Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2025

Á Nam Trần Tuấn Khải, anh Khóa với những vần thơ nước non

Á Nam Trần Tuấn Khải, anh Khóa
với những vần thơ nước non!

Chúng ta cũng từng quen thuộc những bài thơ bi tráng: Tống biệt hành của Thâm Tâm, Túy hậu cuồng ngâm của Vũ Hoàng Chương, Hành phương Nam của Nguyễn Bính v.v… nhưng dường như chúng ta còn chưa quen lắm với Tráng sĩ hành của Á Nam Trần Tuấn Khải. Theo tôi Tráng sĩ hành là bài thơ quốc ngữ mở đầu và là một trong những bài thơ hay nhất trong dòng thơ hành hiệp bi tráng trước 1945…
MỘT THẾ KỶ CẦM BÚT
Á Nam Trần Tuấn Khải sinh năm 1895 tại làng Quang Xán, xã Mỹ Hà, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Cụ thân sinh là Trần Văn Hoán, đậu cử nhân năm Canh Tí (1900), có tư tưởng Duy tân, bạn của Phan Bội Châu, Nguyễn Bá Học. Cụ Hoán không ra làm quan, cho đến khi phong trào Đông Kinh nghĩa thục bị đàn áp, cụ mới nhận chức Huấn đạo huyện Cẩm Giàng (Hải Dương) để tránh bị thực dân làm khó dễ. Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sính, con một nhà giàu có trong làng. Theo gia phả, bà là “con gái một nhà có học hành nền nếp, tính tình rất hiền hậu thông minh”. Khi Trần Tuấn Khải còn nhỏ, bà thường “đặt những câu ca dao để hát ru con và được nhiều người trong hương thôn mến phục”[I].
Lên 4 tuổi, Trần Tuấn Khải bắt đầu học chữ Nho với cha mình, đã bập bẹ thuộc một bài thơ ngũ ngôn chữ Hán. Năm 14 tuổi đã đọc Tân thư (cuốn Vạn quốc sử ký của Nhật Bản). Năm 1913 (18 tuổi) định đi thi hương, nhưng lại thôi. Năm ấy kết hôn với bà Nguyễn Thị Khuê, sinh năm 1895, quê Sơn Tây, con nhà dòng dõi quan lại.
Đầu thập niên mười bắt đầu sáng tác. Năm 1914 (19 tuổi) viết bài thơ Tiễn chân anh Khóa xuống tàu. Khoảng những năm đó viết bài Gánh nước đêm.
Sau khi người con gái đầu bị bệnh mất, ông buồn nản bỏ đi chơi khắp xứ Đông: Móng Cái, Hòn Gai, Hải Phòng, Quảng Yên… lấy câu thơ chén rượu làm vui. Cũng nhân dịp đó mà kết giao với các bạn văn thân cách mạng, ông được nhiều người tán thưởng vì những câu thơ nồng nàn tinh thần ái quốc.
Sang năm 1920[II], anh em khuyên ông thu thập thơ văn ngâm vịnh bấy lâu để đưa lên Hà Nội xuất bản. Nhờ đó mà có tập Duyên nợ phù sinh, với ba chữ Hán ở trên: “Kim sinh lụy” do nhà in Trung Bắc của Nguyễn Văn Vĩnh ấn hành. Tập thơ gây xôn xao dư luận trong Nam ngoài Bắc, nhờ đó mà được nhà tư sản Bạch Thái Bưởi mời đến chơi và mời vào ban biên tập tờ báo Khai hóa mà ông mới xin phép xuất bản. Từ đó trở đi, Trần Tuấn Khải tham gia làng báo Hà Nội.
Ngoài viết cho tờ Khai hóa, ông còn tham gia viết cho các báo: Thực nghiệp dân báo, Trung Bắc tân văn, Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí…ở Hà Nội, Tiếng dân ở Huế và cả Đông Pháp thời báo, Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn. Các bút danh của ông thường dùng trong giai đoạn này là: Á Nam, Lâm Tuyền Khách, Côi Hoàng Cư Sĩ, Côi Hoàng Khách, Tiếu Hoa Nhân, Giang Hồ Khách, Đông A, Đông A Thị, Đông Minh, Công Chính…Ông kết giao thân thiết với Phan Khôi, Sở Cuồng Lê Dư, ông cử Mai Đăng Đệ, ông tú Nguyễn Đỗ Mục, Đàm Xuyên Nguyễn Phan Lãng… Ông từng làm việc với cụ nghè Ngô Đức Kế ở tạp chí Hữu thanh, và đã góp ý cho cụ nghè Ngô Đức Kế trong các bài tranh luận phê phán Phạm Quỳnh, như ông viết trong Gia phả: “Những bài bình luận đả kích Phạm Quỳnh đăng trên tạp chí Hữu thanh lúc đó, phần nhiều đều có ý kiến bản thân tham gia cả” (tr.31)
Từ 1920 đến 1930 Á Nam lần lượt cho xuất bản gần mười quyển sách sau đây:
1. Duyên nợ phù sinh (Kim sinh lụy) – Thơ văn, Quyển I: Nhà in Trung Bắc, In lần thứ nhất, Hà Nội, 1921 (1920?); Quyển II: 1923
2. Gương bể dâu, truyện lịch sử, In lần thứ 1, Nhà in Chân Phương, Hà Nội,  1923
3. Giai anh hùng, gái thuyền quyên, tiểu thuyết Trung Quốc, Á Nam dịch thuật, In lần thứ 1, Nhà in Thụy Ký, Hà Nội, 1924
4. Đông Chu liệt quốc. Thanh niên xuất bản, Hà Nội, 1925
5. Liêu Trai chí dị. Bồ Tùng Linh, Thanh niên xuất bản, Hà Nội, 1925
6. Hồn hoa, tiểu thuyết,  Từ Chẩm A, Thanh niên xuất bản, Hà Nội, 1925
7. Thủy hử, dịch, Thanh niên xuất bản, Hà Nội, 1925
8. Đăng khấu chí, Tiếp theo bộ Thuỷ hử, dịch, Thanh niên xuất bản, 1925
9. Tam tự kinh tập đọc, Hiệu sách Xương ký xuất bản, Kim Khuê ấn quán, in lần thứ nhất, Hà Nội,  1927
10. Mạnh tử  I (dịch), Trần Tuấn Khải dịch và bàn, Đông Kinh ấn quán, Hà  Nội, 1926
11. Bút quan hoài  I và II –  tập thơ, In lần thứ 1. Hiệu sách Xương Ký xb, Hà Nội, 1927
12. Hồn tự lập, in lần thứ nhất, Nhà in Thanh niên, Hà Nội, 1926; Nữ lưu thơ quán, Gò Công, 1929, cuốn thứ nhứt: Lược thuật truyện ông Găng – đi (Gandhi), cuốn thứ hai: Ba tay hiệp nữ nước Nga
13. Ngụ ngôn tập đọc (sách tập hợp một số câu chuyện Việt Nam để giáo dục trẻ em), Kim Giang xuất bản 1928.
14. Bài hát nhà quê (Khuyến Nông Công Thương), In lần thứ 1, Nam Ký xuất bản, Hà Nội, 1928   
Trong số sách trên thì Tam tự kinh, Mạnh tử, Ngụ ngôn tập đọc là sách giáo dục nhằm củng cố luân lý; Thủy hử, Đông Chu liệt quốc, Liêu Trai chí dị là tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc; Hồn hoa là tiểu thuyết mới của Trung Quốc; các quyển còn lại là thơ văn viết về lòng yêu nước
Ảnh hưởng của ông rộng rãi trên toàn quốc. Sách ông bán khắp trong Nam ngoài Bắc, như là đoạn rao sách dưới đây trên tờ Đông Pháp thời báo của Diệp Văn Kỳ:
“Ông Trần Tuấn Khải ở Hà Nội mới đặt một quyển sách kêu là: Tang-Thương-Cảnh nghĩa là Gương bể dâu, sách đặc hay mà bán giá rẻ, hai cắc một cuốn, nên mua xem chơi cho tiêu khiển, vì trong ấy có thú vị văn chương, lời lẽ rành rành, sự tích có nghĩa lý. Như ai có mua sỉ mà bán lại thì gởi thơ cho ông Trần Tuấn Khải ở Hà Nội, đề bao như vầy: Monsieur Trần Tuấn Khải, nhà in Chân Phương, 30 phố Hàng Mành, Hà Nội. Hễ người đặng thơ và Mandat, thì gởi sách lại cho, hoặc hỏi bổn báo mà mua cũng đặng” (Đông Pháp thời báo số 19 ra ngày 22.06.1923)
Ông cùng với Đạm Phương và nhiều trí thức khác nữa có tên trong ban biên tập của Nữ lưu thư quán Gò Công, một tổ chức văn hóa tiến bộ do Phan Thị Bạch Vân sáng[III].
Quyển Hồn tự lập I và II in khoảng những năm 1926 -1927 bị chính quyền thực dân để ý. Sách mới in ra 6 ngày thì bị cấm, nhưng 3000 bản đã được bán hết ngay vài ngày sau đó. Mấy tháng sau Bút quan hoài cũng bị cấm luôn. Pháp cho người đi tịch thu sách, cấm lưu hành tàng trữ trong nước. Năm 1927 Tòa Đại hình đưa Phan Bội Châu ra xét xử, Á Nam cùng với một nhà nho khác xin ra chịu tù thay cho cụ, nhưng không được chấp thuận. Điều này được Trần Tuấn Khải ghi rõ trong Gia phả: “Năm Đinh mão (1927), nhà cách mạng Phan Bội Châu bị quân Pháp bắt ở Trung Quốc đưa về giam tại Hỏa Lò, Hà Nội. Nhân có ông bạn đỗ tú tài, một nhà văn chương ái quốc, bàn với bản thân ra trước tòa án Pháp xin ở tù thay cụ Phan, song quân Pháp không chấp thuận” (tr.31). Ông kết giao với nhóm yêu nước Quốc dân đảng: Nguyễn Thái Học, Ký Con…
Khi Phan Bội Châu được an trí ở Huế, Trần Tuấn Khải đã bí mật đến thăm. Sau đó dự định vào Nam để xuất dương gây dựng phong trào cách mạng ở hải ngoại. Ở Huế ông gặp Huỳnh Thúc Kháng, có viết mấy bài cho bán Tiếng dân. Vào Sài Gòn, Trần Tuấn Khải gặp Diệp Văn Kỳ, Bùi Thế Mỹ, những nhà báo cự phách của Nam Kỳ, rồi gặp Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Đào Trinh Nhất, Hoàng Tích Chu, Cả Vấn mới ở Pháp về. Ý định xuất dương không thành, “bạn Diệp Văn Kỳ đương chủ trương tờ báo Thần chung, có ý nài vào cộng tác, song bản thân vì chí nguyện xuất dương không đạt, nên lại từ biệt Nam phần trở về Hà Nội” (Gia phả, tr.32). Thực dân Pháp cho người nhiều lần đến dụ dỗ cộng tác, nhưng ông nhất mực từ chối. Sau ông ra viết giúp cho tờ Đông Tây tuần báo của Hoàng Tích Chu, đồng thời cũng viết cho nhiều báo trong Nam ngoài Bắc: Vệ nông, Đông Tây tiểu thuyết của nhà sách Nam Ký, Đông Dương tạp chí của Nguyễn Giang, Văn học tạp chí của Dương Quảng Hàm, Nữ lưu thư quán tùng san của Đạm Phương nữ sử ở Huế, Đuốc nhà Nam, Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn…
Năm 1932, trong sách Sách Chơi xuân năm Nhâm thân, ông có thuật lại việc thực dân Pháp đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa Yên Bái, bên cạnh đó ông còn viết nhiều thơ văn yêu nước với giọng hùng hồn cảm khái, vì thế mà tác giả và người phụ trách xuất bản bị tống giam vào Hỏa Lò. Thực dân Pháp đem cả hai ra xử ba lần, nhưng không đủ chứng cớ nên phải xử phạt án treo và thả tự do cho cả hai người. Sau sự kiện này thì đến một chuyện buồn khác là người vợ yêu quý của ông – bà Nguyễn Thị Khuê qua đời. Năm 1938 ông lại tục huyền với bà Nguyễn Thị Lũy, con gái một nhà giàu ở Phú Đô (Hoài Đức, Hà Tây), kém ông 25 tuổi.
Giai đoạn 1930-1945 Á Nam Trần Tuấn Khải ít làm thơ hơn trước, có lẽ do ông bị chính quyền thực dân theo dõi gắt gao, như trong “Mấy lời bộc bạch”  tập Với sơn hà ông có viết: từ sau khi bị giam ở Hỏa Lò ra “phàm các văn phẩm của tôi, bất cứ đăng tái vào đâu, đều bị kiểm duyệt một cách gắt gao. Những nhà in, những nhà xuất bản, vì thế thảy đều tránh sự phiền lụy, ít dám nhận in tác phẩm của tôi”[IV]. Vì vậy ngoài tập thơ Với sơn hà xuất bản năm 1935 (Kim Khuê xuất bản, Hà Nội), ông chuyển sang dịch sách và viết truyện võ hiệp. Những sách xuất bản trong giai đoạn này là:
1. Sách Chơi xuân Nhâm thân (truyện viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái), Nam Ký xuất bản,  Hà Nội, 1932
2. Thạch đầu hồn, Tiểu thuyết liên hồi, Trần Tuấn Khải thuật, Tiến Đức thư quán, Hà Nội, 1933
3. Kiếm châu duyên, võ hiệp tiểu thuyết, Trần Tuấn Khải dịch thuật, Nhà in Lê Cường, Hà Nội, 1935
4. Không Động kỳ hiệp, võ hiệp tiểu thuyết, Trần Tuấn Khải dịch, Tam Hữu xuất bản cục, Hà Nội, 1935
5. Kiền khôn võ hiệp, Trần Tuấn Khải dịch, Nhà in Trung Bắc tân văn, Hà Nội, 1936
6. Vạn lý tình hiệp, hiệp tình tiểu thuyết, Trần Tuấn Khải dịch thuật, Nhà in Lê Cường, Hà Nội, 1936-1937
7. Thiên Thai lão hiệp, Trần Tuấn Khải thuật, Tam Hữu xuất bản cục, Hà Nội, 1936 (sáng tác)
8. Hồng lâu mộng, Hồng Tú Toàn…dịch tiểu thuyết Trung Quốc[V]
Trong số các truyện võ hiệp của ông thì Thiên Thai lão hiệp là bộ thành công nhất, được độc giả tán thành nhiệt liệt. Dù được đón nhận, nhưng trên văn đàn, ông đã là người của thế hệ trước. Mặc cho những biến cố lớn lao trong suốt 15 năm văn học với sự ra đời của Thơ mới và tiểu thuyết mới, nhưng những cuộc cách mạng văn học ấy dường như không mảy may ba động đến văn chương của Á Nam. Trước sau ông vẫn là một “anh Khóa” – bình dân, nghiêm trang và yêu nước.
Sau 1945, Trần Tuấn Khải không còn có những tác phẩm gây được dư luận rộng rãi như trước nữa. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông đưa gia đình lên tản cư ở Sơn Tây, năm 1947 nhà cửa, sách vở bị đốt hết, năm 1948, về lại Hà Nội  “vì hoàn cảnh bắt buộc”[VI]. Ở Hà Nội, ông chỉ đi dạy học: trung học Chu Văn An, nữ học Trưng Vương, trường Nguyễn Trãi và môt số trường tư thục. Năm 1949 ông cho xuất bản Với sơn hà II (Nhà in Quảng Tiến xuất bản, Hà Nội, 1949).
Sau khi vào Nam ở với mấy người con lớn đã vào sinh sống ở Sài Gòn từ lâu, năm 1959 ông xuất bản tờ Văn học tạp chí, nhưng chỉ được 2 số, vì không có tiền nên phải đình bản([vii]). Từ 1960, ông làm chuyên viên Hán học tại Nha Văn hóa, rồi ban dịch thuật Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa. Năm 1965 ông ký tên kiến nghị vận động hòa bình nên bị ngưng chức. Vì là một nhân sĩ thanh cao và yêu nước nên năm 1966 ông được mời ra làm chủ tịch danh dự Phong trào Bảo vệ Văn hóa Dân tộc do Mặt trận Giải phóng tổ chức. Trong thời gian làm ở ban dịch thuật, ông đã tổ chức dịch và tự mình dịch nhiều tác phẩm Hán văn như:
1. Pháp cú kinh, Anh Hán đối chiếu Hòa dịch của Thường Bàn Đại Định; Á Nam Trần Tuấn Khải dịch; Lăng Hồ Nguyễn Khắc Kham hiệu đính, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn 1963
2. Ưc Trai tướng công di tập: Dư địa chí, Nguyễn Trãi, Nha Văn hoá Tổng bộ Văn hóa xã hội xuất bản, Sài Gòn, 1966
3. Tam tổ hành trạng, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1971
4. Tự Đức thánh chế văn tam tập, T.1 & 2: quyển IX đến XIV (trọn bộ), Bùi Tấn Niên, Trần Tuấn Khải dịch, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1973
Bài thơ Mừng anh Khóa về viết nhân ngày giải phóng miền Nam gây được tiếng vang lớn. Sau năm 1975 ông được mời làm cố vấn cho Hội Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh. Thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải trút hơi thở cuối cùng vào ngày 7 tháng 3 năm 1983 tại nhà riêng ở TP.Hồ Chí Minh, thọ 89 tuổi. Ông có nhiều con, không kể những người mất từ nhỏ, còn lại 10 người, trong đó có một số người tiếp tục nghề làm văn làm báo của ông, nổi tiếng nhất có: Trần Quốc Phiên (Trần Việt Hoài), nhà báo, nhà thơ, tác giả tập kịch thơ Tro tàn điện ngọc; Trần Thị Gia Minh, tức nữ sĩ Tuệ Mai (con bà Nguyễn Thị Khuê); Trần Thị Lan (tức nữ sĩ Lan Hinh, con gái đầu của bà kế thất Nguyễn Thị Lũy), tiếp theo là Trần Thị Hồng Khương, nhà thơ, hiện đang định cư ở nước ngoài.
VĂN CÓ NON SÔNG MỚI CÓ HỒN
Gần một thế kỷ sống và viết, Á Nam Trần Tuấn Khải đã để lại một sự nghiệp trước tác không nhỏ: khoảng 30 tác phẩm gồm nhiều thể loại từ thơ ca, văn xuôi, đến nghiên cứu, dịch thuật. Nếu có thời gian hơn, chúng tôi sẽ nói về những đóng góp của Á Nam trong lĩnh vực khảo cứu, dịch thuật. Ở đây chúng tôi chỉ trình bày những đóng góp về thơ ca của ông.
Tiếng thơ của Á Nam cất lên khi thơ ca của phong trào Duy tân của các chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…đã đến lúc thoái trào. Hoặc các chí sĩ đã phải lưu lạc ở hải ngoại, hoặc âm thầm uất ức trong ngục tù. Cho đến cuối thập niên mười, một số chí sĩ ra khỏi tù bèn chuyển hướng đấu tranh, từ bất hợp pháp, bạo động sang hợp pháp và bằng báo chí. Nếu thi sĩ Á Nam của chúng ta cùng thế hệ với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…thì có lẽ ông cũng là một chí sĩ Duy tân, như ông từng nói:
Cuộc văn chương đã đến khi tàn,
Thôi thì đạo đức với thanh nhàn là hay,
Anh quyết rung đùi dạy dỗ đám sau này,
Mong cho nhân loại một ngày văn minh.
Túi kinh luân sắp sẵn để bên mình
Gặp thời chưa dễ côn kình anh đã thua ai
(Anh đồ)
Nhưng ông sinh sau Phan Bội Châu gần 30 năm, sinh sau Phan Chu Trinh gần 20 năm, thành ra ông là người của thế hệ khác. Thời cuộc đã đổi thay, phong trào Duy Tân đã bị đàn áp, nhưng không lẽ không ai dám nói gì về chuyện nước đã mất, về dân tộc bị khinh miệt, bị chà đạp nữa sao? Cũng như các chí sĩ đang hoạt động trong làng văn, làng báo công khai ở Hà Nội lúc bấy giờ, Trần Tuấn Khải đã chọn cho mình một con đường nghệ thuật: dùng ngòi bút để phê bình, sửa chữa luân lý, và nhất là để thể hiện tình tự dân tộc, gìn giữ ngọn lửa yêu nước đang âm ỉ trong lòng người dân, và khi có thể thì thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh. Con đường nghệ thuật ấy hẳn là nhiều chông gai, và rất dễ dẫn đến tù ngục. Quả là vậy, như chúng ta đã biết.
Chọn bút hiệu Á Nam, thi sĩ muốn nhắc nhở mọi người về nước Nam ở châu Á. Cái tên Á Nam với những vần thơ thiết tha về số phận của dân tộc đang bị đọa đày đã làm mới không khí thơ ca đang ướt át vì những lệ, những sầu, những oán, những thảm của Nhàn Khanh, Tương Phố, Đoàn Như Khuê…đang thịnh hành lúc bấy giờ. Còn có Tản Đà. Nhưng cái hay của Tản Đà chủ yếu là ở phong cách ngông nghênh, kiêu bạc trong những Giấc mộng lớn, Giấc mộng con…, còn về yêu nước thì kín đáo lắm, chỉ  thở than Vịnh bức dư đồ rách hay xa xôi bóng gió nhuốm vẻ phong tình với một Thề non nước, Qua cầu Hàm Rồng cảm tác…mà thôi.
Với Á Nam Trần Tuấn Khải, ông ý thức rất rõ về con đường nghệ thuật mà mình đang theo đuổi. Ông viết:
Đời không duyên nợ thà không sống
Văn có non sông mới có hồn
(Nhàn bút– Với sơn hà I)
hay:             
Góp cùng kim cổ lưng bầu huyết
Gửi với sơn hà một áng văn.
(Bài đề đầu Với sơn hà I)
Ngay từ tập thơ đầu tiên: Duyên nợ phù sinh, Á Nam đã dựng lên hình tượng một con người hai vai nặng gánh nước non qua hình ảnh ẩn dụ về người đàn bà gánh nước:
Em bước chân ra
Con đường xa tít
Con sông mù mịt
Bên vai kĩu kịt
Nặng gánh em trở ra về
Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya
Vì chưng nước cạn nặng nề em dám kêu ai
Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá vá giời
Con dã tràng lấp bể biết đời nào xong
Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng
Nước non gánh nặng
Cái đức ông chồng hay hỡi có hay?
Em trở vai này…
(Gánh nước đêm)
Ông Phạm Quỳnh, chủ báo Nam Phong nhận ra ngay ý tưởng ẩn chứa trong bài thơ. Dẫu là làm cho tờ báo của chánh mật thám Đông Dương, ông ta cũng phải thốt lên lời khen ngợi: “Đó là cái tình cảnh chị nhà quê gánh nước đêm, nhưng ở đời há chẳng có những người chí khí khác thường, cũng từng nặng lòng vì gánh nước non. (…) Túng sử cả tập thơ chỉ được một bài này cũng đáng khen, huống còn nhiều bài hay nữa”[VIII].
Còn nhà văn Song An Hoàng Ngọc Phách thì nhiệt liệt tán thưởng cả tập Duyên nợ phù sinh: “Gập sách lại tổng luận một câu rằng: “Tập văn có giá trị”. Giá trị vì đứng đắn, giá trị vì thanh cao, ông Á Nam đã khéo đem văn chương mà diễn ra những tấm cảm tình, hoặc mơ màng lai láng như trong bài Chơi núi Sài Sơn, bài Lên chợ giời, bài Vào chùa Hương Tích, hoặc khi ở việc tầm thường mà nảy được những ý tứ hay như trong bài Tiễn chân anh Khóa, bài Gánh nước đêm, hoặc ngông nghênh như trong bài Bác xẩm.”[IX]
Tiếng thơ Á Nam thực sự lay động toàn quốc là từ loạt bài thơ Anh Khóa, mở đầu bằng bài Tiễn chân anh Khóa xuống tàu:
“Anh Khóa ơi, em tiễn chân anh xuống tận bến tàu
Đôi tay em đỡ cái khăn trầu, em lấy đưa anh
Tay cầm trầu giọt lệ chạy quanh
Anh xơi một miếng cho bõ chút tình em nhớ thương”
Bài thơ gợi đúng nỗi đau đang tràn ngập lòng người lúc bấy giờ: nỗi đau chia ly. Con xa cha mẹ, anh xa em, vợ xa chồng… Người thì đi phu đồn điền, kẻ thì lưu lạc vì kế sinh nhai, kẻ thì đi lính đánh thuê ở tận trời Âu, và cả những người xuất dương bôn ba hải ngoại nữa. Nỗi đau chia ly hằn lên cả trong những câu hát dân gian:
Tàu súp-lê[X] một tàu quằn tàu quại
Tàu súp-lê hai tàu ra biển bắc
Tay anh vịn song sắt nước mắt chảy đôi hàng
Ai làm cho lỡ chuyến đò ngang
Cho sông sông rộng, cho đôi đàng biệt ly
(Ca dao Nam bộ)
Anh Khóa của Á Nam đã xuống tàu xuất dương, nhưng hình như việc chia tay với người vợ trẻ có cái gì đó lớn lao hơn, thiêng liêng hơn là chuyện lưu lạc vì kế sinh nhai:
Anh Khóa ơi!
Người ta lắm bạc nhiều tiền
Anh em ta phận kém duyên hèn nên phải long đong
Một mình anh nay Bắc lại mai Đông
Lấy ai trò chuyện cho khuây lòng lúc sớm khuya
Anh Khóa ơi!
Chữ tương tư vai gánh nặng nề
Giang hồ anh khéo liệu trở về kẻo em mong
Đúng như vậy, anh Khóa ở đây xuất dương vì nghĩa lớn với nước. Sáu mươi năm sau khi bài thơ ra đời- năm 1974, Á Nam tâm sự về cảm hứng viết bài thơ ấy như sau:
“Vào năm 1914, phong trào Đông kinh nghĩa thục đang khơi dậy lòng ái quốc và phát động phong trào nô nức xuất dương du học của đám sĩ phu nước nhà, nhưng bị nhà cầm quyền Pháp phá vỡ, một số sĩ phu phải trốn ra ngoại quốc. Nhân tiễn một người bạn lên tàu ở bến Hải Phòng, quang cảnh kẻ ở người đi đổi trao tâm sự, đưa nhau miếng trầu, cảm xúc đó đã thúc đẩy nhà thơ viết bài Tiễn chân anh Khóa”[XI]
Bài thơ lan truyền khắp toàn quốc. Như Á Nam có kể lại: năm 1928- 1929, nghĩa là 15 năm sau khi bài thơ ra đời, thi sĩ đi vào Nam, thì nghe ở khắp các bến xe, nhà ga cả Bắc, Trung, Nam đâu đâu người ta cũng hát bài này. Đến ga Đà Nẵng, khi ông xuất trình giấy tờ, viên xếp ga thấy tên ông vội vã mời ngay vào phòng trưởng ga nói chuyện để tỏ ý hâm mộ rồi trịnh trọng đưa thi sĩ đến tận tàu.
Sự yêu thích như vậy có thể so với thơ của Bạch Cư Dị, như trong Thư gửi Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị thuật lại rằng: trong mấy chục năm ông đi tới đâu, dù xóm chợ hay chùa chiền cũng đều thấy người ta ca bài Tì bà hành, Trường hận ca của ông.
Những năm 30, thi sĩ Á Nam còn để lại một bài thơ có thể kể vào hàng tuyệt tác. Đó là bài Tráng sĩ hành viết năm 1933. Ý muốn giúp đời, giúp nước bằng văn chương đôi khi cũng thấy vô nghĩa quá. Giấc mộng anh hùng của kẻ sĩ “nhân sinh tại thế bất xứng ý” (Lý Bạch) đã được ký thác vào một bài thơ về Kinh Kha sang Tần để hành thích Tần Thủy Hoàng. Bài Tráng sĩ hành có giọng bi hùng, khảng khái mà uất ức, mang đậm hơi thơ cổ:
“Gió đìu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê
Tráng sĩ một đi không bao giờ về”
Tay nâng chén rượu giã người cũ
Miệng đọc câu ca chân bước đi
Dao tình mài liếc với thanh khí
Chí hùng tung bốc đầy sơn khê 
Người tráng sĩ ra đi vì nghĩa lớn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Giọng thơ khắc bạc, kiêu bạc, khinh bạc…, chúng ta thực sự không ngờ “Anh Khóa Khải” đạo lý, nghiêm trang, đôi khi dân dã lại có giọng thơ lạ như vậy:
Niềm phân ly!
Đã bước chân ra không hẹn kỳ,
Đời người bất quá vị tri kỷ,
Sống, chết, nên, chăng ai sá chi!
Túi áo xênh xang ba tấc kiếm,
Bụi hồng dong ruổi đôi bánh xe.
Ẩn đằng sau dáng vẻ gầy guộc thư sinh của một anh đồ, anh khóa kia vẫn ngùn ngụt một giấc mộng anh hùng. Không hiểu sao, tôi cứ tin là thi sĩ làm bài thơ này khi đã chếnh choáng hơi men. Với người xưa, uống rượu là để phát lộ tính tình. Ta nghe thấy ở đây không chỉ giọng bi tráng của Kinh Kha bên bờ Dịch thủy:
Phong tiêu tiêu hề, Dịch  thủy hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn
mà còn phảng phất một giọng cảm khái của Đoản ca hành (Tào Mạnh Đức), uất ức của Hành lộ nan (Lý Thái Bạch), khảng khái của Chính khí ca (Văn Thiên Tường) và khinh bạc, tiêu sái của Uống rượu tiêu sầu (Cao Bá Quát)… Xin đọc tiếp:
Thề đem tấm thân tới hang hổ
Giết con cọp dữ rừng man di
Đời nếu chôn lấp hết công lý,
Anh hùng hào kiệt còn ra gì!
Phá núi Thái Sơn lấp Đông Hải,
Ấy là phận sự đàn nam nhi. (…)
Liếc mắt khắp trông vũ trụ đó
Đâu không là cảnh ta say mê!
Chếnh choáng hơi men bốc chính khí,
Ngâm câu khảng khái mình ta nghe…
Bài thơ này thể hiện những ý tưởng quyết liệt vào khoảng thời gian tác giả của nó mới từ nhà tù thực dân ra (1932) vì những tác phẩm “phiến loạn”.
Chúng ta từng say mê với Hồ trường qua lời thơ dịch tuyệt diệu của Nguyễn Bá Trác:
Trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường
Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương
Trời Nam nghìn dặm thẳm
Mây nước một màu sương
Học không thành, công chẳng toại,
Trai trẻ bao lâu mà đầu bạc,
Trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi,
Trời đất  mang mang ai là tri kỷ,
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường
Chúng ta cũng từng quen thuộc những bài thơ bi tráng: Tống biệt hành của Thâm Tâm, Túy hậu cuồng ngâm của Vũ Hoàng Chương, Hành phương Nam của Nguyễn Bính v.v… nhưng dường như chúng ta còn chưa quen lắm với Tráng sĩ hành của Á Nam Trần Tuấn Khải. Theo tôi Tráng sĩ hành là bài thơ quốc ngữ mở đầu và là một trong những bài thơ hay nhất trong dòng thơ hành hiệp bi tráng trước 1945.
Phong dao là một trong những cống hiến đặc sắc của Á Nam. Hồn ca dao của dân tộc đã thấm sâu vào “anh Khóa” bình dân, khiến cho thi sĩ viết ra những bài ca như của một chị “nhà quê”, một anh trai cày đích thực:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
(Bút quan hoài I)
hay:           
Rủ nhau xuống bể tìm cua[XII]
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc xin đừng quên nhau
(Duyên nợ phù sinh)
Từ thi pháp cho đến tâm tình đều thấm nhuần lời ăn tiếng nói, ca dao của người nông dân Việt Nam. Trách chi nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan lại chẳng lầm mà đưa hai bài ấy vào mục ca dao về “Tình yêu nam nữ” trong công trình Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của ông. Ngoài hai bài ấy ra, Á Nam còn nhiều bài phong dao khác nữa mà khi để cạnh ca dao người ta khó có thể phân biệt được đâu là Á Nam và đâu là dân gian:
– Vành giăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng
Đưa nhau một bước lên đàng
Cỏ xanh hai dãy mấy hàng châu sa.
– Bướm kia sao nỡ lìa hoa
Chim xanh sao nỡ bay xa vườn hồng
Ai đi muôn dặm non sông
Để ai thương nhớ sầu đong một mình
Thơ Nguyễn Du cũng đã từng được những người dân quê nghĩ là lời ca của mình. Ngược lại trong thơ Nguyễn Du cũng có không ít những lời “tang ma ngữ”, lời của người hái dâu, dệt vải. Ở Á Nam cũng vậy. Á Nam đã hòa tiếng thơ của mình, số phận của mình vào với nhân dân: ông đã làm người xẩm mù hát rong nỗi lòng của nhân dân, như Homère đã làm với Iliat, Bạch Cư Dị đã làm với Tì bà hành, Trường hận ca…
Thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải đã xa chúng ta, nhưng tên tuổi của ông  cùng với nhiều bài thơ của ông đã hóa thân vào với nhân dân và bất tử cùng với dân tộc.
Chú thích:
[i] Gia phả họ Trần, Á Nam Trần Tuấn Khải soạn, 1966. Phần tiểu sử Á Nam, chúng tôi cũng chủ yếu dựa vào tài liệu này.
[ii] 1920 là viết theo Gia phả họ Trần, còn theo Duyên nợ phù sinh II (Xương Ký xuất bản lần 3, 1927) thì sách này xuất bản năm Tân dậu, Khải Định thứ nhất, 1921
[iii] Phan Thị Bạch Vân (Hoàng Thị Tuyết Hoa), nhà văn, nhà báo, người sáng lập ra Nữ Lưu Thư Quán Gò Công, có đóng góp lớn trong phong trào duy tân và đấu tranh cho nữ quyền ở Nam Bộ. Năm 1930 bà bị thực dân Pháp bắt đưa ra tòa vì tội phá hoại trị an bằng văn chương tư tưởng. Trong sách Nữ anh tài cuốn 2 có ghi: “Chư văn nhơn giúp bộ biên tập: Madame Nguyễn Khoa Tùng dit Đạm Phương Nữ Sử – Huế (…) Monsieur Á Nam Trần Tuấn Khải – Hà Nội” (Nữ Lưu Thơ Quán xb, Gò Công, 1929, tr.45).
[iv] Với sơn hà, cuốn thứ II, in lần thứ nhất, Nhà in Quảng Tiến xb, Hà Nội, 1949, tr.5
[v] Xin lưu ý: Trên các bìa sách võ hiệp lấy đề tài Trung quốc cổ, Trần Tuấn Khải ghi 3 khái niệm khác nhau (chúng tôi giữ nguyên): “dịch”, “thuật”, “dịch thuật”. Trong đó “dịch” chắc chắn là dịch rồi, nhưng “thuật” là gì? Chúng tôi cho rằng có lẽ là sáng tác, vì trong Gia phả ông có viết: “Được ít lâu lại in bộ tiểu thuyết Hồng Tú Toàn và hợp tác với nhà xuất bản Tam Hữu dịch các sách kiếm hiệp. Đồng thời lại xuất bản bộ Thiên Thai lão hiệp do bản thân tự soạn, dài tới bốn, năm mươi hồi đều được các giới thưởng thức nhiệt liệt và rất dễ tiêu thụ trong thị trường văn giới” (tr.34). Trên bìa bộ Thiên Thai lão hiệp ấy ông đề là “thuật”. Còn lại khái niệm “dịch thuật” có lẽ là trung gian giữa dịch và thuật, như một loại phóng tác chăng?
[vi] Với sơn hà, sđd, tr.6
[vii] Văn học tạp chí, chuyên san, chủ nhiệm và chủ bút: Trần Tuấn Khải, Sài Gòn, 1959
[viii] Dẫn theo Duyên nợ phù sinh II, Xương Ký xuất bản lần 3, 1927, tr.2
[ix] Dẫn theo Duyên nợ phù sinh II, sđd, tr.4
[x] Sufflet: kéo còi
[xi] Tạp chí Bách  khoa (Sài Gòn) số 416 năm 1974
[xii] Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan chép là “mò cua”.
16/7/2022
Đoàn Lê Giang
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học số 7/ 2007
Theo https://vanhocsaigon.com/

Nhà văn Mai Tiến Nghị: Lạc vào cõi người

Nhà văn Mai Tiến Nghị:
Lạc vào cõi người…

Có người trong làng văn tự xưng là “Người kể chuyện xứ Kinh Bắc”, kể ra cũng vui mặc dù chẳng ai công nhận cái danh xưng kia là có “chuẩn không cần chỉnh” hay không. Mai Tiến Nghị, như tôi biết, khiêm tốn hơn nhiều vì ông không “xưng” gì cả, trước ai cả. Nhưng tôi cứ nghĩ, ở xứ Sơn Nam, có một người kể chuyện rất có duyên là Mai Tiến Nghị. Con người nhà văn Mai Tiến Nghị thuần phác, khiêm cung, cầu thị…
Tiểu thuyết “Đông trùng hạ thảo” được nhà văn Mai Tiến Nghị viết trong vòng bảy tháng (5-12.2017). Trong khi tìm nhà xuất bản để in tác phẩm, ông trích xuất một trường đoạn viết thành truyện ngắn “Thi tuyển giáo viên” (đăng trên báo Văn Nghệ số 3095/2019). Giáo sư Nguyễn Lân Dũng sau khi đọc truyện ngắn này đã nhận xét: “Truyện ngắn “Thi tuyển giáo viên” của tác giả Mai Tiến Nghị đăng trên báo Văn Nghệ số 3095 đã làm tôi mất ngủ. (…). Không hiểu tác giả có biết loại đông trùng hạ thảo đang được sản xuất và đang bán rất đắt ở nước ta chỉ là Nhộng trùng thảo (Cordyceps  millitaris) hiện được bán rất rẻ ở Trung Quốc. Nó làm gì có chuyện đông là sâu, hạ là nấm như loài Đông trùng hạ thảo thật (Cordyceps sinensis)” (Giaoduc.net.vn, 27.6.2019).
Có chân trong Ban giám khảo Cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 5 (2015-2019) của Hội Nhà văn Việt Nam, khi đọc bản thảo “Đông trùng hạ thảo”, tôi và không chỉ các thành viên trong nhóm, rộng hơn đều đánh giá tiểu thuyết của Mai Tiến Nghị xứng đáng vào Chung khảo. Riêng tôi dự đoán “nó” sẽ được giải cao – kết quả là giải Tư (đành lòng vậy cầm lòng vậy, vì sự công bằng cũng chỉ là tương đối).
Nhan đề tiểu thuyết “Đông trùng hạ thảo” rất gợi hứng người đọc ngày nay. Trước hết nó nói về sự/con biến hình trong tự nhiên, từ động vật sang thực vật như loài Cordyceps sinensis. Mượn hình ảnh của quy trình này trong tự nhiên, nhà tiểu thuyết đã đặc tả một chuỗi những tác nhân xã hội khiến con người tha hóa, biến thái, biến hình.
Trong quá trình đặc biệt này dưới áp lực của kinh thế thị trường, xã hội người được chia thành các “ô”: có loại biến thái (thoái hóa) đến tận cùng với phương châm sống “lợi ích là vĩnh viễn” (như Chủ tịch tỉnh Đỗ Sung, như “chân dài” Phương Loan); hoàn lương (sa sút đạo đức nhưng còn ít nhiều liêm sỉ nên cố gắng hoàn lương, như vợ chồng Giám đốc sở Hoàng Chuẩn); sống thanh bần lạc đạo để giữ thiên lương (như vợ chồng thầy giáo Trần Lương, vợ chồng nhà báo Văn Thành),…
Tất nhiên xã hội người thời nào cũng phức tạp, chồng chéo mâu thuẫn, nhiều giai tầng người đan cài, hoạt động sôi nổi đến mức náo động (đôi khi náo loạn), theo quy luật tương hỗ (vạn vật hấp dẫn). Những chuyện xảy ra ở một tỉnh lẻ, xa thủ đô, nhưng khúc xạ bộ mặt chung của thời đại quyền lực và kim tiền lên ngôi đầy sức cám dỗ chết người.
Theo cách viết của nhà tiểu thuyết thì xã hội đầy những thăng trầm, các giá trị bị đảo lộn, niềm tin bị lung lay. Nhưng nguyên nhân từ đâu? Nếu đơn giản chúng ta quy về đồng tiền, lợi ích vật chất đã làm con người nghiêng ngả, đôi khi như điên loạn trong mê cung, mê lộ. Nhưng bình tĩnh nhìn sâu vào cốt lõi của những vấn nạn xã hội thì đó là sự đứt gãy xuống cấp của văn hóa nặng về vật chất, tiêu dùng và giáo dục nặng về thành tích. Đó mới là chân tủy của tiểu thuyết Đông trùng hạ thảo khi bằng hình tượng nghệ thuật nói về cái “chân” và cái “giả” trong đời sống xã hội hiện nay.
Một nửa đàn ông là đàn bà
Nói đến tiểu thuyết là nói đến nhân vật. Muốn có “một câu chuyện bịa y như thật “(theo cách duy danh định nghĩa về tiểu thuyết – thể loại vốn được xem là “máy cái” của văn học), muốn dẫn dụ người đọc phải có nhân vật để găm vào trí nhớ của họ. “Đông trùng hạ thảo” có cốt truyện hay, tình tiết và chi tiết “bắt mắt”. Đã đành. Tôi hình dung, khi viết tác giả dồn sức cho trận đánh quyết định là các nhân vật.
Đặc điểm của các nhân vật tiểu thuyết “Đông trùng hạ thảo” là “một nửa đàn ông là đàn bà”. Nghĩa là, trong sơ đồ các nhân vật chính, tác giả sắp đặt, chuẩn bị một thứ “keo” để dính “hai nửa” của thế giới với nhau bằng những quan hệ đa chiều và phức tạp, vừa có tính xã hội, đạo đức vừa có tính tự nhiên, bản năng gốc. Đàn ông và đàn bà trong “Đông trùng hạ thảo” nếu có mối dây liên hệ vô hình hay hữu hình, thường bắt đầu từ bản năng gốc.
Chẳng hạn, ông Chủ tịch tỉnh Đỗ Sung lần đầu gặp Thu Vân vợ Hoàng Chuẩn, thuộc cấp của mình trên bãi biển đã bị “sét đánh”. Tâm hồn nào đã biết nông sâu, nhưng thân thể (tòa thiên nhiên) thì trực quan sinh động vì Thu Vân là một phụ nữ, một đàn bà đang độ nảy nở nhan sắc. Vì thế mà ông Chủ tịch tỉnh đã phải sau cơn choáng váng bản năng “khom người chạy ào xuống nước”.
Thu Vân có chồng Hoàng Chuẩn nào có kém cạnh ai nhưng khi tiếp xúc với Đỗ Sung cũng bị choáng vì ông ấy “chả kém gì” dù hai người đàn ông này cách nhau cả chục tuổi. Khi Thu Vân “dính” Đỗ Sung thì trước hết cũng nhằm để thỏa mãn thể xác theo cảm giác mới lạ, ngoài luồng (có tính đực/cái). Sau này khi nghi ngờ vợ có quan hệ ngoài luồng, Hoàng Chuẩn đã bập vào Phương Loan, cô gái mới về cơ quan, thuộc loại “chân dài” và tính tình phóng túng, hoang đàng.
Sau khi Thu Vân bị tai nạn ôtô, bị cưa một bàn chân, trở nên không còn hấp dẫn như trước nữa thì Đỗ Sung lại chuyển hướng, “dính” với Phương Loan và có một con trai với cô ta. Thu Vân khi chưa bị lộ và chưa bị tai nạn đã nhiều lần tiếp xúc với bạn học phổ thông Trần Lương (nay là Hiệu trưởng trường phổ thông), cô chủ động gợi tình nhưng bạn học thì không phải không muốn nhưng ý tứ giữ gìn để xem đây là tình cảm anh em trong sáng bền lâu. Trần Lương, theo cách nói của giới trẻ bây giờ, là “động vật quý hiếm”.
Nhưng nếu tác giả đi sâu quá vào “bản thể”, “bản năng gốc” của nhân vật mà lơ là tính xã hội – đạo đức của nó thì hệ quả sẽ là một tác phẩm giàu “sex” (best-seller, bán chạy). Rất may, tác giả đã điều chỉnh, điều hòa được hai mặt xã hội – tự nhiên của các nhân vật. Nếu không như thế thì tiểu thuyết chỉ còn lại chằn chặn những “mê cung tình ái”. Ở đây, tôi nhận thấy, Mai Tiến Nghị say mà tỉnh, tỉnh mà say khi viết.
Người kể chuyện xứ Sơn Nam
Có người trong làng văn tự xưng là “Người kể chuyện xứ Kinh Bắc”, kể ra cũng vui mặc dù chẳng ai công nhận cái danh xưng kia là có “chuẩn không cần chỉnh” hay không. Mai Tiến Nghị, như tôi biết, khiêm tốn hơn nhiều vì ông không “xưng” gì cả, trước ai cả. Nhưng tôi cứ nghĩ, ở xứ Sơn Nam, có một người kể chuyện rất có duyên là Mai Tiến Nghị. Con người nhà văn Mai Tiến Nghị thuần phác, khiêm cung, cầu thị. Tháng 10.2018, tôi có đi dự Trại viết của Tạp chí Văn nghệ quân đội ở Tuyên Quang, sống gần ông nhà văn này mới cảm thấy hết câu “văn là người”. Ngay cái email của ông cũng đầy chất dân dã: cuaran1954@gmail.com. Ông hay cười tếu táo, hóm hỉnh. Hút thuốc lá nhiều. Hăng say gõ máy.
Văn Mai Tiến Nghị trong “Đông trùng hạ thảo” có biệt sắc? Có thể nói ngắn gọn, đó là lối/cách kể chuyện giản dị, nương theo trình tự thời gian nên người đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện. Tiểu thuyết được cấu trúc theo hai phần, gồm 16 chương (theo tỷ lệ 11/5). Phải công bằng khi nói rằng, phần một tác giả kể rành rẽ, hấp dẫn hơn phần hai. Có thể vì hết phần một, các nhân vật đã bộc lộ hết “chân tướng”, các tình huống đã qua cao trào đỉnh điểm, các xung đột đã được đẩy lên tận cùng và cách tháo gỡ những “quả bom nổ chậm” đã có kết quả, hiệu lực thực tế.
Sáng tác trong bối cảnh văn hóa đọc đang cạnh tranh với văn hóa nghe nhìn nên tác giả có ý thức cải tiến lối viết, điều chỉnh câu văn cho phù hợp với khẩu vị của người đọc. Thời đại tốc độ và thông tin nên văn của Mai Tiến Nghị trong “Đông trùng hạ thảo” có tính “gia tốc thời đại”, hiển thị qua tính “nhịp điệu” nhanh, mạnh. Câu văn trong Đông trùng hạ thảo thường ngắn (rõ nhất trong những tình huống “một nửa đàn ông là đàn bà”, khi “con” và “người” giao tranh trong các “pha” giữa Đỗ Sung và Thu Vân; Hoàng Chuẩn và Phương Loan, Đỗ Sung và Phương Loan…).
Tôi đặc biệt chú ý đến không gian biển được miêu tả ở đoạn đầu chương 1 và đoạn kết tiểu thuyết. Vì sao là biển? Đó là thiên nhiên hùng vĩ, con người trước nó là vô cùng bé nhỏ. Một ẩn dụ nghệ thuật chăng? Rất có thể khi tác giả đặt cái hữu hạn kiếp người trước cái vô hạn của tự nhiên. Phải chăng con người đừng có ngạo nghễ, kiêu căng trước tự nhiên, đó là cái cảm giác thực của vợ chồng Hoàng Chuẩn sau những ngày phong ba bão táp, nay: “Trước mặt họ là biển lớn mênh mông”.
Chỉ có những người nào sống chân thành, trung thực với chính mình và người khác như Kim Duyên, con gái của thầy giáo Trần Lương thì mới có được sự vô tư trong sáng, nhẹ nhõm, an nhiên trong tâm hồn: “Tiếng Kim Duyên cười lảnh lót vang xa như những nốt nhạc véo von trên nền giọng bè trầm của biển”. Sống, làm người tốt như cha con Trần Lương – Kim Duyên thời nay khó lắm thay.
Hà Nội, 17/9/2021
Bùi Việt Thắng
Theo https://vanhocsaigon.com/

Nghệ thuật tự sự của Nguyễn Bình Phương trong tiểu thuyết "Mình và họ"

Nghệ thuật tự sự của Nguyễn Bình Phương
trong tiểu thuyết "Mình và họ"

Vào lúc 9 giờ, ngày 18.7.2022, tại Viện Văn học sẽ diễn ra Tọa đàm Khoa học “Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trong chuyển động của văn học Việt Nam đương đại”, do Viện Văn học và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức. Xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình Nguyễn Văn Hùng về tiểu thuyết Mình và họ của nhà văn Nguyễn Bình Phương vốn được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội.
Mình và họ là cuốn tiểu thuyết mới của Nguyễn Bình Phương. Trước khi được xuất bản ở trong nước, bản thảo tác phẩm đã đi một chặng đường khá xa từ Hà Nội sang tận Nam California đến với cộng đồng độc giả người Việt. Sau khi được Diễn Đàn Thế Kỷ xuất bản tháng 12 năm 2011 với tên gọi Xe lên xe xuống, Nxb.Trẻ xuất bản năm 2014 với tên gọi Mình và họ, tác phẩm ngay lập tức lôi kéo sự quan tâm, chú ý của độc giả và giới nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nước. Tiểu thuyết được đánh giá là “tiểu thuyết của các tiểu thuyết” (Đoàn Cầm Thi)(1), “cuốn sách hay quá chừng…, hoàn toàn chế ngự tôi” (Bảo Ninh)(2),… Vậy điều gì đã khiến tác phẩm này ghi dấu ấn mạnh mẽ trong cộng đồng diễn giải đến vậy? Tiểu luận của chúng tôi tập trung khám phá, luận giải những tìm tòi, thể nghiệm trong kỹ thuật tự sự của Nguyễn Bình Phương qua Mình và họ. Từ đó, khẳng định tài năng, cá tính sáng tạo cũng như vị trí của nhà văn trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại.
Tự sự đa chủ thể và hành trình “tìm lại thời gian đã mất”
Mình và họ bắt đầu bằng cái chết của Hiếu – nhân vật chính, khi xác đã nằm dưới vực sâu sau “cú bay thảng thốt tuyệt mỹ…, qua nhiều ngọn cây và đá” [tr.7](3) còn linh hồn thì đang lơ lửng giữa hai cõi âm và dương, thực tại và quá khứ, ý thức và vô thức. Từ thời điểm này, câu chuyện được phân chia thành hai hướng: một là câu chuyện của linh hồn hướng về tương lai trên chuyến xe xuống và một là câu chuyện của người đang sống với những kí ức đan xen trong chuyến xe lên. Hành trình xe lên và xe xuống chỉ diễn ra trong khoảng vài ngày, nhân vật trên hai chuyến xe cũng khá ít ỏi (xe lên: bốn người, xe xuống: năm người và một linh hồn), mà bao trùm cả hai cảnh giới âm/ cõi chết và dương/ cõi sống, quá khứ và hiện tại, miền xuôi và miền ngược, văn minh và dã man, chiến tranh và hậu chiến; cùng những trạng huống phức tạp của tâm hồn, nhân tính, nhân sinh: yêu thương và lầm lạc, bạo lực và tội lỗi, ý thức và vô thức, thiện và ác…
Để bao quát, miêu tả được không gian rộng lớn, thời gian trải dài như vậy, Nguyễn Bình Phương đã khéo léo đan cài nhiều lời kể: (1) lời kể của Hiếu – xưng “mình”, (2) lời kể và ghi chép của anh trai Hiếu – xưng “tao”, (3) lời kể của các nhân vật khác lồng vào lời của “mình”. Trong lời kể của “mình”, nhà văn chủ ý chia tách thành hai trường đoạn đan xen nhau: in nghiêng và in thẳng. Phần in nghiêng là cuộc sống sau cái chết, diễn ra chỉ vỏn vẹn trong khoảng 12 tiếng đồng hồ, bắt đầu từ lúc “mặt trời chậm chậm lăn theo lưng núi” cho đến “trước ban mai” ngày hôm sau. Phần in thẳng là toàn bộ cuộc sống trước khi chết, trong khoảng hơn 30 năm, từ cái thời ấu thơ “chạy rồng rồng dọc bờ sông hò hét, bẻ cây múa kiếm, vật nhau tung tóe trên dòng nước đỏ lù phù sa” [tr.203] với anh trai và kết thúc là “mình” bay xuống vực thẳm tự vẫn.
Với cái tôi tự thuật hướng nội, Hiếu đã tái hiện câu chuyện về cuộc đời mình cùng những biến cố gắn với số phận từng thành viên trong gia đình anh. “Mình” có một gia cảnh và những mối quan hệ đặc biệt: ông ngoại là trùm phỉ có tiếng; mẹ đi tù vì “buôn hàng quốc cấm”; bố chết trong sự uất ức; anh trai đi bộ đội, bị bắt làm tù binh, trở về sau chiến tranh và chết vì điên loạn; ông chú thức thời; người tình hờ (Trang) cầm đầu băng đảng tội phạm. Đó là chưa kể mối tình vụng trộm của anh với Hằng – chị dâu, kết quả đứa con trai ra đời (tám tháng sau chết vì viêm phổi), sau đó chị dâu bỏ nhà chạy theo người đàn ông khác. Hiếu sống khép kín trong căn phòng trọ nhếch nhác, tồi tàn, ít giao du bạn bè. Thế giới của anh chỉ xoay quanh gia đình (anh cũng không mấy thiết tha, ngoài tình cảm/ mặc cảm tội lỗi với người anh trai bị điên loạn), và vài ba người bạn ít ỏi. Điều đó giải thích tại sao từ trong sâu xa bản thể, “mình” luôn có cảm giác trống trải, cô đơn, hoang hoải, vô nghĩa với mọi người, mọi thứ, mọi nơi (cảm giác này xuất hiện 14 lần).
Từ sự cô đơn, lạc lõng trong bản thể, Hiếu hướng sự chú ý ra bên ngoài. Anh tự nhận mình là kẻ thích đi chơi, thích nghe, thích biết, thích khám phá những điều bí ẩn xung quanh mình, mặc dù với anh, tất cả không để dùng vào việc gì. Anh có mối quan tâm đặc biệt dành cho mây và hoa quỳnh – biểu tượng của vẻ đẹp mong manh, hư ảo, phù phiếm; hứng thú, đam mê sách báo, nhất là sách viết về thế giới chính khách, và báo Công an Nhân dân (tờ báo này được nhắc đến với tần số không dưới 30 lần). Hiếu luôn bị bủa vây bởi bức tường bạo lực. Anh nhận ra nó trong câu chuyện về thế giới thổ phỉ, ở lời kể và ghi chép nhật kí của anh trai, qua trang báo đọc hàng ngày, từ lời nói, ý nghĩ cùng cách hành xử của mình và mọi người xung quanh. Ban đầu Hiếu hờ hững như kẻ ngoài cuộc, sau đó say mê, đồng lõa và cuối cùng thực thi bạo lực.
Không chỉ phơi trải cái ý thức hiện hữu, Hiếu còn khám phá, phô diễn những ám ảnh vô thức, những ý nghĩ thầm kín trong sâu thẳm tâm hồn mình. Suốt cả hành trình lên và xuống, anh vẫn day dứt, băn khoăn về tương quan giữa “mình” với thế giới xung quanh. Anh tự/ bị xác lập cho mình một vị trí và cố gắng đến tuyệt vọng để nhận diện mình giữa: lên/ xuống, mình/ họ, bên ngoài/ bên trong, cõi sống/ cõi chết, người sống/ linh hồn, thời gian đã qua/ thời gian sau đó. Để rồi, có lúc “mình” tưởng chừng như đã nhận ra: “mình với họ rất khó phân biệt” [tr.211], nhưng rốt cuộc sự hoài nghi, day dứt vẫn vây quanh nhân vật, thậm chí khi linh hồn đã kết thúc hành trình của nó: “Mà làm sao để phân biệt được lên với xuống ở cái vùng biên ải lúc nào cũng hoang hoang, bồng bênh này? Làm sao để phân biệt được mình với họ” [tr.302].
Đứng giữa lằn ranh bên trong/ bên ngoài, Hiếu luôn truy vấn câu hỏi về sự tồn tại và những bí ẩn nơi bản thể mỗi người, mỗi hiện tượng. Anh đã bảy lần nghi vấn từ bên ngoài thì làm sao biết được cái gì bên trong, dành cho ba đối tượng khác nhau (cây cối vùng biên ải – 2 lần, anh Thuận – 1 lần, và Trang – 4 lần). Cuối cùng chỉ có hai người tạm cho anh câu trả lời (anh Thuận và Trang). Riêng Trang, Hiếu “thấy” được bên trong cô là “cả một thế giới nguyên thủy, mù mịt trong ấy, nhưng hoang liêu” [tr.13], nhưng sau đó anh lại hoài nghi, “trong Trang còn là gì nữa?” [tr.193]. Chính cái nhu cầu tra vấn, niềm thôi thúc tự nhận thức này giúp cho đời sống của Hiếu trở nên cân bằng hơn. Nếu không, cuộc đời anh chỉ loanh quanh đọc những chuyện giật gân trên báo Công an Nhân dân, nghiền ngẫm những câu chuyện đẫm máu của chiến tranh, say mê những chuyện rùng rợn, man dại về thế giới thổ phỉ, và rồi thản nhiên gây tội ác.
Bên cạnh lời dẫn chuyện của “mình” là lời kể của anh trai Hiếu được ghi trong nhật kí (8 trường đoạn). Lời kể này có khi được Nguyễn Bình Phương đánh dấu bằng các tiết đoạn trong ngoặc kép, có lúc hòa vào lời của “mình”, như chính câu chuyện “mình” được chứng kiến và kể lại. Câu chuyện của người anh tái hiện sinh động cuộc chiến khốc liệt, một mất một còn trong mịt mùng rừng xanh núi thẳm vùng biên giới Việt Trung; khắc họa chân thực số phận của người lính khi bị bắt làm tù binh; lí giải sâu sắc những chấn chứng hậu chiến hằn lên thể xác và tâm trí mình. Mỗi chi tiết về cuộc chiến do chính người trong cuộc kể, trở nên thật và đời hơn bao giờ hết: “Mày biết không, thằng Tấn vừa ngắm vừa đái ra quần. Đái xong nó mới bóp cò… Mỗi khi thằng Tấn sải chân, nước văng ra từ đũng quần nó trông rất đểu” [tr.179]. Những trạng huống tâm hồn người lính như vẫn còn tươi nguyên trong mỗi kí ức về trận chiến. Bởi chiến tranh như một bộ máy nghiền nát và hủy diệt tất cả, không chừa một ai, chỉ để lại tội ác và những linh hồn oan khuất, vất vưởng nơi rừng sâu, núi thẳm.
Quyền năng tự sự của “mình” trong Mình và họ luôn bị giới hạn bởi tính chủ quan, cá nhân cùng khoảng cách không gian – thời gian không thể san lấp. Với ý hướng mở rộng biên độ khám phá, luận giải hiện thực và con người trong tính đa chiều, Nguyễn Bình Phương đã rất tinh tế khi sử dụng linh hoạt người kể chuyện gá lắp với kiểu tự sự đa chủ thể, đa tầng bậc. Với những sự kiện nằm ngoài “tầm hiểu biết”, “tầm kiểm soát” của người kể, tác giả khéo léo đan cài trong lời kể trực tiếp của Hiếu những câu chuyện do nhiều nhân vật khác kể. Bề ngoài, đây là lời của “mình” (về hình thức chấm câu, ngữ pháp) nhưng kì thực về phong cách, thái độ, tình cảm lại thuộc về các nhân vật. Đó là những câu chuyện rùng rợn, kì bí và nghĩa hiệp trong thế giới thổ phỉ được kể bởi người cậu ruột (2 tiết đoạn), ông già bạn cậu (2 tiết đoạn) và người anh họ tên Hà (1 tiết đoạn). Câu chuyện về cuộc chiến năm 1979 và 1984 bi thương, hào hùng được tái hiện từ hai nguồn: (1) câu chuyện của người cậu (1 tiết đoạn) và người anh (8 tiết đoạn); (2) lời truyền khẩu, đồn thổi về chiến công của người đàn bà dốc Lang Hạ; chuyện ăn cao bành trướng, ăn thịt người được kể bởi “hắn” – người bạn đường trong chuyến xe lên (4 tiết đoạn). Ngoài ra, đó còn là những câu chuyện “đường rừng” khắc họa hoàn cảnh sống, tập tính, bản sắc, đời sống sinh hoạt và tính cách của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số (người Mèo, người Dao, người La Chí, người Lô Lô…) trong mỗi vùng đất chuyến xe lên đã đi qua (“hắn” kể – 5 tiết đoạn, lái xe chuyến lên và xuống kể – 2 tiết đoạn).
Mình và họ đầy ắp sự kiện, dịch chuyển liên tục trên nhiều không gian và thời gian, thế giới nhân vật phong phú, đa dạng. Với lối kể dồn nén, chắt lọc, tinh tế trong từng chi tiết, Nguyễn Bình Phương đã chứng tỏ tài năng/ tài hoa trong việc tổ chức, sắp xếp, kết nối những câu chuyện và con người từ quá khứ đến hiện đại. Người kể chuyện ngày càng có nhiều biến hóa về hình thức, chức năng và sự vận hành dưới ngòi bút sáng tạo của nhà văn. Tác phẩm thực sự là một trò chơi văn bản được khởi sinh từ bản chất sáng tạo, tưởng tượng của văn học; được cộng hưởng, đồng hành bởi những khả thể người đọc năng động. Qua những chủ đề lớn về thế giới phỉ, chiến tranh biên giới, băng đảng tội phạm trong xã hội hiện đại, căn tính tộc người, tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương đã thật sự chạm vào những vấn đề chung của nhân loại/ nhân sinh/nhân tính.
Nghệ thuật dịch chuyển điểm nhìn tự sự trên nguyên tắc luận giải, đối thoại.
Gia tăng, gấp bội và dịch chuyển điểm nhìn là biểu hiện độc đáo, sinh động trong nỗ lực khám phá, luận giải hiện thực và con người có chiều sâu của Nguyễn Bình Phương. Đó là hình thức phối hợp, đan xen nhiều điểm nhìn/ quan điểm trần thuật trên nguyên tắc đối thoại. Chính điều này đã giúp Mình và họ vượt thoát tính đơn thanh, độc thoại một chiều của mô hình tự sự truyền thống; đan cài nhiều tiếng nói, thi triển liên tục những trường đối thoại, tạo dựng tính đa âm cho tiểu thuyết. Nhiều vấn đề từ quá khứ đến hiện tại được kết nối, soi rọi và luận giải: căn nguyên và hệ lụy của bạo lực, bản chất và những di chứng của chiến tranh, căn tính và văn hóa tộc người, mình/dân tộc mình trong tương quan với họ/dân tộc họ …
Bạo lực là một trong những vấn đề trung tâm được Nguyễn Bình Phương khám phá, luận giải. Nhà văn có tham vọng truy tìm căn nguyên của nó từ các câu chuyện quá khứ, nhằm nối kết, lí giải cho cách hành xử, tâm thế của con người trong xã hội hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả đã xây dựng hình tượng nhân vật chính – Hiếu vừa hoang mang, ghê tởm vừa thích thú, say sưa với những hình ảnh và câu chuyện về bạo lực, chết chóc. Anh thông thạo, háo hức dõi theo từng số Công an Nhân dân, đặc biệt những bài viết đăng tải các vụ giết người li kì, rùng rợn. Những câu chuyện vừa thực vừa hư, vừa quyến rũ vừa bạo liệt trong thế giới phỉ luôn làm anh phấn kích, nồng nhiệt hưởng ứng, và liên tưởng tới cái chết của Vân Ly trước đó [tr.62, tr.65].
Qua điểm nhìn của Hiếu, bạo lực nguyên thủy thoát thai từ hình thức hành xử của phỉ, bởi lẽ “xét thuần về mặt hành động thì phỉ là loại chạm tới cái cốt lõi nhất, tiêu biểu nhất của con người. Vì phỉ hay dùng hình thức chặt, thứ hình thức mang lại khoái cảm và uy quyền. Phỉ chặt đầu, chặt tay, chặt chân, chặt ngang người. Các loài khác không biết chặt, chỉ cắn, xé, móc” [tr.100]. Từ nhận thức ấy, điểm nhìn tiếp tục hướng đến giải mã căn tính và hệ lụy của bạo lực trong các sự kiện lịch sử cổ – trung đại: Lý Thường Kiệt khi triệt hạ thành Ung Châu (1075) đã cho chặt đầu tất cả những kẻ trong thành rồi xếp thành năm trăm tám mươi đống, mỗi đống một trăm cái đầu; toàn bộ gia quyến của viên quan cai quản vùng Bạch Long bị phỉ giết chết và chặt nhỏ (1886); cùng thời điểm đó, nhân viên phiên dịch người Pháp Haitce bị phỉ chặt làm sáu mảnh, lấy gan nhắm rượu; Nguyễn Ánh chặt hàng nghìn người thuộc phe Tây Sơn thất trận, vì trước đó đã chứng kiến cảnh bố mình bị anh em nhà Tây Sơn chặt đôi người (thế kỉ XVIII).
Bạo lực còn phủ đầy những đoạn viết về chiến tranh qua lời kể và điểm nhìn của anh trai Hiếu, ông cậu, “hắn”. Chiến tranh là một kiểu bạo lực, nhưng đó không phải là thứ bạo lực bất kỳ, mà đó là thứ bạo lực không có giới hạn.(4) Trong thời chiến, những người tham chiến có quyền giết kẻ thù bằng mọi cách nhằm buộc đối phương chịu khuất phục ý chí của mình. Những người lính có thể dùng súng, hoặc trực diện hơn, bằng dao; có thể chọn cách chôn sống, thiêu chết đối thủ của mình. Bất kể chuyện gì cũng có thể xảy ra trong chiến tranh, kể cả những chuyện mông muội, kì quái, rùng rợn, không tưởng nhất của loài người: chuyện ăn “cao Bành trướng” [tr.209, tr.211], chuyện ăn thịt người [tr.120-121], chuyện “khai thác” tù binh [tr.268]…
Từ câu chuyện của quá khứ, điểm nhìn dịch chuyển, kết nối, liên tưởng, nhằm giải thích căn nguyên cho những hiện tượng và hình thức bạo lực trong xã hội hiện đại. Qua điểm nhìn của các nhân vật, bạo lực lúc này hiện hữu bằng hành động: giết/ bị giết, kết quả: chết/ bị chết, không giới hạn đối tượng, lí do, phương tiện. Có những cái chết bất đắc kì tử vì những lí do lãng nhách (bố mẹ và người yêu cô Kiều, ông lão ở bản La Sin, thằng Quých), lại có những cái chết trong vô thức (tài xế ngủ quên gây tai nạn); có cái chết thảm khốc (người phụ nữ bị xe cán), cái chết cô độc (người anh trai), lại có cái chết “thảng thốt tuyệt mỹ” (Hiếu). Người ta cũng có thể giết bất kể ai, thậm chí vứt một đứa trẻ vừa lọt lòng vào thùng rác như ném một món đồ không còn giá trị.
Chưa bao giờ bạo lực và những hình thức của nó thôi ám ảnh, đe dọa sự tồn vong của con người. Hiếu cũng như những người sống xung quanh anh luôn bị bủa vây bởi bạo lực không thể cưỡng lại nổi. Họ bối rối, hoang mang, hoài nghi bởi bạo lực không chỉ trong chiến tranh mà còn cả trong cuộc sống hòa bình; không chỉ diễn ra ở thế giới thổ phỉ dã man, mà còn hiện diện đầy rẫy ở cuộc sống hiện đại văn minh; không chỉ diễn ra trong lời ăn tiếng nói, cung cách sinh hoạt hàng ngày mà còn nhuộm lên bầu sinh quyển, vũ trụ, thiên nhiên – không gian sinh tồn của con người. Bạo lực cũng không phân biệt anh hùng/ thợ săn/ thổ phỉ, bên mình/ bên họ, phe chính nghĩa/ phe phi nghĩa, người thiện/kẻ ác, lực lượng chính thống/ phi chính thống…
Bao quanh bởi bức tường bạo lực, mỗi cá nhân buộc phải lựa chọn một cách ứng xử (chối bỏ hay đồng lõa), một thái độ (ghê tởm hay say sưa), một hành động (chống lại hay thực thi) và một tâm thế (bị động hay chủ động). Nếu bạo lực trong thế giới phỉ được lí giải bởi tình trạng hoang dã, mông muội, bản năng nguyên thủy; bạo lực trong chiến tranh được khoác lên mình chiếc áo choàng của lí tưởng, nghĩa vụ bảo vệ xứ sở, thống nhất đất nước; thì bạo lực hiện đại hiện hữu không lí do như nhu cầu hằng ngày của con người. Cái chết của Vân Ly chẳng qua là sự nối dài hệ lụy của bạo lực từ quá khứ đến hiện đại, có khác là ở hình thức bạo lực, không “chặt xác” mà “đốt xác”.
Với ý thức đòi quyền bình đẳng giữa kinh nghiệm cá nhân bên cạnh kinh nghiệm cộng đồng, Nguyễn Bình Phương đã cung cấp cho độc giả thêm nhiều điểm nhìn mới về chiến tranh cũng như thân phận con người trong và sau cuộc chiến. Từ điểm nhìn hướng nội của người trong cuộc, anh trai Hiếu đã lột tả chân thực gương mặt man dại, bạo liệt, và sức hủy diệt đáng sợ của chiến tranh. Nó không chỉ gieo những cái chết từ hai phía mà còn âm thầm phá hủy niềm tin, tâm hồn và nhân tính con người. Cuộc chiến này đã để lại trong anh những chấn thương thể xác và bi kịch tinh thần, là nguyên do của căn bệnh trầm uất và điên loạn, cuối cùng là cái chết thảm thương trong cô độc.
Để luận giải về tính chất của cuộc chiến biên giới, mối quan hệ đầy duyên nợ giữa hai nước láng giếng, bản chất trong hành động cách mạng và thổ phỉ, bên cạnh điểm nhìn của người anh Hiếu, Nguyễn Bình Phương đã tổ chức tinh tế thêm nhiều điểm nhìn trên nguyên tắc đối thoại. Trong Mình và họ, tác giả đã xây dựng ba tiết đoạn gặp gỡ/ đối thoại, ẩn chứa nhiều dụng ý nghệ thuật: (1) ông cậu và “mình” [tr.52], (2) Chu Chồ Sền – trùm phỉ và Chu Văn Tấn – Việt Minh [tr.53], (3) “mình” và “hắn” [tr.211-212]. Ở đó không đơn giản là cái nhìn/ cách nhìn mà sâu xa hơn là quan điểm/nhãn quan giá trị trong tầm nhìn của người trong cuộc và ngoài cuộc, lực lượng chính thống và phi chính thống.
Qua điểm nhìn của ông cậu, người sống ở vùng biên ải và đã từng trực tiếp tham chiến, cuộc chiến này “chẳng khác gì việc xích mích với hàng xóm. Thi thoảng đụng nhau vậy rồi lại quên đi, buồn buồn thì gọi nhau sang uống chén rượu” [tr.52]. Hiếu lại có một cái nhìn khác, không hẳn là “ngược sáng” hay “giải thiêng”: “cuộc chiến này là bãi nước bọt nhổ vào mặt người anh hùng. Mình đã mất mấy chục năm xương máu để tạo dựng uy danh nhưng chỉ cần có vài tuần họ đã cướp cái uy danh ấy” [tr.52]. Ạnh đối thoại lại với cái nhìn bình thản, nhẹ nhàng của ông cậu về mối quan hệ giữa hai nước láng giềng: “làm chó gì có sự tử tế giữa hai quốc gia. Toàn thổ phỉ cả” [tr.52], bởi ở đó là hận thù xuyên nòi giống, sự giao tranh không khoan nhượng, là sự rình rập, giam hãm, giăng bẫy bất cứ lúc nào.
Vấn đề tương quan, bản sắc giữa mình/ dân tộc mình và họ/ dân tộc họ, Việt Minh và thổ phỉ tiếp tục được khơi dậy trong cuộc đối thoại giữa Hiếu và “hắn”, Chu Chồ Sển và Chu Văn Tấn. Qua câu chuyện ăn “cao bành trướng” lạ kỳ, rùng rợn, “hắn” nhận thức: “mình là mình, họ là họ, chẳng dính dáng gì đến nhau”, “vì giỏi cười xòa cho nên mình trở thành ẩn ức của họ”; còn Hiếu thì xác quyết “mình với họ rất khó phân biệt”. Bản chất của hành động làm cách mạng của Việt Minh và hành động đi ăn cướp của thổ phỉ được lí giải thú vị qua cái nhìn ngây ngô, đơn giản của Chu Chồ Sển và nhận thức non nớt trong giai đoạn “nhận đường” của Chu Văn Tấn. Sự khác biệt hay giống nhau giữa “mình”/Việt Minh và “họ”/ thổ phỉ nằm ở đâu thì cả bốn nhân vật không thể lí giải, nhưng rõ ràng đó không đơn thuần là những cách so sánh mà còn có biết bao sự bất trắc, quanh co, phức tạp, bí ẩn tiềm tàng trong sự so sánh ấy.
Nguyễn Bình Phương đã tạo dựng, dịch chuyển linh hoạt các điểm nhìn trên nguyên tắc đối thoại, luận giải: điểm nhìn bên trong/ bên ngoài, điểm nhìn quá khứ/ thực tại, điểm nhìn cá nhân/ cộng đồng, điểm nhìn chứng nhân/ nếm trải… Đó là cách nhà văn khai phóng và kết nối những vấn đề riêng và chung, cá nhân và dân tộc, nhân sinh và nhân loại, từ quá khứ đến hiện tại. Và đó cũng chính là lúc người đọc phiêu lưu, thám hiểm vào thế giới nghệ thuật vô cùng sinh động và thú vị này.
Nghệ thuật tổ chức kết cấu tự sự
Mình và họ có sự phân mảnh, lắp ghép nhiều câu chuyện; lồng ghép, đồng hiện nhiều mảng không gian, thời gian, tâm lí khác nhau. Bốn mảng hiện thực xảy ra trong những thời điểm khác nhau được cài cắm một cách tinh vi, phức tạp: (1) thế giới thổ phỉ kì bí, huyền hoặc trên vùng biên ải; (2) cuộc chiến đấu khốc liệt, ngoan cường của chiến sĩ và đồng bào nơi biên giới năm 1979 và 1984; (3) cảnh sắc thiên nhiên mịt mùng, hoang dã cùng đời sống, tập tính của đồng bào miền núi; (4) xã hội hiện đại bề bộn, phức tạp với chân dung chân thực, đa chiều về các băng đảng tội phạm.
Ở Mình và họ, các câu chuyện được kể tuy không xa rời chủ đề chính của văn bản, nhưng lại được gắn kết với nhau một cách lỏng lẻo, thậm chí là lộn xộn, ngẫu nhiên. Sự phá vỡ nguyên tắc thống nhất, xuyên suốt của hành động trung tâm là nỗ lực cách tân truyền thống từ tâm thức, cái nhìn hiện đại/ hậu hiện đại, gắn với nguyên tắc đối thoại của tiểu thuyết. Điều đó không những giúp tác phẩm mở rộng khung, tạo ra một không gian truyện kể đa tầng, nhiều cấp độ, mà còn là cách để nhà văn thể hiện được quan niệm của mình về cuộc sống, một cuộc sống không khép kín, không bất biến mà luôn vận động, tiếp diễn từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
Hành trình của “mình” – linh hồn trên chuyến xe xuống  và “mình” – lúc còn sống trên chuyến xe lên được đan cài, lắp ghép tài tình với nhiều câu chuyện của các nhân vật khác. Lúc này, lối kết cấu đa tầng biến hóa phát huy hết hiệu quả tự sự và giá trị thẩm mĩ của nó. Một mặt, các hình ảnh, chi tiết, sự kiện trên hai chuyến xe được nối kết chặt chẽ: hiện tại gợi nhắc quá khứ, quá khứ lấp đầy hiện tại. Mặt khác, trên chuyến xe xuống, nhân vật đã làm một cuộc hành trình trở về quá khứ, tìm lại thời gian đã mất, nhưng quá khứ này lại được khoác lên mình hình hài của hiện tại. Hình thức hồi cố lớn và hồi cố nhỏ, hồi cố bên trong và hồi cố bên ngoài được sử dụng dày đặc và vô cùng đắc địa. Nó không chỉ kết nối các sự kiện trong quá khứ và hiện tại, mà quan trọng hơn, đó là cách thức tiếp cận, miêu tả hiện thực cuộc sống và thế giới nội tâm trong tính đa chiều, đa diện, phức hợp.
Các lớp không gian và thời gian trong Mình và họ bị xáo trộn liên tục. Tác phẩm được coi như là bản tường trình của trí nhớ “trong cái vùng ẩm ướt thoang thoảng”, nơi đó hiện diện cấu trúc và sự vận hành kì diệu của nó. Các cụm từ “mình nhớ”, “mình còn nhớ”, “mình sực nhớ”, “mình bâng khuâng nhớ”, “mình nhớ láng máng”… xuất hiện với tần số đáng ngạc nhiên – 39 lần. Đằng sau các cụm từ ấy là vô vàn những kí ức ùa về ken chặt trong tâm trí nhân vật. Nguyễn Bình Phương không những miêu tả, khám phá tinh tế các trạng thái “đỏng đảnh” của trí nhớ, mà còn khắc họa sinh động sự vận hành phức tạp, quanh co của nó. Ở đó, không chỉ có quá khứ của thực tại mà còn là quá khứ của quá khứ: “Mình nhớ lúc ấy mình nhớ cậu nói với mình rằng cuộc Bảy chín sông Bằng cũng đỏ lừ máu” [tr.131]; không chỉ là quá khứ gần, mà còn là quá khứ xa – thuở hồng hoang, nguyên thủy của loài người: “chỉ với một trận mưa, hai giờ hai mươi nhăm của hiện tại trở về ngay tức khắc thuở hồng hoang” [tr.70].
Trong nỗ lực làm mới thể loại, Nguyễn Bình Phương còn sáng tạo và thể nghiệm lối kết cấu đồng hiện. Khi mà lối kết cấu theo trình tự thời gian tuyến tính tỏ ra chật hẹp trong việc tổ chức cấu trúc truyện kể, thì phương thức đồng hiện góp phần mở rộng biên độ hiện thực cuộc sống và con người. Nhà văn đã xếp chồng nhiều bình diện không gian: không gian núi rừng hoang dã, không gian chiến trận khốc liệt, không gian tâm linh huyền bí, không gian kì ảo, ma quái, không gian đời tư thầm kín, không gian xã hội hiện đại xô bồ, đa tạp… Cùng với đó là sự xóa nhoà ngăn cách của các lớp thời gian quá khứ – hiện tại – tương lai. Đó cũng chính là cơ sở để tác giả đồng hiện các trạng thái/trạng huống tâm lí, tâm hồn, tạo nên cái nhìn đa chiều về bản chất cuộc sống và con người.
Sự đan cài các yếu tố hữu thức và vô thức, logic và phi logic, trật tự và hỗn độn, tất yếu và ngẫu nhiên, giấc mơ và thực tại… khiến câu chuyện như màn sương nhạt nhoà lúc ẩn lúc hiện trong cõi tâm linh đầy bí mật của nhân vật. Trong Mình và họ, xuất hiện liên tục những ám ảnh, giấc mơ vô thức của Hiếu. Đó là những giấc mơ – điềm báo, dự cảm: giấc mơ mạng nhện giăng quanh người anh trai (2 lần), giấc mơ bị bắt trên đỉnh Tà Vần (1 lần), giấc mơ anh trai đòi “mình” gặp bạn anh ở đền Ngũ Nhân (1 lần); giấc mơ – ám ảnh: giấc mơ bị săn đuổi (1 lần), giấc mơ về cái chết đau đớn của Vân Ly (2 lần), giấc mơ chở anh trai lên đỉnh núi Tà Vần (1 lần). Hầu như lúc nào nhân vật chính cũng có những giây phút đối diện với lòng mình, để sám hối, tra vấn, để giãi bày, tâm sự, để đối thoại, thức nhận. Chính sự đồng hiện các bình diện tâm lí, tâm linh đã lí giải sâu sắc những ý nghĩ hiện sinh, những động cơ thầm kín trong cách hành xử của nhân vật.
Mình và họ là một trò chơi kết cấu, được thăng hoa cùng nỗ lực vượt thoát, làm mới, làm khác của người nghệ sĩ. Thông qua trò chơi ấy, Nguyễn Bình Phương đã biểu đạt tinh thần dân chủ, sự khai phóng ý tưởng trong khí quyển hiện đại/ hậu hiện đại. Nhà văn mở ra những lớp/ trường nghĩa đa dạng, “vẫy gọi” sự thụ hưởng, đồng sáng tạo của người đọc trên tâm thế mới bằng góc nhìn nhân bản và triết học đạo đức, lịch sử. Bước vào thế giới đầy mê hoặc ấy cũng là lúc độc giả chính thức dự phần vào cuộc đối thoại bất tận với tác giả về các vấn đề của hôm qua và hôm nay, của cá nhân và nhân loại.
Nghệ thuật kiến tạo cấu trúc diễn ngôn tự sự
Diễn ngôn tự sự trong Mình và họ được tổ chức bởi hai thành phần: diễn ngôn người kể chuyện (lời kể, lời tả, lời bình luận) và diễn ngôn nhân vật (đối thoại, độc thoại nội tâm). Nhằm gia tăng hiệu quả tự sự, tạo nên tính đa thanh, phức điệu cho tác phẩm, Nguyễn Bình Phương đã đổi mới cấu trúc diễn ngôn bằng nhiều sách lược độc đáo như đan cài lời kể và lời tả, lời kể và lời bình luận; phối kết lời kể và lời đối thoại, lời kể và lời độc thoại nội tâm, hay hòa trộn nhiều dạng phát ngôn trong lời người kể chuyện…
Lời kể không tuân theo trình tự logic tự nhiên của các sự kiện, trật tự tuyến tính về thời gian, mà men theo dòng suy tưởng, kí ức, trí nhớ. Lúc này, văn bản có sự đan cài nhiều sắc thái trong giọng kể. Chúng ta có thể nhận diện được những sắc thái biến ảo, tinh vi trong cảm xúc, tâm trạng của nhân vật thông qua lời kể của người kể chuyện xưng “mình” (Hiếu), xưng “tao” (anh Hiếu). Nhờ vậy, người đọc như được trải nghiệm đến tận cùng những trạng huống tâm hồn, những cảm xúc đa chiều, những ám ảnh vô thức, và cả những bấn loạn tinh thần của nhân vật.
Bên cạnh lời dẫn chuyện của người kể chuyện ngôi thứ nhất nếm trải, chứng nhân, là lời trung tính, khách quan của các nhân vật khác lồng vào lời kể của “mình” (ông cậu, bạn cậu, hắn, lái xe…). Với giọng điệu bình thản, mang đậm chất du ký, “đường rừng”, các mảnh ghép đa màu của quá khứ và thực tại hiện ra một cách sắc nét, chân thực. Không dài dòng kể lể, câu văn ngắn gọn, trạng từ chỉ cảm xúc trong lời kể được tối giản, ngôn ngữ thiên về kể và tả hơn là biểu hiện cảm xúc. Dù là câu chuyện của mình hay của người khác, từ quá khứ hay thực tại, mang nội dung vui hay buồn, lời kể vẫn giữ được sắc thái thản nhiên đến kì lạ. Phong thái ấy cũng là cách thức bày tỏ cách nhìn, thái độ của nhà văn đối với hiện thực cuộc sống và con người do mình tạo dựng.
Trong Mình và họ, ngoài lời kể còn có lời tả, hỗ trợ cho việc kể, khiến câu chuyện được kể trở nên sinh động, có hồn hơn. Có thể nói mỗi tiết đoạn miêu tả thiên nhiên là những trang phục bút tuyệt diệu của Nguyễn Bình Phương. Tác giả không chỉ “vẽ” hình hài cho thiên nhiên, tạo dựng không gian đặc trưng của núi rừng biên ải; khắc họa tính cách, trạng huống tâm hồn con người; mà còn thể hiện sâu sắc ý đồ, cảm quan nghệ thuật của mình. Nhiều hình ảnh, biểu tượng được nhà văn xây dựng độc đáo, đầy sức ám gợi:
Hình ảnh/ biểu tượng/ tần số xuất hiện: mây(14 lần), núi, thung lũng, đá, cây(65 lần), sương, sông, suối, nước, mưa( 30 lần),trăng( 5 lần),lửa, máu, màu đỏ(15 lần),Tà Vần(12 lần),hoa quỳnh( 3 lần ),tượng Phật( 6 lần).
Mỗi hình ảnh, biểu tượng luôn hàm chứa hai mặt ý nghĩa: nguồn sống và hủy diệt (nước/ sông, lửa), yêu thương và dục vọng (hoa quỳnh), thơ mộng/ cái đẹp và bạo liệt/ cái ác (mây, đá, cây cối), sự sống và cái chết (máu, đỉnh Tà Vần, hoa quỳnh), hi vọng và tuyệt vọng (đỉnh Tà Vần), quá khứ và thực tại (mưa, dòng sông), thực và ảo (sương, trăng), nhân – quả, kiếp nạn và sự hoài nghi phép màu giải thoát, cứu độ (tượng Phật)…
Đặc biệt, mây, đá, núi, cây cối, nước là những biểu tượng mang đậm dấu ấn sáng tạo của Nguyễn Bình Phương, tạo nên tính đa nghĩa, sức ám ảnh, độ sâu, độ ngân cho Mình và họ. Nó không chỉ tạo nên chất thơ bởi sự bồng bềnh, biến ảo của mây; sự sum sê, xanh mướt của cây; sự hùng vĩ, uy nghi của núi; sự mờ ảo, dịu nhẹ của sương; mà còn mang đến cảm giác bất an, hiểm nguy rình rập. Những cái cây mang hình dáng méo mó, khuyết tật, “dãy núi gầm gừ đối diện nhau”, “con sông quắc lên gay gắt”, và đám mây hình con ngựa “lồng lộn phi trên một rừng gươm nhọn hoắt”, được đặt bên cạnh tính cách dữ dội và bất thường, hung dữ và tàn ác của con người càng tô đậm thêm căn tính bạo lực, man dại trong thế giới nhân quần.
So với các tác phẩm khác, thủ pháp so sánh được Nguyễn Bình Phương sử dụng tiết chế hơn, nhưng lại cực kì hiệu quả. Tác giả đã sáu lần sử dụng biện pháp này chạm khắc trạng thái của gương mặt, dáng người (so sánh với đá, núi), ba lần khi xuất hiện hình ảnh loài trăn (so sánh với hai cánh tay, con đường, tảng đá). Với cách thức này, nhà văn không chỉ “bắt” được cái hình/hồn của đối tượng, mà còn giúp độc giả kết nối, liên tưởng để “gọi” về các ý nghĩa biểu tượng: sự im lìm, xa cách – sự bí ẩn, hiểm nguy (núi, đá); sự cân bằng, cặp đôi – sự đe dọa, hủy diệt (trăn).
Ngoài ra, Nguyễn Bình Phương sử dụng rất thành công thủ pháp tổ chức ánh sáng và tạo dựng âm thanh của nghệ thuật điện ảnh và sân khấu trong việc khắc họa, miêu tả thiên nhiên và trạng thái cảm xúc con người. Âm thanh “cừ rừm” xuất hiện 35 lần trong ngôn ngữ của ba cha con Hiếu, lúc cảm xúc bị đẩy lên cao trào. Hai âm này không có nghĩa trong từ điển tiếng Việt, sự xuất hiện của nó trong ngôn ngữ nhân vật có nguy cơ phá vỡ cấu trúc ngữ pháp của câu, gây rối trí người đọc; nhưng nó “không thể không gợi đến tiếng gầm gừ của loài thú dại. Nó như tiếng vọng về từ một chốn hoang liêu”.(5)
Trong Mình và họ luôn có sự xung đột, giao tranh giữa bóng tối và ánh sáng (xuất hiện 30 lần). Bao phủ không gian là bóng tối “âm ẩm và mịt mùng”, “một thứ bóng tối vẩn đục”, “đêm rộng ra gấp bội”, kéo “mọi thứ chìm sâu” vào “sự tăm tối thẳm sâu của vực”. Ánh sáng xuất hiện rất nhiều, song chỉ càng làm cho không gian thêm mịt mùng, tịch mịch, u ám, “hoang hoang bồng bênh”. Tác giả đã sáng tạo một trường từ vựng để biểu đạt những trạng thái biến thiên của ánh sáng: “vệt sáng nhạt”, “ánh sáng xanh lét”, “sắc màu nhàn nhạt”, “ánh sáng lờ mờ”, “quầng sáng”, “ánh sáng loe lóe”, “ánh sáng lờ đờ”, “luồng sáng xanh lịm”, “chấm sáng xanh mờ mờ”, “các nguồn sáng mà không nguồn nào trong trẻo nguyên chất”, “ánh sáng xanh lìm lịm, nhòa nhạt và lạnh”, “ánh sáng già nua, lù khù”, “dải sáng nhạt”, “vài chấm xanh nhợt loi thoi”… Đó không chỉ là sự tranh giành của thế giới tự nhiên để tồn tại trong từng dải đất, góc núi, lùm cây; mà nó còn gợi về lằn ranh mong manh, khó phân định trong tâm hồn, nhân tính con người.
Nhóm đại từ nhân xưng (họ/ bọn họ, nó) cũng là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Bình Phương. “Bọn họ”/ “họ” là lính Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới (22 lần), nhóm công an truy bắt Hiếu và Trang (19 lần), là đám người dân tộc (7 lần), đám cựu binh (1 lần), chính khách (1 lần). Đặc biệt, “bọn họ” là đám người vô hình vô ảnh đeo bám bên ngoài chuyến xe xuống (13 lần), chỉ linh hồn Hiếu mới có thể nhìn và cảm nhận thấy sự hiện diện. “Bọn họ” lặng lẽ, kiên trì chờ đợi cho đến khi linh hồn Hiếu nhập hẳn về cõi âm để “đón mình đi”, biến “mình” thành/ giống “họ”. “Nó” xuất hiện sáu lần, gắn với sự phấp phỏng, chờ đợi của Hiếu. “Nó” trong cảm nhận của “mình”, ban đầu là cái ảo ảnh “muốt trắng, ru ru giữa không trung vắng lặng”, là “sự di chuyển qua làn không khí tê dại”, đến kết thúc câu chuyện, nó hiện rõ hơn ở “khuôn mặt yếu ớt, cái miệng xinh xinh bợt bạt tỏa hương quỳnh thơm dịu thuở nào” [tr.302]. “Nó” – linh hồn đứa con, kết quả mối tình vụng trộm của Hiếu và Hằng, gắn với kỉ niệm về hoa quỳnh và người anh (hoa quỳnh nở – “nó” sinh, người anh lên đường nhập ngũ; đám quỳnh lụi tàn và chết – “nó” chết lúc tám tháng tuổi và người anh bị bắt trên đỉnh Tà Vần).
Kết nối các thành tố trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương, mỗi đại từ nhân xưng không đơn thuần mang chức năng gọi tên, định danh cho đối tượng. Nhà văn dường như từ chối sự phân biệt, nhằm tạo ra sự mờ hóa, đa nghĩa cho/ về đối tượng. Với tác giả, trong cái mịt mùng, bí ẩn của tự nhiên; cái bề bộn, đa tạp của hiện thực cuộc sống; cái phức tạp, nhiều chiều của tâm hồn con người; mọi sự xác quyết cả trong lẫn ngoài văn bản đều hết sức nguy hiểm (và dại dột), vì tầng nghĩa của nó là vô tận. Chính sự hoài nghi sẽ thôi thúc con người suy ngẫm, tra vấn, tự nhận thức về bản thể, hòng tìm ra câu trả lời: làm thế nào sống “người hơn”, nhân bản hơn. Đó cũng chính là ý nghĩa nhân văn, giá trị tồn tại muôn đời của văn chương mà Nguyễn Bình Phương gợi mở qua tác phẩm của mình.
Quả thật, không riêng gì Mình và họ, tác phẩm của Nguyễn Bình Phương từ Bả giời (1991), Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng (1999), Trí nhớ suy tàn (2000), đến Thoạt kỳ thủy (2004), Ngồi (2006) vừa cuốn hút, vừa thách thức với cộng đồng diễn giải vốn quen xu hướng chọn những gì dễ dãi, giản đơn trên tâm thế thụ động – đọc như một hành vi tự vệ. Những thể nghiệm, sáng tạo trong hệ hình tư duy, phương thức tự sự, khẳng định tham vọng của nhà văn khắc phục/ vượt qua mô hình truyền thống nhằm đưa tiểu thuyết tiệm cận/ hòa nhập vào quỹ đạo chung của văn học thế giới. Nguyễn Bình Phương đã đột phá vào tầng sâu cấu trúc truyện kể, khai phóng trong ý tưởng, phiêu lưu trong bút pháp, thể nghiệm trong nghệ thuật tự sự, góp phần tạo nên một sinh thể nghệ thuật độc đáo. Với tất cả những điều đó, Mình và họ xứng đáng là dấu ấn và thành tựu quan trọng của văn xuôi Việt Nam đương đại.
Chú thích:
(1) Đoàn Cầm Thi, “Bạo lực và Mỹ cảm: đọc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương”, 2015, nguồn website: http://www.tienve.org/.
(2) Bảo Ninh (2014), “Còn trên cả hay!”, nguồn website: http://tuoitre.vn/.
(3) Từ đây, những trích dẫn không ghi rõ nguồn trích được lấy từ tiểu thuyết Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, Nxb. Trẻ, 2014.
(4) Myriam Revault d’Allonnes, Tại sao con người gây ra chiến tranh?, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2010, tr.8-9.
(5) Đoàn Cầm Thi, “Bạo lực và Mỹ cảm: đọc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương”, 2015, nguồn website: http://www.tienve.org/.
An Hòa, 18/7/2015
Nguyễn Văn Hùng
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học, 3.2016
Theo https://vanhocsaigon.com/

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...