Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2025

Chuyển động thơ nữ Việt Nam

Chuyển động thơ nữ Việt Nam

Sở thích trở lại những năm tháng ấu thơ, tự ăn thế giới nội tâm đầy nữ tính, nên phụ nữ thường sa vào “lối viết thân thể” và “lạc thú thân xác”. Nhưng “thái độ tự yêu mình của phụ nữ chỉ làm cho họ nghèo nàn đi, chứ không hề làm họ thêm phong phú: không hề làm gì khác ngoài việc tự ngắm nghía mình, rốt cuộc, họ tự thủ tiêu mình” (Giới nữ, tập II, Nxb Phụ nữ, 1996; tr.408. Tác giả Simone de Beauvoir; Nguyễn Trọng Định và Đoàn Ngọc Thanh dịch). Sự chiếm hữu bản thân như thế, vô hình trung, phụ nữ đã thỏa hiệp với phận số mà xã hội từ bao đời nay ràng buộc, mặc định, và còn tự bó hẹp những can dự của mình đối với thế giới. Chỉ khi dám đứng lên đấu tranh, “nỗ lực phá giới”, nỗ lực “cắt đuôi hậu tố nữ” mới mong trọn vẹn tiếng nói của chính mình. Cuốn tiểu luận – phê bình “Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố nữ (&20 tiếng thơ nữ quyền đương đại)” của Inrasara (Nxb Hội Nhà văn, 2015)  cho chúng ta cái nhìn khá rõ nét về những chuyển động của thơ nữ Việt, từ chỗ vị thế kẻ lệ thuộc, thứ yếu, phụ nữ biết “tự yêu mình”, và bây giờ đã và đang khắc phục, giải thoát khỏi thiên tính nữ để chấm dứt mọi sự phân biệt về giới tính.
Thơ cũ đã cũ, thiếu cái mới. Thơ mới lạ nhưng chưa hay, còn nhiều bất cập. Trong khi trẻ là thế hệ kế tiếp, nhận “lửa” văn chương từ lớp trước và phải có trách nhiệm giữ “lửa”. Nhưng có một thực tế: “Thơ trẻ (nhất là nữ) lâu nay hay bị than phiền là quá chủ quan, quá hướng về cái Tôi cảm tính mà ít mở ra bên ngoài”(2;tr.93). Đây là nhận xét hết sức thẳng thắn và xác đáng của Inrasara về thơ nữ [trẻ]. Trong khi phụ nữ đòi bình đẳng giới nhưng chính phụ nữ lại tự giới hạn con đường đi của mình. Quẩn quanh, loay hoay ăn mòn cái tôi nữ tính, cho nên thơ nữ (trẻ) không thể đi xa hơn. Nhưng, trong cuốnThơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố nữ (&20 tiếng thơ nữ quyền đương đại), Inrasara vẫn điểm danh được 20 cây bút nữ, đại diện cho sự chuyển hướng, hành trình “cắt đuôi hậu tố nữ”. Cuốn sách có 3 phần: “khởi động”, “hướng tâm” và “ly tâm”. Phần I, Dư Thị Hoàn, Thảo Phương và Tuyết Nga là 3 gương mặt thơ “khởi động” cho kiểu thơ “mang xu hướng khai phóng”. Tuy là đại diện “khởi động” nhưng có thể nói cả 3 cây bút đều đã làm khá tốt nhiệm vụ của mình. Tất nhiên, không ai áp đặt hay bó buộc họ phải viết thế này hay viết thế kia cả. Cái chính Inrasara đã phát hiện lối viết nữ quyền trong chính cảm thức của họ. Tinh thần nữ quyền trong thơ Dư Thị Hoàn là sự “nhẹ nhàng và khiêm cung, nhưng lời thơ kia mang tự thân sức nặng của sự phá vỡ” (tr.35), “dám bước ra ngoài, và biết nhìn ra ngoài” (tr.37). So với Dư Thị Hoàn, Thảo Phương dấn thân vào “gập nghềnh chông chênh” nên thơ có được “nỗi khát khao tự do thoát khỏi không gian chật hẹp, tù túng” (tr42). Thơ Tuyết Nga lại mang hai luồng: vừa “hướng về sự mỏng manh và tinh tế” (tr.46) vừa “mang vẻ bụi bặm đời thường” (tr.48). Như thế, âm hưởng nữ quyền đã có mặt và tác động đến thơ cả 3 cây bút nữ này. Tuy vậy, thơ họ vẫn đang “khởi động” ở mức “chấm phá bản năng tìm kiếm chính mình” (Bản nháp – Tuyết Nga).
Phần II, đại diện “hướng tâm” là các cây bút: Vi Thùy Linh, Đinh Thị Như Thúy, Đỗ Khánh Phương, Lam Hạnh, Phan Huyền Thư, Phan Thị Vàng Anh và Vũ Thiên Kiều. Thơ họ hướng/thiên về nữ quyền nhưng không giải trung tâm, chưa cởi bỏ hậu tố “nữ”. Vi Thùy Linh là gương mặt đại diện đầu tiên cho sự “quyết liệt, hoành tráng và ồn ào… nhất” (tr.56). Người đọc có thể thấy dòng chảy tình ào ạt, say đắm và khát khao thể hiện đặc tính giới trong thơ chị qua câu chuyện của em và Anh (chủ ý viết hoa của Vi Thùy Linh). Bên cạnh những cái đạt được, Inrasara chỉ ra hậu quả đằng sau “lối viết từ bên trong” của Vi Thùy Linh là “thêm đuôi vào hậu tố nữ cho nhà thơ: nhà-thơ-nữ-trẻ, góp phần làm trì trệ công cuộc giải phóng phụ nữ trong văn chương” (tr.61). Trong mối quan hệ nam nữ, phải xóa bỏ quan niệm chủ thể và khách thể. Sự bình đẳng chỉ tồn tại khi cả nam và nữ đều là những chủ thể. Nếu lấy diễn ngôn nữ quyền chống lại thống trị của diễn ngôn nam quyền thì phụ nữ mới dừng lại ở việc khẳng định tinh thần nữ quyền chứ chưa xem mình là một chủ thể, song hành và đối thoại dân chủ với nam giới. Song, những “ồn ào” của Vi Thùy Linh lại rất cần thiết, đã “lôi cuốn được công chúng (văn học và không văn học) chú ý hơn đến người nữ và thơ nữ đương đại” (tr.61). Thơ Đinh Thị Như Thúy thiên về cảm xúc. Nhưng cảm xúc này không lệ thuộc vào cặp quan hệ em-anh nữa. Đọc các tập thơ của chị, chúng ta dễ dàng nhận ra giọng thơ đều đều, kéo dài, rỉ rả, âm ỉ nhưng ngồn ngộn bất an, nhói buốt. Inrasara xem “Phía bên kia cây cầu” của chị: “như cuộc hành trình dài đi vào nội tâm để mở cuộc độc thoại với nỗi cô đơn thân phận” (tr.66). Với Khánh Phương, Lam Hạnh, Phan Huyền Thư, Phan Thị Vàng Anh, mỗi người mỗi lối thơ. Thơ Khánh Phương “đó là loại thơ khách quan, đưa cái nhìn khách quan soi lại lịch sử ở chiều hướng khác” (tr.78). Giọng thơ Lam Hạnh “không quê mùa, không hiện đại” (tr.93) nhưng “lạ và khác”. Thơ Phan Huyền Thư “khá hậu hiện đại” nhưng “chưa mang đủ đầy cảm thức phi tâm hóa hậu hiện đại” và “chưa vượt qua lằn ranh nữ quyền hiện đại” (tr.105). Phan Thị Vàng Anh “đánh thức sự vật đang có mặt trong sinh hoạt ngày thường giữa đời thường” chuyển tải vào thơ (tr.114). Thơ Vũ Thiên Kiều cũng bung phá nhưng bung phá bằng lớp áo dân dã chứ không diễm tình như ngôn ngữ thơ Vi Thùy Linh: “Ngôn ngữ thơ của Vũ Thiên Kiều làm bạo động xô ý thơ trương nở và bung phá hết cỡ” (tr.122). “Kiều biết làm sống dậy lớp ngôn từ dân dã” đưa “nhịp điệu thơ phương Nam hướng theo lối khác, nhanh, cấp tập và mạnh mẽ hơn” (tr.126).
Phụ nữ “thường thành công trong khi miêu tả cuộc sống nội tâm, kinh nghiệm và vũ trụ của mình” (Giới nữ; tr.413). Lợi bất cập hại. Sống trong bầu không khí ấy, phụ nữ đã tự thủ tiêu khát vọng giải phóng và làm cho vấn đề giải phóng càng trì trệ thêm. Theo đó, Inrasara xem Vi Thùy Linh là người nữ “khởi động” cho sự trì trệ này. Rồi từ Đinh Thị Như Thúy đến Khánh Phương, Lam Hạnh, Phan Huyền Thư, Phan Thị Vàng Anh và Vũ Thiên Kiều, dù hơi hướm sắc đẹp, dục tính hay chuyện bếp núc giảm đi nhiều, cố gắng “vượt thoát” bằng cách làm mới/mở rộng hình ảnh, chủ đề, tư tưởng, ngôn ngữ, nhưng đọc thơ họ, chúng ta vẫn dễ dàng nhận ra cảm trạng yếu đuối, nhạy cảm và mong manh. Đinh Thị Như Thúy vẫn run rẩy, mỏng mảnh một cách đáng yêu dù đã chuyển đổi từ “em” sang “tôi”: “Tôi rất sợ khi đã khoác vào người một chiếc áo khác, nhìn cuộc đời bằng một màu mắt khác, mà còn đó nguyên vẹn những vui buồn của cảm nghiệm sống hôm nay” (Phía bên kia cây cầu). Phan Huyền Thư phân đôi cá thể để gia tăng điểm nhìn về con người và xã hội, rốt cuối từ ngữ không tránh khỏi vùng nóng bỏng nỗi niềm phận nữ: “Nằm nghiêng ở trần thương kiếp nàng Bân/ ngón tay rỉ máu. Nằm nghiêng/ khe cửa ùa ra một dòng ấm/ cô đơn. Nằm nghiêng/ cùng sương triền đê đôi bờ/ ỡm ờ nước lũ” (Nằm nghiêng). Đã có ý thức bung phá nhưng đặc tính “luôn luôn tìm cách gìn giữ, vá víu, thu xếp hơn là phá hủy và xây mới; thích thỏa hiệp và thương lượng hơn cách mạng” (Giới nữ; tr.255) của phụ nữ vẫn dồi dào trong thơ của những cây bút “hướng tâm”. Thơ Phan Thị Vàng Anh có tinh thần “an cư” như thế: “Bước tiếp thôi còn một tầng nữa thôi/ Bỗng thấy mình còn sống còn đau còn hạnh phúc/ Lại sợ rồi sẽ hết, những ngày này sẽ hết/ Hai tiếng nữa thôi, ngày lạnh nhất sẽ qua/ Buồn làm sao, chuyện gì rồi cũng thành ấm áp” (Ngày lạnh nhất Hà Nội). Tư duy thơ Vũ Thiên Kiều tự do, phóng khoáng đúng với cốt cách người miền Tây nhưng đề tài còn vương vấn chuyện sinh nở (một đặc điểm riêng, đặc biệt của phụ nữ), vẫn là tự truyện về “tôi”, dù chị đã lồng ghép, tích hợp vào đó bao phì nhiêu của cuộc sống: “Cuống rốn rụng muộn ngày quê/ củ khoai tây cuối vụ không đặc bột/ ốc vặn thôi trèo dọc môn hớt ánh mặt trời/ trăng non mười bốn/ sợi đay óng ưỡn người nằm trên sần sật nốt chai/ bàn tay bà nội thở trong váng đèn dầu đỏ/ mầm tre trồi lên từ gò đất/ mẹ sinh em” (Sấm chớp phù sa).
Như vậy, hầu hết thơ nữ ở vùng “hướng tâm” này, vừa muốn là chính mình vừa muốn phá bỏ, bàn về cái ngoài “tôi”, nhưng xét cho cùng, dù có nhiều cố gắng nhưng tâm thế họ vẫn bị mắc kẹt một cách vô thức về giới tính. Cái họ viết đang là “bản mặt nữ giới” chứ chưa có tâm thế của một chủ thể, viết về con người.
Ở khuynh hướng “ly tâm” (Phần III), Inrasara điểm danh 10 gương mặt tiêu biểu: Chiêu Anh Nguyễn, Du Nguyên, Đoàn Minh Châu, Khương Hà Bùi, Kiều Maily, Lê Thị Thấm Vân, Lưu Mêlan, Phạm Tường Vân, Phan Quỳnh Trâm và Tiểu Anh. “Họ thuộc thế hệ hậu hiện đại và hậu hiện đại mới. Mang cảm thức hậu hiện đại, sáng tác theo thủ pháp hay có âm hưởng hậu hiện đại, họ thổi luồng khí mới vào thơ Việt. Xu hướng ly tâm thấy rõ trong chọn cách xuất hiện của họ” (tr.135). Chúng ta có một Chiêu Anh Nguyễn “rất vỉa hè”, một Du Nguyên “ở lại cô đơn với buồn không địa chỉ” (tr.153), một Đoàn Minh Châu “đi một bước dài đưa thơ tình giảm bớt rất nhiều bản năng để hướng đến suy nghiệm” (tr.165), một Khương Hà Bùi với kiểu “thơ lăn lóc bụi bặm Sài Gòn, nhập cuộc vào dòng chảy sôi động của Sài Gòn luôn sôi động, mới mẻ và bấp bênh” (tr.173), một Kiều Maily “khi riêng, … tinh tế và sâu lắng. Chung, nó mang tính đại diện” (tr.186), một Lê Thị Thấm Vân: “sâu sắc trí tuệ và sức bùng vỡ bản năng …làm được cuộc vượt thoát tâm thức lãng mạn hậu thời một cách ngoạn mục” (tr.193), một hơi thơ Lưu Mêlan “thổi đến từ miền lạ, vô hình” (tr.212), một Phạm Tường Vân mạnh mẽ cắt đứt các cuộc đã đi để nhập cuộc: “vào dòng chảy của cuộc sống đương đại, với những thời sự nóng hổi nhất của nó” (tr.229), một Phan Quỳnh Trâm “sáng tác trong tâm thế nữ quyền, mà Trâm đã ở trong nó, và qua nó – viết” (tr.237) và một Tiểu Anh “chặt chẽ, rõ ràng” “không quanh quéo cầu kì, không son phấn cho ngôn ngữ, càng không ẩn dụ siêu thực bí bức” (tr.250).
Tác phẩm của 10 cây bút thơ kể trên đa dạng về nơi gửi gắm. Đối với họ, “in chính thống hay phi chính thống, in giấy hay đăng lên mạng, in trong nước hay ở nước ngoài – vô phân biệt” (tr.135). Cái chính họ được là chính họ. Thế giới mà họ hướng đến đã gạt dần diện mạo của một cái tôi “bé mọn”. Họ tha hồ quẫy phá trong thế giới rộng lớn. Mỗi người xuất hiện một tâm thế khác nhau nhưng khá giống nhau ở cách đời thường hóa ngôn từ, hình ảnh thơ. Đó là những ngôn từ “thực”, thực nghiệt ngã. Họ chối bỏ những ngôn từ giả tạo, đẩy cả không khí nhộn nhịp, xô bồ của vỉa hè vào thơ, tạo nên thứ ngôn ngữ cơm bụi. Thế giới phơi bày theo cách họ trải nghiệm. Chiêu Anh Nguyễn, Khương Hà Bùi, Kiều Maily, Phạm Tường Vân, Tiểu Anh là dẫn chứng. Nỗi buồn của khuynh hướng “hướng tâm” là nỗi buồn thuộc về giới, nỗi buồn của khuynh hướng “ly tâm” là nỗi buồn kiệt cùng, “giáp mặt” với nỗi buồn. Nhưng không thể nào nắm bắt được. Nỗi buồn “không địa chỉ” là yếu tố khẳng quyết xu hướng “giải trung tâm”.
Inrasara đã khéo léo nói rõ những đánh giá của mình ngay trong cuốn sách: “Dành lời bình và phân tích dài hay ngắn, tuyển thơ nhiều hay ít bài không nói lên sự lớn/ bé, quan trọng ít/ nhiều của tác giả. Mà ở hứng khởi của người viết khi tiếp xúc với mỗi tác giả – tác phẩm ở thời điểm nhất định” (tr.135). Đây mới chỉ là “hứng khởi” (theo cách nói khá khiêm tốn) của Inrasara, nhưng đọc tập sách, chúng ta biết được nét chuyển động và lối đi của thơ nữ đương đại Việt Nam thời hậu hiện đại mới.
7/8/2018
Hoàng Thụy Anh
Nguồn: VĂN NGHỆ, 24/2018
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Đặng Tiến và dòng thơ văn Thanh Tâm Tuyền

Đặng Tiến và dòng
thơ văn Thanh Tâm Tuyền

Nhìn lại thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thuỳ Yên, chủ yếu ta thấy thảm kịch Việt Nam; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu thổ Sông Hồng; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới, không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện: trong thế giới có Việt Nam và trong Việt Nam có thế giới. Trong Guernica của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một bước ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế. Bản thân Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những thể thơ truyền thống. Nhưng đây là những bài thơ làm trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt, không cho phép chúng ta suy diễn về lý thuyết. Dù sao ông đã mở ra những chân trời mới và cách tân quan niệm thi ca.
Câu thơ, bài thơ mới, đọc qua thấy ngay. Câu văn, cuốn truyện mới, khó nhận ra hơn. Người bình luận phải phân biện: mới so với cái gì, và mới ra sao. Nhưng điều cụ thể nhất lại là: người đọc đương thời có nhận ra nét mới ấy không?
Thưa rằng có. Nhà văn Nguyễn Quốc Trụ, 1973, trên báo Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền đã dẫn, có một bài viết căn cơ trình bày giá trị, nghệ thuật và tính chất súc tích của truyện Bếp lửa, 1957. Ông trích dẫn cặn kẽ nhiều văn bản, nhiều tham khảo, để lại một chứng từ chính xác[2].
Tôi còn một chứng từ riêng: bạn tôi là Đinh Ngọc Mô, nhiều người biết vì có thời phụ trách mục Đố vui để học trên truyền hình Sài Gòn, quen nhau từ 1965 tại Đà Lạt, gặp lại nhau 1970 tại Paris. Lúc ấy, Mô sống vất vả, lang bang, đi đàn hát trong các nhà hàng Việt Nam để mưu sinh. Một tối về khuya, dọc Boulevard des Italiens, Mô đã đọc thuộc lòng cho tôi nghe những trích đoạn dài của Bếp lửa mà anh tâm đắc và cho là tân kỳ. Thuộc thơ Thanh Tâm Tuyền đã là khó, thuộc văn xuôi lại không dễ. Vắng tin nhau khá lâu, có người mách là Mô đã qua đời, đã tự tử bên Canada. Tôi không muốn tin, nhưng mỗi lần mở truyện Bếp lửa, là tôi tìm lại những đoạn Mô đã đọc, cho đến bây giờ sách đã vàng ố, tả tơi, rách nát như cuộc đời của chúng tôi. Trước khi kể lại chuyện này, tôi rà lại tin tức, thì bè bạn bốn bể năm châu đều xác nhận chuyện buồn. Mà tôi vẫn chưa tin, và muốn hỏi Mô: Mô ơi, thật à? Cậu ấy vui tính, hay đùa.
Bạn đọc cho là tôi lạc đề. Thân tình thì biết tôi chỉ mới lạc dòng, lạc giọng, mà không lạc đề.
Tiềm năng độc giả thời đó là học sinh trung học: sinh viên đại học chưa nhiều. Và chúng tôi thiếu sách để đọc. Văn chương quốc ngữ thời đó, bỏ ra một kỳ nghỉ hè, có thể đọc hết toàn bộ.
Sách Tự Lực, Vũ Trọng Phụng thì đọc cả rồi… Các tác gia ở lại miền Bắc ít được tái bản. Và chúng tôi khao khát cái mới, các truyện ngắn của Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Thao Trường. Những “Chiếu hoa cạp điều, với “Hương gió lướt đi. Thậm chí, chúng tôi còn bất công với cái cũ: tạp chí Văn hóa Ngày nay của Nhất Linh bán chạy được hai số, rồi thôi. Đoán già đoán non: các vị Đinh Ngọc Mô, Nguyễn Quốc Trụ, cũng như tôi, đã đọc Bếp lửa trên ghế trường trung học, trước khi hư thân mất nết ở nơi khác.
Bếp lửa là một truyện vừa, vừa một trăm trang. Thanh Tâm Tuyền viết liền mạch, rất nhanh, trong vài tháng, xong tháng 10-1956, đưa đi kiểm duyệt và xuất bản ngay [3]. Không có độ lùi để sửa chữa. Sau này, khi tái bản, ông muốn sửa chữa, nhưng không làm được và viện dẫn Malraux: người ta không viết lại được một cuốn sách. Nhưng có một truyện ngắn “Đại lộ, nội dung na ná, in lại trong tập truyện Khuôn mặt, 1964.
Truyện được viết từ ngôi thứ nhất “tôi. Người kể, “tôi” tên Tâm, cùng tên với tác giả, đi dạy học tại một trường Công giáo tại Bắc Ninh, còn tác giả dạy tư thục ở Hà Đông, khoảng 1952.
Tuy nhiên Bếp lửa không phải là tự truyện, đại khái như tác phẩm Kẻ dưng, l’Etranger của Albert Camus, bắt đầu bằng câu nổi tiếng: “Hôm nay mẹ tôi mất, nhưng chính bà mẹ Camus lại sống lâu hơn tác giả. Trong Bếp lửa, Tâm mồ côi bố từ nhỏ, sau đó mồ côi mẹ, trong khi bà cụ tên thật là Thạch Thị Kim thọ rất lâu, ở Long Khánh. Tính cách mồ côi ở đây là một ẩn dụ, như ở Kẻ dưng hay Cũng đành của Dương Nghiễm Mậu sau này.
Không phải là tự truyện, nhưng Bếp lửa phản ánh tâm trạng tác giả, và một số thanh niên đồng lứa vào thời điểm trước hiệp định Genève, 1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận dưới sự kiểm soát của Pháp. Chủ yếu là những nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sắc về tâm thức chính trị của con người lúc đó qua những nhân vật: ông Chính, đảng viên Quốc dân Đảng, còn hoạt động; Bảo có tham dự phong trào Ngũ xã nhưng nay đã tuyệt vọng; Đại say đắm chủ nghĩa mác-xít và chuẩn bị ra khu; Hoà nhân viên Phòng nhì; Ngọc hoàn toàn hư vô và chối từ tổ quốc… Giữa họ là những nhân vật nữ, hiền lành, vô tội, như chị em Thanh và Minh, em họ Tâm; Hạnh; Thịnh vào ra giữa hai vùng… Còn Tâm? Anh xê dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và nói như Meursault, nhân vật Kẻ dưng: không biết rõ mình muốn gì, nhưng biết rõ những điều mình không muốn. Khi Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi việc, “ngạc nhiên một chút rồi rửng rưng ngay. Tôi không hỏi vì cớ gì ông muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đã quên không nói cho tôi biết… Tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một giấc rất say” (tr. 90).
Trong thế giới ấy, quan hệ tình cảm cũng mong manh, sắc sắc không không, như giữa Tâm và Thanh, một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ. “Đôi khi tôi nghĩ tôi có thể yêu Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích giữa cúng tôi không đáng kể (…) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của tôi cả” (tr. 12).
Quan hệ tính dục cũng nhẹ nhàng thôi. Tâm gặp lại Hạnh, một cô bạn học cũ, đi cùng một chuyến xe chở hàng từ Bắc Ninh về Hà Nội. “Đến Hà Nội, mưa lớn hơn, chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn” (tr. 72). Chấm dứt chương 4. Bước sang chương 5: “Tôi có cùng về Hà Nội với Hạnh một vài lần. Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh – hay chỉ cần sự đe doạ của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương (…). Sau mỗi lần như thế, khi lấy lại bình thường, Hạnh có vẻ ngượng ngùng. Có một lần nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng nói: Anh có khinh em không?” (tr. 76).
Dĩ nhiên là các vị Nam Tào văn truyện kiêm Bắc Đẩu lịch sử sẽ có người bắt bẻ, hạch hỏi: chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, hay bảo vệ tự do, chỉ có kích thích tính dục người phụ nữ hay sao? Bếp lửa là một trước tác nghệ thuật, và Thanh Tâm Tuyền đã có lần nói: «Người nghệ sĩ đưa sinh mệnh mình để đảm bảo sự thành thật của tác phẩm», thì ắt không buồn quan tâm đến những vấn nạn ấy. Điều chúng ta ghi nhận là nét hững hờ, lãnh đạm của Tâm đã thổi dạt Bếp lửa trôi xa, không những với Dòng sông Thanh Thuỷ của Nhất Linh mà còn xa với Khu rừng lau của Doãn Quốc Sỹ hay Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan đồng hội đồng thuyền.
Một thắc mắc, nhỏ thôi: không khí Hà Nội khoảng 1950-1952 nhất định phải khác xa không khí Sài Gòn 1970-1972. Nhưng về cơ bản, tâm lý thanh niên trí thức có khác nhau nhiều không?
Ngày nay, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn tàn phá nhiều nơi trên thế giới; và giữa tiếng kêu la thất thanh của trẻ con, vẫn có lời vinh danh Thượng Đế. Trong Bếp lửa, Thanh Tâm Tuyền đã viết «theo tôi có những lúc người ta cần giải quyết giữa người và người và Thượng Đế không nên có mặt ở lúc ấy (…) Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài người và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại» (tr. 67).
Tại Việt Nam, một dải đất còm cõi đau thương, năm 1956, một thư sinh mặt trắng, 20 tuổi, đã viết dõng dạc được một câu như thế, kể cũng là lời tiên tri lạ lùng và cao siêu đấy chứ?
Về phong cách, Bếp lửa là một tác phẩm làm mới văn chương chữ nghĩa theo nhận định của Nguyễn Quốc Trụ trong bài đã dẫn. Vậy mới, là so với cái gì, và mới ra sao?
Trong một bài viết tưởng mộ Nguyễn Đức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, Thanh Tâm Tuyền 1974 đã viết: «Cùng với Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Đó là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt (…) Tôi không phải là người của một vài quyển sách. Trước và sau khi đọc Thằng Kình, Những ngày thơ ấu, tôi đã đọc hầu hết tiểu thuyết Việt Nam, tôi hiểu được giá trị, tôi cảm được cái hay của nhiều tác giả khác nhưng chỉ có hai tác giả Nguyễn Đức Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi lòng ngưỡng mộ. Văn chương phát sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi không bao giờ quên ơn người đã khơi dậy lòng ngưỡng mộ nơi tôi».[4]
Một lời tình tự như vậy, ở một người ít tự sự như Thanh Tâm Tuyền là quý hoá, là một chìa khoá đưa ta vào thế giới tiểu thuyết, mối hạnh phúc đau đớn, bắt đầu từ Bếp lửa, rồi đến Khuôn mặt, Dọc đường, Cát lầy, Ung thư, Mù khơi, Tiếng động…
Đối với Thằng Kình (1942, Hàn Thuyên, Hà Nội), niềm ngưỡng mộ có lẽ dừng lại ở nội dung mới lạ của tác phẩm, thêm chút tình riêng với tác giả. Chứ nhân vật Kình, khỏe mạnh, tự tin, tích cực, rất xa với nhân vật truyện Thanh Tâm Tuyền; hành văn rậm rạp của Nguyễn Đức Quỳnh cũng xa với lối viết trần trụi trong Bếp lửa.
Gần nhau hơn là Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng viết năm 1938, khi 20 tuổi, như trường hợp Bếp lửa, dưới dạng tự truyện ở ngôi thứ nhất. Bằng giọng văn đơn giản, Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ cơ cực, một cách thành thực, như chuyện người mẹ ngoại tình bị gia đình nhà chồng hắt hủi mà đứa con một mực yêu thương. Nhưng cơ bản thì hai truyện khác nhau: Những ngày thơ ấu là tự truyện của một người, dĩ nhiên là mang nét xã hội; Bếp lửa là truyện một thế hệ thanh niên ưu thời mẫn thế, mang nặng chất trí thức và chính trị. Nguyên Hồng viết đơn giản, nhưng thỉnh thoảng vẫn có những đoạn văn chương, ví dụ ngay ở chương I (Tiếng kèn): «Những buổi chiều vàng lặng lẽ… Buổi chiều nào cũng vậy…», không hề có trong Bếp lửa. Và trong một bài báo, «Nhân nghĩ về hội hoạ», 1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối «văn chương có thể đặt tên là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò» (Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem Bếp lửa ra giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một vài trích đoạn tiêu biểu gọi là «trích diễm». Kinh nghiệm của tôi: yêu cầu sinh viên phải đọc toàn bộ tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp, về hình thức, nội dung. Ví dụ lối kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng thời gian, không một lần quay lại quá khứ – cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm – về người mẹ và bà ngoại. Lối dùng từ bình dị, ưu tiên cho từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ Hán – Việt. Lối đặt câu ngắn, có khi cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu, như là lời nói nén chặt nội tâm: «Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh» (tr. 47). «Ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ dội» (tr. 87). Câu được nhiều người nhắc: «Buổi sáng mùa đông ngây ngất vào lối 10 giờ» (tr. 11). «Buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã» (tr. 28).
Nhưng nét mới quan trọng là không khí chung của toàn truyện Bếp lửa, không phân biệt nội dung, tư tưởng, hình thức, nghệ thuật và ngữ pháp. Thậm chí người đọc có thể hỏi: Bếp lửa, bếp lửa nghĩa là gì?
Với tôi, có lẽ thêm vài kẻ bạn, Bếp lửa là một bài hát.
Bài hát «chỉ được nghe một lần trong đời. Bài hát xưa lắm, những người thích nó kẻ đã chết, người còn sống thì quên không nhắc lại. Riêng tôi, tôi thường thì thầm với chính mình những phút cô đơn» [5] .
Có ai đó đã viết đâu đó về âm hưởng nhạc blues trong thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã thiết lập quan hệ mật thiết giữa các bộ môn nghệ thuật. Điều này, ngày xưa, nhóm Tự Lực đã làm, nhưng còn hời hợt, dù rằng nhà văn Nhất Linh, nhà thơ Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên trường Mỹ thuật. Thời đó, họ chỉ đặt những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Hoạ hoằn lắm mới có bài Nguyễn Tuân về tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam, không có nhà thơ sành hội hoạ như Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các nhà thơ như Aragon, Eluard với hoạ sĩ Picasso hay Chagall ở Pháp. Thanh Tâm Tuyền thật sự muốn bắc cầu giữa các bộ môn nghệ thuật, nhất là giữa thơ và hội hoạ, và thân thiết với các hoạ sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, bài «Nhân nghĩ về hội hoạ» viết năm 1956 – hai mươi tuổi – ông đề tặng ba người ấy.
Hoạ sĩ Thái Tuấn kể lại rằng trong một cuộc triển lãm năm 1958, ông có bức sơn dầu vẽ một người đàn ông đội mũ đeo ống sáo trên vai, chừng mực nào đó, là một chân dung tự hoạ; ông không biết đặt tên là gì. Thanh Tâm Tuyền đề nghị gọi là «Hoá thân», Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà thơ: anh vẽ cái gì thì cũng là hoá thân vào bức hoạ, tranh nào rồi cũng thành chân dung hoạ sĩ. Nghe chuyện, tôi cứ nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý từ một tựa đề tiểu thuyết của Kafka. Đọc lại bài báo nói trên, tôi mới vỡ lẽ ông tham chiếu vào một chuyên khảo về nghệ thuật của Malraux Những hoá thân của Apollon-les Métamorphoses d’Apollon, 1951, và ông thường tâm đắc với Malraux.
Ông viết trong bài “Nhân nghĩ về Hội hoạ: “Tôi công nhận nghệ thuật như một nghề như mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ chân chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình ra thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động siêu việt của nhân loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính» (Văn, số đặc biệt đã dẫn, tr. 78).
Đoạn trích văn này có thể tóm lược quan niệm và sự nghiệp văn thơ, nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền, và làm kết từ cho bài này.
Chúng tôi gửi thêm vào đó niềm kính trọng và thương tiếc khôn nguôi với một Lòng Suối Trong Xanh đã lẫn sâu vào lòng đất, trở về cõi thuỷ chung. Một dòng thơ đời đời thao thiết nuôi dưỡng Tình Yêu và Quê Hương trong mỗi chúng ta, cho mỗi chúng ta, trong thân phận làm người, làm người trong hay ngoài đất nước, luôn luôn trong nhân loại.
Trong truyện Bếp lửa, sáng tác năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã hạ một câu kết, để đời, – khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong tâm thức thế hệ chúng tôi:
“Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Đời người, vô cùng rồi cũng đến vậy thôi.
Vô cùng Thanh Tâm Tuyền.
Thanh. Tâm. Tuyền.
Thanh Tâm
Tuyền.
Chú thích:
[1] Thanh Tâm Tuyền, Văn, số 199, tháng 4-1972, Sài Gòn.
[2] Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền, tháng 11-1973, Sài Gòn. Nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư dự tính in lại nguyên văn số báo để tặng bạn đọc, liên lạc qua e-mail This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.” target=”_blank”>tranhoaithu@verizon.net. Hoan hô Trần Hoài Thư.
[3] Thanh Tâm Tuyền, Bếp lửa, nxb Nguyễn Đình Vượng, 1957, Sài Gòn, Chúng tôi trích đoạn từ bản này.
[4] Thanh Tâm Tuyền, Văn, Giai phẩm, tháng 6-1974, tr. 21-22, Sài Gòn.
[5] Thanh Tâm Tuyền, «Buổi sáng ngoài bãi biển», trong Khuôn mặt, tr. 98, nxb Sáng Tạo, 1964, Sài Gòn.
1/4/2006
Đặng Tiến
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Sắc màu truyện ngắn Nguyễn Văn Thọ

Sắc màu truyện ngắn
Nguyễn Văn Thọ

Tuy đến với văn chương muộn màng, nhưng nhà văn Nguyễn Văn Thọ vẫn gặt hái được nhiều thành công. Ông viết nhiều thể loại, song thành công nhất với truyện ngắn. Câu “chọn mặt gửi vàng” có thể ứng vào trường hợp thể loại truyện ngắn đã “chọn” Nguyễn Văn Thọ.
Tính đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Thọ đã công bố sáu tập truyện ngắn: Gió lạnh (1999), Vàng xưa (2003), Thất huyền cầm (2006), Sẫm violet (2013), Hương mỹ nhân (2016) và Vườn mộng (2018). Trong nghiệp văn, có người lóe sáng ngay từ khi mới cầm bút, nhưng về sau không giữ được khí sắc; có người thì “chầm chậm tới mình”. Nguyễn Văn Thọ thuộc kiểu nhà văn thứ hai, càng viết càng đằm sâu, quyến rũ.
Liên tiếp trong hai năm vừa qua, nhà văn ra mắt liền hai tập truyện ngắn đầy đặn, có tiếng vang trên văn đàn là Hương mỹ nhân (24 truyện) và Vườn mộng (18 truyện); như một sự tổng kết sự nghiệp sáng tác truyện ngắn. Ông tuyên bố “chia tay” truyện ngắn, chỉ dồn sức viết tiểu thuyết. Nhưng độc giả thì ngược lại, vẫn tin tưởng Nguyễn Văn Thọ tiếp tục “xuất thần” với thể loại này.
Nếu coi truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Thọ là một bức tranh nhiều màu sắc về đời sống xã hội và con người thời hiện đại, có thể nhận ra ba mảng màu nổi bật trong Hương mỹ nhân và Vườn mộng, đó là: chiến tranh – hậu chiến, Hà Nội xưa – nay và thân phận cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tuy là ba mảng màu khác nhau, tưởng như không có mối liên hệ nào, nhưng thực ra chúng được cố kết bằng một “sợi chỉ đỏ”, đó là tâm thế, bản tính, thân phận của người Việt Nam trong những hoàn cảnh sống khác nhau.
Từng hơn mười năm trực tiếp cầm súng ở chiến trường cho nên đề tài chiến tranh và người lính luôn được nhà văn quan tâm sâu sắc. Ông viết sự thật chiến tranh qua con mắt của người lính binh nhì, trực tiếp từ chiến hào, đem đến những tác phẩm ròng ròng sự sống. Tấm chăn màu huyết dụ, Lời hứa của chiến tranh, Vàng xưa, Vô danh trận mạc, Mùi thuốc súng, Người Hà Nội, Lửa thơ Zippo, Rồi chúng con sẽ trở lại quê hương, Ám ảnh, Sương đêm, Thằng Phoóng em tôi,… là một chuỗi ký ức trận mạc được đánh giá qua chiêm nghiệm. Nếu được chọn mười truyện ngắn hay nhất trên văn đàn đương đại về chiến tranh, theo tôi, Nguyễn Văn Thọ có thể góp vào Mùi thuốc súng. Chiến tranh đầy tàn khốc, nhưng có thể con người lớn lên trong nỗi đau. Bài học về lòng nhân ái, vượt qua định kiến, thù hận, đề cao khoan dung, hòa hợp là tư tưởng then chốt trong truyện ngắn xuất sắc này thông qua một chuỗi nỗi đau của người lính và nhiều thân phận quanh họ thời hậu chiến.
Lại có hơn 20 năm bươn chải ở xứ người (tại nước Đức trước và sau thống nhất), cho nên Nguyễn Văn Thọ hiểu tận chân tơ kẽ tóc đời sống của cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài. Không có miền đất hứa; không có tự do nhiều đến mức như người ta hay tưởng tượng; không dễ dàng kiếm được nhiều tiền nếu không bán mặt cho đất, bán lưng cho trời,… Nghĩa là ở đâu trên Trái đất này, con người cũng phải quần quật lao động vì mưu sinh. Lá bùa, Một người Đức, Trên tàu, Vườn Maria, Bản năng, Bản ngã, Chuyện của Huệ, Thật là giản đơn, Phải sống, Trong bão tuyết,… là những truyện dường như được chắt ra từ nước mắt khi viết, vì chính tác giả trước hết thấm thía nỗi cơ hàn của kẻ ly hương.
Phấn đấu vì miếng cơm manh áo nơi xứ người đến một lúc nào đó có thể tạm ổn thỏa; nhưng để ngẩng cao đầu vì mình có thể đối thoại văn hóa với người ta hay không lại là chuyện “vượt vũ môn”. Những truyện viết về cộng đồng người Việt Nam ở xứ người có sự vật vã, bền bỉ, âm thầm của một cuộc giao tranh, đối thoại văn hóa khi Trái đất là một “thế giới phẳng”. Chính vì quan tâm đến vấn đề căn cốt này mà tác phẩm có được chiều sâu và hàm lượng văn hóa.
Mảng tác phẩm khác khiến độc giả thú vị là những truyện về Hà Nội xưa và nay. Văn học Việt Nam từng có Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Vũ Bằng,… viết tài hoa và sâu lắng về Hà Nội trước đây. Nay lại có thêm Băng Sơn, Ma Văn Kháng, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Ngọc Tiến, Trần Chiến,… mỗi người một vẻ. Nguyễn Văn Thọ có vẻ như vạch ra một nẻo lối vào văn chương khi viết Vườn mộng, Phố cũ I, Phố cũ II, Lạc tiên, Tình yêu người thợ giày, Muối mặn, Lạc cõi giang hồ,… Nghĩa là “chuyện cũ” nhưng không hề cũ ý nghĩa, thậm chí dẫu có “muôn năm cũ” thì vẫn là hồn cốt của xứ Kinh kỳ.
Tuy gốc gác không phải Hà Nội, nhưng Nguyễn Văn Thọ cũng như nhiều người, quyết không coi mình là dân ngụ cư ở trung tâm văn hóa của cả nước. Ông viết bằng cả một tình yêu Hà Nội, không phải ngòi bút nào cũng làm được nếu chỉ theo lối “cưỡi ngựa xem hoa” hay “ham thanh chuộng lạ” như cách nói dân gian. Mỗi trang viết ở chủ đề này tác giả đều cố gắng giữ được cái “chất Hà thành” của người và cảnh của một vùng, một không gian địa linh nhân kiệt.
Nguyễn Văn Thọ là một cây bút truyện ngắn có nghề. Ông quyến rũ độc giả trước hết bằng tình cảm đắm đuối với cuộc sống và con người, trân trọng và đề cao giá trị văn hóa tinh thần, chủ nghĩa nhân văn, tâm thế hòa giải, hòa hợp và khoan dung. Nhưng đồng thời nhà văn có ý thức tạo hấp lực của tác phẩm văn chương bằng các yếu tố nghệ thuật đa dạng. Truyện ngắn Nguyễn Văn Thọ hấp dẫn về cốt truyện, đặc sắc về chi tiết, đa dạng về giọng điệu; có “mầm mống tiểu thuyết”. Bằng chứng là từ truyện ngắn đến tiểu thuyết chỉ một bước như trường hợp tiểu thuyết Quyên được xây dựng trên hai truyện ngắn Bản năng, Bản ngã.
Văn chương của ông có nhịp điệu khẩn trương phù hợp nhịp sống hiện đại, câu văn thường ngắn, chủ yếu sử dụng từ thuần Việt. Tuy nhiên, tổng thể tác phẩm và truyện ngắn Nguyễn Văn Thọ cũng có những “hở sườn” nhất định. Đó là việc tác giả vẫn còn “tham lam” khi kể, thiếu tiết chế cho nên truyện thường dài, đôi khi lan man. Tác giả đóng vai “người cha tinh thần” của nhân vật nên có lúc dẫn đến tình trạng “bao cấp tư tưởng”; độc giả đôi chỗ có chút tiếc nuối vì nhà văn đã nói hết, giải quyết hết mọi chuyện, trí tưởng tượng của người đọc ít nhiều bị hạn chế. Theo tôi, chùm năm truyện ngắn hay nhất Nguyễn Văn Thọ đã viết, có thể là: Vàng xưa, Sẫm violet, Hương mỹ nhân, Vườn mộng và Mùi thuốc súng.
7/8/2018
Bùi Việt Thắng
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Một góc nhìn Xuân Diệu

Một góc nhìn Xuân Diệu

1. Tôi nhìn thấy Xuân Diệu lần đầu tiên ở quê tôi - làng Nhượng - khi đó còn chưa có chiến tranh. Trong hành trình về quê hương Hà Tĩnh nói chuyện thơ thì quê tôi là một điểm đến của ông. Đó là một buổi tối đẹp trời.
Cử tọa vòng trong vòng ngoài kín cả sân trụ sở Ủy ban xã: ngoài giáo viên, học sinh còn có nhiều người làm nghề chài lưới và các chị ở nhà chuyên nuôi con và nội trợ. Trước một cử tọa đông và háo hức, Xuân Diệu nói rất say sưa về thơ mình. Mỗi lần bình xong một bài, đọc lại toàn bộ bài thơ đó, ông lại cúi đầu chào và tất cả cử tọa lại vỗ tay nồng nhiệt.Người nghe như bị ông hút hồn vì ở một miền đất vốn yêu và khát văn chương (thời bấy giờ phương tiện truyền thông quá hiếm so với bây giờ) mà lại được thực mục sở thị một nhà thơ danh tiếng như Xuân Diệu là một điều hiếm nên dường như không có ai bỏ về giữa chừng. Đang lúc cao trào thì một chị mang theo con nhỏ bị nó đòi đi tiểu. Chắc bỏ ra thì tiếc, lại sợ mất chỗ ngồi tốt, chị ta đành hồn nhiên mà cho con tè tại chỗ. Nhiều người thấy vậy khó chịu vì cảm thấy quá mất thể diện với ông. Nhưng Xuân Diệu không lấy điều đó làm vì, vẫn tiếp tục một cách say sưa. Sau này, tôi mới biết rằng, ông ghi nhận đằng sau những cử chỉ không được lịch sự lắm đó của những người dân quê là tình cảm, nhiệt tình của độc giả đối với ông và tình yêu đối với văn thơ. Với ông, điều đó rất cần.
Có hàng trăm buổi bình thơ trước công chúng thôn quê, tôi chắc những trường hợp như trên không là hy hữu. Bởi khi Xuân Diệu bình thơ, nói chuyện thơ, ông có một sức hấp dẫn lạ lùng.
Một trường hợp khác mà gần đây Giáo sư Hà Minh Đức có kể lại trong cuốn Xuân Diệu – vây giữa tình yêu. Hồi đó tôi, Mai Hương và Bích Thu còn trẻ và cùng mới về nhận công tác tại Viện Văn học. Một buổi tối, Giáo sư dẫn chúng tôi đến thăm Xuân Diệu tại nhà riêng trong biệt thự có cây hoàng lan nằm trên một con phố yên tĩnh. Căn phòng ông ở không thật rộng, có lát gạch hoa, lại có nhiều giá xếp đầy sách. Trên bàn làm việc có mấy bông hồng trắng cắm trong chiếc cốc thuỷ tinh càng tôn thêm vẻ quý phái, lịch lãm của chủ nhân. Trong không khí thoải mái, câu chuyện giữa ông với thầy trò chúng tôi đã diễn ra rất thân mật.
Tôi ngồi nghe ông nói và tranh thủ quan sát khuôn mặt, mái tóc bồng bềnh của ông, nhất là mỗi khi ông ngúc ngắc cái đầu lúc này tóc đã bạc. Tôi còn nhớ lúc ra về tôi nhanh nhảu giơ tay bắt tay ông và buột miệng chào ông bằng bác (vì lúc đó tôi nghĩ ông hơn tuổi bố tôi nên xưng hô thế là phải phép). Không ngờ, ông lại ngắc ngắc cái đầu theo thói quen tỏ vẻ thật sự ngạc nhiên với cái giọng Bình Định nhấn và kéo dài từng âm tiết một như đay đả: là bác à. Cái đại từ này tôi nghe nó lạ quá.
Tôi lúng túng chưa biết nói thế nào thì may quá, thầy Hà Minh Đức đã đỡ lời. Các cô này cũng còn trẻ cả đấy. Tuy nhiên, chỉ nên gọi bằng anh cho dễ vì anh Xuân Diệu đây là nhà thơ tình… Rút kinh nghiệm sau lần đó, tôi cũng đỡ lúng túng hơn khi chọn đại từ xưng hô với các nhà thơ, kể cả các nhà thơ lớn tuổi như Huy Cận và Tế Hanh. Nhưng với Tô Hoài thì tôi vẫn gọi bằng bác, dù Tô Hoài ít tuổi hơn. Có lẽ vì ông không phải là nhà thơ tình?
Lần cuối cùng tôi gặp Xuân Diệu là dịp Hội nghị những người viết văn trẻ toàn quốc năm 1985 mà tôi được tham dự. Tối hôm trước, có cuộc giao lưu giữa các đại biểu và các nhà văn Thủ đô. Chúng tôi chỉ biết là ông đang bị mệt vì không thấy ông đến. Sáng hôm sau, vừa đến hội trường chúng tôi bàng hoàng nhận được thông tin là ông mất đêm qua do nhồi máu cơ tim. Khi Ban tổ chức chính thức thông báo, chúng tôi đã dành thời gian để mặc niệm ông. Không khí trong Hội trường trầm hẳn xuống khi nhà văn Lữ Huy Nguyên thay mặt Ban tổ chức đọc bài viết dài 20 trang đánh máy cuối cùng vốn là tham luận ông viết cho Hội nghị.
Chúng tôi lắng nghe và hình dung ra trước mắt mình vẫn là một nhà thơ Xuân Diệu với thói quen thỉnh thoảng lại ngúc ngắc cái đầu đang ân cần dặn dò lớp nhà văn trẻ bằng sự trải nghiệm của cuộc đời hơn năm mươi năm cầm bút, bằng tình thương yêu đối với lớp trẻ chúng tôi và bằng tinh thần trách nhiệm đối với sự nghiệp văn học của dân tộc. Sau đó, một số đại biểu rủ nhau vào ngay bệnh viện Việt-Xô. Một số tham gia lo việc tang lễ. Hôm đưa tang ông, một trong số những đại biểu trẻ được vinh dự khiêng linh cữu ông vào nhà tưởng niệm, túc trực rồi sau đó khiêng quan tài ông đưa ra xe tang.
Tôi đã chứng kiến nhiều đám tang của văn nghệ sĩ ở trụ sở 51 Trần Hưng Đạo. Có lẽ sau đám tang Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh thì đám tang Xuân Diệu là đông và xúc động nhất: cả một rừng người và một rừng những vòng hoa màu. Rất nhiều người khóc. Những ai đến viếng ông chắc họ đều hơn một lần đọc và thuộc ít nhiều thơ ông. Biết đâu những câu thơ tình của ông từng là nhịp cầu tình yêu cho bao đôi lứa?
Trong đám tang đó, duy nhất có một bó hoa trắng (màu hoa chỉ sự trinh trắng, thường dùng trong đám tang của người chưa lấy vợ lấy chồng hoặc trẻ em) rất đẹp – giống như hoa tết dùng cho sinh nhật bây giờ, là của đạo diễn Bạch Diệp đến viếng. Tôi đi bên xe tang cạnh nhà thơ Hoàng Trung Thông lúc này cũng đang im lặng nhưng mắt thì đỏ hoe. Chúng tôi nhìn màu trắng của hoa – những bông hoa từ chính người đàn bà danh chính là vợ duy nhất của ông dầu họ sống chung với nhau trong một quãng thời gian không dài; và đưa mắt cho nhau, ngậm ngùi ngẫm nghĩ về ông mà thương ông khôn xiết. Tôi chợt nghĩ: liệu trong bấy nhiêu thành quả lao động đồ sộ mà ông để lại cho đời có bao nhiêu phần trăm là kết quả của một sự lao động để mà lãng quên nỗi bất hạnh về giới tính của mình?
2. Theo như cách nghĩ của tôi, Xuân Diệu là người có ba quê : quê cha, quê mẹ và quê nơi mình lớn lên, lập nghiệp và trưởng thành. Cả ba quê ấy, theo những cách khác nhau đã thẩm thấu vào tâm hồn ông, tạo nên tính cách, con người ông khá rõ.
Với Xuân Diệu sự sống đúng là không bao giờ chán nản. Ông là người lao động cần cù với cái nghĩa đúng nhất, đầy đủ nhất. Không biết có phải do hoàn cảnh? Do bẩm sinh? Do tính cách? Hay là sự lựa chọn? Ông lao động chữ nghĩa như một người khổ sai suốt cả cuộc đời mình. Có mặt gần như trên hầu hết các thể loại văn học: thơ, văn xuôi, tiểu luận phê bình, nghiên cứu, dịch thuật, ông còn làm báo, làm tuyên truyền, làm cán bộ xuất bản, làm công tác bồi dưỡng những người viết trẻ, đi bình thơ trước công chúng, giới thiệu văn học nước ngoài vào Việt Nam và giới thiệu văn học Việt Nam ra nước ngoài.
Chỉ riêng công việc khảo cứu các nhà thơ cổ điển của ông, từ góc nhìn của một người làm nghiên cứu, chúng tôi hoàn toàn tâm phục khẩu phục! Chưa kể ông còn là một người tham gia hoạt động xã hội tích cực, sẵn sàng phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến. Ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp lớn. Trong chiến tranh, ông đã vào tuyến lửa khu IV không dưới mười lần.
Sau ngày đất nước thống nhất, dù đã bước vào tuổi lục tuần và giao thông ngày ấy không hề thuận lợi ông vẫn tranh thủ đi khắp miền Nam. Đi đâu, đến đâu, ông cũng tìm cách “giao cảm với đời” và có được những bài thơ mang dấu ấn của miền đất đó. Những năm cuối đời nhìn sang lớp bạn bè đi kháng chiến một số đã lần lượt ra đi, ông ý thức cái chết như một quy luật tự nhiên sẽ đến vì quỹ thời gian của ông đã như miếng da lừa đang ngày càng co nhỏ lại. Ông hiểu rằng “con người cần phải biết nhìn về nơi chốn cuối cùng của mình để những ngày tồn tại trên trái đất này sao cho xứng đáng”. Nên ông dồn hết mọi thời gian, tranh thủ từng phút, từng giờ để làm việc.
Những kỷ niệm, những câu chuyện, giai thoại về sự cần cù, về ý chí, nghị lực của ông đã tỏa ra quanh ông một vầng hào quang nửa hư nửa thực về một sức làm việc phi thường vào thời điểm trên bom dưới đạn, vào thời buổi gạo châu củi quế, người người chỉ lo vào việc mưu sinh. Cố nhà thơ Phạm Tiến Duật từng viết về ông “Suốt một thế kỷ qua hầu như ngày nào anh cũng viết, đến nay đã có mấy nghìn trang sách. Thế mà không hề có một dòng nào thờ ơ, không có một dòng nào lãnh đạm. Xuân Diệu không khi nào nói để mà nói, viết để mà viết. Trong ngôn ngữ của anh, khi cởi mở, khi cay nghiệt, lúc tỉnh táo, lúc mê say, luôn đập một trái tim trung thực, luôn hồi hộp một nỗi niềm khám phá”.
Nhiều bạn văn của ông cũng đều nói rằng Xuân Diệu là một người rất trung thực, lắm khi trung thực đến hồn nhiên nên dễ bị người khác nghĩ ông có phần nghiệt ngã (chỗ này người ta không tiện nói là ông vụng). Ông không ngần ngại nói ra những bài thơ nổi tiếng trước cách mạng của ông đã ảnh hưởng nhà thơ Pháp nào kể cả khi ông sang Pháp nói chuyện trước Việt kiều đã đành mà đối với thơ của một số cây bút vào nghề, ông cũng vạch ra một cách thẳng thừng, dù rất tận tâm về cái được và chưa được, khiến họ thoạt đầu không khỏi khó chịu, nhưng qua cơn tự ái thì lại cảm phục và kính trọng ông. Tôi nghĩ đức tính cần cù, ham học, giàu ý chí, nghị lực kể cả tính trung thực đến vụng về này là một đặc tính của người xứ Nghệ mà chắc ông được di truyền từ dòng máu của cha mình.
Trong số những câu chuyện “đời thường” được nhiều người kể lại thì ấn tượng hơn cả là việc Xuân Diệu rất coi trọng chất của bữa ăn. Đặc điểm này gắn rất chặt với tính mục đích cao vốn là một phẩm chất nổi trội trong cung cách làm việc của ông. Là người có quan niệm sống thiết thực, luôn coi trọng hiệu quả cụ thể, ông quan niệm một cách rất thực tế rằng “có thực mới vực được đạo”.
Ngót ba mươi năm ông đi xa rồi thế nhưng những người trẻ tuổi đọc và yêu thơ ông giờ đây chắc cũng khó hình dung nổi một ông hoàng thơ tình – tác giả của những câu thơ nồng nàn tinh tế, những câu thơ đã thành kinh điển cho những người đang yêu của nhiều thế hệ – mà lại phải tính toán lượng calo cần thiết cho cơ thể mỗi khi mua thức ăn và tằn tiện trong chi tiêu!
Mẹ Xuân Diệu là người Bình Định nhưng từ nhỏ, ông đã bị bố “bắt” về ở với mẹ già và những năm ông sống ở Hà Nội, người mẹ già ấy đã ở cùng ông. Dân Nghệ xưa nay vẫn được (hay bị) gọi là dân cá gỗ vì họ vốn nghèo nên phải tằn tiện, chắt chiu trong sinh hoạt. Xuân Diệu là người gốc Nghệ. Tính tằn tiện, căn cơ đó của ông chắc có yếu tố di truyền, thậm chí là được củng cố cả từ ảnh hưởng những bạn bè là dân “cá gỗ”. Như chúng ta đã biết, đó lại là những năm kinh tế đất nước rất khó khăn… Nhưng mặt khác cũng phải thấy rằng vì coi trọng chất lượng bữa ăn mà những năm bao cấp khó khăn đó, Xuân Diệu vẫn đủ sức khỏe để đảm đang một khối lượng công việc đồ sộ đến vậy.
Ông là người sống theo điều mình thích, vẫn ham viết, ham đọc, cần mẫn như một con ong thợ. Theo Vũ Quần Phương thì trong sổ ông lúc nào cũng có thơ chưa in, trong lòng lúc nào cũng có điều định viết và bao giờ cũng có tác phẩm xếp hàng ở nhà xuất bản. Ông kể là một bài của ông thường phải quay vòng đủ 4 lần: viết cho hội thảo, hội nghị, sau đó đọc ở Đài phát thanh, in báo và sau cùng là in vào sách. Chưa kể xuất bản miệng!
Tôi không biết trong con người Xuân Diệu có nét nào là đặc trưng của Bình Định quê dừa, ngoài giọng nói còn mang âm sắc miền Nam rất rõ. Nói rằng ông là người có trái tim đa cảm, mặn mòi, có tâm hồn luôn rộng mở… là riêng từ người mẹ truyền sang thì tôi e nói lấy được! Thì Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ và bao danh nhân khác của đất Hà Tĩnh đấy thôi. Cả Huy Cận bạn ông nữa: tâm hồn và trái tim của họ như cây đàn muôn điệu.
Có nhiều người đã nói về cái chất trữ tình trong tư chất của con người Hà Tĩnh khi so sánh cụ thể với người anh em song sinh Nghệ An vốn chất cách mạng đậm đà hơn! Có lẽ nói cho công bằng thì đó là cái phần hòa hợp giữa hai tâm hồn bố mẹ để rồi có một Xuân Diệu thi sĩ, một Xuân Diệu đa tình trong… thơ. Tư chất đó đã góp phần làm nên một trong những gương mặt sáng giá nhất của nền thơ Việt Nam thế kỷ XX. Như ông từng viết Đội ơn Thầy, đội ơn Má sinh con/ Cảm ơn Thầy vượt Đèo Ngang bất kể/ Cảm ơn Má biết yêu người xứ Nghệ/ Nên máu con chung hòa cả hai miền.
Đương nhiên, để có nên một Viện sĩ, một nhà văn hóa Xuân Diệu thì phải có Thăng Long – Hà Nội. Hà Nội không chỉ là nơi ông học Đại học, là nơi ông sống để rồi trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Hà Nội là nơi để cho tài năng Xuân Diệu trưởng thành và phát triển, là nơi ông bước qua những mặc cảm về một tuổi thơ nghèo khổ để hòa nhập vào một môi trường văn hóa, thâu nạp vào mình những kiến thức từ sách vở, từ công việc, bạn bè. Đó là nơi có căn phòng nhỏ mà ông đã sống trong ba mươi năm cuối cuộc đời cùng một mái nhà với người bạn tri ân tri kỷ Huy Cận, là địa chỉ tin cậy, nơi lui tới thường xuyên của mấy thế hệ nhà thơ, nhà văn – những người chủ chốt đã làm nên nền văn học cách mạng. Cho nên, tôi nghĩ, cả Bình Định, Hà Tĩnh và đương nhiên là Hà Nội nữa, tự hào vì có Xuân Diệu. Cả ba quê đó đã hòa hợp để hình thành nên tư chất văn hóa nơi ông.
Những người làm công tác nghiên cứu chúng tôi cũng rất cảm ơn ông đã để lại một gia tài đồ sộ, phong phú và đặc sắc. Tinh thần làm việc cần cù, nghiêm túc với một ý chí, nghị lực phi thường, một tinh thần dũng cảm vượt qua những khó khăn, bất hạnh để “nhìn đời bằng đôi mắt xanh non” của Xuân Diệu cũng là bài học lớn cho những ai muốn đi xa trên con đường học tập và nghiên cứu.
7/8/2018
Tôn Phương Lan
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Cuộc phỏng vấn lịch sử của Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm với chí sĩ Lê Đại

Cuộc phỏng vấn lịch sử của Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm với chí sĩ Lê Đại Đây là lần đầu tiên bài phỏng vấn được công bố sau gần 100 năm vắng bó...