Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2025
Chuyển động thơ nữ Việt Nam
Sở thích trở lại những năm tháng ấu thơ, tự ăn thế giới nội tâm đầy nữ tính, nên phụ nữ thường sa vào “lối viết thân thể” và “lạc thú thân xác”. Nhưng “thái độ tự yêu mình của phụ nữ chỉ làm cho họ nghèo nàn đi, chứ không hề làm họ thêm phong phú: không hề làm gì khác ngoài việc tự ngắm nghía mình, rốt cuộc, họ tự thủ tiêu mình” (Giới nữ, tập II, Nxb Phụ nữ, 1996; tr.408. Tác giả Simone de Beauvoir; Nguyễn Trọng Định và Đoàn Ngọc Thanh dịch). Sự chiếm hữu bản thân như thế, vô hình trung, phụ nữ đã thỏa hiệp với phận số mà xã hội từ bao đời nay ràng buộc, mặc định, và còn tự bó hẹp những can dự của mình đối với thế giới. Chỉ khi dám đứng lên đấu tranh, “nỗ lực phá giới”, nỗ lực “cắt đuôi hậu tố nữ” mới mong trọn vẹn tiếng nói của chính mình. Cuốn tiểu luận – phê bình “Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố nữ (&20 tiếng thơ nữ quyền đương đại)” của Inrasara (Nxb Hội Nhà văn, 2015) cho chúng ta cái nhìn khá rõ nét về những chuyển động của thơ nữ Việt, từ chỗ vị thế kẻ lệ thuộc, thứ yếu, phụ nữ biết “tự yêu mình”, và bây giờ đã và đang khắc phục, giải thoát khỏi thiên tính nữ để chấm dứt mọi sự phân biệt về giới tính.
Đặng Tiến và dòng thơ văn Thanh Tâm Tuyền
Đặng Tiến và dòng
thơ văn Thanh Tâm Tuyền
Nhìn lại thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới,
và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác
dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thuỳ Yên, chủ yếu ta thấy thảm
kịch Việt Nam; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu thổ Sông Hồng;
thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt mưa dương cầm
tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới, không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy
vào thân phận làm người, chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không
có ngụ ý rằng thơ Thanh
Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện:
trong thế giới có Việt Nam và trong Việt Nam có thế giới. Trong Guernica của
Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền
trong hình thức và nội
dung là một bước ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với
ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế. Bản thân
Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những thể thơ
truyền thống. Nhưng đây là những bài thơ làm trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt,
không cho phép chúng ta suy diễn về lý thuyết. Dù sao ông đã mở ra những chân
trời mới và cách tân quan niệm thi ca.
Câu thơ, bài thơ mới, đọc qua thấy ngay. Câu
văn, cuốn truyện mới, khó nhận ra hơn. Người bình luận phải phân biện: mới so với cái gì, và mới ra
sao. Nhưng điều cụ thể nhất lại là: người đọc đương thời có nhận
ra nét mới ấy không?
Thưa rằng có. Nhà văn Nguyễn Quốc
Trụ, 1973, trên báo Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền đã dẫn, có một bài viết căn cơ trình
bày giá trị, nghệ thuật và tính chất súc tích của truyện Bếp lửa, 1957. Ông
trích dẫn cặn kẽ nhiều văn bản, nhiều tham khảo, để lại một chứng từ chính xác[2].
Tôi còn một chứng từ riêng: bạn tôi là Đinh Ngọc Mô, nhiều
người biết vì có thời phụ trách mục Đố vui để học trên truyền hình Sài Gòn,
quen nhau từ 1965 tại Đà Lạt, gặp lại nhau 1970 tại Paris. Lúc ấy, Mô sống vất
vả, lang bang, đi đàn hát trong các nhà hàng Việt Nam để mưu sinh. Một tối về
khuya, dọc Boulevard des Italiens, Mô đã đọc thuộc lòng cho tôi nghe những
trích đoạn dài của Bếp lửa mà anh tâm đắc và cho là tân kỳ. Thuộc thơ Thanh
Tâm Tuyền đã là khó, thuộc
văn xuôi lại không dễ. Vắng tin nhau khá lâu, có người mách là Mô đã qua đời,
đã tự tử bên Canada. Tôi không muốn tin, nhưng mỗi lần mở
truyện Bếp lửa, là tôi tìm
lại những đoạn Mô đã đọc, cho đến bây giờ sách đã vàng ố, tả tơi, rách
nát như cuộc đời của chúng tôi. Trước khi kể lại chuyện này, tôi rà lại tin tức,
thì bè bạn bốn bể năm
châu đều xác nhận chuyện buồn. Mà tôi vẫn chưa tin, và muốn
hỏi Mô: Mô ơi, thật à? Cậu ấy vui tính, hay đùa.
Bạn đọc cho là tôi lạc đề. Thân tình thì biết tôi chỉ mới lạc dòng, lạc
giọng, mà không lạc đề.
Tiềm năng độc giả thời đó là học sinh trung học: sinh viên đại
học chưa nhiều. Và chúng tôi thiếu sách để đọc. Văn chương quốc ngữ thời đó, bỏ
ra một kỳ nghỉ hè, có thể đọc hết toàn bộ.
Sách Tự Lực, Vũ Trọng Phụng thì đọc cả rồi… Các tác gia ở lại
miền Bắc ít được tái bản. Và chúng tôi khao khát cái mới, các truyện ngắn của
Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Thao Trường. Những “Chiếu hoa
cạp điều”, với “Hương gió lướt
đi”. Thậm chí,
chúng tôi còn bất công với
cái cũ: tạp chí Văn hóa Ngày nay của Nhất Linh bán chạy được hai số, rồi thôi.
Đoán già đoán non: các vị Đinh Ngọc Mô, Nguyễn Quốc Trụ, cũng như tôi, đã đọc Bếp
lửa trên ghế trường trung học, trước khi hư thân mất nết ở nơi khác.
Bếp lửa là một truyện vừa, vừa một
trăm trang. Thanh Tâm Tuyền viết liền mạch, rất nhanh, trong vài tháng, xong
tháng 10-1956, đưa đi kiểm duyệt và xuất bản ngay [3]. Không có độ lùi để sửa chữa.
Sau này, khi tái bản, ông muốn sửa chữa, nhưng không làm được và viện dẫn
Malraux: người ta không viết lại được một cuốn sách. Nhưng có một truyện ngắn “Đại lộ”, nội dung na
ná, in lại trong tập truyện Khuôn mặt, 1964.
Truyện được viết từ ngôi thứ nhất “tôi”. Người kể, “tôi” tên Tâm, cùng
tên với tác giả, đi dạy học tại một trường Công giáo tại Bắc Ninh, còn tác giả dạy tư thục ở Hà
Đông, khoảng 1952.
Tuy nhiên Bếp lửa không phải là tự
truyện, đại khái như tác phẩm Kẻ dưng, l’Etranger của Albert Camus, bắt đầu bằng
câu nổi tiếng: “Hôm nay
mẹ tôi mất”, nhưng
chính bà mẹ Camus lại sống lâu hơn tác giả. Trong Bếp lửa, Tâm mồ côi bố từ nhỏ,
sau đó mồ côi mẹ, trong khi bà cụ tên thật là Thạch Thị Kim thọ rất lâu, ở Long
Khánh. Tính cách mồ côi ở đây là một ẩn dụ, như ở Kẻ dưng hay Cũng đành của
Dương Nghiễm Mậu sau này.
Không phải là tự truyện, nhưng Bếp
lửa phản ánh tâm trạng tác giả, và một số thanh niên đồng lứa vào thời điểm trước
hiệp định Genève, 1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận dưới sự kiểm soát của Pháp.
Chủ yếu là những nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sắc về tâm thức chính trị của
con người lúc đó qua những nhân vật: ông Chính, đảng viên Quốc dân Đảng, còn hoạt động; Bảo có tham dự phong
trào Ngũ xã nhưng nay đã tuyệt vọng; Đại say đắm chủ nghĩa mác-xít và chuẩn bị ra khu; Hoà nhân
viên Phòng nhì; Ngọc hoàn toàn hư vô và chối từ tổ quốc… Giữa họ là những
nhân vật nữ, hiền lành, vô tội, như chị em Thanh và Minh, em họ Tâm; Hạnh; Thịnh
vào ra giữa hai vùng… Còn
Tâm? Anh xê dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và nói như
Meursault, nhân vật Kẻ dưng: không biết rõ mình muốn gì, nhưng biết rõ những điều mình không muốn. Khi Tâm bị ông hiệu trưởng cho
thôi việc, “ngạc
nhiên một chút rồi rửng rưng ngay. Tôi không hỏi vì cớ gì ông muốn tôi nghỉ việc cũng
như ông đã quên không
nói cho tôi biết… Tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một
giấc rất say” (tr. 90).
Trong thế giới ấy, quan hệ tình cảm cũng mong manh, sắc sắc
không không, như giữa Tâm và Thanh, một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ. “Đôi khi tôi nghĩ
tôi có thể yêu Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích giữa cúng tôi không
đáng kể (…) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của tôi cả” (tr. 12).
Quan hệ tính dục cũng nhẹ nhàng thôi. Tâm gặp lại Hạnh, một
cô bạn học cũ, đi cùng một chuyến xe chở hàng từ Bắc Ninh về Hà Nội. “Đến Hà Nội,
mưa lớn hơn, chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở
khách sạn” (tr. 72). Chấm dứt chương 4. Bước sang chương 5: “Tôi có cùng về Hà
Nội với Hạnh một vài lần. Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh – hay chỉ cần sự
đe doạ của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt
tình trong yêu đương (…). Sau mỗi lần như thế, khi lấy lại bình thường, Hạnh
có vẻ ngượng ngùng. Có một lần nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng
nói: Anh có khinh em không?” (tr. 76).
Dĩ nhiên là các vị Nam Tào văn
truyện kiêm Bắc Đẩu lịch sử sẽ có người bắt bẻ, hạch hỏi: chiến tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, hay bảo vệ tự do, chỉ có kích thích tính dục
người phụ nữ hay sao? Bếp lửa là một trước tác nghệ thuật, và Thanh Tâm Tuyền đã có lần nói: «Người nghệ
sĩ đưa sinh mệnh mình để
đảm bảo sự thành thật của tác phẩm», thì ắt không buồn quan tâm đến những vấn nạn
ấy. Điều chúng ta ghi nhận là nét hững hờ, lãnh đạm của Tâm đã thổi dạt Bếp lửa
trôi xa, không những với Dòng sông Thanh Thuỷ của Nhất Linh mà còn xa với Khu rừng
lau của Doãn Quốc Sỹ hay Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan đồng hội đồng thuyền.
Một thắc mắc, nhỏ thôi: không khí Hà Nội khoảng 1950-1952 nhất
định phải khác xa không khí Sài Gòn 1970-1972. Nhưng về cơ bản,
tâm lý thanh niên trí thức
có khác nhau nhiều không?
Ngày nay, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn tàn phá nhiều nơi trên
thế giới; và giữa tiếng kêu la thất thanh của trẻ con, vẫn có lời vinh danh Thượng
Đế. Trong Bếp lửa, Thanh Tâm Tuyền đã viết «theo tôi có những lúc người ta cần giải
quyết giữa người và người và Thượng Đế không nên có mặt ở lúc ấy (…) Thượng Đế
đã bị lôi kéo vào tấn thảm
kịch riêng tư của loài người và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại»
(tr. 67).
Tại Việt Nam, một dải đất còm cõi đau thương, năm 1956, một thư
sinh mặt trắng, 20 tuổi, đã viết dõng dạc được một câu như thế, kể cũng là lời
tiên tri lạ lùng và cao siêu đấy chứ?
Về phong cách, Bếp lửa là một tác phẩm làm mới văn chương chữ
nghĩa theo nhận định của Nguyễn Quốc Trụ trong bài đã dẫn. Vậy mới, là so với
cái gì, và mới ra sao?
Trong một bài viết tưởng mộ Nguyễn Đức Quỳnh, tác giả
Thằng Kình, Thanh Tâm
Tuyền 1974 đã viết: «Cùng với Những ngày thơ ấu của Nguyên
Hồng, Thằng Kình là quyển
tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Đó là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt (…)
Tôi không phải là người của một vài quyển sách. Trước và sau khi đọc Thằng
Kình, Những ngày thơ ấu,
tôi đã đọc hầu hết tiểu
thuyết Việt Nam, tôi hiểu được giá trị, tôi cảm được cái hay của nhiều tác giả
khác nhưng chỉ có hai tác giả Nguyễn Đức Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi
lòng ngưỡng mộ. Văn chương phát sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi
không bao giờ quên ơn người đã khơi dậy lòng ngưỡng mộ nơi tôi».[4]
Một lời tình tự như vậy, ở một người
ít tự sự như Thanh Tâm Tuyền là quý hoá, là một chìa khoá đưa ta vào thế giới tiểu thuyết, mối
hạnh phúc đau đớn, bắt đầu từ Bếp lửa, rồi đến Khuôn mặt, Dọc đường, Cát lầy,
Ung thư, Mù khơi, Tiếng động…
Đối với Thằng Kình (1942, Hàn Thuyên, Hà Nội), niềm
ngưỡng mộ có lẽ dừng lại ở nội dung mới lạ của tác phẩm, thêm chút tình riêng với tác giả. Chứ nhân vật
Kình, khỏe mạnh, tự tin, tích cực, rất xa với nhân vật truyện Thanh Tâm Tuyền;
hành văn rậm rạp của Nguyễn Đức Quỳnh cũng xa với lối viết trần trụi trong Bếp
lửa.
Gần nhau hơn là Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng
viết năm 1938, khi 20 tuổi, như trường hợp Bếp lửa, dưới dạng tự truyện ở ngôi
thứ nhất. Bằng giọng văn đơn giản, Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ cơ cực, một cách
thành thực, như chuyện người mẹ ngoại tình bị gia đình nhà chồng hắt hủi mà đứa con một mực yêu thương.
Nhưng cơ bản thì hai
truyện khác nhau: Những ngày thơ ấu là tự truyện của một người, dĩ
nhiên là mang nét xã hội;
Bếp lửa là truyện một thế hệ thanh niên ưu thời mẫn thế,
mang nặng chất trí thức và chính trị. Nguyên Hồng viết đơn giản, nhưng thỉnh
thoảng vẫn có những đoạn văn chương, ví dụ ngay ở chương I (Tiếng kèn): «Những
buổi chiều vàng lặng lẽ… Buổi chiều nào cũng vậy…», không hề có trong Bếp lửa.
Và trong một bài báo, «Nhân nghĩ về hội hoạ», 1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối
«văn chương có thể đặt tên là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò» (Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem
Bếp lửa ra giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một vài trích đoạn
tiêu biểu gọi là «trích diễm». Kinh nghiệm của tôi: yêu cầu sinh viên phải đọc
toàn bộ tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp, về hình thức, nội dung. Ví
dụ lối kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng thời gian, không một lần quay lại
quá khứ – cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm – về người mẹ và bà ngoại. Lối
dùng từ bình dị, ưu tiên
cho từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ Hán – Việt. Lối đặt câu ngắn, có khi cụt
ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu, như là lời nói nén chặt
nội tâm: «Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh» (tr. 47). «Ngọn núi bắt
đầu thấy cứng mình vì
nghe nắng sắp về dữ dội» (tr. 87). Câu được nhiều người nhắc: «Buổi sáng mùa
đông ngây ngất vào lối 10 giờ» (tr. 11). «Buổi chiều ngất ngư chưa
muốn ngã» (tr. 28).
Nhưng nét mới quan trọng là không khí chung của toàn
truyện Bếp lửa, không phân biệt nội dung, tư tưởng, hình thức, nghệ thuật và ngữ pháp. Thậm
chí người đọc có thể hỏi: Bếp lửa, bếp lửa nghĩa là gì?
Với tôi, có lẽ thêm vài kẻ bạn, Bếp lửa là một bài hát.
Bài hát «chỉ được nghe một lần trong đời. Bài hát xưa lắm,
những người thích nó kẻ đã
chết, người còn sống thì quên không nhắc lại. Riêng tôi, tôi thường thì thầm với chính mình những phút cô
đơn» [5] .
Có ai đó đã viết đâu đó về âm hưởng nhạc blues trong thơ
Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã thiết lập quan hệ mật thiết giữa các bộ
môn nghệ thuật. Điều này, ngày xưa, nhóm Tự Lực đã làm, nhưng còn hời hợt, dù rằng nhà văn Nhất
Linh, nhà thơ Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên trường Mỹ thuật. Thời
đó, họ chỉ đặt những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Hoạ hoằn lắm mới có bài
Nguyễn Tuân về tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam, không có nhà thơ sành hội
hoạ như Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các nhà thơ như Aragon,
Eluard với hoạ sĩ Picasso hay Chagall ở Pháp. Thanh Tâm Tuyền thật sự muốn bắc
cầu giữa các bộ môn nghệ thuật, nhất là giữa thơ và hội hoạ, và thân thiết với
các hoạ sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, bài «Nhân nghĩ về hội hoạ» viết năm
1956 – hai mươi tuổi – ông đề tặng ba người ấy.
Hoạ sĩ Thái Tuấn kể lại rằng
trong một cuộc triển lãm
năm 1958, ông có bức sơn dầu vẽ một người đàn ông đội mũ đeo ống sáo trên vai,
chừng mực nào đó, là một chân dung tự hoạ; ông không biết đặt tên là gì. Thanh
Tâm Tuyền đề nghị gọi là «Hoá thân», Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà thơ: anh vẽ
cái gì thì cũng là hoá
thân vào bức hoạ, tranh nào rồi cũng thành chân dung hoạ sĩ. Nghe chuyện, tôi cứ
nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý từ một tựa đề tiểu thuyết của Kafka. Đọc lại bài báo nói trên,
tôi mới vỡ lẽ ông tham chiếu vào một chuyên khảo về nghệ thuật của Malraux Những
hoá thân của Apollon-les Métamorphoses d’Apollon, 1951, và ông thường tâm
đắc với Malraux.
Ông viết trong bài “Nhân nghĩ về Hội
hoạ”: “Tôi công nhận
nghệ thuật như một nghề như mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ
thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ
chân chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình
ra thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động
siêu việt của nhân loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính» (Văn, số đặc
biệt đã dẫn, tr. 78).
Đoạn trích văn này có thể tóm lược quan niệm và
sự nghiệp văn thơ, nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền, và làm kết từ cho bài này.
Chúng tôi gửi thêm vào đó niềm
kính trọng và thương tiếc khôn nguôi với một Lòng Suối Trong Xanh đã lẫn sâu vào lòng đất, trở về
cõi thuỷ chung. Một dòng thơ đời đời thao thiết nuôi dưỡng Tình Yêu và Quê Hương trong mỗi
chúng ta, cho mỗi chúng ta, trong thân phận làm người, làm người trong hay
ngoài đất nước, luôn luôn trong nhân loại.
Trong truyện Bếp lửa, sáng tác
năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã hạ một câu kết, để đời, – khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong
tâm thức thế hệ chúng tôi:
“Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng”.
Đời người, vô cùng rồi cũng đến vậy
thôi.
Vô cùng Thanh Tâm Tuyền.
Thanh. Tâm. Tuyền.
Thanh Tâm
Tuyền.
Chú thích:
[1] Thanh Tâm Tuyền, Văn, số 199,
tháng 4-1972, Sài Gòn.
[2] Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền, tháng 11-1973, Sài Gòn.
Nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư dự tính in lại nguyên văn số
báo để tặng bạn đọc, liên lạc qua e-mail This email address is being protected
from spambots. You need JavaScript enabled to view it.”
target=”_blank”>tranhoaithu@verizon.net. Hoan hô Trần Hoài Thư.
[3] Thanh Tâm Tuyền, Bếp lửa, nxb
Nguyễn Đình Vượng,
1957, Sài Gòn, Chúng tôi
trích đoạn từ bản này.
[4] Thanh Tâm Tuyền, Văn, Giai phẩm, tháng 6-1974, tr. 21-22,
Sài Gòn.
[5] Thanh Tâm Tuyền, «Buổi sáng ngoài bãi biển», trong Khuôn mặt,
tr. 98, nxb Sáng Tạo, 1964, Sài Gòn.
1/4/2006
Đặng Tiến
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Sắc màu truyện ngắn Nguyễn Văn Thọ
Sắc màu truyện ngắn
Nguyễn Văn Thọ
Tuy đến với văn chương
muộn màng, nhưng nhà văn Nguyễn Văn Thọ vẫn gặt hái được nhiều thành
công. Ông viết nhiều thể loại, song thành công nhất với truyện ngắn. Câu “chọn
mặt gửi vàng” có thể ứng vào trường hợp thể loại truyện ngắn đã “chọn” Nguyễn Văn Thọ.
Tính đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Thọ đã công bố sáu tập truyện
ngắn: Gió lạnh (1999), Vàng xưa (2003), Thất
huyền cầm (2006), Sẫm violet (2013), Hương mỹ nhân (2016)
và Vườn mộng (2018). Trong nghiệp văn, có người lóe sáng ngay từ khi
mới cầm bút, nhưng về sau không giữ được khí sắc; có người thì “chầm chậm tới mình”. Nguyễn Văn Thọ
thuộc kiểu nhà văn thứ hai, càng viết càng đằm sâu, quyến rũ.
Liên tiếp trong hai năm vừa qua, nhà văn ra mắt liền hai tập
truyện ngắn đầy đặn, có tiếng vang trên văn đàn là Hương mỹ nhân (24 truyện)
và Vườn mộng (18 truyện); như một sự tổng kết sự nghiệp sáng tác truyện
ngắn. Ông tuyên bố “chia tay” truyện ngắn, chỉ dồn sức viết tiểu thuyết. Nhưng
độc giả thì ngược lại,
vẫn tin tưởng Nguyễn Văn Thọ tiếp tục “xuất thần” với thể loại này.
Nếu coi truyện ngắn của nhà văn
Nguyễn Văn Thọ là một bức tranh nhiều màu sắc về đời sống xã hội và con người thời hiện đại,
có thể nhận ra ba mảng màu nổi bật trong Hương mỹ nhân và Vườn mộng, đó là: chiến
tranh – hậu chiến, Hà Nội xưa – nay và thân phận cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài. Tuy là ba mảng màu khác nhau, tưởng như không có mối liên hệ nào, nhưng
thực ra chúng được cố kết bằng một “sợi chỉ đỏ”, đó là tâm thế, bản tính, thân
phận của người Việt Nam trong những hoàn cảnh sống khác nhau.
Từng hơn mười năm trực tiếp cầm
súng ở chiến trường cho nên đề tài chiến tranh và người lính luôn được nhà văn
quan tâm sâu sắc. Ông viết sự thật chiến tranh qua con mắt của người lính binh
nhì, trực tiếp từ chiến
hào, đem đến những tác phẩm ròng ròng sự sống. Tấm chăn màu huyết dụ, Lời
hứa của chiến tranh, Vàng xưa, Vô danh trận mạc, Mùi thuốc súng,
Người Hà Nội, Lửa thơ Zippo, Rồi chúng con sẽ trở lại quê hương, Ám ảnh, Sương
đêm, Thằng Phoóng em tôi,… là một chuỗi ký ức trận mạc được đánh giá qua chiêm nghiệm. Nếu được chọn
mười truyện ngắn hay nhất trên văn đàn đương đại về chiến tranh, theo tôi, Nguyễn
Văn Thọ có thể góp vào Mùi thuốc súng. Chiến tranh đầy tàn khốc, nhưng có
thể con người lớn lên trong nỗi đau. Bài học về lòng nhân ái, vượt qua định kiến, thù hận, đề
cao khoan dung, hòa hợp
là tư tưởng then chốt trong truyện ngắn xuất sắc này thông qua một chuỗi nỗi
đau của người lính và nhiều thân phận quanh họ thời hậu chiến.
Lại có hơn 20 năm bươn chải ở xứ
người (tại nước Đức trước và sau thống nhất), cho nên Nguyễn Văn Thọ hiểu tận
chân tơ kẽ tóc đời sống của cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài. Không có miền đất
hứa; không có tự do nhiều đến mức như người ta hay tưởng tượng; không dễ dàng
kiếm được nhiều tiền nếu không bán mặt cho đất, bán lưng cho trời,… Nghĩa là ở
đâu trên Trái đất này, con người cũng phải quần quật lao động vì mưu sinh. Lá
bùa, Một người Đức, Trên tàu, Vườn Maria, Bản năng, Bản ngã, Chuyện của Huệ, Thật là giản đơn,
Phải sống, Trong bão tuyết,… là những truyện dường như được chắt
ra từ nước mắt khi viết, vì chính tác giả trước hết thấm thía nỗi cơ hàn của kẻ ly
hương.
Phấn đấu vì miếng cơm manh áo nơi xứ
người đến một lúc nào đó có thể tạm ổn thỏa; nhưng để ngẩng cao đầu vì mình có thể đối thoại văn hóa với
người ta hay không lại là chuyện “vượt vũ môn”. Những truyện viết về cộng đồng
người Việt Nam ở xứ người có sự vật vã, bền bỉ, âm thầm của một cuộc giao tranh, đối thoại văn hóa
khi Trái đất là một “thế giới phẳng”. Chính vì quan tâm đến vấn đề căn cốt này
mà tác phẩm có được chiều sâu và hàm lượng văn hóa.
Mảng tác phẩm khác khiến độc giả
thú vị là những truyện về Hà Nội xưa và nay. Văn học Việt Nam từng có Thạch
Lam, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Vũ Bằng,… viết tài hoa và sâu lắng về Hà Nội trước
đây. Nay lại có thêm Băng Sơn, Ma Văn Kháng, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Ngọc Tiến,
Trần Chiến,… mỗi người một vẻ. Nguyễn Văn Thọ có vẻ như vạch ra một nẻo lối vào
văn chương khi viết Vườn mộng, Phố cũ I, Phố cũ II, Lạc tiên, Tình yêu người thợ giày, Muối
mặn, Lạc cõi giang hồ,…
Nghĩa là “chuyện cũ” nhưng không hề cũ ý nghĩa, thậm chí dẫu có “muôn năm cũ” thì vẫn là hồn cốt
của xứ Kinh kỳ.
Tuy gốc gác không phải Hà Nội, nhưng Nguyễn Văn
Thọ cũng như nhiều người, quyết không coi mình là dân ngụ cư ở trung tâm văn hóa của cả nước. Ông
viết bằng cả một tình
yêu Hà Nội, không phải ngòi bút nào cũng làm được nếu chỉ theo lối “cưỡi ngựa
xem hoa” hay “ham thanh chuộng lạ” như cách nói dân gian. Mỗi trang viết ở chủ
đề này tác giả đều cố gắng giữ được cái “chất Hà thành” của người và cảnh
của một vùng, một không gian địa linh nhân kiệt.
Nguyễn Văn Thọ là một cây bút
truyện ngắn có nghề. Ông quyến rũ độc giả trước hết bằng tình cảm đắm đuối với cuộc sống và con
người, trân trọng và đề cao giá trị văn hóa tinh thần, chủ nghĩa nhân văn,
tâm thế hòa giải, hòa hợp
và khoan dung. Nhưng đồng thời nhà văn có ý thức tạo hấp lực của tác phẩm văn chương bằng
các yếu tố nghệ thuật đa dạng. Truyện ngắn Nguyễn Văn Thọ hấp dẫn về cốt truyện,
đặc sắc về chi tiết, đa dạng về giọng điệu; có “mầm mống tiểu thuyết”. Bằng chứng
là từ truyện ngắn đến tiểu thuyết chỉ một bước như trường hợp tiểu thuyết Quyên được
xây dựng trên hai truyện ngắn Bản năng, Bản ngã.
Văn chương của ông có nhịp điệu khẩn trương phù hợp nhịp sống
hiện đại, câu văn thường ngắn, chủ yếu sử dụng từ thuần Việt. Tuy nhiên, tổng
thể tác phẩm và truyện ngắn Nguyễn Văn Thọ cũng có những “hở sườn” nhất định.
Đó là việc tác giả vẫn còn “tham lam” khi kể, thiếu tiết chế cho nên truyện thường
dài, đôi khi lan man. Tác giả đóng vai “người cha tinh thần” của nhân vật nên
có lúc dẫn đến tình trạng
“bao cấp tư tưởng”; độc giả đôi chỗ có chút tiếc nuối vì nhà văn đã nói hết, giải quyết hết
mọi chuyện, trí tưởng tượng của người đọc ít nhiều bị hạn chế. Theo tôi,
chùm năm truyện ngắn hay nhất Nguyễn Văn Thọ đã viết, có thể là: Vàng xưa, Sẫm violet,
Hương mỹ nhân, Vườn mộng và Mùi
thuốc súng.
7/8/2018
Bùi Việt Thắng
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Một góc nhìn Xuân Diệu
Một góc nhìn Xuân Diệu
1. Tôi nhìn thấy Xuân Diệu lần đầu tiên ở quê tôi - làng Nhượng - khi đó còn chưa có
chiến tranh. Trong hành trình về quê hương Hà Tĩnh nói chuyện thơ thì quê tôi là một điểm đến của ông. Đó
là một buổi tối đẹp trời.
Cử tọa vòng trong vòng ngoài kín cả sân trụ sở Ủy ban xã:
ngoài giáo viên, học sinh còn có nhiều người làm nghề chài lưới và các chị
ở nhà chuyên nuôi con và nội trợ. Trước một cử tọa đông và háo hức, Xuân Diệu
nói rất say sưa về thơ mình.
Mỗi lần bình xong một bài, đọc lại toàn bộ bài thơ đó, ông lại
cúi đầu chào và tất cả cử tọa lại vỗ tay nồng nhiệt.Người nghe như bị ông hút hồn
vì ở một miền đất vốn
yêu và khát văn chương (thời bấy giờ phương tiện truyền thông quá hiếm so với
bây giờ) mà lại được thực mục sở thị một nhà thơ danh tiếng như
Xuân Diệu là một điều hiếm nên dường như không có ai bỏ về giữa chừng. Đang lúc
cao trào thì một chị
mang theo con nhỏ bị nó đòi đi tiểu. Chắc bỏ ra thì tiếc, lại sợ mất chỗ ngồi tốt,
chị ta đành hồn nhiên mà cho con tè tại chỗ. Nhiều người thấy vậy khó
chịu vì cảm thấy quá mất
thể diện với ông. Nhưng Xuân Diệu không lấy điều đó làm vì, vẫn tiếp tục một cách say sưa. Sau
này, tôi mới biết rằng, ông ghi nhận đằng sau những cử chỉ không được lịch sự lắm
đó của những người dân quê là tình cảm, nhiệt tình của độc giả đối với ông và tình yêu đối với văn thơ.
Với ông, điều đó rất cần.
Có hàng trăm buổi bình thơ trước công
chúng thôn quê, tôi chắc những trường hợp như trên không là hy hữu. Bởi khi
Xuân Diệu bình thơ, nói
chuyện thơ, ông có một sức hấp dẫn lạ lùng.
Một trường hợp khác mà gần đây
Giáo sư Hà Minh Đức có kể lại trong cuốn Xuân Diệu – vây giữa tình yêu. Hồi đó tôi, Mai Hương và
Bích Thu còn trẻ và cùng mới về nhận công tác tại Viện Văn học. Một buổi tối,
Giáo sư dẫn chúng tôi đến thăm Xuân Diệu tại nhà riêng trong biệt thự có cây
hoàng lan nằm trên một con phố yên tĩnh. Căn phòng ông ở không thật rộng, có
lát gạch hoa, lại có nhiều giá xếp đầy sách. Trên bàn làm việc có mấy bông hồng
trắng cắm trong chiếc cốc thuỷ tinh càng tôn thêm vẻ quý phái, lịch lãm của chủ
nhân. Trong không khí thoải mái, câu chuyện giữa ông với thầy trò chúng tôi đã
diễn ra rất thân mật.
Tôi ngồi nghe ông nói và tranh thủ quan sát khuôn mặt, mái
tóc bồng bềnh của ông, nhất là mỗi khi ông ngúc ngắc cái đầu lúc này tóc đã bạc.
Tôi còn nhớ lúc ra về tôi nhanh nhảu giơ tay bắt tay ông và buột miệng
chào ông bằng bác (vì
lúc đó tôi nghĩ ông hơn tuổi bố tôi nên xưng hô thế là phải phép). Không
ngờ, ông lại ngắc ngắc cái đầu theo thói quen tỏ vẻ thật sự ngạc nhiên với cái
giọng Bình Định nhấn và
kéo dài từng âm tiết một như đay đả: là bác à. Cái đại từ này tôi
nghe nó lạ quá.
Tôi lúng túng chưa biết nói thế
nào thì may quá, thầy Hà
Minh Đức đã đỡ lời. Các cô này cũng còn trẻ cả đấy. Tuy nhiên, chỉ nên gọi bằng
anh cho dễ vì anh Xuân Diệu đây là nhà thơ tình… Rút kinh nghiệm sau lần đó, tôi cũng đỡ lúng
túng hơn khi chọn đại từ xưng hô với các nhà thơ, kể cả các nhà
thơ lớn tuổi như Huy Cận và Tế Hanh. Nhưng với Tô Hoài thì tôi vẫn gọi bằng bác, dù Tô Hoài ít
tuổi hơn. Có lẽ vì ông
không phải là nhà thơ tình?
Lần cuối cùng tôi gặp Xuân Diệu là dịp Hội nghị những người viết
văn trẻ toàn quốc năm 1985 mà tôi được tham dự. Tối hôm trước, có cuộc giao lưu
giữa các đại biểu và các nhà văn Thủ đô. Chúng tôi chỉ biết là ông đang bị mệt
vì không thấy ông đến.
Sáng hôm sau, vừa đến hội trường chúng tôi bàng hoàng nhận được thông tin là
ông mất đêm qua do nhồi máu cơ tim. Khi Ban tổ chức chính thức thông
báo, chúng tôi đã dành
thời gian để mặc niệm ông. Không khí trong Hội trường trầm hẳn xuống khi nhà
văn Lữ Huy Nguyên thay mặt Ban tổ chức đọc bài viết dài 20 trang đánh máy cuối
cùng vốn là tham luận ông viết cho Hội nghị.
Chúng tôi lắng nghe và hình dung ra trước mắt mình vẫn là một nhà thơ Xuân
Diệu với thói quen thỉnh thoảng lại ngúc ngắc cái đầu đang ân cần dặn dò lớp nhà văn trẻ bằng sự trải nghiệm
của cuộc đời hơn năm mươi năm cầm bút, bằng tình thương yêu đối với
lớp trẻ chúng tôi và bằng tinh thần trách nhiệm đối với sự nghiệp văn học của
dân tộc. Sau đó, một số đại biểu rủ nhau vào ngay bệnh viện Việt-Xô. Một số
tham gia lo việc tang lễ. Hôm đưa tang ông, một trong số những đại biểu trẻ được
vinh dự khiêng linh cữu ông vào nhà tưởng niệm, túc trực rồi sau đó khiêng quan
tài ông đưa ra xe tang.
Tôi đã chứng kiến nhiều đám tang của văn
nghệ sĩ ở trụ sở 51 Trần Hưng Đạo. Có lẽ sau đám tang Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh
thì đám tang Xuân Diệu là đông và xúc động nhất: cả một rừng người và một rừng
những vòng hoa màu. Rất nhiều người khóc. Những ai đến viếng ông chắc họ
đều hơn một lần đọc và thuộc ít nhiều thơ ông. Biết đâu những câu thơ tình của ông từng là nhịp cầu tình yêu
cho bao đôi lứa?
Trong đám tang đó, duy nhất có một bó hoa trắng (màu hoa chỉ
sự trinh trắng, thường dùng trong đám tang của người chưa lấy vợ lấy
chồng hoặc trẻ em) rất đẹp – giống như hoa tết dùng cho sinh nhật bây giờ, là của
đạo diễn Bạch Diệp đến viếng. Tôi đi bên xe tang cạnh nhà thơ Hoàng Trung Thông
lúc này cũng đang im lặng nhưng mắt thì đỏ hoe. Chúng tôi nhìn màu trắng của hoa – những bông hoa từ
chính người đàn bà danh chính là vợ duy nhất của ông dầu họ sống
chung với nhau trong một quãng thời gian không dài; và đưa mắt cho nhau, ngậm ngùi ngẫm nghĩ về ông
mà thương ông khôn xiết. Tôi chợt nghĩ: liệu trong bấy nhiêu thành quả lao động
đồ sộ mà ông để lại cho đời có bao nhiêu phần trăm là kết quả của một sự lao động
để mà lãng quên nỗi bất
hạnh về giới tính của mình?
2. Theo như cách nghĩ của tôi, Xuân Diệu là người
có ba quê : quê cha, quê mẹ và quê nơi mình lớn lên, lập nghiệp và trưởng thành. Cả
ba quê ấy, theo những cách khác nhau đã thẩm thấu vào tâm hồn ông, tạo nên tính cách, con người ông
khá rõ.
Với Xuân Diệu sự sống đúng là không bao giờ chán nản. Ông là
người lao động cần cù với cái nghĩa đúng nhất, đầy đủ nhất. Không biết có phải
do hoàn cảnh? Do bẩm sinh? Do tính cách? Hay là sự lựa chọn? Ông lao động chữ
nghĩa như một người khổ sai suốt cả cuộc đời mình. Có mặt gần như trên hầu hết
các thể loại văn học: thơ, văn xuôi, tiểu luận phê bình, nghiên cứu, dịch thuật, ông còn
làm báo, làm tuyên truyền, làm cán bộ xuất bản, làm công tác bồi dưỡng những
người viết trẻ, đi bình
thơ trước công chúng, giới thiệu văn học nước ngoài vào Việt Nam và giới thiệu
văn học Việt Nam ra nước ngoài.
Chỉ riêng công việc khảo cứu các
nhà thơ cổ điển của ông, từ góc nhìn của một người làm nghiên cứu, chúng tôi hoàn toàn
tâm phục khẩu phục! Chưa kể ông còn là một người tham gia hoạt động xã hội tích cực, sẵn sàng phục vụ cách
mạng, phục vụ kháng chiến. Ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp lớn. Trong
chiến tranh, ông đã vào tuyến lửa khu IV không dưới mười lần.
Sau ngày đất nước thống nhất, dù
đã bước vào
tuổi lục tuần và giao thông ngày ấy không hề thuận lợi ông vẫn tranh thủ đi khắp
miền Nam. Đi đâu, đến đâu, ông cũng tìm cách “giao cảm với đời” và có được những bài thơ mang dấu
ấn của miền đất đó. Những năm cuối đời nhìn sang lớp bạn bè đi kháng chiến một số đã lần lượt ra
đi, ông ý thức cái
chết như một quy luật tự nhiên sẽ đến vì quỹ thời gian của ông đã như miếng
da lừa đang ngày càng co nhỏ lại. Ông hiểu rằng “con người cần phải biết nhìn về nơi chốn cuối
cùng của mình để những
ngày tồn tại trên trái đất này sao cho xứng đáng”. Nên ông dồn hết mọi thời
gian, tranh thủ từng phút, từng giờ để làm việc.
Những kỷ niệm, những câu chuyện, giai thoại về sự cần cù, về
ý chí, nghị lực của ông đã tỏa ra quanh ông một vầng hào quang nửa hư nửa thực
về một sức làm việc phi thường vào thời điểm trên bom dưới đạn, vào thời buổi gạo
châu củi quế, người người chỉ lo vào việc mưu sinh. Cố nhà thơ Phạm Tiến Duật từng
viết về ông “Suốt một thế kỷ qua hầu như ngày nào anh cũng viết, đến nay đã có mấy nghìn trang sách. Thế mà
không hề có một dòng nào thờ ơ, không có một dòng nào lãnh đạm. Xuân Diệu không khi
nào nói để mà nói, viết để mà viết. Trong ngôn ngữ của anh, khi cởi mở, khi cay
nghiệt, lúc tỉnh táo, lúc mê say, luôn đập một trái tim trung thực, luôn hồi hộp
một nỗi niềm khám phá”.
Nhiều bạn văn của ông cũng đều nói rằng Xuân Diệu là một người rất
trung thực, lắm khi trung thực đến hồn nhiên nên dễ bị người khác nghĩ ông có
phần nghiệt ngã (chỗ này
người ta không tiện nói là ông vụng). Ông không ngần ngại nói ra những bài
thơ nổi tiếng trước cách mạng của ông đã ảnh hưởng nhà thơ Pháp nào kể cả khi ông sang
Pháp nói chuyện trước Việt kiều đã đành mà đối với thơ của một số cây bút vào nghề, ông cũng vạch
ra một cách thẳng thừng, dù rất tận tâm về cái được và chưa được, khiến họ
thoạt đầu không khỏi khó chịu, nhưng qua cơn tự ái thì lại cảm phục và kính trọng ông. Tôi
nghĩ đức tính cần cù, ham học, giàu ý chí, nghị lực kể cả tính trung thực đến vụng
về này là một đặc tính của người xứ Nghệ mà chắc ông được di truyền từ dòng máu
của cha mình.
Trong số những câu chuyện “đời thường” được nhiều người kể lại
thì ấn tượng hơn cả là việc Xuân Diệu rất coi trọng chất của bữa
ăn. Đặc điểm này gắn rất chặt với tính mục đích cao vốn là một phẩm chất nổi trội
trong cung cách làm việc của ông. Là người có quan niệm sống thiết thực, luôn
coi trọng hiệu quả cụ thể, ông quan niệm một cách rất thực tế rằng “có thực mới
vực được đạo”.
Ngót ba mươi năm ông đi xa rồi thế
nhưng những người trẻ tuổi đọc và yêu thơ ông giờ đây chắc cũng khó hình dung nổi một ông hoàng thơ tình – tác giả của những câu thơ nồng
nàn tinh tế, những câu thơ đã thành kinh điển cho những người đang yêu của nhiều thế hệ – mà lại phải
tính toán lượng calo cần thiết cho cơ thể mỗi khi mua thức ăn và tằn
tiện trong chi tiêu!
Mẹ Xuân Diệu là người Bình Định nhưng từ nhỏ, ông đã bị bố
“bắt” về ở với mẹ già và những năm ông sống ở Hà Nội, người mẹ già ấy đã ở cùng ông. Dân Nghệ xưa nay vẫn
được (hay bị) gọi là dân cá gỗ vì họ vốn nghèo nên phải tằn tiện, chắt chiu trong sinh hoạt.
Xuân Diệu là người gốc Nghệ. Tính tằn tiện, căn cơ đó của ông chắc có yếu
tố di truyền, thậm chí là được củng cố cả từ ảnh hưởng những bạn bè là dân “cá
gỗ”. Như chúng ta đã biết,
đó lại là những năm kinh tế đất nước rất khó khăn… Nhưng mặt khác cũng phải thấy
rằng vì coi trọng chất lượng bữa ăn mà những năm bao cấp khó
khăn đó, Xuân Diệu vẫn đủ sức khỏe để đảm đang một khối lượng công việc đồ sộ đến
vậy.
Ông là người sống theo điều mình thích, vẫn ham viết, ham đọc, cần
mẫn như một con ong thợ. Theo Vũ Quần Phương thì trong sổ ông lúc nào cũng có
thơ chưa in, trong lòng
lúc nào cũng có điều định viết và bao giờ cũng có tác phẩm xếp hàng ở nhà xuất
bản. Ông kể là một bài của ông thường phải quay vòng đủ 4 lần: viết cho hội thảo, hội
nghị, sau đó đọc ở Đài phát thanh, in báo và sau cùng là in vào sách. Chưa kể xuất
bản miệng!
Tôi không biết trong con người
Xuân Diệu có nét nào là đặc trưng của Bình Định quê dừa, ngoài giọng nói còn mang âm sắc miền Nam rất
rõ. Nói rằng ông là người có trái tim đa cảm, mặn mòi, có tâm hồn luôn rộng mở… là riêng
từ người mẹ truyền sang thì
tôi e nói lấy được! Thì Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ và bao danh nhân khác của đất
Hà Tĩnh đấy thôi. Cả Huy Cận bạn ông nữa: tâm hồn và trái tim của họ như cây
đàn muôn điệu.
Có nhiều người đã nói về cái chất trữ tình trong tư chất của
con người Hà Tĩnh khi so sánh cụ thể với người anh em song sinh Nghệ An vốn chất
cách mạng đậm đà hơn! Có lẽ nói cho công bằng thì đó là cái phần hòa hợp giữa hai tâm hồn bố mẹ để rồi
có một Xuân Diệu thi sĩ, một Xuân Diệu đa tình trong… thơ. Tư chất đó đã góp phần làm nên một trong những gương mặt
sáng giá nhất của nền thơ Việt Nam thế kỷ XX. Như ông từng viết Đội ơn Thầy, đội
ơn Má sinh con/ Cảm ơn Thầy vượt Đèo Ngang bất kể/ Cảm ơn Má biết yêu người xứ
Nghệ/ Nên máu con chung hòa cả hai miền.
Đương nhiên, để có nên một Viện
sĩ, một nhà văn hóa Xuân Diệu thì phải có Thăng Long – Hà Nội. Hà Nội không chỉ là nơi ông học
Đại học, là nơi ông sống để rồi trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất
của phong trào thơ mới. Hà Nội là nơi để cho tài năng Xuân Diệu trưởng thành và
phát triển, là nơi ông bước qua những mặc cảm về một tuổi thơ nghèo khổ để hòa nhập vào một môi trường văn hóa, thâu nạp vào mình những kiến thức từ sách vở, từ công việc, bạn bè.
Đó là nơi có căn phòng nhỏ mà ông đã sống trong ba mươi năm cuối cuộc
đời cùng một mái nhà với người bạn tri ân tri kỷ Huy Cận, là địa chỉ tin cậy,
nơi lui tới thường xuyên của mấy thế hệ nhà thơ, nhà văn – những người chủ chốt
đã làm nên nền văn học
cách mạng. Cho nên, tôi nghĩ, cả Bình Định, Hà Tĩnh và đương nhiên là Hà Nội nữa,
tự hào vì có Xuân Diệu. Cả ba quê đó đã hòa hợp để hình thành nên tư chất
văn hóa nơi ông.
Những người làm công tác nghiên cứu
chúng tôi cũng rất cảm ơn ông đã để lại một gia tài đồ sộ, phong phú và đặc sắc. Tinh thần làm việc cần
cù, nghiêm túc với một ý chí, nghị lực phi thường, một tinh
thần dũng cảm vượt qua những khó khăn, bất hạnh để “nhìn đời bằng đôi mắt xanh non” của
Xuân Diệu cũng là bài học lớn cho những ai muốn đi xa trên con đường học tập và
nghiên cứu.
7/8/2018
Tôn Phương Lan
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Cuộc phỏng vấn lịch sử của Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm với chí sĩ Lê Đại
Cuộc phỏng vấn lịch sử của Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm với chí sĩ Lê Đại Đây là lần đầu tiên bài phỏng vấn được công bố sau gần 100 năm vắng bó...

-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...