Thứ Ba, 2 tháng 1, 2018

Người Thái ở Sơn La

Người Thái ở Sơn La
Lược sử xứ Sơn La
Sơn La hiện nay (2012) là tỉnh vùng núi Tây bắc Việt Nam, có diện tích 14,125km2 (= 4,27% tổng diện tích cả nước), có biên giới chung với Lào 250 km, gồm 1 thành phố, 10 huyện với 12 dân tộc. Dân số điều tra 1/4/2009 là 1.080.641 người.
Lịch sử: Phần lớn tỉnh Sơn La ngày nay gồm TP Sơn La, huyện Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu vào trước năm 1479 là lãnh thổ của Vương Quốc Bồn Man (gồm cả Tương Dương, Kỳ Sơn của Nghệ An; Quan Hóa, Quan Sơn Mường Lát của Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phăn của Lào). Năm 1479 Sơn La được chính thức nhập vào Đại Việt, thời vua Lê Thánh Tông và thuộc xứ Hưng Hóa.
24/5/1886 thành lập Châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) tách từ Hưng Hóa thành cấp tương với tỉnh.
9.9.1891 thuộc Đạo quan binh 4.
27/2/1892 thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ, 8 châu.
10/10/1895 thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (Tạ Bú) trên bến sông Đà thuộc huyện Mường La ngày nay.
23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ về như bây giờ.
Sau 1946: Pháp chuyển Sơn La cộng với Lai Châu và Phong Thổ lập xứ Thái tự trị, do Bạc cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La.
1948 – 1953 thuộc LK Việt Bắc do tướng Chu Văn Tấn cầm đầu (Sơn La có 6 huyện Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu).
1953 – 1955 thuộc khu Tây Bắc.
1955 – 1962 thuộc khu tự trị Thái Mèo.
1962 – 1975 tái lập tỉnh thuộc khu tự trị Tây Bắc: có 7 huyện, thêm Quỳnh Nhai và Sông Mã còn Phù Yên chuyển về tỉnh Nghĩa Lộ.
Sau khi giải thể khu tự trị Tây Bắc, Sơn La nhập lại 2 huyện Phù Yên, Bắc Yên của Nghĩa Lộ giải thể.
Sơn La- xứ Thái xưa là 1 vùng biệt lập do núi non hiểm trở, lại là đường mòn luồn vùng, đi theo dọc 2 bờ sông Đà, sông Mã, ma thiêng nước độc “nước Sơn La, ma Vạn Bú” ở xuôi chẳng ai lên đó làm gì. Đó là nơi cai trị của các vị “Chẩu Mường” hướng về vua Lào ở Luông Pha Bang là chính, thi thoảng có giao lưu với người kinh qua rẻo Mường Lò (Nghĩa Lộ)… phải chăng do ở biệt lập lâu đời như thế nên người Thái ở đây còn giữ được khá nguyên vẹn bản sắc dân tộc mình sau 1000 năm sang Việt Nam cư trú?
Người Thái ở Sơn La
* Người Thái:
Gốc gác ở Trung Quốc (trong số 56 dân tộc; với 1,16 triệu người), tên xưa gọi “Thái Lặc” (Tai Lue) – “Dai” (Thái tây song bản nạp) 2 ngôn ngữ là Tày Pong và Thái Đam (Tày đăm). Ngoài ra là tiếng Tráng (choang).
Thư tịch cổ gọi Điền Việt, Kim Xì, Hắc Xỉ, Hoa Man, Bạch Y, Bạch Di, Bách Si, Bá Di…
Thời Hán quận Ích Châu là của người Thái (xem thất cầm Mạnh Hoạch – Tam Quốc Chí)? Rồi di cư theo dọc sông Lan Thương (Mê Kông) tới Myanma, Lào, Thái Lan, theo sông Hồng xuống Việt Nam.
* Người Thái ở Việt Nam:
Còn được gọi là Tày Khao (trắng) đăm (đen) Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc.
Nguồn gốc: Bách Việt, gồm với nhóm Choang (tráng), Tày, Nùng.
Di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 7 – 13, trung tâm là Mường Theng (Điện Biên), từ đây họ tỏa đi Lào, Thái Lan, bang Shan (Myanma), đông bắc Ấn Độ cũng như ở Nam Việt Nam? (gốc đi từ – xíp xoong păn na).
Ở Việt Nam: Đời Lý 1067 có Ngưu Hống (rắn hổ mang – tô tem), chỉ người Thái vào triều Cống, sau 1280 dưới sự cai quản của triều Trần.
Các thủ lĩnh Thái được gọi là “Phụ đạo”.
– Họ Đèo cai quản các Châu Lai (lay), chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nhan.
– Họ Cầm cai trị Châu Phù Hoa (Phù Yên), Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Châu Luân, Châu Ninh Biên.
– Họ Xa cai quản Châu Mộc
– Họ Hà cai quản Châu Mai
– Họ Bạc ở Châu Thuận
– Họ Hoàng ở Châu Việt (Mường Vạt – Yên Châu).
Dân số: 2009 có 1.550.423 người Thái (thứ 3 ở Việt Nam) có mặt khắp cả nước. (Sơn La có 572.441 người chiếm 53,2% toàn tỉnh); Nghệ An 295,132 người, Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên 186,270 người, Lai Châu 119,803 người, Yên Bái 53,104 người, Hòa Bình 31,386 người, Đắc Lắk 17,135 người, Đắk Nông 10,311 người.
* Họ của người Thái: Bạc, Bế, Bua, Bum, Cà (Hà, Kha, Mài, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo,  Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm, Leo, Lèo, Lềm, (Lâm, Lịm) Lý, Lò, (Lô, La), Lộc (Lục), Lự, Lường, (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vi (Vì) Xa (Sa), Xin.
– Ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ ngôn ngữ Thái – Kađai.
– Kinh tế: Nông nghiệp (lúa nước, lúa nếp), các thứ hoa màu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, dê, cá… đan lát, dệt thổ cẩm, số nơi làm đồ gồm.
– Gia đình: Phụ hệ, vợ theo họ chồng, có tục ở rể.
Hôn nhân một vợ một chồng.
– Tục lệ ma chay: Chết là về Mường trời tiếp tục sống ở thế giới đó.
– Văn hóa: Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết khá phong phú, có chữ viết riêng, có nhiều truyện thơ (sống chụ son sao, khum lú – Nàng ủa, tản chụ xiết xướng…).
– Nhà cửa: Người Thái đen có nhà nóc hình mai rùa, chỏm đẩu đốc có khau cút (hoa nhà) rất độc đáo.
– Trang phục: Đẹp, nhiều kiểu.
Nam giống với người Tày, Nùng, Kinh.
Nữ: Thái đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm, đen) cổ áo khác Thái trắng là loại cổ tròn đứng.
Đầu đội khăn Piêu thêu hoa văn theo môtyp từng mường. Váy ống (kín) giống Thái trắng, màu đen, cạp gấu váy phía trong nẹp đỏ.
Khi lấy chồng tóc búi ngược lên đỉnh đầu “tằng cẩu” (Thái trắng vẫn búi tóc sau gáy).
Người thái sang ở Sơn La đến nay đã trên 10 thế kỷ nhưng không thấy có dấu vết gì về các công trình kiến trúc gạch, đá…? Có lẽ chỉ có một cầu đá bản Cá bắc qua suối Nậm Cá chảy ra Nậm La ở đầu thị xã ra phía Chiềng Xôm? Và một số khu nhà xây của tỉnh trưởng Sơn La Bạc Cầm Qúy, (sau này trụ sở huyện ủy Thuận Châu, rồi bị bom Mỹ phá hủy hồi 1966 – 1973)… còn không hề thấy Đình, Chùa, đến Miếu gì ở Sơn La đất cũ?
Người Thái ở Sơn La không theo Tôn Giáo nào, chỉ thờ “Phi” (ma tưởng tượng) người chết làm lễ chia của “bỏ mả” là xong, không có giỗ chạp hàng năm, Tang ma có lễ gọi hồn, dẫn hồn về mường trời, xong coi là xong.
Nhà ở người Thái: hầu hết là tranh, tre, gỗ, nứa – đục đẽo đơn giản, đa số là không ngăn buồng (2 loài: cột chôn và cột kê) hoàn toàn là vật liệu tự nhiên sẵn có ở rừng núi bản địa.
Người Thái ở Sơn La: Có 4 ngành (chi): tới 2009 có 58 vạn người.
- Thái trắng (Tày đón) cư trú ở Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường La).
- Thái đen (Tày đăm) ở Thuận Châu, Mường La, Vai Sơn, Yên Châu, Sông Mã. Đặc biệt Thái đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với ở vùng  trên cả về tiếng nói, ăn mặc, phong cách, tập tuc.
 Chi (ngành) ở Mộc Châu, họ tự gọi là Thái đỏ (Tay đeng); cũng một chi ấy. Ở Bắc Yên, Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái trắng) ở xã Huy Bắc tự gọi là Tay khoong (người khoong) – “khoong” là một địa danh miền Tây Thanh Hóa (nơi họ từng ở ngày xưa). Nhóm Thái ở Pác Ngà (Bắc  Yên) tự gọi là Tay Eng (người Eng) “Eng” cũng là địa danh ở Thanh Hóa.
Tay đeng (Thái đỏ Mộc Châu) gốc gác từ Vân Nam qua Lào: từ Luông Pha Bang qua Mường Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén vào đất giao chỉ (đời Lý) thuộc Nghệ An. Từ Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi Xuân, La Hán vào Mường Mun (Nai Châu) rồi lên Mộc Châu Sơn La.
Cuộc di cư này do chúa đất họ Vi Khăm (Vi Vàng dẫn đầu vùng em trai là Vi Ngân (vi bạc): Vi Ngân ở lại M ai Châu, người anh Vi Khăm ngược lên Mường  Moóc (Mường Xang – Mộc Châu).
Do đi tới nơi đất mới nên: Ở Mai Châu có bản Lác (bản lạ). Tòng Đậu nguyên âm là Toong Táu (Toong = lá, táu là cây gỗ Táu – cây to, lá to dùng để gói muối, lót xôi khi cúng lễ. Đồng Bảng nguyên âm là “Động Páng” (động:  rừng già, rừng cây cổ thụ, Páng là cây chuối rừng, nay ta qua Đồng Bảng vẫn thấy nhiều cây chuối rừng vì đất quanh năm ẩm ướt.
Họ “Vi Khăm” sau đổi thành họ Xa (Sa) có 2 truyền thuyết:
– Chúa Vi Khăm vào triều đình (nhà Lê Trịnh) qua cổng thành thì Quan coi cổng thành Thăng Long  vấn danh, hỏi họ tên gì ở đàu tới? Do ngôn ngữ bất đồng nên Chúa Vi Khăm trả lời sai ý đi “Tôi là ở xa đến” – Quan nghe ú ớ ghi “Chúa đất họ Xa – nay do chữ nghĩa chính tả lung tung ghi xa = Sa”?
Thuyết 2: Sau khi Chúa đất Vi Khăm qua đời – anh em trong nội tộc tranh giành… người anh thắng thế làm chúa, em phải xuống làm thường dân lấy họ “Vi Văn…” Người anh vì đã thề độc “cụ chí pái sá xịa mưng, mưng nha Pay năm hó phụ” (Tao sẽ từ mày, cạch từ đây không chung Họ nữa).
Từ đấy từ (Xá = Sa) thành họ chính của dòng Vi Khăm. Mãi về sau gọi chệch cho nhẹ đi Sá thành Sa… nhưng khi khấn cúng bái vẫn phải xưng là “Chúm mú Vi Khăm ” – (dòng họ Vi Khăm) cho đến ngày nay.
* Quan hệ xã hội Thái:
Cơ cấu xã hội cổ truyền là Bản mường hay chế độ Phìa Tạo Tông Tộc gọi là “Đằm”. Mỗi người có 3 quan hệ trọng yếu:
– Ải noọng: Nam giới 4 đời trong gia tộc (bên nội):
– Nhinh Sao: Tất cả thành viên nữ…
– Lúng ta: Tất cả thành viên Nam thuộc họ vợ (bên ngoại).
Tôn giáo của người Thái
MƯỜNG TRỜI
Với người Thái: chia vũ trụ thành 3 tầng theo một trục dọc. Trên cùng là Mường Phạ (Mường Trời), ở giữa là Mường Lùm (mường người thấp) và dưới cùng nữa là lòng đất là Mường bọoc đai (Mường của những người lùn sống trong lòng đất). Còn gọi Mường Pha là Mường Bôn nhằm chỉ thế giới ở trên đỉnh đầu – ngoài ra còn gọi là Mường Then (Mường của các Then = thượng đế, thần linh). Người Thái ở Qùy Châu: “theo quan niệm hữu thức của người Thái thì Mường Phạ là nơi cao nhất của vũ trụ, đó là một khoảng rộng màu xanh, hình tròn úp lên mặt đất. Còn đất là một tấm rộng vô hạn mà trời chỉ úp được một phần. Tầng trên cùng là tầng riêng của các thế lực siêu nhiên, đó là một thế giới hỗn mang, chưa định hình, không rõ ràng, rất ít ảnh hưởng tới cuộc sống của con người.
Xuống thấp hơn là Mường Then của các vị thần linh, còn tổ tiên của người Thái thì ở một cỏi riêng khác: Nhóm Tày Thanh gọi là “đẳm chảo”, còn nhóm Tày Dọ (đều ở Nghệ An) thì gọi là “Đẳm Pang”. “Đẳm Chảo”là nơi trú ngụ của người  chết theo các dòng họ khác nhau, rồi lại còn phân đẳng cấp:Tầng lớp trên là cho các họ Lò Căm, Hủn Vi, Mừn Quang. Tầng lớp mới là các họ bình dân như Quản Quang, Quản Lự… (có 2 “đăm”:bậc giữa và bậc cuối).
Theo Cầm Trọng thì người Thái đen Sơn La cũng na ná là “đẳm hướn luông” (quý tộc) và “đẳm hướn nọi”cho thường dân.
Mường Then là hình ảnh thu nhỏ của thế giới trần gian: Cùng lao động sản xuất, đó là một xã hội giàu có trù phú, ruộng đồng quanh năm tươi tốt, dưới ao cá lội từng đàn, đèn thắp sáng quanh năm. (như thiên đường), vị thần chủ là “Then Luông” (Then lớn) – thường gọi là Pò Then: Cai quản cả thế giới.
Dưới Pò Then là một hệ thống các vị thần giúp việc như Then Ná, Then Ảo, Then Thao Ai, Then Thư ai, quản lý các dòng họ Quý tộc, thấp hơn là Châu Cuống Cảng (họ ở bậc trung) do các Then Thư Noọng cai quản  trông coi các họ bình dân… tuy vậy có những dòng họ khác nhau nhưng lại chung 1 Then Ná.
Ở Then Ná còn có các Mẹ Náng (bà mụ) là vợ các Then, làm nhiệm vụ Me bẩu (đúc nặn người cho đầu thai xuống trần gian), Me Náng nặn rồi chỉ sang Then Bẩu (khuôn), rồi qua Then Chằng để cân đo số mệnh rồi rơi xuống Then Chẳng cân đo xong rồi tiếp xuống Then Bắc để đi đầu thai…
Trên Then Ná còn có Mẹ Xuổn Ném và Pù Noọng Pả trông coi vườn mệnh và ao cá vía để giữ cho mệnh luôn được bình yên, trên Then Ná có một vườn mệnh trong đó có một máng nước chảy vào ao nuôi cá mệnh (Pa Vẳn) mỗi con tượng trưng cho một mệnh người dưới trần. Nếu nước chảy đều thì hồn khỏe mạnh, con người được bình an, nước không chảy thì cá chết, mệnh người cũng hết.
Chính vì vậy: Khi con người lên cao tuổi  thường tổ chức lễ “Tum bẩư nho bủn” (lau chài sửa lại vườn mệnh, đặt lại máng nước), để tăng tinh lực và sức sống cho con người.
Ở Mường Then còn có nhiều vị thần linh khác: “Then Khúm” trông coi việc  thiện, Then Tàng lo làm ra con người và loài vật, Then Bấu lo đúc người, Then Khạt (Then Chằng) đo số mệnh,… Then Bắc theo dõi sổ số mệnh, Then Kôm quan sát bốn phương trời, Then Cáo quản lý phạm nhân, Then Thùm coi lũ lụt, Then Lốm tạo mưa gió, Then Ú, Then Đá lo xử phạt sát sinh. Tầng cuối cùng của Mường Phạ là nơi ở của các hồn người chết (chết không bình thường) thì phải vào “Mường phi tai sút đuôn” ở gần Mường Lùm – Còn bình thường thì vào Đẳm Chào.
Trạm dừng chân đầu tiên do Mo dẫn hồn là Pặc Phắng Kén, nơi trời và trần gian gặp nhau là Táng Cộp “Táng cộp nừng hả phiền” – Chỗ gặp nhau (như kiểu chợ âm phủ) đan xen như cái nan xe kéo sợi, ở đây là trạm tiếp đón nên có nhiều xôi thịt do người trần cúng lễ. Do đó những hồn nghèo đói, chết không bình thường kéo tới đây kiếm ăn – vì thế người Thái rất sợ phải qua nơi này; khi đói loại ma này còn xuống cả Mường Lùm quấy nhiễu.
MƯỜNG NGƯỜI
Mường Lùm: Qua tụt  khỏi Mường Phạ, xuống dưới là Mường Lùm (cõi người) là mường ở dưới sàn trời “mường tớ cọng lùm phạ”.
Lùm là thấp, thung lũng – Còn gọi Mường Piếng (bằng phẳng) = mường bằng phẳng ở dưới gầm mường trời là mường có thật trong vũ trụ luận Thái, đây là thế giới của con người khác biệt về bản chất so với Mường Phạ – Mường Phạ là cõi hư, tâm linh, còn Mường Lùm là cõi thực của con người và các loài vật, là các bản mường của nhiều tộc người (kể cả Kinh, Lào…) và “dân số” của các loại Mường (Phạ, Lùm) bao gồm cả các thế lực siêu nhiên khác, kể cả ma quỷ. Ma quỷ đi lang thang ở các Mường Phi, người thì ở các Mường Côn (có phi pú ở núi cao, phi pá ở mường sâu, phi ngược ở vùng nước xoáy cùng cõi Mường Lùm do con người làm chủ thể).
MƯỜNG BOỌC ĐAI
Là “Mường trong lòng đất” của loại người tí hon “Táy boọc đai” đây là ở Quỳ Châu (Nghệ An), còn phía Sơn La – Tây Bắc không có khái niệm này. Đó là thứ “phi đóng kín” hay “phi dóc dách”.
“Cờ boọc đai” là cái ống nhỏ cuốn dùng tơ lấy ra từ kén tằm (cái suốt) – Boọc còn có nghĩa là “hoa”, đó là nụ tơ hoa biểu tượng của lũ người tí hon sống dưới lòng đất, đứng đầu là “vua hoa tơ” (Pủa boọc đai).
“Phi” với người Thái là gồm cả thần thánh, hồn người chết và cả hồn, vía người đang sống – “Phi” là tín ngưỡng thờ vật hinh, một thứ sơ khai của Tôn giáo.
Linh hồn người sống là “phi vẳn”, ở người chết là “phi bướn”, với các thần linh là “phi then”, các tổ sư nghề Mo (phi môn, phi một) rồi phi bản, phi mường, phi pú, phi huổi, phi pá…
Thế giới của Phi có ảnh hưởng rất lớn tới thế giới thực của con người (can thiệp, phù hộ) – do đó phải cúng bái cầu khẩn…
Theo Hoàng Nó (Sơn La) thì:
Quan niệm về trời đó là Mường Phạ, Mường Bôn hay Mường Then. Có 11 Then gốc gọi là “Then ngồi chõng” (Then năng chóng) và 22 Then anh em (Then Pi Noong), mỗi vị Then là một đấng “sáng tạo” tạo mưa, gió, nắng hạn, lụt…
11 Then gốc, đáng kể là Then Luông (cụ Then già Pú Then Thẩu) hay chủ Tum Vang (như Ngọc Hoàng).
Hai là “Then chăng tê ba” – chữ “tê ba” gốc chữ Pali  – Sancrít thì Têbra nghiã là “cõi trời” – hư vô ngự trên đỉnh Pha Bôn điều khiển đúc ra người… Ba là “Then Ban” tạo ra họa phúc, duyên phận, sang giàu…
* Tục lệ cúng Then: Có 3 lễ chính:
1. Căm xeng: Báo ngày kiêng cấm
2. Xên kẻ: Cúng giải hạn
3. Xên hươn: Cúng nhà tức tổ tiên
Tháng giêng Tạo kiêng kỹ
Tháng hai Tạo căm xeng
* Đêm của ngày kiêng cấm: Mỗi nhà lấy một bó cỏ gianh, bó lạt, một con dao buộc vào đòn gánh – tượng trưng để phi tổ tiên đem lên sửa chữa nhà cho Then. Đầu đòn gánh treo một túi xôi, gói thịt gà luộc để cho tổ tiên ăn – Đặc biệt bắt 1 con dế mèn đực bỏ vào giỏ để đêm chúng gáy – Dế Mèn sinh nở vào tháng 7, nó tượng trưng 1 con trâu để tổ tiên dắt lên cày bừa ruộng nhà Then. Còn có việc: Lấy 1 tổ hoang rỗng của ong bò vẽ treo lên mái nhà để báo hiệu nhà tôi đã thực hiện đầy đủ cúng căm xeng.
* Xên kẻ: Cúng đầu tháng 2, cụ tổ phải lên chầu Then phục dịch. Làm ở gian giữa nhà có đầu trâu hay đầu gà, phía sau bà Một ngồi, phía trước lót vải trắng đổ gạo nếp thành một đống con, trên đặt 1 quả trứng gà luồn trong 1 vòng tay bạc, xung quanh mâm có đốt nến (sáp ong).
Đọc hát bài Xên do bà Một gòi là “Á ní” mất 1 ngày đêm “lời thỉnh cầu Then xá tội cho tổ tiên, cầu xin phúc lộc”.
* Xên hươn còn gọi Ló Liêng tổ chức cúng nhà trong 3 tháng (giêng, hai, ba) vào các ngày 7, 8, 9, âm lịch thành một chuỗi lễ hội đan xen căm xeng – xên kẻ và xên hươn.
Xiên hươn là mời tổ tiên về ăn cỗ cuối buổi cúng, ông mo phải cúng cơm rượu để đưa tiễn đưa đi đưa lại để các vị về nơi Mường phi của các hồn
QUẮM TỐ MƯƠNG
“Truyện kể bản Mường” là một bộ thông sử của tộc người Thái, ngành Thái đen trình bày những sự kiện nửa hư (truyền thuyết) nửa thực qua cuộc “mang gươm đi mở cõi” cách đây khoảng gần nghìn năm của chúa đất Thái đen ở Mường Lò (Nghĩa Lộ).
Qua phần huyền thoại … đến lúc Then (trời) cho tạo Tum Hoàng xuống làm chủ vùng đầu sông Nậm Lài, Ao Xe, Nậm Tè (Sông Đà), Nậm Tào (Sông Thao)… rồi tạo Tum Hoàng cho hai em là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống ăn đất Mường Ôm, Mường Ai ngoài vòm trời, rồi tới dựng Mường Lò Luông, cùng theo có các tay chân họ Lò, Lương, Quàng, Tòng, Lèo… tôn họ Lò làm chủ. Lúc đó đất Mường Lò đã có người. Mọi (Mường), người Mang cư trú. Xây dựng theo Mường Lò thì Tạo Xuông ở lại lấy vợ sinh ra Tạo Lò, cho Khun Lường làm mo, Tạo Lò làm chúa. Về sau Tạo Xuông cũng trở về quê cũ Mường Ôm, Mường Ai.
Tạo Lò lấy vợ sinh ra 7 con trai: Ta Đúc, Ta Đẩu, Lặp  Li, Lò Li, Lạng Ngang, Lạng Quang và Lạng Chượng… các con khôn lớn, Tạo Lò chia cho các con đi làm chúa các mường: Tạo Đúc “ăn” Lò Luông, Ta Đẩu “ăn” Lò cha, Lặp Li “ăn” Lò Gia, Lò Li “ăn” Mường Min, Lạng Ngạng “ăn” Mương Vân, Lạng Quang “ăn” Xí Xam, Bản Lọm. Ngoài ra Tạo còn cho bô lão già bản Xửa Cang Ho “ăn” Mường Pục, Mường Mẻng… Rồi các cháu nội được chia đi làm chúa miền đất đầu sông Thao nước đỏ.
Riêng con út Lạng Chượng không có Mường để “ăn” – “con út không có ngựa, con út không có Mường” (giàu con út khó con út là thế). Lạng Chượng mới bàn với các tay chân giúp việc là các ông ho hé, ông mo, ông nghe… triệu tập binh tướng, dân chúng mở lối đi tìm Mường. Quân đi đến Khau cả, Khau Pục, Mường Min thì tiến thoái lưỡng nan, chúa bèn cúng “pang cha đáp” cầu hồn ông nội là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống phù hộ.
Chọn ngày lành, quân Lạng Chượng đến Mường Lùng – dốc Khau Phạ nhìn thấy cánh đồng rộng (xã Ngọc Chiến bây giờ) bèn dốc quân vượt dốc Xam xíp vào Mường Chiến. Tạo Mường Chiến khiếp sợ xin gả con gái, Lạng Chượng ưng ý nhận đất Mường Chiến là Mường họ ngoại.
Tới Mường Chai, Tạo ở đây sợ phải dâng nhiều trâu.
Binh Chúa vượt rừng rậm, qua cầu mây Vạn Tọ, không thuyền bắc cây qua Nậm Tè (Sông Đà)… đến đây vấp phải sự chống cự của người “Xá Cắm Ca” (Khơ Mú) do Tù trưởng Khun Quàng cầm đầu. Mác Chúa ngắn nên chúa phải chạy, mác Quàng dài nên đuổi Chúa xuống Nậm Tè, bị bắt cạo trọc đầu phơi nắng, binh Chúa chết 800 người gan dạ… Rồi chúa rút binh về Ít Ong (Thủy điện Mường La hôm nay) để tang đồng đội.
Rồi sau một thời gian nghỉ dưỡng rút kinh nghiệm chúa Lạng Chượng thắng Khun Quàng chiếm được đất Mường La từ Nặm Bú qua Khau Pha, Kéo Tèo, qua Nặm Cá (Chiềng An), Chiềng Căm (Thị xã), Cọ, Kẹ qua núi Khau Hào lên Mường Muổi (Thuận Châu)… gặp quân Xá của Khun AmPoi ở núi Khau Tù, Khau Cả, quân chúa đánh nhiều lần bị thua… rồi chúa lập mưu “Mỵ Châu – Trọng Thủy”xưa, xin làm rể ĂmPoi… chọn ngày lành chúa mở tiệc chuốc rượu say cho Bố vợ, rồi giết chết đoạt đất Mường Muổi.
Quân Chúa tiến lên Mường Quài (Thiên Giáo) chê đất ở đây ẩm ướt tanh hôi, bé nhỏ, qua Mường Húa, Mường Ẳng tới Mường Phăng chế đất bé trũng như vũng trâu đằm, chim cuốc chạy qua, chim đa đa chạy lại cũng thấy. Quân chúa tiến vào Mường Thanh, đất này thật tốt “nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc” (4 cánh đồng rộng ở Tây Bắc) ở đây Mường rộng lớn, tròn như cạp nong, cong như sừng trâu, cho quân lính phá rừng khai hoang làm ruộng, chia đất thành hai vùng “Xoong Thanh” cho già Nà Lếch làm mo.
Lạng Chượng làm chúa Mường Thanh lấy vợ bản Pe sinh ra Khum Pe, rồi lấy vợ sinh ra Khun Mứn. Khun Pe mất sớm, ông nội đem cháu về nuôi, sau Khun Mứn sinh Tạo Pàn. Chúa Lạng Chượng già rồi mất… cháu tiếp là Tạo Chiêu lên “ăn” đất Mường Lay, Tạo Cằm về Mường Muổi.
Cứ tiếp là Tạo Chông, Tạo Thâng, Tạo Quá Lạn, Tạo Chương, Tạo Quạ, Tạo Quạ lấy nàng An Phấư ở Mường Lay làm vợ cả, và Nàng Xơ (người Xá dòng dõi Khun Quàng, ĂmPoi) làm vợ hai. Nàng Xơ sinh ra chúa Lò Lẹt.
Lò Lẹt lấy tên hiệu là Ngu Háu (rắn hổ mang) làm chủ đất Mường Muội nhiều năm vào đất triều cống Đại Việt từ đấy.
TÁY PÚ XẤC
Cùng với “quắm tố Mướng” là truyện Táy Pú Xấc “Người Thái đánh giặc” là một sử thi tầm cỡ về “kể ông cha chinh chiến”…
Táy ở đây dùng đa nghĩa, như “trên đường đi” gọi là Táy Tang, qua cầu là Táy Khua, đọc chữ là Táy Xư, kể chuyện là Táy Quắm Tố… Táy nghĩa là kể.
Pú là ông nội, người tôn kính  như “Bác”, Pú ở đây là ông cha, lãnh tụ, thủ lĩnh.
Xấc là chiến tranh: Đi trận là Pay xấc, đánh trộm là tặp xấc, dấy binh là diệt xấc, nổi loạn là xấc phản, giặc ngoại xâm là xấc chinh mương, hay xấc cướp mường, hay xấc pua mương. Mặt trận là nả xấc, cuộc chiến là Chộ xấc, đi chiếm đất là xấc to mương – “xấc” đánh nhau cả xâm lược lẫn tự vệ.
Nội dung thư theo lịch sử của Quắm tố mướng, mở đầu từ Tạo Lò tới Cầm Nho (Kăm nho) là 50 đời.
Sử thi viết theo lối hát “khắp” dùng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa đời thường và nghi lễ.
Mở đầu là:
Cạy hin pẻn ke ma bốc
Nộc tót háy tai thẩy
Tai thẩy tai ti non
Tai cuông côn cuông kon mạy xọk
Pú hók lộm khẩu heo Tông Lo
Chang nháư tai thót nguông thót nga pạt
phạk Tao, u, khong…
Ẩy đá dẹp đá tảng lên cạn
Chim gõ kiến chết già
Chết già tại nơi nằm
Chết trong bộng trong cành cây Xọ
Cụ Tổ đổ xuống vào  mộ đồng Lò
Voi lớn chết rụng vòi ngà bên sông Thao,
nậm u, MêKông…
Đoạn tả Lò Lạng Chượng đem quân đi đánh chiếm Mường La
Mi khỏi kôn pay cón
Hảư Ải Ón uôn tang
Tốc Xả chi, Xả cha
Tốc Mương Bá, Mương Ai
Tốc Mương Chai, Mương chiến
Tốc Pák chiến ti nặm hăm
Tốc Pák Păm ti nặm hạk
Pọng cánh quen phăn hủa
Phăn hủa hảư kôn xen kôn păn pú bải
Có chân sai đi trước
Cho Ải Ón dẫn đường
Đến Xá chi, Xá cha
Đến Mường Bá, Mường Ai
Đến Mường Chai, Mường chiến
Đến ngả suối chiến nơi sóng cuộn
Đến ngả suối Păm nơi nước phèn
Pọng và Quen (quan và dân) đóng thuyền
Đóng thuyền cho quân ức quân nghìn cụ bơi.
Đoạn kết:
Bản Lụa (Thuận Châu) Ho Luông Sinh pay xảng / lau diên ké xia tạu   
Thẩu xia bản xia na
Chắng púk hảư Ho Luông Tiên pay kín
Đin na Lụa na Lài to đaư coi xảng
Hák vá Sen Lộc lau Ké xia tạu
Thẩu xia bản xia na
Chẩu xáư hảư Pọng An dệt Sen
Đin na tạu tin đán
Bản Pán Vạy Mo Yên mưa khẩu
Bản Té pẩu chiên vạy bấu kha
Kọ pưa pang xên phon chu tang mãn hụ
Bản Lăng hảư sự Phúc mưa kin
Đin Na Lăng to đaư coi xảng
Cựt áo quảng hom pay chom tom.
Ho Luông sinh vun đắp Bản Lụa
Lại đã già lìa can
Khuất lìa bản lìa ruộng
Mới để Ho luông Tiên mà vào hưởng ăn
Bao đất ruộng Lụa, ruộng Lài hãy quản
Nhưng rồi Sen Lộc đã già lìa can
Khuất lìa bản lìa ruộng
Pọng An được cụ (chúa) cất nhắc làm Sen
Bao đất ruộng bản Mòn hãy quản
Ruộng trải tận chân lèn
Mo yên vào bản Pán
Bản thủa ông cha truyền lại không buông
Bởi thông thạo mọi đường cúng tế
Bản Lăng dành Sự phúc lên “ăn”
Bao ruộng đất (ở bản) Lăng hãy quản
Lo rộng tính xa dân chúng sum vầy.
(Theo Vương Trung).
THƠ CA THÁI 
Xứ Thái, có thể nói là xứ sở của hát thơ (khắp xư).
Vốn thơ ca cổ truyền từ các tập biên niên sử “Quắm tố mướng” hoặc sử thi  “Tày pú xấc” cho đến các truyện thơ tình như Sống chụ son sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương, sử thi chương Han….với các bài thơ, ca dao đều được dùng để “khắp” (hát)….
Bước đầu đã có làn điệu “lòng bản” và cách hát riêng cho mỗi loại bài thơ, xét theo hình thái sinh hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ – theo Dương Đình Minh Sơn thì:
– Hệ tín ngưỡng “hát thơ mo” do giới mo then hát khi cúng tế lễ.
– Hệ dân gian: hát kể chuyện tự sự, hát thơ tình, hát ví, hát hò trên sông, hát ru, hát đồng dao……vv….
Ở người Thái 2 chữ “thơ ca” quả là đầy đủ và ý nghĩa “Thơ để giải bầy nỗi lòng, ca (hát) để ngâm vài lời thơ gửi đến những cõi lòng ai đó”.
Thơ Thái là 1 thứ “kinh thi” bản địa, hồn quê hòa đồng với thiên nhiên trời đất. Thơ dân gian Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như đã nói ở trên đã trở thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng.
Thơ đương đại của các tác giả Thái Sơn La (thời cách mạng xã hội chủ nghĩa) thường dùng lời thơ để hát (khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc mình, làm chủ bản Mường, cùng nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đất nước ngày 1 giàu mạnh – xin dẫn 1 số bài mới:
HÀO QUANG KHẨU CẢ
(tác giả tự dịch)
Từ xa xưa ông cha đặt tên Khau cả (1)
Là nói lên:
– Rắn hơn sắt thép, cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi cho lúa chín hạt, quả ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng của núi, đặt trung tâm thống trị tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh hùng đất nước.
Nhưng:
Khâu Cả là lò luyện con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân, góp hun đúc những Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu và bao chiến sĩ/ những trái tim của cách mạng tỏa khắp non sông: chặt tan xiềng xích của thực dân Pháp, phong kiến/ góp phần đánh thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao cả nước giải phóng mình, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả nước Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/ mây như ánh sáng soi đường cho ta bay bổng.
THIẾT CHẾ XÃ HỘI THÁI XƯA
* Bản (làng): Là đơn vị hành chính nhỏ nhất, là cơ sở của Mường, là nơi cư trú của các gia đình phụ hệ thuộc nhiều dòng họ. Bản trung tâm của Mường gọi là Chiềng (phát âm ở Lào là Xiêng, Xiêng như Chiềng Lề (TX Sơn La) Xiềng Khọ, Xiêng Khoảng. Loại Chiềng thứ 2 là có một bản lớn, tồn tại độc lập không trở thành trung tâm kinh tế – xã hội và chính trị của một Mường nào đó (như Chiềng Đông, Chiềng Sàng, Chiềng Khoi ở Yên Châu) có nơi gọi là Viêng (Viêng Chăn – Lào, Viêng Lán ở Yên Châu).
Trong Mường có hai loại Bản:
– Bản của dân tự do (dân páy)
– Bản của dân lệ thuộc (dân Thín).
Đứng đầu Bản là Tạo Bản (Quan bản) thường là người dòng họ Tạo Mường – (Quý tộc) nắm giữ “Không cha truyền con nối”. Quyền lợi của  Tạo bản được cấp 1 số ruộng cấp tùy nơi “khoảng 1000 bó mạ (10.000m2), chức vị thứ 2 là chá bản (chá là nói)” truyền đạt mọi tin tức công việc của bản, ruộng được cấp bằng ½ Tạo Bản, khi thôi chức vụ phải trả lại ruộng.
Họ được dân bản đến giúp công xá, biếu xén thịt và sản vật.
* Xổng (Poọng) gồm 3 – 5 bản (như kiểu Tổng, Xã?), đứng đầu là Tạo Xổng thường là quý tộc, ruộng được cấp 2500 bó mạ (25.000m2), dân Xổng phải làm không công cho Tạo (được ăn cơm), dân cũng phải biếu xén Tạo Xổng.
Giúp việc Tạo Xổng có Quan Xổng, Chá Xổng… mất uy tín hay chết thì dân bầu lại.
* Mường: Gồm nhiều xổng, bản đứng đầu là Tạo Mường. Chết  dân bản bầu mới. Toàn bộ đất đai trong Mường là do Tạo Mường cai quản, gia đình Tạo chỉ “ăn” một đám ruộng là “lương” cấy 5000 bó mạ (50.000m2), dân phải đến làm không công cho Tạo.
Theo Quắm tố mướng thì chúa đưa dân đi chiếm đất “có ruộng mới tập trung được dân cư cũng như có nước mới giữ được cá”. Có ruộng đất thì mới có bản Mường. Từ khi Mường Lò (Văn Chấn, Nghĩa Lộ – quê tổ Thái đen Việt Nam) ra đời từ Tạo Lò thì bản Mường cũng dần dần được tổ chức thành hệ thống.
Nhiều bản hợp thành Xổng (Sổng), có nơi gọi là Ngụ (dưới cấp Lý Trưởng “xã”). Một hay ba Lộng (có nơi gọi là Ken) cộng với 3 – 4 Xổng thành một Mường. Từ 4 – 8 mường trở lên thành một “chu”. Các đơn vị từ Chu (Châu), Mường, Lộng, Bản là đơn vị hành chính mà Chu là đơn vị cao nhất (cỡ cấp huyện) của địa phương. Các đơn vị Xổng, Ngụ là dưới Mường Phìa (trực thuộc Phìa).
Mỗi Chu (Châu) khi mới xác lập mang tính chất tự trị, không tập quyền thành một tổ chức thống nhất ở địa phương (phong kiến sơ kỳ, có tính cát cứ sứ quân).
BỘ MÁY QUAN CHỨC Ở CÁC CHÂU THÁI SƠN LA – TÂY BẮC
Cánh đồng Mường Lò (Tông Lò) do Tạo Lò đứng đầu khai phá dựng bản, lập mường vào thế kỷ 11 (nhà Lý) đã là nhà nước phong kiến tập quyền) nhưng sử sách Thái không thấy ghi (kể cả sử Việt) vê bộ máy cai trị (quan lại) ở các Châu Thái Tây Bắc.
Theo Quắm Tố Mướng thì khi Mường Lò (mường khởi thủy) ra đời thì có phân chia:
Họ Lướng dệt mo
Họ Lò dệt Tạo
Họ Lường (Lương) làm Thầy mo
Họ Lò làm Tạo.
Như vậy Tạo Lò làm chủ (Chúa) Mường Lò.
Luật Mường đã xác định: Tất cả các thứ (kể cả đất đai) là của Vua, của Tạo – đó là quyền sở hữu Nhà nước.
An Nha (Quan Châu) phân quyền ban cấp tất cả các sản vật thiên nhiên trong rừng, trên đất, dưới nước cho các mường phìa, Lộng, Tạo, Bản đều thuộc quyền các quan chức ban cấp chiếm giữ.
Ai săn bắn được thú to, cá lớn đều phải trích phần nộp cho An Nha một đùi, cho phìa một đôi thăn, nếu không coi là phá tục lệ bản mường, tùy tội mà xử phạt. Do đó mỗi người dân phải luôn tự răn mình.
“Phít nọi sia quai
Phít lai bên khỏi
É pảo hữ dók mi
É pi hữ dók tó
É khó hữ dók tạo quan”
“Sai phạm nhỏ mất trâu
Sai phạm lớn thành tôi tớ
Muốn có sẹo thì đùa với gấu
Muốn béo (sưng mặt), thì đùa với ong
Muốn nghèo khó thì đùa với Tạo Quan”
Quy định bổng lộc dành cho các Quan chức ở các Châu Thái Tây Bắc thời phong kiên – thực dân (trước thời giải phóng 1953) là: “Làm chủ vùng đất cai trị / hưởng nương dành ruộng chia / ruộng cày nương cuốc / cuông nhốc pụa làm tôi tớ. Suối cá/ ong vách đá / mật nhung hổ gấu hươu, nai, voi, tê giác tới rừng tre măng quý – dân ai vi phạm đều bị phạt tiền, dân được tham gia cử Tạo, dựng Quan (lời ca cổ”.
* VỀ TÊN GỌI BẢN MƯỜNG
Thường đặt địa danh theo tên sông suối, núi, đất (na, nà) cỏ cây, con gì.
Ở Việt Nam có 37 mường Thái chỉ có Mường Ai là có 1 bản.
“Mường” nghĩa hẹp là chỉ 1 đơn vị  hành chính…
“Mường” theo nghĩa rộng là 1 vùng miền, đất nước Quốc gia như Mường Ngô (Trung Quốc, nước Ngô thời Tam Quốc mà Giao Chỉ phụ thuộc), Mường Lá Púa (Mường Việt), Mường trời, Mường Ma, Mường Lùm (lúm) chỉ thiên hạ, cõi đời.
Đã có bản Mường là phải có Tạo (chủ mường):
Khột ma Phái mi mương
Tánh Mường phái mi Tạo
Khai ruộng phải có Mường
Dựng mường phải có Tạo
Chiềng hay Xiềng (Viêng):
Là đơn vị Bản trung tâm của Mường trong (mường cuông). Chữ “chiềng” bao giờ cũng có một tên riêng khác kèm theo để biến thành danh từ riêng. Ví dụ: Bản Ban là trung tâm của Châu Mường “Mường Mụa” (Mai Sơn) – lúc này chiềng Dong vừa là tên riêng chỉ bản Ban, vừa là tên gọi Mường trọng (trung tâm của Châu mường), đồng thời là tên của cả châu mường Mường Mụa.
Châu mường Mường Sang (Mộc Châu) là Chiềng Chu; Châu mường Mường Tấc (Phù Yên) là Chiềng Hoa.
Đất Chiềng ở nhiều Châu Mường xưa (Châu Lỵ) thường có hào lũy vây quanh để bảo vệ, hào lũy là (Viềng), từ đó danh từ này nhiều khi trở thành tên của Châu mường – như Viêng Lò, Viêng Chăn (Lào).
Châu mường Mường La có Viêng dựng ở bản Giảng (thị xã) nên gọi là Viêng Giảng đồn phòng thủ gọi là “che”, ở Mường La đặt ở bản Ái nên gọi là che Ái ở cách xa 10km.
Thời VNDCH phần lớn “Chiềng” được áp sang là “xã”.
Bản Mường trung tâm là Mường trong (Mường Cuông), ở ngoài là Mường Phìa ngoài (Mường Phìa Nọk) – Bản trung tâm của Mường Phìa ngoài cũng gọi là Chiêng (Chiềng), ví dụ:
Mường Chanh là mường ngoài của Châu mường Mường Mụa có tên Chiềng Quen, Mường Sại là mường ngoài của Châu mường Mường Muổi (Thuận Châu) có tên là Chiêng Muôn. Sau 1954, ta đổi gán “chiềng” là “xã”.
Bộ máy chính quyền các chức dịch phân chia thành hai đẳng cấp rõ rệt:
1. Dòng dõi quý tộc Châu mường gồm họ gốc có tên Lò Cầm (đó là họ Lò to, Lò luông) để phân biệt với Lò bé (Lò bình dân). Họ Lò  Cầm phân chia ra các họ: Cầm, Bạc Cầm, Điêu (Đeo, Tao), Hoàng.
Dòng dõi quý tộc Thái có có họ Vi Khăm, Kha Khăm, (Khăm = Căm = Kim = Cầm) phân thành họ Hà, Xa (Sa).
Người thuộc họ quý tộc được phép tham gia giữ các chức người đứng đầu Bản, Lọng (Quen), các Phìa và An Nha Châu Mường.
2. Người thuộc ngoài họ quý tộc như Lò, Lường, Cà, Tòng… thì chỉ được phép giữ chức dịch (cấp thấp) là người đứng đầu bản và các ông Quan hàng “Xổng”.
Đó là luật tục quy định, người nào đó có thế lực muốn phá vỡ quy định này dù là quý tộc hay bình dân thì đều phải đổi họ gọi là “nhập đẳm”(tư đẳm) – ví dụ họ Vi (bé) muốn làm Phìa, An Nha thì phải đổi thành họ quý tộc Vi (lớn) phải làm khá phức tạp, tốn kém, ngược lại người họ quý tộc muốn làm chức nhỏ như Pằn (xen), mo mường… thì cũng phải đổi họ xuống thành họ Lường, Cà…
Mọi chức dịch trong của bộ máy của Mường Phìa (chế độ Phìa Tạo) đều do An Nha (Chủ Châu (huyện) và Phìa Mường tiến cử, bổ nhiệm. Khi bổ nhiệm xong, họ nghiễm nhiên tổ hợp thành một tổ chức tương đương mang tên “Hội đồng bô lão toàn mường” (Thẩu ké hang mương) do chức ông Păn (xen) hoặc mo đứng đầu).
Quan hệ giữa cấp châu mường với bốn mường Phìa ngoài thì không hẳn, theo thứ cấp trên dưới mà theo cơ cấu truyền thống vòng đồng tâm xoay quanh trục. Cơ cấu này quy định: Mường trong với bản trung tâm gọi là Chiềng là Trục, còn các Mường ngoài ở vòng đồng tâm.
Trước thế kỷ 19, các Châu Mường Thái hợp thành khu vực “16 châu Thái” (Xíp hốc Châu Tay) – trong dó có 1 châu mường trung tâm, các châu mường khác tập hợp dưới hình thức thuần phục hay qui phục “Mường Luông” (Mường lớn).
Triều đình Trung Ương từ Lý, Trần, Lê, Nguyễn gọi đơn vị Mường Luông là “đại tri châu”, đến năm 1834 vua Minh Mạng đổi (xóa bỏ) chế độ đại Tri Châu và đặt ra các Châu (huyện vùng dân tộc), đặt các Châu Mường Thái thuộc tỉnh Hương Hóa (trung tâm ở Hương Hóa, bên bờ sông Thao, Phú Thọ hiện nay). Đến năm 1884, đất nước ta mất 6 Châu mường Thái nhập vào bản đồ Trung Quốc theo Hiệp định Thiên Tân ký giữa thực dân Pháp và triều đình Mãn Thanh.
Tổ chức xã hội theo các đơn vị Mường xưa là một bước đệm chuyển từ tổ chức thị tộc, bộ lạc nguyên thủy (xã hội Thái gọi là Đẳm) sang tổ chức Quốc gia dân tộc. Thuộc ngữ “Mường” không còn là như một quốc gia dân tộc nữa, người Thái ở Lào, Thái Lan đã mượn danh từ gốc Pali – SanoKis là Pa Thết để chỉ đất nước (Mường Pa thết Lào)
Đấy cũng là lý do, trong dân gian vẫn quen gọi nước Thái Lan là Mường Thay, Lào là Mường Lào. Người Thái ở Việt Nam như chậm hơn mới đi từ Đẳm đến trình đô bản mường (dưới cấp quốc gia) rồi phát triển gia nhập quốc gia dân tộc Việt Nam (Pa thết Việt Nam). (Thái Việt Nam chưa lập “Nhà nước riêng” mới ở dạng tự trị Bản Mường).
QUAN HỆ DÒNG HỌ GIA ĐÌNH VÀ HÔN NHÂN
Người Thái có ba quan hệ về họ hàng:
1. Ải noọng: Gồm anh em, chị em chưa xây dựng gia đình sinh ra từ một (cùng mẹ cùng cha hay khác)-  nội tộc 4 đời.
2. Nhinh Sao: Là họ nhà trai hay thuộc khổi Ải noong và rể.
3. Lung Ta: Họ nhà gái (bên ngoại).
LUẬT TỤC THÁI (hồ Thuận Châu)
Luật tục Thái là một luật lệ bản Mường thời phong kiến sơ kỳ với uy quyền rất lớn của chúa đất mà cao nhất là An Nha (1 châu)
Luật tục Thái phân biệt rạch ròi với 47 loại người và 17 loại tội phạm trong xã hội.
Luật tục quan tâm cả các đấng thần linh, môi trường thiên nhiên, nó có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ của con người đối với thiên nhiên, trời đất, núi sông, rừng rú.
Đây là cơ sở để thi hành công lý, ngăn ngừa tội ác, là đạo lý làm người. Mỗi Mường (Châu) có luật tục riêng.
– Phần đạo làm người: là những quy ước ứng xử cá nhân
– Phần tục lệ cưới xin
– Tang ma….ví dụ
LUẬT LỆ NGƯỜI THÁI ĐEN Ở THUẬN CHÂU
Mở đầu: nói chút về lịch sử người Thái theo Quắm Tố Mướng.
1. Ranh giới đất Mường Muổi:
Tục ngữ có câu “Mườnng Muổi rộng phía sông Mã, Mường La rộng phía Sông Đà”. Mường chia ra các Xổng (ngũ), lộng, quen. Châu Mường Muổi có 5 mường Phìa:
– Mường Muổi (Chiềng Pha) là mường trong mường, vua kinh gọi là Xuân Mai. Các mường phìa phía ngoài có:
* Mường Lầm phía sông Mã, vua kinh gọi là Nam Trịnh
* Mường Sại phía Sông Đà, vua kinh gọi là xã Khinh Khoái.
* Mường Piêng (xã Thanh Bình)
* Chiềng Pấc (Trịnh Bắc)
Mỗi một Mường Phìa chia nhiều bản, nhiều Giáp. Giáp nào ở xa Mường thì gọi là “lộng”, lộng bé thì gọi là Quen. Mỗi một Mường Phìa chia thành nhiều xổng (vua kinh gọi là Ngũ) người Thái quen gọi là Xổng Ngụ. Mường trong Mường Muổi có 4 xổng ngụ, ngõ Mường phía ngoài có 3 xổng ngụ.
2, Phong cấp bậc hàng châu được xếp đặt theo lệ như sau:
– An Nha là gốc của Bản Mường (Tri Châu) giúp việc có Phìa Thổ (thư lại) phìa thông (thông lại). Mường phìa có Phìa Lý (vua kinh gọi là Lý trưởng); phìa phó (phó lý) 2 phìa này coi trông bản Mường mình. Có 8 chức ông ở Xổng (vua kinh gọi là kỳ mục) từ ông xen (pằn) đến tận ông chá hườn.
Có ông mo, ông nghè, ông chang, giúp quản lý luật lệ, cúng tế.
3, Quyền lợi bổng lộc các quan chức.
An Nha ăn 10 mẫu ruộng trong phạm vi bản chiềng đi (chiềng ly), thu “thóc lười” (tô thuế) của dân hàng Châu: mỗi mẫu phải nộp một tạ thóc.
Án Nha có 9 bản nhốc (làm dịch vụ)
Thư lại ăn 6 mẫu ruộng Chiềng Đi hưởng 3 bản nhốc.
Thông lại ăn 5 mẫu ruộng Chiềng Đi, 3 bản nhốc.
Phìa lý (lý trưởng) ăn 5 mẫu ruộng, phó lý ăn 3 mẫu ruộng.
Ông xen đứng đầu Xổng Pằn ăn 8 mẫu
Ông Pọng đứng đầu Xổng Pọng ăn 6 mẫu
Ông Ho Luông đứng đầu Xổng Ho Luông ăn 4 mẫu ruộng
Ông Pọng Cang đứng đầu Xổng Phọng Cang ăn 3 mẫu ruộng
Ông quan xư (ho cang) ăn 2 mẫu (giúp việc ông Xổng Phọng Caug)
Ông Ho Hé ở bản Lăng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Pằn.
Ông Pụa ở bản Púng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Pọng.
Ông Chá hươn ở bản Lẹng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Ho Luông.
Khi Phìa xức nộp thuế thì ông Xổng phải xức đến quan bản, quan bản bổ xuống đầu dân Mường phải nộp đầy đủ.
Khi Phìa xức phu phen xuống đến xổng nào, thì ông Xổng xức Quan bản cắt phiên đi phu từng nhà…ông Xổng dẫn phu nộp cho Phìa
Lúc nào An Nha, phìa cần gì thì gọi ông Xổng tới hầu
Mỗi xổng có:
Quan pách: về tư pháp (ăn 1,5 mẫu) các pách xông chia làm quan các bản
Dưới quan pách mỗi xổng có 2 giúp việc là Quan Phòng
Dưới quan phòng mỗi xổng còn có 2 Quan chiềng quản lý việc xây dựng nhà cửa, đốc thuế, mường phai, cúng mường, Quan chiêng ở xổng nào thì do người ở đó làm …vv…
Mỗi bản có quan bản (tạo bản) giúp việc có chá bản, 1 bản có 7-8 mẫu thì quan bản được 3,5-4 sào.
Ở Mường Muối ngoài 4 xổng ở trong Mường còn có 5 lộng (Mướng É, Mường Bán, bản Pịn, Muội Nọi, Chiềng Đa) mỗi Lộng có 1 Tạo Lộng.
Mỗi Lộng có bản Quen (Ken), do 1 Tạo Quan đứng đầu
4, Lệ xin làm chức dịch:
Ai có tên Quảng, tên xự (được Bản mường) đặt cho thì mới được phép xin làm Quan bản, đi từ thấp lên cao, có “tiền xin chức” nộp cho An Nha (tri châu).
5, Về kiện cáo, phạt vạ:
Án Nha có quyền phạt vạ thu từ 1,2 nến đến 12 nén bạc
Thư lại được phạt vạ từ 1,2 – 6 nén bạc
Quan chiềng, quan chá, quan bản được phép An nha (phạt vạ thu 5 đồng cân đến 4,4 lạng bạc).
6, Quy định về phu phen tay dịch
7, Về bắn súng nhầm, làm cháy nhà, do đi săn bắn nhầm chết người, phải góp tang ma:
– Dựng 1 cây “heo” có 20 vải cờ
– Mổ 1 con trâu tang lễ
– Tiền xuống nước, xuống lửa 3 lạng bạc
– Tiền đắp cản nước mắt 1,3 nén bạc
Làm cháy nhà mình để lây sang nhà khác bị phạt: 3 lạng, 2 trâu
8, Săn được thú to phải biếu xén:
– Đùi to sau biếu An Nha, các phìa
– Thịt thăn to biếu ông Xen
– Đường thịt thăn trong biếu ông Pọng
– Thăn treo biếu ông Ho Luông ..vv…
9, v.v làm cuông nhốc: quy định như sau:
Những bản phải làm cuông nhốc trong mường làm theo Luật định, bản ở xa ở xổng nào thì làm cho xổng đó.
Các chức dịch phải dẫn dân cuông nhốc bản mỉnh được đi vỡ hoang, làm thủy lợi, lập bản.
Người Xá Khao (Kháng) ở bản nào đều phải là cuông nhốc ở đó. Người Mèo không phải làm cuông nhốc nhưng phải nộp thuế, nộp lợn gà cúng tế ở mường.
10, V.v làm cho người (nữ) bị chửa hoang và chửa trước khi thành vợ:
– Án Nha, thư lại thông lại bị tội này cũng bị phạt 12 nén bạc, làm trước (ăn cơm trước kẻng) bị phạt 6 nén.
– Con chức dịch (Tạo và nàng) đi chơi bị làm chửa, phạt 6 nén bạc
Đàn bà góa nhà Án Nha phìa tạo tội chửa hoang phạt 12 nén bạc.
– Ai đó ngoại tình: phạt 12 nén bạc
– Làm chửa không chịu lấy (kể cả gái) bị phạt cho cả 2 phía.
– Quan chức bị phạt được An Nha giảm ½ số bạc.
11. Xử phạt trộm cắp:
– Ăn cắp hoa màu phạt 1,2 nén bạc, nếu là con nhà chức dịch thì bị tăng gấp 2
– Ăn cắp thóc lúa: đền gấp 2, phạt 1,2 nén bạc.
– Ăn cắp trâu bắt làm tôi đòi (nô lệ) cho Phìa Tạo, nếu không phải phạt gấp 3 lần (3 trâu)
12. Ngoại tình:
– Vợ ngoại tình: nếu chồng bắt được có quyền giết chết, đánh đập kể cả tình nhân, không coi bị án mạng, kiện thì được 12 nén bạc
– Đàn ông ngoại tình: bị chồng người ta đánh giết cũng không bị tội, kiện bị phạt 12 nén bạc.
13. Bổng lộc cho các quan trong phòng cúng lễ:
– Ông Mo ở bản Pán hưởng 3 mẫu ruộng, lấy người 2 bản làm nhốc
– Ông Nghè ở bản Pán hưởng 1 mẫu ruộng và 1 bản làm nhốc…
14. Đất nước, rừng và cúng lễ:
Mường bản chỗ nào mà chẳng có ma (phi) phù hộ: cấm không được vi phạm những nơi sông, núi, ao thiêng…
15. Cúng Mường: tục lệ quy định là:
1/- Xên cha (lễ cúng Mường) là lớn nhất thuộc lệ hàng Châu Mường, tổ chức vào ngày “cúng nhà” cho An Nha…
2/ Xên Mường: lễ có 1 trâu, 1 bò, 5 lợn, 1 chó, 1 vịt, 32 gà + rau quả…lễ ở gian “tạy” của nhà An Nha.
3/, Xên kẻ khó Mường (cúng giải hạn cho Mường): 1 trâu, 3 lợn, 10 gà, 1 chó cúng ở nơi “cửa hồn chiềng” phía “cửa xen” phía trên Mường mé cuối dòng suối.
4/, Cúng hồn chiềng: Cỡ như trên làm ở “cửa hồn chiềng” phía “cửa pọng”.
5/, Cúng tiễn tối tớ ma nhà:…. Dựng lều ở sân nhà An Nha.
6/, Lễ cúng điều lành.
7/, Tế đen trắng: 2 trâu 1đen/1 trắng cúng hồn Mường và họ ngoại Tạo ĂmPoi.
8/, Tế ở cửa suối Muội: Cửa sông Nặm Muội là nơi có khu rừng già nguyên sinh ở Mường Sại. Đó là nơi cụ chủ “Ngu Háu Cầm Lò Lẹt” đã dựng nhà cúng tế tổ họ Tạo – tổ tông người Thái đen: 1 trâu đen.
16. Lễ cúng cho mỗi người, mỗi nhà.
TANG LỄ THÁI 
Nghi thức chung: nhà nào có người mất, báo Trưởng tộc đến chủ trì, chọn 1 nhóm dâu rể đến túc trực – rồi phát tang.
Chết, rất kiêng kỹ ngày “mão” đó là ngày con Ong, ngày vất vả – nếu chết vào ngày này là phải đắp chiếu coi như còn sống (Kiểu ở xuôi để cưới chạy tang) chờ hôm sau mới coi là “chết”. Ngoài ra còn kỵ ngày Hợi, phải đợi giờ Dần làm giờ chết để trị các loại ma (phí).
Sau khi tắt thở: con cháu vuốt mắt, tắm nước lá thơm, thay quần áo mới nhất rồi khâu vài đồng bạc trắng vào cổ áo (khót ngân khót có sửa) và vào 2 mông quần, khâu phía đầu mảnh vải căng trên cây nêu (co cao) ngoài mộ.
Cây nêu làm bằng cây tre cao 5-7 mét dựng hướng về Nậm toóc tát (thác đầu nguồn) có cành ngang để treo áo người quá cố (đàn ông áo đỏ, đàn bà áo dài) trên dọc cây nêu có dải vải màu trắng và đen ở giữa có mảng thổ cẩm, đối với người già, dải vải dài 7 xải, tuổi trung niên 3 sải rộng 1 gang tay, đó là cờ ma (mạng lỉu heo). Trên cây cao buộc con ngựa gỗ “ngày về trời theo cánh ngựa bay”, hướng về đầu thác nước để hồn có ngựa cưỡi bay về trời. Bên cạnh cây nêu buộc 1 máng nứa có thóc có cỏ cho ngựa (gỗ) ăn. Riêng hồn người thì không phải đem theo thức ăn vì đã có ông thầy Mo cúng bái “làm tang” (dẫn nhập hồn vào Mường ma) “Pết cáy  Xam háp bung, Xam háp khẩu  nặm pay toi” (gà vịt 3 gánh, cơm nước 3 gánh đem theo nồi).
Cây nêu bên mộ sau 1 tháng tự đổ là điềm tốt nghĩa là hồn đã về trời (người kinh là sau 49 ngày cúng cơm) chưa đổ là gở với gia chủ, nên do đó khi chon cây nêu phải chọn người biết làm, gần gũi với tang chủ.
Khi khâm niệm (cộn pang) phải có 2 mảnh thổ cẩm lót dọc 2 sườn xác – quần áo buộc dọc xác và có dây buộc hộ tro hỏa táng (sai chaư). Mỗi con đẻ có 1 bộ quần áo để vào cái “sa” đặt bên quan tài, con dâu thì mỗi người 1 dải vải trắng vắt buông phía trên quan tài, con trai được đứng trước ngực người quá cố, con gái ngồi ngang thân quan tài, con dâu đội khăn chóp trắng, áo đen dài, khẩu vải thổ cẩm đỏ vào tà áo ngồi phục bên cửa vào của nhà sàn.
Không được đến gần nơi quan thi hài. Khách viếng, con dâu ngồi phục cảm ơn tiễn khách, cơm trưa và chiều cúng thủ lợn, 4 chân, tim gan, rể phải đưa cỗ vào cúng bố mẹ vợ, không có thì cháu rể thay, cỗ có 3 mâm, mâm gạo và hoa quả, mâm vịt luộc, mâm lợn luộc: mỗi mâm có 4 chén nước, 6 chén rượu và 50 xải vải trắng gấp gọn đặt trên 1 thang tre, con rể cả khấn “ông, bà đi, chúng tôi con cháu đã lo được mâm cỗ, xin nhà ngoại nhận cho”.
Sau đó trải tấm vải trắng lên quan tài, trên đó có những miếng vải nhỏ như đuôi cá viết chữ Thái kể công đức người quá cố, cầu mong ông (bà) phù hộ. Xong xuôi bên rể nâng vải lên đầu làm cẩu cho hồn đi qua tới khi ông mo đọc hết bài cúng.
Sau khi viếng, cúng…đem thi hài đi hỏa tang. Xác được bó vải đặt trên 1 cái kiệu tre khiêng ra gò đất cao cạnh Paheo (nghĩa địa – rừng ma) chất củi xung quanh đổ thêm dầu hỏa rồi châm lửa đốt, tro xương cho vào 1 chum nhỏ đem chon vào huyệt mộ…
Tục ngữ có câu “cốc cồ lộn báư bên/ vên tai báư hụ” (không tự nhìn thấy gáy mình/ ngày chết không ai biết trước), sinh có hẹn, tử bất kỳ là vậy! 
LỄ HỘI LUNG TA 
Người Thái trắng (Quỳnh Nhài và các noi) thường thì vào chiều 30 tết âm lịch…coi như thời điểm chuyển giao từ năm cũ sang năm mới. Mọi nhà chuẩn bị tết, còn cá nhân thì tắm gội mặc quần áo mới, tiếng chiêng trống vang lên đón tết…mọi người trong bản ra suối, sông thăm gia “lễ gội đầu”, coi đây là lễ hội mở đầu cho 1 năm mới, đó là để rửa trôi đi những cái vất vả, bệnh tật, những điều không may mắn của năm cũ, tống tiễn tai ương theo dòng nước đi mãi không lặp lại…đồng thời cho con người sức khỏe, năm mới tốt lành, gặp điều hay, làm ăn phát đạt. Để chuẩn bị cho lễ hội gội đầu trước đó cả tuần chị em đã vo gạo nếp lấy nước, đổ vào cái nồi cất giữ để cho càng lên mùi chua càng tốt. Đó là nước gội cho phụ nữ. Nồi nước tắm là nồi nước thơm của cây mùi già. Còn cánh đàn ông gội nước bồ kết nướng ai nấy áo cóm, váy đẹp cùng chiêng trống kéo ra bờ suối, bờ sông.
Chị em cởi trần, kéo cạp váy lên phía trên ngực che vú, cúi đầu buông tóc tiến hành gội từ nước gạo nếp chua, nước lá thơm, nồi xõa theo dòng nước…
Đàn ông thì quần cộc, cởi trần gội,…Ngoài ra cánh đàn ông còn mang súng kíp ra bờ sông bắn nổ to vài phát tiễn năm cũ đón năm mới hòa trong tiếng chiêng trống ấm vui của cả bản.
Gốc gác sự tích của “lễ hội Lung ta” (lễ hội gội đầu) là trong buổi lễ: Ông Mo còn hát kể về công lao của nữ tướng Nàng Han xưa (con gái 1 Tạo Mường) cầm quân đánh tan giặc ngoại xâm, đuổi chúng tới tận cõi Mường Xo (Phong Thổ – Lai Châu)…Dẹp xong giặc; cho quân sỹ nghỉ ngơi, tắm gội trên dòng Nậm Te (Sông Đà) để ăn mừng chiến thắng…vì thế người Thái Trắng vùng Sông Đà đến nay vẫn còn lưu lại phong tục này – đó là lễ hội lung ta (xuống bến nước làm lễ gội đầu) vừa là tẩy trần sạch sẽ vừa là để tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc…
XÒE THÁI
Múa xòe, còn có tên “xòe khăm khen” (múa cầm tay), có từ xưa có 32 điệu, nổi tiếng nhất là xòe phong Thổ, xòe Mường Lò.
Phổ cập là điệu “khắm khen” mọi người nắm tay nhau quay vòng tròn, biểu hiện cho tình đoàn kết; điệu “khắm khăm mới lẩu” tức là nâng khăm mời rượu tỏ lòng yêu quý và mến khách; điệu “đổn hôn” tức tiến, lùi nhào về phía trước ý nói trời đất dù có bão giông, sống gió nhưng tình cảm con người với nhau thì luôn gắn chặt; Điệu “phá xí” tức bỏ bốn, tượng trưng cho 4 phương trời đoàn kết giao lưu; điệu “nhôm khăn” tức tung khăn thể hiện niềm vui mừng mùa màng thắng lợi, xây nhà mới, sinh thêm con cháu, cưới xin…
Ở vùng Mộc Châu – Mai Châu (Tày Đeng) có các điệu xòe chá, xòe ồng bổng, xòe kiếm, xòe đánh máng…
Xòe ồng bổng là 1 điệu múa xưa, động tác đơn giản, mọi người cầm tay nhau nhảy nhót xung quanh đống lửa theo nhịp “hò huậy, hò huây” mừng thắng lợi giòn giã sau cuộc đi săn về hoặc xung quanh vò rượu cần mừng nhà mới.
Đặc điểm xòe này: trang phục bình thường chỉ có đàn ông xòe, “nhạc” miệng là tự hô, cổ vũ người xem, vui nhộn phóng khoáng. Điệu xòe “đánh máng” dành cho nữ giới, cứ 3 cặp mỗi cặp dùng 2 chày gỗ gõ vào máng dùng để giã gạo, tạo ra tiếng chày giòn chắc, nhịp điệu mỗi lúc 1 mạnh…cùng trống chiêng rộn rã.
Các điệu xòe (xe) được các nghệ nhân dân gian xây dựng (32 điệu) luôn mang bóng dáng gần gũi với dân bản như “xe cúp” (múa nón), xe tẳng chai (múa chai), xe kếp phắc (hái rau), xe cáp (múa sạp)…
Các điệu xòe vòng sôi nổi bao nhiêu thì các điệu xòe đơn, xòe tốp lại tinh tế duyên dáng bấy nhiêu – với triết lý âm dương: trời đất, nước – lửa và ý nghĩa nhân sinh cao cả ẩn chứa kỳ ảo trong các điệu xòe Thái từ xưa tới nay trong các cuộc vui liên hoan, lễ hội.
NHẠC KHÍ THÁI 
Từ xưa người Thái đã làm “Pí” (sáo) để thổi chơi, gửi gắm nỗi niềm qua nốt nhạc tiếng sáo giữa núi rừng mênh mông đèo heo hút, là công cụ để “pay ỉn sao” nói tiếng lòng vào con tim người mà mình theo đuổi…
1, Pí tam lay (pí nốc ống) cấu trúc gồm 2 phần: phần 1 là ống phát âm nối với ống 2 làn phần khuếch thanh, ống 2 đôi khi được lắp thêm 1 gáo tre (to) để tăng độ vang của âm thanh.
2, Pí lào nọi (sáo lào nhỏ): y hệt phần 1 của pí tam lay, bằng cây nứa tép, tuy khác là 1 hàng âm 6 lỗ.
Xuất xứ: từ “pí” (sáo) có lẽ từ “pép” hoặc pép phan (pép hoẵng) do tục đi săn hoẵng (từ pép đẻ ra pí cùng đồng âm). Trong đêm khuya ở rừng vẳng lên tiếng Hoẵng kêu (Hoẵng giác) đó là lúc con đực đi tìm con cái để bắt chước tiếng Hoẵng gọi bạn tình phải chăng vậy “pí” chỉ là 1 ống nứa tép mà véo von mà “bếp nhà sàn, tiếng pí thổi say mê” là thế?
Ngoài sáo còn có KHÈN
TẮM Ở BẢN 
Bản người Thái (ở lưng núi) không có ao như làng người Kinh (ở đồng bằng)… nhưng việc tắm rửa cho sạch sẽ thân mình thì người Thái ăn đứt người Kinh là cái chắc.
Ở bản có 3 cách tắm rửa:
– Một là nơi “mó nước” đầu bản: Đó là nơi có ống nước tự chảy dẫn qua ống máng tre từ trên nguồn đổ về trong sạch tuôn suốt ngày đêm… thường có 2 ống: một bên nam, một bên nữ. Ngăn cách 2 bên là một phên nứa để bên nào bên ấy “tắm truồng” thoải mái.
Thường thì 3, 4 giờ chiều mùa hè, dân bản đi nương, ra ruộng về, tất cả tới mó nước đầu bản là “kẻ xuộng xựa” (cởi quần áo “tắm”). Chị em thường là ý tứ ngồi xổm, khép đùi, áo được cởi vắt trên con sào bên cạnh, váy được dâng lên đỉnh đầu, ngực lưng hứng vào ống nước đang chảy, 2 tay xoa kỳ cọ thoải mái, đúng như “da trắng vỗ bì bạch”, vú để tự do (là của trời cho) ai thấy cũng chẳng sao.
Cánh đàn ông thì “truồng” 100%  chuyện trò cười đùa rôm rả… thật cứ như nơi vườn địa đàng buổi ban đầu con người còn chưa biết xấu hổ (nả hại) – tức là khi người nữ chưa ăn trái cấm (theo lời xui của con rắn “quỷ sa tăng”) nên tất cả đều rất vô tư, tắm truồng chung 1 mó nước, thỏa thích ngắm thân hình khỏa thân của nhau mà trong lòng không gợn chút dục vọng thú tính để dẫn đến tội lỗi?…
– Hai là: Tắm suối (vắng vẻ là tắm truồng)
– Ba là: Tắm sông
Chị em thường là ngồi ngâm mình dưới nước, váy để trên đỉnh đầu hoặc váy để trên bờ. Khi tắm ở sông suối, chị em thường kết hợp gội đầu, thả làn tóc mây xòa theo dòng nước, rồi đứng dậy, vung quay tít cứ như một điệu múa tóc thật là điệu đàng của các tiên nữ trên mường trời.
Người Thái rất tự hào về cái sạch sẽ da thịt của mình… chị em ngày rửa tới vài lần, lại mặc váy rộng xông xênh, nên thường nói đùa “hi của chúng tao là hi hom (thơm), chứ không bịt kín (xi líp), quần bó chặt như người Kinh chúng mày, nên hi min (thối) lắm bệnh phụ khoa”.
Văn minh đô thị hay hoang sơ thôn bản (trở lại cội nguồn tự nhiên chưa ô nhiễm môi trường) đang là một vấn đề nhức nhối của cái thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và con người hình như đang tự đánh mất mình để tiến lên văn minh tàn bạo.
LỄ TẰNG CẨU 
Lễ tẳng cảu (tằng cẩu): Là lễ búi tóc ngược lên đỉnh đầu của phụ nữ Thái đen Sơn La  khi lấy chồng.
Sau lễ mai mối, chạm ngõ ăn hỏi và lễ cưới, người con gái đã có chồng thì lễ tẳng cảu làm ở nhà gái.
Trong các đồ sính lễ do nhà trai đem sang thường phải có 1 chiếc trâm bạc cài tóc (mản khắt phôm)… người đảm nhiệm làm thường là bà dì, nhà gái có 2 phù dâu trợ lý tiến hành.
Đầu tiên là gội đầu bằng nước vo gạo nếp (để chua) – bẳng nậm khẩu má và nồi nước lá sả, lá bưởi, lá tre… tất cả đem ra bến nước bờ suối giúp cô dâu gội đầu (như một lễ tẩy dơ bẩn trôi theo dòng suối, chỉ còn lại trên đầu phần vía (khoăn hua) thơm tho tốt lành… xong cô dâu về lên phía “tang chan” – khoảng 10 ghế mây (tắng)… cô dâu quay về phía mặt trời mọc, mọi người đứng xung quanh, 2 phù dâu áp sát 2 bên, 1 người nâng đĩa trâm cài tóc. Bà “Nai tằng cẩu” rút lược sừng đen từ cái “ếp” của mình ra làm vài động tác đưa lên hạ xuống và chải tóc cho cô dâu nhiều lần.
Cuối cùng dùng 2 tay vuốt ngược từ sau gáy, đưa độn tóc đặt vào chính giữa đỉnh đầu và búi tóc “tằng cẩu”… sau khi vuốt nắn lại không còn sợi tóc nào vương lòe xòe, thì cô nâng trâm cài tóc xuyên đúng chỗ để giữa “cẩu”, nổi bật đồng bạc hào hoa văn trắng ở phần đầu của trâm cài tóc chính giữa búi tóc ngược.
Trước đông đủ mọi người, bà Nai cẩu nói:
Khắt cẩu đi
Vi hoa kiểng
Tẳng cảu au phua
Té nị pay nả
Ca nị mưa nưa
Báu đảy nặm pay nảư
Chăư pay ứn luk ơi!
Nghĩa là:
Gội đầu sạch
Chải tóc mượt
“Tẳng cảu” lấy chồng
Từ giờ này đi
Từ nay về sau
Không được nước thay dòng
Lòng đổi chỗ con ơi!
Tiếp theo 2 vợ chồng dắt tay nhau đi qua dọc bàn tiệc đặt dài giữa nhà đã có khách ngồi kín đông vui nâng chén rượu chúc mừng.
TỤC ĐẺ NGỒI CỦA NGƯỜI THÁI
* Đẩy xí phiên xong hắu chắng ó kin khẩu
Cẳư bươn phạ chắng ó kin nốm
Tốc khuổm chắng pên lụ chái
Tốc hai nọng ánh xai phên lụ nhinh phủ ưởi
* 10 tháng chờ đôi ta ra đời ăn cơm
9 tháng đợi đợi đôi ta ra đời bú mẹ
Rơi sấp thành bé trai
Rơi ngửa em yêu thành bé gái.
Khi chuyển dạ, sản phụ được uống nước với cây “mậy phang” (cây tô mộc) có tác dụng cầm máu (có trong rừng hay mua của người Dao, người Hmông).
Sản phụ đẻ ngay trong ngăn buồng ngủ của mình trong tư thế ngồi (ghế = tắng), đỡ đẻ thường là mẹ đẻ hay mẹ chồng, hoặc tự xoay xở (nay thì có y tá bản)…
Lễ vật cúng “bà mụ”: 1 con gà trắng, cắt rốn bằng dao cật nứa hơ qua lửa hay nhúng vào nước sôi để sát trùng. Rau thai được gói chôn gần nhà (kín đáo vào ban đêm).
Khi trẻ đầy tháng thì cúng “hết hoóng”. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lúng ta (bên ngoại) đến đặt tên cho cháu.
NHÀ SÀN THÁI 
Nhà sàn của người Thái - Sơn La - Tây Bắc “hướn hạn phủ táy” là một công trình kiến trúc tài hoa, hòa đồng với thiên nhiên, trời đất cùng vạn vật, có 2 loại:
– Nhà sàn khung cột: bộ khung được gá lắp từ các bộ phận rời, bắt đầu từ việc chôn cột (nhà cột chôn - nghèo) “hươn chim mạy”.
– Nhà sàn vì kèo “vì cột”: Kèo, cột, xà ngang đã được lắp ráp thành các đơn vị “vì kèo” dựng nối các vì bằng các xà dọc (tiến từ hườn khứ sang kẻ khứ (quá giang = khứ) có hai trụ để đỡ đòn tay (pe hản) là con cung. Đó là loại nhà “hườn kè khang” (nhà kê hạ).
Nhà sàn Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, 2 đầu hồi - “tụp cống” khum khum như mai Rùa, gắn với truyền thuyết thủa khai thiên lấp địa, thần Rùa “Pua tẩu”. Dạy người Thái làm nhà theo hình Rùa đứng.
“Khửn song phái/ cái song đay” - mở 2 cửa/ đi 2 cầu thang là  “tang chan” và “tang quản”. “Tang chan” ở cuối nhà bên trái dành cho phụ nữ. “Chan” là phần nhà sàn được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi đàn bà trong nhà ngồi nghỉ ngơi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa, cầu thang phía này thường 9 bậc (9 vía).
Cầu thang đầu bên phải “tang quản” dùng cho nam giới; 7 bậc (7 vía).
Có 2 bếp lửa: “chik pháy” phía tang quản dành cho người già. Bếp chính phía tang chan dành cho nấu nướng, phụ nữ. Bếp lửa nhà sàn ở giữa nơi núi rừng âm u được coi như “trái tim bốc lửa” sưởi ấm nuôi dưỡng cả về vật chất, tinh thần cho cả nhà.
Gian “quản” có bàn thờ tổ tiên “hỏng hóng” và cột thiêng “sau hẹ”. Trên cột thiêng có treo hình Rùa bằng gỗ 3 bông lúa “sam huống khẩu” và 3 nhánh rau “thì là” “sam hóm chik” - đó là biểu tượng của tô tem giáo cùng bóng dáng thuyết thiên - địa - nhân.
Nhà sàn Thái vừa trang nhã vừa chắc chăn:
Hươn đi tẳng cang tèn
Hươn én tẳng cang vên
Lốm luông pặt bấu chại
Lốm hại pặt pấu pay.
(Nhà tốt dựng nơi cao ráo
Nhà đẹp dựng giữa mường
Gió to thổi không xiêu
Bão lớn không lay động).
* Sự tích cái Khau cút (hoa nhà) 
Theo Quắm tố mướng (kề chuyện mường)
Thì: Cuộc thiên đi/ đi đường thuyền sợ rơi/ phải chuồn theo đường con don, con dím…
Người Thái từ xíp xoong păn na (Vân Nam) đi theo dọc sông Hồng (Nậm Tao - Sông Thao) ra đi vào cuối tuần trăng. Họ đi cứ đoán lũ nhìn vào mặt trăng khuyết ở cuối dãy núi, họ hẹn nhau, hễ ai đến được phương đất nào khi làm nhà thì dựng trên đầu hồi nhà (nóc) một cái dấu hình mặt trăng khuyết để nhận ra đồng tộc – và cái đó gọi là “khao cót” và gọi chệch là “khau cút” = sừng cuộn.
Theo tiếng Thái “khao” là trắng, cót là ôm có ý nghĩa là mối hận ly hương. Cái mô típ trang trí nghệ thuật “mặt trăng khuyết” này còn có ở cửa sổ, khăn Piêu…
Khau cút vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén chân gianh bằng rui: Đó là tiêu chí nghệ thuật về nhà sàn Thái.
Khau cút là 2 thanh gỗ đóng chéo hình chữ X trên đòn nóc “tiêu bôn” trước hết là để chắn gió “pảy lốm” nẹp 2 mái gianh 2 đầu hồi nhà. Những nhà tầng lớp trên xưa còn thêm bông sen cách điệu ở 2 giao điểm 2 tấm gỗ và 8 hình trăng khuyết hướng  vào nhau so le trên khau cút.
Có nhiều cách hiểu về khau cút:
Đó là cặp sừng trâu cách điệu (văn minh lúa nước); Đó là những búp cây Guột (rau dớn)… nhìn thấy nó là ta nhớ bản nhớ mường.
Trên bậu cửa thường chạm hình đôi Thuồng luồng (tô ngựa) linh vật làm chủ trên sông suối, biểu tượng cho sức mạnh và gia đình hạnh phúc.
* Các loại khau cút:
– Khau cút mải: Là dạng đơn giản nhất chỉ là 2 thanh tre bắt chéo vào nhau, là dấu hiệu nhà của phụ nữ góa bụa (me mải).
– Khau quai (sừng trâu), khau pẻ (sừng dê), cút chim may (trăng khuyết) cút nêm (cút lá tre) là dấu hiệu của nhà bình thường.
– Khau của pụa (khau cút Vua) dấu hiệu nhà Quan lại, quý tộc gồm 2 miếng ván dài trên 1m, phần chót có đóng 2 miếng gỗ ngang, chia 5 nhánh, mỗi nhánh có gắn hình hoa thị theo số đếm của luật tục làm nhà.
– Khau cút căm (khau cút vàng) dưới có thanh gươm, là dấu hiệu của Nhà quý tộc “quan võ”.
– Khau cút hoa sen: Nhà quý tộc lớn.
Bố trí nội thất: Tiếp liền vách gian buồng thờ tổ tiên (hóong) là buồng ngủ của chủ nhà, phía chân thường đặt thêm bếp lửa để gia đình sum họp, sưởi ấm… chăn đệm chất đống đặt ở phía đầu ngủ.
Vị trí ngủ của các thành viên trong gia đình: Gian giữa “xáo hạch” và “hỏng ly” là gian khách đàn ông ngủ. Đối diện phía dưới là nơi con trai chưa vợ ngủ. Kề cột xáo hạch là vợ chông chủ nhà ngủ. Kế tiếp là vị trí Bố mẹ chủ nhà ngủ, tiếp là vợ chồng con trai ngủ, tiếp là nơi vợ chồng con gái ngủ, rồi đến con gái chưa chồng ngủ.
Con rể không được vào khu vực bố mẹ vợ ngủ, con dâu, con rể không vào khu bố mẹ chồng ngủ. Bố mẹ chồng không vào khu con dâu ngủ.
Sợi dây  “xảo lỏng luông” là ranh giới (sợi dây linh thiêng) nên người ta chỉ vắt khăn mặt, khăn Piêu lên sợi dây này.
          Tuyệt đối không vắt quần áo, tối kỵ là váy áo phụ nữ.
Con gái chưa chồng
Vợ chồng con rể
Vợ chồng con trai
Bố mẹ
(ông bà)
Vợ chồng chủ nhà
Khách đàn ông
* Các vị trí khác:
– Nơi để hạt giống (giàn 2 bếp)
– Nơi để ống nước: Dựa vào vách bên phải (thường ngồi quay mặt vào bếp)
– Nơi để khung dệt vải: Bên phải sàn xia phía trong nhà hoặc bên trái sàn xia  phía ngoài nhà.
– Nhà kho: Ở dưới gầm sàn
Lễ lên nhà mới: mời Lúng ta (ngoại) châm lửa nhóm củi ở bếp mới, mời mo đọc bài xua đuổi tà ma
GÁI THÁI 
Cảm tưởng đầu tiên khi gặp “gái Thái” là nõn nà, sạch sẽ, đẹp, hấp dẫn cả dáng lẫn da.
Trang phục đẹp “độc đáo” tạo dáng đi tha thướt, uyển chuyển, làm nổi bật các đường cong gợi cảm nhưng vẫn kín đáo, thắt đáy lưng ong. Tính tình dịu dàng, hiền thục, dễ gần gũi, thực thà, chất phác, nói năng vừa phải.
Tình cảm: chân thành, yêu tha thiết, hoạt động tình dục mạnh mẽ, đứng tuổi mà bộ ngực vẫn đầy đặn.
“Gái Thái tóc thơm, da trắng, thịt mềm
Đôi bầu nhật nguyệt như mộng ước
Ru hồn trai lên cõi trời tiên”
Thông minh, hoạt bát, ham học hỏi và nhanh tiếp thu cái mới.
Sinh hoạt cộng đồng: dám phát biểu chính kiến, hay hát và hát hay, múa (xòe) giỏi.
Chăm chỉ đảm đang, nuôi con khéo, dạy con ngoan. Không đánh con, ít xảy ra cãi nhau (to tiếng), không ăn cắp, không nói dối (ba vẹo).
Có tính bình đẳng bình quyền (không tự ti), có chí khí vươn lên (danh ca có nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa; chính trị cấp cao có Tòng Thị Phóng – ủy viên bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội…)
Nhận xét (đánh giá) về “gái Thái” của chính các chàng trai Thái qua “Tản chụ xiết xương” (tâm tình người yêu) với cái lối nói “xiết” (kiểu nói kháy, hơi cường điệu, phóng đại “quá” lên một chút) đã ca ngợi cô gái có vẻ đẹp thông qua lao động:
“Xai pánh nhịp lang chủm pên hún nộc dung / phung lang he pến hún luống bin xẻo/. Lả tắt kẻo pên chớp lao vi”
(Em khâu vó nên hình chim công /vá chài thành hình lượn con rồng) đưa nhát kéo thành Sao Tua Rua/.
Cô gái xinh xắn ở trên sàn khuống khiêm nhường đáp lại:
“Khuống phủ khuôn nhinh khuống nọi, khống ai khái
Khuống pai chán dú ngăm nga phả
Báu đáng nả chụ pươn má cha đău ná”
(Khuống của em, Khuống nhỏ lại xiêu vẹo ở bên sàn ngoài, cớm cành cớm nguội chẳng xứng mặt chàng yêu của người sang chơi).
Người Thái có câu “au mia bấng me nai” (lấy vợ thì xem bà mẹ cô ta) ý là “mẹ nào con ấy”…từ lên sáu, lên bảy, bé gái đã được mẹ dạy tập nhặt bông, cán bông, quay xa, kéo sợi, cầm kim chỉ để khi lớn là thông thạo dệt vải vá may, tự tay trồng bông, dệt vải, nhuộm màu, cắt may quần áo, làm chăn gối đệm màu…Phụ nữ Thái còn giỏi trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt thổ cẩm đẹp, thêu piêu…coi đây là các nghề phụ làm ngoài giờ ra ruộng, lên nương, nuôi dạy con cái. Đó là những bàn tay tài hoa, khéo léo:
“Sai pánh khuổn mư sại lẹo chum bok cai
Hai mư khoa chum bơk Mường Hỏ
Năng dóng dỏ nhịp lụa pên pik bin lá”
(Em úp tay trái nở hoa đào
Ngữa tay phải thành hoa Mường Hỏ
Khép ngồi khâu lụa thành (chim) vỗ cánh bay.
Sự chăm chỉ của các cô gái Thái thức khuya dậy sớm trên khung cửi từ canh ba, canh tư đến tang tảng sáng mới rời khung cửi đi nương, ra ruộng.
“Tứn tắm húk kem bươn hai
Tứn tắm húk lai kem bươn hai póng hung”
(Dậy dệt thổ cẩm cùng trăng sáng
Dậy dệt vải hoa cùng trăng tỏ rạng đông).
Người phụ nữ Thái quên ăn quên ngủ làm lụng tận tụy vì chồng con, xã hội… đã tạo ra các sản phẩm thiết thực quý giá… các chàng trai Thái luôn mơ ước kiếm được cô vợ đảm đang, qua lời hát “khắp” đã lý tưởng hóa về việc nàng thêu khăn đào tặng chàng:
“Lả tắm phải pên póc nong xe
Pánh tắm pé pên khoáng lái lủ
Chụ tắm khẳm pên khoáy lai lương
Cốn táng phương lướt le chăử hảy”.
(Em dệt sợi thành vóc hoa dâu
Em dệt tơ thành gấm hoa vân chéo
Dệt thổ cẩm rực rỡ hoa văn
Ước được em thêu dệt khăn đào).
Như vậy: Gái Thái với vẻ đẹp hình thể (vào loại nhất ở nước ta) thì cái đẹp bên trong, vẻ đẹp nội tâm quả là các cô nàng xinh đẹp để cho ta chiêm ngưỡng và yêu thương hết dạ.
TÊN MỘT SỐ MÓN ĂN THÁI
Người Thái có câu “dệt kin xấư xốp nhăng báu hụ” - làm ăn vào miệng còn không biết thì mọi lời nói chữ nghĩa cũng chỉ là “tô xư tai” (con chữ chết) mà thôi. Theo Vi Liên:
1. Căm khảu (Phần về cơm):
Khảu nửng (cơm xôi), khảu lam (cơm lam), khảu tổm (bánh chưng), khảu chảo (cơm thổi), khảu canh (cháo), khẩu chí (cơm nướng)…
Khảu bái pa (cơm cá), khảu bái sáy (cơm độn trứng), khảu bái bay (cơm độn trám đen), khảu bái cưởm (với trám xanh), khẩu bái nậm ỏi (với mật), khẩu nhọm (nhuộm các màu), khảu qua mắn có (độn sắn), khảu qua khảu phảng (độn kê), khẩu qua li tổm (với ý dĩ), khảu qua phứa hom (khoai thơm)…
2. Căm chảm (các loại chấm).
* Le cưa khao (muối trắng), le ướt cưa (muối ớt).
* Các loại “chéo”: Chéo khinh hom (gừng), chéo ướt cưa (ớt tỏi), chéo báư líu (lá chanh), chéo hom chi lang (húng chó), chéo inh ki (húng) chéo hom kíp (tỏi), chéo hom pẻn (mùi tàu), chéo phắc chậu (sả), chéo thúa nau (đỗ tương), chéo pa (cá), chéo pu (cua), chéo mẹ (sâu măng), chéo non tó – chéo manh i (nhộng, ve), chéo đẻ mọn (nhộng tăm).
* Các loại mắm: Mẳm ca (cá), mẳm nước, mẳm khụa (nòng nọc), mẳm mẹ (sâu măng), mẳm co đường Pừng (nhộng cây móc), mẳm manh ti (nhộng ve), mẳm manh po (nhộng cánh cam), mẳm tắc ten (châu chấu), mẳm pu (cua), mẳm non tó (nhộng ong), mẳm manh đa (cà cuống), mẳm tô niểng (niềng niểng).
* Các loại nước chấm:
Nặm xổm đanh (măng chua), nặm xổm má xim (quả xím), nặm xổm mák (quả bứa), nặm xổm má liu (chanh)… kham bong (quả me), nặm mắm (nước mắm), nặm tôm (mắm tôm), pảnh van (mì chính).
3. Căm kin (phần về các món ăn):
* Phau (đốt) – chí (nướng)
Các món nướng (pỉnh): Pỉnh họn, pỉnh tộp (cá), pỉnh ho (gói), pỉnh mịnh (hơ), pỉnh mản (xiên), pỉnh mản xót (xiên miếng to).
* Các loại lam: Lam nhứa phặc (thịt nạc), lam nhứa hạp hạ (thịt bạc nhạc), lam phắc (rau), lam nó (măng), lam tô họk (con sóc), lam tô ổn (con dúi).
* Các loại “mốc” cá:
Gói lá vùi tro nóng: Móc tong (lá), mốc ố (ủ), mốc nhứa đảng (thịt khô), mốc cay (rêu đá), mốc pho, mốc ốt, …
* Các loại Ók gồm:
Hầm cách thủy: ók năng min, ók nhứa đảng (thịt chó), ók cay (rêu đá), ók tau (tảo), ók bon, ók ốt…
* Các loại nhọk (nghiền nhuyễn): Nhọk mák khừa (cà), nhọk mák thú (đỗ), nhọk năng (da), nhọk nhứa (thịt).
* Các loại mọk (tẩm bột hầm cách thủy):
Mọk cáy (gà), mọk pa (cá), mọk nhứa (thịt), mọk tô pụng (diều hâu), mọk tô hơn (don), mọk tô mển (dím), mọk cay (rêu đá), mọk hết (nấm), mọk mắk mư (quả chua ngọt).
* Các loại pho (đùm lá vùi nướng):
Pho hết côn (nấm rơm), pho cốp (ếch), pho hết hẹk (nấm hương), pho hết khôn cày (nấm da), pho chương tọng (lòng), pho pa (cá).
* Các loại nửng (xôi) “đồ”:
Nửng táo, nửng xá – đíp (chín tới), nửng pa (cá), nửng phắc kén (rau khúc), nửng man ca (búp sự), nửng pưới (nhừ), nửng nhứa (thịt), nửng mák buốp (mướp), nửng mák pi (hoa chuối), nửng dúak pi (nõn cây chuối rừng)…
* Các loại quả:…
* Các loại rau: Đều đem “đồ” mới ăn, phắc cát úp (bắp cải), phắc cát mong (cải xanh), mướk (bồ công anh), khỉ táu (diếp cá), noók (rau má), ngỗm (xương sông), cát đon (cải bẹ), cát choong (cải xoong), ót (rau ngót), xô-ók (dọc mùng), cút nặm (dớn), phắc ở lợt (lá lốt), phắc ven.
4. Các loại lá (lá non và ngon):
Bâư mắn co (ngọn sắn), bâư ổi, bâư ngoa, bâư đứa.
5. Các loại măng ăn ghém sống:
Nó khá, nó van, nó bới, nó thúa ngọk (đá), nó pửng, nó lau, nó man ca, nó tao, nó vai…
6. Các loại nấm: Hết bỉ, hết thu nún nặm.
7. Các loại quả thơm:
Măk khén (hạt tiêu rừng), măk he (tiêu), măk ớt (ớt).
8. Các loại vỏ:
Năng co hăm (vỏ cây hạt dổi)
Năng chưa bi mi
9. Các loại quả ăn sau bữa cơm (đét xe):
Măk teng (dưa), kiểng (cam), hảu (bứa ngọt), phong mạt (dứa), mắk muông (muỗm), hăm (hạt dổi), liu (chanh), cuổi (chuối), nghe (quýt), na (na), pục van (bưởi ngọt)…
10. Các loại bánh kẹo:…
11. Các loại chụp (nộm):
Chụp phắc chiệu (rau bướm), nó (măng)…
12. Nó xổm (măng chua)
Nó héo (măng khô chua)
Nó hang (măng khô)
13. Các loại củ quả:
Mắk ứk (bí đỏ), mắk phặc (bí xanh).
14. Các loại hoa “đồ” chín ăn được:
Bók ban (hoa ban), ít ương, thúa (đỗ), tong tay, hởng, nôm nẹ, pip, ứk, khạnh…
15. Các loại gỏi: Cỏi năng (da) cỏi pa (cá), cỏi nhứa (thịt), cỏi xổm (chua), cỏi khôm (đắng)…
16. Năm pịa, nặm bi (mật).
17. Kăm cắp (ghém):
* Các loại ghém rau thơm:
Hom kim (húng), hon xa au, hon pẻn, hon chỉ, hon kip (tỏi).
8. Căm nặm (phần để các món uống):
Lảu xá chúp (rượu cần mút)
Lẩu xiêu (rượu cất).
Lẩu vạng (rượu cái).
Nặm ta (nước lã), lẩu xá nóng (rượu đóng chai), lẩu xong xiêu (cất 2 lần), nặm che (nước chè)…
Cơ cấu một bữa ăn (mâm cơm) thường phải có đủ 5 thứ (năm miếng) xếp thứ tự.
1. Căm khảu (về cơm)
2. Căm chảm (về chấm)
3. Căm kin (về món ăn)
4. Căm cắp (về món ghém)
5. Căm nặm (về món uống)
Khi sắp xếp mâm cơm: Đặt trước tiên là “đĩa muối ớt” coi như đã có chủ nhà  (mi chản hươn) tiếp theo là các món khác.
Do thích ăn “xôi nếp thơm” nên cả hệ thống tiếp theo sau cơm (xôi) là các món thức ăn khô (trừ rượu) mùa nào thức ấy.
Các món ăn “đồ” (không luộc) nên ăn ngọt đậm (không nhạt)…
Bữa cơm Thái quả thật là độc đáo, hấp dẫn, ngon mà như đủ các vị thuốc thu lượm từ rừng núi rất bổ dưỡng cho cơ thể con người.
LẨU XÁ 
Rượu cần (lẩu xá - rượu của người Xá “Khơ Mú”) là thứ rượu ủ men (không cất = lẩu xiêu).
* Men lá gồm các thứ quả bơ, mắk cái, củ riềng, lá trầu không, quả ớt…giã nhuyễn với gạo tấm, sau đó nắm thành từng miếng tròn dẹt như bánh rán, đem ủ trong đống rơm, xếp từng lớp đều nhau từ 15 – 20 ngày có mùi men bốc lên đem phơi, để gác bếp khô. Khi dùng giã nhỏ rắc vào cơm rượu. Mỗi mẻ rượu cần 7 - 9 bánh.
* Cái rượu: Vỏ sắn khô gọt ra ngâm suối 3 ngày đêm cho hết mùi bồ hóng và độc tố ở sắn, vớt lên phơi khô trộn với trấu lẫn tấm đưa lên “chõ” (dụng cụ đồ hấp, đồ cho chín, đổ ra mẹt để nguội đem men rắc trộn đều, tiếp tục ủ bằng lá chuối hoặc lá rừng (bó nhum, bỏ cá) để rượu bốc men rổi bỏ vào chum (ché) lấy lá chuối hoặc mảnh ny long bịt kín (để hở thì rượu sẽ bị chua) - sau 25 - 30 ngày thì có thể dùng được, để càng lâu thì rượu càng đặc, càng ngọt.
Ngoài sắn khô, còn làm bằng ngô, ý dĩ, củ dong riềng, chuối, dừa, củ mài…
Rượu cần (lẩu xá) còn có tên là lẩu kép (rượu trấu), lẩu pẳng (rượu ống), lẩu co (rượu cây) rất đậm ngọt.
Rượu Thái Sơn La: 1kg gạo + 2kg trấu + ½ lạng men. Ủ 5 - 7 ngày.
Khi uống: Mở nắp, đổ nước lã sạch vào ngâm 1 phút cho ngấm, cắm cần vào và đổ nước (sừng trâu) liên tục khi ta hút… uống đông vui: 1 hũ từ 10 - 12 bạn bè coi như là anh em “lẩu khay cáy khả” (rượu mở là thịt gà…).
Khi chum rượu lẩu xá đã mở là trống, khèn, cồng chiêng hòa theo các điệu “khắp”, múa xòe dập dìu say sưa tới sáng.
Bên hũ rượu cần là nơi hội tụ mọi cộng đồng mường bản, chân thành, đoàn kết, bình đẳng, không phân biệt ai với ai.
Nguyễn Khôi
Nguồn: Trích từ sách Sơn La ký sự    
Theo https://nghiencuulichsu.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tết Việt ngày xưa

Tết Việt ngày xưa Từ xưa Việt Nam cùng một số nước châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc... sử dụng âm lịch là loại lịch được tính toá...