Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2025

Ai là kẻ giết nhiều vua nhất trong lịch sử Việt Nam

 Ai là kẻ giết nhiều vua nhất
trong lịch sử Việt Nam?

Trịnh Tùng đã từng giết ông vua của triều đại đối nghịch với triều đại mình và sau đó lại giết cả những vị vua của mình để thâu đoạt quyền binh vào tay. Ông là vị chúa đầu tiên của dòng họ Trịnh và cũng là kẻ giết nhiều vua nhất trong lịch sử Việt Nam?
Giết vua Mạc chấm dứt Bắc triều
Đến nửa sau thế kỉ XVI, cục diện Nam – Bắc triều phân tranh vẫn chưa chấm dứt. Thế lực Nam triều đứng đầu là những người muốn trung hưng nhà Lê và thế lực Bắc triều là tập đoàn họ Mạc đánh nhau không dứt, lúc thắng lúc thua. Năm 1545, Nguyễn Kim – người đứng đầu thế lực phù Lê – bị một hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết. Quyền lực được chuyển sang tay con rể, Lạng Quốc Công Trịnh Kiểm. Từ đây, họ Trịnh từng bước xây đắp cho quyền bính và địa vị của mình. Trịnh Kiểm tiếp tục chống nhau với nhà Mạc nhưng vẫn không mang lại kết quả gì. Năm 1569, Trịnh Kiểm chết.
Hai con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh giết lẫn nhau để giành quyền lực. Nhân cơ hội này, vua Mạc là Mạc Mậu Hợp (lên ngôi từ 1564) liên tiếp mở nhiều cuộc tiến công vào Thanh Hóa, Nghệ An là địa bàn của Nam triều. Suốt hơn 10 năm từ 1570-1583, nhà Mạc đem quân đánh vào 13 lần, biến vùng bờ biển từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa (Huế) thành chiến trường. Cuối năm 1583, sau khi củng cố lực lượng, Trịnh Tùng (sau khi thắng Trịnh Cối được vua Lê Anh Tông phong làm Tiết Chế Trưởng Quốc Công) quyết định đem quân đánh ra Bắc, bắt quân nhà Mạc đổi thế công sang thế thủ. Năm 1591, Trịnh Tùng thống lĩnh 7 vạn quân kéo ra Bắc.
Được tin, Mạc Mậu Hợp cũng tự dẫn 10 vạn quân đến đánh nhau với quân Trịnh. Quân Trịnh đánh rất hăng, quân nhà Mạc thua to, chết hàng vạn người. Mạc Mậu Hợp bỏ chạy về kinh thành Thăng Long (Hà Nội). Trịnh Tùng đuổi theo nhưng gặp tết Nguyên Đán nên dừng lại cho quân sĩ nghỉ ngơi dưỡng sức. Năm ấy là năm Nhâm Thìn (1592). Ăn tết xong, Trịnh Tùng đốc thúc tướng sĩ đánh thành Thăng Long. Quân Mạc không giữ được thành, Mạc Mậu Hợp phải chạy trốn. Trịnh Tùng sai người san phẳng thành lũy rồi cho rút quân về vì “Đất căn bản của Mạc Mậu Hợp là phía đông bắc. Nay tuy y bại trận ở đây nhưng viện binh ở các nơi khác hãy còn nhiều” (Đại Việt thông sử).
Mạc Mậu Hợp do nỗi buồn thất trận nên chìm đắm trong ma men và vì vậy đã phạm phải sai lầm chết người. Mạc Mậu Hợp thấy vợ của tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên xinh đẹp nên muốn chiếm làm vợ, tìm cách giết chết Văn Khuê. Nguyễn Thị Niên nói cho chồng biết. Bùi Văn Khuê lo sợ đưa vợ về giữ đất Gia Viễn (Ninh Bình), sai con trai trốn vào Thanh Hóa xin hàng vua Lê. Trịnh Tùng thuận cho và biết chắc chắn mình sẽ đại thắng, bởi Bùi Văn Khuê là tướng thủy quân giỏi nhất bên Mạc, nay đã quy thuận thì nhà Mạc không còn chỗ dựa về thủy quân nữa. Trong năm 1592, Trịnh Tùng phát động nhiều cuộc tấn công vào thủy quân nhà Mạc và giành nhiều thắng lợi.
Mạc Mậu Hợp liên tiếp thất bại nên bỏ chạy về Hải Dương. Thăng Long lại rơi vào tay quân Trịnh. Mạc Mậu Hợp trao ngôi vua cho con trai rồi tự mình dẫn quân đi đánh Trịnh Tùng, quyết một trận được mất. Trịnh Tùng sai tướng chặn đánh Mạc Mậu Hợp. Mạc Mậu Hợp thua to phải bỏ thuyền chạy lên bộ, ẩn trong một ngôi chùa tại Phượng Nhãn (Bắc Giang). Trịnh Tùng sai người tìm bắt được, giải Mạc Mậu Hợp về Thăng Long. Bắt được Mạc Mậu Hợp rồi, Trịnh Tùng ra lệnh treo sống 3 ngày. Sau đó chém đầu tại bến Bồ Đề, cho đóng đinh vào hai mắt rồi bêu đầu ở chợ Thanh Hóa sau khi làm lễ hiến phù (dâng chiến công) vua Lê.
Nhà Mạc khởi từ Mạc Đăng Dung năm 1527, trải đến đời thứ năm là Mạc Mậu Hợp thì chấm dứt, trước sau tồn tại được 65 năm (1527-1592). Vậy là cục diện Nam – Bắc phân tranh đã kết thúc. Vua Lê từ Tây Đô (Thanh Hóa) trở lại kinh thành Thăng Long. Nhà Lê Trung Hưng bắt đầu chính vị tại Thăng Long. Nhưng vua Lê cũng không thoát khỏi số phận như kẻ thù Mạc Mậu Hợp, đến lượt bị Trịnh Tùng bức hại.
Lộng quyền giết cả vua Lê
Như trên đã nói, sau khi Trịnh Kiểm chết, Trịnh Tùng cùng anh trai là Trịnh Cối đánh nhau để tranh quyền. Kết quả là Trịnh Tùng thắng, kế tục Trịnh Kiểm nắm giữ binh quyền. Trịnh Tùng càng ngày càng chuyên quyền, muốn chi phối mọi hoạt động trong triều nhiều hơn, lấn át cả nhà vua. Vua Lê Anh Tông (tên thật Lê Duy Bang, trị vì từ 1557) vì thế không ưa gì Trịnh Tùng, luôn muốn loại bỏ Trịnh Tùng. Trịnh Tùng biết điều đó và biết nhà vua thân với một đại thần là Lê Cập Đệ nên Trịnh Tùng quyết định giết Lê Cập Đệ trước để đe dọa Lê Anh Tông. Bề ngoài, Trịnh Tùng vẫn cho người đem vàng bạc đến biếu Lê Cập Đệ nhưng lại sai đao phủ ngầm phục sau màn trướng, giết chết Cập Đệ rồi phao lên tên này làm phản, xin vua xử tội cả họ nhà hắn.
Sau khi Lê Cập Đệ chết, Lê Anh Tông sợ có chuyện chẳng lành nên đem 4 hoàng tử chạy vào Nghệ An. Trịnh Tùng cho người đón hoàng tử thứ 5 là Lê Duy Đàm mới 7 tuổi lên ngôi, tức là vua Lê Thế Tông (1573-1599). Sau đó, Trịnh Tùng cho người vào Nghệ An truy bắt Lê Anh Tông, nói thác là đón vua về cung. Lê Anh Tông trốn vào ruộng mía. Quan quân đến, lấy lời năn nỉ, xin vua trở về để lòng dân được yên. Lê Anh Tông tin lời bèn quay về. Trịnh Tùng tiếp đãi vua chu đáo. Nhưng chỉ được thời gian ngắn, đến ngày 22 tháng giêng năm 1573, Trịnh Tùng sai thủ hạ là Tống Đức Vi ngầm giết chết vua rồi nói rằng nhà vua thắt cổ chết.
Năm ấy Lê Anh Tông 42 tuổi, ở ngôi được 16 năm. Quần thần truy tôn miếu hiệu là Anh Tông Tuấn Hoàng Đế, táng ở lăng Bố Vệ. Tiếp sau Lê Anh Tông, triều Lê Trung Hưng còn một vị vua nữa bị Trịnh Tùng giết hại. Đó là Lê Kính Tông, cháu nội của Le Anh Tông. Năm 1595, Trịnh Tùng bắt đầu lấy tước Bình An Vương và sau đó con cháu kế nhiệm đều tiếp tục xưng vương, hình thành giai đoạn vua Lê – chúa Trịnh trong lịch sử. Từ khi lập Lê Duy Đàm lên thay Lê Anh Tông, Trịnh Tùng càng lộng quyền hơn, mọi việc đều bắt vua phải hỏi ý kiến. Âm mưu sâu xa của tập đoàn họ Trịnh là muốn cướp lấy ngai vàng, thay nhà Lê lên làm ngôi “thiên tử”.
Vua Lê Kính Tông cũng biết bụng dạ ấy nên tìm cách gạt bỏ ảnh hưởng rồi loại trừ Trịnh Tùng. Vua Lê Kính Tông tên thật là Duy Tân, con thứ của Lê Thế Tông, lên ngôi năm 1600. Vua là người “tướng mạo hùng vĩ, nối ngôi giữ nghiệp mà trong nước bình yên, nhưng lại riêng nghe mưu gian, đến nỗi có việc chẳng lành, thực rất đáng thương” (Đại Việt sử kí toàn thư). Đoạn chép trên của chính sử nhà Lê đã nói về số phận của ông vua đáng thương này. Lê Kính Tông thấy Trịnh Tùng lấn lướt vua ngày một quá đáng nên không chịu nổi. Vua biết Trịnh Xuân, con thứ Trịnh Tùng, muốn cướp ngôi của cha nên bàn với Trịnh Xuân mưu giết cha, xong rồi vua sẽ trao quyền cho Trịnh Xuân.
Thực chất, hành động này của Lê Kính Tông quá dại dột và quá ngây thơ. Trịnh Xuân với thế lực của mình không thể lật đổ được Trịnh Tùng. Cho dù có làm được thì sau này Trịnh Xuân sẽ lại lộng quyền, thậm chí còn hơn cả cha, sẽ bất lợi hơn rất nhiều cho Lê Kính Tông và cả cơ nghiệp nhà Lê. Nhưng sự bồng phát trong ý nghĩ đã biến thành sự thật khiến nhà vua quyết định mượn tay con để giết cha. Trịnh Xuân nghe theo sự sắp xếp của Lê Kính Tông, cho quân mai phục sẵn hai bên đường chờ Trịnh Tùng đi xem bơi thuyền về qua sẽ nổ súng tiêu diệt. Khi Trịnh Tùng đi qua, súng nổ nhưng chỉ trúng con voi Trịnh Tùng đang cưỡi.
Thoát chết, Trịnh Tùng tra hỏi mới biết đó là ý định của nhà vua. Không còn cách nào khác, Trịnh Tùng buộc phải loại ông vua này. Ngày 12 tháng 5 năm 1619, Trịnh Tùng cho người bức vua thắt cổ chết rồi truy tôn miếu hiệu là Kính Tông Huệ Hoàng Đế, táng ở lăng Hoa Loan. Lê Kính Tông chẳng ngờ rằng mình lại có kết cục bi thảm giống như ông nội trước đó hơn 40 năm. Trịnh Tùng, từ Tiết Chế Quốc Công đến Bình An Vương rồi chúa Trịnh, đã giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến giành quyền uy của mình và đẩy hai vị vua nhà Lê vào một số phận chung: cái chết. Nhìn lại lịch sử, trước Trịnh Tùng đã có nhiều vụ sát hại vua – ông “con trời” xảy ra.
Như việc Lê Ngọa Triều giết vua anh là Lê Trung Tông để lên thay thế làm vua nhà Tiền Lê; việc Trần Thủ Độ, Thái Sư triều Trần giết hại ông vua Huệ Tông nhà Lý ở chùa Chân Giáo; việc Hồ Qúy Ly giết vua Trần Thuận Tông năm 1399; hay các vụ giết vua thời Lê sơ: Lê Nghi Dân giết em là Lê Nhân Tông để cướp ngôi báu, Trịnh Duy Sản đảo chính giết chết vua Lê Tương Dực, Mạc Đăng Dung giết Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng để cướp ngôi. Đến đây, vào cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII, sự việc lại tiếp diễn nhưng về số lượng các vua bị giết và phạm vi triều đại của các vua ấy đã vượt xa những kẻ trước, đã đưa Trịnh Tùng trở thành người giết nhiều vua nhất trong lịch sử Việt Nam.
8/10/2023
THANH TUYỂN
Nguồn: Báo Dân Việt
Theo https://vanvn.vn/

Luật sư Phan Anh - Niềm tự hào của trí thức Việt Nam

Luật sư Phan Anh - Niềm tự hào
của trí thức Việt Nam

Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Luật sư Phan Anh đã được Tổ quốc tin cậy giao nhiều trọng trách. Hội đồng Hòa bình thế giới, Hội Luật gia dân chủ quốc tế hết sức tín nhiệm. Dù ở bất cứ cương vị nào, nhận nhiệm vụ gì, Luật sư Phan Anh cũng hết sức tận tâm, tận lực và tận tụy, đã đem hết trí tuệ của mình ra phụng sự đất nước và phục vụ nhân loại. 
Một thanh niên trí thức yêu nước
Ông Phan Anh sinh ngày 16 tháng 12 năm 1911 (tức ngày 26 tháng 10 năm Tân Hợi) tại làng Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh – nơi phát tích cuộc khởi nghĩa của Đình nguyên Phan Đình Phùng, hưởng ứng Chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi (năm 1885). Ông Phan Anh xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, trọng học vấn. Thuở ấu thơ sống bên cha – cụ đồ Phan Điện, trải qua cuộc sống gian nan, được “nghiền ngẫm tiếng Việt, tiếng Trung, chuyên chú Văn hóa Phương Đông”. Vừa chớm lớn, được cha cho thoát ly, rèn tiếng Pháp, tiếp cận tri thức phương Tây.
Năm 1926, ông Phan Anh nhận được học bổng vào học Trường Bưởi Hà Nội. Thời gian này, ông đọc cuốn sách cấm “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nhà Cách mạng Nguyễn Ái Quốc. Năm 22 tuổi, ông đỗ ba bằng Tú tài: Tú tài Bản xứ, Tú tài Toán và Tú tài Triết học (của Pháp).
Vào học khoa Luật Trường Đại học Đông Dương, ông chuyên tâm học tập và tích cực hoạt động xã hội theo hướng phục vụ “dân tộc”. Ông tham gia Đảng Xã hội Pháp, là Chủ tịch Tổng hội sinh viên Đông Dương.
Năm 1937, tốt nghiệp Cử nhân Luật Trường Đại học Đông Dương (vị trí thứ 2) được nhận học bổng sang Pháp tiếp tục học tập. Ông chuyên tâm nghiên cứu Pháp luật đạt được kết quả ưu tú, đỗ ba bằng Tiến sĩ về Công pháp, Tư pháp và Lịch sử. Về nước, ông hành nghề luật sư tại Văn phòng Luật sư Bùi Tường Chiểu.
Luật sư Phan Anh ý thức được trách nhiệm của người trí thức với đồng bào, Ông chọn diễn đàn “Thanh Nghị” của giới trí thức cấp tiến để lập ngôn. Luật sư Phan Anh cùng Luật gia Vũ Đình Hòe, ông Vũ Văn Hiền và một số nhà trí thức yêu nước xuất bản tờ báo “Thanh Nghị” (1940 – 1945) nhằm đóng góp ý kiến của mình trước dân chúng. Luật sư là cây bút trụ cột, phụ trách nhiều chuyên mục của tờ báo “Thanh nghị”. Xã hội thời đó gọi nhóm Trí thức ra tờ báo “Thanh nghị” là “Nhóm Thanh Nghị”.
Song song với việc ra báo “Thanh Nghị”, viết bài cho hai tờ báo “Thanh Nghị” và “Khoa học”, Luật sư làm việc ở Tòa Thượng thẩm, thường xuyên bào chữa ở Tòa án Quân sự. Hầu như tuần nào Luật sư Phan Anh cũng có mặt ở Tòa án Quân sự để bào chữa cho nhiều chiến sĩ cách mạng – những người yêu nước, dũng cảm dấn thân vào cuộc đấu tranh chống áp bức, bị thực dân Pháp bắt và kết án.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương. Vua Bảo Đại mời một số vị trí thức nổi tiếng trong nước, như: Giáo sư Trần Trọng Kim, Luật sư Trịnh Đình Thảo, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Luật sư Phan Anh… vào Huế, tham khảo ý kiến về việc Nhật “trao trả độc lập” cho Việt Nam và bàn bạc thành lập Nội các.
Việt Nam cần phải giữ “thế trung lập” giữa Nhật Bản và phe Đồng Minh. Chính phủ Trần Trọng Kim không thành lập Bộ Quốc phòng để thanh niên Việt Nam không phải vào quân đội tham gia các chiến trường. Thay vào đó Chính phủ thành lập Bộ Thanh niên và cử Luật sư Phan Anh làm Bộ trưởng. Luật sư Phan Anh đã mời Giáo sư Tạ Quang Bửu làm Thứ trưởng Bộ Thanh niên.
Được tin Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng phe Đồng Minh vô điều kiện, Chính phủ Trần Trọng Kim đệ đơn từ chức lên Nhà vua ngay trong ngày hôm sau.
Luật sư trở về Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp mặt các nhân sĩ trí thức tại Bắc Bộ phủ. Tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho Luật sư Phan Anh làm Chủ tịch Hội đồng Kiến thiết quốc gia, ông Bùi Công Trừng làm Phó Chủ tịch.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946 bầu cử Quốc hội. Trước Phiên họp thứ nhất Quốc hội khoá I. Bác Hồ mời Luật sư Phan Anh đến Bắc Bộ phủ, Bác nói: “Chúng ta cần thành lập Chính phủ Liên hiệp nhằm đoàn kết nhân dân, thống nhất hành động. Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng cần trao cho những người giữ vị trí trung lập. Bác đề cử chú nhận nhiệm vụ quan trọng này”.
Luật sư Phan Anh tham gia Chính phủ Liên hiệp với chức danh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đã ban hành các Sắc lệnh bổ nhiệm các vị Cục trưởng Bộ Quốc phòng; đồng thời đề nghị lên Chính phủ cho mở trường đào tạo sĩ quan chỉ huy quân đội.
Luật sư Phan Anh là một trong những Luật gia giúp Bác Hồ và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xây dựng Hiến pháp năm 1946.
Luật sư Phan Anh – một nhân cách lớn, một trí tuệ lớn
Tháng 7 năm 1946, Luật sư Phan Anh được Bác Hồ giao trọng trách làm Tổng thuyết trình viên của Phái đoàn Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn tham dự Hội nghị Fontainebleau đàm phán với Chính phủ Pháp.
Tháng 9 năm 1946, Luật sư được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ xây dựng “Tạm ước 14 tháng 9 giữa Việt Nam và Pháp”, theo dõi hai bên thực hiện Tạm ước.
Ngay sau ngày 19 tháng 12 năm 1946 toàn quốc kháng chiến, Luật sư Phan Anh lên Việt Bắc tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược với tư cách một người cán bộ. Cuộc họp Hội đồng Chính phủ Kháng chiến giáp ngày Tết Đinh Hợi (1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Quyết định bổ nhiệm Luật sư Phan Anh làm Bộ trưởng Bộ Kinh tế thay cho ông Phạm Văn Đồng đang đi công tác dài ngày tại miền Nam Trung Bộ.
Năm 1949, Luật sư Phan Anh được Bác Hồ chọn tham gia thành viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao của Chính phủ kháng chiến.
Tháng 5 năm 1951, Bộ Kinh tế được phân thành hai bộ Nông nghiệp và Công Thương; Luật sư Phan Anh được cử làm Bộ trưởng Bộ Công Thương.
Tháng 7 năm 1954, Luật sư Phan Anh tham gia Phái đoàn Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, tham dự Hội nghị Genève (Thụy Sỹ) bàn về việc đình chiến ở Đông Dương.
Tháng 9 năm 1955, Bộ Công Thương được phân thành hai Bộ Công nghiệp và Thương nghiệp. Luật sư Phan Anh được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Thương nghiệp.
Năm 1955 Luật sư Phan Anh là một trong những Luật sư sáng lập Hội Luật gia Việt Nam và được bầu làm Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam. Thay mặt Hội Luật gia Việt Nam đi dự Hội nghị Hội Luật gia Dân chủ quốc tế, Luật sư Phan Anh được Hội nghị bầu vào Ban Thường vụ Hội Luật gia Dân chủ quốc tế.
Tháng 4 năm 1958, Bộ Thương nghiệp được phân thành hai Bộ Ngoại thương và Nội thương. Luật sư Phan Anh được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương.
Luật sư Phan Anh là Đại biểu Quốc hội Việt Nam từ khóa 2 đến khóa 8. Được bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa 7.
Luật sư Phan Anh là thành viên Ban Vận động thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Ngày 29 tháng 5 năm 1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập, Luật sư được bầu làm Ủy viên Thường trực. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên hiệp quốc dân được sáp nhập thành Mặt trận Liên – Việt. Luật sư Phan Anh được bầu làm Ủy viên Trung ương Mặt trận Liên – Việt. Ngày 10 tháng 9 năm 1955 Mặt trận Liên – Việt đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật sư Phan Anh được bầu làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tháng 11 năm 1988, tại Đại hội III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật sư Phan Anh được bầu làm Phó Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Là cán bộ am hiểu pháp luật, Luật sư Phan Anh đã đóng góp nhiều vào việc xây dựng chế độ Cộng hòa – Dân chủ – Nhân dân trong lịch sử dân tộc. Với 30 năm giữ cương vị Bộ trưởng, 30 năm là Đại biểu Quốc hội, thành viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội khóa VII.
Sau khi nước Việt Nam thống nhất (từ 1975 đến 1990), trong 15 năm, Luật sư Phan Anh giữ các trọng trách: Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Đại biểu Quốc hội khóa II đến khóa VIII; Phó Chủ tịch Quốc hội khóa VII; tham gia Ban Chấp hành Liên minh Quốc hội thế giới (UIP). Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hòa bình của Việt Nam; Phó Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới; Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam; Ủy viên Thường vụ Hội Luật gia Dân chủ Quốc tế… Luật sư Phan Anh đã dùng lý luận sắc bén, chính nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia trên các diễn đàn quốc tế. Bằng tài năng và nhiệt huyết, Luật sư Phan Anh đã đóng góp xứng đáng vào phong trào hòa bình của nhân loại tiến bộ, ngăn chặn chiến tranh hạt nhân.
Những hoạt động đóng góp của Luật sư Phan Anh đã được ghi nhận xứng đáng. Đó là tấm “Huy chương vàng Giôliô Quyri”; “Kỷ niệm chương Bảo vệ Hòa bình”; “Huy chương Vì những cống hiến cho sự nghiệp xây đắp tình Hữu nghị” do Hội đồng Hòa bình Thế giới trao tặng đã nói lên điều đó. Ngài Chủ tịch Hội đồng Hòa bình Thế giới Romesh Chandra đã đánh giá: “Luật sư Phan Anh là người chỉ dẫn, người thầy – một biểu tượng của nhân dân Việt Nam anh hùng… Đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới… Xây dựng thế giới hòa bình đối thoại và hợp tác”.
Luật sư Phan Anh được Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô trao tặng: “Huân chương Hữu nghị giữa các dân tộc”, “Kỷ niệm chương 100 năm Ngày sinh V.I. Lê Nin”, “Kỷ niệm chương 40 năm chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bảo vệ Tổ quốc vĩ đại”.
Luật sư Phan Anh được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu “Lão thành cách mạng”, “Cán bộ tiền khởi nghĩa”. Được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huân chương vàng Vận động Hoà bình thế giới, Huân chương Đại Đoàn kết dân tộc. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá Luật sư Phan Anh bằng một cụm từ “Trọn vẹn”.
Luật sư Phan Anh tạ thế ngày 28 tháng 6 năm 1990 (tức ngày 6 tháng 5 năm Canh Ngọ) tại Hà Nội.
8/10/2023
Đ.N.C
Nguồn: PLVN
Theo https://vanvn.vn/

Vị tướng nào chúa Nguyễn có tài xem thiên văn như Gia Cát Lượng là ai

Vị tướng nào chúa Nguyễn có tài
xem thiên văn như Gia Cát Lượng là ai?

Sinh thời, vị danh tướng này là người văn võ song toàn của chúa Nguyễn. Ông còn được sử sách ca ngợi là người sáng suốt có tài lược ví như Gia Cát Lượng.
Vị danh tướng con nhà nòi
Cha ông ta nói cấm có trật “Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh“. Nếu chưa tin có thể đối chiếu với cuộc đời đầy hiển hách của cha con danh tướng dòng họ Nguyễn Hữu. Cụ thể, Chiêu Quận công Nguyễn Hữu Dật là con trai của Tham tướng Chưởng cơ Nguyễn Triều Văn nên có tố chất con nhà võ tướng phát lộ từ thuở tóc chỏm ba đào.
Trong sách Đại Nam liệt truyện (Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, Viện sử học phiên dịch, NXB Thuận Hóa 2006), tập 1, phần truyện các bề tôi, khen ngợi Nguyễn Hữu Dật là người “sáng suốt có tài tài lược”, ví như Gia Cát Lượng của nhà Thục thời Tam Quốc.
Vậy Nguyễn Hữu Dật là ai? Nguyễn Hữu Dật (1603 – 1681),là đại công thần của chúa Nguyễn tại Đàng Trong (thời Trịnh – Nguyễn phân tranh). Ông là người có công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn, đánh lui nhiều cuộc Nam tiến của chúa Trịnh, giữ vững lãnh thổ Đàng Trong. Ông được phong làm Chiêu Vũ hầu.
Theo phả hệ họ Nguyễn là cháu 18 đời của Định Quốc công Nguyễn Bặc thời nhà Đinh và là cháu 8 đời của công thần Nguyễn Trãi nhà Lê Sơ. Nguyễn Hữu Dật và chi chúa Nguyễn (Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng) đều là con cháu Nguyễn Trãi, nhưng chi của vị tướng này là chi trên. Do dòng họ Nguyễn Trãi bị tản mát sau Vụ án Lệ Chi Viên và loạn lạc thời Nam Bắc triều, nên tổ tiên Nguyễn Hữu Dật đã lưu trú ở nhiều nơi: Ninh Bình, Hải Dương, Hà Đông, Thanh Hóa…
Nguyễn Hữu Dật sinh ở Thăng Long, cha là Nguyễn Triều Văn, tước Triều Văn hầu, theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa từ năm 1609 và chính thức định cư tại huyện Phong Lộc tỉnh Quảng Bình. Từ nhỏ, ông đã được khen là người thông minh, lanh lợi.
Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “Lúc mới lên vài tuổi, cùng đàn trẻ chơi đùa, Dật thường bày trận, đặt quân kỳ và quân chính, tự nhận mình là đại tướng”. Đấy, cái chí hướng làm tướng xông pha nơi trận tiền, đâu có ngẫu nhiên tự dưng mà có.
Thấy con như thế, ông Triều Văn lấy làm mừng lắm, liền tìm thầy cho con theo học. Trò giỏi mà gặp thầy hay khác nào cá gặp nước. Thế nên, cũng sách trên cho hay “gặp được dị nhân, dạy cho binh pháp, bởi thế Dật học càng tiến”.
Năm Kỷ Mùi (1619), khi mới 16 tuổi, nhờ có tài văn học mà Nguyễn Hữu Dật đã được làm văn chức. Tiếc thay do tuổi nhỏ còn non nớt, chí khí bốc đồng chưa biết kìm nén nên một lần lỡ lời nói trái ý chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, chúa cho Dật về.
Sau lần ấy, Nguyễn Hữu Dật không thối chí, trái lại còn tập rèn rũa bản thân điềm đạm hơn, siêng năng học hành. Một thời gian sau, học thuật tăng tiến đáng kể.
Vào năm Bính Dần (1626), Dật ở tuổi 23 được quay lại chốn quan trường làm văn chức. Chẳng những thế, ông còn được tham dự việc cơ mật của chúa, được chúa Sãi yêu quý.
Mặc dù rất giỏi văn chương thế nhưng sự nghiệp, công danh của vị Chiêu Quận công tương lai này lại không nằm ở nơi màn trướng mà thuộc về con đường binh nghiệp. Và nghiệp binh đến với Nguyễn Hữu Dật vào năm Đinh Mão (1627).
Từ văn chức chuyển sang làm tướng
Từ năm 1627, Nguyễn Hữu Dật được bổ nhiệm là Giám chiến đi theo Tiết chế Tôn Thất Vệ đánh nhau với quân Trịnh. Khi quân Trịnh Tráng rút về, ông cùng Đào Duy Từ coi việc đắp lũy Trường lệ (tức Lũy Thầy).
Năm 1668, Nguyễn Hữu Dật cùng cha là Nguyễn Triều Văn đã đánh 1 trận nổi tiếng thắng quân Trịnh. Vậy nên vào năm sau, ông được thăng làm Cai cơ, Ký lục doanh Bố Chính. Ở tuyến đối đầu với quân Trịnh, ông dùng nhiều mưu kế, khéo léo sử dụng nội ứng làm rối ren hàng ngũ của quân địch.
Khi Nguyễn Hữu Tiến làm Tiết chế, Nguyễn Hữu Dật cũng làm Đốc chiến, đã từng đánh ra Bắc, chiếm 7 huyện phía Nam Nghệ An, lấy sông Lam làm ranh giới Nam – Bắc một thời gian rồi mới rút về.
Khi nói về danh tướng Nguyễn Hữu Dật của chúa Nguyễn buổi ấy, Việt sử yếu cho rằng “Nam triều có hai danh tướng: 1. Nguyễn Hữu Dật là người Gia Miêu ngoại trang (thuộc phủ Hà Trung, là nơi phát tích của nhà Nguyễn); 2. Nguyễn Hữu Tiến là người làng Vân Trai (thuộc phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa). Nam triều lại còn có một người lương tướng ấy là Đào Duy Từ”.
Danh tướng có tài xem thiên văn đánh trận như Gia Cát Lượng
Nguyễn Hữu Dật giỏi xem thiên văn, việc này đã được sử sách ghi chép. Và tài năng này đã giúp ông rất nhiều trong việc đánh trận. Trong đó có 2 câu chuyện như sau:
Chuyện đầu tiên diễn ra vào mùa thu năm 1657, khi chúa Trịnh Căn cho rằng tướng Thắng Nham đóng quân ở luỹ Đồng Hồn, đất ấy thấp và ẩm ướt, sợ đến mùa thu lụt, sẽ bị quân Nam đánh úp, nên muốn dời đồn đến chân núi Thổ Sơn.
Người do thám đem việc ấy về báo, Hữu Dật bảo Hữu Tiến: “Tôi đã tính đến ngày 25 là ngày Quý Hợi, sao Chẩn gặp triều độ mặt trời, tất có gió dữ mưa to, lại có khí đen suốt đến phần sao Đẩu. Mây trắng che vào chấn cung, phương bắc tức có nước lụt. Ta nhân dịp này, đánh úp đồn của Thắng Nham, tất là phá được”.
Đến ngày ấy quả nhiên mưa to gió lớn, nước sông lên cao. Hữu Dật đem quân thẳng tiến đến Đồng Hôn, theo nước lụt, đánh phá đồn ấy.
Thắng Nham lên Thổ Sơn chạy trốn, quân chúa Nguyễn thu được khí giới rất nhiều. Thắng to, Hữu Tiến mừng bảo Hữu Dật: “Ông tính giỏi như thần vậy”. Hữu Dật khiêm tốn nói: “Nhờ oai linh chúa thượng và sức các tướng, tôi có giỏi gì đâu”.
Chuyện thứ hai diễn ra vào mùa thu năm sau tức năm Mậu Tuất (1658) khi Nguyễn Hữu Tiến muốn quấy rối quân Trịnh, chia quân lần lượt ra các huyện Đông Thành, Hưng Nguyên và Nam Đàn (Nghệ An) đánh phá. Quân Trịnh phòng thủ nghiêm cẩn, nên quân chúa Nguyễn phải rút về.
Chợt có tên Phạm Phượng đến quân thứ Hữu Tiến nói: “Năm ngoái Thắng Nham giữ Đồng Hôn, bị Đốc chiến (Nguyễn Hữu Dật) đánh thua, Trịnh Căn sai Tham đốc là Vân Khả lĩnh quân thay giữ. Vân Khả là người tham bạo, có thể tìm cách đánh lấy được”.
Hữu Tiến sai người nói với Hữu Dật. Hữu Dật mừng nói: “Trước đây ta xem thiên văn thấy mây đen che vào sao Khôi, ngày 11, Mậu Thìn, là ngày lục long, tất có mưa lụt. Nhân lúc nước lên to mà đánh, tất là thắng hắn”.
Tướng Đật bè hẹn Hữu Tiến hội quân để đánh. Đến ngày đó, quả nhiên mưa to, Hữu Dật trước đó đã đem thuyền quân ập đến lũy Đồng Hôn, đánh gấp. Quân Trịnh kinh sợ tan vỡ, Vân Khả trốn về Yên Trường, Hữu Tiến dẫn quân chiến thắng trở về.
Danh tướng “lắm mưu nhiều kế”
Nguyễn Hữu Dật còn nổi danh sử Việt bởi nhiều sử dụng nhiều mưu kế mà quan nhà Nguyễn từng ghi lại, có ý so sánh với Gia Cát Lượng thời nhà Thục. Ví dụ như vào năm 1660, khi Nguyễn Hữu Tiến bất hòa với Nguyễn Hữu Dật, giả hẹn với Hữu Dật cùng xuất quân đánh quân Trịnh rồi âm thầm rút quân về châu Nam Bố Chính.
Đêm ấy, Dật mặc áo giáp ngồi đợi đến lúc Hữu Tiến lui quân, thì quân Trịnh đã đến gần ngoài doanh trại rồi. Hữu Dật bèn sai ca hát nhảy múa nhưng bí mật sai chư quân dần dần lui về.
Trịnh Căn nghe trong doanh trại có tiếng đàn ca sáo nhị thì nghi ngờ nên không dám đến gần. Hữu Dật rút được quân trở về đến Hoành Sơn mới hợp binh cùng Hữu Tiến.
Để quân Trịnh không truy đuổi, Nguyễn Hữu Dật lại sai người kéo cành cây, tung bụi ở trong rừng và treo cờ lên ngọn cây để làm nghi binh. Quân Trịnh sợ có mai phục nên rút lui.
Đến mùa đông năm 1661, Trịnh Căn đem quân xâm lấn vào Nam, Hữu Dật làm kế “vườn không nhà trống” đưa dân châu Nam Bố Chính vào trong đại lũy để cố thủ. Quân Trịnh cũng vì thế mà không thể tấn công được.
Rồi đến năm 1664, Hữu Tiến bị ốm, xin về hưu. Lúc dày Hữu Dật được cử làm Chưởng doanh, Tiết độ đạo Lưu Đồn. Sau trận đánh mùa đông năm 1672, quân Trịnh phải rút quân về, hai bên Trịnh – Nguyễn lấy sông Gianh làm giới hạn Nam Bắc, kết thúc cuộc chiến.
Dân ngưỡng vọng, nước ghi danh
Đến năm 1681, Nguyễn Hữu Dật qua đời, thọ 78 tuổi, được chúa Nguyễn phong là Tán trị Tĩnh nạn công thần, Đặc tiến Phụ quốc thượng tướng quân, Cẩm y vệ Tả quân Đô đốc phủ Chưởng phủ sự, Chiêu quận công, thụy là Cẩn Tiết.
Đến khi vua Gia Long lên ngôi, phong Nguyễn Hữu Dật là Thượng đẳng công thần, cho thờ phụ vào Thái Miếu, ấm thụ cho một người trong dòng dõi làm Đội trưởng được thế tập để coi việc thờ cúng, cấp cho 15 mẫu tự điền và 6 người coi mộ.
Năm Gia Long thứ 9 (1810) lại cho thờ vào miếu Khai quốc công thần, truy phong ông là Đặc tiến Tráng vũ tướng quân, Hữu quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự Thái phó, đổi thụy là Nghị Vũ, tước Tĩnh quốc công, vẫn thờ phụ vào Thái Miếu. Đến năm Gia Long thứ 16 (1835), vua lại cho ông được thờ vào Vũ Miếu.
Sau này, 3 người con của Nguyễn Hữu Dật là Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Hữu Cảnh đều là danh tướng của chúa Nguyễn. Trong đó, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh là người có công rất lớn trong việc mở mang bờ cõi.
9/10/2023
THU NGA
Nguồn: Sống Đẹp
Theo https://vanvn.vn/

Người dẫn đầu đoàn quân chiến thắng vào giải phóng Thủ đô

Người dẫn đầu đoàn quân
chiến thắng vào giải phóng Thủ đô

Một buổi sáng mùa thu năm 1954, dẫn đầu đoàn quân chiến thắng vào giải phóng, tiếp quản Thủ đô là bác sĩ Trần Duy Hưng. Người lãnh đạo được biết tới với tư tưởng gần dân, thân dân, không ngại khó khăn, gian khổ xông pha nơi trận tuyến, nơi hòn tên, mũi đạn, đã tạo ra niềm tin và sức mạnh để thực hiện những kỳ tích của chiến thắng Điện Biên Phủ, đánh dấu thất bại hoàn toàn của thực dân Pháp ở Việt Nam, mở ra thời kỳ phát triển mới của Thủ đô và đất nước. 
Tuổi trẻ đầy nhiệt huyết
Bác sĩ Trần Duy Hưng sinh ngày 16.01.1912 tại làng Hòe Thị, xã Xuân Phương, hiện là phường Phương Canh, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Khi trưởng thành, ông theo học Đại học Y cùng lứa với Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Nhữ Thế Bảo và Nguyễn Hữu Thuyết…
Ông tích cực tham gia các phong trào và vận động xã hội khi còn là sinh viên. Ông được cử làm lãnh đạo phong trào hướng đạo sinh Bắc Kỳ dưới sự dìu dắt của nhà yêu nước Hoàng Ðạo Thúy vì ông có uy tín lớn trong thanh niên, sinh viên và trí thức trẻ. Vào các ngày nghỉ, ông thường đi đến một số chợ quê với cây đàn violon, hát các bài ca yêu nước. Đồng thời, tuyên truyền đã khuyến khích nhân dân tham gia vào các phong trào yêu nước do Mặt trận Dân chủ và sau đó là Mặt trận Việt Minh phát động.
Ông tốt nghiệp trường y, mở một bệnh viện tư tại phố Bông Nhuộm cùng với người em gái. Tại bệnh viện tư của mình, bác sĩ Trần Duy Hưng đã từng cứu giúp và chở che nhiều cán bộ Việt Minh giữa vòng vây của kẻ thù. Trong những ngày trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông tự nguyện làm cơ sở bí mật của Đảng.
Sau lễ Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2.9.1945, Bác Hồ đã tìm đến nhà, đề nghị bác sĩ Trần Duy Hưng làm Chủ tịch TP Hà Nội khi ông mới 33 tuổi. Sau này nhớ lại mình trở thành “Thị trưởng” thành phố Hà Nội, bác sĩ Trần Duy Hưng kể lại trong sách “Trần Duy Hưng, Bác Hồ với nhân dân Hà Nội – Kỷ niệm về Bác”:
“Tháng Tám năm 1945, từ Tân Trào về Hà Nội được hai ngày, trong khi bận biết bao nhiêu việc lớn, Bác đã cho gọi tôi và đồng chí Khuất Duy Tiến lên nhà 48 Hàng Ngang nơi Bác viết bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử. Bác nói:
– Bác được biết Đoàn thể đã tín nhiệm chú làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố, chú Tiến làm Phó chủ tịch, ý kiến các chú thế nào?
Tôi nói:
– Thưa Bác, cháu nghĩ nếu Đoàn thể giao cho cháu làm công tác y tế, cháu cố gắng làm tốt; còn làm Chủ tịch thành phố, cháu thấy khó quá!
Bác cười:
– Thế Bác đã bao giờ làm Chủ tịch nước đâu. Nhưng dù làm Chủ tịch nước, Chủ tịch thành phố hay gì đi nữa, Bác cháu ta cũng phải hiểu rằng: Mình không phải là ông quan cách mạng, mà là những người đày tớ trung thành của nhân dân”.
Chính lời động viên của Bác Hồ mà bác sĩ Trần Duy Hưng đã đảm nhận trọng trách của người đứng đầu Thủ đô với bao khó khăn, gian khổ thời kỳ đầu sau Cách mạng. Sau 9 năm trường kỳ kháng chiến, với chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu, Hiệp định Genève đã được ký kết, giải phóng miền Bắc, tạo tiền đề thống nhất đất nước.
“Bác sĩ Trần Duy Hưng, một con người của Nhân dân, vì Nhân dân; là một trí thức để lại tấm gương sáng cho các thế hệ trí thức cả hôm nay và mai sau học tập, noi theo”.
(Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
Những quyết sách phù hợp với người dân
Những tên lính Pháp cuối cùng rút qua cầu Long Biên vào 16 giờ ngày 9.10.1954, quân ta hoàn toàn kiểm soát thành phố Hà Nội. Ủy ban Quân chính thành phố và các đơn vị quân đội, bao gồm bộ binh, pháo binh, cao xạ, cơ giới… đã mở cuộc hành quân tiếp quản thủ đô Hà Nội vào sáng mùa thu ngày 10.10.1954. Trong rừng cờ đỏ sao vàng, hai mươi vạn người dân Thủ đô vui mừng chào đón đoàn quân chiến thắng. Nhân dân chắc chắn sẽ còn nhớ mãi mãi hình ảnh bác sĩ Trần Duy Hưng, Phó Chủ tịch Ủy ban, cùng thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố dẫn đầu Trung đoàn Thủ đô tiến về tiếp quản thành phố Hà Nội. 15 giờ chiều cùng ngày, hàng vạn người trang nghiêm tham dự lễ mừng ngày độc lập tại sân Đoan Môn – Hoàng thành Thăng Long, trên đỉnh Cột cờ cổ kính, cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay… Cả thành phố Hà Nội rạo rực niềm vui giải phóng, tự hào về sức mạnh hùng cường của cuộc trường kỳ kháng chiến.
Sau ngày giải phóng, bác sĩ Trần Duy Hưng tiếp tục được tín nhiệm và trở thành Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội đã trải qua nhiều vấn đề, bao gồm ổn định đời sống và giải quyết việc làm, khai hoang phục hóa, chống đói, xóa nạn mù chữ và củng cố chính quyền từ thành phố đến các quận, khu phố và làng xã.
Dưới thời bác sĩ Trần Duy Hưng làm Chủ tịch, Hà Nội đã thực hiện nhiều chính sách mạnh mẽ để đạt được nhiều thành tựu lớn, bao gồm chăm lo các vấn đề xã hội cấp bách và nóng bỏng, thực hiện đường lối phục hồi và phát triển kinh tế.
Chủ tịch Trần Duy Hưng cũng khuyến khích các trí thức tư sản như Nguyễn Tử Trinh và Trịnh Văn Bô tham gia chính quyền và sử dụng kinh nghiệm, trí tuệ của họ vào công cuộc xây dựng và phát triển Hà Nội để huy động nguồn lực tổng hợp cho phát triển thành phố.
Chủ tịch Trần Duy Hưng đã để lại cho Thủ đô nhiều công trình kinh tế, văn hóa và xã hội có tầm nhìn xa. Khu công nghiệp Cao Xà Lá, đường Thanh Niên, Công viên Thống Nhất, Công viên Thủ Lệ và Cung Văn hóa hữu nghị Việt – Xô… đều được thể hiện qua các cuộc thi sôi nổi. Những câu chuyện về bác sĩ Trần Duy Hưng, vị Chủ tịch đầu tiên của Hà Nội, đã để lại cho chúng ta nhiều điều đáng suy ngẫm kể từ 69 năm Ngày Giải phóng Thủ đô.
10/10/2023
KIM SƠN
Nguồn: Báo Lao Động
Theo https://vanvn.vn/

Sự liên hệ bất ngờ giữa hai nữ chủ nhân Nobel 2023

Sự liên hệ bất ngờ giữa
hai nữ chủ nhân Nobel 2023

Mùa giải Nobel 2023 khép lại với Nobel Kinh tế được trao hôm 9.10. Năm nay tổng cộng có đến 2 gương mặt đoạt giải Nobel từng nhận Giải thưởng quốc tế vì sự phát triển của phụ nữ trong khoa học của L’Oreal-UNESCO đang được triển khai ở Việt Nam.
Mở màn mùa giải Nobel 2023 hôm 2.10, một trong những chủ nhân mới của giải Nobel Y sinh là giáo sư Katalin Kariko của ĐH Szeged (Hungary) về những đóng góp của bà trong nỗ lực tạo ra vắc xin mRNA chứng minh được hiệu quả trong công cuộc phòng chống Covid-19 của thế giới.
Đến ngày 3.10, giáo sư Anne L’Huillier của ĐH Lund (Thụy Điển) được vinh danh Nobel Vật lý vì các phương pháp thí nghiệm tạo ra xung ánh sáng chuyển động ở ngưỡng của atto giây (1×10-18 của giây) để đo đạc tiến trình các electron di chuyển hoặc nạp năng lượng.
Điều trùng hợp thú vị là giáo sư Anne L’Huillier và giáo sư Katalin Kariko được trao Giải thưởng quốc tế L’Oréal-UNESCO vì sự phát triển phụ nữ trong khoa học lần lượt trong năm 2011 và 2022.
Giải thưởng quốc tế L’Oréal-UNESCO vì sự phát triển phụ nữ trong khoa học ra đời từ năm 1998, tập trung vào 3 lĩnh vực chính: nghiên cứu khoa học, tạo nên sự đa dạng trong vẻ đẹp, hỗ trợ các hoạt động chống biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường.
Suốt ¼ thế kỷ được triển khai, giải thưởng vinh danh hơn 4.100 nhà nữ nghiên cứu đến từ hơn 110 quốc gia, mang đến bệ phóng về nghề nghiệp cho nữ giới trong khoa học.
Trước việc 2 nhà khoa học nữ từng đoạt giải L’Oréal-UNESCO trở thành các tân chủ nhân Nobel năm 2023, bà Alexandra Palt, Tổng giám đốc Quỹ L’Oréal, cho hay các nữ nghiên cứu cần được trao cho nhiều cơ hội hơn nữa để phát triển trong khoa học. Bằng cách này, nhân loại có thể đối mặt với tương lai đầy thách thức ở phía trước.
Tại Việt Nam, chương trình L’Oréal-UNESCO vì sự phát triển phụ nữ trong khoa học đã được khởi động vào năm 2009. Đến nay, tổng cộng 35 nhà khoa học nữ có thành tích khoa học xuất sắc trên cả nước đã được trao giải.
11/10/2023
THỤY MIÊN
Nguồn: Thanh Niên
Theo https://vanvn.vn/

Hoàng tử, con quan xưa và áp lực học hành, thi cử

Hoàng tử, con quan xưa
và áp lực học hành, thi cử

Các văn bản hành chính và sử sách triều Nguyễn hé mở phần nào chuyện học tập, thi cử của các hoàng tử, con quan xưa.
Để được tuyển chọn học trong Quốc Tử Giám
Về việc học hành của con em nhỏ tuổi trong tôn thất, vua Minh Mạng dụ rằng: “Đặt ra học hiệu để giáo dục nhân tài. Tuy thường dân mà tuấn tú trẫm còn muốn gây dựng huống chi là bọn ngươi. Bọn ngươi là dòng dõi nhà vua, trẫm đã cấp lương, lại cho áo mũ, ban ân đã hơn người rồi. Đều phải dùi mài cố gắng học cho thành tài để khi dùng đến, chớ phụ ý thiết tha của trẫm đối với họ hàng” [1]. Vua Thiệu Trị cũng từng ban dụ: “Từ xưa các bậc đế vương yêu quý con em tất cẩn trọng chọn bậc chính nhân quân tử làm thầy dạy cho con em mình, mới có đức nghiệp cai trị quốc gia lâu bền” [2]. Vua Thành Thái cho lập giảng đường mới, sửa đổi đường lối giảng dạy, cũng là ý mong muốn tột cùng cho ba hoàng đệ học tập chuyên cần, tiến kịp thời thế để đào tạo thành công [3].
“Việc thiết lập Quốc Tử Giám là để giáo dục bồi dưỡng nhân tài, mà việc học tập là học làm người” [4]. Vì vậy, để được vào học Quốc Tử Giám, các tôn sinh, ấm sinh cũng phải trải qua kỳ sát hạch, phân hạng. Năm Thiệu Trị 7 (1847), con trai của nguyên Phủ doãn Thừa Thiên Nguyễn Công Trứ là Nguyễn Công Tịch, con trai nguyên Lang trung Bộ Hình được truy tặng chức Bố chánh sứ tỉnh Bình Định cố Trần Ý là Trần Mẫn và Trần Thứ, con trai của nguyên Lang trung Bộ Binh sung làm Đốc công Vũ khố cố Phan Đăng Tuyên là Phan Đăng Dụng, con trai của nguyên Phó Đốc học Quốc Tử Giám cố Lê Lang là Lê Sĩ Cẩn và các con trai của nguyên Trưởng sử gia hàm Thị độc học sĩ cố Nguyễn Văn Bảng là Nguyễn Văn Doanh và Nguyễn Văn Bằng đều lần lượt làm đơn xin vào Quốc Tử Giám học tập. Bộ Lễ phụng xét Trưởng sử lúc này đã cải đổi trật chánh ngũ phẩm, nên xin chiếu lệ mới chỉ cho Nguyễn Văn Doanh vào Giám, còn Nguyễn Văn Bằng cần bàn xét. Năm người còn lại làm đơn xin đều hợp lệ. Vậy theo lệ giao Quốc Tử Giám sát hạch, phân hạng, rồi tập hợp tâu lên [5].
Năm Tự Đức 14 (1861), thứ trưởng tử của Tuy Lý Công Miên Trinh “tuổi đã trưởng thành, có chút hiểu biết về học nghiệp, tình nguyện vào Quốc Tử Giám”, chờ Hội đồng cử nhân giám sinh khảo hạch phân hạng. Hễ vào hạng ưu, mỗi tháng thưởng thêm 5 quan tiền, hạng bình 4 quan tiền, hạng thứ 3 quan tiền, dầu nước đều cấp 3 cân để biểu thị sự khuyến khích [6].
Áp lực học hành, thi cử
Trước khi vào học, hoàng tử và các giảng quan mặc mũ áo đại triều đến giữa giảng đường có đặt bàn thờ Khổng Tử làm lễ khai giảng. Tiếp đó, hoàng tử kính cẩn lễ lạy các thầy của mình bốn lạy và các thầy cũng lạy đáp lễ trở lại. Sau đó, tất cả thay thường phục để bắt đầu học tập.
Mỗi ngày các hoàng tử học từ sáng sớm đến khi mặt trời lặn. Ngày lẻ nghe giảng Ngũ Kinh, ngày chẵn nghe giảng Tứ Thư. Ngày 30, mùng một hàng tháng được nghỉ học.
Các hoàng tử cũng không tránh khỏi việc kiểm tra kiến thức thường xuyên. Bản tâu của Nội các năm Tự Đức 32 (1879) viết: Hôm nay hoàng tử Ưng Chân, công tử Ưng Cổ vào chầu. Chúng thần vâng đem các bài kinh, truyện đã giảng cho đọc thuộc, đều thuộc làu, theo lệ ra hai đề thơ cho làm ngay trên chiếu, đến 11 giờ thì xong. Chúng thần điểm duyệt đã xong, xin đem nguyên quyển dâng trình [7].
Bên cạnh khuyến khích bằng việc cấp lương ăn, thưởng thêm tiền, gạo, triều đình giảm lương đối với tôn sinh, ấm sinh hạng thứ để tỏ rõ “sự răn trừng”, nếu lười học, học kém cũng bị buộc thôi học.
Theo bản Tấu của Bộ Lễ, quan học chính Quốc Tử Giám lập danh sách tâu trình về việc phân loại học tập chuyên cần và lười biếng kỳ học cuối thu của con em tôn thất trong trường… Trong đó, hạng liệt 4 người truyền phạt bổng 3 tháng để răn. Ngoài ra 2 người bị xếp liệt nhiều lần, lại nhiều lần cáo ốm và 3 người cố tật truyền cho trả ngay về nhà [8].
Cũng theo Bộ Lễ, năm Tự Đức 8 (1855), ấm sinh ở Quốc Tử Giám là Nguyễn Trung Long, Cao Hữu Siêu, Phan Hữu Đễ vô cớ tự ý thiếu vắng tới hơn 3 – 4 tháng, đều là những người không chú ý học tập, giữ lại cũng vô ích. Bọn Nguyễn Trạch ấm sinh cũng trả về quê quán, để răn đe những kẻ lười biếng ham chơi [9].
Bên cạnh đó, nhà vua yêu cầu thầy dạy các hoàng tử cần phải nghiêm nghị. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), khi sai Hữu Tham tri Bộ Hình Ngô Đình Giới nghỉ việc ở bộ để chuyên tâm việc dạy bảo, vua dụ rằng: “Hoàng tử và hoàng đệ tuổi còn thơ ấu, đang mê chơi đùa. Bọn thuộc hạ trong phủ phần nhiều lại đón chiều thói xấu, ngươi phải nghiêm cấm, đừng để cho bọn chúng dỗ dành, ngõ hầu có thể thành tựu được” [10].
Trong một bản tâu của Nội Các năm Tự Đức 6 (1853), Phủ Tôn nhân trình bày việc các hoàng thân học tập lơ là, trong đó “4 tên trong bọn hoàng thân Miên Ngô lười nhác nghe giảng truyền, đều phạt 3 tháng tiền lương. Giáo đạo Hồ Văn Nghĩa và các viên giảng tập hàng ngày răn dạy không nghiêm khắc, cùng các viên quản gia của các hoàng thân ấy không biết đưa vào khuôn phép, đều giao cho bộ đó xét xử mức độ khác nhau” [11].
Văn bản trên cho thấy, khi học trò chểnh mảng hay thành tích kém, thầy cũng bị cho là dạy dỗ không nghiêm và phải chịu tội lây.
Bản tâu của Bộ Lễ năm Tự Đức 20 (1867) chép, các tôn sinh Tôn Thất Vinh, Tôn Thất Thiện, Tôn Thất Dụ, Tôn Thất Thành, Tôn Thất Đạo, Tôn Thất Hán có mưu toan trốn tránh. Bộ đã tâu xin bắt họ đều phải trở về để răn đe những kẻ kém cỏi kiêu ngạo. Quan toà giám cùng các giáo ty ngày thường dạy bảo không nghiêm, xin phân biệt xét xử để biểu thị sự răn trừng [12].
Có thể thấy, trong việc dạy, học, thi cử của hoàng tử, con quan…, ngoài việc khuyến khích, triều Nguyễn cũng quy định hết sức nghiêm ngặt và định rõ phép tắc để hoạt động dạy – học đạt hiệu quả tốt nhất.
Trích dẫn tài liệu:
[1] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, Bản dịch của Viện Sử học, tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006.
[2] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Thiệu Trị, tập 9, tờ 125.
[3] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Thành Thái, tập 34, tờ 157.
[4] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 367, tờ 83.
[5] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Thiệu Trị, tập 50, tờ 8.
[6] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 126, tờ 243.
[7] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 322, tờ 63.
[8] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Minh Mạng, tập 48, tờ 127.
[9] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 53, tờ 122.
[10] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, Bản dịch của Viện Sử học, tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006.
[11] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 43, tờ 172.
[12] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 166, tờ 175.
11/10/2023
HỒNG NHUNG
Nguồn: Báo Lao Động
Theo https://vanvn.vn/

Chúa Tiên Nguyễn Hoàng: từ chiến lược thu phục nhân tâm đến những chiến tích lừng lẫy

Chúa Tiên Nguyễn Hoàng: từ chiến lược thu phục
nhân tâm đến những chiến tích lừng lẫy

Nguyễn Hoàng – Chúa Tiên sinh ngày 28 tháng 8 năm 1525, mất ngày 20 tháng 7 năm 1613. Quê ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoa, ngày nay là Gia Miêu Ngoại Trang, thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân từ dòng dõi công thần, ông nội – Nguyễn Văn Lưu là một trọng thần của triều đình nhà Hậu Lê, cha ông – Chiêu Huân Tĩnh công Nguyễn Kim, người có công lớn trong việc phục hưng triều Lê (Lê trung hưng). Nguyễn Hoàng là người khởi dựng quyền lực tại phương Nam, người đặt nền móng cho vương triều Nguyễn sau này (1802- 1945).
Nhằm thoát khỏi âm mưu của Thái sư Trịnh Kiểm trong việc loại bỏ anh em trong gia tộc Nguyễn Kim, sau khi Nguyễn Uông (anh Nguyễn Hoàng) mất đột ngột với nhiều nghi vấn bị sát hại, ông đã tìm cách thoát thân bằng việc xin vào trấn đất Thuận Hóa. Từ sự lựa chọn này, Nguyễn Hoàng đã tạo nên một cột mốc quan trọng trong quá trình mở mang bờ cõi của dân tộc.
Tháng 10 năm Mậu Ngọ 1558, Nguyễn Hoàng đem gia đình, thân thuộc, quân bản bộ và cơ đội thủy binh của mình ra cửa Đại An (Nam Định – Ninh Bình) xuôi đường biển tiến vào Nam. Sau chuỗi ngày rong ruổi, đoàn quân Nam tiến dừng chân ở Cửa Việt. Nguyễn Hoàng đã cho quân hạ trại ở gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Đăng Xương (nay thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).
Miền đất Thuận Hóa lúc bấy giờ hoang sơ, nạn cướp biển hoành hành, lực lượng quân nhà Mạc, Chiêm Thành, Chân Lạp thường xuyên đánh phá. Việc ổn định cũng như bảo vệ mảnh đất này quả là một thử thách không nhỏ đối với một viên trấn thủ mới nhậm chức.
Những ngày đầu dựng nghiệp ở đất phương Nam, Nguyễn Hoàng đã rất quan tâm đến việc thu phục lòng người. Với sự giúp sức tận tình của người cậu ruột – Thái phó Nguyễn Ư Dĩ, ông đã triển khai nhiều công việc làm nức lòng dân như: cho bố cáo chiêu hiền đãi sĩ; ra lệnh giảm thuế cho dân; việc sai dịch cũng được hạn chế tối đa… Ông tìm nhiều ra phương cách hay giúp cho người dân được an cư lạc nghiệp ngay sau khi di trú đến vùng đất mới.
Nguyễn Hoàng đã có chính sách vận động người dân khai hoang lập hóa, có chính sách sở hữu tài nguyên theo năng lực khai khẩn, chính nhờ vào chính sách khuyến khích giúp đỡ của chính quyền trong việc khai hóa đất đai mà lãnh thổ dần dần được mở rộng. Chỉ hơn 10 năm ở trấn, nhờ thi hành “chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang” mà mọi người dân đều an cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Chúa đã biến Thuận Hóa trở nên một nơi đô hội lớn(1).
Bên cạnh việc lo cho dân có một đời sống sung túc, ông còn có chiến lược xây dựng và phát triển nền Phật giáo của xứ Đàng trong để làm chỗ dựa tinh thần cho người dân. Đây là một thắng lợi lớn về mặt thu phục nhân tâm. Từ một người có tư tưởng ít thân thiện với các nhà sư, ông đột ngột chuyển sang ái mộ đạo Phật, “khuyên người làm việc thiện… để cho dân thấy ông cũng là một phật tử được thiên mệnh phó thác để chuyển hồi long mạch về cho toàn xứ”(2).
Năm Tân Sửu 1601, ông cho làm lại chùa Thiên Mụ ở đồi Hà Khê. Năm Nhâm Dần 1602, Nguyễn Hoàng đến chùa Thiên Mụ tổ chức lễ Trung Nguyên cúng Phật, niệm kinh giải oan cầu phúc, tế độ chúng sinh. Cùng năm đó Chúa Tiên sai người xây dựng “Sùng Hóa tự” trên nền cũ của một am miếu nhỏ. Năm Quý Mão 1603, Chúa tổ chức đại lễ Phật Đản tại chùa này. Trong ngày lễ ấy, thần dân thiên hạ kéo đến xem hội rất đông, ai nấy đều tấm tắc ngợi khen, cho là “khá sánh với hội lớn vô già, mọi bề công đức hoàn thành, lòng Chúa hết mực thư thái. Từ đó Chúa rộng mở thi hành nhiều việc chính sự giáo hóa, ơn chăm trăm họ, bề tôi thán phục vui lòng, các nước láng giềng đều đến thăm, thiên hạ xưng tụng cho là bậc vua sáng ở đời thái bình”(3).
Năm 1609, Nguyễn Hoàng cho dựng chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trên nền ngôi chùa cũ có từ thời nhà Mạc. Năm 1602, sau khi dựng xong dinh trấn Quảng Nam ở xã Cần Húc, Chúa cho dựng chùa Hưng Đông ở mé Đông của trấn. Năm 1607, cho dựng chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu, Quảng Nam…
Là một trong những vị thống lĩnh sống thọ nhất trong lịch sử nước Việt, lúc 74 tuổi ông vẫn xông pha chiến trường, vì vậy ngoài chiến tích lừng lẫy ông còn chiếm kỷ lục về số lần lập công. Vào năm 1572, ông có trận thắng tưng bừng trước quan quân Đàng Ngoài: “Tướng trấn giữ xứ Hải Dương là nguỵ Lập Quận công, đem thuỷ quân gồm hơn bảy mươi chiến thuyền, cùng nguỵ Tiên Quận công – Trịnh Cối làm hướng đạo, đi đường biển vào đánh cướp xứ Thuận Hoá và xứ Quảng Nam, thổ dân nhiều người ra hàng. Nguyễn Hoàng bày kế đánh lừa chém Lập Quận ngay giữa sông… Từ đấy, quân họ Mạc không dám nhòm ngó tới hai xứ Thuận Quảng”(4). Với chiến công này năm 1573, vua Lê Trang Tông sai người đến Thuận Hoá phong Đoan Quận công Nguyễn Hoàng làm Thái phó.
Cũng trong giai đoạn này, vùng biên giới phía Nam thường xuyên bị quân Chàm quấy nhiễu. Để ổn định tình hình, năm 1578 Nguyễn Hoàng cử Thiên Vũ vệ đô chỉ huy sứ Lương Văn Chánh đem binh chinh phạt, “đánh lấy được Hồ Thành… thăng làm quan trấn An Biên huyện Tuy Viễn”(5), bảo vệ lãnh thổ nơi địa đầu.
Sau khi nhà Mạc bỏ chạy lên Cao Bằng, vua Lê thu hồi được Đông Đô, tháng 9 năm Kỷ Tỵ 1569, sau 11 năm ở trấn, Nguyễn Hoàng về Thanh Hóa chầu vua Lê Anh Tông, yết kiến thượng tướng Trịnh Kiểm và thăm lăng mộ tổ tiên. Lúc nầy ông được phong “làm Tả đô đốc ở Trung quân đô đốc phủ, giữ công việc trong phủ, hàm Thái uý, tước Đoan Quốc công, Tổng đốc tướng sĩ bản doanh, thống lãnh quân thuỷ ở các xứ Nam đạo và 300 chiếc thuyền cả lớn lẫn nhỏ”(6), tiến đánh và dẹp yên giặc biển.
Tháng 2 năm Bính Thân 1596 và tháng 4 năm Đinh Dậu 1597 ông đã hai lần cùng với vua Lê Thế Tông lên tận trấn Nam Quan hội khán với quan binh nhà Minh về các thể thức bang giao. Năm 1598 trong một trận chiến mưu trí ông bắt sống tướng Thuỷ Quận công và phá tan phòng tuyến quân Mạc ở Thuỷ Đường (Hải Dương)(7), Cũng trong thời gian này tuy đã 69 tuổi ông vẫn tiên phong “đánh đảng giặc ở Sơn Nam và Hải Dương, miền Bắc thì đánh Thái Nguyên, miền Tây thì đánh Tuyên Quang”(8).
Năm Canh Tý 1600, nhận thấy đã ở quá lâu trên đất triều đình mà ngờ rằng bị họ Trịnh giam chân kiềm chế, lấy cớ rằng vì “có công to, Trịnh Tùng thấy thế mang lòng ghen ghét”(9) , nhân lúc các tướng nhà Lê là Phan Ngạn, Ngô Đình Nga và Bùi Văn Khuê làm phản, Nguyễn Hoàng “giả thác là xin quân đuổi đánh, phóng hoả đốt hết doanh trại rồi xuống thuyền trốn về Quảng Nam”(10).
Trở lại nơi mình đã trấn thủ. Năm 1611, Chiêm Thành quay trở lại càn quấy vùng biên giới Hoa Anh. Lần này, chúa Nguyễn cử tướng Văn Phong đi dẹp. Vua Chiêm Thành thua trận bỏ chạy về phía Nam Đèo Cả. Nguyễn Hoàng sáp nhập thêm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân vào phủ Phú Yên, một lần nữa vùng cương thổ phía Nam được mở rộng.
Cũng trong khoảng thời gian này, cùng với sự giúp sức của hai gia tướng người Việt gốc Chăm là Vũ Thì An và Vũ Thì Trung, Nguyễn Hoàng đã cho khai mở và quản lý quần đảo Hoàng Sa, tạo nên một phên dậu che chắn cho đất nước trong việc phòng chống giặc ngoại xâm. Đây là một tầm nhìn chiến lược mà không phải quốc gia nào thời bấy giờ ở vùng lân cận cũng làm được.
Để kết luận cho tầm vóc của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng trong chiến lược ngoại giao, thu phục nhân tâm cũng như đã lập nhiều chiến công hiển hách trong suốt sự nghiệp gầy dựng đặt nền móng cho vương triều nhà Nguyễn, chúng ta hãy xem qua những lời nhận xét về ông qua nhiều nhân vật nổi tiếng (kể cả người đối lập) đã được các sử gia đương thời ghi lại. Đây là lời trình tấu của Trịnh Kiểm với vua Lê Anh Tông: “Xứ Thuận Hoá là một kho tinh binh trong thiên hạ… Vậy nên hết sức bảo vệ, để làm một bức bình phong vững chắc… Hạ thần xét thấy con trai thứ của Chiêu Huân Tĩnh công là Nguyễn Hoàng, là một người trầm tĩnh cương nghị, lại có mưu lược, đối với quân sĩ có độ lượng khoan dung giản dị. Vậy xin bổ ông làm trấn thủ, để trị an nơi biên thuỳ và chống giặc ở miền Bắc kéo vào… Hết thảy các việc to nhỏ ở địa phương ấy, xin đều để ông được tuỳ nghi định đoạt; lại xin uỷ cho ông thu các sắc thuế, nộp về triều đình đúng kỳ hạn, để thêm vào sự chi tiêu trong nước. Như vậy thì một vùng Ô Châu, khỏi phải để ý lo tới, hạ thần sẽ khỏi phải phân tâm, mà chỉ dốc hết ý chí về việc Đông chinh… Nghiệp trung hưng có thể sớm thành công”(11).
Nhận xét về chính sách kỹ trị của Nguyễn Hoàng, sử gia Lê Quế Đường hết lời khen ngợi: “Chính sự khoan hoà, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yêu tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp”(12).
Đây là lời Bình An vương Trịnh Tùng (lúc này đã trở thành chỉ huy lực lượng đối lập) nói với tướng sĩ: “Đoan Quốc công trấn thủ Thuận Quảng hơn 30 năm, vốn được lòng quân dân, nay trốn về trấn cũ, như cá về biển cả, chim về rừng sâu, không thể khống chế được nữa. Thiên hạ đương có biến, kinh sư không yên, ta phải bỏ mặc xứ Thuận Quảng không ngó tới, chỉ lo về phía Đông. Ông ta là công thần cũ, lại là người chí thân với ta, hãy viết thư khuyên bảo ông ta nếu ông ta chịu nghe, không có mưu đồ khác, thì việc lớn có thể xong được”(13).
Nhận định về tài năng của Nguyễn Hoàng khi so sánh với các trấn thủ khác trong giai đoạn Trịnh Kiểm qua đời: “Trong nhà lục đục, hai xứ Thanh Hoá và Nghệ An đều rúng động, duy hai xứ Thuận Quảng vẫn yên lặng”(14). Đây là bức tranh toàn cảnh khi nói về hai vùng đất bị quân Mạc đột nhập giữa năm 1571: “Viên thổ tướng là Nguyên Quận công Nguyễn Bá Quýnh (trấn thủ Nghệ An), vừa nghe tin quân giặc kéo đến, đã vội vàng chạy trốn trước. Xứ Thuận Hoá và xứ Quảng Nam cũng dao động, nhưng viên tướng trấn thủ Nguyễn Hoàng, sẵn có uy danh, lại nhiều mưu lược quyền biến, khống chế trong hạt bằng quân luật nghiêm khắc… Bởi thế quân họ Mạc không thể phạm tới hai xứ này”(15).
Như vậy, kể từ khi Nguyễn Hoàng đặt chân đến Ái Tử cho đến khi ông qua đời, bằng tài năng của mình, với chính sách thu phục nhân tâm đúng đắn, đối sách ngoại giao khôn khéo cũng như khả năng lãnh đạo, tài cầm quân kiệt xuất, Chúa Tiên đã xác lập chủ quyền trên một vùng lãnh thổ rộng lớn, mở mang bờ cõi nước nhà. Với kế sách chiến lược mang đậm dấu ấn lịch sử, ông đã chủ động nắm bắt và hoàn thành trọng trách của người khởi nghiệp, xây dựng lên một nền móng vững chắc cho sự thành công của vương triều Nguyễn sau này.
Chú thích:
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn (1962),  Đại Nam thực lục tiền biên.
(2) Hà Xuân Liêm và Thích Hải Ấn, Lịch sử Phật giáo xứ Huế, NXB TPHCM, 2001.
(3) Nguyễn Khoa Chiêm, Nam Triều công nghiệp diễn chí, Sở Văn hóa Thông tin TT- Huế, 1986.
(4, 7, 10, 11, 13, 15) Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử, tập III, NXB Khoa học xã hội, HN.
(5) Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, tập 1, NXB Thuận Hoá.
(6, 9) Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập II, NXB Giáo dục.
(8, 12, 14) Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, NXB Văn hoá – Thông tin, HN.
12/10/2023
KHÊ GIANG
Nguồn: Tạp chí Cửa Việt số 348
Theo https://vanvn.vn/

Doanh nhân Nguyễn Sơn Hà: Một tấm lòng son với đất nước

Doanh nhân Nguyễn Sơn Hà:
Một tấm lòng son với đất nước

Cụ Nguyễn Sơn Hà – một doanh nhân Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX biết vượt qua sự chèn ép, hiếp đáp của thực dân. Cụ đã khẳng định tài trí trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp – vốn là ngành độc quyền của người Pháp ngay khi nước nhà còn trong cảnh bị áp bức lầm than, nghèo nàn và lạc hậu.
Người Việt Nam đầu tiên chế tạo sơn dầu
Sinh năm 1894, trong một gia đình có 7 anh em, cụ Nguyễn Sơn Hà, quê quán huyện Quốc Oai (tỉnh Sơn Tây cũ – nay là Hà Nội). Cha mẹ cụ, vì thương nhớ vùng quê Sơn Tây nên đặt tên con là Sơn Hà, một cái tên kết nối 2 vùng quê hương: Sơn Tây – Hà Nội.
Trong thời loạn lạc thì đó cũng là tâm niệm của đấng sinh thành gởi gắm nơi người con trai. Cha mất sớm, gia đình đông anh em nên việc học hành của cụ bị gián đoạn năm mới 14 tuổi. Từ nhỏ, Nguyễn Sơn Hà đã được học cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ, nhưng do hoàn cảnh gia đình, cụ đã phải bỏ học để đi làm.
Nhờ biết chữ, người thanh niên Nguyễn Sơn Hà xin được vào làm phụ bàn giấy cho một hãng buôn của Pháp. Nhưng do lương thấp, anh đã bỏ sang làm cho hãng sơn dầu Sauvage Cottu ở Hải Phòng. Đây cũng là thời điểm đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của anh. Với ý định tự lập, làm giàu, chỉ một thời gian ngắn, Nguyễn Sơn Hà tự tìm cách sản xuất sơn, ban đầu bằng phương pháp thủ công, sau đó tiếp cận dần với kỹ thuật hiện đại.
Ngành sơn dầu được người Pháp du nhập vào Việt Nam từ thời thuộc địa. Đối với người Việt Nam thời đó, việc cạnh tranh với các hãng Pháp còn là một chuyện mơ hồ. Mấy ai dám mơ đến việc học nghề của người Pháp và cạnh tranh với chính họ? Nhưng Nguyễn Sơn Hà đã làm được điều đó, trở thành người Việt Nam đầu tiên chế tạo sơn dầu, sáng tác tranh bằng sơn dầu để phát triển mặt hàng của mình nổi tiếng khắp Đông Dương.
Không chỉ là một người kinh doanh giỏi, anh còn là một người Việt Nam tiêu biểu vì tính cần cù, vượt khó và sự yêu thương, nhân hậu đối với đồng bào, với những người làm công của mình.
Làm thư ký cho hãng sơn dầu nổi tiếng Sauvage Cottu, Nguyễn Sơn Hà lẳng lặng học nghề với quyết tâm sẽ gây dựng cuộc đời bằng nghề này. Anh để tâm học hỏi mọi việc lớn nhỏ, từ kỹ thuật chế tạo sơn đến tổ chức tiêu thụ sản phẩm…
Mỗi khi có thời gian rảnh rỗi, lúc chủ nhà đi vắng, anh lục lọi trong tủ sách kỹ thuật của nhà chủ, đọc những kỹ thuật về nghề sơn. Lúc này, muốn đọc sách kỹ thuật, Nguyễn Sơn Hà phải đêm đêm cặm cụi học thêm Pháp ngữ và cũng có đủ vốn liếng để học các sách về kỹ thuật sơn dầu.
Khi đã nắm được những bí quyết cơ bản của nghề sản xuất và kinh doanh sơn dầu, anh xin thôi việc. Nguyễn Sơn Hà bán chiếc xe đạp – tài sản lớn nhất khi khởi nghề, lấy tiền làm vốn, mở một cửa hàng nhỏ nhận việc quét vôi, quét sơn, kẻ biển…
Bề ngoài là vậy, nhưng anh lẳng lặng chế thử sơn dầu! Nhiều lần sản xuất thử, thất bại, Nguyễn Sơn Hà cùng các em của mình kiên trì rút kinh nghiệm, đào sâu nghiên cứu cách dùng nguyên liệu trong nước như dầu trẩu, nhựa thông, cây thầu dầu… Cuối cùng, Nguyễn Sơn Hà đã thành công!
Chất lượng sản phẩm – chữ tín lên hàng đầu
Những năm 1930, ở Việt Nam, bắt đầu từ Hải Phòng, hiệu sơn dầu của Nguyễn Sơn Hà đã xuất hiện và dám cạnh tranh với các hàng sơn của người Pháp và người Hoa. Với giá thành hạ, chất lượng tốt, mau khô và bóng đẹp, sản phẩm sơn của Nguyễn Sơn Hà ngày càng được khách hàng ngoài Bắc, trong Nam tín nhiệm.
Với những mặt hàng phong phú như sơn Résistanco A – B dùng cho sơn xe đạp, sơn Durolac để sơn ô tô, sơn Ideal dùng sơn các vật dụng thông thường…, sau một thời gian ngắn, sản phẩm sơn của Nguyễn Sơn Hà đã cạnh tranh được với cả sơn của hãng Sauvage Cottu, sơn Ripholin nhập từ Pháp sang…
Sau khi có đươc tiếng tăm nhất định, cụ Nguyễn Sơn Hà không hề chủ quan vào thành quả của mình, mà luôn nghĩ đến chất lượng sản phẩm và chữ tín đối với khách hàng. Có  lần nghe một khách hàng từ Sài Gòn ra, phàn nàn sơn Résistanco lâu khô, cụ đã đích thân bay vào Sài Gòn, kiểm tra và phát hiện được nguyên do. Người công nhân nấu dầu non, mẻ dầu chưa đạt, nhưng sợ không kịp thời hạn giao hàng nên liều đem pha chế sơn gởi đi. Lập tức, cụ cho đóng sơn quay lại nhà máy tại Hải Phòng và thông báo cho tất cả khách hàng đã mua mẻ sơn đó đến hãng đổi lại.
Luôn có loại sơn chất lượng cao, lại giữ được chữ tín với khách hàng nên hãng sơn của cụ nổi tiếng khắp Đông Dương. Cụ nhanh chóng trở thành một doanh nhân giàu có, thành đạt, được giới kinh doanh xưng tụng là “ông tổ ngành sơn dầu Việt Nam”.
Không chỉ nổi tiếng với công việc làm sơn, cụ Nguyễn Sơn Hà còn sản xuất được lương khô và thuốc ho. Lương khô theo công thức chế tạo của cụ, vừa đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cần thiết, lại vừa bảo quản được lâu ngày mà không bị mốc.
Cụ đã chưng cất tinh dầu của lá cây khuynh diệp để chế ra một loại kẹo ngậm chống ho, gọi là “Pastille Valda” (tên do cụ đặt), được Vệ Quốc quân sử dụng…
Cụ Nguyễn Sơn Hà trở thành niềm tự hào của người Việt Nam, từ tay trắng làm nên sự nghiệp, khẳng định tài trí của người Việt. Như lời của thy sỹ Phan Bội Châu viết trong câu đối tặng cụ Nguyễn Sơn Hà:
Hóa học bác Âu trường, tô điểm sơn hà tâm hữu tất
Công khoa tồn Việt chủng, chuyển di thời thế thủ vi cơ.
Tạm dịch:
Lấy hóa học người Âu điểm tô cho sông núi bởi tấm lòng son sẵn có
Làm công nghệ đất Việt, đổi thay thời thế từ tay trắng làm nên.
Uy tín với cách mạng – một đời tâm huyết
Năm 1939, trong một lần công tác vào Nam, Nguyễn Sơn Hà cùng vợ tới thăm cụ Phan Bội Châu (khi đó đang bị thực dân Pháp quản thúc tại Huế). Cuộc gặp gỡ nhà cách mạng kiên trung đã tác động sâu sắc đến bầu nhiệt huyết, lý tưởng dâng hiến cho dân tộc ở cụ. Trở về, cụ Nguyễn Sơn Hà giành nhiều sự giúp đỡ cho cách mạng.
Với vai trò một nhà tư sản uy tín trong giới công thương thành phố, cụ Nguyễn Sơn Hà tranh thủ sự vị nể của thực dân để tham gia các hoạt động xã hội có lợi cho nước, cho dân. Cụ tranh cử Hội đồng Thành phố với ý định vào để có thế đấu tranh đòi thực dân Pháp cải cách xã hội. Cụ hăng hái lao vào các hoạt động của Hội Trí tri, Hội Ánh sang; thành lập Ban Cứu tế, Chi hội Truyền bá Quốc ngữ với mong muốn mở mang dân trí, thức tỉnh lòng yêu nước cho dân mình.
Cùng với Hội Truyền bá Quốc ngữ, cụ Nguyễn Sơn Hà còn tham gia thành lập các cơ sở từ thiện. Ngay bên cạnh khu biệt thự của gia đình trên đường Lạch Tray, cụ mở Trường Dục Anh, nuôi dạy các cháu nhỏ lang thang, cơ nhỡ.
Những đứa trẻ lớn lên từ ngôi nhà chung này, đã trở thành những công dân hữu ích cho đất nước. Họ vẫn khắc nhớ công ơn của người đã cưu mang, đem đến hạnh phúc cho mình trong một đoạn đời cơ cực.
Cách mạng tháng Tám thành công. Trong niềm vui của cả dân tộc thoát khỏi trăm năm nô lệ cùng cực, cụ Nguyễn Sơn Hà đã thấy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc và mong muốn mình được góp phần.
Được nhân dân Hải Phòng tín nhiệm bầu vào Quốc hội đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cùng với các ông Nguyễn Đình Thi và Trương Trung Phụng, cụ Nguyễn Sơn Hà hăng hái lao vào nhiệm vụ mới. Trong hồi ức có tựa đề “Tay trắng làm nên” của cụ Nguyễn Sơn Hà, có thuật lại rằng, được làm đại biểu của dân trong một quốc gia độc lập, cụ rất tự hào “nhưng đồng thời cũng là điều khiến cho tôi lo lắng về trách nhiệm trước nhân dân”.
Trong dịp Thành phố tổ chức “Tuần lễ vàng”, gia đình cụ tiêu biểu đi đầu phong trào bằng việc đóng góp 105 cây vàng. Niềm say mê và tâm huyết xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ khiến cụ coi nhẹ công việc kinh doanh – vốn đã mang lại cuộc sống giàu sang cho mình.
Cụ vận động các tầng lớp công thương ủng hộ cách mạng; thành lập Việt Nam Võ khí công ty – cơ sở đúc súng đạn phục vụ cho phong trào tự vệ của thành phố.
Song, những ngày tự do chẳng được bao lâu. Ngày 20/11/1946, thực dân Pháp quay lại tái chiếm Hải Phòng, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ 2.
Trong khỏi lửa, loạn lạc những ngày đầu giặc chiếm đóng, cụ Nguyễn Sơn Hà đau xót nhận được tin người con cả Nguyễn Sơn Lâm hy sinh ở mặt trận Đông Khê.
Mất mát, đau thương thổi bùng quyết tâm đi theo cách mạng. Bỏ lại cả gia sản lớn ở Hải Phòng, cụ Nguyễn Sơn Hà mang theo gia đình lên Chiến khu Việt Bắc. Giã từ cuộc sống đầy đủ của một ông chủ giàu có, cụ hòa vào cuộc sống vất vả, thiếu thốn của những người dân tản cư nơi núi rừng xa xôi, tạo lập cuộc sống giản dị bằng đôi bàn tay lao động cần cù.
Cách mạng đã mang đến cho cụ hoài bão và lý tưởng sống mới…
Từ một người học việc, bằng ý chí và lòng quyết tâm muốn gây dựng một sản phẩm chất lượng của người Việt, cụ Nguyễn Sơn Hà đã trở thành ông tổ của nghề sơn Việt Nam với hãng sơn Gecko danh tiếng. Không chỉ là một doanh nhân giỏi, cụ Nguyễn Sơn Hà còn là một người có lòng yêu nước sâu sắc với rất nhiều đóng góp và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, cũng như xã hội của dân tộc Việt Nam… Cụ Nguyễn Sơn Hà là người khai sinh nghề sản xuất sơn ở nước ta, có nhiều đóng góp cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, cũng như cho cộng đồng cùng với một số doanh nhân khác như Bạch Thái Bưởi, Trịnh Văn Bô, Trương Văn Bền, Nguyễn Đình Khánh… Năm 2010, căn nhà 49 – Lạch Tray (Hải Phòng), nơi cụ cùng gia đình đã sinh sống trong nhiều thời kỳ – được Nhà nước xếp hạng Di tích Văn hóa.
Một đời mang tấm lòng son với đất nước
Tám năm dưới núi rừng Việt Bắc, lúc Phương Đô, Phúc Trìu, Hà Lải, lúc Đồng Bẩm… là quãng thời gian trải bao vất vả, thăng trầm, nhưng con người năng động và sáng tạo ấy vẫn luôn say sưa tìm tòi, vẫn dồi dào nghị lực và sáng kiến.
Trong điều kiện thiếu nguyên liệu và phương tiện máy móc, cụ bắt tay vào nấu dầu thảo mộc, sản xuất mực in lito, làm giấy than, áo tơi đi mưa, băng cách điện… phục vụ cách mạng và đồng bào vùng kháng chiến.
Những nỗ lực đóng góp của cụ luôn nhận được sự ủng hộ, ghi nhận của các đồng chí lãnh đạo cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều lần đã viết thư động viên, khen ngợi cụ.
Khi nước nhà dành độc lập, người doanh nhân yêu nước này đã hiến toàn bộ tài sản của mình cho Chính phủ Cụ Hồ và cùng gia đình tham gia kháng chiến tại Thái Nguyên. Cụ đã nghiên cứu chế ra vải đi mưa cho bộ đội, chế loại dầu để lau bảo trì súng, dầu ăn… phục vụ kháng chiến, góp phần vào chiến thắng của cuộc kháng chiến 9 năm.
Hòa bình lập lại ở miền Bắc, trở về Hà Nội, cụ Nguyễn Sơn Hà tiếp tục được bầu vào Quốc hội các khóa II, III, IV. Mong ước xây dựng nền công nghiệp dân tộc vẫn thôi thúc cụ trong mỗi bước đi, mỗi công việc dám nghĩ, dám làm.
Nhiều ý kiến trình Quốc hội của cụ có giá trị lâu dài với lịch sử như việc xây dựng cảng nước sâu ngoài Bãi Cháy (Quảng Ninh) – đã thành hiện thực hôm nay…
Đúc kết lại cả cuộc đời làm kinh doanh của mình, có thể nói, trong những yếu tố tạo nên thành công khi phát triển sản xuất, kinh doanh, cụ Nguyễn Sơn Hà đặc biệt đề cao nguyên tắc “lấy nhân dùng nhân”. Nói cách khác, cụ Nguyễn Sơn Hà đã thành công trong con đường phát triển sản xuất, kinh doanh không chỉ bằng “trí tài”, mà còn bằng “tâm sáng”.
Để gắn bó người tâm phúc theo mình, cụ mua hàng trăm ha ruộng đất ở Kinh Môn (Hải Dương) cấp cho vợ con họ cày cấy, số thóc thu được, cụ đem bán rẻ cho anh em công nhân những ngày khó khăn. Mến cách ứng xử bao dung của người chủ tài năng, có người thợ giỏi từng làm công trong hãng sơn người Pháp, đã bỏ sang làm việc cho hãng sơn Nguyễn Sơn Hà.
Một đời “tay trắng làm nên”! Nhưng hơn cả là một đời mang tấm lòng son với đất nước, nhân dân, cụ đã để lại những bài học quý cho thế hệ trẻ trên con đường xây dựng tương lai. Cụ đã và sẽ sống mãi trong lòng nhân dân thành phố hoa phượng đỏ, trong đất Việt văn hiến ngàn đời.
Cả đời tâm huyết với nghề làm sơn, những năm cuối đời, cụ Nguyễn Sơn Hà vẫn tiếp tục nghiên cứu để sản xuất sơn máy bay. Tuổi cao, tay run và mắt không còn tinh anh, lại thêm bệnh cao huyết áp, người thương gia danh tiếng ấy vẫn miệt mài cho công việc viết sách và truyền dạy những kinh nghiệm quý cho lớp trẻ, góp phần xây dựng ngành công nghiệp sơn nước nhà.
Giờ đây, trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam không ngừng phát triển – đã làm được những sản phẩm mà khi còn sống – chắc ông chủ Hãng “Résistanco” vô cùng mơ ước. Và trong ngành nghề sản xuất các loại sơn công nghiệp, cụ Nguyễn Sơn Hà xứng đáng là tổ nghề sơn của nước ta.
13/10/2023
HƯƠNG THỦY
Nguồn: Thương Hiệu và Công Luận
Theo https://vanvn.vn/

Lê Sát - Vị tướng tài và cái chết oan nghiệt

 Lê Sát - Vị tướng tài
và cái chết oan nghiệt

Là 1 trong 35 vị khai quốc công thần được Lê Thái tổ ngự danh trong “Lam Sơn thực lục” (xếp theo thứ tự trong bản Ngự danh), Lê Sát, người làng Bỉ Ngũ, thuộc Lam Sơn, huyện Thọ Xuân. Cả đời ông gắn bó với giai đoạn hưng thịnh của nhà Lê sơ. Đánh giá về ông, bên cạnh những đóng góp thì vẫn còn đó câu hỏi về cái chết oan nghiệt của ông.
Ngay từ những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1428), sau khi Lê Lợi xưng Bình Định vương khởi binh, Lê Sát đã tham gia và theo Lê Lợi trải bao gian hiểm.
Chiến thắng đầu tiên là năm Canh Tý (1420), nghĩa quân Lam Sơn đánh bại 10 vạn quân do Lý Bân, Phương Chính chỉ huy ở Thi Lang, Lý An, Phương Chính chỉ chạy thoát được thân mình. Tháng 12 năm đó, Lê Lợi tiến quân đóng ở sách Ba Lẫm, thuộc huyện Lỗi Giang, khiêu khích quân Minh ra đánh. Lê Lợi ngày đêm dùng nhiều cách tiến công uy hiếp để quân Minh mỏi mệt, rối loạn, rồi sai Lê Sát, Lê Hào chia nhau tiến đánh, cản phá bọn giặc, thu được rất nhiều chiến cụ, từ đó thế giặc ngày một suy. Hay như trận Khả Lưu, năm Giáp Thìn (1424), mà Lê Quý Đôn khẳng định trong “Đại Việt thông sử”: “Từ đó thế quân lừng lẫy”. Bằng cách giả trốn đi, rồi quay lại theo đường tắt, ngầm đợi quân Minh đến rồi tung phục binh ra đánh. Trận chiến này, Lê Sát cùng các tướng lĩnh khác đã khiến quân Minh tan vỡ, chém chết đô ty Hoàng Thành, bắt sống đô đốc Chu Kiệt cùng hàng nghìn người; vật tư, khí giới, thuyền bè thu được không sao kể xiết.
Ở trận vây thành Tây Đô năm Ất Tỵ (1425), Lê Lợi sai chọn 2.000 quân tinh nhuệ, 2 thớt voi, Lê Lễ, Lê Sát, Lê Nhân Chú và Lê Triện, Lê Bị đi gấp theo đường đất đánh úp thành, bắt sống được rất nhiều quân Minh.
Sau khi đánh bại 10 vạn quân Vương Thông ở trận Tốt Động, Chúc Động, tháng 6-1427, Lê Sát được thăng làm Tư mã, Lê Lợi sai ông cùng Thái úy Trần Nguyên Hãn đánh gấp thành Xương Giang, tháng 9 đã chiếm thành. Đặc biệt, tháng 10-1427 âm lịch, quân Lam Sơn tổng tấn công, thắng quân Minh một trận lớn, tiêu diệt 5 vạn địch, bắt sống Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng hơn 3 vạn quân. Trong chiến dịch này, sử gia Lê Quý Đôn cho rằng “công Lê Sát đứng đầu các tướng”.
Với những chiến công ấy, năm Thuận Thiên thứ nhất, Mậu Thân (1428), Lê Sát được ban hiệu Suy trung Tán trị Hiệp trung mưu quốc công thần. Nhập nội Kiểm hiệu Tư khấu Bình chương quân quốc trọng sự. Tháng 5, ngày mồng 3, năm 1429 ban biển ngạch công thần cho 93 viên, Lê Sát được phong Huyện thượng hầu, công hàng thứ nhất.
Năm Thuận Thiên thứ 2 (1429), Lê Sát cùng 6 vị đại thần khác được lệnh của vua Lê Thái tổ mang kim sách lập quốc vương Lê Tư Tề và Hoàng thái tử Lê Nguyên Long.
Lê Sát được sự tín nhiệm của Lê Thái tổ trong việc ủy thác phò trợ con nhỏ là thái tử Lê Nguyên Long mới lên 10 tuổi. Năm 1433, Lê Thái tổ gia phong ông làm Dương Vũ tĩnh nạn công thần, thăng Đại tư đồ, phong là 1 trong 3 vị tể tướng đương triều ngang hàng Phạm Vấn – Lưu Nhân Chú, cùng phò thái tử Lê Nguyên Long.
Khi Lê Thái tổ mất (tháng 8.1433 âm lịch), Hoàng thái tử Lê Nguyên Long kế vị, trở thành vị hoàng đế thứ hai của Nhà nước Hậu Lê với niên hiệu Lê Thái tông. Với vị trí chỉ dưới một người, trên vạn người, lại sẵn tính tình nóng nảy, vì thế Lê Sát từ một công thần ngày càng trở thành cái gai trong mắt Lê Thái tông.
“Đại Việt sử ký toàn thư” đã chép lại một số việc liên quan đến Lê Sát như vu cáo độc hại Tư Khấu Lưu Nhân Chú, đuổi em của ông là Lê Khắc Phục từ chức Hành khiển Nam đạo ra làm phán đại lý chính; bắt thợ và dân phu phục dịch làm chùa Báo Thiên rồi chùa riêng cho mình; bị người vụng trộm nói xấu thì đem ra chém dù vua cũng đã có ý muốn tha, tự ý lạm dụng tư hình, hành hình tra tấn kẻ khác ngay trên điện; nâng đỡ phe cánh của mình, đuổi hoặc biếm chức những người bất đồng chính kiến ra ngoài…
Sự ghét bỏ của vua Thái Tông đối với Lê Sát càng ngày càng lớn và chỉ muốn loại trừ ông. Tiếc là Lê Sát quá mải mê, say sưa với quyền lực mà quên cả việc đề phòng hậu họa.
Trong chiếu bãi chức Lê Sát, Lê Thái tông hạ rằng: “Lê Sát tự chuyên giữ quyền bính, ghen ghét người tài, giết Lưu Nhân Chú để ra oai của mình, truất Trịnh Khả để người ta phục, bãi chức của Ư Đài khiến đình thần không ai dám nói, đuổi Cầm Hổ ra nơi biên thùy để gián quan phải ngậm miệng. Xem thảy việc làm đều không phải đạo làm tôi. Nay muốn khép vào luật hình để rõ phép nước, song vì là cố mệnh đại thần, có công với nước, đặc cách khoan tha, nhưng phải bãi chức tước”.
Sau khi bãi chức Lê Sát, vua Lê Thái tông còn ban chiếu xử tử với nguyên do: “Lê Sát nay lại ngầm nuôi võ sĩ, mưu hại trung lương, mưu kế hiểm giảo, giấu tích gian phi ngày càng lộ ra, đáng chém để nêu gương”. Lê Thái tông cho ông được tự vẫn tại nhà (1437). Vợ con và điền sản của ông bị tịch thu, những người cùng phe hoặc từng nói đỡ tội cho ông cũng bị phạt.
Xét một mặt nào đó có vẻ như cái án này là quá lớn với Lê Sát, một người đã nhiều năm ở vai trò cố mệnh đại thần, quan phụ chính dìu dắt Lê Thái tông từ thuở 11 tuổi lên ngôi vua, nhưng lại dễ dàng chết oan nghiệt.
16 năm sau (năm 1453), vua Lê Nhân tông đại xá, cấp cho con cháu ông 100 mẫu ruộng để thờ tự. Đến đời vua Lê Thánh tông (năm 1484), Lê Sát được truy tặng là Thái Bảo, Cảnh Quốc Công.
Cuộc đời và sự nghiệp của Lê Sát đánh dấu một giai đoạn lịch sử hưng thịnh của triều Lê, đồng thời cũng thể hiện vai trò của một võ tướng, ít toan tính nên dẫn đến cái chết. “Ông là người có công đầu mở nước, bị chết không đáng tội, thiên hạ cho là oan”.
Sau khi chết, thi thể của ông được đưa đi chôn ở 7 nơi, cụ thể về 7 địa điểm thì chưa rõ. Trong đó, ngay tại quần thể Khu di tích lịch sử Lam Kinh (căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn), đền Ngọc Lan ngoài thờ công chúa Ngọc Lan còn có thờ Lê Sát và 6 vị khai quốc công thần nhà Hậu Lê.
Ngoài ra, tại thôn Duyên Lộc, xã Định Hải (Yên Định), nơi Lê Sát về lập ấp và cùng vợ sinh sống ở đây cho đến khi qua đời, đến nay vẫn còn bia mộ ông. Về thôn Duyên Lộc hôm nay, chúng tôi không khỏi ngậm ngùi khi nhìn thấy bia mộ ông được khoanh vùng trong phần đất của gia đình bà Trịnh Thị Đậu. Ông Lê Xuân Nông, trưởng thôn Duyên Lộc rất tự hào nói: Dù đây không phải nơi sinh ra nhưng đã được tướng Lê Sát lựa chọn lập ấp. Đất lành chim đậu, sau khi đến nơi này, ông đã lập nên nghề đúc lưỡi cày của làng. Bên cạnh bia mộ Lê Sát, hiện nay ở thôn còn có nhiều công trình kiến trúc, văn hóa khác. Đặc biệt, hàng năm vào ngày rằm tháng 2, Nhân dân trong thôn thường tổ chức lễ hội kỳ phúc với mong ước cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Tuy vậy trưởng thôn cũng cho biết: Nhiều năm trước xã đã làm hồ sơ đề nghị cấp kinh phí trùng tu tôn tạo, thỉnh thoảng có người đến tìm hiểu, khảo sát rồi đâu vẫn vào đó. Nhân dân thôn Duyên Lộc rất mong các cấp chính quyền sẽ quan tâm hơn đến nhân vật Lê Sát, một tướng tài giữ vai trò quan trọng trong nhiều năm ở vương triều Lê.
14/10/2023
CHI ANH
Nguồn: Báo Thanh Hóa
Theo https://vanvn.vn/

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...