Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2024

"Nhớ sông" của Huỳnh Văn Quốc: Bởi chính mình và cho chính mình

"Nhớ sông" của Huỳnh Văn Quốc:
Bởi chính mình và cho chính mình

Tôi đọc tập thơ Nhớ sông của Huỳnh Văn Quốc lần thứ nhất ở nơi làm việc. Cảm nhận lần đọc này thực sự không rõ ràng. Và lần thứ hai tôi đọc ở một nơi chốn xa bằng một chiếc laptop nhỏ. Chỉ lần đọc thứ hai mới làm tôi nhận ra những câu thơ bình dị nhưng đã làm xao động lòng tôi.
Bởi lần đọc thứ hai ấy tôi sống xa nhà, xa những gì thân yêu… và mới bắt đầu nhận ra những vẻ đẹp ở nơi chốn đó mà ngày ngày tôi vẫn đi qua. Bởi những gì vang lên trong những câu thơ của Huỳnh Văn Quốc giống như tiếng vang của máu chảy: trung thực và đẹp đẽ.
Bài thơ mở đầu tập thơ thực sự ấn tượng. Một tứ thơ độc đáo. Một lối viết hiện đại. Và nó giống bản tuyên ngôn của nhà thơ về bản chất đời sống và giá trị lớn nhất của mỗi con người được sinh ra. Bài thơ như một văn bản xác lập giá của cái Đẹp:
Ai lớn lên cũng có thể chọn lại cho mình nhiều thứ
Ngay đến Tổ quốc, quê hương
Như chọn vợ chọn chồng
Chọn thầy chọn bạn
Nhưng chọn làm sao ánh trăng ánh mặt trời hay vì sao chiếu mệnh
Chọn làm sao tiếng mẹ ru nôi?
Có hai câu thơ lục bát mà Huỳnh Văn Quốc viết về mẹ làm tôi thao thức nhiều đêm:
Mẹ xa thăm thẳm miền xa
Chợt gần thao thức mái nhà chiêm bao…
Nhớ sông – tập thơ của Huỳnh Văn Quốc, NXB Hội Nhà văn 2022
Ở đây, nghệ thuật của sự sáng tạo cho thấy quyền lực của nó. Nó làm cho những gì tưởng xa xôi, tưởng đã mất lại trở về nguyên vẹn và hiện thực hơn bao giờ hết. Tôi cũng thường viết về người mẹ đã mất của mình. Nhưng càng viết càng thấy mẹ ở xa mình. Nhưng khi đọc câu thơ: Chợt gần thao thức mái nhà chiêm bao… thì tôi thực sự thấy mẹ ở gần mình hơn bao giờ hết. Nếu thơ ca hay nghệ thuật không tìm được cách nói có kỳ diệu của nó thì nó không có một chút quyền lực gì với bạn đọc. Bởi vậy mà thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung luôn có những người tìm đến, đó là bạn đọc. Bởi họ tìm thấy ở đó, trong những câu thơ đôi khi giản dị như một hơi thở, như một lời nói thường nhật, những gì họ đang đi tìm hay đang đổ vỡ bên trong con người họ.
Một đặc điểm rất quan trong trong thơ Huỳnh Văn Quốc là sự giản dị mang tính hiện đại của ngôn từ, của cấu trúc những mỗi bài thơ luôn vươn tới tính triết lý của nó. Nếu nhà thơ không gọi tên được những điều thiêng liêng, những vẻ đẹp ấn giấu trong một đời sống thường nhật thì những gì nhà thơ đó viết ra chỉ là sự mô phỏng một cách vô nghĩa và là sự thất bại của nhà thơ đó trước ngôn từ. Huỳnh Như Quốc là người thoát được sự mô phỏng vô nghĩa và sự thất bại trong sáng tạo ngôn từ.
Sóng bạc, biển xanh, khoang cá bạc
Gặp ngày bão tố nổi cuồng phong
Chưa thấy người về trên bến cũ
Sóng lại về đây quặn nhói lòng.
Xin hãy đọc khổ thơ trên. Không có gì đặc biệt trong hình ảnh, ngôn từ. Nhưng nó đưa tôi trở về đúng bờ biển ấy, đúng một ngày bão tố ấy, đúng nỗi đợi chờ của những người đang đợi chờ người thân trở về từ biển và đúng lúc những ngọn sóng đau thương đang dội vào bờ. Và đúng không gian ấy và đúng thời gian ấy, lòng tôi nhận ra tất cả. Và tất cả những gì nhà thơ muốn nói đã dồn vào câu thơ cuối cùng. Ngọn sóng trong thơ dội lên và ngọn sóng trong lòng cũng dội lên. Nếu nói về thành công của một bài thơ thì đó chính là một thành công. Ở đây, nghệ thuật thơ ca đi một lối khác. Nó không tạo ra những dị biệt để lôi cuốn sự chú ý của người đọc. Mà nó tạo ra một không gian và một thời gian trọn vẹn để cuốn người đọc vào bên trong sự kiện của nó.
Nhiều câu thơ, nhiều bài thơ của Huỳnh Như Quốc giản dị như một người ngồi xuống đâu đó và kể lại những gì đã đi qua trong cuộc đời mình. Chính vậy mà sự chân thành luôn dâng lên mạnh mẽ và tạo ra một vùng tin cậy cho người đọc. Đó là hơi thở của nhà thơ và tiếng dội vang của trái tim nhà thơ. Và điều khởi đầu quan trọng nhất của mọi nhà thơ là viết những câu thơ bởi chính mình và cho chính mình. Và nhà thơ Huỳnh Văn Quốc đã viết những câu thơ như thế.
Hà Đông, 3/8/2022
Nguyễn Quang Thiều
Theo https://vanvn.vn/

Giếng Chùa ngoại sử

Giếng Chùa ngoại sử

Nhà văn Nguyễn Thành Tài sinh năm 1980, hiện sống và làm việc tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Anh là đại biểu Hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ VIII năm 2011.
Nguyễn Thành Tài đã in tập truyện ngắn đầu tiên Nhành lan trên tường rêu năm 2011, được nhận một số giải thưởng văn học của tỉnh Bình Thuận và hai lần nhận Giải Khuyến khích Cuộc thi Truyện ngắn Đông Nam Bộ lần 1 – 2021, lần 2 – 2022.
Khi quyển sử làng Giếng Chùa ra đời, làng trên, xóm dưới tỏ ra coi thường lão Bộc do chuyện lão ấy huyễn hoặc tộc Nguyễn là “khai quốc, công thần”. Trước đây, thấy lão ở đâu, người ta chào từ xa chào lại, cung kính từ lúc giáp mặt đến khi khuất dạng. Bây giờ, lão ấy có đứng chình ình trên đường làng, gió thốc tốc váy áo, ruồi bu mép vo ve, dân thấy cũng vờ đui. Người đi qua ném lại tiếng xầm xì, “cái đồ nhận vơ, nhận váo công lao người khác vào họ mình mà không biết xấu hỗ, sao tiền hiền, hậu hiền làng này không vặn cổ chúng nó ra”. Còn các trưởng tộc khác, khi thấy từ xa liền lẩn vào đâu đó, chờ lão đi qua. Né không kịp thì tụt dép, rớt nón, cúi xuống lượm, để khỏi gật đầu, “chào cụ ạ”.
Lão Bộc biết, căm lắm. “Người quân tử không chấp kẻ tiểu nhân. Đừng có giậu chưa đổ mà bìm đã leo. Ông mà nhất hô thì có người bá ứng”. Nghĩ bụng vậy, lão Bộc phớt tỉnh ăng lê. Cầm quyển sử đưa lên mũi hít hà mùi giấy mới, nâng ngang trán, xá ba xá, đặt lên ban thờ tổ, thắp nén nhang, gõ hồi chuông boong boong, lão Bộc lầm rầm khấn, “con kính cẩn bẩm báo tổ tiên, tộc Nguyễn đã được chép vào sử làng, từ đây con cháu nở mày, nở mặt cùng thiên hạ. Tổ tiên khai hoang, mở đất làng Giếng Chùa này, mà thiên hạ xổ toẹt công ơn, xin bề trên mặc kệ miệng lưỡi ganh ghét thế gian”.
Mỗi tối cơm nước xong, lão Bộc lại thắp nén nhang, mang sách trên ban thờ xuống, bật đèn sáng choang, rót ly trà nóng thơm phức chiêu một ngụm, tay cầm bút bi, lật từng trang, sờ từng chữ. Thỉnh thoảng gật gù tâm đắc, gạch chân chỗ nào viết về tộc Nguyễn.
“Trong kháng chiến, chùa Rồng là nơi lui tới của nhiều cán bộ cấp cao suốt thời gian dài. Do đó, chùa đã được công nhận di tích lịch sử cách mạng cấp tỉnh”.
Lão Bộc đọc đi, đọc lại, cầm bút bi đồ tới, đồ lui dòng chữ nhiều lần muốn rách trang sách, rồi lẩm bẩm, “chùa Rồng được công nhận di tích lịch sử thì cây rơm tộc Nguyễn chí ít cũng được gắn bia lưu niệm chứ nhỉ”.
Bữa rượu tại nhà thờ tộc Nguyễn có mặt đầy đủ mọi người trong tộc tụ họp theo lệnh triệu tập của trưởng tộc. Ngồi mâm trên, bưng ly khề khà với đám con cháu đến lúc cao hứng lên, lão Bộc vỗ ngực quát:
– Tao đã cống hiến trọn tuổi thanh xuân cho làng, xã này. Năm mười lăm, mười sáu tuổi, tao từ chối đi theo đám bạn chăn trâu rủ nhau ra cứ, cầm súng vào chỗ bom rơi, đạn lạc. Tao lấy lý do bận nuôi cha mẹ già, là tao nói vậy, chứ có dại mới theo tụi nó.
Cả đám ngóng cổ nghe phụ họa, “đúng đấy ạ, cụ ra đi có khi, chưa được đỏ ngực đã phải xanh cỏ”.
– Một chiều đang lùa trâu về chuồng thì có một người lạ mặt lấp ló sau đám lúa trổ đòng, đưa tay ra hiệu tao lại gần. Người đó muốn vào làng gặp người thân, đường đường chính chính vào làng thì sợ tụi lính hạch sách gây khó dễ. Muốn lẻn vào làng nhưng chưa biết cách nào qua mặt bót gác đầu làng. Tao lắc đầu lia lịa từ chối. Bọn lính bót gác đầu làng rất hung dữ, sẽ đánh bầm dập khi phát hiện ai dám qua mặt chúng. Người đó nhìn mấy cái bao bố cột chặt miệng đang nằm trên lưng trâu, bảo rằng sẽ chui vào bao, nếu xảy ra chuyện sẽ không để liên lụy đến tao.
Một đứa hỏi, “mấy cái bao cụ chứa gì trong đó”.
– Cứt trâu chứ còn gì nữa. Tao canh chừng từng con bĩnh ra đất còn nóng hôi hổi, hốt cả buổi chiều mới được dăm bao, đem về phơi làm chất đốt. Tao trút ra đất. Người đó chui vào bao. Tao tiếc rẻ đống cứt trâu nằm trên đất, bảo người đó ngồi yên, chịu dơ, để tao hốt đổ lại vào bao mang về.
Cả đám chầu rìa rú lên ầm ĩ. Có cả tiếng khạc nhổ như mình dính phải cứt trâu, “ọe ọe, sao cụ lại làm thế, dính đầy người ta thì sao”.
– Lúc đó tao chỉ tiếc công sức mình hốt cực bỏ mẹ. Giờ nghĩ lại thấy cũng hơi quá đáng. Người đó cũng hơi bất ngờ khi nghe tao nói, nhưng cũng phải chịu làm theo. Về đến đầu làng, bọn lính trong bót đang uống rượu, nhào ra định xét hỏi nhưng bị dội lại mùi đặc trưng bốc ra từ đàn trâu, cùng mấy bao cứt trâu tươi. Tụi nó xua đuổi tao đi càng nhanh càng tốt cho khuất mắt, để khỏi phá hỏng bữa nhậu đang ngon trớn.
Tiếng cười ồ, chen lẫn bình luận, “công nhận cụ tài thiệt, chiêu giấu người trong bao cứt trâu mất vệ sinh nhưng lại đánh lừa được tụi lính”.
– Về đến chuồng, sợ bọn lính đi tuần phát hiện, nhẹ thì nhừ đòn, nặng thì tù như chơi, nên tao mở bao giục đi khỏi đây. Người đó ấm ớ rồi hỏi tao chỗ nào an toàn xin ở nhờ đêm nay, mai đi sớm. Tao lấy làm lạ, nghi ngờ hỏi dồn một hồi, té ra là cán bộ ở trên về làng gây dựng phong trào. Cán bộ khen tao dũng cảm, có tinh thần giúp đỡ người khác, sẽ báo về trên để khen thưởng, rồi rủ tao tham gia tổ liên lạc. Được khen dũng cảm, lại được hứa thưởng, tao thích lắm nhưng không thích làm liên lạc gì đâu, sợ bọn lính bốt gác đầu làng bắt được thì chết.
Một đứa gật gù, “cụ nghĩ vậy cũng phải. Bọn lính mà bắt được thì ốm đòn, cụ nhỉ”.
– Ông cán bộ không ép tao hay không làm phiền gia đình, chỉ xin ngủ lại cây rơm gần chuồng trâu rồi tờ mờ sáng đi. Tao định không cho, nhưng thây kệ, lính đi tuần phát hiện, có hỏi thì tao sẽ chối. Sau này, tao mới biết ổng lần mò đến chùa làng. Bẵng đi một dạo, tao gặp lại ông ấy cũng vào một buổi chiều. Ổng đưa tao gói kẹo nói là quà thưởng việc hôm trước, kèm theo một mẩu giấy nhỏ nhờ đưa sư trụ trì chùa làng. Tao nhận kẹo, không nhận thư. Ổng năn nỉ tao giúp, lấy bùn trét lên lưng trâu giấu mẩu giấy nhỏ. Cực chẳng đã, tao trở thành liên lạc.
Một đứa chêm vào, “số phận đưa đẩy cụ phải làm liên lạc, vậy mà hay”.
– Ừ, nhờ làm liên lạc mà cụ chúng mày mới có những ngày tháng sau này. Giải phóng về, ông ấy làm chức to trên tỉnh. Bởi mù chữ nên tao chỉ được làm đội trưởng đội sản xuất hợp tác xã, chứ không là xin theo ổng làm lớn rồi. Ban ngày đi làm, ban đêm học bổ túc, dần dần tao trở thành trưởng ban kiểm soát, phó chủ nhiệm rồi chủ nhiệm hợp tác xã, rồi phó chủ tịch, phó bí thư, chủ tịch, bí thư cái xã này. Ngót nghét hơn chục năm ấm cật, ngon lành cành đào. Sau cái vụ án trồng rừng keo lá tràm, người ta muốn đưa tao về huyện. Tao biết mình mà đi khỏi làng, khỏi xã này sẽ mang vạ vào thân. Nhân đợt giảm biên chế, tao nghỉ cái rụp, nhường con cháu thể hiện tài năng, lui về đứng sau lưng bày vẽ được rồi.
Một đứa ôm chầm lão Bộc, “ôi cụ tâm lý quá ạ, nhờ có cụ mà con cháu tộc Nguyễn mới được như ngày hôm nay”.
– Tao kể chuyện này ra để thấy rằng, chùa Rồng có công nuôi giấu cán bộ được công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh, thì cây rơm gần chuồng trâu cũng được cán bộ lần đầu đến đó, nó cũng là di tích lịch sử chứ, đúng không tụi bây.
Cả đám lao nhao, “cụ dạy chí phải ạ, tộc Nguyễn ta làm đơn đề nghị trên xem xét công nhận cây rơm là di tích lịch sử đi ạ”.
Lão Bộc rung đùi, bưng chén rượu lên chiêu một ngụm, rồi cười khà khà.
“Việc trồng cây chắn cát được tỉnh triển khai xuống xã. Các hợp tác xã phân công xã viên tham gia công việc, tính công điểm, cuối năm trả bằng thóc. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện có xảy ra tiêu cực, trên về kiểm điểm Bí thư xã, ban quản trị hợp tác xã”.
Đọc đến đoạn sử này, lão Bộc gấp trang sách lại, nhấp ngụm trà, cười thầm, “làm sao xã, làng nắm được nội tình chuyện này. Chẳng trách, cán bộ viết sử chỉ biết chép theo báo cáo”.
Trồng rừng keo lá tràm xảy ra khi Nguyễn Bộc làm Chủ tịch xã. Phía đông làng Giếng Chùa được chắn ngang bởi động cát kéo dài. Giữa làng và động cát là vài mẫu ruộng lúa, ngô, khoai, sắn. Qua hết động cát này đến động cát khác. Qua hết động cát khác đến vài động cát nữa. Qua hết vài động cát nữa thì đến biển. Động cát lúp xúp cây bụi, nhiều khoảng trống huơ trống hoác dưới nắng. Mùa gió bấc hốt cát bay rào rào che phủ đất trồng, chui vào đầy nhà dân. Sản xuất khó khăn. Sinh hoạt cực khổ. Bưng chén cơm lên và một miếng, miệng nhai nghe lạo xạo. Bưng ly trà mới chế còn bốc khói lên, chưa kịp uống đã lấm tấm vài hạt cát trong đáy ly.
Thấu nổi khổ của dân, tỉnh đưa chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc về xã. Xã xuống hợp tác xã triển khai. Đang lên sổ phân công trồng rừng thì Ban quản trị hợp tác xã nhận được lệnh ngầm của Chủ tịch xã, chỉ cho một nhóm nhân khẩu làng Giếng Chùa trồng rừng. Đêm đến, số con cháu họ Nguyễn tham gia trồng rừng về nhà thờ tộc họp kín. Công việc nhân văn, cấp thiết được biến thành chỗ kiếm chác, khai khống diện tích trồng, cây con bị chết, bổ sung cây mới…quy tất thành Việt Nam đồng chạy qua túi đám con cháu họ Nguyễn, chạy vào túi Chủ tịch xã. Khi vụ việc bể bạc, trên về xử hơn chục người vào khám. Bí thư xã, Ban quản trị hợp tác xã đứng ra vạch tội Chủ tịch xã chỉ đạo sai, ăn chặn tiền trồng rừng.
Chỉ đạo bằng lời, không tờ giấy lộn làm chứng, Chủ tịch xã tố ngược lại:
– Đồng chí Bí thư không thích tôi nên mới đổ vấy cho tôi, gây mất đoàn kết nội bộ. Ban quản trị hợp tác xã xin tôi trực tiếp quản lý việc trồng rừng không được nên ganh ghét đặt điều cho tôi, chứ tôi không bao giờ chỉ đạo việc ưu tiên người thân trong dòng tộc tham gia trồng rừng, tôi chỉ phân xuống, bên dưới triển khai.
Con cháu tộc Nguyễn thà đi tù thay cho người đã đem lại công ăn, việc làm cho mình chứ không chịu nhận việc đem tiền chia chác cho Chủ tịch xã. Ngoạn mục vượt qua các đòn đánh tới tấp của đối phương, Chủ tịch xã thở phào, nhưng cũng phải tìm một cái tội nào đó để người ta nhìn vào mình cũng có khuyết điểm. Chứ bầu đoàn xe pháo rầm rộ từ trên về mà không tìm ra chút khuyết điểm nào, coi sao được. Đứng giữa cuộc họp, Chủ tịch xã giọng ăn năn, hối cải:
– Qua chuyện này, tôi thấy mình có khuyết điểm sâu sắc khi không kiểm tra, giám sát chặt chẽ để xảy ra sai phạm. Tôi xin nhận lỗi, chịu mọi hình thức kiểm điểm của cấp trên.
Màn hạ. Chủ tịch xã chỉ bị khiển trách. Ít lâu sau, Bí thư xã được đổi đi nơi khác. Chủ tịch xã lên làm Bí thư. Con cháu trong tộc biết ít chữ nghĩa, đang công tác trong xã được cất nhắc lên các vị trí chủ chốt. Nghe phong phanh trên sẽ điều chuyển mình về huyện công tác khác. Đánh hơi lành ít, dữ nhiều, Nguyễn Bộc làm đơn xin nghỉ mất sức. Trước khi nghỉ, giới thiệu đứa cháu trong tộc lên kế vị.
“Thời gian này xảy ra việc một số dòng họ trong làng Giếng Chùa tự ý lấn chiếm trái phép đất chôn người chết trên động cát của xã. Đảng ủy, Ủy ban xã đã xử lý, nhưng thiếu kiên quyết với một vài hộ dân”.
Lão Bộc ghét cay, ghét đắng mấy câu trên. Nó nói một chuyện liên quan đến tộc Nguyễn. Nhớ lúc được mời dự hội thảo góp ý quyển sử, lão Bộc đề nghị bỏ ra mấy câu đó ra khỏi bản thảo. Ban biên soạn vẫn giữ lại, không nêu rõ danh tính người sai phạm. Cho dù không chỉ đích danh, nhưng đọc đến đây, bất cứ ai trong làng Giếng Chùa đều biết là trưởng tộc Nguyễn. Cũng từ động cát phía đông làng Giếng Chùa mà ra.
Ban đầu, nhà ai có người vừa qua đời, hội nghĩa trũng đến lo hậu sự, rồi khiêng ra đồng làng. Mả tổ tộc Nguyễn cũng nằm trên bãi tha ma giữa đồng làng. Ngặt nỗi, đồng làng để trồng lúa, ngô, khoai, sắn chứ không phải chỗ chôn người chết. Cho nên dần dần người chết hết chỗ nằm, phải khiêng lên động cát, chọn chỗ nào trống, địa thế đẹp đào huyệt. Rồi chỗ trống, địa thế đẹp cũng hết, phải chặt hạ cây keo lá tràm.
Trong một lần đưa tang lên động cát, lão Bộc nhìn quanh, trầm ngâm hồi lâu, quên cả bốc cát bỏ xuống huyệt người quá cố. Tối hôm đó, cuộc họp gấp diễn ra tại nhà thờ tộc. Mấy ngày sau, trai tráng tộc Nguyễn lên động cát giang nắng, dầm mưa, đổ mồ hôi, sôi con mắt chặt cây, cuốc cát, khoanh vùng. Làm đến trưa, lão Bộc xách bánh mì thịt lên, cả đám trệu trạo nhai, xong lại tiếp tục quần quật xế chiều mới nghỉ. Được dăm bữa, có đứa lầm bầm, “làm chi mà rộng dữ vậy, bỏ công sức ra cuối cùng xã cũng lấy lại thôi, ông ấy lẩm cẩm rồi”.
Lời than vãn lọt tai lão Bộc. Cái đứa lỡ miệng lầm bầm bị gọi lại nhà thờ tộc nghe chửi rát cả mặt, “chỉ được cái giỏi ăn nhậu, làm biếng, làm nhác, mở miệng ra là than trời nắng, trời mưa, bàn lùi. Làm ít thì đủ tán mả cha chúng mày vào. Trứng mà đòi khôn hơn vịt”. Các dòng tộc khác thấy lão Bộc làm, hiểu ra chuyện, liền vội kêu con cháu vác cuốc, xẻng leo lên động cát đào đào, xúc xúc.
Đến khi xã “hiểu ra chuyện”, trên động cát đã mọc lên ba, bốn tường rào gạch đá chẻ bao quanh khoảng cát trống, có cổng gắn hai cánh cửa đóng im ỉm. Khu đất cát cây cối được quây rào cẩn thận gần một ngàn mét vuông là của tộc Nguyễn. “Dòng tộc chúng tôi khai phá làng Giếng Chùa đầu tiên, nên phải có chỗ để chôn cất người trong tộc. Nếu làng, xã không chấp thuận giải quyết là coi thường tiền nhân, chà đạp lên công lao tiền nhân”. Lão Bộc khai pháo khi xã mời lên làm việc. Mấy trưởng tộc khác cũng lao nhao theo.
Bí thư xã liếc Chủ tịch xã, Chủ tịch Mặt trận. Con cháu tộc Nguyễn ngồi xử việc tộc mình lấn chiếm đất trái phép. Nhấn nhá một hồi, Bí thư xã tuyên bố “giữ nguyên hiện trạng”. Xã sẽ chặt hạ một số keo lá tràm để quy hoạch đất làm nghĩa trang cho người dân. Các trưởng tộc khác ra về mặt hầm hầm, chửi con cháu trong tộc, “đã bảo dòm lão Bộc làm bao nhiêu thì mình làm bấy nhiêu, cuối cùng đất giành được bé tí teo, chả đáng để bỏ công sức”.
Lão Bộc ôm mớ đơn trương, hình ảnh lên huyện, tỉnh xin công nhận di tích lịch sử cho cây rơm gần chuồng trâu nhà thờ tộc Nguyễn. Ít lâu sau, lão Bộc được thông báo việc của mình không đủ điều kiện để xem xét. Lão điên tiết xé bỏ giấy tờ, “nhà nước không công nhận thì ông công nhận”. Lão thuê thợ tìm một tảng đá to, đem về đặt cạnh chuồng trâu. Ngày khánh thành “địa chỉ đỏ” của tộc Nguyễn, lão Bộc mở tiệc kính báo tổ tiên, ăn nhậu ồn ào. Lão khật khờ, khật khưởng ngó đám con cháu, nhếch miệng cười rồi kéo tấm vải đỏ đang trùm lên tảng đá. Trên tảng đá lộ ra mấy chữ:
ĐỊA CHỈ ĐỎ
Trong kháng chiến, nơi đây đã từng che giấu cán bộ cấp cao 
Hàng ngày, lão Bộc đứng ngắm tảng đá cạnh chuồng trâu. Thỉnh thoảng lại lấy khăn nhúng nước lau chùi cho sạch sẽ. Lão làm với tâm trạng vui vẻ, hài lòng. Vừa lau tảng đá, lão vừa ngó ra đường làng xem chừng có ai đi ngang qua thì vẫy tay gọi vào chiêm ngưỡng “địa chỉ đỏ” của tộc Nguyễn.
Tối đến, lão lại lấy quyển sử làng từ ban thờ xuống, kính cẩn lật từng trang, từng trang. Chỗ nào viết khen tộc Nguyễn thì đọc đi, đọc lại. Dù đọc không biết bao nhiêu lần, lão vẫn thấy mới, thấy hay, thấy sướng tê cả người. Đoạn nào chê tộc Nguyễn thì lật nhanh qua. Thậm chí sẵn cây bút bi trên tay, lão gạch ngang dòng chữ, phê vào bên lề sách: “láo”, “bố láo”, “viết không đúng sự thật”.
3/12/2022
Nguyễn Thành Tài
Theo https://vanvn.vn/

Chế Lan Viên nhà thơ - Nhà báo - Nhà văn

Chế Lan Viên nhà thơ
Nhà báo - Nhà văn

“Xưa làm thơ, tôi hít hương trên ngọn cây, giờ làm báo tôi phải nếm cả rễ cây dưới đất” (Chế Lan Viên).
Chế Lan Viên, anh là ai?
Là một trong những nhà thơ hàng đầu nước Việt Nam thế kỷ XX. Nhận định ấy từ lâu đã nhận được sự đồng thuận của nhiều người, chẳng có gì phải bàn.
Qua hai thập niên đầu thế kỷ XXI, lại có thêm nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học trong nước hoặc sống tại nước ngoài, nghiên cứu sinh tiến sĩ quan tâm tìm hiểu, và hầu như đều không tiếc lời ca ngợi thơ Chế Lan Viên. Vậy là anh đã vượt qua cái nghiệt ngã của thời gian, ta có thể yên tâm loại nốt ba từ “thế kỷ XX”.
Chế Lan Viên là một trong số những nhà thơ hàng đầu của Việt Nam từ xưa tới nay.
Chế Lan Viên, anh là ai?
Là một nhà viết văn xuôi với phong cách độc đáo, nhiều người từng khen bút ký triết luận Chế Lan Viên.
Tôi nghĩ không phải lúc nào Chế Lan Viên cũng có chủ ý luận bàn triết học, và không riêng các thể loại văn chương như tùy bút, tiểu luận, tạp văn…, cả đến những bài phóng sự làm theo đơn đặt hàng của các báo, hay khi cần phải trả lời phỏng vấn một chủ đề thời sự, tức là công việc báo chí trăm phần trăm, cách diễn đạt của anh dù nóng hổi thời cuộc vẫn bàng bạc ít nhiều suy tưởng khiến người đọc liên tưởng đến những chuyện xa vời.
Phong cách văn xuôi của Chế dựa trên hai nền tảng: cái gen di truyền đã trở thành truyền thống, và nghị lực không ngừng vươn tới cái đẹp hơn, hay hơn. Cái nền trước tạo môi trường, cái nền sau bồi bổ và nâng cao; nhìn từ góc độ khác, có thể nói đó là số thành của quá trình đọc, học, suy ngẫm, thực hành không ngưng nghỉ.
Chất triết luận trong văn Chế Lan Viên bàng bạc ở mọi thể loại là kết tinh của đầu óc sáng tạo, khát khao hiểu biết, thường xuyên bồi bổ tri thức của mình, từ đó tìm cho mình một lối đi riêng khi cần giải lòng với công chúng – từ những sự kiện trọng đại đến những việc nhỏ trong cuộc sống ngày thường, “các vụ cãi nhau trong gia đình và ở Quốc hội Mỹ, những vụ nổ ngoài đường và vụ nổ trên mặt trời” (CLV, 1988), nhờ vậy tạo cho mình một văn phong khó lẫn với ai.
Đối với Chế Lan Viên, đọc là học. “Đọc để thấy cái yếu của mình”. Từ những ngày xông xáo ở chiến trường đến những đêm thui thủi trong bệnh viện nước ngoài, nơi “anh sợ đêm khuya lòng ở một mình”, Chế Lan Viên không ngừng đọc sách và suy ngẫm.
Anh có lần tâm sự với tôi qua một bức thư viết năm 1957 từ bệnh viện ấy: “… Để khỏi phí thì giờ, Hoan vẫn ghi vẫn học… Pablo Neruda càng đọc càng thích… Nếu Neruda phản ánh sự đấu tranh bên ngoài thì (Paul) Eluard nói lên sự đấu tranh bên trong… Đỗ Phủ tính nhân văn, tính hiện thực cao độ… Hoan đọc sách, nhưng cố gắng không để cho sách vở che lấp cuộc sống. Hoan đọc và suy nghĩ thêm (về những điều vừa đọc). Hiện thực nếu chỉ nhờ bằng con mắt và lỗ tai, voir (thấy) mà không savoir (biết), thì rồi viết ra cũng sẽ bôi hồng hay tô đen thôi… Hoan không thích những nhà văn viết ra tác phẩm như con kiến bò lên cột nhà mà leo; cố nhiên là Hoan cũng không thích những con kiến không bò, giơ chân lên mà hỏi là chân thứ mấy… Hoan thích những nhà văn luôn đặt vấn đề về cuộc sống, về nghệ thuật, luôn luôn tự hỏi mình và trả lời mình, hỏi giúp người khác và trả lời giúp người khác…”.
Chế Lan Viên, anh là ai?
Có phải là nhà văn thuộc trường phái tượng trưng, siêu hình…? Có và không.
Chất triết học siêu hình trong văn xuôi Chế Lan Viên thể hiện ở một số bài, không phải tất cả, trong tập Vàng sao (Nhà xuất bản Tân Việt, 1942), và đặc biệt tại bài Con kiến (Tạp chí Sáng tạo, Liên Khu IV, 1948).
Tập Vàng sao, mà tác giả ghi là “Tạp văn 1937-1942” chỉ có tám bài, dày chừng 50 trang sách, trong đó có bài là những kỷ niệm đẹp về tuổi thiếu niên. Gần đến Giao thừa, cha anh – “người già quá rồi” – chờ con trai ra cùng cha làm lễ dâng sao giải hạn, đón mừng năm mới, và mẹ anh, “mẹ sầu đau ngiêng xuống bên mình”, đánh thức con dậy.
Sợ con trai cứ thế chạy luôn ra sân đã thắp sáng hai mươi tám cây nến, mẹ “một lần nữa ngọt ngào: Thau rửa mặt đã có đây rồi, rửa muối lại cho sáng mắt. Nước súc miệng cũng múc sẵn cho con kia. Rồi mẹ đưa cho con mấy chiếc quần áo mới. Đường ủi (là) quá thẳng khiến tôi ngập ngừng tự hỏi, mình sẽ mở ra sao?”. Sau những kỷ niệm ấy, chàng trai 17 tuổi băn khoăn: “Ai thử giảng cho tôi vì sao giữa buổi ngọt ngào mùa xuân đi đến kia, vẫn có những ánh sao rơi… Muôn vàn ý buồn tuôn theo suối sáng muôn sao”.
Đọc bức thư anh gửi tôi năm 1957, tôi trầm ngâm tự hỏi: “Con kiến” nào vậy? Phải chăng đó là con kiến mà mùa hè năm 1948, khi tôi vừa từ vùng địch hậu Bình Trị Thiên ra Thanh Hóa rồi đến nhận việc tại báo Cứu quốc, Chế Lan Viên đưa số tạp chí vừa mới in xong, mở sẵn trang có đăng bài “Con kiến” của anh, bảo tôi đọc.
Tôi đọc cẩn thận bài ấy, nhưng không hiểu anh muốn nói gì và hoàn toàn không thích, cứ lẳng lặng đưa trả lại anh số tạp chí. Phải chăng đó chính là “con kiến giơ chân lên mà hỏi” nhà thơ sẽ nhắc tới mười năm sau, trong bức thư gửi bạn?
Chế Lan Viên sinh ra trong một gia đình đậm cuộc sống tâm linh như phần đông các gia đình người Việt Nam ta thời trước, coi việc thờ cúng tổ tiên, lễ bái thần linh là nhu cầu và nghĩa vụ tại cuộc đời trần thế.
Tuổi thiếu niên cậu Hoan trôi qua trong một gia đình sùng đạo Phật, đêm đêm thân phụ anh ngồi trước bàn thờ nguyện cầu Đức Phật tổ Như lai, tiếp đó thân mẫu anh xong công việc nội trợ trong ngày lại đến bàn thờ gõ mõ tụng kinh, tụng thuộc lòng vì bà không biết đọc. Đến dịp Tết cổ truyền, gia đình anh lại lập đàn “dâng sao giải hạn”. Thế nhưng suốt cả năm, ngày lại ngày, đều đặn hơn, uy nghi hơn, hùng tráng hơn, vào lúc sáng tinh mơ và trước khi mọi người đi ngủ, lại dõng dạc ngân vang tiếng chuông nhà thờ Thiên chúa giáo ở gần đâu đấy, nhắc con chiên đọc kinh cầu xin Đức Chúa Trời và Mẹ Đồng Trinh xá tội.
Khi chàng trai lớn lên, đêm đêm một mình dạo bước trong thành Bình Định, mơ hồ nhìn ngắm các Tháp Chăm xa xa, chàng lại gặp nàng Chiêm nương đôi mắt mở to trên tòa tháp cổ:
Chiêm nương ơi…
Nhìn chi em chân trời xa vời vợi
Nhớ chi em sầu hận nước Chàm ta.
(CLV, Điêu tàn, 1937)
Môi trường tâm linh ấy khiến chàng trai phải thốt lên: “Thích Ca! Jésus! Khổng Khâu! Lão Tử! Tôi đều thành tâm cúi đầu trước uy linh huyền diệu của các Ngài” (CLV, Vàng sao, 1942).
Mặt khác, trong khoảng thời gian chưa tới tám năm, từ sau thành công của “Điêu tàn” năm 1937 đến trước ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhất là những ngày anh rời Quy Nhơn vào Sài Gòn làm báo hay ra Hà Nội học thêm, nhà thơ gặp và say mê các trường phái tượng trưng, siêu hình, đa đa (dadaisme) cùng bao nhiêu thứ isme khác nối chân nhau xuất hiện như thời trang, đến người Pháp chỉ một thời gian sau đó cũng chẳng mấy ai buồn nhớ đến.
Dù vậy cả tam – tứ giáo Đông phương cũng như các học thuyết tượng trưng, siêu thực siêu hình Tây phương vẫn không giải tỏa được nỗi niềm của chàng trai:
“Từ trước khi cách mạng đến, tôi đã đi về xứ sở siêu hình. Khá xa.”
Tuy nhiên điều đó chỉ đậm nét một thời gian.
Nhìn lại cả sự nghiệp văn xuôi của anh, tập Vàng sao chỉ dày có hơn 50 trang sách, nếu cộng thêm bài Con kiến nữa thì văn xuôi triết luận được anh công bố trước sau cũng chỉ vào khoảng 60-70 trang sách là cùng, so với gần 3000 trang văn xuôi trong Chế Lan Viên toàn tập(1)!
Chừng ấy thôi ẫn là sức cản nặng nề, khiến cuộc đời và sự nghiệp của anh từng
Đi nhanh mà về chậm
Biết bao là nhiêu khê
(CLV, 1961)
Chế Lan Viên không phải là con người quá nặng cuộc sống tâm linh, anh luôn chê trách hủ tục mê tín dị đoan, căm ghét những kẻ lợi dụng tôn giáo làm những điều không đẹp. Tâm tư của anh thể hiện qua thơ, những dòng thơ dưới dạng phác thảo, những ý thơ vọt tự đáy lòng.
Ngày 21.12.1985, Hội Nhà văn tổ chức lễ tiễn đưa nhà thơ Xuân Diệu về cõi vô cùng. Xúc động trước lời than của Hà Xuân Trường bên quan tài Xuân Diệu: “…Mái tóc anh vốn ưa gội gió trời, vầng trán anh ưa va đập với bầu trời của trăm quê vạn nẻo, sao bây giờ anh lại dừng bước? Một cây lớn nằm xuống, cả khoảng trời trống vắng. Diệu ơi! Anh còn nghe không anh, anh có thấy không anh?”, Chế Lan Viên cũng thốt lên nhưng chỉ mình nói với mình:
Diệu đi trước rồi chúng mình đi tiếp
Diệu nằm trong thơ chứ đâu ở quan tài
(CLV, 1985)
Nhà văn Vũ Thị Thường người bạn đời của Chế Lan Viên có dịp kể lại qua một bức thư gửi kẻ viết bài này hai câu chuyện: “Chuyện thứ nhất: năm 1979, cậu ruột tôi mất, chúng tôi tới viếng. Khi nhà sư bắt đầu gõ mõ tụng kinh, mọi người ngồi xuống kính cẩn chắp tay cúi đầu, tôi cũng định ngồi xuống theo thì anh ấy níu tay tôi cản lại, chứng tôi cứ đứng như thế hơn nửa giờ mỏi nhừ cả chân, sau này nhớ lại, tôi vẫn thấy mình lúc ấy đúng là “quá tả”. Mà anh ấy lại rất yêu quý cậu tôi chứ có không đâu! Chuyện thứ hai: vào những năm cuối 1980, mỗi khi ra Hà Nội họp về, nhà tôi thường chán ngán kể những chuyện mê tín cầu cúng lăng nhăng, mà những năm ấy thì đã thấm gì so với những chuyện “nhân danh tâm linh buôn thần bán thánh” bây giờ!”.
Họ giết tôn giáo mà lại tạo ra thần linh
Hay giết thần linh và tạo ra tôn giáo
Lâu lâu lại đổi thần linh
Như người ta đổi tiền
Hay đổi nhân tình, cà vạt…
(CLV, 1988)
Đến những ngày cuối cùng chuẩn bị đi xa, anh tâm sự:
Tôi thu dọn người mình như người sắp về quê cũ
Chả cần gì thêm
Chừng này đã đủ
Chừng này thương, chừng này giận dữ
Chừng này hoa, chừng này bão tố
Đi bình yên…
Nam mô A-di-đà Thượng đế Amen!
(CLV, 1988)
Nhưng đấy là thơ, đâu có phải là văn xuôi triết luận!
Chế Lan Viên, anh là ai?
Là một nhà báo năng động, gắn bó gần cả đời cầm bút với cái nghề “hèn mọn mà lại cao cả, cái nghề cũ và là nghề chính của tôi trong thời kỳ chống Pháp” (CLV, 1988). Anh là người thầy dẫn dắt kẻ viết bài này bước vào nghề báo, “cái nghề bạc bẽo mà chúng tôi rất trung thành”, lại là làm báo hằng ngày, “vất vả như nuôi con mọn, nó khóc, nó quấy, nó đòi ăn”.
Anh dạy tôi, ít lâu sau khi hòa bình vừa lập lại trên một nửa nước, cần say mê với nghề báo nhưng phải biết hài hòa tác động qua lại giữa báo và văn; nên hăng hái đi thực tế tại các địa phương xa, chớ có tự nhốt mình trong Hà Nội dù đất Hà thành có quyến rũ đến mấy.
Hồi ấy tôi đang thời “tím ngát tuổi hai mươi”, nuôi nhiều ảo mộng văn chương lắm, đã có lúc nghĩ tới chuyện chia tay chàng báo về với nàng văn, anh chia sẻ với bạn qua bức thư viết dưới dạng tâm tình với chính anh: “… Hoan sợ nghề báo như nước lụt ngập hết cả công việc sáng tác, nhưng nếu nó là một mức nước ngấm chân cây lúa, giữ ta trong những nhiệm vụ lớn, giúp ta gần với phong trào, vui buồn đau khổ chung thì nó chẳng hại mà có ích cho nghề văn…” (CLV, 1957).
Nhiều năm sau, trả lời thư bạn đọc báo Văn Nghệ, tác giả “Ánh sáng và phù sa” qua bút hiệu Chàng Văn, khái quát: “Bài báo khác bài văn. Cách làm việc của nhà báo cũng khác nhà văn. Nhưng nhà báo đồng thời có thể là nhà văn, hơn thế, nhà văn nên làm cả một nhà báo” (CLV, 1962).
Về cuối đời, khi sức khoẻ giảm sút nhiều và ý thức rõ quỹ thời gian của mình chẳng còn được bao nhiêu, Chế Lan Viên tranh thủ làm việc quá sức, anh viết nhiều chính luận nghiên cứu sâu về Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Tố Hữu, Đoàn Giỏi…, bận rộn với việc trả lời phỏng vấn của báo chí, nhưng vẫn không quên người bạn và học trò từ bốn mươi năm trước.
Khi tôi chạm mốc “lên lão” tuổi sáu mươi và anh chỉ cũng còn hai năm nữa thôi là “xưa nay hiếm”, anh đã tự mình lựa chọn, biên tập làm từ A đến Z Tuyển tập “Người và Đất” (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1998), kỷ niệm 40 năm cầm bút của Phan Quang. Viết xong mấy Lời mở sách, anh gửi cho tôi xem, kèm bức thư riêng chỉ cho tôi thấy những non yếu của mình. Anh dẫn lời của Babel: “Tôi giết tính từ như giết rệp!”.
Trời! Tôi đã sáu mươi tuổi, đi nhiều, đọc cũng khoẻ, tranh thủ đọc mọi thứ, đọc bất cứ lúc nào, vậy mà chưa hề nghe tiếng Babel. Babel, ông là ai? Thì ra đó là một cây bút từng nổi tiếng một thời tại Nga và Ukraine khi kẻ này chưa chào đời, đến lúc tôi lớn lên thì do những xung đột nội bộ tại Liên Xô, ông đã bị xử tử mất rồi!(2), từ bấy trong văn học Xô viết chẳng mấy ai nhắc đến Babel, trừ một vài nước phương Tây!
Chế Lan Viên từng khái quát mối quan hệ giữa báo và thơ: “Xưa làm thơ, tôi hít hương trên ngọn cây, giờ làm báo tôi phải nếm cả rễ cây dưới đất. Và chính nhờ cái nghề báo khô khan thời chống Pháp mà sang thời chống Mỹ tôi làm thơ lại được, hơn thế, còn làm khá dạt dào”.
Chế Lan Viên, anh là ai?
Là một trong số các sứ giả văn hóa của nước Việt Nam đương đại sau mấy cuộc chiến tranh, khi đối phương tìm đủ cách nói xấu chế độ, con người và đời sống tinh thần ở nước ta. Chế Lan Viên nhiều lần được cử “đi sứ” tham dự các hội nghị quốc tế quan trọng.
Sứ giả là người mang chuông đi đấm nước người, sứ giả cũng có thể chỉ ngồi ở Việt Nam nhưng bạn bè quốc tế đến đây ai muốn hiểu sâu đất nước này vẫn cố tìm gặp, dù chỉ để trò chuyện một vài tiếng đồng hồ. Xuân Thủy, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoàng Tùng, Trần Bạch Đằng, Hữu Ngọc…, còn những ai nữa, nhờ các bạn mách cho!
Một lần tôi nhận được bức thư ngắn, chữ viết vội nguệch ngoạc của Chế báo tin anh sắp đi dự một Hội thảo quốc tế tại Ấn Độ, mà visa chưa làm, diễn văn chưa viết, áo quần chưa mượn nhưng sẽ tạt qua nhà thăm tôi một lát. Anh dặn chớ có báo với ai rằng anh đang có mặt tại Hà Nội để bạn bè khỏi trách sao ông Chế chưa đến chơi với mình, đợi sau khi họp xong trở về sẽ gặp nhau tha hồ trò chuyện. Sở dĩ anh ghé nhà thăm là để tặng tôi cuốn sách mới ra, và tranh thủ “tìm hiểu một ít thông tin” về quan điểm chính thức của nước ta đối với một số vấn đề thời sự nhạy cảm, để yên tâm hơn khi trò chuyện với bạn hữu bốn phương trời – hồi ấy tôi làm việc trong lĩnh vực thông tin, đối ngoại.
Tại Lễ truy điệu anh tổ chức tại Hà Nội cùng lúc với Lễ tiễn đưa anh về cõi vô cùng ở Thành phố Hồ Chí Minh, sau điếu văn của nhà văn Nguyễn Đình Thi, nhà thơ Tố Hữu đọc bài thơ ngắn anh vừa làm, nhà cách mạng lão thành Nguyễn Minh Vỹ (Tôn thất Minh Vỹ) nói tiếp mấy lời vĩnh biệt.
Ông gọi Chế Lan Viên là “cậu Hoan”, học trò học thêm tiếng Pháp với “thầy Vỹ” tại Quy Nhơn ngày nào, thời thầy vừa ra khỏi nhà tù tù và trò đang học trung học. Thầy Vỹ cùng cậu Hoan và mấy nhà thơ nổi tiếng khác, tất cả đều lớn tuổi hơn tác giả “Điêu tàn”, lập “Thái Dương văn đoàn”, xuất bản giai phẩm.
Nguyễn Minh Vỹ kể: Trong một chuyến ông cùng Chế Lan Viên và một số nhà trí thức tên tuổi nước ta ra nước ngoài, Đoàn do nhà văn hóa, Bộ trưởng Hoàng Minh Giám làm Trưởng đoàn và thầy Vỹ, Phó Trướng ban Tuyên huấn Trung ương làm Phó, nhưng khi gặp triết gia Jean Paul Sartre, ngôi sao sáng của nước Pháp thế kỷ XX, mọi người cứ để mặc cho “cậu Hoan” một mình đối thoại với nhà văn hóa nổi tiếng lừng lẫy khắp trời Tây.
Jean Paul Sartre từng nhiệt thành ủng hộ và đấu tranh vì cuộc chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Một lần gặp đoàn đại biểu ta sang thăm Pháp, ông ôm hôn các bạn Việt Nam hỏi: “Sao các anh không gọi tôi là đồng chí?”.
Vậy mà sau tháng 4 năm 1975, khi nước Việt Nam thống nhất phải đối đầu muôn vàn khó khăn thời hậu chiến trong bối cảnh bị Mỹ phong tỏa ngặt nghèo, bậc triết gia uyên bác chắc là chịu tác động của lối tuyên truyền chống phá Việt Nam, dường như đâm ra hoài nghi con đường nước ta đi, đã thế còn bi quan trước thế cuộc toàn cầu. Ông có một câu gây tranh cãi quốc tế: “Địa ngục là những kẻ khác” (L’enfer, c’est les autres).
Trong bối cảnh đó Hội nghị quốc tế các nhà văn họp năm 1964 tại thủ đô đất nước Hoa hồng Bungari trao đổi về chủ đề “Văn chương tuyệt vọng hay hy vọng”, Chế Lan Viên thay mặt Đoàn Nhà văn ta có bài phát biểu tại phiên họp kết thúc Hội nghị.
Bước lên diễn đàn anh vào đề luôn, không thưa gửi rào đón:
“Văn chương tuyệt vọng hay hy vọng?
Đặt ra một câu hỏi như thế để thảo luận, tức là chúng ta đã nhìn thấy câu trả lời. Hàng triệu năm nay, nhân loại tồn tại được là nhờ hy vọng, nhờ không tuyệt vọng. Thần thoại châu Âu kể chuyện con phượng hoàng bị đốt ra tro, liền sống lại từ đống tro tàn ấy. Ở nước Việt Nam tôi, phép lạ không tiến hành với con chim siêu thực mà với một con vật thật xoàng xỉnh là con gà (…)
Và anh đọc tiếp qua bản dịch tiếng Pháp toàn văn bài dân ca quen thuộc của quê hương Quảng Trị, từ câu mở đầu da diết: “Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn/ Đi vay đi dạm” đến lời kết thúc nhẹ tênh: “Chớ than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.
“Thưa các bạn, bài hát tôi nghe từ ngày còn nhỏ ấy, bài thơ không tuyệt vọng mà hy vọng đến cùng ấy đã giúp chúng tôi rất nhiều trong những lúc gặp khó khăn. Trong cuộc đời riêng của mỗi chúng ta, trong cuộc sống của các dân tộc, trong cuộc sống của cả hành tinh này nữa, làm sao không có những quả trứng mang số phận ấy? Những quả trứng này ung, chúng ta vứt bỏ. Những quả khác luộc lên còn tốt, ta dùng…”.
Đến đây mới thấy cái tài làm sứ giả của Chế Lan Viên: “…Những quả khác ấp lên nở. Nhưng không nở ra gà mà ra con phượng đấy. Lạ chưa! Đấy là trường hợp của nước Bungari nơi chúng ta đang họp. Năm trăm năm bị ách Thổ Nhĩ Kỳ, đất nước ấy lại hồi sinh. Đó là nước Campuchia láng giềng và anh em cùng bán đảo với chúng tôi…
Địa ngục không phải là người khác,
Địa ngục chính là Bom”.
Chế Lan Viên, anh là ai?
Là một con người hết lòng vì bạn hữu, đặc biệt với lớp nhà thơ trẻ hơn anh về tuổi đời. Anh có đủ tài thừa lực chia sẻ với bạn bè về kinh nghiệm làm thơ, viết văn, làm báo xuất phát từ cái nền tri thức uyên thâm do thường xuyên chịu khó lắng nghe, học hỏi, cập nhật những gì liên quan đến văn hóa như đã nói ở trên, cộng với tài trình bày, biện luận cuốn hút ít ai sánh bằng, tất cả bắt nguồn từ cái tâm trong sáng.
Bài thơ “Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi” của Chế gồm 14 khúc, mỗi khúc bốn câu, được anh trình bày trực tiếp qua làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam với bạn nghe đài cả nước, bản thảo cuối cùng – chứ không phải sơ thảo – 76 câu thơ ấy được tác giả chép đi sửa lại, móc lên ngoặc xuống kín một tập giấy có kẻ hàng ngang vốn dành cho học sinh, dày đúng 80 trang!
Đầu năm 1967, trước khi lên đường vào chiến trường, hai nhà thơ Bùi Minh Quốc và Trần Phương Trà đến thăm Chế Lan Viên. Anh dành cả buổi sáng chuyện trò với hai bạn. Điều làm anh băn khoăn nhất lú này là tập thơ “Hoa ngày thường, chim báo bão” đang in, chưa có sách để kịp tặng bạn trước khi các bạn lên đường.
Nhà thơ Trần Phương Trà (Trần Nguyên Vấn) kể lại: Đến ngày anh đã vác ba lô lên vai, sắp sửa khởi hành thì nhận được được tập thơ ấy cùng nét bút của tác giả: “Thân tặng Trần Nguyên Vấn. Sách chưa kịp có bìa. Vấn chịu khó tưởng tượng ra cái bìa vậy. Chúc Vấn lên đường an toàn, khoẻ mạnh, viết nhiều…”. Thì ra Chế Lan Viên đã đến tận nhà in xin nhận trước mấy tập sách chưa đóng bìa, mang lên Ủy ban Thống nhất Trung ương nói khó, nhờ chuyển đến tay hai anh bạn trẻ cách sao cho kịp trước ngày hai bạn lên đường!
Chế Lan Viên, anh là ai?
Trong cuộc sống ngày thường, khi Chế Lan Viên còn tại thế, dường như có những người không ưa anh lắm, theo tôi một phần do anh có “máu nghệ sĩ”, thích ai thì thích hơi quá đi một chút, không ưa ai thì nặng lời quá một bậc, mỗi lần tranh luận lời lẽ anh tuôn ra cứ sắc như dao chẳng chút nể vì ai, do đó dễ làm phật lòng người đối thoại. Anh là người nhạy cảm, dễ xúc động trước những chuyện đời thường, cáu giận đấy và ứa nước mắt ra đấy, về bản chất là một người nhân hậu.
Thái độ của Chế Lan Viên đối với Phạm Duy là một thí dụ. Cuối năm 1949, nhà thơ và nhạc sĩ từ vùng tự do Liên khu IV vào chiến trường Bình Trị Thiên. Bốn mươi năm sau, tại một buổi chuyện trò thân mật nhân gặp lại nhiều bạn cũ và bạn mới tại thành phố Huế, có mặt những người vốn “ở bên này” cùng một số “ở phía kia”, Chế Lan Viên cảm thán:
“Vật đổi sao dời. Lá trúc che ngang mặt chữ điền (Hàn Mặc Tử) . Chẳng còn bụi trúc nào bên con đường Huế xưa! Dù bay đi bốn phương trời, lá rụng về cội…
“Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ. Một Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh bỏ chúng ta chứ chúng ta đâu có bỏ anh. Năm 1979, tôi (CLV) đang ở thủ đô Bruxelles nước Bỉ. Đêm ấy cách chỗ tôi 800 mét, Đoàn (ca sĩ) của Duy biểu diễn và chửi chúng ta. Tôi chỉ biết nhắn Duy (đôi câu)…
“Vâng, chỉ có trường hợp anh Phạm Duy là không cần cội vậy thôi. Chứ hình như hầu hết lá rụng đều về cội cả, và mọc lên thành cội nữa. Nhưng ngay đến anh Duy, chúng tôi vẫn cứ mong chờ. Một người có tài năng như anh, không thể không về với cội!” (CLV, 1987).
Như chúng ta đều biết, cuối cùng nhạc sĩ Phạm Duy trở về với cội, sống những ngày cuối đời ở cội, để vĩnh viễn đi xa từ cội.
Chế Lan Viên, anh là ai?
Là một người rất Việt Nam! Anh có đủ mọi đức tính và nhược điểm, những thói quen và nếp sinh hoạt có cái chưa hay lắm của số đông người Việt chúng ta, anh sống an nhiên trong thanh đạm, vì mình và vì người, kiên cường và nhân hậu.
Thời kháng chiến chống Pháp, để qua mùa đông rét buốt bất thường năm 1948 tại vùng núi tỉnh Thanh, ban ngày anh lấy mấy tờ báo nhét vào giữa chiếc áo trấn thủ và áo sơ mi mặc trên người, ban đêm anh nghỉ trên cái giường tre có lót một tệp báo dày dưới chiếc chiếu. Tôi ghé sang chơi, anh cười dí dỏm: “Chúng ta làm báo, ngày đêm không rời tờ báo, ngày ôm xấp báo trong người, đêm ngủ với báo trên giường”.
Sang thời chống Mỹ, cứu nước:
Ở đây ta xếp hàng
Người trước
Người sau
Chúng ta nối đuôi nhau
Mua thịt
Trời thủ đô rất biếc
Phi cơ ta đang đuổi giặc trên đầu
(CLV, 1984)
Đến khi đất nước liền một dải, mọi người dân phải gồng mình lên vượt qua những khó khăn do chiến tranh để lại, gia đình anh sống thanh bạch. Tôi đi công tác lên Tây Nguyên được bà con cho chai mật ong rừng mang về thành phố biếu anh, Chế vui ra mặt, thế nhưng khi có người ngỏ ý muốn tặng một chỉ vàng, anh kiên quyết khước từ…
Chế Lan Viên là một người như thế, một người Việt Nam rất người, với nội hàm phong phú nhất.
Chú thích:
(1) Chưa tính những bài đơn thuần chí nhưng xuất sắc, chưa được đưa vào toàn tập này, Nxb. Văn học, 2002- 2009.
(2) Tên gọi đầy đủ là Isaac Emmanuilovich Babel (1894-1940), nhà báo, nhà viết kịch, dịch giả văn học, nhà sử học, người gốc Do Thái, viết tiếng Nga.
Hà Nội, 4/12/2020
Phan Quang
Theo https://vanvn.vn/

Mắt người thơ toát mồ hôi

Mắt người thơ toát mồ hôi

Que diêm/ vô tình khóc cười bao dải phố/ bao sinh linh bể lầm than trôi dạt// Mắt người thơ toát mồ hôi/ cẩn trọng bảo trọng/ khi nhìn ngọn bút que diêm đánh vào trang giấy lập lòe đóm sáng.
Tâm ca
Cho tác giả “Một ngọn đèn xanh”
Bãi phù vân ruổi rong
gánh trên vai bao chữ
mà nỗi niềm oằn cong
Vài đóa hoa tím hồng
có còn xinh tươi mãi
trôi qua dòng đục trong
Luẩn quẩn bể long đong
vỗ về dăm số phận
cạn kiếp người chưa xong
Cõi xa xôi thong dong
tiếng đời vang gọi mãi
bia đá lệ tuôn dòng
Những mũi tên
Đường Tam Dương ẩn hiện bảy sắc cầu vồng vắt qua ký ức
nhớ nhớ và nhớ
hạ xưa tung cửa gọi ta
phân vân phân vân phân vân
ta như cánh chim bạt gió chao qua vườn cũ
cỏ rơm dậy men kỷ niệm
chếnh choáng say
giận cuộc quay về
Nhớ nhớ và nhớ
phân vân phân vân phân vân
trăm lần thua cuộc
Đường Tam Dương cong vút cánh cung
đã đang và sẽ bắn vào ta những mũi tên xa xót
Que diêm
Que diêm
xua tan bếp lạnh
nồi cơm thơm hồn nông phu phiêu phiêu cánh đồng sương sớm
Que diêm
gieo mầm cháy
giặc lửa cướp đi những cánh rừng
tro than tức tưởi loạn cuồng sinh thái
muông thú điêu linh côn trùng tỵ nạn và…
Que diêm
tạo nguồn ấm
đưa người thoát cơn lạnh giá
Que diêm
vô tình khóc cười bao dải phố
bao sinh linh bể lầm than trôi dạt
Mắt người thơ toát mồ hôi
cẩn trọng bảo trọng
khi nhìn ngọn bút que diêm đánh vào trang giấy lập lòe đóm sáng.
Nỗi buồn thương tật
Một bông hoa giả
dăm ba chú bướm bị lừa
Một cành hoa giả
hàng ngàn chú bướm bị lừa
Dăm ba chú bướm bay đi
hàng ngàn chú bướm bay đi
một nửa nỗi buồn rớt lại
(nỗi buồn thương tật)
Mặt bằng lòng tôi hốt nhiên
một nửa nỗi buồn di trú.
Người
Cụ bà đi xa
khăn tang chẳng ai chít
duy có ngưới khóc mướn
Người khóc mướn
duy một lần quay mặt với tiền công
không vật vã thê thiết
chị tựa vào mông lung thôn thức
nước mắt lăn đẫm ướt nỗi người
Phòng trọ người khóc mướn
mỗi chiều thầm tỏa khói hương
Hương hồn cụ bà đơn độc
người khóc mướn đơn độc
từ nay như có người thân.
Khúc hát người câm
Như người nông dân cần mẫn
mỗi sớm mai cụ lầm lũi ra đồng
thả khúc hát vào trời xanh ngát
khúc hát chẳng ca từ
vang lên từ tâm lực
hốt hoảng lũ chim phá lúa
Tiền công ư
cụ quay lưng từ khước
chiều về nhận bữa cơm thường
cùng chai rượu nhỏ
cơm no dạ
rượu thêm cao giọng hát
điều cụ ước cậy vào tay mắt
: “Khi tôi chết hãy chôn tôi giữa cánh đồng!”
(để còn được hát mãi chăng?)
Sáng thu nay
cụ chợt úa theo sen
tóc lẫn vào mây
màu da chìm trong đất
khúc hát xanh lặn xuống cánh đồng
duềnh lên hương lúa.
Tiếng chân anh bước
(Cho anh thương binh Lê Hoàng Dũng)
Chân anh bước
tiếng thực tiếng hư
con đường làng hàng tre nghiêm bóng
trời xanh thương mái tóc nhàu
Chân anh bước
tiếng hư tiếng thực
ồn ã cuộc đời khôn át tiếng chân anh
Tiếng hư
tan vào quá khứ
hóa lân tinh sáng ngời trang sử
tan vào sông núi
tươi đóa vinh quang cài lên ngực Tổ quốc kính yêu
Tiếng thực
nhịp Marche đệm theo khúc ca thời đại
Tiếng gõ vào tương lai
tiếng sóng biển đêm khe khẽ
nâng ánh hồng rực sáng…
Thất lạc
Tôi gửi tôi lên tàu nhật nguyệt
cuộc hành trình dằng dặc
thẳm sâu nỗi người đích đến
vỗ về sẻ chia
đôi khi rủ mây rủ gió
ngân hà xa tít rong chơi
đời thất lạc tôi tìm hoài không gặp
Tôi tan vào đời
ngưỡng vọng những bàn tay
cấy xuống đồng bật lên cuộc sống
những bàn tay xòe ra khát vọng
ôm nhọc nhằn ôm những bi ai
dìm vào hư ảo
Mỏi mệt tôi tạt qua con phố
tiếng rao đêm uống vào chát đắng
mộng thất lạc tôi tìm hoài không gặp
tôi đi về bên đời bên mộng
nghe âm vang
tiếng gọi
tìm mình…
Không còn sợ ánh sáng
Người đàn bà mộc mạc buồn theo điệu Boléro
sợ ánh mặt trời
sợ đèn đường
sợ loài đom đóm
đôi khi sợ cả chính mình
Sợ đôi mắt ngang
sợ chiếc lưỡi nhọn
người đàn bà ấy chen qua bóng tối
đến nơi hò hẹn
vụng về như kẻ trộm tồi
Người đàn bà ấy chẳng dám lụa là son phấn
ngày ngày vun đầy những lời xưng tụng tôn vinh
càng vật vã niềm khát vọng dần hóa tro than
Sáng nay trước di ảnh chồng
người đàn bà ấy lâm râm cầu khấn
một lời không trọn
nén hương tỏa khói ngập ngừng
mái tóc lệch màu run run nói hộ
người đàn bà ấy ra cổng
đón người đàn ông đã hẹn.
Điệp khúc Marathon
Ầm ào
ầm ào
khơi xa
hàng trăm con sóng
hàng ngàn con sóng
mỗi bình minh mở cuộc Marathon
bờ cát dài
đích đến
Mệt nhoài
mệt nhoài
lao tới
những con sóng
bạc trắng mái đầu
chạm bờ cát dài
chạm bờ hư không
Ngàn năm qua
và ngàn năm tới
khi bình minh sải chân trên biển
hàng trăm con sóng
hàng ngàn con sóng
ầm ào
ầm ào
khơi xa
lại trỗi lên
điệp khúc
Marathon.
4/12/2022
Phạm Bội Anh Thuyên
Theo https://vanvn.vn/

Ký sự miền Tây lục tỉnh

Ký sự miền Tây lục tỉnh Đầu năm Kỷ Hợi (2019) nhóm bạn cũ của chúng tôi tại Sài Gòn và vùng lân cận tổ chức chuyến đi VỀ MIỀN TÂY Nam bộ. Ri...