Hà Thanh: Tiếng hát của dòng sông xanh
Gọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sông
Gọi TRẦN KIÊM: họ sắc... không
Gọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang
Có hai gã Trần Kiêm lang bạt xa quê gặp nhau bên trời Tây
cùng nói về một nhân vật. Thi sĩ Kiêm Thêm nói về "mụ O" và tôi nói về
"bà Chị" nghệ sĩ của mình là ca sĩ Hà Thanh bằng một mẫu "sơ yếu
lý lịch" hợp soạn hòa âm rất chơn chất và... nên thơ như thế đó.
Thuở nhỏ ở làng Liễu Hạ, tôi thường lên mặt hãnh diện khi cuối
tuần ngồi quanh cái "Ra-dô" ở làng với bọn nhóc tì trong xóm nghe
chương trình ca nhạc của ban Việt Thanh [1] ở đài
phát thanh Huế, mà trong đó, Hà Thanh, bà chị họ của tôi, là ca sĩ... hát hay
nhất. Nhóm bình luận gia âm nhạc chân đất làng tôi từ sáp nhỏ cho đến người
lớn chẳng biết có mang hội chứng "trái ấu" [2] hay không
nhưng ai cũng xuýt xoa khen giọng hát Hà Thanh thuở đó là "hay nhứt xứ."
Làng Liễu Hạ và họ Trần nhà tôi -- có lẽ luôn cả Huế -- hầu hết
là những rặng thông già kẻ sĩ không lớn kịp với mùa Xuân nghệ sĩ đang lên. Đó
là hiện tượng nghịch lý rằng, ai cũng mến mộ giọng hát của Hà Thanh, nhưng lại
ái ngại khi một cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế, ái nữ của một gia đình nho phong
"êm đềm trướng rủ màn che" trở thành ca sĩ. Nhất là dòng họ Trần Kiêm
chúng tôi có bác Trần Kiêm Phổ làm trưởng tộc thì lại càng quan tâm nhiều
hơn. Bác "Trợ Phổ", thân phụ của chị Hà Thanh, với dung mạo uy
nghi, thường cầm cân nẩy mực cho cả dòng họ, nay lại cho phép chị Hà đi hát
công khai trên đài phát thanh, thì quả là một cuộc "đại cách mạng"
trong quan niệm truyền thống còn mang nhiều định kiến của đất lề quê thói rất
Huế đương thời.
Ngày đó, khu nhà vườn cổ kính ở mé này nhánh sông Hương nối
liền với sông An Cựu nắng đục mưa trong; ngó qua mé bên tê sông là trường
Pellerin vẫn thường được giới nam nhi Huế ròng và Huế "bậu" -- bắt
chước Lan Đình gọi là "Vườn Thúy Hạnh"[2*] --
vì một nhà mà có nhiều hơn cả "ngũ long công chúa", đều mang tên chữ
có bộ thảo và rất chi là... tường Đông ong bướm đi về mặc ai: Tố Cần,
Hà Thanh, Phương Thảo, Liên Như, Thúy Vy, Bạch Lan, Hoàng Mai.
Đời nghệ sĩ của Hà Thanh bắt đầu từ năm 1953, lần đầu đài
Phát Thanh Huế mở một cuộc tuyển lựa ca sĩ với quy mô lớn. Anh Trần Kiêm
Tịnh biết cô em gái mình có giọng hát hay quá nên đã dắt em đi thi. Điều
kiện ghi danh dự thi là phải từ 15 tuổi trở lên. Ngày đó, Lục Hà, cô nữ
sinh áo trắng nón bài thơ Huế mới 14 tuổi, nên phải "kiếm thêm một tuổi trời
cho" nữa mới đủ tuổi dự thi và kết quả đứng đầu cuộc thi. Tuy ông cụ
thân sinh chị Hà Thanh là người theo Tây học với tinh thần cởi mở phương Tây,
nhưng "phương Tây Huế" thuở đó cũng vẫn còn trong mẫu mực nho phong.
Nhạc sĩ Ngô Ganh là giám đốc đài phát thanh Huế đương thời, phải dùng uy tín của
mình đến nhà năn nỉ, rằng: "Học hành thì đứa nào học chẳng được,
nhưng còn cái tài của cháu Hà Thanh là một tài năng độc đáo, có giá trị trong cả
nước Việt Nam. Nếu không cho đi hát thì tài năng sẽ bị mai một đi, uổng lắm." Ông
cụ nghe lời minh giải hợp lý nên cho đi hát ở đài phát thanh mà thôi, không hát
ở phòng trà hay sân khấu. Từ đó, tiếng hát Hà Thanh đã vọng ra xa hơn bên
ngoài rào dậu Vườn Thúy Hạnh.
Người ta vừa thưởng thức giọng hát thanh thoát, mượt mà (uyển
thanh) như tiếng sông Hương đang lên của Hà Thanh; nhưng đồng thời cũng vừa
quan sát nàng ca sĩ xứ Huế đó như một hiện tượng.
Nói về giọng hát thiên phú của Hà Thanh đã có rất nhiều văn
nhân, thi sĩ, nhạc sĩ... nhiệt thành khen tặng. Một vị thầy âm nhạc của
tôi ở trường Hàm Nghi Huế là nhạc sĩ Văn Giảng (cũng ký tên là Thông Đạt, tác
giả Ai Về Sông Tương...) đã cho rằng, Hà Thanh là một ca sĩ tiêu biểu của Huế.
Chị có một giọng hát thanh tao, quý phái với mức thể hiện cường độ và trường độ
âm thanh vừa vặn, diễn cảm tuyệt vời. Đặc biệt là những luyến láy mềm mại
rất có hồn và gợi cảm trong tiếng ca. Luyến láy mà không làm điệu tới mức
uốn lượn quanh co thành ra làm dáng trình diễn là nét độc đáo nhất trong tiếng
ca Hà Thanh.
Nhân dáng, điệu bộ trình diễn và phong cách sinh hoạt đời thường
cũng như trong hội diễn vẫn bị xem là một "đại nghiệp dĩ" của người
ca sĩ. Nếu như nói theo Đào Uyển Minh, nhà phê bình nghệ thuật Đài Loan khi nhận
định về Quỳnh Dao, thì phong thái của một nghệ sĩ là "sự biểu hiện cụ
thể của một chuỗi phản ứng tâm lý có điều kiện khi tài năng thiên phú đối mặt
và tương tác với trình độ giáo dục, hoàn cảnh xã hội và xu hướng nghệ thuật của
thời đại"[3]thì quan niệm
nầy có vẻ sát hợp với Hà Thanh. Chị sinh ra và lớn lên ở Huế. Huế
được người đời nhớ nhung và yêu thương không chỉ vì Huế đẹp, Huế thơ mà còn vì
Huế là vùng đất của nhiều tai trời ách nước; chịu nhiều oan khiên và đổ vỡ tan
tác từ thuở công chúa Huyền Trân đổi mình cho Huế, áo xiêm phiêu bạt về Chiêm
quốc. Cho nên, hầu như tất cả nghệ sĩ xứ Huế đều không có sự biểu hiện táo bạo,
vỡ bờ, chinh phục để cuốn hút khách thưởng ngoạn qua dáng vẻ bên ngoài. Đấy
cũng là cảm nhận của Thu Bồn, một nhà thơ xứ Quảng: "... sông chảy
vào lòng nên Huế rất sâu."
Nhà thơ Nhất Tuấn, tác giả "Chuyện Chúng Mình" vang
tiếng một thời, nói về Hà Thanh như sau: "Tôi có dịp gặp Hà Thanh khi
làm quản đốc đài Phát Thanh Quân Đội (1968) tại Sài Gòn. Hà Thanh lúc đó
hát rất hay và xuất hiện thường xuyên trên các đài VOF, Mẹ Việt Nam, đài Sài
Gòn, đài Quân Đội. Hà Thanh càng ngày càng nổi tiếng. So với những
ngày còn ở Huế, sự giao thiệp của Hà Thanh có phần bạo dạn hơn đôi chút, nhưng
vẫn còn dè dặt và giới hạn lắm. Thời này Hà Thanh hát nhiều bài của Nhất Tuấn
do Phạm Duy, Đan Thọ, Hoàng Lan phổ nhạc. Đặc biệt là Hà Thanh hát rất nổi
tiếng những nhạc phẩm của Nguyễn Văn Đông và nhạc tiền chiến của Đoàn Chuẩn, Từ
Linh. Bài nào Hà Thanh hát lên cững làm người nghe rung động vì khi hát
nàng để hết tâm hồn vào lời thơ, ý nhạc của tác giả muốn gởi gắm trong
bài. Hà Thanh như 'nhập' vào bài hát để diễn tả, để làm toát lên giọng Huế
rất dễ thương."[4]
Tác giả Chuyện Chúng Mình mô tả Hà Thanh: "Dáng người
thanh tú, cao cao, nụ cười vui tươi luôn nở trên môi với nét mặt rạng rỡ.
Tính nết Hà Thanh nhu mì, hiền dịu, khác biệt trong giới nghệ sĩ."[5]
Và nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương đã "phong Huế" cho Hà
Thanh, rằng:
"Dáng nhỏ nhắn, thanh thoát, dịu hiền, khiêm tốn; tuy
tươi mát, thân tình nhưng cũng rất e dè và chừng mực của Hà Thanh là nét tiêu
biểu cho con người và phong thái của 'vùng đất khó'... Huế."[6]
Những góc nhìn và cách nhìn có thể khác nhau về một Hà Thanh
ca sĩ, nhưng hình ảnh và nhận định về một Hà Thanh hiện thực vẫn là chung nhất.
Đó là một Hà Thanh mà về hình tướng cũng như về phong cách sinh hoạt và trình
diễn văn nghệ rất tiêu biểu cho "tính Huế" đã ăn sâu trong từng nỗi
niềm nhớ Huế: Sâu lắng, nồng nàn, trang trọng, tài hoa.
Chị Hà Thanh sang Mỹ năm 1984. Có những cây cầu đã gãy
trong chiến tranh và những mối tình gãy đổ sau cuộc chiến. Trong cảnh "trải
qua một cuộc bể dâu", Hà Thanh tìm về với thiền học, thiền định và thiền
ca. Những bản nhạc Thiền do Hà Thanh hát hoặc vừa phổ nhạc thơ thiền, vừa
ca mang âm hưởng thâm trầm, gợi cảm mà gần gũi của nước "sông An Cựu Nắng
đục mưa trong" và sự lắng đọng thấm vào lòng người của hồi chuông Thiên Mụ.
Những khi buồn nhất và lắng lòng chiêm nghiệm từng vọng âm suy tưởng từ tâm
mình, tôi lại thích nghe thiền ca do Hà Thanh hát. Giọng hát đậm đà còn
mang cái gốc thanh âm giọng Huế của chị làm cho người nghe có cảm tưởng như
đang nghe những lời tự tình của Huế. Nghe Hà Thanh hát thiền ca, người ta
bỗng quên đi sự hiện hữu của thời gian đã làm cho đời phôi pha và quên luôn khoảng
cách thời gian làm nên tuổi tác của chị. Một cảm giác thanh tân, tươi mát
và lắng đọng đầy ắp lòng người chợt đến, chợt đi hay thấm đượm vào trong cảm
xúc.
Khán giả ái mộ Hà Thanh liên tưởng đến nguồn Thiền đang tưới
tẩm bản chất nghệ sĩ của chị khi chị xuất hiện gần đây trong các cuộc trình diễn
và thu băng gây quỹ từ thiện, cũng như trong các chương trình nhạc hội Asia,
Paris by Night với dáng vẻ trẻ trung, tươi mát như cả mấy mươi năm về trước.
Trong thế giới ca sĩ trẻ đang lên, Hà Thanh không bị chiếc cầu thế hệ ngăn
cách; trái lại, chị đã làm cho khán giả ái mộ cảm động và thưởng thức giọng hát
vẫn trong ngần, quý phái của chị trên nẻo về gần "thất thập cổ lai
hy."
Hà Thanh có một chỗ đứng riêng trong lịch sử tân nhạc Việt
Nam và một vị trí độc sáng trong lòng người yêu nhạc xứ Huế.
Nửa thế kỷ, những dòng sông xanh vẫn luân lưu chảy. Tiếng
hát vượt thời gian của Hà Thanh vẫn còn xanh mát như tên chị, như những dòng
sông xanh mà muôn đời con nước vẫn đang về, đang tới. Và, nói thêm bằng những
nét chấm phá thi vị như một nhà thơ nào đó, "...có một chút gì rất Huế,
rất thương... Có một chút gì rất Huế trang đài..." trong tiếng hát Hà
Thanh.
[1] Ban Việt Thanh do nhạc sĩ Văn Giảng -- cũng là Thông Đạt tác giả Ai
Về Sông Tương -- thành lập và điều khiển; chuyên trình diễn tân nhạc tại đài
phát thanh Huế.
"Soi bóng bên tê Vườn Thúy Hạnh
Tương tư rêu phủ mái Bình Linh"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét