Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2025

Đã thấy những đốm lửa lóe sáng trong thơ 1-2-3

Đã thấy những đốm lửa
lóe sáng trong thơ 1-2-3

Có thể nói, thơ 1-2-3 trên vanhocsaigon.com, vanvn.vn lúc này thật sự đã bước qua giai đoạn ồn ào ban đầu theo số lượng mà đang lặng lẽ bước từng bước đi dần vào chiều sâu của thi ca. Ở đấy, thấy có một vài tia sáng từ những chùm thơ 1-2-3 của nhiều tác giả đã bắt đầu lấp lánh, nó chưa đến độ hào quang chói gắt nhưng cũng đủ cho người ta một sự lặng lẽ ghi nhận gật đầu. Thành công bước đầu ấy đang rất cần cho phong trào sáng tác thơ 1-2-3, nó vừa hà hơi tiếp sức cho sự chạy bộ tự thân tỏa năng lượng tích cực ghị níu vừa như một yếu tố kích thích cho sự lan tỏa hơn nữa những cảm xúc sáng tạo chạy đua. Điều này, hiện tại rất đáng trân trọng!
Sau đây, chúng tôi xin mời quý vị cùng chúng tôi thưởng thức một vài những đốm lửa ấy từ hàng ngàn bài thơ của gần 500 tác giả sáng tác thơ 1-2-3!
Cái nhìn thiện tâm nhân quả tỏa sáng trong thơ 1-2-3 Tâm Như. Đây là một làn gió mát thiện lương nhân từ. Ý thơ chắc gọn, lời thơ tự nhiên, luận bàn mà như không hề luận bàn. Bài thơ là lời đề cao hành động từ tâm của con người, nó như là một hành trình từ tâm đi từ nhân đến quả. Bài thơ sử dụng nhiều động từ “rải”, “chảy”, “hóa thành”, “tỏa mát” như nhấn mạnh hành trình từ tâm là hành trình xâu chuỗi và kết nối hành động, như ngụ ý khẳng định cần lắm những hành động! Cái nhân yêu thương sẽ ra cái quả ngọt ngào. Đó là ước mơ và đó cũng là tất yếu. Cho nên, bài thơ như một lời bộc bạch tự nhủ, nhưng lại lấp lánh sắc màu hướng ngoại lan tỏa tích cực bởi lời nói tâm tình chia sẻ. Ý nghĩa cuộc sống thiện lành là “rải nụ cười, rải hạt xanh” vượt lên trên mọi nhu cầu điều kiện, tất cả sẽ có thế giới tự nhiên sắp đặt. Ấy là niềm tin thủ thỉ nhẹ nhàng mà sâu xa ý vị.
Rải nụ cười như rải những từ tâm
Giọt yêu thương chảy về biển rộng
Rải hạt xanh cho mầm mới sinh sôi
Rải nụ cười gieo nhân quả ngọt
Mai mốt vô thường hóa thành cát bụi
Hoa lá xanh tươi tỏa mát một góc trời
(Tâm Như – Bạc Liêu)
Lấy mùa thu để miêu tả sự yên bình của cuộc sống phải chăng đây là nét mới lạ trong thơ Từ Dạ Linh? Cái gam màu chất chứa niềm “kiêu hãnh” được gợi ra từ màu truyền thống của mùa thu lá vàng, nhưng qua sự cảm nhận của nhà thơ, thì màu vàng ấy không còn là tiếng nói báo hiệu cho sự tàn úa mà là một sắc màu đầy nội lực cho sự sống “cỏ cây cũng khoác áo hoàng bào”. Ta vẫn thấy một mùa thu đầy thi vị nhưng là thi vị được đặt trong một cảm thức mới khỏe khoắn và đầy năng lượng tích cực. Bởi thế, ý thơ phát triển đến một sự thực bung tỏa cho những ước mơ vượt thoát trỗi dậy lớn lao chăng? Ở đó, nhân vật trữ tình dường như đang bừng tỉnh mà vượt qua “cơn ngái ngủ”, “đời chật hẹp” để hướng tới một ngày mai “rộng đường bay rộn rã cánh chim bằng. Mùa hạ cánh, nắng thu vàng, lấp lánh điệu bình yên”. Do vậy, người đọc có cảm nhận, mùa thu được tác giả sử dụng phía trên như một dấu hiệu báo trước cho một cuộc vượt thoát độc đáo của nhân vật trữ tình. Đó không chỉ là khát khao mà đó còn như một dự liệu, phác họa tươi tắn đầy những tự tin cho tương lai “lấp lánh điệu bình yên” qua ý thơ mềm, lời thơ mượt:
Mùa thu dệt nét tơ trời bình yên
Chỉ có mùa thu đầy kiêu hãnh
Đến cỏ cây cũng khoác áo hoàng bào
Cơn ngái ngủ bỏ quên đời chật hẹp
Rộng đường bay rộn rã cánh chim bằng
Mùa hạ cánh, nắng thu vàng, lấp lánh điệu bình yên!
(Từ Dạ Linh – Kon Tum)
Hai câu hỏi tu từ chốt ở hai đoạn thơ, điều đó đồng nghĩa với việc 30% câu từ bài thơ xoắn lại thành câu hỏi. Câu thơ mở đầu “những lời thì thầm bên nhang khói” dường như ẩn chứa điều gì đó là lạ? Thoạt mới nghe tưởng rằng nhân vật trữ tình của bài thơ đang thầm thì nguyện cầu gì đó chăng? Người ta thầm thì bên nhang khói nếu không cầu nguyện thì làm gì? Hóa ra không phải. Sự thì thầm kia là sự thì thầm hướng vào cái bản ngã bên trong con người mình. Lời thơ như lời tâm kinh khai mở bản vị con người. Cái nhìn bề ngoài của người chưa ngộ đạo chỉ thấy sự giả tạo bủa vây. Cái nhìn ngộ đạo còn thấy sâu sắc hơn sự giả dối bên ngoài. Đôi khi vì lí do này lí do kia mà người tu đã mượn cớ phương tiện hóa mà đành mượn thuyền chở trăng hay mượn thân chịu chửi để rèn cho được sự kiên định? “Tháng bảy âm hồn” mới có sự “độ siêu linh”, thế thì phía trên “khi mình nghèo khó” đích thị không phải là sự nghèo khó tiền tài. Xâu chuỗi ý thơ cả ba phân đoạn người ta đã thấy một điều mà tác giả muốn gửi gắm: tự tâm tu lành đem ánh sáng thiện tâm mà soi rọi vào năm uẩn để bừng giác giấc ngộ đó là sự thì thầm ước ao tự thân tu tâm. Lời thơ tự sự, kết nối cả một chút luận giải mang màu sắc biện giải đã một lần nữa khắc họa kiểu nói thơ rất Trần Huy Minh Phương:
Những lời thì thầm bên nhang khói
đa phần là giả – bạn mình nói vậy
ai có thể thương hết thảy mọi loài khi mình nghèo khó
tháng bảy âm hồn nhiều sao độ hết siêu linh
thôi, hãy độ và siêu cho chằng chịt năm uẩn này ra ánh sáng
tu đâu kể một ngày đôi ba tháng – sao không thể từ tâm
(Trần Huy Minh Phương)
Bài thơ “Muốn rõ mình phải rốt ráo tự soi” tác giả Nguyễn Ngọc Hưng như đang đặt ra cho độc giả một vấn đề thường ngày bao bọc lấy con người mà vì tâm lí thích khen hơn nghe chê đã khiến con người đánh rơi chức năng “tự soi” trong bản thể con người mình. Giọng thơ chiêm nghiệm và chân tình. Sự chia sẻ bởi bài thơ như được chưng cất từ sự trải nghiệm. Ý thơ đằm đằm sâu lắng. Ở đó, không chỉ có sự tự răn mà còn có cả sự giãi bày. Một bài học nhân sinh được xàng xẩy không quá dụng công nhưng giàu ý nghĩa giáo dục. Không “tự soi” để được “rõ mình” thì mong cầu gì rõ người? Thực ra, một khi đã “tự soi” rồi thì lo gì không “luôn tiếp thụ khi người ta trung thực chửi hay chê đúng”, tâm sẽ sáng không bị dắt đi thổi thành bong bóng bởi “thiên hạ vị tình ca ẩu tụng sai”! Minh triết sẽ hé lộ khi ánh sáng “tự soi” luôn được duy trì mọi lúc mọi nơi. Sâu sắc thấm thía và cũng thật hiện sinh!
Muốn rõ mình phải rốt ráo tự soi
Luôn tiếp thụ khi người ta trung thực chửi hay chê đúng
Chẳng đón mừng lúc thiên hạ vị tình ca ẩu tụng sai
Tự biết mình chỗ trắng chỗ đen nơi ngắn nơi dài
Năm bảy vô năng xen lẫn một vài hữu dụng
Có hơn ai mà vênh váo huênh hoang “chân đức” với “thực tài”?
(Nguyễn Ngọc Hưng – Quảng Ngãi)
Vũ Tuyết Nhung đã rất khéo léo trong việc sử dụng kiểu kĩ thuật “truyện lồng truyện” ở trong văn tự sự để xây dựng khá thành công hình tượng “khái niệm người tốt” trong bài thơ “Có nhiều cách nghĩ khác nhau về khái niệm người tốt”. Người tốt là những con người luôn tìm mọi cách cứu người, sẵn sàng xả thân cứu giúp, mục đích của họ là làm sao cho “nạn nhân đuối nước kia được đưa vào bờ”, được “sơ cứu” nhanh chừng nào tốt chừng ấy. Mọi người bị hút vào công việc “sơ cứu” nạn nhân. Chỉ có một nhân vật trữ tình “tôi” là có phát hiện ra một người khác “hoảng loạn đứng ngoài” cũng đang rất cần sự hỗ trợ cứu giúp. Cái nhìn nhân văn và sự nhạy cảm đã giúp nhân vật trữ tình “tôi” hiện ra cực kì nhân hậu. Cử chỉ “ôm cậu bé vào lòng” và khuyên nhủ “rồi anh cậu sẽ tỉnh lại” nghe ấm lòng làm sao! Trong kinh Phật gọi là kiểu “vô úy thí”, nghĩa là làm cho người khác không sợ sệt, vững tin hơn. Hành vi “cậu bé lau nước mắt mỉm cười” cho thấy cậu bé đã bớt sợ. Sự an ủi kia đã có kết quả. Kết quả nở hoa thêm một lần nữa: “lòng tôi cũng rất vui”. Quả thật lòng tốt cho đi là nhận lại. Bài thơ gọn, chặt, lời thơ tự sự mà sâu sắc như một bài học giàu triết lí nhân sinh. Rồi còn như ngầm gửi đến độc giả rằng hãy tôn trọng sự tự do và đa dạng của cuộc sống!
Có nhiều cách nghĩ khác nhau về khái niệm người tốt
Sáng hôm nay một nạn nhân đuối nước được đưa vào bờ
Lập tức có người sơ cứu, mọi người xúm quanh bàn tán
Không ai để ý đến em trai nạn nhân hoảng loạn đứng ngoài
Tôi ôm cậu bé vào lòng: Rồi anh cậu sẽ nhanh tỉnh lại
Cậu bé lau nước mắt mỉm cười và lòng tôi cũng rất vui
(Vũ Tuyết Nhung – Thanh Hóa)
Thơ Trần Thanh Dũng vẫn kiểu “lửng lơ con cá vàng” nhưng lại ẩn chứa sự đau đớn phía sau con chữ, cái giọng thơ bỡn cợt của anh, ta lại được bắt gặp ở trong bài thơ này. Mở đầu bài thơ đã là một câu hỏi tu từ “Chân lí có mọc ra vòi bạch tuộc”. Anh cứ thủng thẳng đưa ra những mệnh đề “giả thuyết đôi khi không cần chứng minh/ học thiệt và học giả có khi là giả thiệt”, và câu thơ cũng như là một ý nghĩ dự đoán vậy “hình như thế giới luôn phóng đại dưới mắt kính hiển vi” để rồi phía sau lại là những câu hỏi tiếp nối “những câu hỏi có làm giàu thêm tri thức/ sự nghèo đói cần gì mọc vòi?”. Trước đó là sự tủm tỉm chơi chữ thật thú vị “học thiệt và học giả có khi là giả thiệt” khiến chúng ta đọc lên không thể không giật mình và nhói lòng. Dư âm đọng lại ở bài thơ anh nơi độc giả là một câu hỏi dài đến bất tận. Chữ ít mà ý nhiều, anh đã đưa sự hàm súc của tứ tuyệt vào trong thơ 1-2-3, tạo cho bài thơ nhiều dư ba suy lắng.
Chân lý có mọc ra vòi bạch tuộc
giả thuyết đôi khi không cần chứng minh
học thiệt và học giả có khi là giả thiệt
những câu hỏi có làm giàu thêm tri thức
hình như thế giới luôn phóng đại dưới mắt kính hiển vi
sự nghèo đói cần gì mọc vòi?
(Trần Thanh Dũng)
Cái nhìn thấu cảm nhân sinh bằng con mắt của một người lính nên có sự trung thực dũng cảm. Bài thơ “Có binh pháp nào cho tướng quân, binh sĩ” của Huỳnh Thanh Liêm mượn cách suy nghĩ của quân đội xưa nay, với nhiều từ ngữ hình ảnh mang màu sắc quân ngũ: binh pháp, tướng quân, binh sĩ, chiến đấu, vòng vây, người lính, hy sinh, thiêng liêng, quân thù, bi tráng để tập trung diễn giải vấn đề nhân sinh, nhân quần. Không có sự trung thực, chỉ “lặng im rồi quanh co nước sông công lính” mà không có sự rạch ròi thì cuối cùng cũng chỉ đi đến một hậu quả khôn lường “không sống mái với quân thù nên bi tráng hóa bi thương”. Câu thơ cuối như một đúc kết chiêm nghiệm khó tránh ở đời, nó đau đáu như một tiếng thở dài, nhưng lại dứt khoát như một vết chém quyết đoán. Tôi đồ rằng tác giả Huỳnh Thanh Liêm đã là một người lính dạn dày và can trường. Không thế sẽ không thể có một câu thơ tự nhiên hay bất ngờ đến thảng thốt như vậy!
Có binh pháp nào cho tướng quân, binh sĩ
Chiến đấu trong vòng vây nhân quả, thực thi trả giá?
Phải trung thực câu trả lời, trung thực diễn văn lí giải
Không thể lặng im rồi quanh co “nước sông công lính”
Người lính trung thành, hy sinh nào cũng thiêng liêng điều gửi lại
Không sống mái với quân thù nên bi tráng hóa bi thương
(Huỳnh Thanh Liêm)
“Hội tụ những thân phận không cần quá khứ” là một câu thơ mở đầu bài thơ như cho thấy người viết đã cảm được cái chất giang rộng vòng tay nhân ái và chấp chứa bao dung của Sài Gòn. Một sự chở che và dung nạp không hề có chút mùi vị của sự phân biệt cao thấp, sang hèn; là nơi đất lành chim đậu hội tụ trăm miền “dung thân bao con người xa xứ”, từ “kẻ cao sang trí thức đến bà mẹ gánh nhặt ve chai”. Đấy là sự quan sát, sự chiêm nghiệm đúc rút theo chuỗi những sự việc và con người theo thời gian. Những câu thơ mở ra tả thực mà như ẩn chứa sự trân trọng và lòng cám ơn. Điều gì đã giúp Sài Gòn hoa lệ có được sự bao dung độ lượng lớn lao ấy? Ba câu thơ phía sau như là chìa khóa trả lời đã mở toang thắc mắc trên: “Bình đẳng” tự do và lối sống đậm “tình người” đã tạo ra sức mạnh tinh thần dung chứa lớn lao ấy cho Sài Gòn. Lời thơ mang màu sắc kiếm tìm và khai mở, để rồi sau cùng đọng lại ánh sáng tràn đầy năng lượng tích cực cho “ngày mai” “lấp lánh”. Lời thơ tự nhiên, trong sáng pha chất tự luận làm cho bài thơ thấm chất ngợi ca mà không hề lộ liễu, nó như một sự cảm nhận chân thành tự thân vậy.
Hội tụ những thân phận không cần quá khứ
Sài Gòn dung thân bao con người xa xứ
Kẻ cao sang trí thức đến bà mẹ nghèo gánh nhặt ve chai
Bình đẳng xin việc làm hay chạm ly bia tụ bạn
Ấm áp tình người bữa ăn xã hội mở rộng vòng tay
Lầm lũi mỗi phận người cũng lấp lánh một ngày mai
(Hoàng Hải Phương)
Một bài thơ ngắn dù chỉ có sáu dòng thôi nhưng lại thấy một bức tranh lãng mạn kì ảo được vẽ nên, ở đó có đầy đủ không gian (núi, non xanh, gương hồ), thời gian (sương mai), sắc màu (xanh, lụa nắng, chè lam) và con người với vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm. Rõ ràng, cái không gian, thời gian kia đã làm nền tôn vinh cho vẻ đẹp con người…
Tôi đồ rằng sự từng trải qua bao thăng trầm cuộc đời đã làm nên bản lĩnh một người đàn bà – hóa thân trong nhân vật trữ tình – “người đàn bà đem phơi từng vết cắt”. Phơi là hiển lộ, là công khai ra bàn dân thiên hạ để mong cầu điều gì? Tại sao “lầm lỡ đời mình” bây giờ đem ra “phơi từng vết cắt” mà không ém nhẹm đi cho an lành có hơn không? Bản lĩnh là ở chỗ ấy, bởi đó là sự dấn thân dám đối mặt với sự thật mà không phải ai cũng có thể làm được. Sự so sánh phía dưới như một lần nữa khắc họa cho rõ nét điều phía trên tỏ bày. Rằng “cũng đành thế, còn hơn lặng lẽ hát/ Khúc ca buồn, chẳng thèm ai ghé qua/ Người đàn bà tìm vui khoe riêng tư, cười khẽ”. Kết thúc là hình ảnh thể hiện hành vi “cười khẽ” khá độc đáo. Tất cả rồi sẽ qua đi nhưng cái gì còn lại mới là điều quan trọng. Chi tiết “cười khẽ” phản ảnh rất đúng, rất hay cái tâm thế nhẹ nhàng khi đã giải tỏa được năng lượng ẩn ức nó gấp ngàn lần một cuộc đời ẩm ê khi phải chọn con đường“lặng lẽ hát”. Bởi xét cho cùng thì việc chọn “lặng lẽ hát” là tìm quên trong sự nhớ, cố đẩy mình lên một cao độ khác với thực tiễn u ám kia nhưng rồi cô đơn lại hoàn cô đơn “khúc ca buồn, chẳng thèm ai ghé qua”. Thế thì hà cớ gì không mạnh dạn một lần nhìn thẳng, một lần dấn bước, có thể sẽ giũ bỏ được sự nặng nề mà tìm được chính mình? Ý thơ tuy có phần luận bàn căng thẳng nhưng lời thơ vẫn ngập tràn nữ tính, nó lấp ló một sự quyết liệt nhưng lại đằm dịu, phảng phất sự chịu đựng và vùng thoát khi phải đối mặt với cuộc đời “lầm lỡ”. Bài thơ vừa như giãi bày vừa như là tiếng nói tâm tình chia sẻ nên giọng thơ chân tình tha thiết, có chút điềm đạm lắng suy mà dứt khoát:
Người đàn bà đem phơi từng vết cắt
Của lầm lỡ đời mình làm trò vui thiên hạ
Ai đó ghé chơi rồi nói chuyện làm quà
Cũng đành thế, còn hơn lặng lẽ hát
Khúc ca buồn, chẳng thèm ai ghé qua
Người đàn bà tìm vui khoe riêng tư, cười khẽ
(Hồ Xuân Đà – TPHCM)
Sự lãng mạn thấm đẫm chất vị tình yêu lứa đôi đã được tác giả Phạm Thị Kim Khánh đò đưa bằng câu chữ khá duyên dáng. Lấy cái hấp dẫn của nề nếp cũ mà tung rắc cái mới đầy mê dụ “hôm lơ ngơ lạc phố cứ theo hương bông trang đi mãi/ Nương quen xưa dẫn dụ mê say ta bỗng vào vườn mới”. Bên ngoài thì lắc lư ngả nghiêng cảm xúc “nương quen xưa dẫn dụ mê say” nhưng bên trong thì lại vô cùng lí trí bởi ngay sau khi “mê say ta bỗng vào vườn mới” thì có liền ngay “ta bối rối gặp lại sắc hương thuở bên đồi nơi phố thị”. Sự bối rối ấy nhắn nhủ với độc giả một điều rằng cũ mới nương duyên, cũ mới chuyển hóa xoay vòng “tình cờ thôi hay cơn cớ mãi từ ngàn xưa/ Ta thơm giấc Sài Gòn, từ ấy, một mùa xưa”. Triết lí cũ mới tương giao chuyển hóa xoay vòng ẩn hiện. Cho nên có thể nói, tác giả đã rất khéo léo khi mượn chuyện nay mà nói đến chuyện xưa. Ở đó có lấp lánh ánh sáng của duyên kì ngộ, cũng có cái chân tình xưa cũ cho dù chỉ là chấp chới mơ hồ. Cái mới có từ cái cũ, và cái cũ làm nền móng cho cái mới thăng hoa. Tiếp bước kế thừa. Hòa quyện xoắn quýt. Tứ thơ ào ra trên cái đà nhún nhảy của con chữ. Một loạt từ ngữ tượng thanh tượng hình đi kèm nhau tạo nên một bài thơ 1-2-3 độc đáo và thú vị qua một giọng thơ đằm ngọt:
Ta có Sài Gòn vừa chín với thu nay
Hôm lơ ngơ lạc phố cứ theo hương bông trang* đi mãi
Nương quen xưa dẫn dụ mê say ta bỗng vào vườn mới
Ta bối rối gặp lại sắc hương thuở bên đồi nơi phố thị
Tình cờ thôi hay cơn cớ mãi từ ngàn xưa
Ta thơm giấc Sài Gòn, từ ấy, một mùa mưa
* Bông trang tượng trưng cho tình yêu của người Mường.
(Phạm Thị Kim Khánh – Thanh Hóa)
Chỉ một lát cắt của sự thăm viếng thôi mà Trần Thùy Linh đã như dựng lên và gợi ra được dư âm của cả một thời kì đau thương bi hùng. Câu chuyện thăm viếng người đã ngã xuống nơi Thành cổ (Quảng Trị chăng?) được kể lại với những câu bỏ lửng nhưng lại đầy xao xác “địa chỉ mới nhà mình/ Anh hãy về thăm mẹ và em!”. Lời thơ khép lại nhưng tâm hồn thì mở ra. Bất chấp thời tiết mưa gió “mưa lạnh tê”, bất chấp thời gian trôi qua vùn vụt “ngón tay thô ráp”, “sợi tóc bạc thưa”, nhân vật trữ tình “người đàn bà” vẫn tìm đến với Thành cổ, bởi nơi ấy có người thân của mình đã ngã xuống, thì đó đích thị là sự bất chấp mọi đổi thay của thời gian và hoàn cảnh, người đàn bà vẫn một mực đợi chờ và khát khao nhắn nhủ “anh hãy về thăm mẹ và em!”. Do vậy, có thể khẳng định sự thủy chung vẹn nghĩa đã được khắc họa qua thái độ “mắt thăm thẳm những điều không thể nói” phía trên. Nghe có sự hô ứng nhịp nhàng, xoắn quyện, câu trên là đợi chờ chung thủy thì câu dưới là khát khao gặp mặt. Do đó, thông điệp bài thơ nổi lên khá rõ, ấy là tiếng nói ngợi ca sự vẹn tròn của lòng thủy chung sẽ vượt lên tất cả, cho dù hiện tại có gì đó đổi thay như “địa chỉ mới nhà mình…” thì hình ảnh của người đã ngã xuống kia, “anh” vẫn vẹn nguyên trong lòng “em”! Thêm nữa, hai từ “mẹ” và “em” được tác giả cố tình xếp đặt đi liền nhau trong cùng một dòng thơ đã như ngầm đem đến cho độc giả một thông tin vô cùng quý giá, “mẹ” của “anh” ngày trước bây giờ đang vẫn ở bên cạnh “em” đây chăng? Một sự trân quý trước sau không hề thay đổi đáng để cho người đời sau phải suy ngẫm. Giọng thơ ấm. Lời thơ tha thiết.
Mưa lạnh tê những ngón tay thô ráp
Người đàn bà vuốt những sợi tóc bạc thưa
Mắt thăm thẳm những điều không thể nói
Chị lần dở quyển lưu bút Thành cổ
Nắn nót: “Địa chỉ mới nhà mình…
Anh hãy về thăm mẹ và em!”
(Trần Thùy Linh – Hải Dương)
Hào khí Đại Việt được tác giả Nguyễn Thị Thanh bày tỏ trong bài thơ “Huyền thoại xứ Thanh vẫn âm vang” như là một sự khẳng định sức sống bất tận của của Tổ quốc trong huyền sử. Sự bất tận ấy được kết nối qua việc dựng nước “Ông Đùng quảy núi cày sông thành núi Nưa sông Mã” đến việc giữ nước “Chàng Độc Cước xẻ thân giúp dân đánh quỷ hung tàn”. Văn hóa thăng hoa trong sự nối kết của lịch sử “Tiếng trống đồng Đông Sơn buổi vua hùng dựng nước” đã thổi vút lên tỏa ra muôn ngàn hình ảnh đẹp “Ngàn cánh hạc bay lên nối dòng thời gian kim cổ” để đúc kết một chân lí gắn kết vững bền “Sáp nhập hay phân chia chẳng thay đổi tên miền”. Tính thuyết phục rất lớn khi tác giả đã xâu chuỗi gần như đầy đủ các yếu tố tạo dựng nên tổ quốc từ huyền thoại đến lịch sử, rồi cộng hưởng thêm vẻ đẹp văn hóa trống đồng, nên sức sống của Tổ quốc đẹp hơn, lung linh hơn. Ý thơ chắc, lời thơ mạnh, tứ xoắn lại bay lên như hình tượng tổ quốc rồng bay thuở nào! Tác giả đã chắt lọc lịch sử văn hóa mà viết, thấy có sự tự hào lóng lánh trong từng câu chữ, nên bài thơ thế sự mà vẫn mềm mượt ngọt ngào. Phải chăng tác giả muốn khẳng định một sự tự tin ăm ắp trong bài, rằng Tổ quốc là vẹn nguyên, gắn kết và vĩ đại!?
Huyền thoại xứ Thanh vẫn âm vang
Ông Đùng quảy núi cày sông thành núi Nưa sông Mã
Chàng Độc Cước xẻ thân giúp dân đánh quỷ hung tàn
Tiếng trống đồng Đông Sơn buổi vua hùng dựng nước
Ngàn cánh hạc bay lên nối dòng thời gian kim cổ
Sáp nhập hay phân chia chẳng thay đổi tên miền
(Nguyễn Thị Thanh – Bình Định)
Lại thấy một Nguyễn Đinh Văn Hiếu lấp lánh chất văn hóa Nam Bộ khi anh sử dụng chi tiết trong vở cải lương “Cuộc đời cô Lựu” của soạn giả Trần Hữu Trang để làm chất liệu xây dựng nên bài thơ “Em nói với anh về cô Lựu”. Nếu không đằm mình trong không khí thưởng ngoạn cải lương một thời như cơm ăn nước uống thì khó có cái nhìn, cách cảm về cuộc đời sâu lắng đẫm mùi ca cổ đến vậy. Tác giả đã rất khéo khi mượn nhân vật trữ tình “em” để ngầm ca ngợi về tình mẫu tử thiêng liêng cao quý. Sự phản ứng ban đầu của nhân vật “em” đã được liệt kê ra khá chi tiết và đầy đủ “Nhu nhược, chịu thương, nhẫn nhịn, đớn hèn”, rồi chê trách “Không biết quyên sinh giữ tròn khí tiết”là tiếng nói của con người ngoài cuộc, là lời trách mang chút bóng dáng bộc trực của con người Nam Bộ, bằng giọng điệu tương đối khách quan và có phần lạnh lùng. Nhưng “Đến lúc mang thai, em thường vuốt ve cái bụng/ Nói âm thầm một mình đủ thứ trên đời cho bào thai nghe” thì bất ngờ tiếng nói ấy là tiếng nói của người trong cuộc, vì lúc ấy, cái bào thai xuất hiện, điều đó đồng nghĩa với việc nhân vật “em” tự nhiên được đặt mình vào vị trí của người khác để cảm nhận, để hiểu, nên đã có sự thay đổi trong thái độ đánh giá về “cô Lựu”, “Anh mở Đời cô Lựu, em ngượng ngùng: thương cô Lựu quá anh!”. Thực ra chi tiết “anh mở Đời cô Lựu” là cái cớ để em bày tỏ thái độ ngượng ngùng khi đã trót đánh giá và trách sai “cô Lựu” như đã thốt ra trước đó. “Thương cô Lựu quá anh!” là tiếng nói từ tận trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật bật ra. Phải chăng bài thơ muốn chuyển đến cho độc giả một thông điệp, khoan hãy nhận xét đánh giá ai đó khi chúng ta chỉ là người ngoài cuộc!? Lời thơ nhẹ nhàng giản dị, giọng thơ tự nhiên, chân chất. Bài thơ tự sự gọn mà vang ngân dư ba hệt điệu Phụng Hoàng mượt dịu nhưng vẫn cồm cộm tình đời, tình người.
Em nói với anh về cô Lựu
Nhu nhược, chịu thương, nhẫn nhịn, đớn hèn
Không biết quyên sinh giữ tròn khí tiết
Đến lúc mang thai, em thường vuốt ve cái bụng
Nói âm thầm một mình đủ thứ trên đời cho bào thai nghe
Anh mở Đời cô Lựu, em ngượng ngùng: thương cô Lựu quá anh!
(Nguyễn Đinh Văn Hiếu – Trà Vinh)
Hai địa danh “Tản Viên” và “Tiên Sa” xuất hiện để làm điểm tựa nhún nhảy cho chất lãng mạn loang ra “non xanh cúc quỳ đơm xanh vạt áo”, “gương hồ quyến luyến sương mai”. Một buổi sớm mai huyễn hoặc lung linh làm cho “hương núi còn say” hay người say hương núi? Chỉ biết cái thực “non xanh, cúc quỳ” đang hòa vào cái ảo “đơm xanh vạt áo” làm cho đoạn thơ vốn đã mang nặng tâm trạng “quyến luyến” giờ mơ hồ hơn trong khung cảnh thần tiên dịu vợi. Đoạn thơ phía dưới không thể không có bóng hình con người xuất hiện. Để thưởng ngoạn và để say nồng sau phút “ngẩn ngơ giữa đất trời trinh bạch”. Nhân vật em như thật như mơ “dịu dàng lụa nắng”. Sắc diện ấy sẽ không đủ để làm cho “ta” ngất ngây nếu thiếu đi hương vị ở câu dưới “hương chè lam thơm ngọt nét môi cười”. Một bài thơ ngắn dù chỉ có sáu dòng thôi nhưng lại thấy một bức tranh lãng mạn kì ảo được vẽ nên, ở đó có đầy đủ không gian (núi, non xanh, gương hồ), thời gian (sương mai), sắc màu (xanh, lụa nắng, chè lam) và con người với vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm. Rõ ràng, cái không gian, thời gian kia đã làm nền tôn vinh cho vẻ đẹp con người. Những sắc thái tâm trạng thay đổi theo cái nhìn của nhân vật, từ chỗ “say” với cảnh, kế đến “quyến luyến” rồi thì“ngẩn ngơ” là phải chăng tác giả có ý muốn nhấn mạnh rằng, một khi thiên nhiên và con người hòa hợp, lúc ấy con người vẫn là đẹp nhất? Nếu để ý thêm một chút nữa, tác giả Hà Phi Phượng còn sử dụng cả nghệ thuật điện ảnh để hỗ trợ thêm trong việc xây dựng vẻ đẹp cho bức tranh ở đây, vì không gian thu hẹp dần theo điểm nhìn của sự quan sát, từ xa “Tản Viên non xanh”, “Tiên Sa gương hồ” đến gần là “em dịu dàng” như vạt “lụa nắng” ngoài kia. Giọng thơ ngọt. Lời thơ đằm. Người và cảnh hòa quyện bay bổng, lãng mạn.
Hương núi còn say
Tản Viên non xanh cúc quỳ đơm vạt áo
Tiên Sa gương hồ quyến luyến sương mai.
Ta ngẩn ngơ giữa đất trời trinh bạch
Em dịu dàng lụa nắng
Hương chè lam thơm ngọt nét môi cười.
(Hà Phi Phượng – Thái Bình)
Bức tranh về ngoại buồn đến thắt ruột. Bài thơ 1-2-3 của Lê Kỳ Nam buộc người ta phải lắng lòng mình lại. Có lúc nào đó ta lơ đễnh, hoặc vì công việc cuốn đi mà ta quên ngoại? Không có cơn triều cường thì nhà ngoại vẫn đó, cái cô quạnh nơi ấy chưa được nhân lên đến vậy, nên có thể làm cho con cháu không nhớ đến ngoại chăng? Chiều nay, triều cường. Lời thơ run run, tâm trạng nhân vật trữ tình như khụy xuống. Hình ảnh “Ngoại lom khom tát hoài ra ngạch cửa/ Từng ca nước run run vì mưa lạnh, lũ tràn” bùng lên cắt cứa lòng người. Ngoại đang lạnh run vì mưa hay lạnh run vì sự “cô quạnh”? Thơ gợi tả mà xồng xộc tuôn ra bao nhiêu nỗi niềm. “Triều cường” là nước lớn, nước dâng, mà “ngoại lom khom” cố tát từng “ca nước”, hình ảnh đối lập đến nghẹn ngào. Nhưng ngoại vẫn kiên nhẫn tát nước, ngoại kiên nhẫn với con với cháu cả đời này rồi. “Không ai về” dĩ nhiên là chỉ mình ngoại như vẫn thế. Ngoại âm thầm, không một lời oán trách, thở than. Và cũng không thấy lời mong ngóng ở đây vì phải chăng ngoại đã mong quá nhiều rồi? Câu thơ cuối kích cho ấm bài thơ lên hay làm cho bài thơ xót xa thêm “Chỉ có đốm nhang buồn ngoại thắp đỏ mênh mông”? “Đốm nhang” biết buồn hay “đốm nhang” làm cho không gian kia thinh lặng buồn bã cô quạnh hơn? Lại một sự tương phản được cài đặt ở câu cuối giữa “đốm nhang đỏ” và “mênh mông” trong không gian im lặng. Những câu thơ khắc khoải, càng làm cho tình người thêm xạc xào. Lời thơ tỏa ra hun hút. Ý thơ phảng phất sự trách hờn nhưng lại mênh mông quặn thắt.
Trong nỗi cô quạnh giữa triều cường
Ngoại lom khom tát hoài ra ngạch cửa
Từng ca nước run run vì mưa lạnh, lũ tràn
Nội thành có xa gì đâu chỉ gần mươi cây số
Không ai về cho ngoại ấm lưng cong
Chỉ có đốm nhang buồn ngoại thắp đỏ mênh mông
(Lê Kỳ Nam – Cần Thơ)
Nữ sỹ Bùi Kim Anh có một bức tranh mùa thu hòa quyện với bức tranh lòng khá độc đáo. Cái nhìn Hà Nội với những nhát cọ họa hồn thu rất tinh tế “Thu tự nhiên với tất cả/ mặc riêng Hà Nội lối xưa”. Ở đó có phảng phất phong vị mùa thu xưa của Hà Nội. “Lối xưa”, “nơi ta chập chững bước đông”. Câu thơ vẽ nên bước chân nhi nhiên an lặng “mùa thản nhiên sang không cần gõ cửa”. Thu Hà Nội lặng, tình Hà Nội yên. “Nơi ta thu ngự trị quá lâu” là lời xác nhận hiển nhiên như đôi bạn. Cho nên lại thấy có phơ phất của sự đón nhận và cũng phơ phất của sự chuyển giao. Đều là tĩnh tại. Lời thơ đằm. Ý thơ sâu như mặc khải sự hòa hợp an yên.
Mà ta có trốn tránh nhau đâu
Thu tự nhiên với tất cả
mặc riêng Hà Nội lối xưa
Nơi ta thu ngự trị quá lâu
nơi ta chập chững bước đông
mùa thản nhiên sang không cần gõ cửa
(Bùi Kim Anh – Hà Nội)
Sự khắc khoải mong ngóng của nhân vật trữ tình “em” đã được tác giả Nguyệt Lê diễn tả rất cảm động và tinh tế trong bài thơ “Người nói, người chẳng mua hoa dại”. Những câu thơ như những tiếng thở dài phập phồng ắp đầy chia sẻ. Song, hình như vẫn nghe có sự thổn thức ở đâu đó chơi vơi thôi mà bám riết lấy bài thơ. Thành thử, lời thơ vừa như sẻ chia lại vừa như than thở…
Hình ảnh “Con đường nằm đau nâng bước kẻ lại qua” làm giá đỡ để triển khai ý thơ phía dưới. Nó như một hình ảnh biểu tượng cho sự hy sinh cao quý. Sự chịu đựng “nằm đau” để “nâng bước” người đi là cách nói thể hiện trách nhiệm, chở che đã được cài đặt ở chế độ sẵn sàng. Cặp từ tương phản “còng lưng >< đứng thẳng”, “bán sức khỏe >< mua tri thức” như là đòn bẩy góp thêm tiếng nói ngợi ca sự hi sinh cao cả của đấng sinh thành. Vẻ đẹp ấy lấp lánh ở mảng gia đình. Mở rộng ra mảng xã hội thì hình ảnh biểu tượng “con đường nằm đau” là việc làm của những “chiến sĩ biên phòng”, những “bác sỹ xung phong” và đều có chung một điểm rất quý đó là sự hết mình vì mọi người. Sự linh hoạt trong cách tả cũng là nhằm khẳng định sự hy sinh thầm lặng, có trách nhiệm, có tinh thần tự giác xung phong để “nâng bước kẻ lại qua” như ở ý thơ đã nêu phía trên mà thôi. Rõ ràng, ý thơ nâng dần phạm vi và biên độ ảnh hưởng. Sự diễn dịch có chủ đích để rồi ý thơ đóng lại và cũng như mở ra ở câu cuối. Câu cuối mang dáng dấp một kiểu kết đóng khẳng định sự thiện lương “có những con người sống là để cho đi”. Bài thơ tựa một khúc ca ngân nga là để khẳng định hành động tạo ra phẩm chất cao quý ở con người. Sự ghi nhận mang tính khách quan vì sự ghi nhận ấy được nhìn từ góc độ người thụ hưởng (là con đối với cha, mẹ; là người dân đối với anh lính biên phòng, bác sỹ xung phong). Bởi thế cho nên, giọng thơ mang vẻ đẹp của sự tri ân để mong cầu tri ngộ rất đáng trân trọng! Ý thơ không mới nhưng giọng thơ thì chân tình, nhẹ nhàng mà tha thiết:
Con đường nằm đau nâng bước kẻ lại qua
Mẹ quang gánh còng lưng cho đời ta đứng thẳng
Cha bán sức khỏe mình, mua về ta tri thức
Chiến sĩ biên phòng canh toàn dân yên giấc
Bác sĩ xung phong ra tuyến đầu chống dịch
Có những con người sống là để cho đi
(Nguyễn Minh Ngọc Hà – Bình Dương)
Sự khắc khoải mong ngóng của nhân vật trữ tình “em” đã được tác giả Nguyệt Lê diễn tả rất cảm động và tinh tế trong bài thơ “Người nói, người chẳng mua hoa dại”. Những câu thơ như những tiếng thở dài phập phồng ắp đầy chia sẻ. Song, hình như vẫn nghe có sự thổn thức ở đâu đó chơi vơi thôi mà bám riết lấy bài thơ. Thành thử, lời thơ vừa như sẻ chia lại vừa như than thở. Mở đầu là lời xác nhận “người nói người chẳng mua hoa dại” để vào bài như một phản đề ẩn chứa mâu thuẫn “cớ chi em còn tên gọi hoa mua”? Vẫn biết khó lòng hy vọng trong tương lai nhưng em vẫn “tím khắc khoải giữa đồi non xa vắng” như khắc họa lại sự đợi chờ trong hun hút mù xa. Câu thơ bật lên nỗi niềm của sự vô vọng, nhưng lại vẫn gieo vào lòng người những xa xôi đợi chờ đẫm đầy thương mến. Sự thủy chung mong chờ được khắc họa rõ nét “Suốt một thời khoe sắc hương thầm lặng/ Đợi bướm ong, bạc phếch với thời gian”. Đến đây, lại tưởng ý thơ tả hoa mua thôi nhưng kì thật, tả hoa mua chỉ là cái cớ cho ý thơ xoáy vào tả người, là bởi dấu hiệu nhân cách hóa rất rõ “khoe sắc hương thầm lặng”, “đợi bướm ong”. Lại nữa, phía trên đang nói về hoa mua, thì đột ngột xuất hiện con người ở câu kết “có cô gái xa quê nhớ nỗi nhớ mây ngàn” lại càng làm cho ý thơ xoắn quyện hơn nữa giữa con người và thiên nhiên. Thì ra, tác giả nói về hoa mua là để diễn tả một tâm tình thầm kín đẫm đặc tương tư. “Nhớ mây ngàn” của “cô gái xa quê” là nhớ đến cái không gian xa mù vời vợi kia, ở đó có cả một khoảng thời gian của xa xăm kí ức, nên không thể không thốt nên một lời xác nhận như ở đầu bài thơ phía trên “người nói, người chẳng mua hoa dại”! Lời thơ chấp chới sự tự than và phơ phất cái xót xa. Tác giả kết hợp những biện pháp tu từ kiểu chơi chữ đồng âm (mua hoa dại, hoa mua), với câu hỏi tu từ (có chi em còn tên gọi hoa mua) diễn tả rất gợi sự khắc khoải đợi chờ và mong ngóng hy vọng. Sự đợi chờ ngóng trông ấy đặt trong một cái không gian mênh mông “giữa đồi non xa vắng”, và trong một đằng đẵng thời gian “suốt đời” thì lại càng tội nghiệp hơn bởi cái day dứt vô vọng lập tức trồi lên. Thành ra ý thơ không khỏi ngậm ngùi. Nhịp thơ chậm. Giọng thơ day dứt. Lời kết mở, mênh mang:
Người nói, người chẳng mua hoa dại
Cớ chi em còn tên gọi hoa mua?
Tím khắc khoải giữa đồi non xa vắng
Suốt một đời khoe sắc hương thầm lặng
Đợi bướm ong, bạc phếch với thời gian
Có cô gái xa quê nhớ nỗi nhớ mây ngàn…
(Nguyệt Lê – Nghệ An)
Câu chuyện được tác giả thuật lại trong bài thơ xúc động vì giọng kể mang độ chân thật cao. Chính độ chân thật ấy đã làm lay động lòng người. Hoàn cảnh buộc con người ta phải xử trí như trong bài thơ là một hoàn cảnh đau thương gần như tột cùng. Bài thơ là sự giang rộng vòng tay yêu thương để che chở cho đứa em cùng cha khác mẹ trong đại dịch virus cúm vừa rồi. Đỉnh điểm của nỗi đau là ở đây. Ba câu thơ đầu đều xuất hiện chữ “mất”. Lời thơ mang màu sắc tự thuật nên càng như tăng thêm sức nặng ghê gớm của sự mất mát. Do vậy, sự mất mát càng như chồng chất lên. Nỗi đau tăng dần cho đến khi “mẹ kế tôi vướng F0 vừa mất hôm qua” bởi phía sau sự mất mát đó là còn có đứa em “chưa tròn bốn tuổi”. Sự thật ấy người lớn có thể nuốt nỗi đau vào lòng mà chịu đựng cho qua ngày nhưng với một đứa trẻ “chưa tròn bốn tuổi” thì sự thật kia buộc nhân vật trữ tình “tôi” phải ngậm ngùi, cắt cứa “tôi đành dối: Mẹ đi công chuyện chưa về”. Một tình thế xảy ra buộc con người ta phải dối lòng. Dối em nhưng sao nhân vật trữ tình lại phải khóc? Nỗi đau đã nén căng trong lòng. Chi tiết “tôi đã khóc giúp em” là một chi tiết đậm đặc sự thật và giàu giá trị nhân văn. Một sự đặt mình vào vị trí của người khác để chia sẻ, ấy là vẻ đẹp bao dung tỏa sáng. Cho nên, giọt nước mắt của sự cưu mang bỗng trở thành giai điệu ấm lòng. Câu cuối được tách ra độc lập thành hai câu thơ, rõ ràng tâm trạng của nhân vật trữ tình “tôi” ở đây đã có sự phân thân. Phần đầu là gợi tả, phần sau là cảm thán. Lời cảm thán nghẹn ứ mà day dứt, đớn đau. Ý thơ sốc. Giọng thơ nghẹn.
Mẹ tôi mất sớm, cha tôi đi bước nữa
Năm trước cha tôi mất vì tai nạn
Mẹ kế tôi vướng F0 vừa mất hôm qua
Tôi đành dối: Mẹ đi công chuyện chưa về
Tội nghiệp em tôi chưa tròn bốn tuổi
Tôi đã khóc giúp em. Tôi còn dối đến bao giờ!
(Huỳnh Thanh Liêm – Khánh Hòa)
Một bài thơ lạ, giọng thơ có vẻ như đùa bỡn mà thấm thía về hành trình cuộc đời trên con đường trải nghiệm qua thời gian của tác giả Đỗ Thu Hằng. Câu hỏi tu từ đặt ngay vị trí câu mở đầu – cũng là tựa bài – “Những ngày mai còn buồn?” như cố tình trêu ngươi độc giả. Ở hay, buồn vui trong cuộc đời có gì lạ mà phải cắc cớ hỏi như vậy? Rồi lại thêm một cách tả bước đi và sức mạnh khả dĩ của thời gian rất lạ “bánh xe ngỗ nghịch của thời gian/ âm thầm nghiền nát sự ngây thơ”. Nếu “vô hình” là thực tướng nghiêng về cái không nhìn thấy thì “vô tình” là độ nghiêng về cảm xúc tình cảm có thể cảm nhận được. Cái có cái không xen kẽ. Ta đang chơi vơi thì đột nhiên câu hỏi tu từ thứ hai xuất hiện “có điều gì làm ta ngạc nhiên không nhỉ?” đi liền kề với câu nhân cách hóa ấn tượng “khi nỗi buồn cũng lén lưu manh”. Để cho “nỗi buồn” mang một đặc tính “lưu manh” của con người thì kể xưa nay trong thơ cũng thuộc hàng hiếm. Ba câu thơ bên trên xòe ý kiểu hô thì ba câu thơ dưới ứng với lời giải trình núp trong tấm áo khoác tu từ nghi vấn. Cái nhìn bước đi của cuộc đời tuy lạ nhưng cũng là phong thái thản nhiên ở một tâm trế từng trải. Tất cả sẽ không đi chệch quỹ đạo của thời gian sàng lọc. Chỉ có tâm lí con người là có thể quẫy đạp lên một tí cho có rồi cũng sẽ bị bánh xe của thời gian “nghiền nát” cả thôi. Chữ “lưu manh” buông ra ở cuối bài gieo đúng vị trí nên nó cựa quậy, có sức sống tung bật ngay. “Nỗi buồn” là sự kéo theo điều chi đó đã đến phía trước, “lén lưu manh” là nó âm thầm giấu giếm để quẫy đạp. Giọng thơ nhấn nhá. Lời thơ chắc. Một kiểu diễn đạt lạ tai, thú vị “Khi nỗi buồn cũng lén lưu manh”:
Những ngày mai còn buồn?
Bánh xe ngỗ nghịch thời gian
Âm thầm nghiền nát sự ngây thơ
Vô hình và vô tình
Có điều gì làm ta ngạc nhiên không nhỉ?
Khi nỗi buồn cũng lén lưu manh.
(Đỗ Thu Hằng – Hà Nội)
Con người được đặt trong mối tương quan với thiên nhiên vũ trụ nên câu chữ bài thơ giàu chất suy nghiệm và lí giải thực ra là muốn lí giải mối quan hệ giữa thế giới khách quan và thế giới chủ quan chăng? Ngay câu thơ đầu hình ảnh vũ trụ mênh mang đã hiện ra vô cùng đẹp “Mùa sao sáng lung linh muôn nẻo thiên hà”. Đó là vẻ đẹp nguyên sơ vốn dĩ xưa nay mặc định thế hoàn toàn đối ngược với hiện thực được con người tạo ra “lộng lẫy thềm nhung thật giả tinh hoa cõi người chật chội”. Chi tiết “người tự cũ, tự xa” áp vào câu cuối nghe dư âm ám gợi như xác quyết một điều gì đó mang âm hưởng buồn. Ý thơ tự nhiên lỏng ra vời vợi. Một sợi dây kết chuỗi lại vô vàn những điều “cong vênh” mà con người tạo ra lại chỉ làm tăng cảm giác “cõi người chật chội” khi “lộng lẫy thềm nhung” được tạo ra bởi những “thật giả tinh hoa” mang đặc tính người! Con người nếu chỉ biết “não dày lên toan tính” rồi mà “cong vênh” thật giả thì lại càng bị đẩy vào sự cô đơn cho dù có thể phảng phất chút dư vị của lòng kiêu hãnh, rồi thì sao thoát khỏi kiểu ngập ngụa sống trong “hân hoan dối trá”? Vâng, chỉ con người mới có thể làm cho con người buồn “khi biết người tự cũ, tự xa” mà thôi. Một cách nhìn đời giàu chất hiện sinh qua những chi tiết chắt lọc hiện thực. Giọng thơ xa xót suy tư. Ý thơ khơi lên những cái nhói buốt cũng là để hy vọng con người sống sao cho có ích hơn chăng?
Mùa sao sáng lung linh muôn nẻo thiên hà
Lộng lẫy thềm nhung thật giả tinh hoa cõi người chật chội
Mặt đất lặng lẽ mùa trong diệu kỳ sinh – diệt, diệt sinh
Khi nếp não dày lên toan tính, con người kiêu hãnh cô đơn
Thiện – ác cong vênh, thần thánh chết trong hân hoan dối trá
Tôi đã buồn chiều lặng khi biết người tự cũ, tự xa.
(Tạ Hùng Việt – Khánh Hòa)
Một sự cảm nhận trong trẻo cuộc sống lao động mượt mà pha chút “chiều hôm” quái nắng trong bài thơ “Một chút gió vờn qua khu vườn vắng” của Lê Thanh Hùng đem đến cho độc giả những cảm giác thú vị. Lấy hình ảnh khu “vườn vắng” đang lặng im thì bỗng nhiên xuất hiện “một chút gió vờn qua” phải chăng thi sỹ muốn ám chỉ điều gì đó khi phía dưới là cả một khung cảnh ắp đầy âm thanh và hình ảnh “tiếng chim rơi lúc lỉu trong chiều/ em hái vội chùm dâu vàng chín mọng”? Sự chuyển đổi cảm giác từ âm thanh (tiếng chim) sang nhìn thấy (rơi lúc lỉu) trong không gian “vườn vắng” “chiều” nghe lạ tai và ấn tượng. Nó vừa vui, vừa lặng, vừa xôn xao cảm thức bừng giác vừa mơn man sống động ngày thường. Câu thơ “em hái vội chùm dâu vàng chín mọng” như khẳng định lại một lần nữa cảm nhận phía trên nên nó sống động hơn bởi màu sắc lóe lên “chùm dâu vàng chín mọng”. Kiểu hội họa rải màu để cài đặt tâm hồn rất ư lãng mạn đã được thi sỹ dụng ngôn khá độc đáo. Nó có thể làm cho kí ức sống dậy chỉ bằng vài nét phết phẩy. Thế là cuộc sống ào ra với sự mỡ màng tươi sáng “quang gánh đong đầy cả quãng đường xa”. Đẹp quá, cái đẹp khỏe khoắn hút hồn kia làm “anh đứng một mình bên đường lóng ngóng”. Cho nên, không thể không “nắng quái chiều hôm, bẫng quyện mượt mà!”. Hình ảnh “nắng quái chiều hôm” phải chăng là một lát cắt lấy từ trong câu ca dao “vợ thương chồng đương đông buổi chợ/ chồng thương vợ nắng quái chiều hôm”? Do đó, chữ “bẫng” (hẫng) gieo liền ngay phía sau là có ý đồ. Từ đó, ý thơ như được tác giả cố kéo giãn cho hết cỡ “nắng quái chiều hôm, bẫng quyện mượt mà”. Rõ ràng ở đây có khoảng cách “anh đứng một mình bên đường lóng ngóng”, khoảng cách đó nhấn mạnh sự đảm đang tháo vát của nhân vật trữ tình “em”. Thế thì, “em” ở đây có thể là vợ, có thể là một ai đó làm cái cớ cho thi nhân tỏ bày. Vẻ đẹp khỏe khoắn của lao động, của sự đảm đang tháo vát đã vụt sáng mà ấm dần lên át cả sự tàn úa ảm đạm buổi chiều. Để rồi nó hút lấy hồn “anh” mà “quyện mượt mà” cả thảy. Có thể nói, vẻ đẹp lao động khỏe khoắn ấy là trung tâm phát sáng của bài thơ. “Tiếng chim rơi lúc lỉu” là hình ảnh hóa đầy ấn tượng, làm cho “khu vườn vắng” bỗng trở nên sống động hơn, cộng hưởng vẻ đẹp thoăn thoắt của đôi tay “em” “em hái vội chùm dâu vàng chín mọng”. Giọng thơ trìu mến. Lời thơ lay động bởi sự chân tình.
Một chút gió vờn qua khu vườn vắng
Tiếng chim rơi lúc lỉu trong chiều
Em hái vội chùm dâu vàng chín mọng
Quang gánh đong đầy cả quãng đường xa
Anh đứng một mình bên đường lóng ngóng
Nắng quái chiều hôm, bẫng quyện mượt mà.
(Lê Thanh Hùng – Bình Thuận)
Từ thực tế bông sen tàn trong bình hoa để rồi tác giả như giúp ta liên tưởng đến sự hy sinh mà dồn chất cho những gì cần tồn tại “rụng cánh để nhụy tươi”. Và cái sự “rụng cánh” của hoa kia cũng được nhìn qua lăng kính lãng mạn vô cùng đẹp. Ấy là vẻ đẹp của sự hi sinh tôn nền tạo đà. Nhân hóa để lí giải điều chi “sen rùng mình trút giấc mùa thiên thần/ xuống mặt bàn loang ố”?
“Trong thế giới chữ có nhiều đường đi và phương tiện” vang lên như một mệnh đề xác quyết đầu tiên của bài thơ ở người làm nghệ thuật ngôn từ. Hành trình ấy luôn phong phú và đa dạng. Gạn đục khơi trong là tùy ở anh, chọn đường đi nước bước nào nhằm đạt mục đích cuộc đời là ở tùy từng người “Mỗi loại bút mang một màu mực tùy ý thích mà dùng/ Áo xanh áo hoa người nhiều ý kẻ lắm lời cùng bước”. Đấy là tự do, mà có tự do thì mới thật sự là cuộc đời. Nhưng nếu anh chọn sai anh sẽ phải trả giá, một cái giá rất đắt, bởi lẽ thành công ở cuộc đời là sự chắt lọc của cả một quá trình tìm đường và khai triển. Hơn nữa, văn hào Lỗ Tấn từng nói “trên bước đường thành công không có vết chân của kẻ lười biếng”. Cuộc sống vốn dĩ vô cùng đa dạng,  đôi khi nó còn là một sự phức hợp đến khó hiểu, song sự thành công trong cuộc đời thì luôn không chấp nhận kẻ lười biếng và những kẻ đi bằng đôi chân người khác “Những kẻ lười chọn đường tắt rơi xuống vực sâu không đáy/ Những kẻ trên lưng người khác bị bão trời ném xuống vách núi”. Nếu cuộc đời chỉ chăm chắm dựa thế “trên lưng người khác” cốt để kiếm chác vơ cào mong cầu kết quả thì đó cũng chỉ là sự láu cá vặt vãnh sao có thể đủ sức mà mơ tựu thành viên mãn? Cho nên, cuối cùng còn lại trên con đường nghệ thuật là những người dám dấn thân và đương đầu với mọi chông gai “chỉ những người tim loét máu và lệ của đời tiếp tục đi”. Dĩ nhiên, cái giá phải trả cho sự dấn thân là không hề nhẹ, nó có thể là cả đau khổ lẫn hy sinh “tim loét máu và lệ của đời”. Sự tôi luyện ấy đã cho họ đủ dũng mãnh để “tiếp tục đi” trên con đường họ đã chọn. Ý thơ mạnh. Giọng thơ rắn rỏi, đanh chắc. Lời thơ mang màu sắc tự sự vang ngân. Bài thơ như một xâu chuỗi những so sánh đan cài để cuối cùng vút lên giọng điệu tự hào về con người dám làm, dám chịu, dám dấn thân.
Trong thế giới chữ có nhiều đường đi và phương tiện
Mỗi loại bút mang một màu mực tùy ý thích mà dùng
Áo xanh áo hoa người nhiều ý kẻ lắm lời cùng bước
Những kẻ lười chọn đường tắt rơi xuống vực sâu không đáy
Những kẻ trên lưng người khác bị bão trời ném xuống vách núi
Chỉ những người tim loét máu và lệ của đời tiếp tục đi
(Vũ Tuyết Nhung – Thanh Hóa)
Giọng thơ siêu thực của Lê Đỗ Lan Anh lại tiếp tục “nhấp nháy” đa nghĩa và độc đáo dẫn dụ trong bài thơ “Chúng ta sẽ chết khi tất cả còn nguyên vẹn”. Ngay câu đầu đã thấy sự đa nghĩa chớp nhá rồi. Tại sao “chúng ta sẽ chết”? Khẳng định như vậy để nói cái gì khi “tất cả còn nguyên vẹn”? Quy luật sinh lão bệnh tử của cuộc đời chăng? Ý thơ hé ra ở câu thơ thứ hai mang hình ảnh chìa khóa mở tìm câu trả lời cho câu thơ trên chăng “sự sợ hãi khép nép trong khuôn khổ”? À thì ra vậy! Cái chết là do sự tẻ nhạt nhàm chán tạo ra bởi khuôn mẫu đã làm nảy sinh tâm lí “sợ hãi khép nép trong khuôn khổ” ấy rồi. Chi tiết “những vết dao nhấp nháy như hàm răng quỷ” là cách diễn tả hình ảnh hóa sự ám ảnh từng bị nỗi sợ hãi vô hình đeo đẳng. Sự vùng thoát nếu không đủ nội lực, cuộc đời sẽ luôn tù đọng, nhạt phèo chiếm lĩnh thì sống khác gì chết? Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại đặt “quyên sinh và tái tạo” đi liền nhau kiểu cái cụp cái xòe. Anh không dám từ bỏ lối cũ, có thể là hào quang quá khứ, suốt ngày ôm ấp quá khứ kiểu “ăn mày dĩ vãng” (Chu Lai) thì sao có thể mơ đến sự “tái tạo” và bứt phá? Anh chủ trương vây hãm cả đến những khoái lạc mang bản thể người “nụ hôn bị tống giam trong lồng kín” thì tránh sao hiện trạng đen ngòm kia không vây bủa “luồng sáng cắt ngang bóng bù hông (bù hong?) đen trắng phận người” hỡi anh? Ở đây, rõ ràng khát vọng đã được đặt ra ẩn bên trong hiện trạng vây hãm ghê gớm ấy. Nên giọng thơ tưởng như lạnh lùng nhưng lại chất chứa bao khát khao giải tỏa. Quy luật nhân quả trong nghệ thuật, trong cuộc đời xoắn quyện vào nhau, thấy cứ lấp lánh lên bởi sự diễn tả ấy là cực kì xác đáng và ấn tượng. Anh có dám, có đủ bản lĩnh tự cắt, tự đoạn tuyệt với những cái lỗi thời lạc hậu kia không? Hay là anh luôn luôn “khép nép trong khuôn khổ” để rồi chấp nhận cả cuộc đời “bù hông đen trắng phận người”? Câu thơ gợi tả. Nhịp thơ chậm. Lấy cái nền nhìn ngắm hiện sinh mà suy tưởng, khát khao! Ôi, đáng trân trọng thay những suy nghĩ sâu sắc và táo bạo!
Chúng ta sẽ chết khi tất cả còn nguyên vẹn
Sự sợ hãi khép nép trong khuôn khổ
Những vết dao nhấp nháy như hàm răng quỷ
Quyên sinh và tái tạo
Nụ hôn bị tống giam trong lồng kín
Luồng sáng cắt ngang bóng bù hông đen trắng phận người.
(Lê Đỗ Lan Anh – Vĩnh Long)
Bài thơ là cái nhìn chia sẻ đẫm nỗi bâng khuâng qua những lát cắt ghi hình để hiển lộ đặc thù khoảng cách của cuộc sống như nó vốn dĩ hiện hữu ngàn đời nơi xứ sở “nghìn lẻ một đêm”. Phía ấy là sự “huyền bí” đầy “bí ẩn” và chỉ có “gió say sưa kể nghìn lẻ chuyện tình”, “trên sa mạc”. Sự bao quát qua cái nhìn từ xa “hoàng hôn trên sa mạc/ bóng lạc đà nhấp nhô trên sóng cát”,“gió say sưa kể” đến thu hẹp về gần “thăm thăm thẳm ánh nhìn”. Điều đó cho thấy, bài thơ rất giàu chất điện ảnh. Điểm dừng nghỉ và nhấn nhá của bài thơ cũng là lúc ý thơ tụ lại ở chi tiết miêu tả đôi mắt “thăm thăm thẳm ánh nhìn”. Tụ mà trượt dài bởi ba chữ mang vóc dáng của từ láy ba đầy sáng tạo “thăm thăm thẳm”. Bình thường“thăm thẳm” đã là diệu vợi rồi, ở đây con chữ bung ra thêm một lần “thăm” nữa thì phải chăng tác giả muốn diễn tả điều chi đó sâu thẳm và miên viễn đến vô cùng? Cửa sổ tâm hồn ngàn năm “bí ẩn”. Đến câu cuối, ý thơ như giãy lên biểu tình làm cho tác giả đành phải buông ra một câu y hệt như tiếng thở dài chát chua xác nhận “Ngàn đời nỗi niềm em chất chứa lặng im…”. Ngàn đời lặng im nỗi niềm kia, dường như đã và đang được chất chứa trong ánh mắt thăm thẳm ấy, nghe sao mà ám ảnh! Rung lắc tâm can cũng chỉ đến thế là cùng! Bởi vậy cho nên, tác giả đã rất có lí khi viết “thăm thăm thẳm”. Lời thơ gợi tả. Giọng thơ lặng. Ý thơ mênh mang. Những nỗi niềm, những ẩn ức, những khát khao, những tâm tư, những chất chứa… đều chỉ có thể được nói lên bằng ánh mắt. Tưởng đóng lại tất cả nhưng tất cả lại như đang được mở ra đấy thôi! Ánh mắt “thăm thăm thẳm” đầy những dồn nén! Vây kín, bít bùng nhưng lại tràn ngập những năng lượng khao khát, tỏ bày. Là vẫn say sưa đó. Là vẫn mênh mông đó. Cực kì đặc thù của xứ sở “sóng cát/ sa mạc” và “lạc đà” đầy những “bí ẩn”, “huyền bí” và mênh mang…!
Huyền bí hoàng hôn trên sa mạc
Bóng lạc đà nhấp nhô sóng cát
Gió say sưa kể nghìn lẻ chuyện tình
Thăm thăm thẳm ánh nhìn
Dưới chiếc khăn trùm đen bí ẩn
Ngàn đời nỗi niềm em chất chứa lặng im…
(Chử Lê Hoàng Điệp – Kuwait)
Sự khắc khoải ríu chân người bởi thực tế đã hiện hữu chứ âu lo không còn xa vắng mơ hồ nữa. Mọi sự thay đổi đều để lại những ám ảnh hoặc vui hoặc buồn. Chuyển dịch nào không có những xa xôi lo lắng? Bài thơ “Bất chợt tháng Chạp diễm ảo trăng ngà” nói rất ấn tượng dòng suy nghĩ ấy. Người ở quê thì mong ngóng đoàn tụ. Tác giả khắc họa không gian lung linh “diễm ảo trăng ngà” khi “tháng chạp” về là có ý nhắc sự vẹn nguyên đẹp đẽ của lòng người là còn nguyên đó, phải chăng sự thủy chung đã và đang được kích hoạt? Nhưng “người mong ngóng, lá cuối chiều chợt rụng/ Bến sông trôi câu hẹn không về” thì thực tế ấy dẫn đến một nỗi lo lớn hơn “Bỏ lại quê nhà, những câu thơ Nguyễn Bính/ Thương hội làng còn ai nhặt tiếng mưa”! Sự khắc khoải âu lo vượt lên tầm thời cuộc, đâu chỉ nằm trong khoảng thở than nam nữ thường tình? Tác giả có cài đặt Nguyễn Bính vào bài thì phải chăng cũng là để vãi thêm một tí giống chênh vênh cho bài thơ khi gợi nhắc “nhiều em ra phố”? Bởi ở đó có tí chút bóng dáng nhân vật trữ tình của thi sĩ Nguyễn Bính: “Hôm qua em đi tỉnh về/ đợi em ở mãi con đê đầu làng” (Chân quê) để rồi cuối bài thơ bung tóe ra là một sự thật xót dạ “hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” (Chân quê) chăng? Ý thơ giãi bày sự lo lắng khi mà hiện giờ họ đang sống trong một sự tách bạch đến lạnh lùng “bỏ lại quê nhà, những câu thơ Nguyễn Bính” cũng có nghĩa rằng không còn cơ hội để quay về với “hội làng” với sinh hoạt văn hóa cội nguồn nên tâm tình bật ra, ngậm ngùi và xa xót “thương hội làng còn ai nhặt tiếng mưa”? Bài thơ lóng lánh như mưa xuân mà cũng đau đáu tâm tình như Nguyễn Bính. Giọng thơ da diết, khắc khoải. Ý thơ trĩu nặng tâm tư.
Bất chợt tháng Chạp diễm ảo trăng ngà
Người mong ngóng, lá cuối chiều chợt rụng
Bến sông trôi câu hẹn không về
Để mê mải giêng hai thật nhiều em ra phố
Bỏ lại quê nhà, những câu thơ Nguyễn Bính
Thương hội làng còn ai nhặt tiếng mưa.
(Võ Văn Trường – Quảng Nam)
Có thể xem bài thơ “Giữa bóng tối và ánh sáng” là tiếng nói phản biện cuộc đời về tình yêu ngồ ngộ được cất lên mạnh mẽ kiểu tương phản trong thơ nữ sĩ vùng cao nguyên đất đỏ Trần Nguyệt Ánh. Một cách nói ngược cực duyên. “Đàn ông nông nổi giếng khơi/ Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” (Ca dao). Có thể tác giả đã khai thác khá triệt để câu ca dao trên để làm chất liệu tạo tác nên bài thơ hay chỉ là sự nhập liệu có sẵn bởi trong tâm thức người giáo viên nữ sĩ ấy đã vốn ắp đầy kho tàng ca dao tục ngữ? Hiểu cách nào thì cũng đáng trân trọng cái nhìn na ná ngược sáng kia. Đôi lúc, trong cuộc sống cái ta thấy hiển nhiên mười mươi đúng lại chưa chắc đúng, cái ta thấy nó như vô lí ầm ầm thì hóa ra, có thể lại rất có lí. Ngạc nhiên ư? Cuộc sống vốn dĩ chứa đựng những điều ngạc nhiên mà. Ngạc nhiên để vỡ òa, ngạc nhiên để thổn thức, ngạc nhiên để tri ngộ, ngạc nhiên để tri giác… cũng đều là cần thiết cho cuộc sống cả. Bắt được cái mạch nguồn ấy, nữ sĩ phố núi đặt ra một sự chọn lựa ngay trong phần đầu bài thơ “giữa bóng tối và ánh sáng/ Em chọn lối nào cho chúng ta/ Để trái tim không bị tù đày”? Dĩ nhiên nhân vật trữ tình “em” sẽ chọn lối đi là “ánh sáng”. Đây cũng là sự lựa chọn phổ quát cho tất cả chúng ta. Chả ai dại gì đâm đầu vô chọn “bóng tối”. Phổ quát nên dĩ nhiên là thế, chắc chắn thế, bởi không thể khác. Nói gì nói, trong cuộc sống, nhất là tình duyên, thì “ánh sáng” luôn được ưu ái, luôn được đặt lên phía trên “bóng tối” kể cả xét ở nghĩa gốc lẫn nghĩa biểu tượng. Nhưng sau khi đã chọn “ánh sáng” rồi thì sao? “Ánh sáng kia làm mắt chói loà/ Không thấy đường đi khiến em vấp ngã”. Một sự thực đã xảy ra, “ánh sáng kia” quá gắt nên “làm mắt em chói lòa” chăng? Vấn đề cốt lõi cũng là chìa khóa ở đây được ẩn sau hai chữ “chói lòa”. Thế thì đâu phải “ánh sáng” nào cũng có thể dẫn đường cho ta bước tới, bước lên? “Ánh sáng” đó chẳng qua chỉ là sự chói ngợp nhất thời đã làm cho nhân vật trữ tình “em” loạng choạng, để rồi “không thấy đường đi khiến em vấp ngã”. Một cú “vấp ngã” xứng đáng được nêu lên như là bài học quý báu cho những ai mù mờ lao theo “ánh sáng” phù hoa dẫn lối. Bởi thế, ngay câu thơ cuối, xuất hiện với vai trò là để hà hơi, tiếp sức cho đoạn thơ, nó làm dịu đi sự “vấp ngã” đau đớn phía trên, bởi nó xác quyết một sự thật đáng trân trọng rằng “trong bóng tối, anh dẫn đường, tâm hồn được hồi sinh!”. Một sự nhấn mạnh cần thiết hỗ trợ đắc lực cho mệnh đề chọn lựa tưởng như đúng mà sai lầm phía trên. Lời thơ mang bóng dáng mệnh đề đảo đã được chứng minh. Đến đây “có anh dẫn đường” là có tình yêu, vì có anh là có hai ta, có hạnh phúc. Hạnh phúc mở đường dẫn lối là từ “anh”, bởi “anh” đã dám bước từ “trong bóng tối” bước ra. Đến đây, thấy lấp lánh vẻ đẹp của sự bao dung và độ lượng. Ý thơ tưởng ngược đấy, nhưng rồi lại đâu có ngược! Thơ nén lời, ý lùi lại như lấy đà, sau đó ý bung ra thật mạnh. Giọng thơ tự nhiên, đằm thắm giàu nữ tính và lấp lánh bài học hiện sinh.
Giữa bóng tối và ánh sáng 
Em chọn lối nào cho chúng ta
Để trái tim không bị tù đày
Ánh sáng kia làm mắt chói loà
Không thấy đường đi khiến em vấp ngã
Trong bóng tối, anh dẫn đường, tâm hồn được hồi sinh!
(Trần Nguyệt Ánh – Đăk Lăk)
Chất triết lí cuộc đời ăm ắp trong “Bạch liên rụng cánh để nhụy tươi” của tác giả Vũ Thanh Thủy. Từ thực tế bông sen tàn trong bình hoa để rồi tác giả như giúp ta liên tưởng đến sự hy sinh mà dồn chất cho những gì cần tồn tại “rụng cánh để nhụy tươi”. Và cái sự “rụng cánh” của hoa kia cũng được nhìn qua lăng kính lãng mạn vô cùng đẹp. Ấy là vẻ đẹp của sự hi sinh tôn nền tạo đà. Nhân hóa để lí giải điều chi “sen rùng mình trút giấc mùa thiên thần/ xuống mặt bàn loang ố”? Thì ra, sen tàn chứ đâu phải rã bỏ. “Trút giấc mùa thiên thần” của hoa sen qua một chút “rùng mình/ xuống mặt bàn loang ố” thì đủ thấy sự thay đổi luôn nằm trong chuỗi chủ ý lột mình. Chấp nhận cho cánh sen rơi “xuống mặt bàn loang ố” là cái nhìn chấp nhận sự chuyển hóa của quy luật vô thường. Một sự chuyển hóa giàu giá trị bản thể. Từ cánh sen đẹp, ngát hương tới mặt bàn loang ố là phải qua một giai đoạn “rùng mình” như “trút giấc”. Cái đẹp rơi xuống vẫn trong tư thế đẹp. Phía dưới “người châm trà” nhìn “bạch liên” (hoa sen trắng) bong rơi từng lớp đời tri kỉ là cái nhìn của tri âm Bá Nha Tử Kì. Để từ đó nâng lên một quan điểm nhân sinh sâu sắc “Thác về nơi hoa không được sinh ra/ Uống cả nỗi buồn tha hương chưa kịp tới”. Từ hình ảnh cánh sen tàn trên bình hoa mà tác giả đã nâng lên thành nỗi buồn quá lớn đối với kẻ tha hương. Quê nhà đăm đắm. Quê nhà diệu vợi. Quê nhà chất chứa. “Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nổi thành người” (Đỗ Trung Quân). Người tha hương tâm hồn luôn thăm thẳm? Ý thơ nặng. Lời thơ chan chứa. Giọng suy lắng giàu chất triết lí nhân sinh:
Bạch liên rụng cánh để nhụy tươi
Sen rùng mình trút giấc mùa thiên thần
Xuống mặt bàn loang ố
Người châm trà nhìn bạch liên bong từng lớp đời tri kỷ
Thác về nơi hoa không được sinh ra
Uống cả nỗi buồn tha hương chưa kịp tới
(Vũ Thanh Thủy – Phú Thọ)
Ngôn ngữ tình ái thời bốn chấm không nghe là lạ bởi sự cập nhật chêm xen ngôn ngữ hiện sinh vui tai “Order chiếc vé mùa xuân đêm khuya nghẽn mạng/ Em thả icon “thương thương” làm giấy thông hành”. Sự hân hoan reo mừng đến độ nhân vật trữ tình “em” như muốn đưa tay gom tất cả các biểu tượng yêu thương trên facebook mà “làm giấy thông hành” thương yêu cho mình. Bởi thế, bài thơ tràn ngập năng lượng yêu. Giọng thơ da diết nồng nàn…
Thi sĩ Trần Thanh Dũng gửi gắm suy tư về sự đổi mới thi ca vào bài thơ của mình bằng những chi tiết phát hiện ngồ ngộ để rồi tạo ra cái duyên lôi cuốn. Ngay câu đầu đã định danh sự việc rồi, ấy là chuyện “trang trí nội thất cao cấp cho một tòa thơ mới”. Đổi mới thơ hay làm mới cuộc đời bằng “tính từ sang trọng và ủy mị”, “kết thúc bằng tiết tấu đắm say của ngôn tình” nó như là lời xác nhận sự chú trọng thay đổi chạy theo hình thức bởi cả tin vào kiểu cách bay bướm và lả lướt. Một sự kích hoạt quá đáng cho con chữ nhảy lên, rốt cuộc điều ấy chỉ như một kiểu chú trọng thái quá, bởi thực tế cuộc sống và xã hội đón nhận sự đổi mới ấy chỉ là một sự trống vắng hẩm hiu“lâu rồi không ai đến thăm”. Chứng tỏ sự đổi mới kia, hay nói cho sang hơn thì sự cách tân kia đã hoàn toàn thất bại trong thực tế của đời người mất rồi. Câu thơ cứ như giãy đành đạch lên mà xác tín bằng cả yếu tố thời gian “lâu rồi” lẫn yếu tố phủ nhận “không có ai đến thăm”. Nhưng phía sau, đột ngột ý thơ đổi chiều, vài người khách lạ ghé thăm trên trang phục lễ nghi thì hẳn nhiên trong suy nghĩ, điều ấy có thể khiến người ta liên tưởng đến những người trong đội mai táng? Vì họ đến để đưa “tiễn chủ nhân về với trăm năm” (là vĩnh hằng) hoặc có thể đến là để đưa tiễn chủ nhân vào thế giới vĩnh cửu (là sống mãi)? Hiểu theo kiểu thứ nhất thì sự cách tân trên kia, cuối cùng chỉ là con số không tròn trịa – cách tân ấy đã chết! Nhưng nếu hiểu theo cách thứ hai, rằng “vài vị khách không mời, lễ phục” là những người đọc hết sức khách quan, họ đã rà được sóng và phát hiện ra sự đổi mới độc đáo ấy, nên họ lên tiếng đồng hành để có thể đẩy sự cách tân trên kia mà họ đã phát hiện ra, băng băng đến chỗ vĩnh cửu? Bài thơ hay ở chỗ nó đa nghĩa. Giọng thơ ngợi ca tự nhiên, tự do và tự tại. Ý thơ điềm đạm, lời thơ đĩnh đạc trong sự lắng suy giàu chiêm nghiệm:
trang trí nội thất cao cấp cho một tòa thơ mới
bắt đầu với những tính từ sang trọng và ủy mị
kết thúc bằng tiết tấu đắm say của ngôn tình
nhưng lâu rồi không có ai đến thăm
vài vị khách không mời, lễ phục
tiễn chủ nhân về với trăm năm?
(Trần Thanh Dũng – Sóc Trăng)
Thi phẩm “Xoay kim đồng hồ về chuyến tàu anh” của nữ sỹ Vũ Trần Anh Thư là một thông điệp tiếng lòng cuống quýt bởi vội vàng nhưng vẫn ắp đầy nữ tính. Tiếng yêu đến với nhân vật trữ tình nhanh quá “em bỏ quên tháng mười hai” vì với “em” chỉ có một hướng anh thôi “xoay kim đồng hồ về chuyến tàu anh”. Anh chở tình em là anh cũng đang chở tình mình. Hẳn nhiên thế thì sao không vồ vập? Tình yêu ấy làm con tim “em” cuống cuồng run lên như “trái tim tháng giêng lỗi nhịp”. Cách nói trong tình yêu mới lạ và “độc quyền” thì làm sao mà “em” không “gỡ đúp tờ lịch” (là mong muốn cho thời gian đi nhanh hơn chăng?), rồi hào hứng mà “nhân đôi ban mai xanh” (là mong muốn hy vọng tươi vui cùng anh nhiều hơn nữa chăng?). Câu thơ cuống cuồng toan gấp đôi lại là cốt diễn tả ý thơ như được nhân hai hạnh phúc lên. Tình cảm dâng trào, sóng tình lan tỏa. Vui tươi, ngập tràn yêu thương và ngân nga luyến ái đầy ắp trong những chi tiết “gỡ đúp tờ lịch. Nhân đôi ban mai xanh”. Ngôn ngữ tình ái thời bốn chấm không nghe là lạ bởi sự cập nhật chêm xen ngôn ngữ hiện sinh vui tai “Order chiếc vé mùa xuân đêm khuya nghẽn mạng/ Em thả icon “thương thương” làm giấy thông hành”. Sự hân hoan reo mừng đến độ nhân vật trữ tình “em” như muốn đưa tay gom tất cả các biểu tượng yêu thương trên facebook mà “làm giấy thông hành” thương yêu cho mình. Bởi thế, bài thơ tràn ngập năng lượng yêu. Giọng thơ da diết nồng nàn. Lời thơ quấn quýt mượt mà, êm ái. Hai chữ tình yêu dường như được tô đậm độc đáo rõ nét hơn. Độc giả dường như cũng “ngộp thở” theo nhịp thơ tình nhanh, vội vàng và đáng yêu của bài thơ:
Xoay kim đồng hồ về chuyến tàu anh
Em bỏ quên tháng mười hai
Trái tim tháng giêng lỗi nhịp
 
Gỡ đúp tờ lịch. Nhân đôi ban mai xanh
Order chiếc vé mùa xuân đêm khuya nghẽn mạng
Em thả icon “thương thương” làm giấy thông hành.
(Vũ Trần Anh Thư – Hà Nội)
Một sự mường tượng khá độc đáo ăm ắp chất siêu thực, nhìn trời mưa sấm chớp mà liên tưởng đến sự hoài thai và ra đời của những sinh linh bé nhỏ của tác giả Lê Hải Kỳ. Do vậy, câu thơ đầu đã là sự lạ hóa “chiều nay trời ốm nghén”. Hàng loạt câu chữ nhân cách hóa “trời ốm nghén”, “ậm ọe”, “rưng rưng”, “ươm ti tỉ bào thai” phía sau nhấn nhá cái sự lạ trên kia để tiếp nối và bung tỏa. Những câu thơ chớp giật như trời đông chớp giật. Sau đùng đoàng là dịu êm sinh thành. Chất triết lí hòa vào sự lắng suy. Bài thơ giàu thi ảnh “trời ốm nghén”, “ậm ọe tím hoàng hôn”, “giọt đọa đày rưng rưng lã chã”, “căng tròn”, “ươm ti tỉ bào thai”, “sinh linh mang hình hài”, “trong đêm chớp giật”. Đích thị bài thơ miêu tả sự giao thoa đất trời trong cái nhìn phồn thực. Siêu thực hổn hển mà gợi hiện thực bừng giác. Bài thơ thấm đẫm chất tôn giáo phục sinh, nghe như vang ngân rền rền lời của “thượng đế giảng chân lí”, rằng trong muôn có một, trong một có vô cùng, trong ta có thượng đế vậy. Nhịp thơ chắc, lời thơ sắc, ý thơ bện xoắn lại, gọn mà lắng suy giàu chiêm nghiệm. Âm cuối câu kết là âm đóng khép gợi sự chắt lắng và suy tư.
Chiều nay trời ốm nghén
Ậm oẹ tím hoàng hôn
Những giọt đoạ đày rưng rưng lã chã
Trái đất căng tròn ươm ti tỉ bào thai
Mỗi sinh linh mang một hình hài duy nhất
Mẹ sinh tôi trong đêm chớp giật.
(Lê Hải Kỳ)
Văn hóa làng xã, nét đẹp sinh hoạt, tín ngưỡng miền quê đã được tác giả Đinh Hạ ghi lại trong bài thơ “Phảng phất từ đường hương khói bóng cổ nhân” như thổi được hồn quê vào từng câu chữ đã làm cho độc giả không khỏi nôn nao nhớ. Ở đó có sự nghiêm cẩn thành kính trang trọng và ấm cúng “phảng phất từ đường hương khói bóng cổ nhân”. Ở đó có cái tình quê dạt dào thắm thiết mà trong ngần “người om tình quê trong bát nước chè xanh sóng sánh”. Từ láy “sóng sánh” đặt đúng chỗ nên phát huy tối đa sức diễn ngôn, nó sống động hơn bởi chất an nhiên tự tại hiền hòa bung tỏa. Sự chuyển đổi cảm giác từ âm thanh (tiếng con sáo gù) sang cảm nhận (mát rượi) và có pha chút màu sắc (bóng lũy tre xanh) tạo nên một miền quê êm ả an bình. Ba câu sau điệp ngữ xuất hiện “bóng cha tôi…/ bóng ông bà tôi…/ bóng mảnh hồn làng…” thì rõ ràng kí ức đã như sống lại qua lần chắt nhớ. Phía trên “bóng cổ nhân” gắn chặt với ngôi “từ đường” tỏa xuống phía dưới để phủ trùm lên cả hiệu ứng hiện thực hóa từ con người “om tình quê trong bát nước chè sóng ánh” đến thiên nhiên trong lành “tiếng con sáo gù mát rượi bóng lũy tre xanh”, lẫn hiệu ứng “chập chờn trong kí ức nhớ quên”. Kiểu gợi tả cộng hưởng thực ảo đan cài rất ấn tượng trong việc vẽ nên hồn cốt hương quê. “Từ đường” là nơi thờ phượng tiên tổ thiêng liêng, là nơi tụ về linh khí dòng họ và bản quán. Phía trên là “phảng phất” thì phía dưới là “chập chờn”, trên hô dưới ứng nhịp nhàng, đã tạo ra một không khí linh thiêng cho bài thơ. Lời thơ ngọt. Ý thơ tri ân (với tiên tổ, cội nguồn), tri ngộ (với mình), tri giác (với thiên nhiên, văn hóa). Nói thế để thấy, bài thơ như một bức tranh vẽ phong cảnh thiên nhiên và hồn quê đậm sắc thái văn hóa quê hương Việt Nam êm đềm và trong lành.
Phảng phất từ đường hương khói bóng cổ nhân
Người om tình quê trong bát nước chè sóng sánh
Tiếng con sáo gù mát rượi bóng lũy tre xanh
Bóng cha tôi vê điếu thuốc lào rít vào tĩnh mịch
Bóng ông bà tôi bỏm bẻm nhai trầu nhân duyên thắm đỏ
Bóng mảnh hồn làng chập chờn trong kí ức nhớ quên
(Đinh Hạ – Nghệ An)
Một bài thơ tình nhẹ nhàng êm đềm như rải êm mùa vụ của nữ sỹ Huỳnh Thị Quỳnh Nga toát lên từ câu chữ ngọt ngào nữ tính và tỏa thơm hương con gái. Bắt đầu là cái lạ “những bình minh dịu dàng tỏa hương” để rồi “lấp lánh mầu hướng dương ngược nắng!” rất duyên thì lẽ đương nhiên bên trong bài thơ là cả một sơ ri những thi ảnh lóng lánh xuân thì “mùa xuân về”, “thơm lên những sợi tóc mây”, “xanh trong những đôi mắt vui”, “môi em những đóa mặt trời”… Cho nên có thể nói đây là bài thơ tình bộc bạch tiếng nói nữ tính hấp dẫn và ăm ắp tình tứ. Ba dòng thơ đầu là sự gợi tả ấn tượng vẻ đẹp thanh thoát tràn trề sức xuân. Sự hấp dẫn đã xuất hiện ngay câu đầu “những bình minh dịu dàng tỏa hương” (là cái đang có), kế tiếp là hình ảnh xác nhận trạng thái “mùa xuân về từ hôm trước” (là cái đã có) nó làm nền cho sự khẳng định “còn thơm lên những sợi tóc mây” (là cái sẽ còn mãi). Một sự nhịp nhàng khai triển gần như hoàn hảo. Em đến, anh đến, và tình ta đã đến, dư âm tình yêu tất yếu sẽ đến, miên viễn. Thơ vừa có chút ôm ấp, vừa có chút giãi bày. Tình yêu ấy sẽ ngân lên “xanh trong những đôi mắt vui” là hiển nhiên; “môi em hay những đóa mặt trời” bỏng cháy và hừng hực những khao khát là tất yếu. Để rồi cuối cùng mọi sự hấp dẫn tụ lại ở thi ảnh hứa hẹn bao nhiêu những dồn chứa khát khao “lấp lánh mầu hướng dương ngược nắng”.
Những bình minh dịu dàng toả hương
Mùa xuân về từ hôm trước
Còn thơm lên những sợi tóc mây
Và xanh trong những đôi mắt vui
Môi em hay những đoá mặt trời
Lấp lánh mầu hướng dương ngược nắng!
(Huỳnh Thị Quỳnh Nga – Tiền Giang)
Hai câu thơ liên tục xuất hiện dấu chấm giữa dòng như cố tình bẻ đôi ý thơ trong một thế tạo điểm nhấn ngữ cảnh ấn tượng “Tiếng người mòn mỏi gọi thiên nhiên. Chắt chiu đời yến/ Trùng khơi vọng sóng. Vọng thanh bình ríu rít, líu lo”. Rõ ràng, sự xác quyết “tiếng chim nhân tạo gọi bầy” phía trên có chủ ý nhấn mạnh thì phải chăng ý thơ đã có sự nhấn nhá so sánh ngầm giữa “nhân tạo” và “thiên nhiên”? Ý thơ chằng níu nhau gợi tả thật lạ, trong khi “tiếng người mòn mỏi gọi thiên nhiên” để “chắt chiu đời yến” thì âm thanh từ “tiếng chim nhân tạo gọi bầy” bung ra ám gợi “trùng khơi vọng sóng” cũng là tạo dư ba “vọng thanh bình ríu rít líu lo” đó thôi. Thành thử, yếu tố “nhân tạo” kia mở ra cả một thế giới thanh âm cuộc sống “thanh bình” từ những tiếng “ríu rít líu lo”. Sự liên tưởng co giãn biên độ không thể không tác động đến âm vang xúc cảm. Câu chữ đã chắt lọc ra những thi ảnh ám tượng. Nhưng đấy chỉ mới là bước tạo đà, sự bung tỏa thật sự đến là ở phía sau. Một câu hỏi xuất hiện đúng chỗ âu cũng nhằm thể hiện nội dung chủ đề day dứt “có ríu ran nào tương tự để con tim giục giã bầy đàn/ Tha thiết triền miên, đúng giờ, không gian dối/ Vỗ về hoang phế những miền đau”? Hóa ra, vấn đề cốt lõi vẫn là con người. Con người nghĩ ra được nhiều thứ, trong đó có “tiếng chim nhân tạo gọi bầy” thì có thể nào con người lại chẳng nghĩ thêm được “có ríu ran nào tương tự” để rồi thâm nhập vào “con tim” “giục giã”, “tha thiết” nhằm “vỗ về hoang phế những miền đau” của chính con người? Ao ước nhân văn vút lên nâng tầm giá trị cho bài thơ. Sự trăn trở ấy vì con người nên không thể ta không trân trọng. Do vậy, “tiếng chim nhân tạo gọi bầy” chỉ là cái cớ cho tác giả giãi bày những ưu tư trở trăn về cuộc sống con người. Bài thơ trầm vọng mà âm ba triết luận. Nhịp chậm, giọng trầm mang màu sắc chất vấn gửi gắm thông điệp khát khao giải tỏa “vỗ về hoang phế những miền đau” của cuộc người. Bởi thế, bài thơ là nỗi niềm cuộc đời lấp lánh giá trị nhân văn cao quý.
Tiếng chim nhân tạo gọi bầy
Tiếng người mòn mỏi gọi thiên nhiên. Chắt chiu đời yến
Trùng khơi vọng sóng. Vọng thanh bình ríu rít, líu lo
Có ríu ran nào tương tự để con tim giục giã bầy đàn
Tha thiết triền miên, đúng giờ, không gian dối
Vỗ về hoang phế những miền đau
(Huỳnh Thanh Liêm – Khánh Hòa)
Doãn Minh Trịnh đĩnh đạc vẽ sự từng trải lên trang giấy “Âm thầm nhặt lại ngày tháng bình yên”. Tiếng thơ đằm dịu nhưng phải đầy bản lĩnh mới có thể “âm thầm nhặt lại ngày tháng bình yên” bình thản như vậy được. Sự lặng lẽ ấy đặt trong một nhân vật trữ tình hiểu đời nên ý thơ diễn tả rất ấn tượng sự linh hoạt cuộc đời nhi nhiên tự tại “mưa xoá nhoà bước chân mê mải/ chuyển nỗi buồn không tên ra dòng sông phía ấy”.
Doãn Minh Trịnh đĩnh đạc vẽ sự từng trải lên trang giấy “Âm thầm nhặt lại ngày tháng bình yên”. Tiếng thơ đằm dịu nhưng phải đầy bản lĩnh mới có thể “âm thầm nhặt lại ngày tháng bình yên” bình thản như vậy được. Sự lặng lẽ ấy đặt trong một nhân vật trữ tình hiểu đời nên ý thơ diễn tả rất ấn tượng sự linh hoạt cuộc đời nhi nhiên tự tại “mưa xoá nhoà bước chân mê mải/ chuyển nỗi buồn không tên ra dòng sông phía ấy”. Chuyện “nỗi buồn không tên” trong cuộc đời thì nhiều vô kể. Nhân vật trữ tình ở đây đã rất khéo léo trong việc sắp xếp lại những mảng vỉa cuộc sống trong câu chữ. Bởi thế chúng tôi có cảm tưởng rằng, nhân vật ấy không bị những thứ “buồn không tên” trong cuộc đời kéo đi, mà trái lại nhân vật trữ tình dường như đã sống và mượn chính thực thể ấy cuốn đi những “nỗi buồn không tên” tựa một thứ lực đẩy là phải chăng ý thơ muốn diễn đạt một sự vượt lên hoàn cảnh độc đáo cho riêng mình?
Song, dư âm thì vẫn không thể không buồn “vẻ kiêu hãnh chỉ là dấu vết/ ký ức sẫm màu sẽ lãng quên”. Ai quên? Ta quên ký ức hay ký ức quên ta? Có lẽ cả hai. Bước đi của thời gian có thể xóa hết đi mọi thứ, kể cả “nỗi buồn” và lòng “kiêu hãnh”. Chi tiết “ngày tháng” điệp lại ở câu cuối là có ý đồ hô ứng với câu thơ đầu, phía trên là “âm thầm nhặt lại ngày tháng bình yên” để tích cóp tạo đà cho hy vọng mọc mầm “ngày tháng trải dài đánh thức niềm tin”. Lòng kiên nhẫn và sự từng trải đã mang đến cho con người những năng lượng tích cực. Hy vọng đã hé ra và nhất định sẽ bật mầm lên xanh thôi. Thông điệp ấy quả là đáng trân trọng. Giọng thơ lắng suy chậm rãi, phảng phất sự tự tin của nỗi lòng từng trải; nhịp chậm mà chắc, ý thơ khoan nhặt pha chút khuếch đại hiệu ứng niềm tin, đong đưa dặt dìu phảng phất sự lịch thiệp:
Âm thầm nhặt lại ngày tháng bình yên
Mưa xoá nhoà bước chân mê mải
Chuyển nỗi buồn không tên ra dòng sông phía ấy
Vẻ kiêu hãnh chỉ là dấu vết
Ký ức sẫm màu sẽ lãng quên
Ngày tháng trải dài đánh thức niềm tin.
(Doãn Minh Trịnh – Sài Gòn)
Chúng tôi có cảm giác sự cô đơn đã được tác giả bài thơ “Phố biết nép vào ai đi hết mùa đông lạnh” cô lại cho thật đậm đặc. Ba câu hỏi liên tục xuất hiện ngay từ đầu bài thơ, chiếm tới năm mươi phần trăm dung lượng cả bài. Điều đó cho thấy tác giả dường như cố tình ghim những thắc mắc quá lớn ấy vào trong bài thơ ngay sau khi câu chữ xuất hiện. Cặp nhân vật sóng đôi “em” và “phố” tương hỗ cho nhau khá nhịp nhàng. Hình tượng “phố” được nhân cách hóa lên, một mặt khắc họa “phố” như cũng có tâm trạng rồi tạo đà lấy hình ảnh “phố” làm điểm so sánh để nhấn mạnh sự khắc khoải, đau khổ cho nhân vật trữ tình “em”. Cảm giác “chông chênh”, sự giày vò của nỗi nhớ còn hơn cả “mùa đông lạnh” đang thẩm thấu vào từng con phố kia. Biết rằng “phố” cũng cô đơn “phố biết nép vào ai đi hết mùa đông lạnh” nhưng “em” còn cô đơn hơn khi “em” rơi vào hoàn cảnh rất đặc biệt: nỗi nhớ đẫm đặc trong một sự cô đơn cũng đẫm đặc. Cho nên ý thơ thổ lộ rất ít hy vọng “em biết tựa hướng nào để khỏi những chông chênh”, lời thơ bồi tiếp ý thơ mịt mờ càng làm cho đường đi trái tim “em” thêm mờ mịt “biết rẽ lối nào để nỗi nhớ nguôi quên” thì “chông chênh” ấy lại càng “chông chênh” hơn bởi sự đơn phương như được đẩy vào tận cùng của cái sự thể chưa định hướng và đẫm đặc những chao đảo bấp bênh kia.
Nghệ thuật đòn bẩy lấy “phố” để thể hiện “em” nên “phố” là cái cớ cho “em” bộc bạch. Tới đoạn cuối thì nghệ thuật lách sang biện pháp so sánh khá rõ giữa cảnh “bầy chim di cư về phương nam tránh rét” còn nhân vật “em” thì vẫn “chẳng biết di trú nơi đâu cho ấm lại lòng mình”. Cô đơn kinh khủng. Giá lạnh thật rồi khi nghệ thuật điệp cấu trúc lên tiếng. Không anh, “em” quay đi đâu cũng chỉ thấy giá băng và đơn độc. Tâm trạng ấy sao tránh khỏi sự thể “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Bởi thế cho nên “phố run rẩy từng hồi, em buốt giá từng cơn” là phải thôi. Những câu thơ đã được trùm phủ hoàn toàn bằng tấm voan tâm trạng “run rẩy” và “buốt giá”. Một bài thơ đẫm đặc nỗi buồn được vẽ ra từ một tâm trạng cô đơn giá buốt. Đẩy đến tận cùng của sự cô đơn để thấy tiếng nói khát khao yêu thương đó thôi, nó như một thông điệp ngầm gửi rằng chỉ có anh – phương anh – mới là nơi có thể làm cho con tim em ấm nhất! Vắng anh, thiếu anh đời em như chỉ còn lại một chuỗi băng giá đơn độc và âu đó cũng là lời khẳng định ngầm của câu chung thủy mà đích bài thơ muốn hướng tới!? Lời thơ nhẹ nhàng, giọng điệu da diết, khắc khoải mà nồng nàn:
Phố biết nép vào ai đi hết mùa đông lạnh?
Em biết tựa hướng nào để khỏi những chông chênh?
Em biết rẽ lối nào để nỗi nhớ nguôi quên?
Bầy chim di cư về phương nam tránh rét
Em chẳng biết di trú nơi đâu cho ấm lại lòng mình
Phố run rẩy từng hồi, em buốt giá từng cơn
(Nguyễn Minh Ngọc Hà – Bình Dương)
Sự thủy chung và tấm lòng vị tha cao vời từ nhân vật “anh” nghe sao là lạ mà thấm thía. Mưa dầm gió bấc có là gì khi lòng anh đã hướng về em “anh đến tìm em ngày mưa dầm gió bấc”. Mọi sự khó khăn cản trở đến từ thiên nhiên anh đã đạp bằng, nhưng thật trớ trêu “gặp em đang cố xóa dấu chân từng nhẵn cổng nhẵn hè/ xóa tiếng từ quy khắc khoải…”. Điều đó chứng tỏ nhân vật “em” đang cố tình lảng tránh nhân vật “anh”? Dấu chân “từng nhẵn cổng nhẵn hè” thì có thể xóa được chứ “tiếng chim từ quy khắc khoải” thì làm sao “em” có thể xóa được hỡi “em”? Lời thơ mang dáng vẻ chất vấn và ẩn chứa sắc màu đau khổ. Là bởi, “tiếng từ quy khắc khoải” đã như là tiếng lòng “anh”, nó ngấm vào tâm can mất rồi, nó dẫn “anh” đến với “em” bất kể trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt như nào! “Yêu nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua” (Ca dao) nữa là “mưa dầm gió bấc”? Tại sao “em” lại cố tình xóa đi những ngày tháng êm đềm, tiếng lòng chúng ta đã theo nhau? Trước đây đã khắc khoải giờ thì càng thêm khắc khoải. Ý thơ chông chênh nhưng không hề để lộ sự đổ vỡ, suy sụp dẫu đang sùm sụp những đau buồn. Do đó, ý thơ vẫn lanh lảnh cất lên lời tâm tình “lòng anh là khúc củi tươi” sao “em lạnh lùng ném vào bếp lửa”? Tự “em” đang cố tình quên hay “em” đang có một uẩn khúc chi đó khó nói ra? Câu cuối vỡ òa mọi nhẽ “khúc củi không đau sao mắt em cay?” Cuối cùng “mắt em cay” là do đâu, do “khúc củi tươi” tạo khói hay do tự trong lòng “em” òa khóc? Cái khéo léo câu chữ là nằm ở chỗ này.
Người con trai đã chấp nhận tất cả trên tinh thần vị tha và tôn trọng. Một sự chấp nhận có phần thiệt thòi “lòng anh là khúc củi tươi”. Củi tươi là củi vừa bị đốn hạ, chưa có giá trị nấu nướng tạo lửa. Bởi thế, nhân vật “anh” cảm thán như vậy khi đã lờ mờ đoán ra tất cả chăng? Một khi “em” đã cố tình xóa đi “dấu chân từng nhẵn cổng nhẵn hè” (là dấu tích cho sự kiên nhẫn đeo đuổi “em”), rồi “em” đang tâm muốn xóa cả “tiếng từ quy khắc khoải” thì còn gì để mà mong ước nữa? Nên hình ảnh “lòng anh là khúc củi tươi” buông ra lúc ấy như một tiếng thở dài đầy ngậm ngùi chua chát. Nó như là tiếng nói chấp nhận sự thật trong đau khổ, một sự đau khổ đang được kìm nén đến vô cùng. Nhưng, lại vẫn nhưng, trong khi trước đó “em lạnh lùng ném (khúc củi tươi) vào bếp lửa” mà “khúc củi không đau sao mắt em cay” là sao vậy hả “em”? Trong vùi dập, tình người trỗi dậy hay em đang phải làm theo một điều gì đó bên ngoài tâm can mình? Một bài thơ như cố xổ tung ra những mâu thuẫn chằng chéo trong mối quan hệ luyến ái nam nữ rất thú vị. Đọc lên có vị cay chua và sự nhùng nhằng chất vấn âu cũng là muốn để cho tâm can và cái đẹp nhân văn hiển lộ. Cho nên có thể nói sự chất vấn ấy còn ẩn chứa cả những hy vọng. Hy vọng chắp nối khi bừng ngộ. Lời thơ gợi tả, ý thơ chứa đựng những mâu thuẫn dồn ứ nhưng vẫn chấp chới hy vọng để chia sẻ và thấu hiểu. Quý thay!
Anh đến tìm em ngày mưa dầm gió bấc
Gặp em đang cố xóa dấu chân từng nhẵn cổng nhẵn hè
Xóa tiếng từ quy khắc khoải…
 
Lòng anh là khúc củi tươi
Em lạnh lùng ném vào bếp lửa
Khúc củi không đau sao mắt em cay?…
(Đoàn Hữu Nam – Lào Cai)
Cái thực và cái ảo hòa trộn đến khó nhận ra được đặt trong một sự thế đối lập đan cài để nhận diện mạch ngầm của tình yêu lứa đôi rạo rực. Bề ngoài tưởng rằng bài thơ chỉ là tả cảnh giao mùa chuyển dịch tinh tế giữa mùa đông lạnh sang mùa xuân ấm nhưng bên trong lời miêu tả sự chuyển dịch ấy lại là sự biến đổi vi tế trong tâm hồn tình cảm riêng tư của con người. Tình cảm tự thân nó đến nhanh lắm, nhanh đến ngỡ ngàng “có người chưa kịp quàng khăn sau bản tin thời tiết”. Điều đó đẩy nhân vật trữ tình lên một tâm thức mới vừa “mong manh suối Ngọc” lại như vừa “thung lũng êm trôi”. Rõ ràng đó là hai góc độ trạng thái tình cảm khi yêu.
Tiếng sét ái tình đã nổ ra thật rồi. Hình ảnh “thôi miên bờ vai” là lạ gợi cảm giác ôm ấp vỗ về, tâm thức ấy càng ngún sâu vào trạng thái mơ hồ dịu ngọt “lặng yên ngưng kỳ gió trở”. Dấu chấm chuyển ý chuyển mùa chuyển tâm trạng đặt vào giữa câu xuất hiện đột ngột nhưng lại nghe rất ngọt. Một sự xáo trộn duềnh lên chút đỉnh mang tâm trạng ngọt ngào dẫn dụ thì sao tránh khỏi mê đắm? Một sự lan tỏa theo cảm xúc tình yêu y như kiểu thẩm thấu của sự chuyển mùa mê hoặc “mùa lặng yên ngưng kỳ gió trở”. Từ chỗ ảo diệu ấy, ý thơ lại nhảy vút ra cái hiện thực “tựa vào đông” để rồi lập tức liền phía sau là cái ảo diệu vi tế xuất hiện ngay “nàng nghe thầm thì mạch xuân dâng lên từ lòng đất”. Phải chăng đó là tiếng thì thầm của tình yêu đôi lứa bật khởi lên từ trong thăm thẳm lòng người? Từ đó, ta như đang nghe thấy cả sự tươi ròng mùa hoan ái dấu yêu “trổ vào mùa những rạo rực xanh non”. Giọng thơ hào hển hứa hẹn đầy những hổn hển, âm thầm mà vun vút, êm đềm mà “rạo rực xanh non”:
Có người chưa kịp quàng khăn sau bản tin thời tiết
Mong manh suối Ngọc thung lũng êm trôi
Thôi miên bờ vai. Mùa lặng yên ngưng kỳ gió trở
Tựa vào đông
Nàng nghe thầm thì mạch xuân dâng lên từ lòng đất
Trổ vào mùa những rạo rực xanh non.
(Vũ Trần Anh Thư)
Một Lê Đỗ Lan Anh vẫn đậm đặc chất siêu thực trong hồn cốt thơ 1-2-3. Thế giới loài người được tác giả đặt vào cái nhìn ngược “đi qua vùng xác sống tìm một sự chết” thật lạ, lúc ấy “mùi xác sống” sẽ dậy lên trên một “chính kịch của thể người”. Kịch bản về con người được đặt lên bàn tư duy nghiền ngẫm…
Một Lê Đỗ Lan Anh vẫn đậm đặc chất siêu thực trong hồn cốt thơ 1-2-3. Thế giới loài người được tác giả đặt vào cái nhìn ngược “đi qua vùng xác sống tìm một sự chết” thật lạ, lúc ấy “mùi xác sống” sẽ dậy lên trên một “chính kịch của thể người”. Kịch bản về con người được đặt lên bàn tư duy nghiền ngẫm. Để từ đó tác giả phát hiện ra những điều dường như vô lí mà hiện hữu “phát tán sự bạo tàn để tạo lòng thương hại/ thổi phồng lòng dũng cảm để lấp sự nhút nhát”. Một kết cục mở ra “và vì thế máu luôn đóng băng trên họng súng”. Hình ảnh “máu đóng băng trên họng súng” là hình ảnh biểu tượng độc đáo nhằm giải thích cho những hành vi dối lừa ghê gớm. Ở đó còn thấy cả bóng dáng của sự đánh đồng về các cuộc chiến tranh để rồi lắc lư uốn éo mà thoát xác kiểu ngụy biện trá hình: Rằng mọi cuộc chiến tranh đều là chết chóc, đau thương! Sự khẳng định đầy những mưu đồ theo kiểu tư duy lập lờ ấy rồi sẽ dẫn đến một hệ quả khác, kinh khủng hơn “trong ngân hàng chất đầy vàng và mùi xác sống”. Ồ, hóa ra sự sống trong cam phận tủi hèn chỉ đáng được nhìn như một kiểu sống mà như chết đẫm “mùi xác sống” ứ tràn trong ngân hàng đó thôi ư!? Lê Đỗ Lan Anh nhìn và nói về thời cuộc bằng con mắt riêng của chị nên cách diễn ngôn của chị lạ, siêu thực tượng trưng ắp đầy sự trừu tượng khó hiểu. Thành thử thơ Lê Đỗ Lan Anh kén độc giả. Song, một khi ta mở khóa được những ẩn ý trong thơ chị thì sẽ thấy có nhiều điều thật thú vị. Kiểu sử dụng hình ảnh tương phản trong biện pháp đối lập (vùng xác sống >< một sự chết, bạo tàn>< lương thiện, dũng cảm>< nhút nhát) cũng là một kiểu kê khăng cho ý thơ ào ạt bay ra. Giọng thơ trầm mà không lạnh, chậm và đẫm đặc sự suy nghiệm. Đọc bài thơ chúng tôi giật mình, hóa ra xung quanh đầy những “xác sống” mà chúng ta lại cứ phải đi tìm “một sự chết” là sao nhỉ?
Đi qua vùng xác sống tìm một sự chết
Trong chính kịch của thể người
Phát tán sự bạo tàn để tạo lòng lương thiện
Thổi phồng lòng dũng cảm để lấp sự nhút nhát
Và vì thế máu luôn đóng băng trên họng súng
Trong ngân hàng chất đầy vàng và mùi xác sống
(Lê Đỗ Lan Anh)
Một bài thơ đung đưa, đẫm mơ hồ và giàu sức gợi. “Người đàn bà đo đêm” là bởi “kéo những sợi tơ lòng rích rắc (dích dắc chăng?)” nhưng cuối cùng thì “đêm” lại bị “vỡ” ra. Một sự nén căng cảm xúc đầy ẩn ý. “Đo đêm” mà hình như đang bị… đêm đo lại. Do vậy, cụm động từ “đo đêm” chỉ là cái cớ để “người đàn bà” kia bộc bạch tâm sự. Dường như có bao nhiêu dồn nén chất chứa phía bên trong hai chữ “đo đêm”. Điều ấy cũng đúng thôi, là bởi chỉ ở cái không gian ấy, đêm tối với mình thì “người đàn bà” mới có thể đủ sức, đủ điều kiện để “kéo những sợi tơ lòng rích rắc” riêng tư? Bản thân nhân vật trữ tình là “người đàn bà” kia hiểu hơn ai hết về sự “rích rắc” trong lòng mình. Nhưng đêm thì hình như không đủ lớn để chị trải lòng mình ra, thành thử “đêm” đã “vỡ” mất đi rồi! Hình ảnh “đêm vỡ” hệt một gợi ý y như sự tất yếu vượt thoát đang được ngôn ngữ cài cắm? Tâm sự nhân vật trữ tình cứ chật căng lên sau hai chữ “đêm vỡ”. Ý thơ kéo ra vô cùng. Miên man và khắc khoải. Vô cùng để rồi chuyển hóa. Sự chuyển dịch của thời gian tự nhiên nghe sao êm đềm quá “con se sẻ nép lòng trên cây ngủ”. Không gian, với “người đàn bà” lúc ấy thì chỉ như một sự mệt mỏi cần nghỉ ngơi nên ý thơ mới buông ra một hình ảnh là lạ “mặt trời chợp mắt”? Để rồi, bài thơ khép lại mà cũng như mở ra mênh mang đầy những ngậm ngùi “Người đàn bà bên bậu cửa trầm ngâm”. Đêm hết nhưng dòng chảy tâm trạng thì như còn miên viễn. Bởi thế, tác giả cố tình đặt nhân vật trữ tình của mình vào tình cảnh gần như là sự ngược sáng, có chi đó trái với quy luật thời gian không gian là phải chăng cũng chỉ để muốn diễn giải thế giới nội tâm vô cùng rắc rối và phức tạp của con người? Ai trong chúng ta lại chẳng có những lần rắc rối kỳ lạ như vậy!? Hình ảnh “người đàn bà bên bậu cửa trầm ngâm” vừa như tạm dừng lại một hành trình nào đó, vừa như đang tiếp nối những dằng dặc miên man. Ý thơ gợi ra bóng dáng một thân phận, một cuộc đời đầy những bập bềnh âu lo. Nhịp thơ chậm, giọng phảng phất sự day dứt mang âm hưởng buồn. Gợi bao nhiêu những cảm thông trắc ẩn! Một giọng thơ lạ hứa hẹn điều gì đó đang còn ở phía trước chăng?
Người đàn bà đo đêm
Kéo những sợi tơ lòng rích rắc
Đêm vỡ
Con se sẻ nép lòng trên cây ngủ
Mặt trời chợp mắt
Người đàn bà bên bậu cửa trầm ngâm
(Anh Dũng)
Một sự chia sẻ, tiếng nói cất lên tự trong tim với bạn với em với chị… chân thật, xúc động. Sự chia sẻ chân thật xúc động ấy có sức mạnh và năng lượng tích cực cực kì lớn, nó giúp cho người được chia sẻ, một sự an ủi đúng lúc kịp thời vì tấm lòng chân thành. Thoạt đầu, nhân vật trữ tình đã tự đặt mình vào vị trí khó khăn của “bạn” để tâm sự “Mình cùng nhau vượt qua khó khăn bạn nhé”. Lời thơ nhỏ nhẹ nhưng hứa hẹn sự sẻ chia. Có thể đấy chỉ là cách nói, nhưng cách nói ấy có cái bắt tay, có cái nhìn đồng cảm, có cái san sẻ thực lòng. Phải hiểu “bạn” như thế nào đó thì nhân vật trữ tình mới có thể buông ra lời đồng cảm tự nhiên như vậy được “mình cùng nhau vượt qua khó khăn bạn nhé”. Thán từ “nhé” phía sau câu thơ có sức mạnh của sự trợ giúp thực lòng. Chao ôi, bằng hữu xưa nay đứng trước thử thách khó khăn chi đó của cuộc sống, chúng tôi thiết nghĩ sự chia sẻ chắc cũng chỉ cần đến vậy. Do thế, những câu thơ phía sau là một chuỗi gắn kết của sự hiểu. Hiểu mình, hiểu bạn mới có thể chân tình và tha thiết “hãy kiên cường vì cha mẹ vì con”. Kiên cường cho mình thì còn có thể do dự, nhưng “hãy kiên cường” vì người thân ruột rà máu mủ (là “cha mẹ”, là “con”) thì sự động viên kia sẽ tiếp thêm sức mạnh, một sự hà hơi tiếp sức kề vai thổi bùng thêm lên sức mạnh chịu đựng thì há gì không vượt lên, vùng dậy? Câu thơ rót đúng vô sự thổn thức của trái tim, nơi ấy hứa hẹn một sự tung mình cất cánh! Phía sau kia, dĩ nhiên sẽ là “chiến thắng”, “chiến thắng mọi manh nha quấy nhiễu”. Mới “manh nha” thôi “bạn à” thì lo gì? Sự tiếp hơi mạnh hơn, cho thêm lực đẩy lớn hơn từ nhân vật trữ tình. Một chuỗi sự việc tất yếu xếp hàng phải đến và đã đến “dập tắt ngay ngọn lửa quái chực chờ/ Thắp hy vọng cho ngày mai tiếp tục”. Có hành động “dập tắt” ngay vì có ngọn lửa ước mơ “hy vọng cho ngày mai” thì lo gì cây đời “niềm tin” không được “tưới mát”? “Nụ cười”, sự hiện thân của sức mạnh nội tâm “bạn à”, sẽ và mãi luôn giúp ta “tưới mát những niềm tin”! Lời thơ thủ thỉ tâm tình mà chất chứa sức mạnh vượt thoát, một niềm tin rất lớn được kích hoạt phía sau con chữ. Chúng tôi đồ rằng, tác giả phải là người từng trải và thấm thía lắm những khúc quanh cuộc đời thì mới có được sự chắt lọc câu chữ mang sức mạnh tự thân lớn lao đến vậy. Sự tiềm tàng ấy không thể có ở một người chưa thấm đủ khí vị cuộc đời. Câu chữ kia đơn giản mà sâu sắc, nó băng băng vượt thoát tất cả, giọng điệu lạc quan đẫm đầy niềm tin, sức mạnh ấy đáng trân trọng biết bao!
Mình cùng nhau vượt qua khó khăn bạn nhé
Hãy kiên cường vì cha mẹ vì con
Sẽ chiến thắng mọi manh nha quấy nhiễu
 
Dập tắt ngay ngọn lửa quái chực chờ
Thắp hy vọng cho ngày mai tiếp tục
Đem nụ cười tưới mát những niềm tin.
(Phan Phương Loan)
Bài thơ cố tình dừng lại bằng cách buông lửng ở dấu ba chấm làm cho người đọc có cảm giác thiêu thiếu gì đó trong cảm nhận là phải chăng tác giả dường như cũng đã để nhân vật trữ tình của mình chuồi theo không gian mờ ảo mơ hồ khi đất trời bắt đầu vào dịp “mưa đầu mùa”. Cho nên, vì lẽ đó mà ngay ở câu thơ đầu, sau khi xác nhận thời điểm “mưa đầu mùa” xong là tác giả miêu tả liền ngay đó sự “khơi dậy mùi thương nhớ”. Lấy hình ảnh cụ thể “mưa đầu mùa” để làm cái cớ diễn tả cho sự bùng dậy của cảm xúc “mùi thương nhớ” đang trỗi dậy trong lòng. Thành thử, trừu tượng mà không hề nặng nề, nó cứ nhẹ bẫng và lâng lâng đáng yêu làm sao! Do vậy, ý thơ mở bung ra theo những không gian rộng “phù sa, mùi đất, khói un rơm”. Song, trong “mùi thương nhớ” ấy vẫn có hình ảnh thực mà nồng thơm kí ức “phía bên hè, ổi sẻ chín thơm thơm”. Nếu như ở trên là khí vị bao quát thì phía đoạn dưới bài thơ là “mùi thương nhớ” gắn liền với những bước chân trẻ thơ mê mải “chuối chín bói vàng ươm vườn nhà nội/ cùng các em hái nấm bên ụ mối”. Kí ức còn đan cài hình ảnh “nơi chuồng bò, mùi khét nắng áo ba…”. Thế thì, bài thơ đâu chỉ vẽ ra cả một khoảng trời tuổi thơ ắp đầy những kỉ niệm vui chơi vô tư mà ở đó còn có hình ảnh trĩu nặng tâm tư “khét nắng áo ba” “nơi chuồng bò”. Hình ảnh đó là biểu tượng vất vả mà cực đẹp trong lao động của người cha. Cho nên, “mùi thương nhớ” đan quyện nhiều màu vẻ, đa sắc thái làm cho kí ức ấy như sống lại và cũng cảm động vô cùng. Tuổi thơ vụt qua và tuổi thơ đọng lại. Giọng thơ trong veo nhưng cũng có giọng thơ trầm lắng tưởng nhớ đẫm tâm tư suy niệm. Một khi đã cảm nhận được “mùi khét nắng áo ba nơi chuồng bò” thì lo gì không nảy mầm và chan chứa sự hiếu đễ nơi đứa con kia! Lời thơ trong sáng, giàu kí ức và đẫm chất yêu thương.
Mưa đầu mùa khơi dậy mùi thương nhớ
Quyện phù sa, mùi đất, khói un rơm
Phía bên hè, ổi sẻ chín thơm thơm
Chuối chín bói vàng ươm vườn nhà nội
Cùng các em hái nấm bên ụ mối
Nơi chuồng bò, mùi khét nắng áo ba…
(Lê Thị Ngọc Nữ)
Một tâm thế vững chãi chắt lọc ra bao những giá trị từ nhiều sự trải nghiệm. Bài học cuộc đời nằm vắt lên trên câu chữ mà lại không hề nặng nề lên gân. Có được điều ấy, chắc có lẽ tác giả phải chiêm nghiệm rất nhiều từ cuộc sống và sách vở kệ kinh? Hơn nữa nếu không có sự từng trải thì rất khó mà suy nghiệm để rồi chắt chiu và lấp lánh lên con chữ những xúc cảm giàu lòng yêu thương đến vậy. “Bội số bao dung nhân hóa yêu thương” là xuất phát điểm cũng là đích đến của cuộc đời tìm gieo mầm ngay chỗ đáng gieo “yêu thương” và “bao dung”. Làm được điều ấy là tất cả vì con người. Cho nên cần phải “tối giản cái tôi và nhìn đời bằng mắt Phật bao dung”. Rõ quá rồi, con chữ đẫm đầy chất phật pháp. Ánh sáng từ tâm, yêu thương độ lượng dẫn dắt chúng ta đi thì lo gì không gặp hạnh phúc? Cảm giác “nhẹ bẫng lòng ta” là do ta “cho đi rộng lượng hải hà” đó thôi. Thơ diễn ý trong một tâm thế bừng ngộ nên những câu thơ đầu có bóng dáng của sự nhân quả. Sự sẻ chia cảm thông xuất hiện “hào quang nhiệm màu bay lên từ cảm quan chia thấu”. Ý thơ nhấn mạnh đến sự thấu suốt vỗ về từ trong tâm thức. Sức mạnh ấy như một vầng “hào quang nhiệm màu” xua tan bao nhiêu khổ ải “những mặn chát đắng cay ngục tù sẽ trở về hư ảo”. Mọi thứ sẽ mọc mầm từ “gốc bồ đề từ bi hỉ xả” tỏa ánh sáng mà “vươn cao” cả trong nhận thức lẫn tình cảm. Bài thơ đẫm chất tu tập thiền hành. Lí thuyết và sự thực hành hòa vào nhau tạo ra những hình ảnh vừa thơ vừa đạo vừa đời: “bao dung, yêu thương, mắt Phật bao dung, nhẹ bẫng làng ta, rộng lượng hải hà, hào quang nhiệm màu, cả quan chia thấu, mặn chát đắng cay ngục tù, hư ảo, thánh thiện độ trì, gốc bồ đề từ bi hỉ xả”. Nhịp thơ khoan thai. Ý thơ chắc. Giọng thơ nhẹ nhàng sâu lắng giàu chiêm nghiệm. Câu chữ chân thành giàu năng lượng tích cực. Quý thay ở một tác giả trẻ!
Bội số bao dung nhân hóa yêu thương
Tối giản cái tôi và nhìn đời bằng mắt Phật bao dung
nhẹ bẫng lòng ta cho đi rộng lượng hải hà
Hào quang nhiệm màu bay lên từ cảm quan chia thấu
những mặn chát đắng cay ngục tù sẽ trở về hư ảo
thánh thiện độ trì gốc bồ đề từ bi hỉ xả vươn cao
(Nguyễn Trọng Lĩnh)
Một bài thơ nhỏ, giọng nhẹ nhàng nhưng lại mang sức nặng ghê gớm của kiếp người. Hình dạng nhỏ to dẫu biết chỉ là tương đối nhưng lại gợi lên bao nhiêu là thăm thẳm hun hút. Hai hình ảnh máy bay lửng lơ treo trên bầu trời được đặt trong mối tương quan ngược chiều nhau, nền tảng dung chứa là một không gian mênh mông vô tận…
Một câu chuyện kể khá thú vị kiểu truyện lồng truyện thường thấy trong văn xuôi được tác giả Vũ Trần Anh Thư đưa vào thơ 1-2-3 khá ngọt và cũng thật độc đáo. Mở đầu bài thơ là lời mời và cũng có thể là lời nhắn nhủ nghe rất đỗi thân thương ấm áp “Em đến nhé cổng trời Quản Bạ” để được tận mắt chứng kiến và nghe về câu chuyện cổ tích tình yêu tuyệt vời, chàng trai H”mông bằng tài thổi “đàn môi réo rắt” đã “dụ” được “nàng tiên Hoa Đào theo suối nhạc nương lại trần gian”. Mô típ chàng trần gian nàng tiên giáng trần quyến lấy nhau đã là một mô típ quen thuộc với độc giả, nhưng được chắt lọc và kể lại trong một bài thơ 1-2-3 ngắn gọn hàm súc thì quả là một điều mới, do vậy bài thơ đã để lại một ấn tượng độc đáo thú vị. Cuộc tình tréo ngoe ấy bị Ngọc Hoàng chia thúy rẽ quyên. Nàng tiên bị bắt về trời. Dĩ nhiên là đau khổ “nước mắt chảy xanh sông Miện/ Cặp nhũ thương con gửi lại tượng hình Núi Đôi”.
Cái hay ở đây là ý thơ đã khéo léo lách sang tình mẫu tử. Thế thì tình yêu đôi lứa chỉ làm cái nền tôn vinh cho tình mẫu tử. Tình mẫu tử mới là cái đích nhân văn cao quý hướng đến của bài thơ. Sự nhịp nhàng đi từ tình yêu đôi lứa sang tình mẫu tử đã đem đến một cấu tứ hết sức chặt cho bài thơ. Lời nhận định đặt trong lời kết bài như sự reo mừng thăng hoa của thắng cảnh “để bây giờ bốn mùa tuyệt tác thiên nhiên mê đắm lòng người”. Một kiểu kể, một cách tả vẻ đẹp thiên nhiên quả là độc đáo. Bài thơ đâu chỉ là lời ngợi ca nét đẹp hoang sơ mê say lữ khách, bài thơ còn như một lời khẳng định vẻ đẹp lôi cuốn của thiên tình sử kiểu “gái ham tài trai ham sắc”, và rồi cuối cùng là đọng lại và vút lên tình mẫu tử thiêng liêng cao quý. Sự nén ý vào lời thơ quả là độc đáo. Lời thơ nhẹ nhàng vi vút, giọng thơ êm đềm tự nhiên cuốn hút, ý nghĩa cứ thế nở ra mênh mang theo sự gọt đẽo câu chữ. Để rồi lời và ý thơ cứ thế xoắn quyện nhịp nhàng mê đắm:
Em đến nhé cổng trời Quản Bạ
Nghe câu chuyện chàng trai H’mông đàn môi réo rắt
Dụ nàng tiên Hoa Đào theo suối nhạc nương lại trần gian
Nàng bị Ngọc Hoàng bắt về trời nước mắt chảy xanh sông Miện
Cặp nhũ thương con gửi lại tượng hình Núi Đôi
Để bây giờ bốn mùa tuyệt tác thiên nhiên mê đắm lòng người.
(Vũ Trần Anh Thư – Hà Nội)
Những câu thơ như được ướp lạnh, đã “ngơ ngác” thì cả đời như mãi còn ngơ ngác, và “chân tu” thì mãi mãi chân tu!? Câu chữ lại dường như được rắc thêm chút muối làm cho tác phẩm đằm thêm vị, nên từng câu chữ có sự mặn mòi của tình cảm và có độ thăng hoa của cảm xúc. Dáng vóc chiêm nghiệm phủ lên hai dòng thơ đoạn giữa ngay sau khi nhân vật trữ tình quăng ra câu hỏi tu từ “Người có về miền cát mặn nắng hanh” của Tạ Hùng Việt làm cho câu chữ cứ ánh lên sắc màu khắc khoải. Chia tay và những ám ảnh “chia tay mùa thi cuối, người nói – đủ xa sẽ cũ/ lần tình cờ gặp lại, người bảo – đủ lạ sẽ quên”. Ý thơ dập dình vừa như là chiếc áo kí ức vắt qua vừa như thoáng nhớ để nhận diện thước đo quẳng vào tâm hồn nhau đầy những xào xạc ám ảnh “đủ xa sẽ cũ/ đủ lạ sẽ quên”. Nhưng thời gian thì dường như bị gói lại, còn y nguyên những hình ảnh tưởng cũ mà không cũ, tưởng quên mà không quên “đi hết thanh xuân, không tìm được con đường đủ xa để cũ/ mải miết bến bờ, không đến được chân trời đủ lạ để quên”.
Ý thơ có sự trả lời trong cái thế chơi chữ kiểu nhấp nhổm nhảy dây ngồ ngộ. Kiểu chơi chữ đảo vòng như cố khẳng định tiếng yêu cũ đã dậy men, một kiểu tình yêu đeo đẳng lên tiếng, chữ chung thủy bám liền phía sau, câu chữ lấp lánh màu yêu thương nguyên vẹn. Song, ý thơ mở ra bóng dáng thời gian đang làm nhân chứng cho cái sự vẹn nguyên ấy “đi hết thanh xuân/ mải miết bến bờ” mà nào có thấy “đủ xa để cũ” và “đủ lạ để quên” đâu hỡi người? Thì đã bảo mà, một người đã ngơ ngác thì cả đời mãi như còn ngơ ngác. Một sự ngơ ngác trong sáng đến tinh khôi. Câu thơ cuối gần như rẽ hướng, xoáy vào nhân vật trữ tình “người” “nấn ná cổng chùa huyền niệm, ngơ ngác người một cõi chân tu”. Đến lượt người “chân tu” lại “ngơ ngác người” trước “một cõi chân tu” nơi cổng chùa.
Câu chữ bập bùng, ý nghĩa dường như đang có sự xoay vòng. “Người” cho ta “ngơ ngác” về tình duyên cuộc đời nhưng rồi “người” lại cũng đang bị cái “ngơ ngác” với “cổng chùa” kia bám víu. Một sự diễn ngôn đa dạng giàu ý nghĩa được lập trình, bóng dáng ma trận lí trí xuất hiện là cuộc đời lại cứ như nhấp nhổm theo. Tưởng sáng lắm nhưng nào lại có sáng, tưởng thoát “ngơ ngác” nhưng lại bị sự “ngơ ngác” nó vây bủa. Cuộc đời quả là những trùng vây bủa lưới của tâm trạng. Cho nên con chữ của Tạ Hùng Việt dường như động đậy và thổn thức theo những ngã rẽ và sắc thái của tâm trạng. Những câu thơ có sự pha trộn đa sắc diện, có chút chất vấn, có chút giãi bày, có chút nấn ná, có chút tâm tình, có chút chia sẻ, có chút vương mang… tất cả gom tụ vào một bài thơ 1-2-3 ngắn gọn rồi bật tung lên để cảm thấu cuộc đời. Quý thay!
Người có về miền cát mặn nắng xanh
Chia tay mùa thi cuối, người nói – đủ xa sẽ cũ
Lần tình cờ gặp lại, người bảo – đủ lạ sẽ quên
Đi hết thanh xuân, không tìm được con đường đủ xa để cũ
Mải miết bến bờ, không đến được chân trời đủ lạ để quên
Nấn ná cổng chùa huyền niệm, ngơ ngác người một cõi chân tu.
(Tạ Hùng Việt – Khánh Hòa)
Một bài thơ nhỏ, giọng nhẹ nhàng nhưng lại mang sức nặng ghê gớm của kiếp người. Hình dạng nhỏ to dẫu biết chỉ là tương đối nhưng lại gợi lên bao nhiêu là thăm thẳm hun hút. Hai hình ảnh máy bay lửng lơ treo trên bầu trời được đặt trong mối tương quan ngược chiều nhau, nền tảng dung chứa là một không gian mênh mông vô tận. Những hình ảnh xuất hiện trong sự gợi tả “chấm nhỏ bầu trời”, “máy bay ngược chiều”, “khoảnh khắc hoàng hôn vừa tắt” đặt liền nhau tạo nên sự liên tưởng vô cùng. Do vậy, ý thơ vụt qua mà dựng lên cái nhìn về thân phận con người “côi cút giữa mênh mông”, “thui thủi bay” để cuối cùng tụ lại điểm nhìn ẩn chứa tâm trạng mông lung quánh đặc “tôi nhìn thấy nỗi cô đơn đến rợn người”. Sự nhấn nhá dựa trên thi ảnh để bật ra mênh mang cảm giác. Thế thì, cảm xúc ấy, suy nghĩ ấy gắn với thực tại con người đang hiện hữu trên máy bay phải chăng chính là xuất phát điểm cho cuộc đời hữu hạn của con người đang vùn vụt bay cùng phi cơ kia mà phập phồng mang bao nhiêu những suy tư âu lo?
Sự tương phản được cài vào trong cái nhìn mang màu sắc của thuyết tương đối “chấm nhỏ bầu trời”, “côi cút giữa mênh mông” càng làm cho ý thơ thăm thẳm vời vợi hơn. Cái gì là hữu hạn? Cái gì là mênh mông? Cái gì là ngược chiều? Cài gì là vĩnh cửu? Cái gì là côi cút? Cái gì là cô đơn? Tất cả như dồn ứ lại, ý thơ như cuộn sóng phun lên tạo ra dư âm cho bài thơ. Cõi người đấy! Cuộc đời là đấy! Mênh mông trong hữu hạn, hữu hạn trong mênh mông, rồi cô đơn côi cút trong cao vời vùn vụt, đâu chỉ là cảm giác bay trên độ cao mà ngẫm ngợi, nó là cảm thức đời người trìu trĩu đấy, là cuộc sống ẩn tàng bao nhiêu những mâu thuẫn giằng xé ghê gớm đấy! Vụt qua mà thênh thang, nhỏ bé mà cao rộng hay ngược lại cũng vẫn chỉ là thế giới này, thế giới của vũ trụ và con người bao đời nay vây bủa. Lời thơ Huỳnh Khang nhẹ nhàng mà giàu sức gợi, nhịp thơ chắc trong cái thế đung đưa tâm tình, giọng nằng nặng những suy tư.
Chấm nhỏ bầu trời
Một chiếc máy bay ngược chiều
Côi cút giữa mênh mông.
Nó vẫn thui thủi bay
Trong khoảnh khắc hoàng hôn vừa tắt
Tôi nhìn thấy nỗi cô đơn đến rợn người.
(Huỳnh Khang – Phú Yên)
Tại sao lại là “Mùa hè lạnh”? Câu đầu tiên và cũng là tựa đề bài thơ Đỗ Thu Hằng đã ẩn chứa một cái gì đó khác thường, nghe hơi hướng ngược đời. Mùa hè là mùa của nghỉ ngơi, thường nắng nóng, mưa nhiều. Nhưng danh từ “mùa hè” ở đây lại đi kèm với tính từ “lạnh”, thì lẽ tất nhiên ý thơ không nhằm diễn tả thiên nhiên mùa hè. Cảnh mùa hè, nếu có chỉ là cái cớ làm phương tiện chuyển tải cảm xúc nỗi niềm của nhân vật trữ tình bật lên mà thôi. Rõ ràng thời điểm “mùa hè” đến mà “lạnh” là chỉ như thêm một lần nữa xác tín tâm trạng lạnh lùng, dửng dưng bởi những hình ảnh “sớm mai đầy xác phượng hồng/ mặt đường trôi miên man từng mảnh vụn vui buồn” xuất hiện liền phía sau như một sự phù trợ đẩy tâm trạng lên phần phật.
Yếu tố thời gian “sớm mai” gắn với hình ảnh “xác phượng hồng” đầy mặt đất mở ra một không gian nặng về tâm tư. Cái nhìn ở đây phải chăng đã ngấm sự tơi tả, và chính tâm trạng ấy đang cố thúc cho kí ức vụt hiện lên “mặt đường trôi miên man từng mảnh vụn vui buồn”? Câu thơ như đang tả vòng quay chuyển động của thời gian vụt trôi “buồn vui” vỡ ra như “từng mảnh vụn”. Thế thì “mùa hè” ở đây sao có thể vui nhộn để tránh khỏi tâm trạng “lạnh” lùng giá buốt? Cuộc sống trôi nhanh con người quẫy đạp. Ý thơ chợt dừng lại như suy tư chiêm nghiệm “chỉ khi nào/ cuộc sống chậm dần trong trí nhớ/ mới biết quý từng ngày đang dần mất, biến thiên”.
Sức nặng ý thơ dồn vào đoạn cuối. Sau những “miên man” vùn vụt “trôi” qua ta còn lại gì khi cuộc đời không ngừng “biến thiên”? Nhịp thơ chậm, tứ thơ chắc, giọng đẫm chất suy tư. Lời thơ vừa như thủ thỉ nhắc nhủ mà lại vừa như ấp ủ ước mơ. Con người thường bị cuốn vòng quay cuộc đời. Không theo kịp vòng quay kia con người có nguy cơ bị đào thải hoặc bị hất tung ra khỏi vòng quay ấy. Chính ý nghĩ đó làm cho chúng ta quay cuồng với bao nhiêu những khát vọng, đam mê. Rồi kí ức sống dậy vây bủa, vui buồn đủ cả. Sức ép tứ bề để rồi ngày tháng trôi qua mà ít khi chúng ta nhìn lại. Chỉ có thời gian và sự trưởng thành “cuộc sống chậm dần trong trí nhớ” mới có thể giúp chúng ta “biết quý từng ngày đang dần mất, biến thiên”. Bởi thế, giọng thơ ở đây đâu chỉ có sự trầm lắng suy tư mà còn chất chứa sự sẻ chia đồng cảm. Đồng cảm cho chính sự mệt nhoài cuộc đời mỗi người đang ngày đêm cõng trên vai tháng năm với vô vàn những lo toan tính toán. Nhịp thơ chậm, giọng trầm lắng suy tư.
Mùa hè lạnh
Sớm mai đầy xác phượng hồng
Mặt đường trôi miên man từng mảnh vụn vui buồn
Chỉ khi nào
Cuộc sống chậm dần trong trí nhớ
Mới biết quý từng ngày đang dần mất, biến thiên.
(Đỗ Thu Hằng – Hà Nội)
Chất hiện sinh được đẩy lên cao trào “nhiều người thậm chí ra tay với cả đồng loại mình” nhưng vẫn luôn ồn ào “ngợi ca sự văn minh”. Họ không nhận diện được cái ác hay là một sự lẩn tránh cái ác? Ý thơ bóc trần sự giả tạo hợm đời trong cái vỏ ngoài đội lốt khá ấn tượng. Một cú bồi thêm thật nặng kí “nhưng lại thỏa hiệp với những con người trong lòng có quỷ”…
Tứ thơ chặt, ý nén lại từng câu để bung ra theo sự bập bùng nhân quả. Những mâu thuẫn giằng xé trong con người là muôn đời. Sự từng trải được diễn ngôn bằng một giọng thơ đẫm đặc chất chiêm nghiệm. Câu thơ khai mở “Nếu ác quỷ không có trên đời, cái ác biết đổ cho ai?” dường như đã trực tiếp đụng đến một vấn đề lớn của nhân loại: cái ác tồn tại được nhìn bằng con mắt rũ bỏ, loại suy? Kiểu ta và chúng nó y như sự rõ ràng đối lập trên dưới cao thấp vậy.
Song, một sự thật vẫn hiện hữu làm con người phải ray rứt “loài người văn minh chưa từng nhận đã đốt rừng/ chưa từng nhận đã tàn sát chó mèo, cỏ cây, muông thú”. Điệp ngữ “chưa từng nhận” xuất hiện làm cho sự thật kia như cắt cứa hơn. Ở đó có một ít sự phủi tay, một ít sự dối trá, một ít sự trốn tránh và một ít sự ngoan cố. Lẽ đương nhiên không thấy bóng dáng của sự dằn vặt. Lời thơ diễn tả lạnh băng. Lạnh băng để buộc chúng ta phải suy nghĩ cho dù có thể rùng mình!
Chất hiện sinh được đẩy lên cao trào “nhiều người thậm chí ra tay với cả đồng loại mình” nhưng vẫn luôn ồn ào “ngợi ca sự văn minh”. Họ không nhận diện được cái ác hay là một sự lẩn tránh cái ác? Ý thơ bóc trần sự giả tạo hợm đời trong cái vỏ ngoài đội lốt khá ấn tượng. Một cú bồi thêm thật nặng kí “nhưng lại thỏa hiệp với những con người trong lòng có quỷ”. Chữ “nhưng” ở đây đã tự gánh lấy bao nhiêu ý nghĩa. Câu thơ diễn tả một sự đảo chiều mưu mô? Một sự khỏa lấp tàng hình che chắn? Một sự lấp liếp kiểu cả vú lấp miệng em đầy xảo biện? Tất cả đều cùng con chữ xòe ra cho độc giả nhìn, thì hai năm rõ mười kia cả đấy thôi, lượn lờ để tồn tại, tồn tại để lượn lờ. Bóng dáng trải nghiệm được tung ra hết cỡ. Rồi câu cuối như chốt lại, thực tế đó làm cho người ta nghẹt thở “nhưng lại thỏa hiệp với những con người trong lòng có quỷ”. Cái ác sẽ tàn phá loài người bởi chính sự “thỏa hiệp” lạnh lùng kia. Hiện sinh hay cảnh báo đều đúng. Lời thơ Trương Mỹ Ngọc tự thán suy nghiệm, pha chút tự trào mỉa mai âu cũng để chính con người nhìn lại mình mà sống sao cho hài hòa và thiện lương hơn thôi chăng?
Nếu ác quỷ không có trên đời, cái ác biết đổ cho ai?
Loài người văn minh chưa từng nhận đã đốt rừng
Chưa từng nhận đã tàn sát chó mèo, cỏ cây, muông thú
Nhiều người thậm chí ra tay với cả đồng loại của mình
Loài người ngợi ca sự văn minh
Nhưng lại thỏa hiệp với những con “người” trong lòng có quỷ
(Trương Mỹ Ngọc – TPHCM)
Hơi thơ thoảng nhẹ, lời thơ như tự tình mà lắng mà đọng. Bài thơ kết cấu hai phần rất rõ, phía trên là sự đặt vấn đề dưới hình thức câu hỏi, phía dưới là sự trả lời. Rất tuần tự nhịp nhàng. Trả lời mà gợi tả để lại dư âm. Đó là sự độc đáo của bài thơ.
“Ngôn ngữ của hoa” để tâm tình và gửi gắm điều gì đến chúng ta? Hoa nói bằng “sắc” hay bằng “hương”? Mà dẫu nói bằng “là sắc hay là hương” thì cũng chỉ là hai đặc thù quen thuộc của muôn loài hoa mà thôi. Có gì lạ mà phải áy náy? Thế thì, phía sau hai đặc thù ấy là cả một hiện sinh tiếp nối phải đến của cả một đời hoa “là cánh tươi trên cành hay tàn phai rơi rụng”? Ngắt khúc để gợi mở. Tiếp nối mà như không hề tiếp nối. Thành thử, câu thơ như vẽ ra một hành trình tồn tại và tàn phai của hoa cũng là gợi ra sự hư huyễn của kiếp người. Có đấy rồi mất đấy. Câu thơ nhuốm màu sắc sắc không không của Phật pháp.
Do vậy mới có cái nhìn “đôi khi, sự rực rỡ làm tôi quên lãng” như phần nào xác nhận tâm trạng nhân vật trữ tình đã bị chính cái “rực rỡ” phía bên ngoài che lấp. Dẫu chỉ là “đôi khi” nhưng cũng đủ thấy hành trình suy niệm bị rơi rụng đi ít nhiều. Đến câu thơ “có những lặng thầm tàng ẩn lắng sâu/ như sớm nay, những sợi vàng tình tự với đất nâu” đã mở dần biên độ cảm xúc và suy tư cho bài thơ.
Thế thì, cách đặt vấn đề phía trên chỉ là cái cớ để nhân vật trữ tình bày tỏ tâm tư mình trước ngồn ngộn những vấn đề nhìn ngắm, suy tư của cuộc sống. Ở đó, chúng tôi còn thấy bóng dáng của mối quan hệ giữa thế giới hữu hình và thế giới vô hình (“sắc, hương” – “lặng thầm tàng ẩn lắng sâu”) qua hình ảnh so sánh “như sớm nay, những sợi vàng tình tự với đất nâu” hài hòa nồng ấm. Ý thơ mở toang ra phía phồn thực. Có “tình tự” giữa mặt trời (những sợi vàng) và đất (đất nâu) thì lo gì không có sự sống? Do đó, “ngôn ngữ của hoa” tưởng chỉ dừng lại ở sự thỏ thẻ của những “sắc/ hương/ cánh tươi/ tàn phai rơi rụng” mà đã mở ra và đụng tới mảng vỉa những ý nghĩa triết lí cuộc đời. Giọng thơ Hà Phi Phượng đẫm chất suy nghiệm và nồng nàn hiện sinh.
Ngôn ngữ của hoa
Là sắc hay là hương
Là cánh tươi trên cành hay tàn phai rơi rụng.
Đôi khi, sự rực rỡ làm tôi quên lãng
Có những lặng thầm tàng ẩn lắng sâu
Như sớm nay, những sợi vàng tình tự với đất nâu.
(Hà Phi Phượng – Thái Bình)
Bài thơ khép lại thì chất nhân văn sáng lên. Câu chữ đã sẵn sàng hệt như một sự chuẩn bị nhóm lửa. Một bài thơ tự sự đọc lên làm chúng ta không thể không xúc động. Ấy là vẻ đẹp nhân cách của nhân vật trữ tình “chàng trai” toát lên đẹp và “tươi như tia nắng”. Vẻ đẹp ấy bắt nguồn từ những hành vi thiện lành, hành vi ấy được cộng thêm sự tưới tẩm từ vẻ tươi tắn xuất phát tự đáy lòng “cụ bà phúc hậu của con ơi gắng ăn nào/ ăn xong rồi cụ sẽ thấy mình chẳng làm sao”. Một sự săn sóc động viên như thâm tình ruột thịt. Lời thơ ân cần, vỗ về, ấm áp.
Lời người dẫn truyện được lồng vào cách tả qua sự ví von “chàng trai ấy tươi như tia nắng” đã thấy lấp lánh vẻ đẹp chi đó của một sự sống tràn đầy năng lượng tích cực sẻ chia “cụ bà phúc hậu của con ơi gắng ăn nào!/ ăn xong rồi cụ sẽ thấy mình chẳng làm sao!”.
Cái hay của bài thơ nằm ở chỗ, tuy không để cho nhân vật trữ tình là “chàng trai” đi chăm sóc mẹ mình trong bệnh viện, chỉ qua hành động anh giúp đỡ bà cụ nằm cùng phòng với mẹ anh, nhưng chúng ta có thể nhận ra sự hiếu nghĩa của nhân vật.
Giúp người nhưng anh không quên nói với mẹ “con chạy sang giường kia giúp một bác…” như một lời xin phép mẹ độc đáo. Dĩ nhiên, mẹ hiểu là anh vui rồi, mà mẹ anh cũng vui nữa. Có thể bà mẹ anh đương đau, nhưng trước hành động ân cần thiện lành của anh với bà cụ bệnh bên kia giường, cũng làm bà vui lên “người mẹ nhìn con cười héo hắt”. Câu cuối có sức nặng tình thương bởi sự nồng ấm như một đòn gánh tình nghĩa đặt trên vai nhân vật trữ tình. Vẫn lo cho mẹ và vẫn có thể giúp được người khác một cách chu toàn.
Bùi Thanh Hà như đang kể lại câu chuyện thấm đẫm tình người cho chúng ta nghe. Sự xúc động ấy bật lên qua từng câu thơ, từng hành động của nhân vật trữ tình. Tác giả kể bằng một bài thơ tự sự nhẹ nhàng tự nhiên. Cái hay của bài thơ là ở tình người tỏa sáng. Không gian bệnh tật nhưng lại ăm ắp không khí yêu thương. Do vậy, câu thơ “bình minh trong bệnh viện xôn xao” đã diễn tả rất hay cái không gian tràn ngập sức sống tình thương ấy. Tình người trân trọng quá! Quý thay!
Tạm khép lại bài thơ, song chúng tôi lại thiết nghĩ, phải chăng sự yêu thương ở chàng trai đã kích hoạt tình thương trong những con người khác “mẹ nằm yên nha, con chạy sang giường kia giúp một bác…”. Cứ thế, dấu ba chấm kết bài thơ như một dấu hiệu tươi vui nối tiếp mãi. Do vậy, bài thơ dừng lại mà ý nghĩa tích cực yêu thương thì không hề dừng. Yêu lắm!
Chàng trai ấy tươi như tia nắng
– Cụ bà phúc hậu của con ơi gắng ăn nào!
Ăn xong rồi cụ sẽ thấy mình chẳng làm sao!
Bình minh trong bệnh viện xôn xao
Người mẹ nhìn con cười héo hắt
– Mẹ nằm yên nha, con chạy sang giường kia giúp một bác…
(Bùi Thanh Hà – Hà Nội)
Thơ tình tuổi năm mươi đằm vị mà vẫn long lanh đến lạ. Tình muốn bung ra nhưng ý thì kìm lại. Có cái chững chạc đi bên cạnh cái “lấp lánh” “rơi” bên. Câu thơ thú vị “khép chặt tuổi năm mươi trong chiều nghiêng sắc lạnh” trước “một vạt nắng mong manh/ trước khoảnh sân nhà em, rơi lấp lánh”. Cái nhìn trẻ quá làm cho ý thơ như nở giãn ra, “lấp lánh” sự nồng nàn. Nhưng như đã nói, bài thơ đang được dẫn dắt bởi bước đi của lí trí “tuổi năm mươi” nên ý thơ dường như hơi bị “khép chặt”.
Lời thơ rõ ràng xoáy vào cái nhìn của nhân vật trữ tình. Cho nên, bao nhiêu hình ảnh được đề cập “vạt nắng mong manh/ sân nhà em/ rơi lấp lánh/ em ngoảnh mặt/ nhoẻn cười/ tóc xõa lưng chừng” phía trước thì ngay lập tức những thanh âm trong lòng rộn ràng khua ngay “tiếng chuông gió khua lanh canh” để lời thơ xác tín “tóc xõa lưng chừng… còn rờ rỡ xanh”. Nhưng, hình như sự rộn ràng cũng chỉ dám khua vang lên một nửa, một nửa còn lại bị nhốt trong cái giới hạn “tuổi năm mươi” mất rồi. Do vậy, lòng có thể khua lên tươi vui đấy nhưng vẫn thấy đây đó những “vạt nắng mong manh” của buổi “chiều nghiêng sắc lạnh”. Một sự tự biết, tự cảm, tự khoanh vùng mới đáng quý làm sao!
Đâu phải ngẫu nhiên mà mở đầu bài thơ tác giả Lê Thanh Hùng đã cho nhân vật trữ tình phải buông ra ý thơ “nhẹ nhàng thôi” như để tự nhắc mình? Là có ý sợ gì ở đây chăng? Sợ sự bung tỏa kia không thể lưu giữ “một vạt nắng mong manh” hay sợ sự mơ hồ lãng đãng sẽ không thể trụ vào tâm thức “tuổi năm mươi”? Mơ hồ và rõ ràng va nhau. Thích lạ!
Tất cả những cảm thức ấy trỗi lên cũng bởi sự từng trải lên tiếng. Một thế giới chiêm ngưỡng xen ngang không thể không làm cho nhân vật trữ tình xao động. Xao động để lắng lọc, xao động để trân quý, xao động để giữ gìn, cho dù điều ấy chỉ là những khoảnh khắc. Do vậy, sự vô tư trong sáng của nhân vật “em” càng làm nổi bật lên những tâm tư kia “em ngoảnh mặt, nhoẻn cười dường như vội lắm/ tóc xõa lưng chừng… còn rờ rỡ óng xanh”.
Nhẹ nhàng thôi, một vạt nắng mong manh
Trước khoảnh sân nhà em, rơi lấp lánh
Khép chặt tuổi năm mươi trong chiều nghiêng sắc lạnh
Tiếng chuông gió khua lanh canh, như trêu của để dành
Em ngoảnh mặt, nhoẻn cười dường như vội lắm
Tóc xoã lưng chừng… còn rờ rỡ óng xanh
(Lê Thanh Hùng – Bình Thuận)
Nghệ thuật đòn bẩy kích hoạt. Tác giả chỉ rải thực tế mang màu sắc hiện sinh ra so sánh rồi để tự sự so sánh ấy cất lên ý nghĩa. Hình ảnh những “con thiêu thân lao mình vào đóm lửa” trong một tâm thế sẵn sàng “điệp điệp trùng trùng” là cốt chỉ đi “tìm ánh sáng hư vô” nhưng kéo theo cái nhìn về hậu quả để “rồi lại ra đi như những kẻ dại khờ”. Ở đây rõ ràng ý thơ đã được nhìn từ hai tâm điểm. Một là đặt mình vào trong tâm thế đi tìm rất ư là thiên tạo, do vậy, tứ thơ vút lên qua sự kết nối từ những hình ảnh đẹp “lao mình” trong “điệp điệp trùng trùng”. Hai là đặt cái nhìn chủ quan thể hiện qua sự đánh giá khi thấy những cái chết của con thiêu thân “ra đi như những kẻ dại khờ”. Ba dòng thơ lồng ghép được hai cái nhìn, hai suy nghĩ gần như ngược chiều nhau là hoàn toàn có ý đồ cho ý thơ chớp nhá phía sau mở ra.
Bởi thế, sự tiếp nối như xác thực cho cái ý thơ mang dáng dấp khách quan nhìn nhận đánh giá phía trên “con người trông ra và bảo nhau như thế”. Ý thơ như chốt lại rồi phồng lên sự khôn ngoan và đẫm đặc lí trí con người. “Trông ra” là nhìn ngắm, suy tưởng; còn “bảo nhau” là trao đổi, bàn bạc và sẻ chia. Kiểu hài lòng của cách nhìn ra sự vật ấy được chan đều lên các con chữ trong dòng thơ nên nó tiếp tục chảy kiểu hệ quả xuống câu thơ phía dưới “và họ vùi đầu vào cuộc sống cuồng quay”. Cứ thế, cuộc sống con người tiếp nối trong mạch dẫn tràn ngập suy nghĩ ấy. “Cuộc sống cuồng quay” cuốn họ đi. Diễn tiến nhanh, không khác.
Nhưng rồi câu hỏi tu từ xuất hiện, nó như một phản đề nhắc nhở chúng ta, nó xuất hiện làm chậm lại sự tuôn chảy ào ạt trên kia “đi tìm ánh sáng ở đâu trong thế gian này?” Thế thì, hình ảnh “ánh sáng” ở đây khác gì so với hình ảnh “ánh sáng” ở khổ thơ đầu? Một mạch ngầm thi tứ lộ diện. Chọn lựa gì trong cuộc đời và rồi liệu con người tìm được điều gì mang ý nghĩa thánh thiện nguyên sơ như sự “lao mình vào đóm lửa” của những con thiêu thân kia để đi tìm ánh sáng? Ánh sáng nguyên sơ ở đâu để con người sẽ có được những giây phút “lao mình” hoành tráng đầy thiên tính căn cốt?
Do vậy, bài thơ tưởng ẩn giấu mà lại lấp lánh lên một khía cạnh tâm thức rốt ráo rằng, rốt cùng con người “quay cuồng” trong cuộc sống để đi tìm điều gì trong cõi ta bà này? Nhìn “thiêu thân lao mình vào lửa” con người những tưởng mình đã hiểu được quy luật của cuộc sống này rồi nhưng cuối cùng hóa ra không phải. Cái “ánh sáng” kia có thể nguy hiểm đến tính mạng chỉ là thứ “ánh sáng” dành cho “thiêu thân” trong cái suy nghiệm thường tình. Nó không thể là kiểu “ánh sáng” dẫn đường chỉ lối mà con người có thể “lao mình” vụt theo. Thế thì, rõ ràng “ánh sáng” đang được đi tìm trong câu hỏi kia là một thứ ánh sáng mà con người có thể dâng hiến cả cuộc đời mình, tiếc thay, con người có thể lại tìm chưa ra! Do vậy, qua sự gợi tả, bài thơ nhuộm thẫm chất triết lí nhân sinh và sắc màu tôn giáo. Nhịp chậm, gọn; lời thơ giàu gợi tả.
Con thiêu thân lao mình vào đóm lửa
“Điệp điệp trùng trùng tìm ánh sáng hư vô
Rồi lại ra đi như những kẻ dại khờ”
Con người trông ra và bảo nhau như thế
Và họ vùi đầu vào cuộc sống cuồng quay
Đi tìm ánh sáng ở đâu trong thế gian này?
(Sang Trương – Vĩnh Long)
Đâu là cái hay của thể thơ 1-2-3 thuần Việt mới mẻ và hiện đại? Qua góc nhìn của nhà thơ, nhà phê bình Khang Quốc Ngọc, cái hay ấy tiếp tục thể hiện trong những bài thơ của Lê Lệ Thủy ở Kon Tum, Trần Thị Bảo Thư – Đồng Nai, Hồ Trung Chính – Sóc Trăng, Trần Thanh Mai – Nghệ An, Trần Thanh Dũng – Sóc Trăng và Mai Xuân Thắng – Sài Gòn.
Chỉ như là một “vết xước chưa lành trong văn hóa giao thông” thôi mà nghe sao ray rứt. Sự vội vàng dẫn bàn chân người tuổi trẻ thành ẩu tả hay chuyện lấn sân bởi chưa quen tâm tính nhường nhịn mà phải ra nông nỗi “người trẻ tuổi tạt đầu xe (tay?) ga vào shop”? Một hành vi làm cho người già “trên chiếc xe đạp” đi liền phía sau phải “giật mình”. Chữ “chặn người già” là sát sạt ngay bên, có thể nguy hiểm. Lời thơ toát lên sự cảnh báo.
Thế thì sự “giật mình” của “người già” kia đâu chỉ là cái “giật mình” hốt hoảng trước hiểm nguy mà có thể còn ẩn tàng sự “hốt hoảng” trước cái đà trượt dốc cẩu thả của “người trẻ tuổi” bởi vô vàn những thứ cẩu thả na ná có thể xảy ra. Hình ảnh “gương mặt già nhăn nheo thất thần” có chi đó ẩn tàng sự vô vọng và cả sự âu lo. Nếu “người tạt đầu xe” không “vô cảm” thì đâu đến nỗi “người già” phải “thất thần”? Một bức tranh đối ngược rõ rệt thông qua hành vi và sắc thái tâm trạng giữa hai thế hệ “người trẻ tuổi” và “người già” như là một bức tranh “tối sáng” rõ nét hiện hình đã mang đến cho chúng ta những suy tư nhất định.
Văn hóa giao thông có vấn đề là từ đâu nếu không đi tìm vào căn cốt sự việc? “Người trẻ tuổi” “vô cảm” đã đành, nhưng sau khi có hành vi làm cho “người già” phải hoảng hốt thì không thấy có hành vi nào liền phía sau nhận lỗi cho dù là muộn màng. Sự ray rứt ẩn phía sau của bài thơ là ở chỗ này. Ai sẽ là người làm chuyện ấy trong tất cả chúng ta? “Vết xước chưa lành trong văn hóa giao thông” và cũng là trong sự thao thức lo lắng của nhân vật trữ tình. Sự âu lo phập phồng ấy làm nên vẻ đẹp nhân văn cho bài thơ thì nỗi niềm kia đâu chỉ dừng lại ở “vết xước… trong văn hóa giao thông”?
Người trẻ tuổi tạt đầu xe ga vào shop
Chặn người già trên chiếc xe đạp giật mình
Thương ông bất ngờ loạng choạng chống chân
Gương mặt già nhăn nheo thất thần, người tạt đầu xe vô cảm
Bức tranh giữa ngày tối sáng
Vết xước chưa lành trong văn hoá giao thông.
(Lê Lệ Thủy – Kon Tum)
Bảng lảng khói sương mà thương mà nhớ. Bởi thế, mở đầu bài thơ, một cảm giác nặng nề mệt mỏi bao trùm “mùa mưa như chuyến tàu chợ vừa đi vừa ngủ” là phải chăng sự mong chờ đã thành khắc khoải? Điểm nhìn tưởng mới đó, hiện tại thấm đẫm cảnh vật “thảm xuyến chi mướt mát sân ga” nhưng vẫn thấy bóng dáng kí ức vồng lên chen ngang “bóng người tiễn nhau ngày cũ mờ xa”. Tâm trạng có chi đó xáo trộn nhưng lời thơ thì vẫn dằng dặc, miên man.
Thế rồi, điểm nhìn được mở rộng hơn, loang xa “viết tên anh lên mặt hồ sương thở”. Bỗng thấy tâm trạng rung rinh, tâm hồn cựa quậy. Là vì nhìn đâu cũng thấy anh. “Anh” là hiện hữu hay “anh” là hư vô? Chỉ biết “anh” đã chiếm lĩnh hết không gian xung quanh nhân vật trữ tình thật rồi.
Song, ý thơ lại đột nhiên vui lên hẳn “gió heo may xếp chữ làm thơ”. Rõ ràng, ở đó tâm trạng nhân vật trữ tình đã nôn nao lên một tí. Gió gợi tâm tình hay tâm tình nhớ thương mà tạo nên làn gió mát? Và theo đà ấy, dĩ nhiên là ngọn lửa ấm tạo bởi tình thương mong nhớ kia lại đã thấy bập bùng rồi “dã quỳ chiều nay nhóm lửa ven bờ”.
Chỉ vài nét phác họa nhưng tình yêu thì đã rõ, là nhớ thương, là hình hài kí ức, là đậm đặc không gian, là ấm nồng tin yêu. Các cung bậc cứ thế vừa đan cài vừa như hé lộ mà nâng dần trạng thái cảm xúc lên. Lời thơ tự nhiên để diễn tả một tình yêu chân thực, kín kẽ mà nồng nàn. Không quá lộ liễu nhưng không kém phần đắm đuối. Một tí kín đáo lại kèm một tí bung tỏa, vẻ đẹp vừa đủ để tình yêu hiện ra, e ấp mà nồng nàn.
Mùa mưa như chuyến tàu chợ vừa đi vừa ngủ.
Thảm xuyến chi mướt mát sân ga
Bóng người tiễn nhau ngày cũ mờ xa.
Viết tên anh lên mặt hồ sương thở
Gió heo may xếp chữ làm thơ
Dã quỳ chiều nay nhóm lửa ven bờ.
(Trần Thị Bảo Thư – Đồng Nai)
Bằng sự nhân cách hóa nỗi đợi, tác giả Hồ Trung Chính đã đem đến cho chúng ta như đang được nghe âm hưởng của một bản nhạc ngậm ngùi “có những cuộc hẹn chờ đi lần vào tối”. “Đi lần vào tối” ấy là mất hút, một không gian đen đặc, thì đương nhiên tất cả chỉ còn là phấp phỏng và thắc thỏm mà thôi. Cho nên, ngay phía sau là một “không gian im nghe cơn gió chuyển mùa” là vẫn còn phảng phất nỗi chờ, sự ngóng nhưng lại được đặt trong một niềm tin nhỏ nhoi. Vì thế mà phía xa kia vẫn chỉ là sự lạnh giá bởi “mưa lụn bên trời mông lung mây xám”. Gam màu xám lạnh bao quanh, ý thơ đã khắc khoải càng khắc khoải hơn.
Hình ảnh “con đò chở khẳm mùa thu về lạc bến sông chiều” đầy những ám gợi. “Con đò chở khẳm mùa thu về” là có chủ ý, là đầy đặn nhưng sao lại “lạc bến sông chiều”? Có chi đó mâu thuẫn ở đây chăng? Tả cảnh để diễn cái tình. Chủ ý đó nhưng sao dư âm để lại phía sau thì dằng dặc buồn, chữ “lạc” nhằm nhấn mạnh cái ý mâu thuẫn bật ra kia chăng? Thế rồi, hình ảnh tiếp nối vẫn là nỗi buồn miên man, không khác. Hình ảnh “trăm con sóng vỗ vào đêm phong sát” gợi ra một dư âm mù mịt, phảng phất nỗi đớn đau? Âm thanh phía trước rùng rùng bao nhiêu thì ở phía sau lại gợi ra sự cô tịch bấy nhiêu, “đêm phong sát” buồn miên viễn trôi! Nhân vật trữ tình còn như đang lững lờ với bao nhiêu tâm trạng thì cũng may có “tiếng con thạch sùng bỏ nhỏ giữa cơn đau” như là dấu hiệu đánh thức nhân tâm hãy quay trở về thực tại. Thực tại dẫu có buồn nhưng không thể trốn chạy được. Ý thơ càng như khắc khoải và mông lung hơn.
Bài thơ muốn diễn giải những sự chằng níu, rắc rối đầy ám tượng của thế sự đan cài bằng những thủ pháp động tĩnh, đối lập đan xen. Nhân vật trữ tình đóng vai người quan sát, thảng hoặc đâu đó là những kí ức và thực tại đan cài, lập lòe giãn nở, song tựu trung âm hưởng da diết là miên man buồn.
Có những cuộc hẹn chờ đi lần vào tối
Không gian im nghe cơn gió chuyển mùa
Mưa lụn bên trời mông lung mây xám
Con đò chở khẳm mùa thu về lạc bến sông chiều
Trăm con sóng vỗ vào đêm phong sát
Tiếng con thạch sùng bỏ nhỏ giữa cơn đau
(Hồ Trung Chính – Sóc Trăng)
Trần Thanh Mai vẽ một vòng ngôn ngữ mang đậm chất triết lí nhân sinh. Dụ ngôn ấy được ẩn trong vòng quay sự sống của chiếc lá. Có sinh ra “sắc lá xanh diệu kì” và có mất đi “lá lìa cành lặng lẽ giữa thinh không”. Vòng quay kia mang những sắc độ khác nhau, khi sinh ra thì mang “sắc lá xanh” gắn với sự “diệu kì”, khi mất đi lại gắn với sự lặng lẽ và mênh mông “lá lìa cành lặng lẽ giữa thinh không”. Điều ấy gói ghém một ẩn ý rằng sự sống bật mầm là đã như “mang hơi thở nhân sinh” rồi.
Ba dòng thơ đầu, dòng nào cũng mang những từ ngữ liên quan đến màu sắc. Khi thì tả sắc màu “sắc lá xanh”, “hạt diệp lục”, khi thì gắn với cảm quan đánh giá “sắc màu bình dị” là phải chăng ngầm đem đến cho bài thơ một ý nghĩa sự phát khởi nào trong cuộc sống cũng luôn chứa đựng niềm tin gầy dựng và sự diệu kì. Có được điều đó là bởi trong mỗi “hạt diệp lục bé nhỏ li ti” kia đều “mang hơi thở nhân sinh” cả. Lời thơ khẳng định sức sống là vô cùng, sức sống ấy có trong từng tế bào. Bởi thế, có thể nói bài thơ là tiếng nói thấm đẫm chất vô thường của đạo Phật.
Đón nhận và cho đi là hai khái niệm gần như ngược nhau nhưng lại có ngay trong một dòng thơ “đón nắng gió để cho đi sự sống” là một câu thơ mang tầm khái quát cao. Nhìn thấy hai chiều của cuộc sống ngay trong một điểm nhìn, tâm thế ấy là tâm thế của sự tỉnh thức. Bên cạnh đó, câu thơ còn có ý nói lên lợi ích đem lại cho con người của lá cây, nào ô xy, nào bóng mát.
Giọng thơ nhẹ nhàng nhưng mang sức nặng của kinh kệ. Một vòng quay sự sống của lá cây cũng là một vòng quay của con người “mang hơi thở nhân sinh trong sắc màu bình dị”. Sự “thuần khiết” của dáng vẻ “mầm nhú lên” là tiếng nói bản ngã nhân chi sơ tính bản thiện. Nếu sống không có thể “đón nắng gió để cho đi sự sống” thì sao có thể thanh thản đến vô cùng khi cuộc đời khép lại “lá lìa cành lặng lẽ giữa thinh không”? Giọng thơ nhẹ nhàng, nhịp chậm, giàu triết lí nhân sinh.
Sắc lá xanh diệu kì
Hạt diệp lục bé nhỏ li ti
Mang hơi thở nhân sinh trong sắc màu bình dị
Đón nắng gió để cho đi sự sống
Mầm nhú lên đã thuần khiết vô cùng
Lá lìa cành lặng lẽ giữa thinh không.
(Trần Thanh Mai – Nghệ An)
Bài thơ xoay quanh cái tứ nhân vật trữ tình “em” bỏ nhân vật trữ tình “anh” ra đi trong thời gian dài vô tận, để lại bao nhiêu những dằng dặc tê tái. Nguyên nhân ấy đã tạo ra một chuỗi những tâm cảm thảng thốt nhói buốt trải dài phía sau bài thơ. “Em” đi rồi là cũng như kéo theo cả “một nửa cửa Định An biệt ngày biệt tháng”, dĩ nhiên cái nhìn tâm trạng ấy thì sẽ phải “một nửa cửa Định An” còn lại chỉ đứng nhìn theo “nửa” kia trong một tâm cảm héo hắt. Quả đúng như người xưa đã viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du). Tình cảnh ấy được ví von với hình ảnh “sáo lẻ bầy đêm không ai bầu bạn”. Một sự cô đơn đẫm đặc, có thể hình dung tình trạng ấy ban ngày thì như “sáo lẻ bầy” còn ban đêm thì “không ai bầu bạn”. Cô đơn, vâng cô đơn tận cùng. Hơi thơ nghe có chi đó phảng phất nỗi buồn trong thơ Mới: “Người đi một nửa hồn tôi mất/ một nửa hồn tôi đứng dại khờ” (Hàn Mặc Tử).
Buồn quá biết làm gì khi “em” không một hồi âm, nhìn lên chỉ thấy “trăng Mùng Mười mắc chạc đước buồn ên”. Con trăng mùng mười buồn ên hay “anh” đang trong tâm trạng buồn hiu hắt nên nhìn con trăng sáng mùng mười mà cũng như đang kẹt trên chạc cây đước im lặng mênh mang dẫu có vằng vặc kia? Không gian ấy lại được đổ cho thêm chi tiết “giọng ông Năm Trầu xuống xề như khóc” thì than ôi, có không gian nào não nùng hơn? Sự gợi tả được tăng lên gấp nhiều lần khi ý thơ cố tình để cho âm thanh “xuống xề” ai oán như khóc như than chêm ngang bởi biện pháp so sánh. Cả không gian mênh mang nổi lên tiếng “ông Năm Trầu xuống xề như khóc” là cái nhìn thấm đẫm tâm trạng cô đơn nên gam màu chủ đạo của tâm trạng nhân vật trữ tình dĩ nhiên là buồn, buồn thấm thía.
Từ ngữ địa phương được nhà thơ đưa vô bài thật ngọt “đi mút chỉ cà tha”, “mắc chạc đước buồn ên” (là buồn một mình), “xuống xề”, “đêm miệt đồng” càng làm cho bài thơ đặc tả nỗi cô đơn xa vắng đậm đặc hơn. Hàng loạt từ ngữ diễn tả sự hụt hẫng chơi vơi “bỏ anh đi”, “biệt ngày, biệt tháng”, “lẻ bầy”, “không ai bầu bạn”, “mắc chạc đước”, “buồn ên”, “xuống xề như khóc”. Thêm nhịp thơ chậm càng làm cho giọng thơ như nghẹn như nấc. Nghẹn nấc lên từng chặp. Cô đơn đến tái tê.
Sao em nỡ bỏ anh đi mút chỉ cà tha?
một nửa cửa Định An biệt ngày biệt tháng
sáo lẻ bầy đêm không ai bầu bạn
trăng Mùng Mười mắc chạc đước buồn ên
giọng ông Năm Trầu xuống xề như khóc
đêm miệt đồng năm tháng biết cùng tên?
(Trần Thanh Dũng – Sóc Trăng)
Cảm thức lịch sử văn hóa lộng ngát trong thơ Mai Xuân Thắng. Ở đó là tư thế kì vĩ “giữa Ba Dội dõi một trăm lẻ sáu ngọn kì sơn”. Ở đó là lời tán tụng mê say “non xanh cẩm tú. Miền quê gió lộng tứ bề”. Ở đó là niềm kiêu hãnh tự hào bởi trước mặt “hoa cỏ lay” mà đã tưởng tượng ra như còn nguyên đấy cảnh “hùng binh Tây Sơn rèn quân Bắc phạt”.
Một cái nhìn đủ thoáng để thấy ngồ ngộ bởi hai hình ảnh thơ sau rất khó đi liền với nhau trong thực tế: “hùng binh Tây Sơn” và “vua Thiệu Trị từng ngự”. Bởi vậy, ý thơ như đang thủ thỉ với chúng ta rằng: Lịch sử phải được trả về đúng vị trí, công tội đều phải được lịch sử dân tộc ghi nhận và chỉ rõ, hà cớ gì hậu thế cứ mãi hậm hực phân chia?
Thoắt cái, phía dưới lời thơ xoay qua địa hạt văn hóa cũng rất ngọt. Ý thơ điểm nhắc liệt kê mà như tràn ra niềm tự hào khi ý thơ miêu tả nữ sĩ lừng danh Hồ Xuân Hương đã từng lưu dấu chân nơi này “vạt đất nào gót phong trần Bà chúa thơ Nôm đã lần qua” rồi sau cùng là bùng lên mênh mang đức tin và lòng từ bi đức độ hải hà dẫu chỉ là trong mơ hồ huyền thoại “phảng phất đức Liễu Hạnh nương bóng chiều cứu nhân độ thế”.
Ban đầu, bài thơ là sự tả cảnh hùng vĩ của thiên nhiên “Ba Dội dõi một trăm lẻ sáu ngọn kì sơn”, sau đóng lại là sự trùm phủ của tấm lòng nhân ái “cứu nhân độ thế”. Ở giữa là trùng điệp hình ảnh nhân dân anh hùng, vua tài đức, và chêm xen không thể thiếu đó là sự tài hoa con chữ của con người. Thốt nhiên, chúng tôi lại nghĩ đến hai câu thơ lừng vang của thi sĩ Huy Cận “Sống vững chải bốn ngàn năm sừng sững/ lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.
Có thể nói cảm thức lịch sử và văn hóa là thế mạnh của Mai Xuân Thắng. Điều đó đã giúp anh tạo tác dáng hình thơ 1-2-3 khó quên về một vùng đất nói riêng và đất nước nói chung. Giọng thơ vừa rền vang hùng khí dân tộc vừa mềm mại thiện lương dịu lành. Chinh chiến quyết tử song hành cùng với tình người độ thế càng làm cho bài thơ có lực hút và dấu ấn hơn. Một tác giả mới mon men bước chân vào sân chơi thơ 1-2-3 mà đã có được bài thơ giàu năng lượng trầm tích văn hóa và thế sự như vậy âu cũng là điều đáng quý. Mừng thay!
Giữa Ba Dội dõi một trăm lẻ sáu ngọn kì sơn
Non xanh cẩm tú. Miền quê gió lộng tứ bề
Hoa cỏ lay ngỡ hùng binh Tây Sơn rèn quân Bắc phạt
Lối nhỏ nào vua Thiệu Trị từng ngự
Vạt đất nào gót phong trần Bà chúa thơ Nôm đã lần qua
Phảng phất đức Liễu Hạnh nương bóng chiều cứu nhân độ thế.
(Mai Xuân Thắng – Sài Gòn)
Diễn đàn Thơ 1-2-3 trên facebook đang thổi luồng sinh khí mới cho thể thơ mới thuần Việt. Từ những bài thơ hay trên diễn đàn này và Văn Học Sài Gòn, nhà phê bình Khang Quốc Ngọc tiếp tục chọn lọc và bình phẩm, hướng tới một cuốn sách phê bình văn học đầu tiên về thơ 1-2-3. Những bài thơ được chọn bình lần này là của các tác giả: Nguyễn Tiến Nên ở Quảng Bình, Kim Mi Di – Sài Gòn, Nguyễn Ba – Thanh Hóa và Lý Nguyễn Minh – Hà Nam. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Một sự diễn ngôn khá lạ “tôi đi giữa tôi và tôi và tôi”. Bốn lần chữ “tôi” xuất hiện trong một dòng thơ thì kể cũng là chuyện xưa nay hiếm. Ở đó, thấy có bóng dáng phân thân, có cái nhìn bản ngã. “Và tôi và tôi” nhằm nhấn mạnh rằng tiếng nói bản ngã là vô cùng quan trọng, là bởi trong cuộc đời bản ngã lúc nào cũng có thể lên tiếng. Nhưng “tôi” lại đi giữa thực trạng một bên nhảy ra vỗ ngực, một bên thèm muốn phân thân để nhìn ngắm, thì thực trạng ấy, nghĩa là sự bóc tách, yêu cầu thoát xác để có cái nhìn khách quan vô tình rơi vào mâu thuẫn “nhìn đâu cũng thấy tôi và tôi và tôi”. Cấu trúc thơ ở dòng hai có chút thay đổi nhưng điệp ngữ xuất hiện làm cho sự mâu thuẫn dường như lùng nhùng hơn. Bởi thế, dòng thơ thứ ba thấy có hai hình ảnh dường như ngược chiều nhau “hướng tâm” và “li tâm”. Câu thơ như hô lên xác nhận “những chuyển động hướng tâm li tâm bát nháo”. Chữ “bát nháo” gần như đã xác tín một thực trạng mâu thuẫn giằng co trong tâm tưởng nhân vật trữ tình, đồng thời dường như cũng muốn khẳng định rằng “những chuyển động” ấy mang sắc vẻ của sự không hài lòng nên mới có cái nhìn ngược chiều nhau “hướng tâm li tâm bát nháo” như vậy chăng?
Những vòng quay ngược hướng kia đã đem đến một thực tế “suýt biến tôi thành con quay vô định”. Mình tự đày mình để rồi trở thành “con quay vô định” ư? Điều gì đã giúp cho nhân vật trữ tình của bài thơ thoát được cảnh ấy? Có một chút mường tượng lờ mờ “hình như trong quỹ đạo không là quỹ đạo ấy” bất giác có một điều lạ xuất hiện đã cứu vớt được chính cái bản ngã tưởng như sẽ phải đối mặt với sự cuồng quay kia “tiếng chim gọi câu thơ mọc cánh và tôi tìm được chính mình” quả là hết sức đáng mừng.
“Tìm được chính mình” là một lời khẳng định sau khi có hiện trạng “câu thơ mọc cánh” như là “tiếng chim gọi” đánh thức mình, lôi mình dậy và dắt mình đi! Thì lẽ tất nhiên, “tiếng chim gọi câu thơ mọc cánh” phải là tiếng nói, tiếng gọi tha thiết lắm mới có đủ sức mạnh lay tỉnh thâm tâm con người. Phải chăng điều ấy là sự hóa thân của một tâm hồn thăng hoa trước sự xuất hiện tiếng nói tri kỉ, của tiếng thơ tri âm vẫy gọi? “Tiếng chim gọi” để cho “câu thơ mọc cánh” thì kiểu nhân cách hóa theo lối nhân quả ấy lại làm cho tâm hồn nhân vật trữ tình một lần nữa vụt thức mà tìm được cho ra “chính mình”. Câu thơ cuối như lời phát lộ tâm cảm hạnh phúc bởi điều kiện đủ để tìm ra “chính mình”. Tiếng nói vỡ lẽ qua một giọng thơ giàu chiêm nghiệm là lạ, qua đó có thể khẳng định tác dụng vô biên như là một hiện diện cứu cánh của “tiếng thơ” trong việc dẫn dắt và vỗ về tâm hồn. Giọng thơ dìu dịu và chân thành, vừa bộc bạch bày tỏ vừa chậm rãi khẳng định để suy tôn tiếng nói vụt thức giác ngộ của tâm hồn thuần khiết như là một bản ngã trong veo cực kì đáng mến:
Tôi đi giữa tôi và tôi và tôi…
Nhìn đâu cũng thấy tôi và tôi và tôi
Những chuyển động hướng tâm li tâm bát nháo
Những xé giằng suýt biến tôi thành con quay vô định
Hình như trong quỹ đạo không là quỹ đạo ấy
Tiếng chim gọi câu thơ mọc cánh và tôi tìm được chính mình.
(Nguyễn Tiến Nên – Quảng Bình)
Bài thơ không nhắc nhiều đến nhân vật trữ tình “anh” nhưng tình anh trong tâm hồn nhân vật trữ tình “em” thì tràn ngập trong tác phẩm. Mượn câu chuyện được “viết trong mơ” để thổ lộ tình cảm luyến ái lứa đôi kiểu lấy cái xa để nói cái gần nghe thật ngọt và đằm dịu. “Em” tự nhủ rằng “không” cần “soi gương trăng” nhưng “em” “sẽ viết bài thơ tình giản dị” cho chúng mình! Sự so sánh xuất hiện giữa việc “em” viết bài thơ tình y “như xếp một thể viên tròn đặt lên kệ” là đã hình ảnh hóa việc tâm tư để có thể nhìn thấy và tưởng tượng ra việc “em” làm. Việc cố tình “không soi gương trăng” mà nhân vật trữ tình “em tự nhủ” để “sẽ viết bài thơ tình giản dị” tưởng rằng dễ mà lại là một việc làm cực kì khó hệt “như xếp một thể viên tròn đặt trên kệ”. Vật thể viên tròn có dáng dấp mặt trăng kia mà lại phải tự xếp cho yên lên kệ có gì đó chông chênh khó vững và ám ảnh mặc dù “em không soi gương trăng”. Điều ấy, có lẽ muốn diễn tả rằng trong tình cảm riêng tư, nếu còn khoảng cách để rồi phải “viết trong mơ” hư ảo như thế thì làm sao chẳng vướng vào độ chòng chành, tránh sao khỏi âu lo? Sự lo lắng ẩn phía sau bốn chữ “năm tháng rộng dài”. Dẫu thế, trong tình yêu dù có nồng nàn cháy khát đến đâu đi chăng nữa mà chỉ có một phía thì chưa thể lấy gì đảm bảo cho sự bền chặt giữa “anh” và “em” được. Nhưng cho dù thế nào đi nữa thì “em” vẫn luôn sống trong một không gian tràn ngập hình bóng “anh” vì mãi mãi “cứ thế thở anh”. “Anh” như là nguồn dưỡng khí nuôi dưỡng tâm tư tình cảm con người “em”. Nồng nàn quá, say đắm quá và cũng chung thủy quá!
Từ những điều phân tích trên có thể thấy rằng, đây là một bài thơ tình nói lên tiếng nói tình yêu lứa đôi nhớ nhung nồng nàn nhưng vẫn phảng phất bóng dáng tình yêu đơn phương. Giọng thơ chậm rãi nhưng da diết đằm sâu. Câu chữ cắt gọt gọn ghẽ mà ý tứ thì như được kéo dài ra, mênh mang. Tình huống thơ được đặt ra như là một điều kiện để cho nhân vật trữ tình “em” giãi bày, để rồi hướng đến một khẳng định, mãi mãi là anh, là anh là anh và duy nhất là anh mà thôi. Ban đầu là “viết trong mơ” để rồi sau cùng là “cứ thế thở anh” thì còn gì gắn bó mặn nồng hơn. Lúc đầu, chất lãng mạn lãng đãng bởi có yếu tố màu sắc “trong mơ” nhưng cuối cùng lại là hiện thực “cứ thế thở anh”. Câu cuối vo tròn lại như một mệnh đề chắc gọn, rằng “em” đã rất hài lòng với giấc mơ về anh, tin tưởng ở anh. Chắc nịch thế. Yêu quá!
Kim Mi Di nén chữ bởi sự tỉnh lược tối đa câu chữ sao cho diễn tả hay nhất, đúng nhất tâm trạng nhân vật “em” đang cực kì nồng nàn và say đắm trong mối tình với nhân vật “anh”. Lời thơ chủ yếu bộc lộ tâm tư một chiều từ phía tình yêu có thể là đơn phương nhưng không kém phần nồng cháy. Do vậy, lời thơ gọn, biện pháp so sánh làm bùng nổ tứ thơ. Một lối viết gọn, kiệm lời rất đáng trân trọng!
viết trong mơ
không soi gương trăng em tự nhủ
sẽ viết bài thơ tình giản dị
như xếp một thể viên tròn đặt lên kệ
năm tháng rộng dài
cứ thế thở anh
(Kim Mi Di – Sài Gòn)
Trong cuộc đời mọi thứ ta nhìn thấy bằng mắt thường, đôi khi lại không phải như thế. Mà đâu chỉ mắt thường, nếu tâm tư tình cảm và tư duy anh chỉ nhìn bằng con mắt phiến diện thì có lẽ cũng chả khác chi!
Câu thơ thứ nhất gói trong một mệnh đề khá bao quát vì nó được đặt trong một cấu trúc “tưởng >< mà” đầy ẩn ý. Mượn cách nói mâu thuẫn để vỡ lẽ điều chi đó trong cuộc đời “tưởng vẫn thế mà không phải thế”. Hơn nữa, đọc toàn bộ bài thơ chúng ta sẽ thấy trong dòng thơ ấy còn ẩn tàng cả tâm tư hi vọng.
Một sự sống “tinh khôi hé tươi non” đã bật mầm và khởi sắc. Chữ “sáng đầu năm” được đặt phía trước “tinh khôi hé tươi non” đem đến cho độc giả cảm giác tràn trề năng lượng tích cực của sự thay đổi hướng đến cuộc sống tươi mới. “Nhựa lặng lẽ ủ mầm” là lời khẳng định sức mạnh sự sống có ngay từ bên trong. Một tiếng nói bản thể tin yêu sự sống.
Ba câu thơ đầu mới chỉ là bước dậm nhảy tạo đà, phải đến ba câu sau thì ý thơ mới vút đi ở cái thế mênh mang đa nghĩa. Nhân vật trữ tình “em” xuất hiện như một sự kế thừa nhịp nhàng bước dậm nhảy tạo đà phía trên để chúng ta có thể hiểu nhân vật “em” vừa như là “em” trong nghĩa yêu đương lứa đôi bình thường vừa như là một hiện hữu của những tâm tư mong cầu đổi thay được đặt ra thường hằng trong cuộc sống.
Bài thơ hài hòa về ngữ âm, kết bài vừa đóng vừa mở, câu một câu sáu có sự hô ứng đồng vọng mà tình ý thì miên man vô cùng, “tưởng vẫn thế mà không phải thế/ em vẫn em mà khác lạ những ngày thường…”. Tác giả Nguyễn Ba đã rất khéo léo và thật tinh tế khi lấy bối cảnh thời khắc năm mới để bộc bạch tâm tình. Ở đó có bóng dáng quy luật đấu tranh của các mặt đối lập để tiến hóa “em vẫn em mà khác lạ những ngày thường” là bởi trước đó có xuất hiện mệnh đề tạo đà “tưởng vẫn thế mà không phải thế”. Điều ấy ấp ủ một niềm tin đổi thay tích cực trong cuộc đời, chấp nhận cái khác lạ trên nền tảng của cái vốn dĩ quen thuộc “em vẫn em mà khác lạ những ngày thường”. Nhịp thơ chậm. Giọng thơ giàu chất suy tư, vỡ lẽ.
Có thể nói, bài thơ của nhà thơ Nguyễn Ba để lại rất nhiều dư ba: Khơi gợi niềm tin trong mọi hoàn cảnh; tiếng nói nhắc nhở xa xôi về cái nhìn, tầm nhìn; lặng lẽ chia sẻ quy luật thiên nhiên trong những cảnh vật dễ thấy, dễ cảm; gửi gắm niềm tin vào sự thay da đổi thịt theo quy luật tiến hóa… Bởi thế, câu thơ cuối nhẹ nhàng như không mà chắc gọn vang vọng “em vẫn là em mà khác lạ những ngày thường”!
Tưởng vẫn thế mà không phải thế
Trong cành khô nhựa lặng lẽ ủ mầm
Sáng đầu năm tinh khôi hé tươi non
Em cũng ủ trong tuổi trời hương mật
Đêm giao thừa hoa quả ngọt và thơm
Em vẫn em mà khác lạ những ngày thường…
(Nguyễn Ba – Thanh Hóa)
Một bài thơ tình có điều chi đó bất bình thường. Bài thơ mở ra là một không gian rất đặc biệt. Đêm thinh lặng đã được nhân hóa thành “đêm vô ngôn”. Một sự chuyển động rất nhẹ “ánh đèn khuya nhếch mép” và “tiếng cười” thì chỉ “leo lét”. Ở hai câu thơ thứ hai và thứ ba tác giả đã cố tình đánh đổi kiểu nói thông thường thành một cách nói lạ “ánh đèn khuya” thì “nhếch mép” và “leo lét một tiếng cười”. Sự cố tình hoán đổi không như theo truyền thống ấy sẽ đem đến cho độc giả một sự tò mò. Vì sao lại như vậy? Không gian được thể hiện trong bài thơ là một không gian ở đâu mà lạ lùng như thế? Nghệ thuật lấy động tả tĩnh truyền thống có còn tác dụng gì ở đây?
Đến câu thơ thứ tư thì câu trả lời có phần ló dạng “ánh mắt tình chỉ nhìn nhau gạ gẫm”. Thì ra cái không gian trên kia là một không gian thật sự không bình thường trong cái lẽ đáng ra phải bình thường. Tình cảm phát lộ ra qua bốn chữ “nhìn nhau gạ gẫm” thì đương nhiên tiếng nói tình cảm ấy cũng không phải là tiếng nói lứa đôi bình thường, mà nó mang màu sắc trao đổi nên có thể dẫn đến kết cục chóng vánh. Do đó, “bao lời bỗng dưng ngọng nghịu” là ý thơ muốn diễn tả cái thần sắc ngượng ngùng không tự nhiên. Tưởng rằng trao đổi qua vài câu gạ gẫm là sẽ tự nhiên thôi nhưng thực tế diễn ra lại hoàn toàn không hẳn như vậy. Chớp lóe cái sự thiện lương là ở chỗ này. Nhờ chi tiết “bao lời bỗng dưng ngọng nghịu” đã giúp cho “đêm vô ngôn” kia của ai đó vượt lên bao nhiêu những tầm thường, những dèm pha dè bỉu chăng? Sau rồi thì tất cả lại chìm trong bóng đêm bởi “đêm vô ngôn” đang tiếp tục “giở trò trêu ngươi” con người.
“Đêm” tại sao lại “trêu ngươi” và “trêu ngươi” ai? Đúng ra bóng “đêm” kia phải là đồng minh để đồng lõa cho những cuộc tình đôi lứa mới đúng chứ? Một sự thức tỉnh dù nhẹ đã lay động tâm can con người. Cuộc tình “gạ gẫm” phát xuất từ một cái nền không gian tràn ngập những điều trái khoáy của những “nhếch mép”, “leo lét” để phải “ngượng nghịu” không còn được tự nhiên thì đó đâu phải là một cuộc tình lứa đôi bình thường, mà đó chắc chắn phải là bóng dáng cuộc “tình một đêm” đồng giới hoặc tình giả mang màu sắc trao đổi vụng trộm. Trớ trêu quá! Bới thế, sự “trêu ngươi” ấy của “đêm” giúp cho bài thơ cất lên tiếng nói chia sẻ cảm thông hơn là sự oán trách.
Bài thơ nén chữ, kiệm lời, tuy không thấy bóng dáng nam nữ trữ tình xuất hiện mà vẫn đẫm đặc tiếng nói của một cuộc tình lứa đôi kì lạ!?
Đêm vô ngôn
Ánh đèn khuya nhếch mép
Leo lét một tiếng cười
Ánh mắt tình chỉ nhìn nhau gạ gẫm
Mà bao lời bỗng dưng ngọng nghịu
Đêm giở trò trêu ngươi..
(Lý Nguyễn Minh – Hà Nam)
Hai cây bút kỳ cựu: Đặng Toán ở Thái Bình, Thanh Yến ở Sài Gòn cùng hai cây bút mới xuất hiện: Nguyễn Kim Lan ở Hà Nội, Dương Vũ ở Đồng Nai là những tác giả thơ 1-2-3 được nhà thơ, nhà phê bình Khang Quốc Ngọc chọn thơ để bình trong kỳ này. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Mượn thơ để nói đến những phận người thấp bé trong xã hội “bông hoa dại nép bên lề đường”, họ luôn cô đơn “ngơ ngác nhìn dòng người xuôi ngược”. Do thế, “bông hoa dại” kia “không biết có mùa xuân” là cái nhìn chia sẻ đối với tình cảnh “bông hoa dại nép bên vệ đường”. Điều ấy gợi ra ẩn ý tách rời vì sự mưu sinh chăng? Dường như mùa xuân vui tươi, nhộn nhịp, đông vui, ồn ào là để giành riêng cho ai kia chứ nhất định không phải cho những cánh “hoa dại nép bên lề đường”? Ý thơ dâng lên một chút tủi thân mủi lòng và thương cảm.
Do đó, một cái nhìn được đặt trong tâm thế của những “bông hoa dại” và cũng là của những phận người thấp bé kia phải chăng là để hiểu họ, chia sẻ và cảm thông với họ? “Mai bên đào hớn hở rung rinh” được đặt bên cạnh hình ảnh “hoa dại khép cánh bâng khuâng” là thủ pháp so sánh mang màu sắc trái chiều nhằm nhấn mạnh quy luật vô thường đang miên viễn trôi. Bên thì tươi vui khoe sắc “hớn hở, rung rinh”; bên thì âm thầm “khép cánh bâng khuâng”. Hai trạng huống sống ấy còn gợi nhắc đến chúng ta bao điều về những phận người trong cuộc đời này. Khi có điều kiện đủ đầy thì vươn mình bung nở kịch dương để hài hòa; khi không có điều kiện thì an phận trong thế cực âm “khép cánh bâng khuâng” âu cũng là lẽ đời phải thế!? Hai chữ “bâng khuâng” diễn tả rất hay tâm trạng người trong cuộc được nhìn theo chiều kích khép mình là để được thấy rõ mình hơn. Vẫn biết thế nhưng đọc lên không thể không cảm thấy sụt sịt những tâm tư mà miên man buồn.
Câu hỏi kết thúc bài thơ “bao giờ đến tết của mình…”, cộng thêm dấu chấm lửng phía sau như là sự chấp nhận trong im lặng mặc cho sự thở dài lôi đi. Câu hỏi tu từ mà ẩn chứa cả một trời mênh mang tâm trạng. Đau đáu hồn người. Xa xót quá! Những phận người lẻ loi như bị tách hẳn ra khỏi cuộc sống khi mùa xuân về, chỉ là những cuộc đời đứng và “nép bên lề đường” mà thôi, họ tìm đâu ra tâm thế hòa mình hớn hở cùng nàng xuân với tất thảy?
“Bao giờ đến tết của mình…” nhẹ nhàng nhưng lại như một vết cứa có thể làm cho chúng ta phải lặng người mà suy tư. Phải chăng là số phận đã an bài? Cao thấp, trên dưới, dở hay, sang hèn… là những sự thực hiển nhiên tồn tại trong bất cứ một xã hội nào? Do thế, ý thơ không cố tình xoáy sâu vào sự phân tầng nhưng lại thấp thỏm cái nhìn theo hiện trạng mang màu sắc phân li. Lấy bối cảnh mùa xuân để thổ lộ tâm tình đối với sự phân tầng và hướng cái nhìn cảm thông đến những phận người bé nhỏ như những “bông hoa dại nép bên lề đường” cũng đủ thấy một tâm thế luôn xao xác và cồn cào vì những phận người nhỏ bé, cô lữ. Thật đáng quý biết bao!
Không biết có mùa xuân
Bông hoa dại nép bên lề đường
Ngơ ngác nhìn dòng người xuôi ngược…
Mai bên đào hớn hở, rung rinh
Hoa dại khép cánh bâng khuâng
Bao giờ đến tết của mình…
(Đặng Toán – Thái Bình)
“Cái tuổi nó đuổi xuân đi”, ai rồi chẳng thế. Có né, có tránh cũng chả được. Quy luật rồi, muôn đời như thế. Do vậy, cứ sống thảnh thơi mà chấp nhận tất cả có lẽ sẽ hơn chăng? Biết thế nhưng cũng chẳng khỏi thảng thốt khi vết chân của thời gian in hằn lên quá rõ trong cuộc đời? Thiết nghĩ, sự mong cầu “vá víu những mảng xanh ngày cũ” đâu chỉ là tâm sự của riêng nhân vật trữ tình, mà có thể nó là tâm sự chung của rất nhiều người khi đã vào độ tuổi “mùa gọi mùa xao xác”. “Ngày cũ” là kí ức, hiện tại đang nhìn về “kí ức” với con mắt “những mảng xanh” thì hẳn nhiên đó là cái nhìn đẫm đầy vẻ tiếc nuối. Bởi chắc chắn, nhân vật trữ tình đã sống qua “một thời mơn mởn lá non tơ” thì phải hiểu sâu sắc vẻ tươi đẹp và hấp dẫn của nó. Ấy là một thời kì tràn trề năng lượng sống, trẻ trung yêu đời. Chi tiết “bỗng giật mình” khắc họa rõ nét thái độ ngạc nhiên đầy thảng thốt khi nhận ra bước đi của thời gian “mùa gọi mùa xao xác”. Vẫn biết thế nhưng “cái tuổi nó đuổi xuân đi” thì làm sao cho khỏi thảng thốt?
Xuống đến khổ thơ cuối thì cái tâm trạng kia rõ nét hơn, nhìn rõ mình, rõ thực tại trong một tâm thế chấp nhận. Hành động đi “lượm lặt từng phút giây chèo kéo lại niềm vui” đã gọi được ra bao nhiêu những chạnh lòng. Câu thơ không chỉ phảng phất nỗi buồn bước đi tàn phá của thời gian mà nó còn ẩn chứa những điều khác nữa trong cuộc đời vì hai chữ “lượm lặt”. “Lượm lặt” là gom góp, nhặt nhạnh trong một điều kiện quá ít ỏi so với nhu cầu thực tế. Ý thơ he hé cho thấy vẫn còn đó chút tình vương mang nặng lòng với những thứ đã lùi xa vào kí ức.
Xu hướng ẩn mình hẳn vào trong quá khứ mà miên man với kí ức lại xuất hiện “ngắm nghía bức tranh ẩn hiện trong tiềm thức” gợi ra sự xót xa. “Bức tranh” kí ức chỉ là “ẩn hiện trong tiềm thức thôi”, không rõ ràng lắm nhưng có lẽ vẫn còn hơn cuộc sống thực tại. Và điểm cao trào đã xuất hiện “bất chợt dung nhan ngân ngấn giọt ngậm ngùi”. Tâm trạng của nhân vật trữ tình đã làm cho chính tâm hồn mình phải rơi lệ. Khóc cho dung nhan hay dung nhan khóc cho con người thì đều là những giọt nước mắt nuối tiếc, ngậm ngùi pha nặng sự xa xót. Chúng tôi đồ rằng, nhân vật trữ tình chính là hình mẫu của tuýp người quá nặng về quá khứ, sống theo kí ức.
Vá víu những mảng xanh ngày cũ
Một thời mơn mởn lá non tơ
Bỗng giật mình mùa gọi mùa xao xác
Lượm lặt từng phút giây chèo kéo lại niềm vui
Ngắm nghía bức tranh ẩn hiện trong tiềm thức
Bất chợt dung nhan ngân ngấn giọt ngậm ngùi.
(Thanh Yến – TPHCM)
Những câu thơ nhẹ nhàng như hơi thở mùa xuân, êm đằm nữ tính. “Sẽ tìm” là lời hứa hẹn của lòng mình, trong ấy thấy có bóng dáng tha thiết và cả sự quyết tâm nhất định. Vậy thì tìm cái gì mà phải hứa hẹn như là một lời nhắn nhủ cho quyết tâm kia, thì ra là phải đi tìm “cánh hoa ấy” đang lẩn khuất “đâu đó trên khu đất dự án”.
Lời thơ nhẩn nha, thủng thẳng có vẻ chẳng vội vàng gì. Chầm chậm vậy, đã có định hướng rồi mà “đâu đó trên khu đất dự án” thì lo gì tìm không gặp?
Đường đi tìm “cánh hoa ấy” phải “bắt qua đường container” he hé ra phía trước một sự ngáng trở. Làm sao trước tình cảnh này? Ngáng trở để thử lòng chăng? Vượt qua bằng cách nào khi hình ảnh “bắt qua đường container” luôn luôn là một hiện thực ồn ào đầy nguy hiểm?
Và hành trình “đi tìm cánh hoa ấy” vẫn âm thầm diễn ra, vì xét cho cùng thì một khi đã dấn bước, quyết tâm rồi thì chẳng có gì có thể ngăn cản được bước chân con người. Hình ảnh “ngõ nâu rêu cũ” xuất hiện ngay phía bên dưới đã làm cho tâm trạng người “đi tìm cánh hoa ấy” càng như thêm sự quyết tâm hơn. Tại sao hình ảnh “ngõ nâu rêu cũ” lại đột ngột xuất hiện và có vẻ như không ăn nhập gì với câu thơ phía trên liền kề? Rồi phía dưới rõ ràng đã xuất hiện câu thơ có thi ảnh, cách lập ngôn rất đẹp và lạ “cây bưởi gài hoa lên vườn cà vừa nụ” lại cũng như hơi xa lạ như vậy?
Những câu thơ như những ám ảnh tách rời mà lại được ràng buộc vào nhau kiểu cuộn tròn. Ba dòng thơ đầu là hy vọng, “cánh hoa ấy” sẽ nở “trên khu đất dự án”. Điều ấy ẩn dụ cho một ước mơ đẹp đẽ rất đáng trân trọng. Dự án nào chẳng mang trọn những khát khao thành tựu nở hoa? Một cách nói hình ảnh giàu ẩn dụ để diễn tả nỗi niềm kia. Nhưng rồi, có thể lâu quá rồi, hoa thì chẳng thấy nở mà dự án kia thì vẫn mang đầy những dấu tích cũ kĩ, rêu phong, “ngõ nâu rêu cũ” và chưa có chi gọi là khởi sắc niềm vui cả. Hình như mọi hứa hẹn đã bị đóng băng? Bởi vậy mà “cây bưởi gài hoa lên vườn cà vừa nụ” là một hình ảnh gợi ra những nỗi suy tư trầm lắng mà miên viễn rồi mông lung! Những cánh hoa bưởi gài lên vườn cà vừa nụ nghe lặng lẽ chồng lấn của sự im lặng mà thiếu đi sức sống bật mầm của dự án đầy những khát khao vươn tầm kia…
Một sự đột phá trong thơ Nguyễn Kim Lan. Chất thế sự ngấm vào con chữ rất tự nhiên, thơ chị gợi nhiều hơn tả, dồn chứa ứ đầy rồi bung nở ý tứ trong những câu thơ rất giàu thi ảnh.
Sẽ tìm
Cánh hoa ấy
Đâu đó trên khu đất dự án
Đi bắt qua đường container
Ngõ nâu rêu cũ
Cây bưởi gài hoa lên vườn cà vừa nụ
(Nguyễn Kim Lan – Hà Nội)
Ký túc xá được nhìn qua con mắt tươi trẻ, cực kì sống động. Điểm nhìn đầu tiên về ký túc xá là “những cái giường tầng bằng sắt biết hát” khi ký túc xá vào “mùa lễ hội đêm ngày”. Hình ảnh nhân cách hóa “những chiếc giường tầng bằng sắt biết hát” đã miêu tả thú vị bao nhiêu những cung bậc tình cảm xôn xao của một thời sinh viên tươi trẻ mê say và có phần đắm đuối. Ở đó thấy có thấp thoáng bóng dáng tình cảm riêng tư; ở đó có tiếng nói đam mê cuồng say của tuổi trẻ, ở đó có sự hết mình tập luyện và thăng hoa. Hình ảnh nhân hóa ấy đủ cho thấy sự véo von nhiệt tình và sôi nổi.
Bài thơ hé ra một chi tiết lứa đôi khó có thể thiếu trong lứa tuổi sinh viên “có cô bé cùng quê học trường sư phạm” để có cái cớ cho nhân vật trữ tình thốt lên “đi lạc đường đến cùng ca hát bài hát sinh viên”. Có cái cớ rồi thì phải “ca hát” thôi. Ca hát là để hòa nhịp với không khí “lễ hội đêm ngày” vui nhộn, thì chẳng qua cũng chỉ là sự hòa nhập vào niềm vui chung thôi mà. Và một khi đã hòa với cái không khí “chung” rồi thì lâu ngày ắt là phải có cái chi đó thật…“riêng” tư. Tâm sự ấy đâu còn là chuyện “đi lạc đường” nữa, nên do vậy, hình ảnh kết thúc bài thơ “cả ký túc xá sõng soài những con mắt ngoài hành lang” cũng là chuyện dễ hiểu!
“Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò” thì lẽ đương nhiên thứ tư phải là sinh viên. Mọi xôn xao, hiếu kì tập trung trong chi tiết “cả ký túc xá sõng soài những con mắt ngoài hành lang”. Hình ảnh ấy tái hiện rất chuẩn và sinh động về những trạng thái tâm lí thập thò đầy những hiếu kì của sinh viên khi có ai đó lạ xuất hiện trong khu vực thân quen của mình. Nó có chút chi đó ranh mãnh và háo hức, có chi đó bộp chộp láu táu, có chi đó rủ rỉ rù rì đám đông chen chúc rất đặc trưng sinh viên một thời tuổi trẻ nhiệt tình và đầy những hiếu thắng, bồng bột, nông nổi…
Và thế là “ký túc xá” cuộn vào trong kí ức biết bao những kỉ niệm đẹp, mơ mộng (có cả mơ hồ) và lãng đãng. Tụ tán ầm ào để rồi vùn vụt trôi vào kí ức. Lời thơ tự nhiên miêu tả chất sống sinh viên khá thú vị, giọng điệu chân tình, giàu sức gợi. Ai đã qua thời sinh viên có lẽ sẽ thấy bóng dáng mình thấp thoáng đâu đó trong bài thơ này.
Ký túc xá
Ký túc xá những mùa lễ hội đêm ngày
Những cái gường tầng bằng sắt biết hát
Có cô bé cùng quê học trường sư phạm
Đi lạc đường đến cùng ca hát bài hát sinh viên
Cả dãy ký túc xá sõng soài những con mắt ngoài hành lang…
(Dương Vũ – Đồng Nai)
Bài thơ long lanh quá! Một sự kiếm tìm, cất giấu rồi sử dụng cái đẹp và tiện ích trong cuộc đời nói bằng ngôn ngữ thi ca rất giàu hình ảnh. Bài thơ được chia làm hai phân khúc rất rõ. Ba dòng thơ đầu làm nền thiên nhiên để cho ba dòng thơ cuối thể hiện ý tưởng về con người. Dụng ý đó phải chăng tác giả muốn nhấn mạnh một thông điệp: thiên nhiên vẫn luôn luôn là “người mẹ” của tất cả chúng ta?
Sự xuất hiện chữ “không” trong câu thơ đầu “những đôi chim cu không làm tổ vào mùa xuân” có vai trò như chiếc chìa khóa mở ra vấn đề. “Làm tổ vào mùa xuân” là viên mãn rồi, thế thì có còn gì để mà hấp dẫn và lôi cuốn nữa? Bởi thế, “không làm tổ vào mùa xuân” nhưng vẫn có “đôi” có cặp xuất hiện thì đương nhiên, phía sau câu chữ đó phải là cái gì đó của tình tự, của những ấp ôm mơn trớn lôi cuốn mang tính chủ động.
Quả đúng như thế, “từng đôi mải mê đính vào buổi sáng tháng giêng/ những chuỗi cườm long lanh tiếng hót” thì hỡi ôi, còn chi là đẹp hơn thế, số nhiều xuất hiện trong cả ba dòng thơ (“những”, “từng đôi”, “những”) đã làm tràn ngập không gian và thời gian “buổi sáng tháng giêng” bao nhiêu những lung linh của tình yêu, của lứa đôi. Hình ảnh hóa âm thanh tiếng hót “những chuỗi cườm long lanh tiếng hót” được “đính vào buổi sáng thánh giêng” thật ngọt ngào và tinh khiết. Tiếng nói tình cảm lứa đôi trong sáng vô cùng nhưng lại đẫm đặc dẫn dụ và mơn man. Câu thơ như rải cảm xúc vào lòng người. Mê say. Chả thế mà nữ sỹ Vũ Trần Anh Thư đã phải thốt lên rằng “Bài thơ trong veo như “chuỗi cườm long lanh tiếng hót”. Và “tiếng chim rơi” ấy trong đến độ soi được lên ánh mặt trời thì quả là báu vật của trẻ thơ. Thứ nguyên liệu có một không hai ấy cất giữ để mùa thu 20 năm nữa lấy ra xây tổ ấm thì còn gì bằng…”
Và thế rồi, con người xuất hiện, làm cho bức tranh xuân, tháng giêng như ngọt ngào và hoàn thiện hơn. “Lũ trẻ gái lên đê nhặt tiếng chim rơi”. Một sự hoán đổi cảm giác trong một hình ảnh ẩn dụ rất độc đáo “nhặt tiếng chim rơi”. “Nhặt” bằng sự lắng nghe và thẩm thấu của tâm hồn. Thiên nhiên trong lành gặp được tâm hồn trong sáng. Một sự đồng điệu khá thú vị. Do vậy mà xuất hiện thêm hành động khá độc đáo chăng “soi lên ánh mặt trời rồi giấu vào trong ngực”? “Tiếng chim rơi” kia là tiếng nói ẩn dụ cho tình cảm riêng tư luyến ái. Hành vi ấy nói lên ý nghĩa chủ động hòa hợp với thiên nhiên của “lũ trẻ gái” và cũng là của con người. Bởi thế, không thể không có hai hành động liền kề “soi lên mặt trời” và “rồi giấu vào trong ngực”. Sự xuất hiện hai hành vi liền kề ấy đâu chỉ là tiếng nói của logich lí tính mà nó còn như một hành động âm thầm tự giác một khi con người đã thấu hiểu và đốn ngộ? Liếc xuống phía dưới, câu thơ diễn giải ý nghĩa kết luận cho hành vi trên rằng “mùa thu hai mươi năm nữa lấy ra xây tổ ấm cho mình” thì quả là điều tuyệt vời! Kiếm tìm để nâng niu, chắt chiu để tạo bệ phóng, và cất giữ để xây cho mình “tổ ấm” sau khi đã tích đủ nhựa.
Lời thơ ngọt đầy những chăm bẵm. Giọng thơ trong sáng ngọt ngào. Ý thơ đa nghĩa được chuyển tải qua những câu thơ giàu hình ảnh.
Những đôi chim cu không làm tổ vào mùa xuân
Từng đôi mải mê đính vào buổi sáng tháng giêng
Những chuỗi cườm long lanh tiếng hót
Lũ trẻ gái lên đê nhặt tiếng chim rơi
Soi lên ánh mặt trời rồi giấu vào trong ngực
Mùa thu hai mươi năm nữa lấy ra xây tổ ấm cho mình…
(Nguyễn Ba)
Đời “mẹ” như một vần thơ lục bát vì được thẩm thấu qua tâm hồn người con nặng nợ với thi ca. Đẹp lắm mà cũng cơ cực vô cùng “lục bát mẹ tròng trành quang thuốc bắc”.
Hai chữ “ghềnh ghềnh” mà tác giả gieo ở câu thơ thứ hai như muốn diễn tả sự ghập ghềnh hun hút luôn kéo dài trong cuộc đời mẹ “đường quê ghềnh ghềnh mờ sáng trăng sương”. “Mẹ” gánh “quang thuốc bắc” đi trên con đường ghập ghềnh ấy hàng ngày từ tờ mờ mỗi sáng. Mà đâu chỉ có thế, “mẹ” còn phải đối mặt với bao nhiêu những sự khắc nghiệt nữa của thời tiết khí hậu “bấc cào, mưa thét” trên con đường khá xa kia “bộ chục cây” với đôi chân trần của mẹ. Chữ “bộ” vừa gợi ra tình cảnh đôi chân lội bộ cực khổ của mẹ, bên cạnh đó nó còn mang cái nghĩa những nỗi vất vả mà mẹ phải đương đầu kia gom lại thành hẳn một “bộ” đặt lên trên đôi vai mẹ. Thành thử, nỗi vất vả như bị dồn ứ lại, nhiều lắm! Vô cùng. Do vậy, sự thể đã vất vả mà qua câu chữ lại càng như vất vả hơn. Ai đã từng ở Miền Bắc thì mới có thể thấu hiểu sự dữ dội của cái giá rét kinh khủng như nào khi con người buộc phải lên đường mưu sinh trong tình cảnh mùa đông gió bấc cào xé lại thêm mưa lạnh cắt da. Bởi thế, hình ảnh nhân hóa “bấc cào, mưa thét” đã nói lên được mức độ kinh khủng của thời tiết, khí hậu. Sự khắc nghiệt ấy như lúc nào cũng chực chờ hành hạ con người.
“Mẹ” về làm vợ cha, thì hẳn nhiên đã trở thành một phần của gia đình nhà nội, nhưng không may cha mất đi để lại cho “mẹ” gánh nặng cơm áo, và “mẹ” đã “gánh nghiệp nhà, gái hóa (gái góa) đóng bà lang”. Câu thơ cốt cho chúng ta hiểu thêm vì sao “mẹ” lại phải “tròng trành quang thuốc bắc”, và vì sao “mẹ” phải đương đầu với “bấc cào, mưa thét” trên con “đường quê” hun hút gập ghềnh sớm tối như vậy. Đó là lí do vì sao mà một tay “mẹ” luôn quán xuyến và đảm đương tất cả. Bốn công đoạn “tẩm, phơi, chưng, sấy” gắn liền với bốn mùa trong năm “xuân, hè, thu, đông” là đủ thấy sự đảm đang và cực nhọc của mẹ “xuân tẩm, hè phơi, thu chưng, đông sấy”. “Mẹ” quần quật với thời gian trong năm, chả có mùa nào “mẹ” được ngơi nghỉ. Bốn động từ “tẩm, phơi, chưng, sấy” còn như là bốn công đoạn trong quá trình “mẹ” phải “gánh nghiệp nhà” thay cha mà lo toan cho gia đình. Hiện thực ấy làm cho độc giả không thể không xót lòng! Vì “mẹ” bây giờ vừa là mẹ vừa là cha!
Song, ý thơ lập tức sáng lên, sang quý ngay ở dòng kết “Thơm một nếp nhà tranh sáng bóng lưỡi dao cầu”. Đây là một câu thơ đa nghĩa, giàu hình ảnh và cực kì đẹp. Mùi thơm tỏa lan là mùi thơm của những vị thuốc bắc mà hàng ngày, hàng tháng mẹ đã “tẩm, phơi, chưng, sấy”; nhưng hương vị ấy còn là tiếng nói của sự thăng hoa kết tụ vẻ đẹp của tấm lòng “mẹ” bắt nguồn từ đôi bàn tay người thầy thuốc bất đắc dĩ nhưng lại luôn “sáng bóng lưỡi dao cầu”. Và ở đó còn có tấm lòng, sự cảm thấu và ánh lên niềm tự hào của đứa con với “mẹ”. Câu thơ đẹp quá, lồng lộng một chân dung miệt mài về nghề thuốc bắc.
Lục bát mẹ tròng trành quang thuốc bắc
Đường quê ghềnh ghềnh mờ sáng trăng sương
Bộ chục cây bấc cào, mưa thét
Gánh nghiệp nhà, gái hoá * đóng bà lang
Xuân tẩm, hè phơi, thu chưng, đông sấy
Thơm một nếp nhà tranh sáng bóng lưỡi dao cầu.
– Chú thích: Gái hóa được dùng theo kiểu từ địa phương, có nghĩa là gái góa là người vợ đã mất chồng.
(Đình Giao)
Tiếng nói tâm tình tuổi trẻ ngọt xớt trong thơ 1-2-3 Như An. Dùng lối nói đồng nghĩa nhưng lại không trùng lặp về nghĩa đã làm cho câu thơ có ý mở rất gợi “theo lối bình minh em dắt anh đi tìm nắng mới”. Tuy hai chữ “bình minh” và “nắng mới” đều có chung một nét nghĩa là mở đầu nhưng lại ẩn chứa những nét nghĩa khác nhau. “Lối bình minh” là lối mở đầu, tươi mới, còn “tìm nắng mới” là tìm những cái ấm áp tươi non và mở đầu cho một hành trình mới. Một cách chơi chữ quả là ấn tượng. Thêm hai ngữ động từ “theo lối” và “đi tìm” là điểm nhấn cho câu thơ thì càng làm cho ý thơ xôn xao lên vẻ đẹp chủ động giàu năng lượng tích cực trong cảm thức lứa đôi.
“Tìm nhỏ chào mào soi bóng trước sương non/ tìm ngọn cỏ thơm mơn mởn xanh giòn” là hai câu thơ diễn tả khá hay, giàu hình ảnh về kỉ niệm một thời đầy ắp lãng mạn. Sự kết hợp ngữ âm và vần điệu đã làm cho ý thơ như tươi mới và nõn nà hơn. Tất cả được nhìn qua lăng kính mở màn và non tươi. Những hình ảnh “soi bóng”, “sương non”, “ngọn cỏ thơm”, “mơn mởn”, “xanh giòn” tụ lại và gợi ra những cảm giác mơn man, tươi trẻ giàu sức sống!
Và, theo tác giả thì đó là cách mà nhân vật trữ tình đang “ôn lại” một thời tươi vui, trẻ trung đầy những háo hức. Lời thơ dẫn dắt chậm mà như nhanh dần đều. Từ đi “tìm” sang đến “ôn lại” để rồi “chữa” được căn “bệnh dỗi hờn” kia thì đích thị là một bộ phim tua chậm những kỉ niệm đẹp đã qua, đương nhiên sẽ làm cho kí ức sống dậy và thế là hiện tại tràn ngập trong một chuỗi những thương yêu, trìu mến và say đắm.
Bài thơ như một cách làm mới, làm nóng lại những kí ức rất cần cho thực tại ở mỗi lứa đôi đã và đang gửi gắm cuộc đời cho nhau. Ai sẽ giúp mình giữ gìn để hạnh phúc luôn nở nụ cười viên mãn? Chính chúng ta, không ai khác, chính những người trong cuộc sẽ hiểu hơn ai hết, và có cách tự làm mới mình mà thôi. Thông điệp ấy được tác giả Như An gửi gắm qua một bài thơ 1-2-3 gọn nhẹ, tươi ròng và cần thiết. Đặc biệt, bài thơ chớp nhá và hô ứng rất độc đáo “theo lối bình minh em dắt anh đi tìm nắng mới” để cuối cùng là sự bừng dậy của hạnh phúc lứa đôi mặn mà quyến rũ “chữa bệnh dỗi hờn làm gầy guộc hừng đông…”. “Gầy guộc hừng đông” một cách dùng chữ khá lạ, độc đáo, và giàu sức gợi. Ở đó có sự nhí nhảnh, sự giận hờn vô cớ mà cũng hết sức đáng yêu, những thứ chỉ có trong ngăn kí ức của những cặp tình nhân thuở ban đầu. Do đó, bài thơ diễn tả những dập dồn vang ngân cực kì hấp dẫn của một thời mà con người có quá nhiều những điều thú vị của tuổi trẻ.
Lời thơ trong sáng pha chút nghịch ngợm, lí lắc, giọng thơ tươi giòn và mướt xanh tuổi trẻ.
Theo lối bình minh em dắt anh đi tìm nắng mới
Tìm nhỏ chào mào soi bóng trước sương non
Tìm ngọn cỏ thơm mơn mởn xanh giòn
Ôn lại câu thơ thuở còn mít ướt
Và cặp môi mình trở thành liều thuốc
Chữa bệnh dỗi hờn làm gầy guộc hừng đông..
(Như An – Bình Dương)
Những bài thơ 1-2-3 của 4 người đẹp: “Nụ nhớ cựa mình thao thức tháng năm” của tác giả Lý Hồng Tâm, “Khi ta đứng ta vuông góc với trời” của Nguyễn Lan Hương, “Những vì sao hy vọng” của Hạ Như Trần, “Em yêu anh” của Chiên Nguyễn qua lời bình của “đấng mày râu” nhà thơ, nhà nghiên cứu Khang Quốc Ngọc làm “sáng” thêm vẻ đẹp từ những câu chữ chắt lọc tinh khôi…
Ký ức tươi giòn và khát khao hạnh phúc là hai tâm cảm được thể hiện trong bài thơ “Nụ nhớ cựa mình thao thức tháng năm” của tác giả Lý Hồng Tâm. Nhưng ký ức có thể tươi giòn và đẹp đến đâu thì vẫn có bóng dáng của sự trăn trở, cho dù chỉ là thoáng qua. Nỗi nhớ mới chỉ ở dạng hình hài “nụ nhớ” thôi mà đã phải chịu cảnh “thao thức tháng năm” thì đủ biết những ẩn ức, những trông chờ kia phải lớn đến mức nào! Do vậy “những giọt trong veo mở lòng mùa hạ” để “đón ai về gom kỷ niệm thương yêu” nó mới tha thiết và rộn rạo làm sao! Một sự rộng lòng để đón chờ là cốt cũng chỉ mong ước “đón ai về gom kỷ niệm thương yêu” mà nhân vật trữ tình đã dành sẵn cho nhau mà thôi. Song, giọng thơ thì có chi đó ngậm ngùi bởi thi ảnh phía trên là những hình ảnh “giọt trong veo” đầy ẩn ý. Mở lòng chờ đợi, sẵn sàng dang rộng vòng tay yêu thương ra để đón chờ nhưng rồi chính sự chờ mong ấy lại như đang là một thực thể hiện hữu chứa đầy sức nặng mơ hồ thì hỏi sao có thể vui lên được mà không khỏi thảng thốt?
Do vậy, nhân vật cố tình tạo ra cho mình một sức mạnh tinh thần mang dáng vẻ bên ngoài “mỉm cười tươi như nắng” y hệt những cánh hoa bung nở nhưng thực ra thì tâm can kia đang thực sự rối bời, bởi lời thơ như thú nhận “giấu đi cái lạnh” của một sự cô đơn đã lồ lộ dưới ý thơ.
Và thế là, vẫn theo cái mạch cảm xúc ấy, một viễn cảnh được vẽ ra trong sự tưởng tượng là lạ “gió thiên đường cuồng dại dưới môi cong” là phải chăng tác giả muốn mượn cánh hoa đã uốn cong để bày tỏ ước mơ một thời “cuồng dại” khuất lấp hay là tự thân bật ra tiếng nói ru vỗ tâm can mình? Sau sự kìm nén “giấu đi cái lạnh” là sự bùng dậy mãnh liệt của những khát khao “gió thiên đường cuồng dại dưới môi cong”. Hình ảnh “môi cong” diễn tả rất hay và gợi sự vùng dậy quả quyết, dũng mãnh.
Do thế, sau những thách thức tưởng rằng tan tác của “gió thiên đường” đầy mê dụ thì chỉ còn là sự “cuồng dại dưới môi cong” mà thôi. Bên ngoài thì của ngôn ngữ một loài hoa, bên trong là tiếng nói đẫm cảm xúc của một nhân vật trữ tình đậm nét nữ tính nhưng cũng lại hết sức mạnh mẽ và quyết liệt. Sức mạnh ấy đã tạo ra một sức sống bất khả chiến bại đáng tự hào. Giọng thơ rắn rỏi, giàu lòng thương yêu nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ. Một cách thể hiện bản lĩnh sống độc lập quả quyết hết sức đáng trân trọng.
Nụ nhớ cựa mình thao thức tháng năm
Những giọt trong veo mở lòng mùa hạ
Đón ai về gom kỉ niệm thương yêu
Mỉm cười tươi như nắng
Giấu đi cái lạnh
Gió thiên đường cuồng dại dưới môi cong.
(Lý Hồng Tâm – Tây Ninh)
“Đứng” là thế trụ, là mong muốn thể hiện, là cái tôi. Ấy là giọng điệu khẳng định, hoặc giả nhẹ hơn là cũng mong muốn khẳng định. Ý thơ vẽ lên một tâm thế đường hoàng, chững chạc. Bởi thế, cái kiểu viết để tõe cho ra con chữ mang ý nghĩa ấy nó cũng đường hoàng một kiểu đứng “khi ta đứng ta vuông góc với trời”.
Còn khi ta “nằm” thì “ta song song mặt đất”. Động từ “nằm” là thi ảnh diễn tả cái thế an yên, do đó “song song mặt đất” là cũng có cái ẩn ý muốn hòa vào đất mẹ khi con người đã trải qua một hành trình dài dằng dặc “đứng” và đi bằng đôi chân mình trên mặt đất này. Hơn nữa, hai chữ “song song” còn gợi ra sự êm đềm hài hòa giữa con người với thiên nhiên. Mong cầu và hiện hữu.
Và rồi câu chữ bất ngờ nhảy lên, mang vóc dáng đúc kết “cuộc sống là đi qua những cánh đồng số phận”. Lời thơ phe phẩy mà sâu sắc. Cuộc sống không bao giờ đứng yên. Cuộc sống luôn luôn đi qua để thay đổi. Thay đổi để thích ứng, thay đổi để phát triển. Tiếp biến không ngừng nghỉ. Lời thơ phảng phất chất triết lí cuộc đời “cuộc sống là đi qua những cánh đồng số phận”. Ai “đứng”, ai “nằm” thì đều tùy thuộc vào mỗi cá nhân, hoàn cảnh sống tác động. Hà cớ chi mà cưỡng cầu rồi đi ngược lại với quy luật muôn đời? Câu thơ phảng phất hơi hướng châm ngôn sống nên nó sâu sắc.
“Loang loáng bóng người” là một câu thơ giàu sức gợi tả. Từ láy “loang loáng” hiển ngôn chỉ ra sự nhanh và nhiều. “Bóng người” vụt qua, có đấy rồi mất đấy, song cũng chính cái có cái mất ấy đã tạo ra cuộc sống này. Tiếp biến không ngừng nghỉ. Rõ ràng như thế. Hàng ngày như thế. Vùn vụt trôi qua “loang loáng bóng người”.
Tất cả sẽ “hóa tượng/ với thời gian” hay là chỉ “loang loáng bóng người” mà không thôi ám ảnh? Lời thơ y như một thực thể đang chạy rất nhanh rồi bất ngờ dừng lại. Quyết liệt. Bất ngờ. Ai thấy, ai đoán định là tùy thuộc vào tâm cảm của mỗi người để hy vọng rút tỉa được điều chi đó có ý nghĩa trong cuộc đời này thì hà tất chẳng cho ta sự trân trọng?
Khi ta đứng ta vuông góc với trời
Khi ta nằm ta song song mặt đất
Cuộc sống là đi qua những cánh đồng số phận
Loang loáng bóng người
Hóa tượng
Với thời gian
(Nguyễn Lan Hương – Hà Nội)
Bài thơ có giọng là lạ xoay quanh một hiện tượng “những vì sao hy vọng” mới xuất hiện “trên bầu trời đêm”. Và hiện tượng ấy đã đi vào thơ Hạ Như Trần.
“Những vì sao hy vọng” có thể là mới xuất hiện do những nhà thiên văn học vừa quan sát và phát hiện ra nhưng mênh mông bầu trời này, hàng hà sa số thiên thạch thì sự xuất hiện kia đâu chỉ dừng lại ở một hiện tượng lạ?
Mở đầu, hình ảnh “những vì sao” gắn liền với hai chữ “hy vọng” là đã bật ra dụng ý rồi. Lời thơ đặt sự “hy vọng” vào “những vì sao” trong mênh mông trời đêm như thế là phải chăng ngầm ý muốn nói rằng chúng ta đang gắn mình vào những ảo vọng? “Hai ngày nay” đã xuất hiện “những vì sao hy vọng”. Số từ gắn với nội dung cụ thể “xuất hiện những vì sao mới”. Rõ ràng, cái cụ thể ở đây đã được ưu tiên, tác giả nói bằng ngôn ngữ thi ảnh, rồi xác nhận nội dung kia cũng bằng ngôn ngữ thi ca, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của nhận xét chi cả. Điều ấy, càng làm cho ý nghĩa từ thi ảnh vụt ra đậm chất khách quan hơn. Rằng, nó là hiện tượng, nó là thực tại. Cái thực tại kia đang hiện hữu trước mặt ta đó thôi thì cần chi phải thêm lời nhận xét?
Này nhé, “độ sáng của chúng, sự tự quay của chúng/ ảnh hưởng vào trái đất và đập vào mắt người quan sát, như ta” là thơ tự sự liệt kê ra những gì mà mấy ngôi sao kia đang tạo tác khi con người phát hiện ra chúng. Câu thơ mang dáng dấp văn xuôi tự do đem đến một ý nghĩa, tất cả đang tồn tại và ảnh hưởng của chúng đến nơi sống của chúng ta, “trái đất” này, là không hề nhỏ và cũng không hề là hư huyễn. Do vậy, lấy hai đặc điểm của ngôi sao là “độ sáng” và “sự tự quay” của chúng để đặt vào ý thơ là phải chăng Hạ Như Trần muốn dứt khoát xác quyết một điều rằng chỉ những đặc điểm cốt lõi tự thân mới mong có thể ảnh hưởng lớn từ những ai đó được coi như “những vì sao hy vọng” chăng? Nếu không là tự thân để tạo ra hấp lực rồi thu hút người ta “quan sát” thì sao có thể gọi là “những vì sao hy vọng” được? Lời thơ cứ nhẩn nha rồi chẻ ra từng ý, chậm rãi mà thú vị vô cùng.
Ý tứ đang thong dong như thế thì bỗng nhiên ý thơ bẻ tay lái đột ngột “hy vọng những vì sao rực rỡ nhất tồn tại trên dải ngân hà”! Ô hay, sao không tồn tại ở dải ngân hà thì ở đâu? Thực ra đây là mong ước rất đáng trân trọng! Là bởi đọc kĩ một chút thì có thể thấy rằng “dải ngân hà” vốn dĩ là một dòng sông sao, xưa nay tồn tại quen thuộc cả trên bầu trời và trong nhận thức của con người, do đó ước mong “hy vọng những vì sao rực rỡ nhất, tồn tại trên dải ngân hà” là một ước mong cho sự êm đềm, an yên sẽ trôi miên viễn trong sự vĩnh hằng. Đừng sáng lóe lên đó rồi lại mất đi đó. Vậy thôi.
Lấy hiện tượng thiên nhiên để bộc bạch tâm tư qua giọng thơ tự sự tự do quả là độc đáo của nữ thi sỹ Hạ Như Trần. Giọng thơ thủng thẳng chậm rãi mà sâu sắc. Mong ước kia đâu chỉ là dừng lại ở giới hạn cá nhân? Đây đích thị là một bài thơ 1-2-3 văn xuôi giàu tư tưởng nên nó độc đáo và ý vị.
Những vì sao hy vọng
Trên bầu trời đêm
Hai ngày nay, xuất hiện những vì sao mới
Độ sáng của chúng, sự tự quay của chúng
Ảnh hưởng vào trái đất và đập vào mắt người quan sát, như ta
Hy vọng những vì sao rực rỡ nhất, tồn tại trên dải ngân hà.
(Hạ Như Trần – TPHCM)
Lời thơ bộc bạch nhẹ nhàng mà sâu sắc. Đó là sự thổ lộ tiếng lòng chung thủy gắn bó không thể thay thế trong tình yêu đôi lứa.
Mở đầu bài thơ, tiếng nói ấy vang lên thẳng thắn và gọn chắc “Em yêu anh”. Tiếng nói tình yêu được khẳng định và thể hiện rất ngọt. Thủ pháp tương phản được sử dụng cực kì hiệu quả: “Mắt của người mù” + “đôi tai của người điếc” + “cái miệng của người câm” >< “chỉ trái tim là không hề khuyết tật”. Rõ ràng, lời thơ đã vút lên khẳng định tình yêu là thuần nhất, vẹn nguyên.
Song, cái độc đáo ở đây còn là ở chỗ tác giả sử dụng điệp ngữ xen vào thủ pháp đối lập kia như ngầm khẳng định thêm rằng “em yêu anh” là tiếng nói cốt lõi nổi lên quan trọng của ý thơ. Nhưng tại sao tác giả lại cho nhân vật trữ tình “em” của mình là phải “mù”, “điếc” và “câm” khi “yêu anh”? Kiểu diễn đạt theo lối giả định ấy đem đến cho tác phẩm những giá trị thẩm mỹ gì? Đó là sự hy sinh của nhân vật “em” cho người mình yêu chăng? Nếu vậy, e một lúc nào đó sức chịu đựng kia, khi đã đạt đến độ giới hạn nhất định lúc mà thời gian thử thách còn dài, thì liệu tình yêu ấy còn có thể chịu đựng được không để mà vẫn nhẹ nhàng thốt lên thành tiếng “em yêu anh”?
Do thế, thủ pháp nghệ thuật tương phản được sử dụng kia chủ yếu là để nhấn mạnh tiếng nói tình yêu vang lên từ sâu thẳm bên trong trái tim mình. Rằng tiếng nói tình yêu ấy là tròn trịa, là nguyên vẹn bởi trái tim em “không hề khuyết tật”. Thì ra, đó là tiếng nói tình yêu cất lên mà muốn véo von rằng tất cả mọi thứ tác động từ bên ngoài vào suy nghĩ, tình cảm của “em” đều vô nghĩa và chẳng thể thay đổi được con người “em” đâu (anh hãy tin như thế nhé!); vì qua câu chữ thì rõ ràng, nhân vật trữ tình “em” đã và đang đặt mình vào một tâm thế: Luôn chả thấy gì (“người mù”); luôn không nghe gì (“người điếc”) và luôn chẳng muốn nói chi (“người câm”) là phải chăng cuối cùng cốt sao dồn hết tâm trí, tình yêu cho “anh” mà thôi!? Một sự cài đặt mặc định rất độc đáo cho tình yêu. Tự nhiên, chúng tôi lại nhớ đến một câu nói rất hay ở một nhân vật nam chính trong truyện của tác giả nào đó (hình như là nhà văn Nam Cao thì phải?) về tiếng nói lập trường trong tình yêu tương tự “duy nhất là em còn tất cả là một lũ chúng nó!”.
Hóa ra, cách nói theo kiểu đối lập được sử dụng trong bài thơ đâu chỉ là sự khẳng định mà nó còn mang bóng dáng của lời hứa hẹn để cuối cùng tạo ra cho bằng được niềm tin cậy trong tình yêu lứa đôi. Thì hẳn rồi, tình yêu không chỉ là cùng nhau nhìn về một hướng mà còn là sự hài hòa trong một sự thể có thể chấp nhận, để hy vọng vươn lên tâm thế hòa hợp giữa hai tâm hồn đó thôi. Điều này, quả không dễ dàng gì cho tất thảy chúng ta khi mà trong cuộc sống còn quá nhiều điều thị phi bắt nguồn từ những thứ đẩu đâu bên ngoài tác động đến tình cảm riêng tư. Do vậy, nhân vật trữ tình “em” cần lắm những kiểu nói “điếc, câm, mù” như thế để thể hiện tiếng lòng quả quyết là cũng cốt hướng đến cái đích lớn lao hơn – tình yêu trọn vẹn và chung thủy!
Một bài thơ gọn, giọng thơ tự nhiên, nhỏ nhẹ mà chắc nịch, đủ để khẳng định một tiếng nói tình cảm đôi lứa thủy chung vẹn tròn rất đáng cho chúng ta trân quý!
Em yêu anh
Tình yêu với đôi mắt của người mù
Đôi tai của người điếc
Em yêu anh
Với cái miệng của người câm
Chỉ có trái tim là không hề khuyết tật
(Chiên Nguyễn – Đắk Lắk)
12/7/2023
Khang Quốc Ngọc
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...