
- Cưng ơi, có tiền mua tiên cũng được, chị nhờ người Thái ra ngoài mua gì chẳng có.
Rồi chị dẫn tôi ra mảnh đất kế bên lô nhà, ở đó mấy thanh niên đang hì hục đào một lỗ sâu khoảng ba gang tay, đặt mấy cục gạch ống xung quanh, là nơi để nấu bánh tét đêm nay, khung cảnh tưng bừng, ấm áp, làm vơi đi nỗi lòng những người con xa quê.
Ngoài món mứt dừa đi đâu cũng thấy các bà các cô ngồi bên chảo trổ tài khéo, có chị còn làm món hiếm như mứt gừng dẻo thái sợi, mứt tắc, mứt cà chua, tôi đi một vòng hỏi thăm đều được mời ăn thử cũng đã thấy no bụng.
Sau màn bánh tét và mứt, người ta rủ nhau tìm các cành cây khô đem về nhà, cắt hoa mai bằng giấy vàng, nhụy đỏ, lưa thưa lá xanh, dán lên cây, điểm thêm vài tấm thiệp màu mè, là có ngay một cành mai, dù là bằng giấy, nhưng vẫn “rực rỡ mùa Xuân” như thường.
Hai câu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ - Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”, vậy mà cũng gần đủ trong trại tỵ nạn. Này nhé, nồi thịt kho trứng, hành muối thì hầu như ai cũng có, bánh chưng bánh tét đã nấu xong, chỉ việc… mua về. Câu đối thì sao? Xin vào Chùa hay Nhà Thờ, sẽ thấy ngay hai hàng câu đối đỏ viết theo lối thư pháp mới, bay bướm như rồng bay phượng múa được đặt uy nghi trang trọng hai bên bàn thờ.
Và các bạn có tin không, đêm giao thừa cũng có pháo. Tuy không nhiều, nhưng đã có người mua được bên ngoài đem vào trại. Giao thừa năm ấy, tôi vừa đi lễ nhà thờ về, đã có mấy người bạn làm chung ghé qua, mang theo một dây pháo chuột làm quà mừng tuổi. Khi đồng hồ chỉ 12 giờ đêm, chúng tôi châm ngòi đốt pháo, rồi lác đác nghe vài tiếng pháo vọng lại, xen lẫn tiếng đập, gõ nồi niêu xoong chảo thay cho tiếng pháo, rồi tiếng cười nói, chúc tụng nhau giữa những bữa liên hoan đón phút giao mùa làm cho đêm Xuân trên xứ người bớt nỗi quạnh hiu.
Mỗi sáng mồng một, chúng tôi luôn có chương trình “xuất hành đầu năm”, đi chúc Tết những người thân quen, bạn làm chung, lũ học trò nhỏ. Đến đâu cũng được mời ăn uống, dù chỉ là miếng bánh, ly trà, nhưng những câu chuyện luôn rôm rả, đầy lạc quan cho một ngày không xa trên quê hương thứ hai.
Khắp nơi trong trại, thiên hạ đi qua lại cũng đủ vui. Chùa và Nhà Thờ là hai nơi nhộn nhịp nhất, ngoài các buổi lễ tôn giáo, còn có đầy đủ các phong tục ngày Tết như lắc xăm bên Chùa và bên khuôn viên Nhà Thờ có các gian hàng vui chơi ngày Tết do đội Thiếu Nhi Thánh Thể phụ trách.
Khi trời xẩm tối, các khu nhà trong trại, dưới ánh đèn dầu hoặc ánh đèn điện xài bình accquy, đây đó là những nhóm người tụ tập ăn uống mừng Xuân, chơi đánh bài, và bỗng vang lên tiếng đàn guitar thùng bập bùng điệu bolero da diết, với giọng ca nam trầm ấm, đầy tâm sự:
“Ôi nhớ Xuân nào thuở trời yên vui - Nghe pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi …”, buồn muốn khóc.
Nói đến khóc, tôi cũng phải nhắc đến những giọt nước mắt của những đứa con xa quê mẹ trong những ngày Tết. Ngay trong nhóm chúng tôi, một cô bạn mới sáng mồng một của Tết đầu tiên đã ngồi khóc sụt sùi nức nở, đòi về Việt Nam ăn Tết với… Má! (cái này thì ai chiều cho nổi?). Các bà các cô ở gần sợ xui vội chạy qua dỗ dành, vừa năn nỉ vừa răn đe mới xong. Khi đi chúc Tết người này người kia, đôi khi thấy ai đó cặp mắt đỏ hoe, sưng vù, khỏi cần hỏi cũng biết đêm qua khóc vì nhớ pháo giao thừa, nhớ gia đình thân thương.
Rồi thì ba ngày Tết cũng trôi qua, không đầy đủ hương sắc như ở quê nhà, nhưng đó là những cái Tết “đặc biệt” trong lòng mỗi người Việt đã từng sống qua đời trại tỵ nạn.
Cuộc sống mới trên quê hương thứ hai, có đôi lần tôi nằm mơ thấy được trở lại trại tỵ nạn một buổi sáng mùa Xuân, đang theo dòng người rộn ràng đi chợ sắm Tết. Có một người đứng chờ tôi bên cây me già nơi ven đường, trước sân trường học ESL. Người ấy đã ngại ngùng, bối rối trao tặng tôi mấy đóa hồng đàm tiếu còn đẫm những hạt sương long lanh. Ôi, Xuân của đất trời đẹp xinh, và Xuân trong lòng tôi cũng lâng lâng, quá đỗi ngọt ngào như đôi mắt của người trao hoa.
Những mùa xuân đời vẫn đến rồi đi, nhưng những mùa xuân êm ái như xuân tỵ nạn Thailand của tôi (và của các bạn, ở một trại tỵ nạn nào đó), dù không quay trở lại, cũng sẽ sống mãi trong ký ức của chúng ta khi mỗi độ Xuân về.
Xuân Ất Tỵ 2025
Kim Loan
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Ngày xưa Nguyễn Thị

Ngày xưa Nguyễn Thị…

Sài Gòn bị đổi chủ khi tôi mới chín tuổi, chưa kịp biết mộng mơ với những bản nhạc tình trước năm 1975. May mắn thay, vài năm sau đó, khi phong trào “đốt sách trả thù” của chính quyền Cộng Sản lắng xuống, mấy anh chị lớn trong nhà còn giữ lại được một số tờ nhạc, băng nhạc cũ, đem ra nghe lén mỗi đêm khuya vắng. Các tờ nhạc đa số là nhạc Phạm Duy, Trần Thiện Thanh, nghe mấy ông anh ôm đàn và hát, tôi thích lắm. Băng nhạc cassette thì chỉ có một hai băng của ca sỹ Thái Thanh, nghe đi nghe lại, nào Ngàn Thu Áo Tím, Nghìn Trùng Xa Cách, Kỷ Vật Cho Em… nhưng chả hiểu sao đọng lại trong tôi nhiều nhất, là Ngày Xưa Hoàng Thị, có lẽ vì câu chuyện tình lãng mạn đẹp xinh của tuổi học trò làm tôi xao xuyến. Thuở ấy, không có Google hay báo chí để tra hỏi, nên tôi nào rành rẽ về bài thơ hay bài nhạc, chỉ biết yêu vô cùng lời nhạc, lời thơ, thế thôi.
Thế là tôi yêu tiếng hát Thái Thanh dù sau đó gia đình tôi có thêm các tiếng ca khác mà anh chị tôi thu thập từ bạn bè hoặc từ các tiệm sang băng lậu ngoài chợ trời Tạ Thu Thâu: Thanh Thuý, Nhật Trường, Thanh Lan, Phương Dung, Sĩ Phú, Duy Quang, Elvis Phương… với nhiều bài hát mới.
Riêng bài Ngày Xưa Hoàng Thị vẫn sống lâu nhất trong trái tim tôi, vì một buổi trưa đầu hè năm lớp 12, tôi bước vào lớp, thấy trong hộc bàn một tờ giấy màu xanh lơ, có ép một cánh bướm làm từ hoa phượng và mấy câu thơ:
Em tan trường về
Cuối đường mây đó
Anh tìm theo Ngọ
Dáng lau lách buồn
Tay nụ hoa thuôn
Vương bờ tóc suối
Tìm lời mở nói
Lòng sao ngập ngừng…
Chẳng có tên người gửi, cũng chẳng ghi tên người nhận. Lập tức, đám “thám tử” con gái lớp tôi chạy đi “điều tra lý lịch” tác giả lá thư. Được biết, người ngồi cùng chỗ đó của tôi (lớp buổi sáng) là chàng tuổi trẻ tên là Hồng Ân, nhỏ hơn tôi một tuổi (học lớp 11), trắng trẻo, đẹp trai, con nhà giàu ngay ngã tư chợ Xóm Mới. Nhưng các “thám tử” không thể tìm ra, là lá thư ấy chàng trẻ tuổi cố ý gửi cho tôi, hay tính gửi cho… con bé nào khác mà để quên trong hộc bàn? Tôi chả quan tâm chuyện đấy, thư để trong hộc bàn của tôi, rất ngay ngắn gọn gàng, nghĩa là gửi cho tôi. (Ai cấm em trai tương tư… bà chị học trên lớp hở mấy nàng “thám tử” rách việc kia?) Cánh bướm đẹp quá, tờ thư xinh quá, và nhất là mấy câu thơ lần đầu tiên tôi được đọc vì trước đó chỉ nghe bài hát. Dù chỉ có mấy câu, tôi cũng đoán cả bài Thơ sẽ còn hay hơn nhiều. Tôi bỏ lá thư trong cặp, mang về nhà, đọc đi đọc lại nhiều lần, và mong “người ta” gửi tiếp cho trọn… bài thơ!
Tôi cũng chẳng ngờ bài hát đó lại có duyên, theo tôi đến tận con đường vượt biển, qua trại tỵ nạn Thailand. Hôm ấy, tôi đang say giấc nồng trưa hè thiu thiu thì bỗng nghe bên nhà hàng xóm mở cassette (xài bằng bình ắc-quy) bài Ngày Xưa Hoàng Thị qua giọng ca Thái Thanh. Tôi bỗng tỉnh ngủ, như chợt gặp lại “người xưa”, cầm theo giấy bút chạy qua để thưởng thức điệu nhạc quen thuộc và chép lời. Chị chủ nhà, cũng là người chung chuyến tàu với tôi, rất vui vẻ quay đi quay lại bài hát gần chục lần (sắp nhão cả tape) để tôi kịp ghi lại đầy đủ bài hát. Từ đó tôi cứ lẩm nhẩm bài này với bạn bè cùng lô nhà và cả khi chúng tôi tụ tập nhóm “đờn ca tài tử”.
Nhóm chúng tôi, những thanh niên thiếu nữ, trong đó Dzũng Lé là tay guitar cừ khôi, trước khi đi vượt biên, từng chơi cho các nhóm nhạc “Ca Khúc Chính Trị” tại Sài Gòn. Còn có Trung, chàng thư sinh Nhạc Viện, đi vượt biên ôm theo cây đàn Violin, khi tàu bị bão tố trên biển đông, hành lý phải quăng ra biển cho nhẹ con tàu, Trung vẫn cương quyết ôm cây đàn, che chở bảo vệ nó, mang nó vào trại tỵ nạn. Những buổi tối gió lạnh nhớ nhà, chúng tôi đề nghị Trung kéo đàn những bài tango nổi tiếng, như La Comparsita (mà nhạc sỹ Phạm Duy đặt lời Việt là Vũ Nữ Thân Gầy), La Paloma (Phạm Duy viết thành Cánh Buồm Xa Xưa), hay điệu Valse với nhạc phẩm trứ danh Blue Danube (Phạm Duy viết thành Giòng Sông Xanh). Giữa đêm đông se lạnh tha phương, tiếng đàn violin réo rắt, tha thiết, bay bổng đến lặng người. Khán giả tỵ nạn kéo đến càng đông, Trung nhắm mắt say sưa kéo đàn, chẳng để ý biết bao đôi mắt ngắm nhìn thán phục, cảm mến. Mến chàng nghệ sỹ ít nói, có duyên, hay mến tiếng đàn mênh mang vời vợi nơi trại tạm dung? Rồi tiếng đàn chuyển qua những nhạc phẩm trữ tình khác, nào Dấu Tình Sầu, nào Niệm Khúc Cuối, Đêm Nay Ai Đưa Em Về… khiến mọi người rưng rưng thổn thức.
Tôi không có giọng hát hay nhưng thuộc nhóm “hay hát”, nên sau phần độc tấu violin và phần solo của những giọng ca quyến rũ người nghe, cuối cùng cũng đến lượt tôi được… cầm giấy ca bài “tủ” của mình, rất hào hứng, say sưa: “Em tan trường về …”
Cứ ngỡ ca chơi trong nhóm cho vui, ai ngờ Dzũng Lé đã cho tôi một bất ngờ nhớ đời. Mùa Giáng Sinh 1992, trường Việt Ngữ và nhóm nhân viên ngoại quốc YWAM (Youth With A Mission) tổ chức buổi tiệc tiễn đưa cô hiệu trưởng Sue về Australia. Tôi là cựu giáo viên nên được mời và được yêu cầu mặc áo dài với các cô khác vì cô Sue cũng mặc áo dài. Tôi hớn hở đến dự, thảnh thơi ngồi ăn uống, xem văn nghệ có Dzũng Lé chơi đàn guitar trong ban nhạc. Đến giữa chương trình, Dũng Lé ghé tai người MC thì thầm gì đó, rồi anh MC ra giới thiệu:
– Kính thưa quý vị, sau đây là một giọng ca… bình thường, nhưng tâm hồn văn nghệ thì trên cả bình thường! Cô chưa bao giờ vắng mặt trong các nhóm văn nghệ bỏ túi trong các khu nhà trong trại. Xin mọi người cho một tràng pháo tay cho cô cựu nhân viên bưu điện và hiện nay là nhân viên Cao Uỷ Định Cư!
Tôi chưa kịp phản ứng gì, bà con vỗ tay rầm rộ và đẩy tôi lên sân khấu. Tôi nhăn mặt, liếc Dzũng Lé:
– Ca bài gì bây giờ?
– Thì cái bài Ngày Xưa Hoàng Thị bà hay ca đó.
– Nhưng tui không thuộc.
– Nhớ tới đâu ca tới đó, dễ mà.
– Nhưng chưa tập dợt với ban nhạc gì ráo.
– Bà khỏi lo, cứ tập trung vào chuyên môn… ca hát, tụi tui sẽ đuổi theo bà!
Tôi đành bấm bụng làm ca sỹ. Ban nhạc đánh bài Ngày Xưa Hoàng Thị theo điệu valse hơi nhanh, nhưng tôi bị ảnh hưởng cách hát luyến láy, “điệu chảy nước” của cô Thái Thanh nên mở đầu câu hát thật dẻo, thật dịu dàng đong đưa, rồi lên cao vút, thành ra ban nhạc bị trật nhịp, nhạc chơi đường nhạc, tôi hát đường tôi, họ ra sức rượt theo, vã mồ hôi hột. Đã vậy, lời bài hát cứ lặp đi lặp lại: “Em tan trường về… Anh theo Ngọ về... Em tan trường về… Mưa bay mờ mờ…” Tôi run quá, không nhớ lời kết, cứ đứng đó ca tới ca lui: “Em tan… Anh theo… Em tan… Anh theo…” Khán giả ở dưới cũng nhận ra điều ấy, càng vỗ tay lớn hơn theo nhịp để cổ vũ tôi đang mặt mũi xanh lè vì bối rối. Dù sao, Dzũng Lé cũng là tay guitar chuyên nghiệp, đã nhanh miệng làm “đạo diễn” dẫn dắt ban nhạc xuống “tông”, và nhắc tôi từ từ bình tĩnh, có Dzũng hát kèm phía sau, dìu tôi vào câu “coda”, kết thúc rất ngoạn mục trong tiếng reo hò của cả hội trường.
Sáng hôm sau tôi ra bưu điện dò thư, mấy anh bưu điện nhìn tôi cười mỉm chi:
– Chào em… Ngọ, chiều qua hát bài hát không có… lối ra luôn hen!
Từ đó, họ gọi tôi là “bé Ngọ”, và tôi cũng thích tên “Nguyễn Thị… Ngọ” vì tôi “đường đường chính chính” sinh năm Bính Ngọ, chớ không có ý nhận vơ mình là “nàng thơ” trong bài hát, bởi tôi biết, khi thi sỹ Phạm Thiên Thư “chân anh nặng nề, lòng anh nức nở” thì tôi chưa được sinh ra hoặc còn đang bận rộn… tắm mưa ngoài đường!
Và cũng nhờ “tiếng tăm” của buổi làm “ca sỹ” lan xa trong trại, mà chú nhà báo Hồ Ông (trước 1975 là cây viết châm biếm của tờ Con Ong, hiện đang định cư bên Úc) đem đến cho tôi tờ tạp chí Làng Văn viết về Phạm Thiên Thư có cả nguyên vẹn bài thơ “Ngày Xưa Hoàng Thị”. Tôi mừng rỡ sung sướng chép lại trên cuốn sổ Thơ của mình, và còn giữ đến nay trong tủ sách gia đình.
Kỷ niệm về Ngày Xưa Hoàng Thị và Thái Thanh thì còn nhiều lắm. Đến giờ giới nghiêm, cả trại im lìm trong bóng đêm, tôi và chị bạn chui vào mùng mở máy cassette nho nhỏ chạy bằng “pin”, nghe Thái Thanh phải nghe đêm khuya mới thấm. Có lần chú Tám kế bên vách vọng sang thì thào:
– Cô Loan ơi, cô làm ơn mở volume lên chút xíu cho tôi nghe rõ giọng Thái Thanh, được không cô?
Tôi sung sướng:
– Ủa, chú cũng mê tiếng hát Thái Thanh sao? Hổm rày con đâu biết!
– Chả giấu gì mấy cô, tui chỉ mê nhạc sến nhạc mùi của Tuấn Vũ, Chế Linh. Nhưng giọng cô Thái Thanh làm tôi… dễ ngủ, tôi vốn mắc chứng mất ngủ!
Dễ giựn không nà! Nhưng mà thôi, mục đích nào cũng tốt hết á. Chúng tôi bên này thả hồn theo từng điệu nhạc lời ca cao vút điệu đà của Thái Thanh, còn bên kia chú Tám… ngủ ngon!
Thực ra, suốt một thời gian rất dài, tôi luôn ngại ngùng thú nhận mình là “fan” của Thái Thanh, Phạm Duy, Phạm Thiên Thư vì nhiều lần bị bạn bè chọc ghẹo:
– Úi chào, Thái Thanh là tiếng ca dành cho người già, thích loại nhạc khó hiểu, cao vời! Sao không nghe bolero cho dễ thở?
Mới đây tôi có nói với tụi bạn:
– Giờ tao đã là lứa tuổi U60 (trên 50), có thể công khai tuyên bố là “fan” của Thái Thanh là đủ tiêu chuẩn rồi nha, tụi bay chớ mà ý kiến ý cò!
Bất cứ lúc nào, hễ nghe ai nhắc Thái Thanh và Ngày Xưa Hoàng Thị thì trong tôi lại xốn xang những đoạn đời dấu yêu của “Ngày Xưa Nguyễn Thị… Tôi”, ùa về như thác đổ, lúc vui lúc buồn, có khi làm tôi thao thức mất ngủ cả đêm vì bồi hồi, nhớ nhung.
Ai mang bụi đỏ đi rồi?!.
Kim Loan
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Mùa mưa của chúng mình

Mùa mưa của chúng mình

Về đây với những bước chân trìu mến,
Những bước chân êm trên phố phường quen,
Nếu mưa rơi sẽ mát lòng em…”
(Nhạc PD)
Tôi có nhiều kỷ niệm mưa với Quang.
Nhà tôi và nhà Quang sát vách nhau. Hai gia đình quen biết từ thuở mới di cư vào Nam, về ở xóm này, cùng làm ăn lập nghiệp, nhà tôi mở quán nước giải khát, nhà Quang bán bún riêu, thân nhau như người trong nhà.
Thời đó với chúng tôi, lũ trẻ con vùng ven đô, những cơn mưa mùa hè đồng nghĩa với những niềm vui, đơn sơ mà hạnh phúc. Cứ hễ trời gầm gừ, cả lũ lại réo nhau, chuẩn bị nhào ra ngoài khi những hạt mưa đầu tiên vừa chạm mặt đất. Quang luôn là người đầu tiên đến kéo tôi đi tắm mưa, có hôm tôi ngủ quên trên gác, Quang phải chạy lên đánh thức tôi dậy kẻo tôi lỡ cuộc vui!
Trước khi đi tắm mưa khắp xóm, hai đứa tôi có nhiệm vụ mang mấy cái thau ra hứng nước mưa trước hiên nhà, đổ đầy thùng phuy nước cho gia đình xài. Sau đó chúng tôi nhập bọn với mấy đứa khác, thỏa thích chơi dưới trời mưa, có khi chỉ là giành nhau đứng dưới một cái máng xối để cảm nhận những trận nước mát lạnh bao phủ toàn thân, hay nằm vẫy vùng dưới sàn xi măng bóng loáng của một sân nhà ai mà tưởng như đang bơi trong hồ nước thiên nhiên. Cho đến khi thấm lạnh mệt nhoài, chúng tôi mới chịu trở về, tắm rửa và trùm mền ấm áp chờ bữa cơm chiều. Hôm nào mưa to có sấm chớp, chúng tôi không được phép tắm mưa, tôi và Quang ngồi dưới mái hiên, buồn xo, nhìn bâng quơ nước mưa tuôn qua mái tôn xuống những thau chậu trước nhà. Rồi chúng tôi nghĩ ra trò chơi xếp những con thuyền giấy, thả xuống dòng nước đang cuồn cuộn chảy, thích thú reo hò xem thuyền của ai vững vàng hơn khi vượt qua sóng gió quanh co, và lúc nào cũng kết thúc bằng những trái bắp luộc nóng hổi mà má tôi hay má Quang mua được ngoài vườn hàng xóm.
Có một kỷ niệm với mưa mà sau này chúng tôi lớn lên, gặp nhau thường đem ra nhắc lại. Vào đầu hè năm ấy, chúng tôi vừa học xong lớp năm, cả nhóm được phép đi Sở Thú chơi. Đến chiều khi đón xe bus trở về thì bị lộn xe, đưa chúng tôi đến một vùng lạ hoắc, chúng tôi ngơ ngác hỏi bác tài xế:
– Ủa, phải ngã năm Gò Vấp không vậy bác?
– Gò Vấp gò té gì ở đây! Chỗ này là Lăng Ông.
Chúng tôi mếu máo vì không còn đồng xu dính túi, những đồng bạc cuối cùng đã được xài ở Sở Thú trước khi ra bến xe. Cả đám đứng giữa đường, chưa biết phải làm gì thì trời kéo mây đen thui và ngay sau đó là những hạt mưa nặng chịch đổ xuống ào ào, chúng tôi vội tấp vào quán sửa xe đạp vỉa hè, cùng trú mưa với những người khác. Dù muốn dù không, khi mưa nhẹ bớt, chúng tôi phải đi bộ về nhà, đi tới đâu hỏi đường tới đó chứ không còn cách nào khác. Trời sẩm tối thật mau, mưa nhẹ hạt dần, mấy đứa đội mưa rảo bước trên đường, run như cầy sấy, răng đánh vào nhau cồm cộp. Tôi bật khóc nức nở vì nhớ nhà, mấy đứa bạn xúm vào hỏi han, tôi càng khóc to hơn vì tủi thân, đến khi Quang dỗ dành thì tôi mới chịu hết khóc.
Quang cũng thường bênh vực che chở tôi trong các cuộc chơi trong xóm. Chơi trò bịt mắt bắt dê, tạt lon, nhảy dây, hễ tôi bị “đừ” lâu là Quang đòi tha cho tôi, Quang lớn tuổi hơn trong nhóm nên đứa nào cũng nghe lời, chơi lại từ đầu. Những buổi đi sinh hoạt đoàn đội, cắm trại hè, Quang luôn ở bên bảo vệ tôi khi cần thiết (kể cả những khi không cần thiết). Đôi lần, tôi ngắm Quang và ngây thơ thầm nghĩ: “Mai mốt lớn lên, nếu không ai chịu lấy mình, thì mình... cưới Quang cũng được chứ nhỉ!”
Lên cuối cấp hai, nhóm chúng tôi bắt đầu xa nhau. Một vài đứa nghỉ học lo mưu sinh giúp cha mẹ, tôi và Quang vẫn đi học nhưng khác trường. Gia đình tôi dọn vào căn nhà trong hẻm xóm trên, còn căn nhà mặt tiền kế bên nhà Quang chỉ để buôn bán. Vì thế, tôi ít có dịp về xóm cũ, những trò chơi tuổi thơ chỉ còn là kỷ niệm. Chúng tôi không còn gọi nhau mày tao, mà xưng tên. Thỉnh thoảng tôi có ghé qua quán nhà tôi buổi sáng để uống sữa đậu nành ăn gói xôi trước khi đi học, có gặp Quang hay bạn bè cũ, cũng chỉ kịp nhìn nhau cười, rồi thôi.
Một chiều chúa nhật, tôi rảnh rang đi tìm bạn xóm cũ, chẳng gặp đứa nào, nhưng may mắn còn có Quang đang ngồi trước cửa lặt rau muống phụ gia đình bán bún riêu. Tôi sà vào cùng nhặt rau, hai đứa hỏi thăm qua lại, nhắc vài chuyện “khi xưa ta bé” rồi bâng khuâng tiếc thời gian qua mau. Quang bỗng nhìn tôi, ánh mắt… dễ thương lạ lùng:
– Em thua anh hai tuổi, phải gọi bằng “anh” chứ!
Tôi mắc cỡ, không trả lời, nhưng cả buổi tối về nhà, lòng lâng lâng một cảm giác vui sướng nhẹ nhàng.
Lên cấp ba, chúng tôi càng xa nhau hơn. Tôi bận rộn với sách vở, môi trường mới, bạn bè mới, kỷ niệm với lũ bạn xóm cũ càng lùi dần vào dĩ vãng.
Khi tôi ra trường đi dạy, Quang đã học xong trường Cao Đẳng Kỹ Thuật, đi làm ở xưởng Don Bosco gần chợ Gò Vấp. Một ngày đầu năm học, mưa đang cuối mùa, trời bỗng nổi cơn mưa như thác đổ ngay giờ tan trường, tôi và một ít học sinh phải nán lại, co ro trong lớp chờ cơn mưa tạnh. Bỗng có đứa học trò chạy từ ngoài cửa vào, hớn hở la lớn:
– Cô ơi! Cô ơi! Có…Thầy tới đón cô nè!
Báo “tin vui” xong, nó nhe răng cười rồi biến mất ngoài hành lang. Tôi nhìn ra cửa lớp, thấp thoáng trong tranh sáng tranh tối của gió mưa và những loạt sấm chớp từng hồi, là dáng cao dong dỏng của Quang với chiếc áo mưa màu ghi dài, mái tóc ướt nước, nụ cười bừng sáng và đôi mắt trìu mến. Tôi vui đến ngỡ ngàng, nhưng vẫn không quên quay qua đám học trò nghịch ngợm đang xúm lại cười rúc rích, nghiêm giọng ra oai:
– Chú này là bạn hàng xóm thân thiết của cô, không phải… Thầy, nghe chưa!?
Tôi bước đến, hỏi Quang:
– Ngọn gió nào đưa anh đến đây vậy?
Quang cười, nụ cười vẫn hiền như thuở xưa:
– Anh đi làm về ngang trường, thấy mấy lớp học còn sáng đèn, nên ghé vào.
Tôi hỏi cắc cớ:
– Vậy có mang áo mưa cho người ta mượn không đó?
Quang bối rối, phủi mấy hạt mưa trên áo:
– Anh chỉ có chiếc áo này thôi! Em mặc về nhà trước, trời sắp tối rồi!
Tôi lắc đầu:
– Trời! Ai nỡ lòng nào lấy áo của anh chớ! Nếu anh rảnh thì ngồi đây chơi với em và tụi nhỏ.
Quang cởi áo mưa, nhìn ra ngoài trời, những chiếc lá bàng rụng tả tơi trong sân trường lấp lánh dưới ánh đèn mờ, rồi ngân nga: “Tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt, trời không mưa, anh cũng lạy trời mưa…”
Tôi nhắc:
– Bây giờ là tháng chín nghen anh!
– Thì bài hát tác giả viết sao, anh hát vậy mà …
Mưa vẫn không có dấu hiệu ngừng lại, trời thì càng âm u, các em học sinh cũng đã được phụ huynh đến đón về, chỉ còn tôi và Quang đứng nơi hành lang lớp học. Quang đưa tay ra ngoài trời hứng mưa, rồi bước lại gần tôi, ngập ngừng:
– Thật ra, anh có ý định đến đây mời em đi uống cà phê và ăn hủ tíu ngoài chợ, em thấy sao?
– Dĩ nhiên là em không từ chối, nhưng trời tối thui và ướt át thế này, em xin hẹn lần sau. Giờ em chỉ muốn về nhà, ăn lẹ miếng cơm rồi lên giường nằm nghe nhạc, nghỉ ngơi.
– Thôi cũng được! Nào, em mặc áo mưa vào rồi cùng về.
– Thế còn anh?
– Mưa nhẹ rồi mà, anh ướt một tí cũng chả sao!
– Vậy thì em cũng chẳng cần áo mưa!
– Em biết cứng đầu từ khi nào thế? Hồi bé em ngoan hiền, có cãi lời anh bao giờ đâu?
– Chuyện này thì khác! (vả lại, em không…hiền đâu ạ!), em dứt khoát không thể mặc áo mưa trong khi anh phải chịu ướt. Mà nè, hai đứa mình cùng đi dưới mưa như hồi bé, ôn lại cảm giác xưa, cũng thú vị đấy!
Thế là chúng tôi đạp xe chầm chậm về nhà dưới làn mưa lất phất. Đêm ấy, tôi ngồi soạn giáo án mà còn thả hồn theo mưa gió bên ngoài, tưởng tượng vài vần thơ dự định sẽ khoe với Quang, có đoạn cuối… rất tình:
Chiều dần tàn, cơn mưa chưa dứt
Hai người, chỉ một áo mưa che
Nhường qua nhường lại, thôi cùng ướt
(Đêm về tôi cảm, người biết chưa?)
Chia tay, hẹn gặp nhau lần tới
Xóm nhỏ đỏng đảnh thật dễ thương
“Cũng giống như em”, người thường nói
Chỉ một cơn mưa làm vấn vương!!
Có ai ngờ đó là mùa mưa cuối cùng của chúng tôi. Tuần lễ sau, Quang lên đường vượt biển. Thì ra, hôm ấy Quang đến mời tôi đi uống cà phê để tạm biệt, nhưng chỉ vì cơn mưa mà chúng tôi mất cơ hội nói lời giã từ. Quang đi hai tháng vẫn chưa có tin tức gì, gia đình Quang mỏi mòn chờ đợi, và tôi cũng lên đường.
Dù là đầu tháng mười hai, nhưng hình như là một cơ duyên với mưa, tàu của tôi gặp một cơn mưa bão bất ngờ chỉ sau hơn vài giờ ra khơi. Mưa biển thật dữ dội, điên cuồng và khủng khiếp. Máy thoát nước dưới hầm tàu bị hư, chúng tôi hứng chịu những đợt nước mưa lạnh buốt, trong tiếng sóng gào thét của biển cả và tiếng lòng cầu ơn Đấng cứu tinh. Rồi thì sau cơn mưa trời lại sáng, biển tàn bạo nhưng biển cũng bao dung, đưa chúng tôi đến bến bờ bình an, nhưng nỗi ám ảnh về cơn mưa trên biển làm tôi… sợ mưa!
Nhưng tôi chỉ sợ mưa biển, còn mùa mưa của chúng tôi vẫn luôn là một miền ký ức tươi đẹp, ngọt ngào. Dù biết đời bể dâu biến đổi, cảnh cũ người xưa chỉ còn trong trí nhớ, tôi vẫn cứ mơ một ngày (có ai đánh thuế ước mơ bao giờ!), tôi được về lại xóm cũ, một chiều mưa (dĩ nhiên!), tôi sẽ thả những chiếc thuyền giấy xuống “dòng sông nhỏ” trước hiên nhà, cùng với đám bạn thuở ấu thơ, kể cho nhau nghe nỗi vấn vương những sợi mưa dệt đầy một trời thương nhớ.
Quang ơi, bây giờ anh ở đâu? Tháng sáu về rồi đấy, anh có lạy trời mưa?!.
Kim Loan
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Món nợ năm xưa

Món nợ năm xưa

Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân ty nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Ðức, chụp hình vợ chồng Ðức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Ðức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui:
- Vậy là vài năm nữa con gái có quốc tịch Mỹ, sẽ bảo lãnh hai vợ chồng Ðức qua đoàn tụ, chắc chắn sẽ có ngày chúng mình tái ngộ ở Dallas, Ðức ơi!
Hắn trả lời liền:
- Cám ơn Nàng, nhưng lần này đừng... tài lanh làm mất giỏ đồ của tui nữa nha.
- Quỷ sứ, nhớ dai quá chừng! Tui hứa danh dự, lần tái ngộ sắp tới, sẽ mua một cái giỏ mới toanh, hàng hiệu, trả lại cho bà xã ông luôn nghen.
Hắn để icon mặt cười, rồi kết luận:
- Ừa, Ðức mong đến ngày nhận cái giỏ của Nàng lắm.
Chúng tôi gặp nhau tại bãi hẹn vượt biên, là bến xe Bà Hạt Quận 10, chuẩn bị theo nhóm dẫn đường đưa lên xe đò chạy qua biên giới Mộc Hóa Long An, rồi tiến vào đất Cambodia trực chỉ thủ đô PnomPenh. Ngồi trên xe đò, từ xa lạ cũng trở thành quen biết, cả nhóm 41 người, vì từ đây sẽ cùng chung số phận trên con đường vượt biển tìm tự do.
Tôi và ba cô con gái, cũng mới quen trong chuyến đi, cùng vài thanh niên khác, trong đó có Ðức, vì hơn kém nhau 1-2 tuổi, nên thường trò chuyện đùa giỡn với nhau.
Ðức có giọng hát hay, biết chơi đàn organ, vừa tốt nghiệp trường Âm Nhạc Sài Gòn, tính tình hài hước có sẵn trong máu, hầu như ở mọi tình huống, lúc buồn lúc vui, lúc gặp hiểm nguy, Ðức luôn biến thành những khoảnh khắc vui cười, khiến mọi căng thẳng và nỗi sợ tan biến.
Chỉ vài ngày đầu tiên trên đất Cambodia, đi chợ, đi dạo, đi chơi, tối về khu nhà trọ?nằm vùng? chờ lệnh lên đường đi phố biển Kongpom Som, chúng tôi đã biết khá rõ về mỗi người, gia đình ra sao, hoàn cảnh thế nào, càng thân nhau hơn trong cách xưng hô, thoải mái gọi ông gọi bà xưng tui, riêng Ðức có cách gọi riêng khá dễ thương, là luôn gọi đám con gái chúng tôi là Nàng.
Ðêm tàu ra khơi từ Cảng Kongpom Som, trời 8 giờ tối tháng 12 mù căm, gió lạnh, cả tàu nằm dưới hầm như cá hộp, chật chội, chỉ có tài công và người thợ máy, cùng người dẫn đường của ban tổ chức được ở trên boong tàu. Suốt những ngày qua mệt mỏi nơi đất Cambodia, nay vừa lên tàu, mọi người bắt đầu tìm vào giấc ngủ trong tiếng máy chạy đều đều của con tàu. Dưới hầm tàu tối như hũ nút, nhưng bốn đứa con gái chúng tôi biết mình nằm cạnh nhóm của Ðức, mạnh ai nấy ngủ, co ro trong hầm tàu chật chội. Bỗng nửa đêm tôi giật mình vì nghe tiếng là hét, lộn xộn, ồn ào:
- Chuyện gì vậy cà?
- Máy thoát nước của tàu bị hư, bên ngoài đang có mưa bão.
Lúc này tôi mới để ý dưới sàn tàu có nước, ba cô bạn xung quanh tôi cũng đang dao dác hỏi tin tức từ boong tàu đưa xuống. Tình hình không mấy khả quan, thợ máy đang sửa ống thoát nước nhưng mưa gió càng mạnh hơn, lại có sấm chớp, con tàu nghiêng ngả mỗi khi nước biển và nước mưa tràn xuống hầm tàu. Mỗi lần như vậy, đàn bà con gái trong tàu rú lên, vì lạnh và vì sợ hãi.
Lúc này, có lệnh đưa ra, các thanh niên đàn ông trong tàu phải thay nhau lên boong phụ tát nước ra ngoài, dù biết đó là việc chẳng thấm thía gì so với nước mưa như thác lũ, nhưng đúng như câu 'còn nước còn tát', chứ chẳng lẽ chịu ngồi im chờ con tàu chìm xuống đáy đại dương.
Trong bóng tối mờ mờ, lúc này trời có lúc sáng lóe lên vì ánh sấm chớp và ánh đèn pin trên boong tàu thỉnh thoảng chiếu rọi xuống hầm tàu kêu người lên tát nước. Tôi thấy Ðức ngồi ủ rũ như gà mắc mưa (mà đang mưa thiệt), tôi bảo:
- Tới phiên Ðức lên tát nước kìa.
Ðức uể oải đứng lên, vẫn không quên khôi hài:
- Từ hồi cha sanh mẹ đẻ chỉ biết cầm đờn, cầm micro, giờ kêu Ðức cầm xô tát nước là coi như thua rồi đó, tàu có chìm đừng trách nha Nàng.
- Coi chừng cái miệng ông ăn mắm ăn muối!
Rồi thì đàn ông thanh niên kéo nhau lên boong, còn lại là những ông già bà cả, phụ nữ và con nít ở dưới hầm tàu, tiếng ồn ào không thua gì trên boong. Nhiều người bắt đầu ói mửa khi lắc lư con tàu đi..., chúng tôi theo nhóm xúm lại đọc kinh, ai đạo gì thì đọc kinh theo đạo ấy, trong tiếng la, tiếng khóc hỗn độn của đủ thứ âm thanh.
Lại có lệnh đưa xuống, mọi người nên vứt bỏ thực phẩm và hành lý cá nhân ra ngoài biển để tàu nhẹ bớt. Bốn đứa con gái chúng tôi nghiêm chỉnh chấp hành, tôi cũng còn kịp nhớ giữ lại chiếc phao được cuộn tròn trong cái bịch nhỏ trước khi giao giỏ xách của mình cho người ta truyền nhau lên boong để quăng xuống biển. Cô Nhạn, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong nhóm, đang nằm vật vờ nơi góc hầm, khều tay ra hiệu cho tôi chuyển mấy giỏ xách của cô ấy lên boong giùm, tôi mệt lắm, nhưng cũng cố làm, nhân tiện thấy một cái túi xách gần đó, tôi cũng chuyển lên boong, rồi tìm chỗ ngồi ngả lưng. Mưa có vẻ đang nhẹ dần, bão cũng bớt điên cuồng, tuy máy thoát nước chưa sửa xong nhưng con tàu đã lặng yên phần nào, Ðức từ boong bước xuống hầm, đến hỏi tôi:
- Nàng có thấy cái túi xách của tui đâu không? Rõ ràng là hồi khuya tui nằm chỗ này mà.
Tôi hơi chột dạ, tỉnh hẳn người, lắp bắp:
- Có phải cái... túi da, có buộc... cái khăn bên ngoài?
- Ðúng rồi, đúng rồi.
- Mình... lỡ tay đưa lên boong quăng ra ngoài biển rồi.
- Trời, ai xui ai khiến Nàng chớ!
- Thì lệnh của ban tổ chức, ai cũng phải nghe theo mà.
- Thì tui đang xuống đây để làm theo lệnh đó.
- Thì ai làm cũng vậy, làm gì dữ vậy!?
- Sao không dữ? Nàng có biết tui có 2 chỉ vàng ở trỏng không! Giời ạ!
Tôi giật mình, tá hỏa, chẳng biết phải nói gì, đây là tình huống đầu tiên Ðức không hài hước. Tôi biết lỗi, nhưng vẫn cố cãi:
- Ði vượt biên thì vàng phải dấu trong người, trong áo quần đang mặc, ai lại để trong giỏ xách bao giờ.
Ðức chẳng nói gì thêm nữa, đi ra phía đầu máy, nơi đó có miếng ván cao ráo, nằm xuống để ngủ bù sau một đêm mệt đừ tát nước. Tôi bước đến, lí nhí:
- Ðức ơi, cho mình xin lỗi nhé, hồi khuya quay cuồng theo sóng gió con tàu, mình không được... tỉnh táo cho lắm, chỉ nghe cô Nhạn nhờ quăng giùm mấy cái giỏ, nên tiện tay gom hết luôn, ai dè...
Ðức xua tay, dịu giọng:
- Thôi cho qua đi, tui ngủ chút xíu.
Biển nổi cơn thịnh nộ, rồi biển cũng trở lại dịu dàng, máy thoát nước trên tàu cũng đã sửa xong, và chiều ngày hôm sau đã thấy vết đất liền Thailand ở xa xa. Ðến mờ tối, tàu nhanh chóng thả 41 người chúng tôi xuống bãi san hô giữa biển, rồi vội vã quay tàu, tăng tốc độ đi ngược ra phía biển trở lại Cambodia. Chúng tôi chơ vơ giữa bãi san hô, cũng may nhờ tôi có chiếc phao, đem ra thổi, cho hai thanh niên trẻ bơi vào bờ, gọi ghe của dân đánh cá Thái ra cứu. Sau đó có 2 chiếc ghe chèo ra bãi san hô, nói chuyện với chúng tôi bằng Tiếng Anh?to quở, đại khái là mỗi nhóm tối đa 3-4 người được lên một ghe, và phải trả cho họ bằng tiền, vàng, hoặc bất kỳ trang sức nào đó như nhẫn, dây chuyền, đồng hồ. Tôi quay qua Ðức:
- Chút Ðức đi với mình nhe, vì Ðức thì đâu còn vàng bạc gì.
Ðức cười cười, liếc tôi:
- Ðương nhiên rồi Nàng, còn phải hỏi!
Từng nhóm lần lượt lên hai chiếc ghe, xong mỗi chuyến, họ quay lại đón nhóm kế tiếp, tôi và Ðức cùng một cô bạn là nhóm cuối cùng trên chiếc ghe cuối cùng đi vào bờ. Ôi trời ơi, vừa bước chân xuống đất, mới biết đó là vùng đầm lầy, sình ngập qua đầu gối, nặng chịch, không nhấc chân lên nổi. Cô bạn gặp được một chú đi trước giữa bãi sình, đứng đợi rồi họ giúp nhau, tôi chỉ còn biết dựa vào Ðức. Mấy ngày nay trên tàu nào có ăn được gì vì lương thực quăng ra biển hết ráo, giờ mới thấy đói khát và kiệt sức. Tôi mềm như cọng bún, ôm cổ Ðức ghì chặt, chàng thư sinh nhạc viện gầy yếu cũng ráng gồng hết sức kéo tôi lê lết qua bãi sình lầy rất khó nhọc nặng nề.
Có thể nói, trên con đường vượt biên, rồi đến trại tỵ nạn, những người chung chuyến tàu là những người thân thương nhất, vì cùng trải qua những chặng đường sinh tử trên biển, gắn bó có nhau, qua đến trại vẫn phải dính chùm nhau mọi nơi mọi lúc. Cao Ủy chia mỗi nhóm tàu một lô nhà ở chung, thành hàng xóm của nhau. Ði lãnh gạo lãnh thực phẩm cũng đi theo lô nhà, đi làm giấy tờ trên văn phòng trại cũng phải theo lô nhà, tới ngày dọn vệ sinh khu trại cũng phải đi theo lô nhà, hỏi sao không gần gũi như người trong một đại gia đình.
Có những buổi trưa rảnh rang, hoặc chiều mưa ướt chẳng đi đâu được, nhóm tàu chúng tôi quay quần tán dóc, nhắc về chuyến vượt biển, Ðức lại hí hứng khoe với mọi người:
- Cái đêm đến bờ biển Tha Luông, chính tui là người ẵm nàng Loan này vào bờ chớ ai.
Mọi người cười ha hả, tôi phải đính chính:
- Ẵm, bế hồi nào vậy cà!? Nói chính xác là kéo lê kéo lết.
- Ối, lúc đó Nàng mệt lả người, mắt nhắm mắt mở, nhớ gì chớ!
Một buổi sáng, bốn đứa con gái chúng tôi vừa thức dậy, cây kem đánh răng cứng quá, đúng lúc Ðức bước qua tính xin chút kem đánh răng, tôi nói:
- Nè, nhờ Ðức bóp giùm.
Ðức chớp thời cơ:
- Bóp trên hay bóp dưới?
Vì miệng chưa đánh răng, mặt mũi chưa rửa, nên tôi khép nép trả lời:
- Phải bóp từ dưới lên trên, mà phải bóp từ từ, đừng bóp mạnh quá.
Mấy chị mấy cô xung quanh lô cười rần rần, tôi mới biết đang bị Ðức chọc phá.
Bữa khác, buổi chiều, chúng tôi chuẩn bị đi lễ nhà thờ, đi qua nhà Ðức thấy Ðức vẫn ngồi ngoài cửa:
- Ủa, sao bữa nay Ðức không đi lễ?
- Có cái quần Jeans tối qua thằng bạn lô kế bên mượn đi chơi với bồ chưa trả.
- Trời đất! À mà nè, mặc quần shorts đi lễ cùng được mà, Chúa đâu chấp nhất chuyện áo quần.
- Không! Ðức đi lễ hoặc đi hát, thì phải nghiêm chỉnh đàng hoàng, còn không thì ở nhà.
- Ở trại tỵ nạn mà cũng... chảnh dữ hen?
- Ừa, tui dzậy đó!
Có lẽ, cái máu thích đùa và máu 'điên' tiềm ẩn từ lâu trong tôi, đã được đánh thức từ khi gặp Ðức.
Ðời tỵ nạn vẫn trôi qua, có ngày vui xen lẫn ngày buồn, thấm thoát đã qua năm thứ ba của đời tỵ nạn. Tình hình Thanh Lọc càng căng thẳng, chương trình cưỡng bách hồi hương thông báo sẽ bắt đầu, và thuyền nhân đã biểu tình rầm rộ. Ðám đông phá hàng rào, tràn ra ngoài lộ, giương biểu ngữ chống cưỡng bách trước hàng trăm họng súng và xe cảnh sát Thái bao vây. Cả trại hoang tàn vì một số người bạo động đã phá các cửa hàng người Thái ngoài chợ, phá cửa nhà tù, khiến Bộ Nội Vụ Thái báo động khẩn cấp, các văn phòng thiện nguyện ngoại quốc đóng cửa, không dám vào trại, đại diện Cao Ủy phải đi máy bay trực thăng từ Bangkok đáp xuống bãi biểu tình để đàm phán với dân tỵ nạn.
Ði trong buổi chiều đầy vỡ vụn xung quanh, Ðức hỏi tôi:
- Nếu rớt thanh lọc, Nàng có ghi danh hồi hương?
- Theo quy định, chúng ta được quyền xin tái thanh lọc 2 lần nếu có những giấy tờ mới bổ sung, nên mình sẽ chờ đủ hai lần tái, rồi sau đó tính tiếp, còn Ðức thì sao? Thú thiệt, thấy nhóm tàu mình có người lai rai hồi hương, đôi lúc cũng thấy nản chí, lung lay.
- Ðức sẽ theo Nàng, là chờ tái đến phút chót, cho đến khi 'chín' thì thôi.
Hai đứa nhìn nhau, cười buồn. Sau đợt biểu tình đó, cả trại được chuyển lên trại mới Sikiew. Tương lai định cư đối với đa số đám đông vẫn là một giấc mơ xa vời, vì nhóm tàu của chúng tôi, chỉ có 8 người may mắn được đậu thanh lọc trong đó có tôi.
Buổi tối chia tay để sáng hôm sau đi qua trại transit dành cho người đậu thanh lọc, tôi đi dạo cùng Ðức. Tôi nói:
- Thế là hành trình tỵ nạn đang khép lại, chỉ vì cuộc Thanh Lọc đáng ghét mà nhóm tàu chúng ta phân chia trăm ngả, mà ngã đông nhất là hồi hương về Việt Nam, thật là buồn.
Ðức trầm ngâm:
- Chẳng ai muốn trở về nơi họ đã dứt áo ra đi, mà thôi, vượt biên có số định cư có phần. Riêng Ðức sẽ nhớ mãi cái cảm giác sung sướng vỡ òa khi bước chân lên bờ biển đất Thái sau mấy ngày bão giông tơi tả. Những ngày ấy có lẽ là những ngày hạnh phúc nhất của đời tỵ nạn, vì chúng ta chưa nhập trại lớn, chưa biết gì về cuộc thanh lọc, ba tuần ở trại nhỏ vui và đẹp như cõi thần tiên.
Ðúng vậy, khoảng thời gian ở trại Cảnh Sát Tha Luông êm đềm xiết bao. Sáng ngủ dậy, chào cờ Thái, xong mọi người tản ra xung quanh trại nhặt rác, gọi là vệ sinh chung, rồi sau đó tự do, từng nhóm tàu nấu cơm trưa, ai rảnh rang thì tụ năm tụ ba nói chuyện tán dóc, kể chuyện cười, cho hết thời gian. Sau bữa trưa, là... ngủ trưa, rồi lại lo cơm chiều, rồi ra hồ nước kế bên trại tắm rửa giặt giũ, ôi vui còn hơn Tết. Buổi tối, mấy nhà cảnh sát Thái mở Tivi cho bà con tỵ nạn vào xem ké, riêng nhóm tàu chúng tôi náo động nhất trại, vì có một anh từng sinh hoạt trong Hướng Ðạo, nên chúng tôi chơi trò chơi Mật Thư, hoặc sinh hoạt vòng tròn ca hát, các trò chơi tập thể. Nhiều người các nhóm tàu khác vây quanh xem chúng tôi chơi, thậm chí ông Cảnh Sát trưởng trại cũng có lần ghé đến xem, thích thú, rồi tặng cả nhóm một thùng mì gói Mama bồi dưỡng.
Ðức ngập ngừng nói tiếp:
- Và dĩ nhiên, Ðức nhớ nhất cái đêm tháng 12 lạnh lẽo không trăng không sao, đã được dìu Nàng vào trong bờ đất liền, kỷ niệm đẹp quá, Ðức sẽ không bao giờ quên.
Tôi cũng mơ màng theo dòng cảm xúc kỷ niệm:
- Còn Loan ư, sẽ nhớ nhất tuần đầu tiên nhóm tàu mình ở khu trại Cảnh Sát Thái, được nấu nồi chè ăn mừng đến bờ tự do, Ðức đã hát bài ''Yêu Một Mình'', giọng ca ngọt ngào tha thiết, đúng là dân tốt nghiệp trường Âm Nhạc.
- Bài hát đó tặng Nàng chớ ai!
- Xạo vừa thôi! Mới gặp nhau trên đường vượt biển, biết gì mà tặng. Vả lại, nhà mình ở Việt Nam có giàn hoa giấy màu đỏ, đâu phải?nhà em có hoa vàng trước ngõ, tường thật là cao có dây leo kín rào...?
- Lúc đó cũng biết nhau cả tháng rồi chớ bộ. Mà ai ngờ bài hát đó lại đúng y chang, sau này khi nhập trại Panatnikhom, là ''mọi người thầm mong được đưa đón chân em...'' trong khi Ðức chỉ là một chàng nhạc sĩ nghèo, con bà ''Phước'' ở trại, nào dám ngỏ lời, nào dám mơ xa...
- Thôi, hổng nói tào lao nữa, Ðức nói đùa y như nói thiệt, nhưng Loan sẽ nhớ mãi cuộc nói chuyện hôm nay, cám ơn Ðức vì tất cả. Chẳng biết tụi mình có được gặp nhau nữa không, chúc Ðức nhiều sức khỏe, may mắn và hạnh phúc trong cuộc sống tương lai.
- Nàng cũng vậy nhé, đừng bao giờ quên nhóm tàu 41 và trại tỵ nạn Thailand.
Chúng tôi từ biệt nhau từ đó, có ngờ đâu, hơn 30 năm sau giấc mơ tái ngộ sẽ trở thành sự thật, vấn đề chỉ là thời gian sớm muộn mà thôi. Tôi mong chờ đến ngày đó, để được thực hiện lời hứa tôi đã nói với Ðức trên Facebook, là sẽ mua một cái giỏ mới, thật đẹp, tặng cho bà xã Ðức, coi như ''nợ nần'' xưa được xóa bỏ.
Ðó là món nợ vật chất, còn cái nợ tình thân, Ðức dìu tôi vào bờ biển Thái năm nào, và những kỷ niệm chia ngọt sẽ bùi của nhóm tàu 41 người, làm sao trả cho hết!
4/2024
Kim Loan
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Valentine cho người chưa gặp mặt

Valentine cho người chưa gặp mặt Trong nhiều lần bay qua Mỹ thăm gia đình, chúng tôi thỉnh thoảng có những chuyến layover tại một trong nhữn...