Đến với bài thơ “Trăng khuya”
của Nguyễn Thị Điệp
Một dịp tình cờ tôi được chị Nguyễn Thị Điệp, Chủ nhiệm CLB
thơ ca Mây Hồng cho xem bài thơ “Trăng khuya” chị vừa sáng tác. Là thành viên
trong BBT nên tôi có điều kiện đọc khá nhiều thơ của anh em Hội viên và thi hữu,
nhưng ít khi có được cảm giác lâng lâng, ngơ ngẩn phút đầu, như khi đọc bài “Trăng
khuya” của chị.
Trước tiên ta thử xem qua bài thơ như sau:
TRĂNG
KHUYA
Thả hạt ưu tư ngắm nguyệt cài
Đêm nghiêng nhạc trỗi khúc mơ say
Lặng lờ lá chiếc rơi khe khẽ
Hun hút sông khuya chảy miệt mài
Dõi bóng mây trôi khơi dĩ vãng
Giục tình thơ dậy thắp tương lai
Thuyền ai khuấy động hồn trăng vỡ
Ngọt đắng men đời nén lệ cay.
Nguyễn
Thị Điệp
Một bài thơ tả cảnh, tả tình, có thuyền du, có trăng soi, có
mây bay, lá rụng…
Thật là một bức tranh sinh động!
Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta luôn có nhiều ưu tư,
muộn phiền, trăn trở… Những điều này thường dễ làm cho con người trở nên bi
quan buồn chán. Nhưng ở đây, tác giả biết trút bỏ mọi phiền não trong tâm hồn để
hòa mình vào thiên nhiên, tìm cho mình một cõi riêng tĩnh lặng:
Thả hạt ưu tư ngắm nguyệt cài
Đêm nghiêng nhạc trỗi khúc mơ say
Chúng ta hãy thử cùng tác giả thả hồn mình vào cảnh vật thiên
nhiên lúc ấy: trên bến sông khuya, ánh trăng chênh chếch đỉnh đầu, dòng sông êm
đềm trôi lờ lững. Vài chiếc lá…. Ồ không! Ở đây tác giả chỉ thấy một chiếc lá
đơn độc, rời cành, nhẹ nhàng buông mình khe khẽ giữa dòng nước mênh mang, miệt
mài trôi chảy, giống như bước chân của một người cô độc, buông xuôi, len lỏi giữa
nhịp sống hối hả triền miên…
Lặng lờ lá chiếc rơi khe khẽ
Hun hút sông khuya chảy miệt mài
Là người, ai cũng có một quá khứ, dù huy hoàng, mộng mơ, tươi
đẹp, hoặc bi thương hay hùng tráng… thì đó cũng là những hình ảnh không thể nào
phai trong tiềm thức. Giữa cuộc sống bộn bề nhiều nỗi lo toan, thường khi chúng
ta bỏ quên, những hình ảnh đó nằm im trong ký ức. Để rồi có một phút giây bất
chợt, ta muốn thả hồn về dĩ vãng mong gợi lại những hình ảnh xa xưa.
Ở đây, khi nhìn những áng mây trôi bồng bềnh, tác giả cũng muốn
gởi tâm tình trôi theo áng mây, mong tìm lại những hình ảnh thân thương trong
quá khứ. Nhưng tác giả đã bộc lộ cảm xúc của mình một cách kín đáo. Vì thế người
đọc không biết tâm trạng của tác giả là buồn, vui, hờn, trách hay nuối tiếc,
thương yêu… Đến lúc trở về thực tại, tác giả vội “giục tình thơ” để “thắp sáng
tương lai”.
Dõi bóng mây trôi khơi dĩ vãng
Qua hai câu luận nêu trên, chúng ta hiểu được rằng tác giả là
người phụ nữ đoan hậu, tế nhị trong giao tiếp, không biểu lộ tình cảm thái quá
và luôn lạc quan trong cuộc sống.
Đến đây ta thử nhìn lại, qua sáu câu thơ trên đi từ cặp đề
cho đến cặp luận, tác giả đã phác họa lên một bức tranh êm đềm, thơ mộng. Tuy
nhiên dù đẹp đến mấy, nó cũng chỉ là một bức tranh tỉnh vật, ví như cuộc sống yên
bình, tĩnh lặng và nhàm chán. Vì thế, tác giả đã tạo ra một sự bùng nổ, vỡ tan
trong cấu trúc khi “mượn” hình ảnh con thuyền khuấy động ánh trăng, giống như
cuộc đời không bao giờ luôn yên ả. Chính những xao động trong đời là thử thách
đắng cay nhưng lại càng làm cho cuộc sống thêm ý nghĩa. Điều này được thể hiện
rõ trong hai câu kết:
Thuyền ai khuấy động hồn trăng vỡ
Ngọt đắng men đời nén lệ cay.
2/. Nghệ thuật dùng từ:
Trong toàn bài thơ trên, tác giả sử dụng từ ngữ nhẹ nhàng hợp
với loại thơ tả cảnh tả tình, gây cho người đọc cảm giác bâng khuâng, man mác.
Đặc biệt, theo tôi – có một số từ khá nổi bật trong câu:
1/ Thả hạt ưu tư: Thông thường khi viết văn, người
ta hay dùng: nỗi ưu tư, mối ưu tư, hoặc muốn hình tượng hóa
thì nói giọt ưu tư. Ở đây tác giả dùng hạt ưu tư, làm ta
liên tưởng: Giọt được nén lại thành hạt, tức từ thể lỏng biến
sang thể rắn, để cụ thể hóa một danh từ trừu tượng: hạt ưu
tư là một cái gì đó có thể nhìn thấy, đụng chạm được. Một từ
sáng tạo hợp lý, có tính khoa học.
2/ Hun hút sông khuya: Từ hun hút có
nghĩa là xa xăm, sâu thẳm. Nếu dùng diễn tả hang động hay đường hầm thì không
gì đáng nói. Tác giả dùng “hun hút sông khuya” làm cho người đọc dễ nhận ra một
dòng sông mênh mông, xa thẳm và tối tăm, không biết đâu là bờ bến, càng làm cho
không gian tăng thêm sự thâm u, tĩnh mịch.
3/ Hồn trăng vỡ: Ở đây tác
giả không ngắm trăng, mà là cảm trăng, cùng tâm sự chia sẻ
vui buồn với trăng. Trăng không ở trên cao mà trăng ở đáy nước, vì thế ta thấy
có sự gần gũi thân quen đồng cảm với tác giả. Khi con thuyền vô tình khuấy động
làm tan vỡ mảnh trăng, là như mang theo cả một tâm hồn chưa vơi tâm sự.
4/ Nén lệ cay: Thông thường, có thể ai đó viết là:
“xót lệ cay” hoặc “giấu lệ cay”. Ở đây tác giả không xót xa và
cũng không giấu giếm, vì như thế là yếu đuối, là buông xuôi trước nghịch
cảnh. Một lần nữa, tác giả đã tự thể hiện là người phụ nữ đầy nghị lực và có một
đời sống nội tâm.
Bài “Trăng khuya” là một bài thơ thuộc loại tả cảnh tả tình,
được tác giả Nguyễn Thị Điệp viết bằng thể thơ Đường luật một cách cô đọng, ý tứ
thanh thoát, lời thơ mượt mà, câu từ không bị sáo mòn. Từng cặp đề, trạng, luận,
kết phân minh, bố cục chặt chẽ, dùng từ ngữ nhẹ nhàng để diễn đạt ý tưởng, để rồi
sau cùng tác giả tạo ra sự đột biến cần thiết ở cuối bài, gây cho người đọc ấn
tượng khó quên.
Theo tôi, đây là một trong những bài thơ Đường luật hay, xin
giới thiệu để chúng ta cùng thưởng thức và suy ngẫm.
Thành
Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét