Xin đôi dòng kể lể: Trong một ngày cuối năm 2014, tôi
có nhận món quà của người bạn từ Thụy Sĩ gởi về. Hằng năm cũng được nhận như thế;
nhưng lần này, trong gói quà có tập sách mà tôi đã tặng cho anh từ cuối năm 67,
lúc chúng tôi vừa vượt qua học trình tối thiểu PES (physique de l’état solide),
chuẩn bị cho giai đoạn làm nghiên cứu. Vài tháng sau, anh ra đi du học, tôi ở lại
cuốn vào dòng xoáy thống khổ khốc liệt của cuộc chiến tranh dai dẳng… Sau khi bảo
vệ luận án, anh dạy Vật lý lý thuyết tại Đại học ở Thụy Sĩ, nay đã nghỉ hưu.
Gia đình ổn định. Anh viết email cho tôi không thấy có tâm sự gì, nhưng tôi cảm
nhận được đôi điều ghi chú bên lề quyển sách cũ gởi về lại.
Tập sách có tựa đề “Ảo tượng” (NXB Lá Bối 1966). Trong đó có
bài “Con thằn lằn chọn nghiệp” mà chúng tôi rất yêu thích lúc bấy giờ của tác
giả Hồ Hữu Tường. Tiên sinh nay không còn, qua đời lúc 70 tuổi (1910 - 1980). Lúc trẻ đậu Thạc sĩ Toán học ở Pháp, sau khi về nước, lại trở thành
nhà văn, nhà báo và dạy ở Đại học Vạn Hạnh. Ông đã có nhiều tác phẩm nghiên cứu,
khảo luận về các vấn đề văn hóa - chính trị - xã hội được thế hệ chúng tôi ngưỡng
mộ. Nay xin kính cáo tiên sinh, cho phép đăng và giới thiệu lại truyện ngắn hay
này cho bạn đọc và để nhớ lại một kỷ niệm thật xa xăm giữa tình bạn lúc vui,
lúc buồn:
“Tàn canh mộng đổ vô thường
Bơ vơ quán trọ khói sương đọa đày”
(Tuệ Sỹ)
Truyện rằng:
Giữa một con đường truông thăm thẳm, vắng vẻ âm u, không một
xóm nhà, ít người qua lại, có một cái am nhỏ. Am ấy mới cất, độ non ba năm
thôi. Trong am chỉ có một sư cụ già, thui thủi một mình, quanh năm chẳng được
ai thăm viếng. Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa lớn, vừa cao
ngất; củi xếp rất vuông vắn, thẳng thắn, dường như được săn sóc chẳng khác một
vườn kiểng do một vị lão trưởng giả chăm nom.
Một hôm, trời đã tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được một chặp,
thì có hai người khách đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng:
– Bạch sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới dõi đến
đây. Mong nhờ sư cụ cho tá túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.
Nhà sư ung dung, chắp tay đáp:
– Mô Phật. Cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước.
– Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi này, không được một ai
đến viếng. Ngày nay là ngày ước nguyện, may được hai ngài quá bước, ghé nghỉ
chân. Âu cũng là duyên trước…
Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện
không đề, vô tình dẫn khách đến câu hỏi:
– Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào?
Vui sướng, vì như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp:
– Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói rằng
đã viếng khắp nơi. Cách ba năm nay, lòng huệ được mở ra…. Và từ ấy tôi chỉ tụng
kinh Di Lặc.
Một người khách hỏi:
– Sư cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao chăng?
– Mô Phật. Chỉ có lời nói mà độ được người, tôi sao dám tiếc
lời? Vậy tôi xin vui lòng nói cho hai ngài rõ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách,
thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy: Hai ngàn năm trăm năm về sau, Phật
pháp sẽ đến chỗ chi ly, ấy là hồi mạt pháp. Di Lặc sẽ xuống trần mà cứu độ
chúng sanh và chỉnh đạo lại. Nay kể cũng gần đến kỳ hạn. Chắc là Phật Di Lặc đã
xuống trần mà độ kẻ thành tâm tu hành. Bởi lẽ ấy nên tôi có nguyện tụng đủ một
nghìn lần kinh Di Lặc. Nếu lời nguyện được y, ấy là tôi sẽ đắc đạo.
Người khách thứ hai hỏi:
– Sư cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi?
– Đã được chín trăm chín mươi chín lần rồi. Bây giờ, chỉ
còn lần thứ một nghìn, lần tụng của đêm nay. Chắc hai ngài trước có duyên lành,
đêm nay đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy…
Đến đây, bữa cơm chay đã mãn, khách mệt mỏi, xin phép ngả
lưng. Nhà sư dọn dẹp trong am cho thanh khiết, rồi bước lại trước bàn Phật,
khêu bấc đèn dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, như
truyền vào không gian. Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân lên đánh dấu chuỗi tiếng
mõ dài đằng đẵng…
Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đổi vài câu:
– Tội nghiệp thay cho sư cụ già, quá mê tín, mất sáng
suốt, mà không giác ngộ. Phật pháp lập ra đã hai nghìn năm trăm năm về trước,
tránh sao cho chẳng có chỗ lỗi thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ ắt phải
lo tài bồi, phát triển mối đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ; rồi sanh
ra môn, ra phái, ấy là nguồn gốc của sự chi ly. Nay rừng thiền có hơn tám mươi
bốn nghìn cội khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.
– Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó, và nghĩ thêm rằng:
nếu bây giờ có một vị Di Lặc xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật
pháp cho cao kịp với sự tiến hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay. Và
trách nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước cái pháp mới
sắp ra đời. Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải là phụ
lòng mong mỏi của Thích Ca chăng?
Lời nói của hai người khách, giữa một cái am vắng vẻ, không
dè có kẻ trộm nghe. Kẻ nghe trộm này là một con thằn lằn, đến ở am, khi am vừa
mới dựng lên, và đã từng nghe chín trăm chín mươi chín lần kinh, nên có linh
giác, nghe được tiếng người, biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê bình của hai
người khách đã giúp cho con thằn lằn giác ngộ. Nó vốn biết nguyện vọng của nhà
sư: là hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư sẽ lên giàn hỏa mà tự thiêu…
Rồi nó nghĩ: nhà sư lòng còn mê tín chưa được giác, phỏng có thiêu
thân thì làm sao nhập được Niết Bàn. Hay là ta tìm thế ngăn người, đừng để cho
người thiêu thân, đợi chừng nào người được giác, rồi sẽ hay.
Rồi con thằn lằn quyết định: phải ngăn ngừa, đừng để nhà sư tụng
xong lần thứ một nghìn. Nó nghĩ được một kế: ấy là bò lên bàn Phật, đến đĩa đèn
dầu, rán sức mà uống cạn dĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư không thấy chữ mà
tụng nữa.
Một sức mầu nhiệm đã giúp cho con thằn lằn đạt được ý nguyện:
chỉ trong một hơi mà đĩa dầu đã cạn; bộ kinh mới chỉ tụng quá nửa mà thôi. Đèn
tắt, nhà sư ngạc nhiên, nhưng nghĩ: hay là hai người khách là kẻ phàm tục,
không được duyên lành chứng giám việc đắc đạo của mình? Âu là xếp kinh, nghỉ,
chờ ngày mai khách lên đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy.
Nhưng, sau đó, đêm nào cũng vậy, buổi kinh chưa xong mà đèn lại
tắt đi. Nhà sư có lúc tính tụng kinh lần này vào khoảng ban ngày, nhưng nhớ lại
khi xưa đã có lời nguyện tụng kinh vào khuya, tĩnh mịch, nên không dám đổi.
Và một đêm kia, dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà mắt chốc
chốc nhìn đĩa dầu để xem sự thể do đâu, nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà uống
dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, mà mắng rằng:
– Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được
đắc đạo!
Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập
mạnh. Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần
kinh, bước lên giàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu mình.
Và cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến trước toà sen của
Phật. Uy nghiêm, Ngài gọi nhà sư mà dạy:
– Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu
bài học vỡ lòng của Pháp ta là thế nào! Pháp ta đã dạy là phải trừ hết dục vọng
thì mới đắc đạo, mà ngươi dục vọng lại quá nhiều: bởi việc muốn đắc đạo, để được
thành Phật kia cũng là một cái dục vọng. Có dục vọng ấy là THAM, bởi tham nên
giận mắng con thằn lằn, ấy là SÂN, bởi sân nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn
thì tha hồ tụng kinh, rồi đắc đạo, ấy là SI. Có đủ THAM, SÂN, SI tất phải phạm
tội sát sanh, thì dầu ăn chay trường trọn đời cũng chưa bù được.
“Tội của ngươi lớn lắm, phải tu luyện rất nhiều mới mong chuộc
được. Vậy ta truyền cho Kim Cang, La Hán hốt hết đống tro do xác ngươi thiêu mà
hóa ra, rồi đem tro ấy tung khắp bốn phương trời. Mỗi hột tro đó sẽ hóa sanh
làm một người. Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám chúng sanh ấy sẽ được qui
nguyên, trở lại hiệp thành một, thì nhà ngươi sẽ đến đây mà thành chánh quả”.
Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:
– Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội đó đáng giá là
một mà thôi. Còn nhà ngươi, được nghe lời hai người khách, được giác một phần rồi,
mà làm tội, tội ấy đáng kể là mười. Hồn con thằn lằn lạy mà thưa rằng:
– Bạch Phật Tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà sư, dầu
nát thân cũng không tiếc. Chẳng hay đệ tử có tội chi?
Phật phán:
– Muốn độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn đón
việc tụng kinh của người? Đã đành rằng tụng kinh như nhà sư là một việc mê tín,
song vẫn là một tín ngưỡng. Cõi Phật vốn là cõi tự tại, nếu phạm đến tự do tín
ngưỡng, gọi để dắt người vào, thì làm sao cho được? Bởi ngươi không dung phương
pháp tự do, ngươi là kẻ mất tự do, thì cả hai làm sao vào cõi tự tại?
Một lần nữa, con thằn lằn được giác, quì lạy mà xin tội:
– Xin Phật Tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp
nữa, để dùng phương pháp tự do mà độ vô số chúng sanh do những hột tro, mà các
vị Kim Cang, La Hán vừa tung ra đó.
Phật đáp:
Hồn con thằn lằn vừa muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì sực nhớ
lại, nên bạch rằng:
– Xin Phật tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi?
– Phật đáp:
– Nhà ngươi đã gần bến giác, phải tự mình chọn hình thể mà
hóa sanh. Tự do chọn lựa mới có thể luyện mình để bước vào cõi tự tại.
Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào
đâu, để có thể vừa dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông
người, số người đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật chưa hề lúc
nào có một linh hồn bị trừng phạt phải đau khổ đến thế.
Một hôm, trong hồi phiêu bạt, nó trông thấy bóng của hai ông
khách khi xưa đã đến ngủ ở đây. Vội vã, nó bay theo, vái chào và kể nỗi niềm
đau đớn:
– Hai ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có hay đâu
tôi phải mang cái nghiệp vô định này. Đã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến.
Hai ông khách đáp:
– Chúng tôi đâu dám lên mặt thầy đời mà dạy người, huống chi
lại dám đèo bồng mang lại một giải pháp cho một vấn đề nan giải. Nhưng đã lỡ
gieo trong trí ngươi một ý nghĩ làm cho ngươi phải khổ như bây giờ, thì phải
góp ý kiến để cho ngươi suy xét mà gỡ rối. Ấy gọi là chuộc lỗi.
Hồn con thằn lằn gật đầu, cảm ơn trước. Một người khách nói:
– Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy
việc đem ý hay lời đẹp làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự vui của người
làm sự sung sướng của mình, cho đó là sự “đắc đạo” của mình. Nếu phải mong muốn
điều gì thì cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được thì tốt; bằng không
thì thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến tự do của người…
Nghe đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện trong trí
con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:
– Xưa nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc,
kể một chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ này được truyền ở hàng
triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, thì cố gắng
trau dồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể cảm hóa
triệu triệu người…
Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người ngọn lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên…
Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người ngọn lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên…
Hồn con thằn lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói rằng:
– Con đường ấy khó đi cho đến hết được, song chắc chắn là đi
cùng đường, ắt có thể đến trước tòa sen mà chầu Phật Tổ. Vậy tôi xin cố gắng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét