Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2025

Nhà thơ Bằng Việt và cái nhìn hiện thực bằng ánh mắc xanh ngăn ngắt của thi sĩ

Nhà thơ Bằng Việt và cái nhìn
hiện thực bằng ánh mắc xanh
ngăn ngắt của thi sĩ

Ban đầu, tôi có ý định lấy lại nguyên văn đầu đề bài viết “Thay cho lời tựa” cho Tuyển tập của nhà thơ Bằng Việt, làm tiêu đề của bài viết này: “Người của một thời, thơ của một người…”. Ngay cái tên của bài viết đó đủ nói lên một phần nào về sự đúc kết lại những suy ngẫm, trăn trở và đôi khi dằn vặt, từ mọi trải nghiệm của một đời người cầm bút, khi kinh qua chặng đường dài gian khó hiểm nguy nhất của vận mệnh một đất nước, một dân tộc. Đó cũng là tiếng nói từ cõi lòng sâu thẳm của người đứng trong cuộc đối với thời đại của mình.
Vào những ngày cuối thu năm 2009, nhà thơ Bằng Việt nói với tôi: “ Mình đang tập trung làm một Tuyển thơ ”. Anh bảo, cũng đã đến lúc phải làm tuyển rồi, nay Nhà xuất bản yêu cầu, mình tranh thủ tập trung làm gấp cho xong!. Về bố cục khi tuyển chọn, nhà thơ Bằng Việt cũng rất cân nhắc. Anh bảo, trước đây có làm một tuyển thơ theo chủ đề, nay nghĩ có nhiều bất cập, nên lần này sẽ sắp xếp theo thứ tự thời gian sáng tác. Về Lời tựa cho tuyển chọn, nhà thơ Bằng Việt rất ngẫm nghĩ, từ việc đặt tên bài viết “Thay cho lời tựa”, cho đến nội dung của bài tựa. Anh cũng cho biết, Lời tựa lần thứ nhất, dự anh đã viết xong gửi Nhà xuất bản, nhưng sau một tuần đi cụng tỏc về, anh nghĩ lại và viết lại một bài khác, theo anh, đó là một bản mới hẳn về nội dung, thay thế bản trước, đó chớnh là bài “ Người của một thời, thơ của một người...”. Anh đưa cho tôi đọc cả hai bản, quả là có sự khác biệt khá rõ giữa bản đầu và bản viết mới - dùng để in chính thức.
Bài viết thay lời tựa của nhà thơ  Bằng Việt cho tập sách “Tác phẩm chọn lọc” của anh đã khái quát và đúc kết lại các đặc điểm về phương pháp và thế giới quan chung cho các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Qua đó phác họa nờn những đặc trưng của các sáng tác trong thời kỳ này. Thực ra, đây là câu chuyện của cả một đời người cầm bút với bốn mươi nhăm năm trăn trở, suy ngẫm, chiêm nghiệm và sáng tạo. Nhà thơ Bằng Việt viết: “Có một điểm có lẽ là điểm mấu chốt nhất của thế hệ văn học trưởng thành trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, đó là phạm trù cái tôi biết tự nguyện điều tiết thế nào trong cái ta, bản thể cá nhân mình hoà nhập đến đâu với cả thế hệ mình và biết đặt mình vào mối quan hệ tương hỗ như thế nào, để sẵn sàng đóng góp trên ý thức xây dựng chung, cho tất cả cộng đồng”.
Tập sách “Tác phẩm chọn lọc” của nhà thơ Bằng Việt, cùng với việc tuyển chọn những sáng tác thơ từ các tập thơ của anh đã xuất bản gần nửa thế kỷ nay, cũng cũn một phần là tuyển chọn những tỏc phẩm cổ điển và hiện đại do anh chuyển ngữ từ sáng tác của nhiều nhà thơ trên thế giới. Nhiều bản dịch thơ của nhà thơ Bằng Việt lâu nay đã được nhiều thế hệ sinh viên thuộc và truyền nhau chép vào sổ tay. Nhà thơ Bằng Việt là một dịch giả có uy tín, đã góp phần chuyển tải những tinh túy của thơ thế giới vào nước ta đến với nhiều thế hệ bạn đọc.
Tác phẩm chọn lọc” của Bằng Việt gồm những sáng tác thơ được trích ra từ 7 tập thơ in riêng và 2 tập thơ in chung, xuất bản từ 1968 đến 2008: Hương cây – Bếp lửa (in chung với Lưu Quang Vũ – 1968); Những gương mặt, những khoảng trời (1973); Đất sau mưa (1977);  Khoảng cách giữa lời (1984); Cát sáng (in chung với Vũ Quần Phương – 1985);  Hai tập thơ tình yêu: Phía nửa mặt trăng chìm (1995) và Thơ trữ tình (2002); Ném câu thơ vào gió (2001);  Nheo mắt nhìn thế giới (2008). Số bài được tuyển lần này, theo anh, cú lẽ chiếm độ khoảng gần non nửa tổng số các bài đó in vào các tập trước đây.
Đọc tập Tuyển chọn thơ Bằng Việt tôi thấy rực lên một thời đại hào hùng đã ghi thêm những trang mới huy hoàng vào lịch sử dân tộc Việt Nam. Thời đại mà cả dân tộc qua các thế hệ nối tiếp, đã nung đỏ ý chí của mình, cùng hướng tới một lý tưởng, là giải phóng dân tộc. Nhà thơ Bằng Việt cùng bao nhà thơ cùng thế hệ đã tự nguyện mang tuổi trẻ, tài năng và tâm huyết dâng hiến trọn vẹn cho lý tưởng cao quý đó. Về tinh thần hiến dâng cho lý tưởng của thời đại, trong bài viết “Thay cho lời tựa”, nhà thơ Bằng Việt đã nói rất sáng rõ: “Tính cập nhật quyết liệt, lòng yêu nước cháy bỏng trong chiến tranh, ý thức chủ động phục vụ cho các nhiệm vụ chiến lược của đất nước, tinh thần lạc quan và hăm hở khám phá để khẳng định được cái mới trong đời sống… tất cả những điều đó, hơn bao giờ hết, được đề cao và được coi là tiêu chí phấn đấu cho sáng tác của thời chúng tôi”.
Sự khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, được nhà thơ Bằng Việt tái hiện thông qua những hình ảnh của sức sống quật cường của cả một dân tộc, sức sống đó thật bền bỉ và mãnh liệt, tựa như những thân măng tre mạnh mẽ, đội đất đội đá mà vọt dậy vươn thẳng lên trời cao.
Hình ảnh một em bé vừa được sinh ra trong một căn hầm phủ đầy bom đạn, được nhà thơ nâng lên thành biểu tượng, đó là phút sinh ra những thần Phù Đổng:
“Em bé ngỡ ngàng hơi thở đầu tiên
Hầm sặc vì oi khói
Cô đỡ run tay trong tối
Làm sao cắt rốn cho em?
Bom rơi ù tai
Tiếng nổ rát trời đêm
Xăng đặc bắt trên nhà lem lém (…)
Pháo sáng bay lung liêng
Soi bàn tay cô đỡ”
(Phút sinh ra những thần Phù Đổng)
Ở một tình huống khác trong cuộc chiến tranh, đó là:
“Hộ tập thể chốt trên đồi cao/  Một trai ba gái /
Bi đông nước và băng đạn/  Súng, xẻng và dao”    
(Trước Cửa Tùng).
Và đây là lời chú của tác giả dưới bài thơ này: Thời chiến tranh  chống Mỹ ác liệt nhất, các gia đình ở Vĩnh Linh được chia nhỏ, để phân ra thành các “hộ tập thể”, bao gồm thành viên từ nhiều gia đình, cùng xum họp, ăn ở và trực chiến với nhau. Phải làm như thế vì bom giặc thời ấy quá ác liệt, nhiều gia đình bị bom vùi chết hoặc mất tích cả nhà. Chia lẻ ra, ăn ở riêng, cùng các “hộ tập thể”, nếu có một hộ nào đó không may bị thương vong tất cả sau trận đánh, thì còn các thành viên khác của gia đình vẫn sống, khi đang được ghép vào sinh hoạt ở một “hộ tập thể” khác.
Sự khốc liệt của cuộc chiến tranh, và sức sống phi thường của cả dân tộc Việt Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước, đã hiện lên sống động trên các bài thơ của nhà thơ Bằng Việt xuyên qua các tập thơ, được xuất bản từ năm 1968 đến năm 1985. Ngày nay, chúng ta chỉ cần đọc tên những bài thơ được nhà thơ Bằng Việt sáng tác trong thời kỳ này, đã đủ thấy toả lên ngùn ngụt cái không khí của cả thời kỳ lịch sử đáng ghi nhớ ấy: Tình yêu và báo động; Bên địa đạo Vĩnh Quang; Trước cửa ngõ chiến trường; Đêm gió Trường Sơn; Ghi từ một vùng đất lửa; Bản cũ giữa rừng Lào; Viết cho em dọc Trường Sơn; Tiếng hát dọc những cánh rừng; Từ chiến trường lại viết cho con; Quảng Bình, đêm nghe bom toạ độ; Đêm cuối cùng trên đường 20; Những đoạn thơ tình giữa hai cuộc chiến tranh phá hoại; v.v…
Những sự biến đổi của các vùng quê miền Bắc trong thời kỳ này, cũng được nhà thơ Bằng Việt dành nhiều tâm huyết trong các sáng tác của anh.
Đây là quê lúa Thái Bình bị tàn phá trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ:
“Sau lưng hai ta, bờ bãi Thái Bình
Những nhà đổ in lên màu đất cháy... (…)
Anh qua con sông nước ngập buổi chiều
Bỗng sửng sốt gặp cánh đồng bảy tấn”
(Tột cùng gian truân, tột cùng hạnh phúc)
Dưới bài thơ này, nhà thơ Bằng Việt có lời chú như sau: Thời chiến tranh phá hoại, Thái Bình và Phủ Lý là nơi mà tất cả máy bay địch, sau khi giao chiến trong đất liền với mạng lưới cao xạ và lực lượng không quân ta, hễ tháo chạy ra biển là phải trút bừa xuống đó cho hết tất cả cơ số bom đạn mang theo, nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối khi hạ cánh xuống Hạm đội Bảy. Chính vì thế, mà mức độ huỷ diệt ở hai vùng đất này là khủng khiếp nhất và vô lý nhất.
Cùng với quê lúa Thái Bình, nhà thơ Bằng Việt cũng để lại những bài thơ vạm vỡ từ thời kỳ này về thành phố cảng Hải Phòng (Hương mùa thu, phố biển…), về khu công nghiệp Việt Trì, Phú Thọ (Bè bạn một vùng đồi), về sự thay da đổi thịt của vùng đất Điện Biên (Em hãy đến cánh đồng Mường Thanh), về sự phát triển của làng gốm Bát Tràng (Nghe trong trưa Bát Tràng), và về vùng đất sinh sôi màu mỡ của Nam Bộ, vùng đất cực Nam của Tổ Quốc (Đất trẻ; Hòn Khoai)…
Những sáng tác thơ của nhà thơ Bằng Việt trong hơn 40 năm mà tôi vừa điểm qua, tôi nhận thấy thật khó nói khác hơn và khú cú thể nhận xột một cách sáng tỏ hơn những lời do chính tác giả đã khái quát và đúc kết trong bài viết thay lời tựa của tập tuyển chọn thơ Bằng Việt: “Như vậy là trên 40 năm sáng tác và dịch thuật đã được tác giả gói gọn trong một Tuyển tập này, tuy chưa phải là tất cả, nhưng hy vọng cũng đủ tái hiện lại từng giai đoạn đáng ghi nhớ của một đời thơ, từ lúc chập chững cho đến khi trưởng thành. Nó cũng có thể được coi là chứng tích và trải nghiệm cho cả một thời đối với một người sáng tác”.
Bài thơ đầu tiên của nhà thơ Bằng Việt mà tôi có ấn tượng và cảm tình, là bài thơ “Trở lại trái tim mình”. Tôi đọc bài thơ này lần đầu tiên trên báo Văn nghệ giải phóng, một tờ báo văn nghệ rất có uy tín những năm 60, 70 của thế kỷ trước, song tồn cùng tờ báo Văn nghệ ở thủ đô Hà Nội. Tôi nhận thấy cái chất “chờn vờn sương sớm” từ những bài thơ đầu tay của nhà thơ Bằng Việt, được lắng tụ và nâng lên ở một tầm mức mới trong bài thơ “Trở lại trái tim mình”. Ở bài thơ này, ta đã thấy dáng dấp của thi sĩ, thi nhân hiển lộ; cái sức vóc sáng tạo thi ca đã được đẩy lên trong sự vạm vỡ của trải nghiệm và suy tưởng. Cùng trên nền của cảm xúc này của nhà thơ Bằng Việt, trong cùng một năm anh đã sáng tạo nờn bài thơ thứ hai, đó là bài “Tình yêu và báo động”. Tôi cho rằng, trong thời kỳ đầu sáng tác, nhà thơ Bằng Việt đã sáng tạo lên hai bài thơ như hai tán cây rực rỡ vươn mãi suốt chặng dài sáng tạo thi ca của anh xuyên qua thời chiến tranh bom lửa. Những dòng thơ của hai bài thơ này, sau 42 năm, giờ đây tôi đọc lại vẫn thấy rộn lên cái xao động tươi mới của cảm xúc và suy tư được hoà quyện thật chuẩn xác, tạo nên cái trong trẻo xao xuyến của một vẻ đẹp thật sâu lắng và nguyên khôi. Có lẽ đó là thời kỳ sẫm chín của cảm xúc giữa cái tôi hoà quyện trong cái ta, như nhà thơ Bằng Việt đã nói trong Lời tựa.
“Tôi trở lại những bờ đường mùa xuân
Cây già trắng lá
Ôi, thành phố tôi yêu kỳ lạ
Cái sống như trăn trở ngày đêm
Tôi lớn lên, lo nghĩ nhiều thêm
Thành phố cũng như tôi đang lớn
Những gác xép bộn bề hy vọng
Những đầu hồi bóng nắng nhấp nhô... (…)
Đến hơi mưa trong khóm hoa màu tím
Gáy sách cũ xếp chồng như kỷ niệm
Lá thiếp mừng đám cưới mát trên tay...”
(Trở lại trái tim mình)
“Cơn báo động tan rồi
Cảm động quá, khi mùa thu lại đến! (…)
Sông Hồng nước lên. Em đưa anh qua
Tháng tám cầu nhô hai nhịp gãy. (…)
Ta quen sống những giờ đột biến
Bỗng sững sờ trước một sớm không đâu
Thành phố trong mưa. Hoa rắc trên đầu
Hoa mưa nở từng bông trên mái tóc
Em tươi tắn như mùa xuân thứ nhất...”
(Tình yêu và báo động)
Cái chất “chờn vờn sương sớm”, ngay từ thuở ban đầu đã kiến tạo nên một thể chất thơ Bằng Việt - một thể chất thơ khác biệt trong thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Cái thể chất trữ tình, thi vị, mơ mộng và lãng mạn ấy, là một thứ sản vật thật hiếm hoi trong các sáng tác thời kỳ này. Thực ra, đó chính là cảm xúc thuần tuý, cảm xúc gốc luôn mang chứa sự bí ẩn của cái đẹp và giá trị vĩnh hằng trong nó – Đó cũng là một trong những đặc tính cơ bản cấu tạo nên giá trị nền tảng của cảm xúc thi ca. Điều mà nhà thơ Bằng Việt trong bài viết thay lời tựa của mình, cũng đã bày tỏ và dành nhiều tâm huyết trong những suy tư trăn trở về “tính cá biệt và tính đặc thù của cảm xúc thơ cũng như tính độc đáo trong mỗi khám phá nội tâm – là chủ thể trong thơ”. Thể chất thơ ca khác biệt của nhà thơ Bằng Việt, đã mang đến một cái nhìn tươi tắn trong sự thốt nhiên ngỡ ngàng trước một hiện thực thật khốc liệt với sức sống thật phi thường của một dân tộc yêu chân lý, độc lập tự do, yêu và nâng niu cái thiện, cái đẹp trong những năm tháng dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cái chất thi sĩ cứ “chờn vờn sương sớm” ấy, đã loé nở lan tỏa ở chỗ này chỗ kia trong các sáng tác của nhà thơ Bằng Việt suốt thời kỳ này:
“Có gì bâng khuâng mãi
Những cánh hoa bìm gợi nhớ rất xa…
Ôi những xe trâu thủng thẳng vào cơn mơ
Bắt tuổi thơ nóng lòng theo bước một
Ôi những nương cao màu trăng lục nhạt...”
(Từ giã tuổi thơ)
“Đâu những mùa hè giữa cơn lốc xoáy
Trẻ con reo trong đám lá bay mù
Đâu những mùa xuân, đâu những mùa thu
Những khẩu hiệu giấy điều, những đèn treo lủng lẳng...”
(Thị trấn)
“Những con chim mỏ vàng lại tha rơm về làm tổ
Trong bóng cây chưa cao, nghe tiếng trẻ con cười... (…)
Đâu tiếng ru à ơi qua nghìn làng sơ tán?
Đêm thức trắng không đèn, chuyến phà chật mùa mưa?
Kỷ niệm vẫn theo ta, diết da và loé sáng
Truyền sức sống hôm qua vào sức sống bây giờ”.
(Đất nước)
Trong bốn mươi nhăm năm cầm bút trăn trở với sáng tạo thi ca, những bài thơ của nhà thơ Bằng Việt viết về Hà Nội, vẫn là những bài thơ kết tinh chất thi vị đằm thắm sâu lắng nhất. Hà Nội là nơi nhà thơ ký thác những suy tư trăn trở thầm kín nhất của mình. Đúng như từ dùng trong tên một bài thơ, nhà thơ Bằng Việt gọi đó là “Thành phố của đời mình”. Hà Nội trong thơ Bằng Việt, chính là Hà Nội được nhìn bằng “ánh mắt xanh ngăn ngắt” của thi sĩ:
“Chuông xe điện trong màn sương rạng sớm
Và nắng nhỏ trên hàng cây rét muộn... (…)
Những con đường dạ hương làm tim đập không yên
Tôi đi một mình dưới chiều xanh bối rối
Thành phố thầm thì trong tình yêu vừa nhen”
 (Một chút thầm thì trong tình yêu Hà Nội)
“Tôi có những ước mơ trong thành phố cũ
Như những ngôi sao tự tuổi chín mười…
Sau hai mươi năm
Chúng vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt xanh ngăn ngắt”
(Trò chuyện với thành phố của đời mình)
“Năm anh gặp em, những cơn bão liên miên đang đổ vào Hà Nội
Bến xe mưa bay, em đứng đợi một mình…”
(Năm anh gặp em)
Trong bài viết thay lời tựa của nhà thơ Bằng Việt có nhắc đến việc ra đời của bài thơ “Nghĩ lại về Pauxtôpxki”, anh cho biết: “Tôi để trong sổ tay hàng chục năm, và có cả một thế hệ sinh viên chép tay lưu truyền cũng chừng ấy năm, trước khi được in”. Những chi tiết này đã gợi dậy trong tôi kỷ niệm, vào quãng cuối năm 1980 trong nhóm bạn bè của tôi lên công tác ở Hoà Bình, có vài ba người bạn vừa tốt nghiệp trường Xây dựng và Kiến trúc, họ rất mê nhạc Trịnh Công Sơn. Trong những đêm tản bộ giữa núi rừng trùng điệp bạt ngàn sông nước, ngổn ngang đất đá và máy móc, những người bạn của chúng tôi hát nhạc Trịnh Công Sơn và đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ “Nghĩ lại về Pauxtôpxki” của nhà thơ Bằng Việt, đến nỗi đến giờ tôi vẫn còn nhớ những câu thơ, như “Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu, cuộc đời không phải thế!/ Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể, / Bể mặn mòi sôi sục biết bao nhiêu/ Khi em đến bên anh trước biển cả dâng triều…”; “Bây giờ, anh biết nói gì hơn?/ Có thể, ngày mai thôi… có thể…/ “Hoa tóc tiên ơi! Sớm mai và tuổi trẻ…”/ Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xát lòng thêm!”/; hoặc “Đưa em đi… tất cả thế xong rồi…/ Ta đã lớn và Pauxtôpxki đã chết! / Anh vẫn khóc khi nghĩ về truyện “Tuyết”, / Dầu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!”.
Thế hệ sinh viên chép tay lưu truyền bài thơ này, có lẽ là thế hệ những người bạn của tôi ngày ấy. Nhà văn Pauxtôpxki mất năm 1967, và nhà thơ Bằng Việt viết bài thơ này năm 1969, tức là sau khi Pauxtôpxki mất. Đến giờ, đọc tuyển chọn thơ Bằng Việt tôi mới thấy nhà thơ Bằng Việt còn viết một bài thơ tình nữa trên nền xúc cảm về Pauxtôpxki, bài thơ có tên là “Thơ tình ngày biển động”, viết năm 1975. Quả là ở nước ta không chỉ có một thế hệ yêu và hâm mộ tác phẩm của nhà văn Pauxtôpxki. Tác phẩm của Pauxtôpxki là biểu trưng của sự khao khát tìm kiếm và hướng tới những vẻ đẹp thuần khiết của tâm hồn con người, trong sự trân trọng, cảm thông, sẻ chia, và trong sự dâng hiến tột cùng cho niềm vui, khát vọng của hạnh phúc con người. Tác phẩm của nhà văn Pauxtôpxki đã thỏa mãn về cái lý tưởng nhân văn cao thượng đó đối với một thế hệ người đọc của Việt Nam. Trong tình yêu nhà văn Nga này của một vài thế hệ trẻ Việt Nam, có sự tác động rất đáng kể của nhà thơ Bằng Việt với hai bài thơ tình của anh, tuy nhiờn, anh đó đặt nó vào sự cảm nhận riêng với khá nhiều trăn trở,suy tư của cả một thế hệ thanh niên Việt Nam, khi đi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ đầy thử thách, gian truân và khốc liệt.
Hai tập thơ “Ném câu thơ vào gió” (2001) và “Nheo mắt nhìn thế giới” (2008) của nhà thơ Bằng Việt, cùng một số bài thơ anh mới sáng tác, là sự đúc kết những suy ngẫm trải nghiệm mang chứa đậm chất triết lý nhân văn của nhà thơ về tình yêu, nghệ thuật, về thế cuộc và nỗi niềm trắc ẩn về cuộc đời. Cách đây mấy tháng, trong một lần trò chuyện, tôi mới phát hiện có một nhà thơ thế hệ trước được nhà thơ Bằng Việt rất yêu mến, đó là nhà thơ Chế Lan Viên. Nhà thơ Bằng Việt đọc một cách say đắm những đoạn thơ dài của nhà thơ Chế Lan Viên. Có lẽ những câu thơ này anh đã thuộc cách đây nhiều năm từ khi anh còn rất trẻ.
Trong việc làm tuyển thơ của mình, nhà thơ Bằng Việt nói với tôi, anh sẽ để bài thơ “Đệ nhất Tổ phái Trúc Lâm giảng thiền” ở cuối tập tuyển chọn, và đó là bài thơ khép lại tuyển thơ của anh. Tôi được đọc bản thảo bài thơ này vào cuối năm 2008. Theo tôi, đó là bài thơ kết tinh đầy đủ sự trầm tích những suy ngẫm trải nghiệm giàu triết lý, đạt đến sự lắng sâu nhiều tầng về cảm xúc và thăng hoa sáng tạo thi ca của nhà thơ Bằng Việt. Tôi xin chép lại nguyên văn bài thơ này:
“Một vị tăng hỏi bậc chân tu: “Bạch Thầy, thế nào là Phật?”
Người đáp: “Chấp theo lối cũ là không đúng?”
Lại hỏi: “Thế nào là Pháp?”
Người đáp: “Chấp theo lối cũ là không đúng?”
Hỏi tiếp: “Vậy thế nào là Tăng?”
Người phủi tay, cười: “Chấp theo lối cũ là không đúng!”
“Bảy trăm năm sau, tôi hành hương lên Yên Tử
Đêm – nằm mơ thấy Phật
Nhớ chuyện xưa, bèn hỏi: “Bạch Thầy, việc đời thế nào là đúng?”
Người ngậm ngùi: “Chấp theo lối cũ là không đúng!”
Lại hỏi: “Thế nào là hạnh phúc trần ai?”
Người bèn cười to: “Chấp theo lối cũ là không đúng!”
Hỏi tiếp: “Vậy thế nào là Thơ?”
Người lại phủi tay: “Chấp theo lối cũ là không đúng!”.
Bài thơ đã đặt ra những câu hỏi lớn về thi ca nghệ thuật và những vấn đề nhân sinh của con người. Bài thơ cũng mặc nhiên đã chạm đến nét đặc trưng độc đáo của các vị vua nhà Trần. Nhà Trần đã dựng lên cả một thời đại hùng cường trong lịch sử nước ta, với võ công hiển hách vang toả qua nhiều thế kỷ. Bên cạnh những kỳ tích mà nhà Trần đã đạt được, thì việc xuất gia của một số vị vua nhà Trần đã để lại những dấu ấn đặc trưng của triều đại này. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, tôi thấy có ghi lại việc vua Trần Nhân Tông xuất gia tu hành. Lần đầu, Trần Nhân Tông tu ở hành cung Vũ Lâm (Yên Khánh, Ninh Bình) vào tháng 7 năm 1294, và tháng 6.1295 lại trở về kinh sư. Tiếp đó tháng 8.1299 Trần Nhân Tông từ phủ Thiên Trường xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh. Ngày mồng 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), Trần Nhân Tông băng hà ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, “Pháp Loa thiêu được hơn ba ngàn hạt xá lỵ mang về chùa Tư Phúc ở Kinh sư”. Trần Nhân Tông cũng từng được xưng tụng là Trúc Lâm đại sĩ. Pháp Loa, từng là đệ tử, và là vị Tổ thứ hai của phái Trúc Lâm. Việc xuất gia tu hành của một số vị vua nhà Trần khởi phát từ vua Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của nhà Trần. Trần Thái Tông là tác giả của tác phẩm Khoá hư lục. Trong bài tựa sách “Thiền tông chỉ nam” của ông, Trần Thái Tông đã thuật lại việc ông cải trang bỏ trốn khỏi kinh sư lên núi Yên Tử vào đêm mồng 3 tháng 4 năm Bính Thân (1236) để tìm học đạo Phật, với tâm sự rằng “Trẫm đương trẻ thơ mẹ cha đã vội mất, trơ vơ đứng trên dân chúng không chỗ tựa nương. Lại nghĩ: sự nghiệp các đế vương thuở trước thay đổi bất thường, cho nên tìm đến núi này chỉ muốn được thành Phật, chứ không cầu gì khác”. Thái sư Trần Thủ Độ đã cùng các quốc lão lên núi Yên Tử khuyên nhủ Trần Thái Tông trở về Kinh sư. Sử cũng chép việc vua Trần Anh Tông làm bài thơ “Chiêu ẩn” mời Nguyễn Trung Ngạn cùng xuất gia, nhưng Nguyễn Trung Ngạn từ chối. Như vậy, cùng với võ công quán thế, một số vị vua nhà Trần đã tạc dựng chân dung vào lịch sử dân tộc còn với tư cách là những Thiền sư và những Thi nhân.
Phần đầu bài thơ “Đệ nhất tổ phái Trúc Lâm giảng thiền” của nhà thơ Bằng Việt, dường như chỉ thuật lại công án của phái Trúc Lâm Yên Tử, ghi lại những lời giảng của Đệ nhất tổ Trúc Lâm một cỏch trung thực. Ta thấy, nửa đầu bài thơ như một cái cầu nối đặc biệt dẫn từ biệt điện bước vào thế tục, là nửa sau của bài thơ. Từ công án ghi lại việc giảng giải về Phật, Pháp, Tăng; nhân đó lại là những câu hỏi lớn về “việc đời”, về “hạnh phúc” và về “Thơ”, tức là về sáng tác văn nghệ núi chung. Đây chính là sự chuyển tiếp một cách sáng tạo độc đáo của bài thơ. Câu trả lời về “việc đời” có đáng ngậm ngợi hay không, về “hạnh phúc trần ai”có đáng nực cười hay không, và về thi ca nghệ thuật, nếu bảo thủ cũ kỹ thơ có đáng bàn hay không– chỉ cùng nhận được một lời giải duy nhất, như đã trả lời về “Thế nào là Phật?”, “Thế nào là Pháp?”, “Thế nào là Tăng?”. Giống như cách lý giải: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, quả là rất bất ngờ và kỳ lạ! Thực ra, không cần biết tường tận lối cũ nói ở đây là lối thế nào, chỉ biết đó là những gì đã qua mà lại cố chấp, thuộc về thì quá khứ, còn về thì hiện tại và thì tương lai, thỡ phải khác, phải đổi thay, như lối triết lý của Đmụcrớt khi núi về dòng nước không ngừng chảy,và không ai là có thể hứng được “tắm hai lần trên cùng một dòng sông”cả!. Cái nghĩa lớn của bài thơ, đó là tinh thần tiến hóa, là cách tân, là đổi mới, đó là tinh thần phải năng động, phải hiểu lẽ “cựng tắc biến, biến tắc thụng”, khụng trỡ trệ và tự thỏa món bao giờ!. Đó chính là quy luật của sự vận động và phát triển của sự vật và cả xã hội loài người. Mọi việc ở đời, dù xuất thế hay nhập thế, nếu cứ nệ theo cái cũ thì không bao giờ đạt đến Chân – Thiện – Mỹ được; dù đó chỉ là những  suy nghĩ cơ bản nhất về Phật, Pháp, Tăng, cũng khụng được bảo thủ! Thơ ca nghệ thuật cũng vậy, việc đời cũng vậy, và hạnh phúc trần ai cũng vậy. Hạnh phúc con người, sỏng tạo nghệ thuật và việc đời, mãi mãi là những câu hỏi lớn của nhõn loại. Mặc dù, mỗi thời đại đều có lời giải đáp phự hợp về chúng theo những tiêu chí và yêu cầu mà thời đại đó đặt ra, nhưng chưa bao giờ nó hoàn toàn được thỏa món!.
Đó chính là cái độc đáo sáng tạo của bài thơ “Đệ nhất Tổ phái Trúc Lâm giảng thiền” của nhà thơ. Và bài thơ này đã khép lại Tuyển tập thơ Bằng Việt, trong sự gợi mở không ngừng của nhận thức, của cảm nghiệm con người, luụn hướng tới những cánh cửa mở về phía ánh sáng, nơi vẻ đẹp bí ẩn của tri thức, thi ca nghệ thuật và thế giới phức tạp của đời sống nhân gian luôn tiềm tàng và cuốn hút con người qua mọi thời đại, đũi hỏi phải được cảm nhận và khám phá trong sự thảng thốt và kinh ngạc.
Gặp nhà thơ Bằng Việt, vào lúc nào cũng vậy, luôn cho tôi cảm nhận về một con người trẻ trung, đa cảm, ngẩn ngơ trăn trở trước cuộc đời. Khi đọc những bài thơ anh viết trong những năm tháng gần đây nhất, tôi lại nhận thấy những tâm sự thành thật và sâu thẳm, với bao nỗi niềm còn ngổn ngang bề bộn trong sự mất ngủ của nỗi buồn nhân thế :
“Ngủ đi!... Ngủ ư?... Lại mất ngủ rồi”. (...)
Sao ngoảnh lại vẫn còn nhiều bối rối
Vẫn còn nhiều duyên nợ ở trần gian?”
(Mất ngủ)
Tôi chợt thoáng nghĩ, âu đó cũng là cái nghiệp, cỏi mệnh thiên phú của số phận thi sĩ, chẳng bao giờ dứt những suy tư trăn trở về thi ca nghệ thuật, về cái đẹp và về những vui buồn của cuộc đời, khi còn đứng hai chân trên mặt đất này.
Với gần nửa thế kỷ trăn trở trên con đường gập ghềnh của sáng tạo thi ca, nhà thơ Bằng Việt là một trụ cột trong các trụ cột của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc chiến tranh chống Mỹ - thế hệ của những nhà biên niên sử của một thời đại thơ hoành trỏng. Tụi muốn núi thờm, nhà thơ Bằng Việt đã đóng góp một cái nhìn bằng “ánh mắt xanh ngăn ngắt” trên nền cảm xúc “chờn vờn sương sớm” của thi sĩ, lãng mạn và trí tuệ, cùng kiến tạo lên cái tòa đại bảo tháp của thi ca thế hệ chống Mỹ cứu nước thế kỷ XX – một thế hệ trưởng thành trọn vẹn trong một thời đại  chứa đựng đậm đặc chất sử thi.
Hà Nội, 1/2/2010
Dương Kiều Minh
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Hà Văn Thể và cảm thức bên những tinh cầu hừng hực thầm trôi

Hà Văn Thể và cảm thức bên
những tinh cầu hừng hực thầm trôi

Tắt mặt trời. Nồng bụi tro than
Gió hú thét. Đá rầm rầm chuyển động
Tôi cưỡi đá bay qua phố phường, đồng ruộng
Hoảng loạn gọi con người - người trốn biệt nơi nao
Không khỏi bất ngờ, vào lúc này còn có những nhà thơ ôm theo khối tâm sự từ thế kỷ XX với dòng lãng mạn đến chân thành, như cơn gió thổi ào đến thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI:
“Tôi nhìn về phía ngôi nhà của mình sau màu mây trắng
Thấy tất cả những ngôi nhà đã trắng màu mây (…)
Vũ trụ vạn kỷ nay bình lặng
Những tinh cầu hừng hực
Thầm trôi”
(Tản mạn)
Mơ mộng quá và cô đơn quá! Trơ trọi vì yêu con người quá hay là dự cảm hoặc một sự cảnh báo về một nền đạo đức chăng? Có những câu hỏi sẽ được đặt ra, nhưng đối với tôi, những câu thơ này vẫn hút tôi về phía một tinh cầu nhỏ bé của nhà thơ đang lượn theo vòng quay miên viễn của trái đất và của thế thái nhân tình. Tinh cầu nhỏ bé ấy đang theo sát con người, trong chờ đợi và hy vọng. Liệu ai dám quả quyết rằng suốt cuộc đời, họ sẽ chẳng bao giờ rơi vào những hoàn cảnh khó khăn và nhận ra mình hoàn toàn trơ trọi, bất lực, chẳng là cái gì đáng kể ở trần gian này?
Sự trơ trọi và hoang vắng được tạo nên trong những câu thơ thuộc về thế giới tâm cảm phát lộ từ thần thức của nhà thơ. Nếu xét về phương diện lý trí, chúng không là hiện thực- song, chúng vẫn cuốn hút bởi khát vọng giao cảm giữa con người với con người được đặt ở vị trí cấp bách. Và, tôi nhận thấy cái tinh cầu nhỏ bé của nhà thơ đã đánh thức toàn bộ những xung động tiềm ẩn về tính nhân văn đang chứa ẩn trong mỗi chúng ta. Ngay lập tức, chúng lấp đầy cái hố vực hoang vắng trơ trọi từng hiện ra trong tâm thức con người.
Đoạn thơ tôi vừa trích dẫn ở trên nằm trong tập thơ “Lạy xin mây trắng” của nhà thơ Hà Văn Thể, do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 2005. Trước tập thơ “Lạy xin mây trắng”, Hà Văn Thể đã xuất bản ba tập thơ: Khi tôi trên mặt đất (1991), Thời bình (1995) và tập thơ dành cho thiếu nhi Vườn cây bà ngoại (2001). Tôi đã được đọc tập thơ Khi tôi trên mặt đất của Hà Văn Thể, và đến Lạy xin mây trắng, tôi thấy rằng Hà Văn Thể vẫn duy trì được cái năng lượng thi sỹ đã được thổi lên từ tập thơ đầu tay của anh. Khi tôi trên mặt đất là một trong những tập thơ mà tôi có ấn tượng cho tới lúc này. Ở đó, cái tinh thần thi ca lãng mạn, phóng túng và vô cùng chân thật- nó như ngọn gió đầy hứng khởi và nhiệt huyết cuốn đi trong “cõi người ta”. Và tôi nhớ mãi Hà Văn Thể với bức chân dung mà anh đã tự phác họa cho mình. Tất nhiên, đây chỉ là cảm nhận của riêng tôi, còn sự cảm nhận được đánh giá của những người trong giới như thế nào, thực ra tôi làm sao mà quan tâm hết được.
Lạy xin mây trắng là tập thơ tiếp tục duy trì cái khí mạch chính của thơ Hà Văn Thể. Ở nước ta, hình ảnh cây cọ vốn là loài cây đặc trưng của vùng trung du, từng được mô phỏng và tái hiện trong nghệ thuật và thơ ca. Đến Hà Văn Thể, hình ảnh cây cọ đã được đẩy lên thành hình tượng thâu tóm toàn bộ hồn vía, mang tính tâm thức tâm linh đặc trưng văn hóa trung du.
Đây là hình ảnh thực của cây cọ gắn với đời sống cá thể của nhà thơ:
Ban mai tôi thức dậy
Vẫn cây cọ trước nhà
Những tàu xanh
Sương đêm vơi đi phần tươi non của lá
Chiếc gai dần cứng lại và cùn
Ban mai tôi thức dậy
Gặp sợi tóc trên đầu rụng xuống
(Ban mai)
Cây cọ hiện lên song trùng với chặng đời mang tính sinh học của nhà thơ. Theo thời gian, qua nắng lửa, qua gió rét, rồi bão táp mưa sa, làm “vơi đi phần tươi non của chiếc lá/ Chiếc gai dần cứng lại và cùn”. Rồi “Ban mai tôi thức dậy/ Gặp sợi tóc trên đầu rụng xuống”, ta như nghe thấy tiếng vang lên của tàu lá cọ vừa rụng xuống trên sườn đồi. Cũng hình ảnh cây cọ này được đẩy lên thành hình tượng “Như người lính đứng canh dọc thuở Vua Hùng”:
Bởi yêu đất những người lính ngàn năm không đi khuất
Hóa thân tươi xanh đứng hát giữa trời
(Những cây cọ trung du)
Cây cọ được dựng dậy trong sáng tạo của Hà Văn Thể chính là những người lính tự nghìn năm “đứng canh dọc thuở vua Hùng”, “Áo giáp khiên xanh/ Vung gươm lên thề cùng trời đất” đã hóa thành những cây cọ hiên ngang vẫy gió giữa đại ngàn. Với hình tượng cây cọ này không thể không ghi điểm về sự sáng tạo độc đáo của thơ Hà Văn Thể. Hình tượng cây cọ đã thâu tụ và truyền dẫn đầy đủ khí mạch từ nguồn cội tổ tiên, phất lên ý chí kiên cường, khí phách giống nòi của dân tộc Việt. Ở một cảnh giới khác, nhà thơ đã tự bạch một cách cụ thể chân thực như sau:
Khu vườn của làng nhỏ tôi ơi
Nơi thịt da tôi sinh thành, nơi anh em quần tụ
Dưới lớp đất nâu kia và trên ngọn cây kia
Tôi hoà tan trong tươi non, trong cằn cỗi
Giữa bầu trời nặng như trì
Hoặc nhẹ bẫng như không
Tôi là đám cỏ khô, là dòng nhựa chảy
Tôi hòa vào mặt đất nhão bùn
Là những hoàng hôn và ban mai hối thúc
Giữa dòng người đến sau, đến trước
Cùng hát lên khát vọng tổ tiên mình…
(Khúc hát về làng nhỏ)
Đọc thơ Hà Văn Thể, xuất hiện trong tôi một ý nghĩ, tôi băn khoăn về ý nghĩ này, nhưng rồi cuối cùng quyết định vẫn nói ra: hình như kiếp trước Hà Văn Thể mang bản thể mộc, tức là cây thì phải.
Không chỉ hình tượng cây cọ, mà hình ảnh đặc trưng về cây đa ở làng quê hiện dậy trong thơ anh với nhiều nét riêng biệt và có đặc trưng “Hà Văn Thể”. Có lẽ vì vậy, chúng tạo sự ám thị đối với tôi khi tiếp xúc với những hình ảnh thơ này:
Cây đa mấy trăm năm ở ngã ba đường
Nhân chứng cho sự đi về, lụi tàn hay phát đạt
Cây đa cổ thụ ngã ba đường
Từng chứng kiến cuộc- ra- đi- lặng lẽ
Những cuộc ra đi, đi mãi, đi dài
Tạc lên gương mặt người vết chìm nổi thời gian
Tạc lên con đường nặng nề sỏi đá
Tạc lên cánh đồng mưa, nắng, bão, lũ
Tạc lên dòng sông khuya khoắt, đầy vơi
Trong giấc ngủ chập chờn kiệt sức
Lại mơ về đầy đặn ngày mai
(Khúc hát về làng nhỏ)
Cây cối cũng như sinh vật cùng, Hà Văn Thể đã sở hữu chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa bí mật vào thế giới và đời sống của chúng với cái nhìn nhất thể:
Mỗi loài có cuộc sống riêng, một bài ca, một lễ hội riêng mình
Bình đẳng, tự tin giữa đất trời nắng mưa, bão táp
Đọc đoạn thơ, tôi thấy tin ngay sự khơi mở từ những câu thơ về đời sống của muôn vật, chúng đều có một lễ hội của riêng mình. Phát hiện này quả là lạ và độc đáo
Đọc tập thơ Lạy xin mây trắng, tôi tiếp tục bị thuyết phục bởi những ý tưởng được khơi lên từ những câu thơ. Tại một bài thơ, nhà thơ kể về “làn gió sớm mai ùa vào căn nhà nhỏ”, và nhà thơ nhận thấy chúng “sắp xếp những bộn bề ngày qua còn lại/ Chở ý nghĩ tôi ra khỏi ngôi nhà”.
Phải để lòng trống vắng thanh tĩnh lắm, cùng với đôi cánh của sự lãng mạn mới cảm nhận được sự sinh động biến hiện của làn gió đến như vậy.
Ơi chú nhện giăng tơ ngoài cửa sổ/ Dệt nên tấm lưới mẫn cảm bằng thịt da mình…/ Con tôi mở cửa ra vô tình làm hỏng mất/ Nhưng chú không buồn/ Lại nhẫn nại dệt nên tấm khác/ Bởi thế ngôi nhà tôi có bao nhiêu sinh linh, thì bấy nhiêu niềm hy vọng/ Cứ diễn ra như thế ngày ngày (Bài ca ngôi nhà nhỏ)
Đoạn thơ này tàng chứa dấu vết Phật tính, làm tôi hoàn toàn bất ngờ. Đây là một sự thật chưa hề được biết tới, chưa có nhà thơ nào nói bằng một cách chân thực và trực tiếp về sự hiện diện có tính thiêng liêng của một sinh linh bé nhỏ, luôn hằng tồn tại bên cạnh đời sống của chúng ta, như Hà Văn Thể vừa biểu đạt bằng một ngôn ngữ giản dị; và chúng quả đã được hiện hình từ một đời sống đặc biệt, một kinh nghiệm đặc biệt của nhà thơ.
Có lẽ xuất phát từ cảm nghiệm về cái nghiệp lực đeo đẳng con người trong cuộc sống nơi trần gian, làm cho nhà thơ không khỏi bận lòng.
Chợ trần gian họp ngày đêm
Bước chân mỏi mệt vấp trên cõi đời
Bao nhiêu người trước khuất rồi
Lối sau ngoảnh lại, lá rơi lấp đầy
(Đi chợ trần gian)
Hình như có một sự phũ phàng nào đó phả lên từ những câu thơ lục bát này, và nỗi niềm thật không mới nhưng chưa từng cũ, bởi những lời đó phù hợp và chỉ thẳng vào đời sống tâm thức của con người, thời nào cũng vậy không ai tránh được.
Phố nhỏ ven sông
Cứ đêm đêm vẳng về tiếng chim thảm thiết
Chúng tìm gì trên nóc phố nhấp nhô
Trên những ngôi nhà trăm năm hình thù không đổi khác
Chỉ có những khuôn viên méo mó, vuông vức
Nơi con người trú ngụ, được chở che
Từ lúc lọt lòng trần trụi sinh ra
Đến khi mở cửa: Đi khuất
(Tiếng chim kêu đêm)
Chúng ta từng biết, thế giới trước hết hiện ra khi chủ thể tự phóng chiếu ra ngoài. Sự sợ hãi mất mát chính mình rình rập sau mỗi con người. Làm sao thoát khỏi ảo giác của sinh thành hoại diệt. Thực ra, khi con người ta khuất núi, rời khỏi thế gian “chỉ là giai đoạn rơi xuống một đời sống mới, đời sống này mang con người tới gần đích giải thoát thêm một bước nữa. Đây chính là mục đích cao tột, cuối cùng của tất cả các cố gắng trong kiếp người”. (C.G.JUNG)
Những câu thơ trên của nhà thơ Hà Văn Thể đã mở toang cánh cửa trực tiếp đối diện với một vấn đề cơ bản nhất của con người, đó là cái chết; nhưng với một cách nhìn, một tâm thế vô cùng bình thản nhẹ nhõm:
Từ lúc lọt lòng trần trụi sinh ra
Đến khi mở cửa: Đi khuất
Cái chết chỉ là những cuộc đi, những hành trình dù miên viễn nhưng đã được định sẵn, với tâm hồn đã được khai phóng.
Tôi nhìn về phía ngôi nhà của mình sau màn mây trắng
Thấy tất cả những ngôi nhà đã trắng màu mây
Ta sống, người ơi ta được sống
Dẫu rủi ro cũng là hạnh phúc rồi
Vũ trụ vạn kỷ nay bình lặng
Những tinh cầu hừng hực
Thầm trôi
(Tản mạn)
Một cuộc đi, ngoái lại và sự bình thản tràn ngập dâng cao. Nguyên sự sống, được sống đã là sự hân hưởng niềm vĩnh phúc lớn lao, dẫu những rủi ro cũng là những yếu tố cần thiết để xác lập nên cái vĩnh phúc của cuộc đời mỗi con người, như Những tinh cầu hừng hực/ Thầm trôi. Hỏi còn muốn gì hơn?
“Thế giới có thực là một thế giới có niềm vui, nỗi buồn, có thiện, có ác. Tóm lại đó là một thế giới luôn luôn có hai cực, thế giới nhị nguyên. Nếu có ai đứng ngoài được sự tranh chấp giữa hai cực đó, người ấy sẽ hiểu được tri kiến nhất nguyên. Với tri kiến này, người ta sẽ không còn mâu thuẫn, vì nhìn thấy được vạn hữu trong một thể trọn vẹn thống nhất” (Lạt ma Chogyam Trangpa Rinpoche). Những ý thơ của Hà Văn Thể thực tế đã tiến sát những vấn đề rất cơ bản mà những kiến giải tôi vừa dẫn trên đây với những câu thơ sâu sắc một cách trực giác. Có một điều bất ngờ đối với tôi khi đọc tập thơ Lạy xin mây trắng của Hà Văn Thể, đó là dấu vết Phật tính nơi khoảng trống rỗng tâm hồn anh, chúng được hiển lộ thành công năng của những câu thơ. Điều này tôi chưa từng nghĩ đến khi đọc thơ của nhiều nhà thơ, đặc biệt đối với thơ của Hà Văn Thể tôi lại càng không có một gợn ý thức nào trước khi đọc tập thơ mới xuất bản của anh. Ấn tượng mạnh mẽ nhất của thơ Hà Văn Thể đối với tôi trước đây là tinh thần lãng mạn trong những vần thơ đầy dung dị, đến tập thơ mới này vẫn còn tiếp tục duy trì khí mạch đó- dù chúng chưa phủ được ở một diện rộng và dâng thành cao trào. Nhưng, một điều kỳ diệu là sự xuất hiện phẩm tính Phật tính trong tập thơ mới này, quả có gây chấn động trong tôi- tiếc rằng, yếu tố mới mẻvà cuốn hút này anh chưa tạo được một dòng chảy là mạch chủ mạnh đủ quán xuyến toàn bộ tập thơ.
Cách đây vài ngày, do vô tình tôi gặp Hà Văn Thể, trong khi trò chuyện tôi nhắc lại kỷ niệm, ấn tượng từ tập thơ đầu tay của anh Khi tôi trên mặt đất,  Hà Thể bộc bạch rằng, tập thơ đó ám anh đến bây giờ, nó làm anh long đong vất vả và lận đận đường đời. Tôi đùa anh: nếu không còn long đong, lận đận, chắc gì đã còn thơ? Hà Văn Thể lặng im, tôi thấy đôi mắt anh nhìn xa vời.
Đêm
Ngọn đèn
Khuya khoắt
Khi những con muỗi no nê đi ngủ rồi
Gió không còn về lay cửa
Trang giấy thành biển khơi…
Tôi ngửa mặt lên trời
Bóng tối nửa tinh cầu đè xuống
Những âm thanh không có trên mặt đất
Vây bủa tôi
Lại như mọi lần
Tôi khát đợi một tiếng chó sủa
Tôi cầu mong một tiếng đập cửa
Tiếp sức cho mình đón một bình minh
(Hằng đêm)
Những câu thơ hiện trên trang giấy trắng quá mỏng manh, mà mênh mông vô tận dường nào. Áp lực của cuộc sống hay áp lực của kiếp người như một trái núi lớn đè lên thân tâm nhà thơ?- Và một lần nữa, tôi lại thấy hiện lên một cái tinh cầu nhỏ bé của nhà thơ trống trải, cô đơn và trơ trọi quá, hoang vắng quá, mà chất chứa trong lòng nó một khối lửa nóng bỏng, đang miệt mài lượn theo vòng quay của thế gian, không ngớt biến động của kiếp người, quỵ xuống rồi lại gắng gượng đứng dậy: Lại như mọi lần/ Tôi khát đợi một tiếng chó sủa/ Tôi cầu mong một tiếng đập cửa/ Tiếp sức cho mình đón một bình minh.
Nghị lực hay là khát vọng, hay là tác động của một nghiệp lực theo đuổi? Tôi vẫn thấy bao quanh nhà thơ ngọn lửa rừng rực trong hoang lạnh và trơ trọi. “Tôi cưỡi đá bay qua phố phường, đồng ruộng/ Hoảng loạn gọi con người- người trốn biệt nơi nao”
Ôi, ở thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 này, nhà thơ còn khao khát về con người đến vậy sao - đó có phải là câu hỏi lớn dựng lên trước thời đại này!.
Hà Đông, 5/12/2005
Dương Kiều Minh
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Hai đoạn suy tưởng về cổ ý và về thơ ca

Hai đoạn suy tưởng về
cổ ý và về thơ ca

* Suy tưởng về cổ ý:
Tôi cứ ám ảnh về câu chuyện mà Vũ Phương Đề thuật lại trong Công dư tiệp ký. Câu chuyện kể về nhà sư Huyền Minh trụ trì chùa Quang Minh (xã Hậu Bổng, huyện Gia Phúc), về già một đêm ông nằm mơ thấy Phật Di Đà giáng xuống điện thờ, triệu ông đến bảo rằng: “Nhà ngươi có công với Phật giáo, đến nay đã được nhiều năm. Tấm lòng từ bi của người đã thấu đến Thượng đế. Kiếp sau ngươi được giáng sinh xuống làm vong quốc Hoàng đế. Người nên nhớ lấy.”
Tỉnh dậy, ông gọi các đạo tràng bảo rằng: “Ta từ khi xuất gia quy y cửa Phật, vẫn tưởng tiền duyên rửa sạch, thiện quả viên thành, hậu thân được siêu linh vào nơi bảo tọa tòa sen. Không ngờ ngày sau luân hồi, đem bao năm công phu giới hạnh đổi lấy địa vị khó nhọc nhất ở trần gian. Có lẽ tiền sinh nghiệp chướng của ta chưa được rửa sạch mà phải chịu thế chăng?”
Sau Lễ bộ thị lang Nguyễn Tự Cường đi sứ Trung Quốc, vua Minh vời tới và nói với ông: “- Trẫm sinh ra, trên vai có viết mười chữ son đỏ rằng: “An Nam quốc Quang Minh tự sa Việt tì khâu”. Đó chính là 10 chữ mà nhà sư Huyền Minh trước khi mất, đã dặn các đạo trăng dùng son viết 10 chữ vào vai ông trước khi làm lễ hỏa táng.
Cái ám ảnh của tôi có lẽ là câu chuyện kỳ lạ về hậu thân của nhà sư Huyền Minh lại là một vị vua của nhà Minh. Cái ám ảnh hơn cả, là việc nhà sư Huyền Minh than rằng, nếu hậu thân làm vua thì tức là “đổi lấy địa vị khó nhọc nhất ở trần gian”.  Đúng, ngôi vua là địa vị khó nhọc nhất, nhưng cũng là khát khao quyền lực lớn nhất của mỗi kiếp người nằm ẩn sâu trong tiềm thức khi con người đó hiện diện ở trần gian. Có lẽ một tham vọng đã được nhóm lên trong tiềm thức nhà sư Huyền Minh ngay từ ấu thời, nhưng rồi do hoàn cảnh hoặc do duyên phận mà hạt mầm đó phải nén lại và xoá mờ dấu vết. Trước khi mất, tham vọng đó lại trồi lên trong mơ.
Tác giả “Luận bàn về văn minh” đã nói rất thú vị về việc tránh đau khổ tìm đến niềm vui sướng và hạnh phúc của con người, để tránh những va đập và những cản trở không thể vượt qua của thế tục, có một con đường đạt đến nó là tu hành. Nhưng, theo tác giả thì niềm vui sướng này có thể đạt được, nhưng rất bằng phẳng đơn điệu và tẻ nhạt.
Tu hành là duyên nghiệp, nhưng cũng có thể nó được quyết định bởi hoàn cảnh đặc biệt, hoặc bởi sự xô đẩy hoặc thoái lui của con người khi nhận thấy những tham vọng, ước vọng của mình bị thế tục ngáng trở và đè bẹp – tức là một sự thừa nhận thất bại của ham muốn trong thế tục.
Tôi đọc đi đọc lại nhiều năm vào những thời kỳ khác nhau Đạo đức kinh của Lão Tử. Ngày đầu xuân, tôi chợt nhận ra rằng, đúng đó là cuốn sách dạy làm vua một nước – nhưng đó chính lại là cuốn sách chứa đầy tràn ham muốn tham vọng của con người - để đạt đến ham muốn và tham vọng, con người cần phải tạm thời xoá nó đi, tạm thời đè nó xuống. Lão Tử nhận ra cái gốc rễ sâu xa bản chất của con người, là ham muốn và tham vọng chế ngự vĩnh viễn họ. Cùng với sự vận hành của đời sống con người và sự vật luôn diễn ra trong sự nghịch lý, phi lý – Lão Tử đã mách bảo con người, rằng cái áp lực được tạo ta là từ ham muốn, tham vọng của mỗi con người. Con người không nên và không thể diệt trừ hoàn toàn ham muốn. Lão Tử đã dạy con người phải thuận theo lẽ tự nhiên ấy, tức là thuận theo cái tưởng như nghịch lý, phi lý để đạt đến ham muốn và tham vọng, cao vọng. Bởi cái đích đến của mọi ham muốn và tham vọng luôn luôn gặp những khó khăn trở ngại, đối mặt với những lực phản từ những ham muốn và tham vọng khác, luôn cùng tồn tại sát kề không rời, nó hằng mọc lên tủa tủa như nấm sau mưa trong ý thức và vô thức của con người.
Thực ra Khổng Tử cách quá xa Lão Tử. Khổng Tử quá tin vào thế tục và thế sự theo hướng giáo lý một chiều ép mình theo lễ, phảng phất màu của lãng mạn và lý tưởng – có chăng, đó chính là cái thế giới mang màu của ảo giác chất chứa tràn đầy khát vọng về con người và trật tự của xã hội loài người. Khổng Tử chưa kịp nhìn thấu bản chất của con người như Lão Tử đã phơi bày nó trước thanh thiên bạch nhật - mà chính cái bản chất đó lại quyết định sự vận hành của các xã hội loài người.
* Nhà thơ và thi ca
Con đường tìm tới niềm vui và hạnh phúc của con người qua mợi thời đại trong đời sống thế tục là bất khả giải. Tác giả “Luận bàn về văn minh” đã chỉ ra 3 con đường tìm tới niềm vui và hạnh phúc mà con người đã làm, nhưng chỉ dành cho một thiểu số rất nhỏ bé với những người có tư chất thiên phú đặc biệt, hoặc hoàn cảnh đặc trưng, hoặc dùng kích thích hoá chất từ bên ngoài. Nhìn chung, niềm vui này cũng chỉ diễn ra trong những thời khắc quá ngắn ngủi so với thời gian đẵng đẵng mà kiếp người phải trải qua trong đời sống trần gian. Những bất hạnh mặc nhiên cứ như những làn sóng thuỷ triều dềnh liên tiếp lên số phận của con người.
Nhà thơ và những người thuộc về nhóm sáng tạo, được thiên phú tư chất đặc biệt, anh ta tìm kiếm và cảm nghiệm hiện tại từ thế giới của sự vật và thế giới con người, rồi làm hiện hình một sáng tỏ cái cảm nghiệm mang rất nhiều yếu tố của trực giác qua tác phẩm sáng tạo của mình.
Tôi đồ rằng thi ca hiện ra từ thế giới ảo giác của nhà thơ. Thơ ca chính là thứ ký hiệu của thông điệp mà nhà thơ muốn gửi tới đồng loại trong khát khao kiếm tìm sự đồng cảm với thế giới ảo giác của mình. Do sẵn mang cái hạt mầm của thế giới ảo giác trong tư chất ngay từ ấu thời, nên nhà thơ không khỏi lận đận trong những bước chân nơi thế tục gập ghềnh khúc khuỷu và ngoắt ngoắt như những mê lộ, càng đi càng xa càng bị cuốn sâu vào những ngõ ngách của ma trận đồ, sự thất vọng càng tăng, khát vọng lại càng bùng cháy.
Cái ký hiệu để biểu đạt thế giới ảo giác của nhà thơ với công cụ chủ yếu là ngôn ngữ của đồng loại; nhưng cái ký hiệu của ý tưởng bằng nhịp điệu, âm điệu và hình tượng thông qua ngôn ngữ, thì chỉ có một số ít đồng loại tiếp nhận và hiểu chúng, còn lại số đông, hoặc hờ hững, hoặc không hiểu chúng. Do vậy, mới cần đến những người giải mã được những ký hiệu của ngôn ngữ đó, để truyền đạt nó đến số đông. Vậy nên, ngay sự tìm kiếm sự đồng cảm của nhà thơ với những thông điệp của mình là vô cùng khó khăn – từ sự khó khăn này làm dâng lên khát vọng đồng cảm thật lớn lao trước đồng loại.
Thi ca là sản vật thăng hoa của nhà thơ mang dấu vết đậm đặc của khát vọng, ước vọng mà con người không thực hiện được trong đời sống thế tục. Sản vật của nhà thơ, là những ký hiệu bằng ngôn ngữ từ bản thông điệp của khát vọng, ước vọng muốn truyền đạt tới đồng loại và khao khát tìm kiếm sự đồng cảm của đồng loại.
Hà Đông, 6/1/2010
Dương Kiều Minh
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Nhà thơ Vũ Xuân Hương trong sắc giới ảo tượng bụi thiên hà

Nhà thơ Vũ Xuân Hương trong
sắc giới ảo tượng bụi thiên hà

Đang giữa xuân làn mưa bụi giăng mờ xa xa, từ lúc nào thảm hoa dại với những cánh nhỏ xíu mỏng manh đã phủ kín khoảng đất trống rộng thênh dâng ngập niềm xuân phân. Trước mặt tôi là tập thơ mới của một nhà thơ, một người bạn từng gắn bó thân thiết những năm nửa sau thập kỷ 80 thế kỷ trước.
Tôi được biết, từ năm 1996 đến nay, nhà thơ Vũ Xuân Hương đã xuất bản ba tập thơ và một trường ca. Tập thơ Bụi Thiên hà vừa xuất bản đầu năm 2010, đa số các bài thơ trong tập được tác giả sáng tác và hoàn thành ở thế kỷ trước, có một số bài tôi đã được đọc khi còn là bản thảo cách đây hơn hai mươi năm, như các bài thơ “Đề tặng”, “Ứng tác”, “Qua thành nhà Hồ”,…
Trong tập thơ Bụi Thiên hà của nhà thơ Vũ Xuân Hương, lần đầu tiên tôi gặp và được đọc những bài thơ anh sáng tác trong thời gian du học ở Nga (Liên Xô cũ).
Những ngày ta ở nhà
Ngậm ngùi, cay đắng…
Nay những ngày nơi xa
Mấy lần hơn cay đắng, ngậm ngùi!
Nửa căn phòng tạm gọi cho ta,
mùa đông Nga mở mắt ra đã tối,
thằng bạn Nga thở dài,
ngạc nhiên nghe ta thở dài hơn nó.
(Ngậm ngùi)
Liệu ta có thể tìm thấy trong thơ một tâm sự nào thực hơn vậy. Năm 1989, tôi trở lại với lam chướng sông núi Hoà Bình, nhà thơ Vũ Xuân Hương cùng hai nhà văn cùng[I1]  khoá được chọn tiếp tục đi tu nghiệp ở Học viện Gooc-ki; và lúc đó, chúng tôi thấy chân trời phía trước thênh thang mở rộng chào đón họ. Đọc những dòng thơ có tính tự bạch này của nhà thơ Vũ Xuân Hương, tôi thực sự thấy phân vân.
bùng nhùng
muôn mối
chuyện xa, chuyện gần
chuyện gì cũng phải phân vân
cái tình làm tội cái thân vật vờ!?
Thế giới này qủa “mênh mông rộng lớn”
mà dễ đâu tìm được chỗ của mình!
(Ngậm ngùi)
Quả là thế giới quá mênh mông rộng lớn, và quả là thật khó tìm được chỗ của mình trong cái thế giới mênh mông đến choáng ngợp ấy.
Xem ra, có mấy ai quả quyết rằng mình đã tìm được chỗ của mình nơi nhân gian rộng thênh này. Trong thế giới mênh mông đó, người ta chỉ có thể neo đậu vào chính bản thân mình; Và có lẽ, đó là cái chỗ tối thượng mà con người có thể đạt đến được, trong cuộc nỗ lực kiếm tìm với “bao bầm dập.../ vẫn trong lành/ ở trong…” vậy.
Một bài thơ khác nhà thơ Vũ Xuân Hương viết trong thời gian lưu học ở Nga, là bài thơ “Chú quạ mùa đông”. Bài thơ kể về “một chú quạ con/ bới tìm trong tuyết/ mẩu bánh mì đen/ với đầy tâm huyết/ mười mấy độ âm/ đôi chân cóng quắt/ chú vẫn dán mắt/ xuống nơi kiếm tìm”. Trong nỗ lực tột cùng của mình, chú quạ con đã tìm được một miếng bánh mì nhỏ, nhưng rồi chú quạ con thất vọng nhận ra đó không phải là mẩu bánh mì mà chính là một chiếc “dăm gỗ sồi”; “miếng mồi quá cứng/ nuốt mãi không trôi?/ mới hay mình gặm/ nhầm dăm gỗ sồi!...”. Bài thơ thật giản dị, chỉ là câu chuyện kể về một việc cũng rất giản đơn, nhưng cái ý nghĩa ngụ ý có tính ngụ ngôn thì thật sâu sắc, toát ra từ mối tâm sự xót xa của nhà thơ trong cái cảm nghiệm cuộc sống thấm mùi vị chua chát.
Rừng Nga, chúng ta từng được biết qua văn xuôi và thơ ca của các nhà văn, nhà thơ Nga. Rừng Nga hiện lên trong thơ của nhà thơ Vũ Xuân Hương, nơi “Rừng Nga một chiều”, thì “phải ta giờ – con thú/ giữa rừng, nhưng lạc rừng”. Với “Rừng Nga, lại một chiều hè”, thì “Cây như người đứng chờ/ gió như người mất sức”. Trong cái buổi “chớm tuyết” của mùa đông Nga, tác giả đã ghì riết sự kiên nhẫn trong việc “dành sức lực qua mùa đông trì đọng/ khỏi vội đánh mất mình trong khối lạnh hư danh…!”.
Đọc những bài thơ nhà thơ Vũ Xuân Hương sáng tác và hoàn thành trong thời gian lưu học ở Nga, tôi nhận thấy một mối tâm sự thật xa xót và chua chát, nó thấm đẫm mùi vị của sự trải nghiệm trong ảm đạm và vô vọng. Tôi thật sự chưa hiểu được cái hiện thực đằng sau mối tâm sự này của nhà thơ. Như tôi đã nói ở phần đầu bài viết, tôi và nhà thơ Vũ Xuân Hương là bạn thân thiết trong quãng thời gian những năm nửa sau thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Sau khoá học, năm 1989, tôi trở lại với lam chướng sông núi Hòa Bình, nhà thơ Vũ Xuân Hương được tuyển chọn tiếp tục tu nghiệp ở Nga, từ ấy chúng tôi không gặp lại. Sau 21 năm, vào cuối năm ngoái, chúng tôi mới gặp lại nhau trong thời khắc ngắn ngủi. Dù xa cách đã lâu, khi gặp chúng tôi cũng không nói với nhau nhiều, tôi không tiện hỏi và cũng không có cảm hứng để hỏi chuyện thời gian nhà thơ Vũ Xuân Hương lưu học ở Nga, bởi anh về nước đã lâu. Giờ đọc những bài thơ nhà thơ Vũ Xuân Hương viết trong thời gian sinh sống ở Nga, tôi nhận thấy một điều gì đó mà mình chưa hiểu được. Tôi thật sự ám ảnh bài thơ “Chú quạ mùa đông” của nhà thơ Vũ Xuân Hương. Đó là hình ảnh chú quạ con trong mùa đông băng tuyết kiếm tìm một mẩu bánh mì, nhưng rồi nhận ra đó lại là một mẩu “dăm gỗ sồi”. Có lẽ đó là ngụ ý sâu sắc nhất mà tôi nhận thấy trong những bài thơ anh viết ở Nga, được in trong tập Bụi Thiên hà – ngụ ý của bài thơ đem lại cho ta cái cảm giác về một kiếp người thật nhọc nhằn, chẳng có bao ý nghĩa, cũng chẳng mấy thú vị, cũng chỉ nằm trọn trong cái ảo tượng Bụi Thiên hà mà thôi.
Mảng thơ viết về thôn quê mang đến luồng thanh phong ẩm ướt trong lành và thanh sạch trong thơ Vũ Xuân Hương. “Mưa rào mịn mái rơm tươi/ Thu chớm tàu cau cuối hạ” (Tháng bảy). Hoặc “Trong nắng xế ngang chiều/ ngóng  vọng tiếng thư cưu…”. Rồi những kỷ niệm hiện lên qua những giấc mơ, tựa như tia nước vọt lên từ mạch ngầm mà ta không thể kiểm soát hoặc kiềm chế được, thôi thì cứ để nó tự chảy tràn trên mặt đất:
Những giấc mơ thi thoảng lại hiện về:
Mảnh vườn xưa bọc xanh nhà bà ngoại
Nơi tôi có bao nhiêu là vụng dại
Rồi lớn lên dưới bóng những cây chè
(Mảnh vườn xưa)
Ơi ngọn núi quê hương rạch ngang trời xanh ngắt,
Hát lên nào trường khúc những mùa thu (…)
Thế đấy bạn bè tôi,
hãy thương xót cọng rạ nghèo đất Mẹ,
hãy nhìn ra chung cuộc thời mình
hãy sum họp dựng xây
đừng chia năm xẻ bảy!
(Khúc hứng gửi bạn bè)
Ở trong một cảnh giới thật huyền tịnh, ta chợt nhận ra rằng chiều sơn tự với những đá, những rêu, vô ngôn đấy - nhưng chúng lại chất chứa sự vĩnh hằng trong đại định giữa thiên thu. Trong sâu thẳm và bí huyền của cảnh vật, nơi thinh không chợt vang lên “tiếng mõ gõ vào đêm sơn điểu” - đó chính là tiếng vang động thiên lương thức dậy, rung lên trong sâu thẳm tâm thức của nhà thơ.
Chiều sơn tự vô ngôn, huyền cảnh vật
đá rêu ngồi đại định với thiên thu (…)
và tiếng mõ gõ vào đêm sơn điểu
(Đại trước chùa)
Xin cảm ơn cây – người thầy, người bạn
Đã cho tôi phút giây thư giãn
Xua đi tạp niệm
Hình tướng phù vân
(Phác thảo những khoảnh khắc)
Thật khó có thể hoà nhập làm một với một loài cây loài[Y2]  đó, nhưng trong những khoảnh khắc thì ta có thể chứng nghiệm được sự hoà hợp đồng điệu này. Có gì an nhiên hơn, thân thiện hơn và trong lành hơn với bầy loại và với con người hơn những cái cây? Không giống với cỏ cây và các sinh vật sinh tồn trên bề mặt vỏ của trái đất, có lẽ chỉ có lý trí của con người mới sản sinh ra những tạp niệm và hình tướng phù vân. Tôi tự nghĩ có lẽ là như vậy. Và với những chiếc lá cây:
Chiếc lá vàng vừa dứt cuống, bay bay
phải chiếc vé cổ nhân dành lại (…)
giờ đây, anh như một bóng cây
thưa dần từng chiếc lá,
lộ ra dần thăm thẳm sắc thu không…
(Đề trên lá thu)
Từ cảm nghiệm trong sự giải thoát hướng tới hoà đồng với thiên nhiên, nhà thơ Vũ Xuân Hương với cái nhìn ngược về quá khứ, đã nhận ra chiếc lá vàng vừa dứt cuống, bay bay là chiếc vé cổ nhân dành lại. Qua năm tháng của sự ngâm trải với bao bầm dập, như một bóng cây, dù qua thời gian năm tháng [I3] nhọc nhằn của đời người thưa dần từng chiếc lá, nhưng lại hiển lộ một cõi thăm thẳm sắc thu không. Tôi chợt tự hỏi, trong sự cố gắng tột bậc của mọi kiếp người, phải chăng  sự đốn ngộ là kết quả cao nhất mà năng lực của một con người có thể đạt tới. Khi lộ ra dần thăm thẳm sắc thu không cũng có nghĩa là lúc con người đã rũ bỏ được những sự vướng bận tục luỵ trần gian rồi. Con người đã gỡ ra khỏi cái mà không có gì làm khó cho con người bằng việc con người tự làm khó cho mình nơi cuộc sống bỏng khét những tham muốn đến phi lý.
Sự phát ngộ này đã khơi dậy trong cảm hứng của nhà thơ một hứng khởi đặc biệt đặc trưng “Vũ Xuân Hương”, đó là cảm hứng “nhớ Trời”:
Trời! Tự nhiên ta nhớ Trời – vòm thanh thiên mỗi nhật…!
(Nhớ Trời)
Cuốn vào luồng gió và ánh sáng thiên thanh, nhà thơ bay bổng trong ảo giác của Bụi Thiên hà. Đây phải chăng là ảo tượng nằm trong cảm thức và trong mối quan tâm hướng tới nền tảng cảm hứng thi ca của nhà thơ Vũ Xuân Hương trong tập thơ mới xuất bản này - đó phải chăng cũng là ý nghĩa chung cuộc đối với mọi cuộc sinh tồn nơi trần thế mà tác giả muốn gửi gắm mối tâm sự sâu xa của mình.
Ta như hạt bụi – thiên hà
Vi trần vi cực, nhưng là cái Riêng!
Riêng – trong bản tính thiêng liêng
Riêng – trong cái cách hoàn nguyên cuộc đời (…)
Ta Bà trót nhận quê hương
Vi trần: số phận, tình thương: thiên hà…
(Bụi thiên hà)
Dù trong một sát-na, nhà thơ Vũ Xuân Hương đã có cảm thức mình giống như hạt bụi – thiên hà, nhưng ta vẫn thấy trồi lên trong tâm cảm của tác giả cái phần lý trí thật mạnh mẽ, không những không bị xoá đi lu mờ mà cái lý trí đó còn hiện rõ hơn lúc nào hết, đó là sự triết luận về cái Riêng, Riêng trong bản tính và Riêng trong cách hoàn nguyên, trong sự thức nhận về số phận, về tình thương và vi trần vi cực ở cõi thế tục Ta Bà. Tôi thầm nghĩ, hình như số phận của mỗi con người trên trần thế được quy định bởi nhiều sự tác động, nhưng có lẽ tính cách của mỗi con người mang lực đẩy vô hình mạnh mẽ nhất quy định số phận con người đó. Tính cách giống như mái chèo trên chiếc thuyền lan mỏng mảnh, nó dẫn mỗi con người theo những luồng lạch bên những dòng hải lưu trên đại dương trập trùng của số phận.
Tâm tính lành như đất
nhà quen gọi “Cu Mì”
sau vì bao o ép
suýt thành tên hung đồ (…)
Văn chương vài ba bịch
sách vở dăm bảy bồ
mang tiếng người sang lịch
tính ngang tàng gió mưa
nếu sống lại thời xưa
tài dám ngang Lý, Đỗ
nếu sống thời mai xa
đỉnh Thi Sơn ta ngự
(Tự tiếu cuồng)
Những câu thơ trên có thể được coi là những vần thơ tự bạch của nhà thơ Vũ Xuân Hương với những ý tứ rất mạch lạc rõ ràng, mang tinh thần như Lão Tử đã từng nói “tự tri giả minh, tự thắng giả cường”.
Đọc thơ Vũ Xuân Hương, tôi vừa bất ngờ vừa phân vân ở một điều gợn thoáng qua trong những vần thơ của anh, đó là những câu thơ nhắc đến đồng tiền, với cái nghĩa là tiền bạc. Rải rác trong tập thơ Bụi thiên hà,  quá ba lần nhà thơ nhắc đến tiền:
“Đời cứ thế kiếm tiền xuôi ngược”
(Nhớ Trời)
“cũng lẩm nhẩm tiền nong giá cả”
(Bên gốc bạch dương Nga)
“chói tai Karaoke:
ai có tiền lập tức thành ca sĩ!”
(Như chẳng là đêm) 
“Thất thường tiền
thất thường em”
(Trò chuyện với chiếc đồng hồ hỏng)
“Ta lắng nghe
Thời gian đánh Kassa trên tường (…)
Có điều, đừng vội đánh Kassa
Trước cám dỗ những quầy hạ giá!”
(Nhật ký ngày sinh nhật)
Theo chú thích của tác giả, Kassa (tiếng Nga): quầy tính tiền.
Tôi bất ngờ và phân vân, là đồng tiền quả có sức mạnh trong việc từng làm đảo lộn nhiều giá trị xã hội và trong lòng người. Tôi không nghĩ và không tin rằng, đồng tiền lại làm vướng bận được và trở thành mối quan tâm của một nhà thơ chỉ “Nhớ Trời”, tự coi mình “như hạt bụi – thiên hà” và “Tự tiếu cuồng”, tự gọi thơ mình là “Thơ người bệnh tưởng”. Tôi vẫn tự vấn rằng: Liệu đồng tiền có thật chứa đựng được “siêu sức mạnh” như thế đối với nhà thơ Vũ Xuân Hương không?
Đọc bài thơ “Tự tiếu cuồng” của nhà thơ Vũ Xuân Hương mà tôi đã dẫn:
“Văn chương vài ba bịch
sách vở dăm bảy bồ
mang tiếng người sang lịch
tính ngang tàng gió mưa
nếu sống lại thời xưa
tài dám ngang Lý, Đỗ
nếu sống thời mai xa
đỉnh Thi Sơn ta ngự”
Tôi chợt nhớ lại một hình ảnh để lại ấn tượng mạnh về nhà thơ Vũ Xuân Hương trong ký ức của tôi. Đó là thời gian quãng năm 1987, trong một buổi chiều trước sân trường viết văn Nguyễn Du khóa III, khi đó còn là một bãi đất cỏ mọc um tùm trước dãy nhà xiêu vẹo lợp lá cọ,[14]  đứng trước bạn bè cùng khóa, nhà thơ Vũ Xuân Hương dõng dạc chỉ tay về dãy nhà lá và nói: “Sau này, người ta sẽ phải dựng tượng Vũ Xuân Hương ở đây!”. Câu nói đó của nhà thơ Vũ Xuân Hương lúc này lại vang lên trong tôi. Nơi mà nhà thơ Vũ Xuân Hương nói người ta sẽ dựng tượng anh, nay là Khoa lý luận – sáng tác do nhà văn, giáo sư Văn Giá trụ trì. Thời chúng tôi học, khuôn viên nơi này còn rất thoáng đãng, nay nhà cửa đã dựng lên san sát. Thời điểm nhà thơ Vũ Xuân Hương nói sẽ dựng tượng anh, không gian ở đấy thật hợp lý, nhưng giờ nơi này quá chật hẹp chen chúc. Tôi nghĩ vào một dịp nào đó gặp gỡ và thưa với nhà thơ Vũ Xuân Hương, liệu có phải cứ nhất định phải dựng tượng anh trong khuôn viên chật chội của Khoa lý luận – sáng tác do nhà văn, giáo sư Văn Giá hiện đang trụ trì hay không?.
Hà Đông, 21/3/2010
Dương Kiều Minh
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Valentine cho người chưa gặp mặt

Valentine cho người chưa gặp mặt Trong nhiều lần bay qua Mỹ thăm gia đình, chúng tôi thỉnh thoảng có những chuyến layover tại một trong nhữn...