Thứ Hai, 17 tháng 6, 2024
Ý chí sắt đá
HUYỀN TRANG
Bỗng phép màu hiện lên. Henrique đương ra dấu cho thổ dân thì
ngừng lại, toét miệng ra cười vì hiểu lõm bõm được vài tiếng. Hắn chú ý nghe.
Đúng rồi. Tiếng mẹ đẻ đây mà. Hắn đã trở về quê hương, hắn là người đầu
tiên đã đi vòng quanh trái đất, hắn đã chứng tỏ cho thế giới thấy rằng trái đất
tròn. Phút đó bao giờ mà quên được!
Việc nước hồi đó gần như việc riêng của các gia đình quý
phái, mà bọn này không thấy sự suy sụp sắp tới, chỉ lo lấy lòng vua và hoàng hậu:
bọn đàn ông nhàn cư quá, không biết làm gì, rủ nhau đi săn, và ganh đua nhau
chiếm «trái tim» của các bà. Ông nào cũng có một vài tình nhân, và thường thường
mỗi bà cũng có một «Cavalier servant», tức một chàng sang trọng phong nhã để
đưa đón, hầu hạ mình, tán tỉnh mình và tâm sự với mình. Ở Versailles, một ông
chồng mà thủy chung với vợ thì bị mọi người chê là ngốc.
Ông đã hãy tin rằng đứa con gái lớn của ông, Henriette đã mất,
và đứa sau - cô Anastasia - sanh trong khi ông vắng nhà, đã được hai
tuổi. Ông nóng về nhà để gặp mặt vợ con lắm, nhưng khôn khéo, lại thẳng ngay
triều đình, trình diện với thượng thư Maurepas, và dâng tờ biểu lên xin nhà vua
tha cho tội đã tự tiện quaHoa Kỳ hai năm trước. Maurepas hỏi chuyện ông luôn 2
giờ về tình hình bên kia Đại Tây Dương. Vua Louis XVI làm bộ trừng trị ông, bắt
ông không được ra khỏi nhà, không được tiếp khách khứa trong mười ngày,
Adrienne không cần gì hơn: sau hai năm xa cách, chồng bà hoàn toàn là của bà
trong mười ngày đó. Ông thấy bà đẹp hơn trước, vì già dặn thêm, thùy mị thêm.
Bà kể lể nỗi buồn rầu của bà khi ông mới đi: miệng thiên hạ sao mà độc thế, cứ
quả quyết rằng ông bỏ vợ con vì thất tình với Aglaé d'Hunolstein. Còn ông thì
không ngớt lời ca tụng Washington, một người mà ông trọng như cha, và ông thầm
mong rằng dân tộc Pháp được một ông vua như vậy.
Ngày 19.4, ông bỏ lại tất cả các trọng pháo và lều, để tiến
quân cho mau, tấn công tướng Anh William Phillips trong lúc bất ngờ. Phillips
chính là người đã bắn chết thân phụ ông hồi ông một hai tuổi. Ông quyết chí trả
thù cho cha và ông trả thù được một nửa: Phillips bị thương chứ không bị bắt,
và ít lâu sau mới tắt thở trên giường bệnh.
Hai tháng sau ông mời ông bà Lafayette qua Hoa Kỳ chơi.
Lafayette nhận lời, ông muốn thăm những chiến hữu cũ; vả lại chính phủ Hoa Kỳ,
để trả ơn ông, đã tặng ông nhiều khu đất mênh mông mà ông không thể từ chối được.
Rất tiếc là bà quá bận việc không thể đi theo ông. Vì chuyến này, ông được dân
tộc Hoa Kỳ tiếp đãi như một ông hoàng: người ta bắn súng, giăng đèn, mở hội
linh đình để đón ông, nhà thờ thì kéo chuông mà lính thì bồng súng. Quốc hội
long trọng tuyên bố rằng ông là ân nhân của dân tộc. Từ Philadelphie ông lại
Baltimore rồi Mount-Vernon, ở chơi với Washington mười ngày. Ôi! Nếu Adrienne
đi theo ông thì bà sẽ sung sướng biết bao khi thấy cả một dân tộc ngưỡng mộ chồng
mình. Bà vẫn mong lỡ cơ hội đó, còn cơ hội khác, nhưng số bà hẩm hiu, không được
trông thấy châu Mỹ, không được hưởng chung cái vinh quang của chồng trên đất Mỹ.
Lafayette tấn công Calonne là phải và hành động đó rất can đảm:
Calonne có thể bắt ông nhốt khám Bastille nhưng hắn không dám, mà xin từ chức.
Uy tín của Lafayette tăng lên. Hai tháng sau ông dâng một bản phúc trình lên
nhà vua, nhấn mạnh rằng cần phải giảm thuế, cho dân chúng phát biểu ý kiến, chỉ
có cách đó mới cứu được nền quân chủ. Và kết luận, Hội nghị xin nhà vua triệu tập
nội trong 5 năm, một hội nghị quốc gia, gồm đại biểu đủ các giai cấp. Các thân
hào khác giật mình y như bom nổ trên đầu.
- Rất nhiều người quý phái trốn ra khỏi nước, muốn nhờ ngoại
quốc đem quân dẹp giùm cách mạng.
- Tâu Bệ hạ, Bệ hạ đã rõ lòng trung của hạ thần; nhưng xin Bệ
hạ hiểu cho hạ thần rằng nếu Bệ hạ chống lại dân chúng thì hạ thần sẽ phải đứng
về dân chúng.
Ngày 10-8, quần chúng lại tấn công điện Tuileries, bắt giam
Louis XVI vào khám. Thế là cách mạng đã qua hai giai đoạn: Quân chủ chuyên chế
đã đổ, bây giờ quân chủ lập hiến cũng đổ nốt. Lafayette muốn đem quân về dẹp loạn,
lập lại chế độ lập hiến, nhưng không ai nghe ông nữa và Quốc hội không dám bênh
vực ông. Ông thành một tên phản quốc, uy tín tiêu tan hết. Vinh quang trước kia
của ông rực rỡ biết bao, bây giờ còn gì? Muốn chiến đấu ư? Khí giới đâu? Binh
sĩ đâu? Không thể đầu hàng quân Áo, nhục lắm! Đi đâu bây giờ? Chỉ còn cách tạm
trốn sang một nước trung lập, ông vượt biên giới, lẻn qua Hòa Lan để tiếp xúc với
đại sứ Hoa Kỳ, nhưng bị quân đội Áo bắt ở Rochefort rồi giam làm tù binh.
Khi được trả tự do rồi, bà Lafayette về thăm con ở Chavaniac,
nhờ bạn bè đưa cậu George qua học ở Hoa Kỳ, rồi lại viết thư xin Washington vận
động cho chồng được thả. Và không có kết quả. Thấy vậy bà nhất định tìm chồng để
sống chung với chồng trong khám. Ai cũng bảo bà điên. Còn bị nghi kị, làm sao
bà ra khỏi Pháp, mà sang Áo được? Mà dù có qua được Áo thì người ta có cho phép
bà vô khám sống chung với chồng không? Nhưng bà tin chắc là được và lòng tin đó
giúp bà dẹp được mọi trở ngại.
Trong số năm vị Đốc chính, hai vị có cảm tình với gia đình
Lafayette; còn ba vị kia còn ngại rằng thả hổ về rừng thì rắc rối về sau. Rồi
đây Lafayette làm lãnh tụ bọn bảo hoàng lập hiến thì làm sao? Bonaparte lúc đó
đã có nhiều tham vọng, cũng không muốn cho Lafayette về vì biết rằng chỉ có ông
đáng là địch thủ của mình thôi.
Trong một bức thư dài 20 trang, ông kể lại những ngày cuối
cùng của bà cho một chiến hữu rất thân, thông gia với ông, tức César de la
Tour-Maubourg. Đọc bức thư rất cảm động đó ta thấy rằng tấm lòng của bà đẹp vô
cùng. Con cái đã thành gia cả rồi, bà khỏi phải lo tính về việc nhà, lòng hướng
cả về nhân loại và về chồng. Bà bảo ông:
Tới Paris, Napoléon nói với một người thân cận:
- Nếu vậy thì đáng mừng. Nhưng chính phủ có phát bánh cho họ
không? Xin ông Chủ tịch nhớ rằng những thợ đó chiến đấu để khỏi bị chết đói. Khẩu
hiệu của họ là gì: «Làm việc mà đủ sống, nếu không thì chiến đấu đến chết!».
Vì vậy khi đọc bài La Sincérité chez les orientaux de la
civilisation confucéenne của cố linh mục Cras đăng trong tạp chí Sud-est
asiatique, tôi thấy vui như vô tình gặp được một gia bảo đã bỏ quên một xó
trong kho từ lâu. Vị học giả đó đại ý cho rằng không có một hệ thống siêu hình
học hoặc luân lý học nào mà đề cao đức thành bằng đạo Nho, một đức quan trọng
vào bực nhất, gồm tất cả những qui tắc chính về đạo đức mà lại bao quát được những
ảnh tượng nguy nga nhất về sự vật trong một nhân giới siêu hình. Và lời của Khổng
Tử: «Thành giả, tự thành dã», có một âm vang rất mới mẻ ở thế kỷ XX này, nó làm
cho ta phải đặt hết tâm trí vào, mà trong tâm hồn ta dấy lên vô số tư tưởng và
hoài vọng.
Vì nhận thấy rằng cái mà người Trung Hoa thời xưa gọi là lời
nói của con người (chữ tín gồm chữ nhân với chữ ngôn), thời này y như tấm
giấy bạc giả, cho nên đọc xong tiểu sử của Thomas Edward Lawrence, tôi bồi hồi
vừa thương cho ông, vừa phục ông là cái lương tâm còn sót lại của Âu Mỹ mà chép
lại mấy trang dưới đây để độc giả suy ngẫm.
Có thể Lawrence đã tô thêm những nét qua rõ lên tuổi thơ của
ông, nhưng chúng ta cũng phải nhận điều này: nếu hồi nhỏ ông chưa có chí hướng
rõ rệt như vậy thì ít nhất cũng đã có một xu hướng thúc đẩy ông tới hành động
thời tráng niên của ông; nếu không thì làm sao ta giải thích được lòng say mê
cuốn Arabia deserta của Doughty, say mê chiến thuật của Thập tự quân
cùng những đồn lũy thời trung cổ. Rồi làm sao hiểu được sự quyết tâm sống một đời
kham khổ ngay từ hồi nhỏ: ba năm liền, khi còn đi học, ông ăn toàn trứng, sữa,
rau cỏ, trái cây, y như dân Ả Rập. Và cũng như dân Ả Rập, có hồi ông tập nhịn
đói luôn ba ngày để quen chịu đựng những thiếu thốn trong sa mạc. Làm sao hiểu
được ông thờ ơ với Đại Tây Dương mà thích riêng có Địa Trung Hải như trong đoạn
trên chúng tôi vừa kể. Quả thực là có một sức huyền bí nào hướng ông về miền Ả
Rập, sức huyền bí đó hồi nhỏ có lẽ ông không cảm thấy, lớn lên mới nhận ra sau
khi phân tích tâm trạng của mình, rồi chép lại trong cuốn Les sept piliers
de la Sagesse.
Thấy tình hình quá nguy, bộ tham mưu ở Caire mới nghĩ tới
Lawrence, và Lawrence lúc này có cơ hội để hoạt động.
Ông không có vẻ bệ vệ như các quan lớn cố vấn khác, trái lại
sống rất bình dân và bình dị: sẵn sàng tiếp đón người Ả Rập, chăm chú nghe họ
bày tỏ ý kiến, và họ tin cậy ông, ai cũng muốn gặp mặt ông một lần. Ông ngồi
trong lều hay dưới những gốc chà là mà tiếp họ như tiếp người thân, tự tay pha
cà phê mời họ, tuyệt nhiên không dùng bồi bếp, kẻ hầu người hạ gì cả. Không những
vậy, ông còn lột bỏ được cá tính Anh của mình nữa mà suy nghĩ như người Ả Rập,
tin tưởng như người Ả Rập, nhất là chỉ mưu tính cái lợi cho người Ả Rập và khi
họ thắng một trận nào thì ông sung sướng y như họ, thua một trận nào thì cũng
đau khổ y như họ.
Không những vậy, qua lúc vui đầu tiên rồi ông chỉ thấy buồn
vì ba lẽ:
Nhưng càng tiếp xúc với chính quyền, lòng ông càng hoang
mang. Ông thấy rằng mặc dù người ta vị nể ông, mặc dầu dân chúng tôn sùng ông
mà những đề nghị của ông không được ai coi trọng cả. Ngoài cái tin về mật ước
kí giữa Anh, Pháp, Nga năm 1916, mà người Ả Rập nào cũng biết cả rồi, ông còn
hay rằng Saint-John Phiby ở Indian Office cũng đang vận động với chính quyền để
gạt Hussein ra mà đưa Ibn Séoud lên. Như vậy thì cuộc chiến đấu thứ nhì này của
ông sẽ gay go mà phần thắng rất ít. Các bạn Ả Rập của ông sẽ trách ông là lừa gạt
họ. Làm sao gột được tiếng oan đó? Họ có tiếp xúc gì chặc chẽ với bộ Ngoại giao
của Anh đâu, họ chỉ biết có ông, chỉ tin có một mình ông. Chính vì ông hứa với
họ rằng sẽ được độc lập mà họ hăng hái chiến đấu, giúp cho đồng minh thắng trận
mà khỏi bị hao quân trên bán đảo. Và bây giờ đây đồng mình trả công cho họ như
vậy đó: trước đây làm đầy tớ cho một nước là Thổ, bây giờ làm đầy tớ cho hai nước
Anh và Pháp; trước kia còn có sự đoàn kết, bây giờ phải chịu chia rẽ làm hai
khu vực ảnh hưởng: Anh và Pháp. Tình cảnh còn nhục hơn nữa.
Ông được phái qua vuốt ve Hussein, vì sau hiệp ước Paris, thấy
mình bị gạt, Hussein lớn tiếng mạt sát Anh, viết một bức thư cho Lloyd George
buộc Anh và hội Vạn Quốc phải đuổi ngay Pháp ra khỏi Syrie và Do Thái ra khỏi
Palestine.
Ông không muốn cho ai nhận ra được mình, nên ông ngoan ngoãn,
chăm chỉ làm mọi việc của một tên binh nhì: cọ sàn, quét sân, rửa chuồng heo, cầu
tiêu, đổ rác...
Mỹ nghi ngờ Anh đã giao cho ông một nhiệm vụ bí mật ở Afghanistan và ở Ả Rập Séoud để gây rối ở miền Tây Á. Đảng Lao Động Anh chất vấn bộ ngoại giao; mà chính phủ Ấn cũng bực mình, đòi đuổi Lawrence về Anh liền.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Lỡ một kiếp người
Lỡ một kiếp người Lỡ một kiếp người Anh ta trông thấy tôi, gọi ầm lên như người kêu cứu, làm cho những người đi ở phố đứng dừng cả lại, ...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét