Hình ảnh bốn mùa trong Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi
Vũ Thị
Huê
Nền văn học của bất kỳ
dân tộc nào cũng như lịch sử phát triển của dân tộc đó, để tồn tại cho đến ngày
nay nó đều phải dựa trên cơ sở của cái cũ và phát triển thêm cái mới. Nền văn học
của dân tộc Việt Nam cũng như vậy. Ra đời sau văn học dân gian, văn học trung đại
Việt Nam có điều kiện tiếp thu những ánh sáng và tinh hoa từ nền văn học truyền
thống mà cha ông ta đã dày công xây dựng và để lại. Do đó, văn học trung đại Việt
Nam đã nhanh chóng phát triển, sớm trở thành một bộ phận lớn của nền văn học nước
nhà. Có thể nói, văn học trung đại Việt Nam đã trở thành mảnh đất tốt tươi, sản
sinh, nuôi dưỡng biết bao nhà thơ, nhà văn ưu tú và mỗi người có một phong cách
sáng tác riêng. Nếu đọc thơ Nguyễn Du ta bâng khuâng trước những giọt lệ cao cả,
chảy mãi ngàn đời giống như Chế Lan Viên đã đúc kết: “Tố Như ơi, lệ chảy quanh
thân Kiều” thì đến với Nguyễn Trãi ta bắt gặp một nhà quân sự làm thơ hết sức
tài tình: “Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu. Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé
lòng” (Tố Hữu).
Nguyễn Trãi xuất thân trong một gia đình nhà Nho học, thuở nhỏ ông đã phải chịu nhiều mất mát đau thương nhưng ông lại học rất giỏi, từng đỗ thái học sinh và ra làm quan dưới triều nhà Hồ. Đồng thời, Nguyễn Trãi là một nhà chính trị sáng suốt, một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà ngoại giao thiên tài, một nhà sử học, địa lí học và một nhà thơ, nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam. Ở Nguyễn Trãi đã hội tụ tất cả “khí phách” “tinh hoa” nghĩa là những gì tốt đẹp nhất của dân tộc ta. Sinh ra và lớn lên vào thời buổi lịch sử có nhiều biến động, cuộc đời Nguyễn Trãi cũng nhiều biến động và thăng trầm. Tuy nhiên, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng là một tấm gương sáng, hết sức mẫu mực cho con cháu ngày sau noi theo và học tập.
Với tư cách là một nhà văn, nhà thơ Nguyễn Trãi đã để lại một tác phẩm đồ sộ - một di sản văn học quý báu muôn đời. Trong đó, Quốc âm thi tập chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam, là tập thơ Nôm đầu tiên viết bằng ngôn ngữ dân tộc hiện còn. Với nội dung chủ yếu về thiên nhiên. Một đề tài quen thuộc trong văn học trung đại và đọc thơ ông ta dễ dàng nhận thấy bức tranh thiên nhiên với đủ sắc màu, đủ cả về thời gian bốn mùa: xuân - hạ - thu - đông thông qua các hình ảnh: tùng - cúc - trúc - mai. Đặc biệt bức tranh không chỉ nói về nét đẹp của các mùa mà còn là người bạn đáng tin cậy để trút bày tâm sự.
Quá trình tìm hiểu nội dung đề tài: Hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi sẽ góp phần giúp chúng ta nhận thức một cách toàn diện hơn về tài năng, phẩm giá và những đóng góp của Nguyễn Trãi trong tiến trình văn học Việt Nam.
Mặt khác, văn chương của Nguyễn Trãi từ lâu đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn học ở bậc Trung học Cơ sở, Trung học Phổ thông. Thực hiện khóa luận này sẽ góp phần phục vụ thiết thực và hiệu quả cho việc giảng dạy thơ Nguyễn Trãi nói chung, thơ Nôm của ông nói riêng.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề Quốc âm thi tập gồm 254 bài, Nguyễn Trãi được xem như là nhà thơ lớn đầu tiên viết bằng chữ Nôm, đồng thời cũng là người sáng tác thơ Nôm đoản thiên có số lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ dân tộc. Từ lúc ông mất tới nay gần VI thế kỉ, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được giới thiệu. Tuy nhiên, từ đó đến nay việc tìm hiểu nghiên cứu về thơ Nguyễn Trãi ngày càng được mở rộng ở những góc độ, khía cạnh khác nhau, trong đó mảng thơ viết về thiên nhiên thông qua hình ảnh bốn mùa luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm hơn cả. Qua đây, thấy được bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi biểu hiện thật tinh tế và đặc sắc. Dù ở thời điểm nào, không gian nào, hình ảnh trong thơ ông đều gần gũi, quen thuộc tạo nên bức tranh tứ mùa.
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng bất tận của văn chương. Mây sớm, trăng khuya, núi non, cỏ cây, hoa lá đều in đậm dấu ấn của mình trong văn chương. Con người và thiên nhiên luôn có quan hệ biện chứng, qua lại tác động đến nhau với các tao nhân mặc khách, thiên nhiên là người bạn tri ân. Không ít người đã lánh đời phàm tục, hòa mình vào thiên nhiên. Sống thanh đạm để chiêm nghiệm về vũ trụ, triết lí nhân sinh. Hình ảnh thiên nhiên đã đi vào trong thơ văn với những nét riêng của từng vùng miền làm nên một bức tranh đa dạng về con người Việt Nam.
Đối với mảng đề tài về thiên nhiên trong văn học trung đại không còn là vấn đề mới mẻ nữa nhưng nó luôn là mảnh đất huyền bí, có sức hút mãnh liệt, là một dòng nước chưa bao giờ cạn đối với các nhà nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu, các bài viết của các tác giả đã đưa ra nhiều ý kiến nhận xét, đánh giá của mình nhưng bằng cách này hay cách khác họ đều thống nhất với nhau ở một điểm chung. Vẻ đẹp thiên nhiên không bao giờ là đề tài cũ cả và có giá trị to lớn trong nền văn học nước nhà. Một số bài viết của các tác giả sau đây sẽ giúp chúng ta thấy những điều đó:
Trong cuốn Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương của Lê Trí Viễn, nhà nghiên cứu Lê Hoài Nam đã nhận xét tình yêu thiên nhiên của bà chúa thơ Nôm: "Xuân Hương yêu thiên nhiên và sau Xuân Hương thiên nhiên trong cái độ phát triển sung sức của nó nhưng không cứ gì thiên nhiên, tất cả những cái gì dồi dào sức sống, biểu hiện được cuộc sống là Xuân Hương đều trìu mến". [18, tr.162]. Có thể nói tình yêu thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương rất phong phú và đa dạng.
Tác giả Nguyễn Huệ Chi trong bài viết: Sự đa dạng và thống nhất trên quá trình chuyển động một phong cách và dấu hiệu chuyển mình của tư duy thơ dân tộc cũng đã nhận định: "Trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập, cảnh vật được quy ước bằng xuân, hạ, thu, đông, bằng 12 tháng, bằng năm canh... Và đọc hết bài này đến bài khác sẽ thấy các vòng quay tháng năm, tháng năm trở thành hình thức biểu hiện nghệ thuật của thơ". [1, tr70] .
Trong cuốn Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, nhà nghiên cứu đã nhận định: "Nguyễn Khuyến đã đưa lại cho bức tranh làng cảnh Việt Nam cũng như khung cảnh sinh hoạt của nông thôn Việt Nam hương vị, màu sắc, đường nét, sức sống như nó vẫn tồn tại, mà ủ kín trong đó là cái hồn muôn đời của con người, đất nước Việt Nam". [1, tr25].
Trong sáng tác của Nguyễn Trãi bức tranh thiên nhiên hiện lên một cách sinh động và đầy hấp dẫn. Trong cuốn Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn, các nhà nghiên cứu cũng đã đề cập đến những hình ảnh thiên nhiên được sử dụng trong tác phẩm văn học thời kì trung đại. Nguyễn Thiên Thụ viết: "Thi nhân thường yêu cái đẹp mà cái đẹp phong phú, gần gũi nhất ta đó là thiên nhiên. Thi nhân thường để tâm hồn đi theo dòng nước chảy và lòng thi nhân vui tươi, rộn rã khi thấy mặt trời lên, khi nghe chim ca và nhìn thấy hoa nở thắm". [13, tr.668].
Trong cuốn: Văn học Việt Nam (nửa cuối thể kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX) của Nguyễn Lộc, nhà nghiên cứu đã khẳng định sự thành công của mảng sáng tác về thiên nhiên: "Đề tài về thiên nhiên xuất hiện khá nhiều trong văn học giai đoạn này và viết khá thành công, nó được nhận thức như là môi trường sống của con người, là bạn của con người, đem đến cho con người niềm vui và mĩ cảm" [4, tr.49].
Ông cũng nói nhiều về ý nghĩa của việc sử dụng hình ảnh thiên nhiên trong văn học: “Theo quan niệm của Nho giáo, cái mẫu mực thuộc về quá khứ và cái trong sạch chủ yếu lại ở trong thiên nhiên, các nhà nho theo quan niệm xuất xứ của Nho giáo, gặp thời thịnh thì ra làm việc phò vua giúp nước, gặp thời loạn thì lui về ở ẩn, lấy thiên nhiên để di dưỡng tinh thần.” [4, tr.38].
Nhìn chung ở mỗi công trình nghiên cứu đều có những phát hiện, khám phá rất mới mẻ, sâu sắc. Đây chính là nguồn tư liệu phong phú; có tính chất gợi mở, định hướng về thiên nhiên trong văn học trung đại để chúng ta có thể tìm hiểu một cách trọn vẹn và sâu sắc nhất về hình ảnh bốn mùa trong văn học trung đại.
Vị trí địa lí quy định nước ta mang khí hậu nhiệt đới gió mùa. Từ thời trung đại người dân đã dựa vào đặc tính của khí hậu chia thời gian trong năm ra thành bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với những đặc trưng riêng. Mùa xuân được xác định từ khoảng tháng 2 đến tháng 4; mùa hạ từ khoảng tháng 5 đến tháng 7; mùa thu từ khoảng tháng 8 đến tháng 10; còn mùa đông khoảng từ tháng 11 đến tháng 1.
Bốn mùa trong Quốc âm thi tập hiện lên rõ nét và đầy sinh động khác với bộ phận thơ chữ Hán. Quốc âm thi tập là thơ Nôm, thơ tiếng Việt những lời thơ uyển chuyển, dung dị, gần gũi đời thường và gắn với nếp cảm, nếp nghĩ dân tộc.
Bốn mùa trong văn học trung đại nói chung thường mang tính ước lệ cao. Thời gian trong thơ bị phong bế chặt chẽ bởi đối tượng miêu tả. Trong tập "Hồng Đức quốc âm thi tập" xét về phương diện hình thức thì cảnh ở đây cũng biểu hiện thời gian theo mùa: xuân, hạ, thu, đông bằng "mười hai tháng" bằng "năm canh"... Cứ như vậy, đọc hết bài này, bài khác người đọc sẽ bắt gặp các hình ảnh đặc trưng các mùa của thiên nhiên. Tính ước lệ bởi các đối tượng sẵn có, là đối tượng chính để tác giả thơ sáng tạo nghệ thuật. Công thức ước lệ này được biểu hiện qua việc sử dụng các đối tượng miêu tả khi các tác giả trung đại muốn diễn đạt về thời gian trong năm hay theo mùa... Mùa xuân phải có lan, mai, chim oanh, ong bướm và có cả tấm lòng người quân tử... Mùa hè phải có hoa sen, lựu, chim cuốc, tiếng ve kêu... Mùa thu phải có hoa cúc vàng, lá ngô đồng, tiếng thu xào xạc... Và mùa đông nhất thiết phải có tùng, trúc, gió heo may, tiếng chim nhạn kêu,... Và trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi nói riêng hình ảnh bốn mùa được xuất hiện lần lượt, khoác trên mình những nét đặc trưng riêng, và nét đặc trưng đó được chứng minh bằng các ý kiến, nhận xét sau đây:
Trong cuốn Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn ở phần thiên nhiên và thời gian, tác giả Nguyễn Thiên Thụ đã đề cập trực tiếp đến bốn mùa trong văn học trung đại: "Thiên nhiên đã khoác những chiếc áo màu khác nhau tùy theo từng thời gian: cỏ, cây, hoa, lá, núi rừng, sông, hồ, bầu trời,... đã thay đổi theo từng mùa, từng tháng. Những thay đổi đó làm lòng người đổi thay và lòng thi nhân thêm cảm xúc". [13, tr.675]. Nguyễn Hữu Sơn với bài nghiên cứu Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi cho rằng: "Trong thơ Nguyễn Trãi mùa xuân được cảm nhận như là biểu tượng của vẻ đẹp toàn mĩ, hoàn chỉnh, phổ biến". [13, tr.535]. Cùng trong cuốn Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm với bài nghiên cứu cảnh tình mùa hè Lê Trí Viễn đã khẳng định rõ: “Ông vẫn vui với hè cũng là một thứ lạ. Xưa, thơ thích xuân, mến thu chứ mấy ai đoái hoài tới hè”. [13, tr.541]. Và thơ thu trong thơ Nguyễn Trãi được nêu rõ trong bài viết thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi của Nguyễn Thiên Thụ: “Mùa thu làm cho cảnh sông thêm tình tứ vì nước thêm trong, trăng sáng, trời xanh cao”. [13, tr.676].
Đặc biệt, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn, Nguyễn Thiên Thụ đã nhận định: "Với Nguyễn Trãi cũng như các thi nhân khác, thiên nhiên là nguồn mĩ cảm vô cùng phong phú, đã làm cho tâm hồn thi nhân rung động... Thi nhân như là một kẻ đi tìm cái đẹp và thiên nhiên với muôn vàn vẻ đẹp đã gợi mỗi thi nhân thưởng thức". [13, tr.668].
Trần Thanh Mại khi nghiên cứu về Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi đã khẳng định: "Thơ về thiên nhiên chiếm phần phong phú nhất và cũng là thành công nhất trong di sản của thơ Nguyễn Trãi". [5, tr.171].
Trong chuyên luận thơ Nôm Đường Luật, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn nhận xét về thời gian trong tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi: "Những bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Trãi phong phú và nhiều tới mức phòng tranh thiên nhiên không đủ chỗ trưng bày và nhà thơ phải treo sang cả những phòng dành cho mảng đề tài khác" [14, tr.57].
Trên đây là những công trình nghiên cứu và những ý kiến tiêu biểu nhất của một số nhà nghiên cứu về đề tài thiên nhiên nói chung và hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập nói riêng. Nhưng xem xét một cách toàn diện chưa có một công trình nghiên cứu một cách riêng biệt chuyên sâu về đề tài: “Bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đã nêu sẽ là nguồn tài liệu vô cùng quý báu để chúng ta tìm hiểu đề tài một cách hợp lí và thấu đáo.
Triển khai đề tài: “Bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” tôi xác định hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập là đối tượng nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở tập thơ Quốc âm thi tập Tập thơ Quốc âm thi tập do nhà xuất bản Giáo dục - 1994, gồm 174 trang.
Tiến hành khảo sát nhằm tìm ra cách thể hiện hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập và ý nghĩa của việc sử dụng hình ảnh bốn mùa trong việc biểu hiện giá trị nghệ thuật.
Nguyễn Trãi xuất thân trong một gia đình nhà Nho học, thuở nhỏ ông đã phải chịu nhiều mất mát đau thương nhưng ông lại học rất giỏi, từng đỗ thái học sinh và ra làm quan dưới triều nhà Hồ. Đồng thời, Nguyễn Trãi là một nhà chính trị sáng suốt, một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà ngoại giao thiên tài, một nhà sử học, địa lí học và một nhà thơ, nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam. Ở Nguyễn Trãi đã hội tụ tất cả “khí phách” “tinh hoa” nghĩa là những gì tốt đẹp nhất của dân tộc ta. Sinh ra và lớn lên vào thời buổi lịch sử có nhiều biến động, cuộc đời Nguyễn Trãi cũng nhiều biến động và thăng trầm. Tuy nhiên, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng là một tấm gương sáng, hết sức mẫu mực cho con cháu ngày sau noi theo và học tập.
Với tư cách là một nhà văn, nhà thơ Nguyễn Trãi đã để lại một tác phẩm đồ sộ - một di sản văn học quý báu muôn đời. Trong đó, Quốc âm thi tập chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam, là tập thơ Nôm đầu tiên viết bằng ngôn ngữ dân tộc hiện còn. Với nội dung chủ yếu về thiên nhiên. Một đề tài quen thuộc trong văn học trung đại và đọc thơ ông ta dễ dàng nhận thấy bức tranh thiên nhiên với đủ sắc màu, đủ cả về thời gian bốn mùa: xuân - hạ - thu - đông thông qua các hình ảnh: tùng - cúc - trúc - mai. Đặc biệt bức tranh không chỉ nói về nét đẹp của các mùa mà còn là người bạn đáng tin cậy để trút bày tâm sự.
Quá trình tìm hiểu nội dung đề tài: Hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi sẽ góp phần giúp chúng ta nhận thức một cách toàn diện hơn về tài năng, phẩm giá và những đóng góp của Nguyễn Trãi trong tiến trình văn học Việt Nam.
Mặt khác, văn chương của Nguyễn Trãi từ lâu đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn học ở bậc Trung học Cơ sở, Trung học Phổ thông. Thực hiện khóa luận này sẽ góp phần phục vụ thiết thực và hiệu quả cho việc giảng dạy thơ Nguyễn Trãi nói chung, thơ Nôm của ông nói riêng.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề Quốc âm thi tập gồm 254 bài, Nguyễn Trãi được xem như là nhà thơ lớn đầu tiên viết bằng chữ Nôm, đồng thời cũng là người sáng tác thơ Nôm đoản thiên có số lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ dân tộc. Từ lúc ông mất tới nay gần VI thế kỉ, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được giới thiệu. Tuy nhiên, từ đó đến nay việc tìm hiểu nghiên cứu về thơ Nguyễn Trãi ngày càng được mở rộng ở những góc độ, khía cạnh khác nhau, trong đó mảng thơ viết về thiên nhiên thông qua hình ảnh bốn mùa luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm hơn cả. Qua đây, thấy được bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi biểu hiện thật tinh tế và đặc sắc. Dù ở thời điểm nào, không gian nào, hình ảnh trong thơ ông đều gần gũi, quen thuộc tạo nên bức tranh tứ mùa.
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng bất tận của văn chương. Mây sớm, trăng khuya, núi non, cỏ cây, hoa lá đều in đậm dấu ấn của mình trong văn chương. Con người và thiên nhiên luôn có quan hệ biện chứng, qua lại tác động đến nhau với các tao nhân mặc khách, thiên nhiên là người bạn tri ân. Không ít người đã lánh đời phàm tục, hòa mình vào thiên nhiên. Sống thanh đạm để chiêm nghiệm về vũ trụ, triết lí nhân sinh. Hình ảnh thiên nhiên đã đi vào trong thơ văn với những nét riêng của từng vùng miền làm nên một bức tranh đa dạng về con người Việt Nam.
Đối với mảng đề tài về thiên nhiên trong văn học trung đại không còn là vấn đề mới mẻ nữa nhưng nó luôn là mảnh đất huyền bí, có sức hút mãnh liệt, là một dòng nước chưa bao giờ cạn đối với các nhà nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu, các bài viết của các tác giả đã đưa ra nhiều ý kiến nhận xét, đánh giá của mình nhưng bằng cách này hay cách khác họ đều thống nhất với nhau ở một điểm chung. Vẻ đẹp thiên nhiên không bao giờ là đề tài cũ cả và có giá trị to lớn trong nền văn học nước nhà. Một số bài viết của các tác giả sau đây sẽ giúp chúng ta thấy những điều đó:
Trong cuốn Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương của Lê Trí Viễn, nhà nghiên cứu Lê Hoài Nam đã nhận xét tình yêu thiên nhiên của bà chúa thơ Nôm: "Xuân Hương yêu thiên nhiên và sau Xuân Hương thiên nhiên trong cái độ phát triển sung sức của nó nhưng không cứ gì thiên nhiên, tất cả những cái gì dồi dào sức sống, biểu hiện được cuộc sống là Xuân Hương đều trìu mến". [18, tr.162]. Có thể nói tình yêu thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương rất phong phú và đa dạng.
Tác giả Nguyễn Huệ Chi trong bài viết: Sự đa dạng và thống nhất trên quá trình chuyển động một phong cách và dấu hiệu chuyển mình của tư duy thơ dân tộc cũng đã nhận định: "Trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập, cảnh vật được quy ước bằng xuân, hạ, thu, đông, bằng 12 tháng, bằng năm canh... Và đọc hết bài này đến bài khác sẽ thấy các vòng quay tháng năm, tháng năm trở thành hình thức biểu hiện nghệ thuật của thơ". [1, tr70] .
Trong cuốn Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, nhà nghiên cứu đã nhận định: "Nguyễn Khuyến đã đưa lại cho bức tranh làng cảnh Việt Nam cũng như khung cảnh sinh hoạt của nông thôn Việt Nam hương vị, màu sắc, đường nét, sức sống như nó vẫn tồn tại, mà ủ kín trong đó là cái hồn muôn đời của con người, đất nước Việt Nam". [1, tr25].
Trong sáng tác của Nguyễn Trãi bức tranh thiên nhiên hiện lên một cách sinh động và đầy hấp dẫn. Trong cuốn Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn, các nhà nghiên cứu cũng đã đề cập đến những hình ảnh thiên nhiên được sử dụng trong tác phẩm văn học thời kì trung đại. Nguyễn Thiên Thụ viết: "Thi nhân thường yêu cái đẹp mà cái đẹp phong phú, gần gũi nhất ta đó là thiên nhiên. Thi nhân thường để tâm hồn đi theo dòng nước chảy và lòng thi nhân vui tươi, rộn rã khi thấy mặt trời lên, khi nghe chim ca và nhìn thấy hoa nở thắm". [13, tr.668].
Trong cuốn: Văn học Việt Nam (nửa cuối thể kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX) của Nguyễn Lộc, nhà nghiên cứu đã khẳng định sự thành công của mảng sáng tác về thiên nhiên: "Đề tài về thiên nhiên xuất hiện khá nhiều trong văn học giai đoạn này và viết khá thành công, nó được nhận thức như là môi trường sống của con người, là bạn của con người, đem đến cho con người niềm vui và mĩ cảm" [4, tr.49].
Ông cũng nói nhiều về ý nghĩa của việc sử dụng hình ảnh thiên nhiên trong văn học: “Theo quan niệm của Nho giáo, cái mẫu mực thuộc về quá khứ và cái trong sạch chủ yếu lại ở trong thiên nhiên, các nhà nho theo quan niệm xuất xứ của Nho giáo, gặp thời thịnh thì ra làm việc phò vua giúp nước, gặp thời loạn thì lui về ở ẩn, lấy thiên nhiên để di dưỡng tinh thần.” [4, tr.38].
Nhìn chung ở mỗi công trình nghiên cứu đều có những phát hiện, khám phá rất mới mẻ, sâu sắc. Đây chính là nguồn tư liệu phong phú; có tính chất gợi mở, định hướng về thiên nhiên trong văn học trung đại để chúng ta có thể tìm hiểu một cách trọn vẹn và sâu sắc nhất về hình ảnh bốn mùa trong văn học trung đại.
Vị trí địa lí quy định nước ta mang khí hậu nhiệt đới gió mùa. Từ thời trung đại người dân đã dựa vào đặc tính của khí hậu chia thời gian trong năm ra thành bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với những đặc trưng riêng. Mùa xuân được xác định từ khoảng tháng 2 đến tháng 4; mùa hạ từ khoảng tháng 5 đến tháng 7; mùa thu từ khoảng tháng 8 đến tháng 10; còn mùa đông khoảng từ tháng 11 đến tháng 1.
Bốn mùa trong Quốc âm thi tập hiện lên rõ nét và đầy sinh động khác với bộ phận thơ chữ Hán. Quốc âm thi tập là thơ Nôm, thơ tiếng Việt những lời thơ uyển chuyển, dung dị, gần gũi đời thường và gắn với nếp cảm, nếp nghĩ dân tộc.
Bốn mùa trong văn học trung đại nói chung thường mang tính ước lệ cao. Thời gian trong thơ bị phong bế chặt chẽ bởi đối tượng miêu tả. Trong tập "Hồng Đức quốc âm thi tập" xét về phương diện hình thức thì cảnh ở đây cũng biểu hiện thời gian theo mùa: xuân, hạ, thu, đông bằng "mười hai tháng" bằng "năm canh"... Cứ như vậy, đọc hết bài này, bài khác người đọc sẽ bắt gặp các hình ảnh đặc trưng các mùa của thiên nhiên. Tính ước lệ bởi các đối tượng sẵn có, là đối tượng chính để tác giả thơ sáng tạo nghệ thuật. Công thức ước lệ này được biểu hiện qua việc sử dụng các đối tượng miêu tả khi các tác giả trung đại muốn diễn đạt về thời gian trong năm hay theo mùa... Mùa xuân phải có lan, mai, chim oanh, ong bướm và có cả tấm lòng người quân tử... Mùa hè phải có hoa sen, lựu, chim cuốc, tiếng ve kêu... Mùa thu phải có hoa cúc vàng, lá ngô đồng, tiếng thu xào xạc... Và mùa đông nhất thiết phải có tùng, trúc, gió heo may, tiếng chim nhạn kêu,... Và trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi nói riêng hình ảnh bốn mùa được xuất hiện lần lượt, khoác trên mình những nét đặc trưng riêng, và nét đặc trưng đó được chứng minh bằng các ý kiến, nhận xét sau đây:
Trong cuốn Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn ở phần thiên nhiên và thời gian, tác giả Nguyễn Thiên Thụ đã đề cập trực tiếp đến bốn mùa trong văn học trung đại: "Thiên nhiên đã khoác những chiếc áo màu khác nhau tùy theo từng thời gian: cỏ, cây, hoa, lá, núi rừng, sông, hồ, bầu trời,... đã thay đổi theo từng mùa, từng tháng. Những thay đổi đó làm lòng người đổi thay và lòng thi nhân thêm cảm xúc". [13, tr.675]. Nguyễn Hữu Sơn với bài nghiên cứu Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi cho rằng: "Trong thơ Nguyễn Trãi mùa xuân được cảm nhận như là biểu tượng của vẻ đẹp toàn mĩ, hoàn chỉnh, phổ biến". [13, tr.535]. Cùng trong cuốn Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm với bài nghiên cứu cảnh tình mùa hè Lê Trí Viễn đã khẳng định rõ: “Ông vẫn vui với hè cũng là một thứ lạ. Xưa, thơ thích xuân, mến thu chứ mấy ai đoái hoài tới hè”. [13, tr.541]. Và thơ thu trong thơ Nguyễn Trãi được nêu rõ trong bài viết thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi của Nguyễn Thiên Thụ: “Mùa thu làm cho cảnh sông thêm tình tứ vì nước thêm trong, trăng sáng, trời xanh cao”. [13, tr.676].
Đặc biệt, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn, Nguyễn Thiên Thụ đã nhận định: "Với Nguyễn Trãi cũng như các thi nhân khác, thiên nhiên là nguồn mĩ cảm vô cùng phong phú, đã làm cho tâm hồn thi nhân rung động... Thi nhân như là một kẻ đi tìm cái đẹp và thiên nhiên với muôn vàn vẻ đẹp đã gợi mỗi thi nhân thưởng thức". [13, tr.668].
Trần Thanh Mại khi nghiên cứu về Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi đã khẳng định: "Thơ về thiên nhiên chiếm phần phong phú nhất và cũng là thành công nhất trong di sản của thơ Nguyễn Trãi". [5, tr.171].
Trong chuyên luận thơ Nôm Đường Luật, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn nhận xét về thời gian trong tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi: "Những bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Trãi phong phú và nhiều tới mức phòng tranh thiên nhiên không đủ chỗ trưng bày và nhà thơ phải treo sang cả những phòng dành cho mảng đề tài khác" [14, tr.57].
Trên đây là những công trình nghiên cứu và những ý kiến tiêu biểu nhất của một số nhà nghiên cứu về đề tài thiên nhiên nói chung và hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập nói riêng. Nhưng xem xét một cách toàn diện chưa có một công trình nghiên cứu một cách riêng biệt chuyên sâu về đề tài: “Bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đã nêu sẽ là nguồn tài liệu vô cùng quý báu để chúng ta tìm hiểu đề tài một cách hợp lí và thấu đáo.
Triển khai đề tài: “Bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” tôi xác định hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập là đối tượng nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở tập thơ Quốc âm thi tập Tập thơ Quốc âm thi tập do nhà xuất bản Giáo dục - 1994, gồm 174 trang.
Tiến hành khảo sát nhằm tìm ra cách thể hiện hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập và ý nghĩa của việc sử dụng hình ảnh bốn mùa trong việc biểu hiện giá trị nghệ thuật.
Để đảm bảo cho công việc nghiên cứu
đề tài, đồng thời để có nguồn tư liệu phong phú và đủ tin cậy, đáp ứng được mục
đích đặt ra tôi tiến hành những phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thống kê, phân loại
Sử dụng phương pháp này tôi có thể tập hợp, thống kê những nguồn tư liệu có liên quan đến đề tài tôi đang nghiên cứu.
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Từ những tư liệu đã tập hợp, thống kê được tôi sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng như một phương pháp chính trong quá trình nghiên cứu nội dung đề tài.
Nền văn học trung đại Việt Nam trải qua gần X thế kỉ, với nhiều giai đoạn, nhiều thế kỉ nên việc sử dụng phương pháp văn học sử sẽ đảm bảo được tính lôgic trong quá trình khảo sát phục vụ cho việc nghiên cứu khóa luận. Hơn nữa tư tưởng tác phẩm luôn chịu sự chi phối của thời đại.
NGUYỄN TRÃI VÀ QUỐC ÂM THI TẬP
Vài nét về thời đại và con ngƣời Nguyễn Trãi
Thời đại Nguyễn Trãi - những biến động lớn lao
Mỗi cá nhân sinh ra đều gắn với một thời đại nhất định. Chính thời đại đó đã ảnh hưởng đến phẩm chất, tài năng cũng như hệ tư tưởng, ý thức của cá nhân, Nguyễn Trãi cũng như vậy. Nguyễn Trãi sống ở giai đoạn lịch sử sôi động với những biến cố có tầm vóc lớn lao. Ngược dòng thời gian, quay trở về với lịch sử cuối thế kỉ XIV đến thế kỉ XV, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Uy thế vương triều nhà Trần (1225 - 1400) đang đi vào giai đoạn suy vong. Tất cả danh thời “nhị đế” của nhà Trần giờ này chỉ còn là những kí ức xa xăm, những luyến tiếc sâu sắc trong trí nhớ của nhân dân. Từ thời Trần Dụ Tông (1341 - 1369) người ta đã thấy kế tiếp nhau leo lên ngôi là một loạt các vị vua bất kể tuổi tác: già, trẻ, bé con, bất kể họ có hay không có năng lực trị vì đất nước. Chính trị rối ren, đời sống nhân dân khổ cực. Người ta thấy một cảnh tượng hoàn toàn trái ngược trong xã hội bấy giờ là bên cạnh sự ăn chơi trác tán; sự sa hoa hưởng thụ; sự tham ô, siểm nịnh, lộng quyền của vua chúa trong triều là cảnh sống cơ cực: phu phen, tạp dịch, thuế nặng, tô cao cứ đè nặng lên tầng lớp nhân dân. Mâu thuẫn nội tại đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước láng giềng có ý đồ xâm lược. Mối hiểm hoạ cứ thế tràn xuống từ hai miền Nam - Bắc.
Ở phía Nam, với sự suy yếu của nhà Trần, quan hệ bang giao với vương quốc Chiêm Thành ngày một xấu đi rõ rệt. Vua Chiêm Thành đã có cơ hội tổ chức những cuộc cướp phá miền biên cương. Cuộc đấu tranh giữ nước của nhân dân hết sức gay go và quyết liệt. Dù cuối cùng thắng lợi thuộc về nhà Trần nhưng từ trong cuộc chiến đấu này, với các cuộc hành quân phòng ngự liên miên, nó đủ làm cho nhà Trần hao người, tốn của.
Ở phía Bắc, nhà Minh xâm nhập vào nước ta, lật đổ nhà Hồ, sáp nhập nước ta vào lãnh thổ của chúng và đổi nước ta thành quận Giao Chỉ.
Từ khi đất nước rơi vào tay nhà Minh, đế chế này đã thi hành một bộ máy hành chính, một chế độ quan liêu hà khắc vô cùng. Nhưng tưởng chính sách tàn bạo của chúng sẽ thiêu chết tinh thần yêu nước, ý thức tự cường của nhân dân ta nhưng nhà Minh đã lầm. Người trước ngã, người sau đứng lên, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam vẫn được ấp ủ trong một nhóm người lâu nay đang hoạt động bí mật ở vùng thượng du Thanh Hoá mà nổi bật nhất là thiên tài Nguyễn Trãi.
Sau 10 năm (1418 - 1428) kháng chiến gian khổ “máu trộn bùn tươi” cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã toàn thắng. Cuộc khởi nghĩa đã mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc, giang sơn thu về một mối, cả dân tộc bước vào trung hưng lần thứ hai. Không chỉ Tổ Quốc dựng “đài xuân dân tộc” mà chế độ phong kiến cũng đã đạt đến độ hoàng kim nhất ở nửa cuối thế kỉ XV. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi không thể tách rời với hai tên chữ Nguyễn Trãi. Sau khi lên ngôi hoàng đế (1428). Lê Lợi đã phong cho Nguyễn Trãi làm quan phục hầu, được ban quốc tính (họ Lê). Trong lúc như vậy triều đình nhà Lê có nhiều mâu thuẫn và kéo dài cho đến tận đời Lê Thái Tông, tình hình chia rẽ lại càng kịch liệt. Nguyễn Trãi không thể có một cơ hội nào để thi thố tài năng nữa. Cuộc đời của một con người vì dân, vì nước này bị thời đại này khép lại bằng “Vụ án trại vải” mà lịch sử gọi là án “thiên cổ kì oán”.
Tìm hiểu Nguyễn Trãi người thực hiện đề tài này không thể tìm hiểu ông như một cá nhân nhà trí thức yêu nước nào đó - mà tìm hiểu ông với tư cách là một nhân vật lịch sử, một nhà văn hoá lớn với những tác phẩm đã phản ánh cả một thời đại lịch sử. Với những tư tưởng ở nhiều điểm như là phát ngôn cho cả một dân tộc thời Nguyễn Trãi. Chính thời đại cuối Trần, đầu Lê đã tạo ra người anh hùng - bậc vĩ nhân, làm “rạng rỡ non sông đất nước ta” như Nguyễn Trãi. Từ đó ta có thể hiểu rõ hơn về con người, tài năng, phẩm chất của Nguyễn Trãi sau này.
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác thơ văn của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương) sau rời về làng Ngọc Ổi (nay thuộc Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc. Ông ngoại và cha đều là người có lòng yêu nước thương dân. Nguyễn Trãi đã được thừa hưởng tấm lòng vì dân, vì nước ấy.
Lên 6 tuổi mẹ mất, lên 10 tuổi ông ngoại qua đời, Nguyễn Trãi về ở Nhị Khê nơi cha dạy học, Ông gần gũi nông thôn từ đó. Năm 20 tuổi, ông đỗ Thái học sinh và hai cha con cùng làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh sang cướp nước ta. Nguyễn Phi Khanh bị bắt đem về Trung Quốc cùng với cha con Hồ Quý Ly và các triều thần khác. Nguyễn Trãi và người em trai đi theo chăm sóc, nghe lời cha khuyên, ông trở về nhưng lại bị giặc Minh bắt giữ ở Đông Quan.
Trốn thoát khỏi tay giặc, ông náu mình trong nhân dân, tìm đường cứu nước. Đây là thời gian ông đi sâu vào nông thôn, hiểu được đời sống nhân dân, thấm thía sức mạnh của dân, và nhờ đó ông nhận ra chân lí: “muốn cứu nước phải dựa vào dân”. Ông tìm theo Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Và Nguyễn Trãi đã sống, chiến đấu cùng nhân dân. Ông có đóng góp lớn vào phương kế đuổi giặc. Ông là vị quân sư xuất sắc giúp Lê Lợi chiến lược, chiến thuật trong kháng chiến chống quân Minh xâm lược:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chi nhân để thay cường bạo
Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào thực hiện hoài bão xây dựng đất nước thái bình thịnh trị thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó, ông được tha nhưng không được tin dùng nữa. Mười năm (1429 - 1439) Nguyễn Trãi chỉ được giao chức “nhàn quan” không có thực quyền. Ông buồn, xin về Côn Sơn (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương). Mấy tháng sau, Lê Thái Tông lại mời ông ra làm việc nước. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, ngày 01 tháng 9 năm 1442, sau khi nhà vua đi duyệt võ, đã vào Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi. Khi vua dời Côn Sơn, về đến trại vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh) bị chết đột ngột. Lúc vua chết có Nguyễn Thị Lộ, người thiếp của Nguyễn Trãi, lúc ấy phụ trách dạy dỗ các cung nữ (chức Lễ nghi học sĩ) hầu bên cạnh. Bọn triều thần bấy lâu nay muốn hãm hại Nguyễn Trãi nhân cơ hội này vu cho ông cùng Nguyễn Thị Lộ mưu giết vua, khiến ông phải nhận án tru di tam tộc (bị giết cả ba họ). Nỗi oan tày trời ấy, hơn 20 năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải toả và ca ngợi ông bằng hai câu thơ nổi tiếng :
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
(Lòng Ức Trai toả rạng văn chương)
Nguyễn Trãi là một thiên tài nhiều mặt hiếm có. Bình ngô đại cáo tuy viết bằng chữ Hán nhưng xứng đáng là áng “Hùng văn muôn thuở”. Quốc âm thi tập là tập thơ tiếng Việt (chữ Nôm) sớm nhất có giá trị lớn còn lại đến ngày nay. Nguyễn Trãi đã góp phần xây đắp nền móng vững trãi cho văn học dân tộc.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng - Trên đường tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi do Chương Thâu chủ biên từng nói: “Từ bài Bình ngô đại cáo qua các bức thư gửi các tướng tá xâm lược đến thơ chữ Hán và chữ Nôm… ngòi bút thần của Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta những tác phẩm gồm nhiều thể văn và tất cả đều hay và đẹp lạ thường” [15, tr.15]. Nhìn chung các tác phẩm của Nguyễn Trãi dù là chữ Hán hay chữ Nôm thì chúng đều có sự thống nhất về mặt nội dung. Điều đó thể hiện ở hai điểm nổi bật là tinh thần yêu nước nồng nàn và lí tưởng đấu tranh vì chính nghĩa. Về nghệ thuật thì các tác phẩm thể hiện sự phong phú về thể loại và có nhiều đóng góp cho nghệ thuật thơ ca nước nhà. Những tác phẩm của Nguyễn Trãi còn lại đến ngày nay là tài sản vô giá của văn học dân tộc, là niềm tự hào chính đáng của các thế hệ người Việt Nam xưa nay.
Bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
Thi nhân thường yêu cái đẹp, mà cái đẹp phong phú, gần gũi ta nhất đó là thiên nhiên. Thi nhân thường để tâm hồn đi theo đám mây bay, theo dòng nước chảy, và lòng thi nhân vui tươi rộn rã khi thấy mặt trời lên, khi nghe chim ca, và nhìn thấy hoa nở thắm. Nguyễn Trãi là một thi nhân cho nên Nguyễn Trãi đã yêu thiên nhiên, ca tụng thiên nhiên. Thời lệnh môn, hoa mộc môn, cầm thủ môn là những bài thơ ca tụng thiên nhiên đậm đà nhất, thiết tha nhất của Nguyễn Trãi. Thiên nhiên ở đây bao gồm: cỏ cây, hoa lá, núi rừng, sông hồ, chim muông...
Với Nguyễn Trãi cũng như các thi nhân khác, thiên nhiên là nguồn mĩ cảm vô cùng phong phú, đã làm cho tâm hồn thi nhân rung động. Thi nhân như là một kẻ đi tìm cái đẹp, và thiên nhiên với muôn vàn vẻ đẹp đã gọi mời thi nhân thưởng thức.
Các nhà thơ trung đại nói chung và nhà thơ Nguyễn Trãi nói riêng đều thường miêu tả cảnh sắc thiên nhiên thông qua hình ảnh bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Với mỗi mùa đều có những vần thơ đầy cảm xúc.
Bốn mùa - một vòng tuần hoàn vận động theo quy luật của tự nhiên và có sự thay đổi cùng với vòng quay của thời gian. Từng mùa trong bức tranh thiên nhiên ấy lại mang những gam màu khác nhau làm nên những bức tranh sinh động và hấp dẫn. Nếu như mùa xuân, xanh tươi màu cỏ cây, hoa lá; mùa hè rực rỡ ánh nắng chói chang với màu lựu đỏ rực; mùa thu lại khoác trên mình màu tàn úa của cỏ cây thì mùa đông đặc biệt với cái rét buốt giá.
Trong Quốc âm thi tập hình ảnh bốn mùa xuất hiện với tần số lớn. Có thể trực tiếp viết về mùa, cũng có thể miêu tả thông qua những hình ảnh giàu sức gợi cảm để vẽ lên một bức tranh phong cảnh tuyệt mĩ. Nguyễn Trãi sử dụng những hình ảnh của loài cây, hoa... để tượng trưng cho từng mùa như:
Hoa đào, hoa mai đã nở thắm tươi, báo hiệu một năm mới sắp tới và báo hiệu mùa xuân tươi trẻ sắp sang:
Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi
Ưa mi vì tiết sạch hơn người.
(Mai)
Hay: Một đóa đào hoa khéo tốt tươi
Cách xuân mơn mởn, thấy xuân cười.
(Đào hoa)
Ve kêu râm ran báo hiệu hè tới, hoa hòe nở rộ trên khắp đồng quê:
Vì ai cho cái đỗ quên kêu,
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
Lại có hòe hoa chen bóng lục,
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
(Hạ cảnh tuyệt cú)
Phương pháp thống kê, phân loại
Sử dụng phương pháp này tôi có thể tập hợp, thống kê những nguồn tư liệu có liên quan đến đề tài tôi đang nghiên cứu.
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Từ những tư liệu đã tập hợp, thống kê được tôi sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng như một phương pháp chính trong quá trình nghiên cứu nội dung đề tài.
Nền văn học trung đại Việt Nam trải qua gần X thế kỉ, với nhiều giai đoạn, nhiều thế kỉ nên việc sử dụng phương pháp văn học sử sẽ đảm bảo được tính lôgic trong quá trình khảo sát phục vụ cho việc nghiên cứu khóa luận. Hơn nữa tư tưởng tác phẩm luôn chịu sự chi phối của thời đại.
NGUYỄN TRÃI VÀ QUỐC ÂM THI TẬP
Vài nét về thời đại và con ngƣời Nguyễn Trãi
Thời đại Nguyễn Trãi - những biến động lớn lao
Mỗi cá nhân sinh ra đều gắn với một thời đại nhất định. Chính thời đại đó đã ảnh hưởng đến phẩm chất, tài năng cũng như hệ tư tưởng, ý thức của cá nhân, Nguyễn Trãi cũng như vậy. Nguyễn Trãi sống ở giai đoạn lịch sử sôi động với những biến cố có tầm vóc lớn lao. Ngược dòng thời gian, quay trở về với lịch sử cuối thế kỉ XIV đến thế kỉ XV, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Uy thế vương triều nhà Trần (1225 - 1400) đang đi vào giai đoạn suy vong. Tất cả danh thời “nhị đế” của nhà Trần giờ này chỉ còn là những kí ức xa xăm, những luyến tiếc sâu sắc trong trí nhớ của nhân dân. Từ thời Trần Dụ Tông (1341 - 1369) người ta đã thấy kế tiếp nhau leo lên ngôi là một loạt các vị vua bất kể tuổi tác: già, trẻ, bé con, bất kể họ có hay không có năng lực trị vì đất nước. Chính trị rối ren, đời sống nhân dân khổ cực. Người ta thấy một cảnh tượng hoàn toàn trái ngược trong xã hội bấy giờ là bên cạnh sự ăn chơi trác tán; sự sa hoa hưởng thụ; sự tham ô, siểm nịnh, lộng quyền của vua chúa trong triều là cảnh sống cơ cực: phu phen, tạp dịch, thuế nặng, tô cao cứ đè nặng lên tầng lớp nhân dân. Mâu thuẫn nội tại đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước láng giềng có ý đồ xâm lược. Mối hiểm hoạ cứ thế tràn xuống từ hai miền Nam - Bắc.
Ở phía Nam, với sự suy yếu của nhà Trần, quan hệ bang giao với vương quốc Chiêm Thành ngày một xấu đi rõ rệt. Vua Chiêm Thành đã có cơ hội tổ chức những cuộc cướp phá miền biên cương. Cuộc đấu tranh giữ nước của nhân dân hết sức gay go và quyết liệt. Dù cuối cùng thắng lợi thuộc về nhà Trần nhưng từ trong cuộc chiến đấu này, với các cuộc hành quân phòng ngự liên miên, nó đủ làm cho nhà Trần hao người, tốn của.
Ở phía Bắc, nhà Minh xâm nhập vào nước ta, lật đổ nhà Hồ, sáp nhập nước ta vào lãnh thổ của chúng và đổi nước ta thành quận Giao Chỉ.
Từ khi đất nước rơi vào tay nhà Minh, đế chế này đã thi hành một bộ máy hành chính, một chế độ quan liêu hà khắc vô cùng. Nhưng tưởng chính sách tàn bạo của chúng sẽ thiêu chết tinh thần yêu nước, ý thức tự cường của nhân dân ta nhưng nhà Minh đã lầm. Người trước ngã, người sau đứng lên, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam vẫn được ấp ủ trong một nhóm người lâu nay đang hoạt động bí mật ở vùng thượng du Thanh Hoá mà nổi bật nhất là thiên tài Nguyễn Trãi.
Sau 10 năm (1418 - 1428) kháng chiến gian khổ “máu trộn bùn tươi” cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã toàn thắng. Cuộc khởi nghĩa đã mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc, giang sơn thu về một mối, cả dân tộc bước vào trung hưng lần thứ hai. Không chỉ Tổ Quốc dựng “đài xuân dân tộc” mà chế độ phong kiến cũng đã đạt đến độ hoàng kim nhất ở nửa cuối thế kỉ XV. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi không thể tách rời với hai tên chữ Nguyễn Trãi. Sau khi lên ngôi hoàng đế (1428). Lê Lợi đã phong cho Nguyễn Trãi làm quan phục hầu, được ban quốc tính (họ Lê). Trong lúc như vậy triều đình nhà Lê có nhiều mâu thuẫn và kéo dài cho đến tận đời Lê Thái Tông, tình hình chia rẽ lại càng kịch liệt. Nguyễn Trãi không thể có một cơ hội nào để thi thố tài năng nữa. Cuộc đời của một con người vì dân, vì nước này bị thời đại này khép lại bằng “Vụ án trại vải” mà lịch sử gọi là án “thiên cổ kì oán”.
Tìm hiểu Nguyễn Trãi người thực hiện đề tài này không thể tìm hiểu ông như một cá nhân nhà trí thức yêu nước nào đó - mà tìm hiểu ông với tư cách là một nhân vật lịch sử, một nhà văn hoá lớn với những tác phẩm đã phản ánh cả một thời đại lịch sử. Với những tư tưởng ở nhiều điểm như là phát ngôn cho cả một dân tộc thời Nguyễn Trãi. Chính thời đại cuối Trần, đầu Lê đã tạo ra người anh hùng - bậc vĩ nhân, làm “rạng rỡ non sông đất nước ta” như Nguyễn Trãi. Từ đó ta có thể hiểu rõ hơn về con người, tài năng, phẩm chất của Nguyễn Trãi sau này.
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác thơ văn của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương) sau rời về làng Ngọc Ổi (nay thuộc Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc. Ông ngoại và cha đều là người có lòng yêu nước thương dân. Nguyễn Trãi đã được thừa hưởng tấm lòng vì dân, vì nước ấy.
Lên 6 tuổi mẹ mất, lên 10 tuổi ông ngoại qua đời, Nguyễn Trãi về ở Nhị Khê nơi cha dạy học, Ông gần gũi nông thôn từ đó. Năm 20 tuổi, ông đỗ Thái học sinh và hai cha con cùng làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh sang cướp nước ta. Nguyễn Phi Khanh bị bắt đem về Trung Quốc cùng với cha con Hồ Quý Ly và các triều thần khác. Nguyễn Trãi và người em trai đi theo chăm sóc, nghe lời cha khuyên, ông trở về nhưng lại bị giặc Minh bắt giữ ở Đông Quan.
Trốn thoát khỏi tay giặc, ông náu mình trong nhân dân, tìm đường cứu nước. Đây là thời gian ông đi sâu vào nông thôn, hiểu được đời sống nhân dân, thấm thía sức mạnh của dân, và nhờ đó ông nhận ra chân lí: “muốn cứu nước phải dựa vào dân”. Ông tìm theo Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Và Nguyễn Trãi đã sống, chiến đấu cùng nhân dân. Ông có đóng góp lớn vào phương kế đuổi giặc. Ông là vị quân sư xuất sắc giúp Lê Lợi chiến lược, chiến thuật trong kháng chiến chống quân Minh xâm lược:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chi nhân để thay cường bạo
Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào thực hiện hoài bão xây dựng đất nước thái bình thịnh trị thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó, ông được tha nhưng không được tin dùng nữa. Mười năm (1429 - 1439) Nguyễn Trãi chỉ được giao chức “nhàn quan” không có thực quyền. Ông buồn, xin về Côn Sơn (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương). Mấy tháng sau, Lê Thái Tông lại mời ông ra làm việc nước. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, ngày 01 tháng 9 năm 1442, sau khi nhà vua đi duyệt võ, đã vào Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi. Khi vua dời Côn Sơn, về đến trại vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh) bị chết đột ngột. Lúc vua chết có Nguyễn Thị Lộ, người thiếp của Nguyễn Trãi, lúc ấy phụ trách dạy dỗ các cung nữ (chức Lễ nghi học sĩ) hầu bên cạnh. Bọn triều thần bấy lâu nay muốn hãm hại Nguyễn Trãi nhân cơ hội này vu cho ông cùng Nguyễn Thị Lộ mưu giết vua, khiến ông phải nhận án tru di tam tộc (bị giết cả ba họ). Nỗi oan tày trời ấy, hơn 20 năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải toả và ca ngợi ông bằng hai câu thơ nổi tiếng :
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
(Lòng Ức Trai toả rạng văn chương)
Nguyễn Trãi là một thiên tài nhiều mặt hiếm có. Bình ngô đại cáo tuy viết bằng chữ Hán nhưng xứng đáng là áng “Hùng văn muôn thuở”. Quốc âm thi tập là tập thơ tiếng Việt (chữ Nôm) sớm nhất có giá trị lớn còn lại đến ngày nay. Nguyễn Trãi đã góp phần xây đắp nền móng vững trãi cho văn học dân tộc.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng - Trên đường tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi do Chương Thâu chủ biên từng nói: “Từ bài Bình ngô đại cáo qua các bức thư gửi các tướng tá xâm lược đến thơ chữ Hán và chữ Nôm… ngòi bút thần của Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta những tác phẩm gồm nhiều thể văn và tất cả đều hay và đẹp lạ thường” [15, tr.15]. Nhìn chung các tác phẩm của Nguyễn Trãi dù là chữ Hán hay chữ Nôm thì chúng đều có sự thống nhất về mặt nội dung. Điều đó thể hiện ở hai điểm nổi bật là tinh thần yêu nước nồng nàn và lí tưởng đấu tranh vì chính nghĩa. Về nghệ thuật thì các tác phẩm thể hiện sự phong phú về thể loại và có nhiều đóng góp cho nghệ thuật thơ ca nước nhà. Những tác phẩm của Nguyễn Trãi còn lại đến ngày nay là tài sản vô giá của văn học dân tộc, là niềm tự hào chính đáng của các thế hệ người Việt Nam xưa nay.
Bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
Thi nhân thường yêu cái đẹp, mà cái đẹp phong phú, gần gũi ta nhất đó là thiên nhiên. Thi nhân thường để tâm hồn đi theo đám mây bay, theo dòng nước chảy, và lòng thi nhân vui tươi rộn rã khi thấy mặt trời lên, khi nghe chim ca, và nhìn thấy hoa nở thắm. Nguyễn Trãi là một thi nhân cho nên Nguyễn Trãi đã yêu thiên nhiên, ca tụng thiên nhiên. Thời lệnh môn, hoa mộc môn, cầm thủ môn là những bài thơ ca tụng thiên nhiên đậm đà nhất, thiết tha nhất của Nguyễn Trãi. Thiên nhiên ở đây bao gồm: cỏ cây, hoa lá, núi rừng, sông hồ, chim muông...
Với Nguyễn Trãi cũng như các thi nhân khác, thiên nhiên là nguồn mĩ cảm vô cùng phong phú, đã làm cho tâm hồn thi nhân rung động. Thi nhân như là một kẻ đi tìm cái đẹp, và thiên nhiên với muôn vàn vẻ đẹp đã gọi mời thi nhân thưởng thức.
Các nhà thơ trung đại nói chung và nhà thơ Nguyễn Trãi nói riêng đều thường miêu tả cảnh sắc thiên nhiên thông qua hình ảnh bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Với mỗi mùa đều có những vần thơ đầy cảm xúc.
Bốn mùa - một vòng tuần hoàn vận động theo quy luật của tự nhiên và có sự thay đổi cùng với vòng quay của thời gian. Từng mùa trong bức tranh thiên nhiên ấy lại mang những gam màu khác nhau làm nên những bức tranh sinh động và hấp dẫn. Nếu như mùa xuân, xanh tươi màu cỏ cây, hoa lá; mùa hè rực rỡ ánh nắng chói chang với màu lựu đỏ rực; mùa thu lại khoác trên mình màu tàn úa của cỏ cây thì mùa đông đặc biệt với cái rét buốt giá.
Trong Quốc âm thi tập hình ảnh bốn mùa xuất hiện với tần số lớn. Có thể trực tiếp viết về mùa, cũng có thể miêu tả thông qua những hình ảnh giàu sức gợi cảm để vẽ lên một bức tranh phong cảnh tuyệt mĩ. Nguyễn Trãi sử dụng những hình ảnh của loài cây, hoa... để tượng trưng cho từng mùa như:
Hoa đào, hoa mai đã nở thắm tươi, báo hiệu một năm mới sắp tới và báo hiệu mùa xuân tươi trẻ sắp sang:
Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi
Ưa mi vì tiết sạch hơn người.
(Mai)
Hay: Một đóa đào hoa khéo tốt tươi
Cách xuân mơn mởn, thấy xuân cười.
(Đào hoa)
Ve kêu râm ran báo hiệu hè tới, hoa hòe nở rộ trên khắp đồng quê:
Vì ai cho cái đỗ quên kêu,
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
Lại có hòe hoa chen bóng lục,
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
(Hạ cảnh tuyệt cú)
Hay:
Một lành xảy nảy bỗng hòe trồng
Một phút xuân qua một phút trông
Có thủa ngày hòe dương tán lục
Đùn đùn bóng rợp cửa tam công.
(Hòe)
Hoa cúc nở đưa hương ngào ngạt báo hiệu mùa thu đến.
Hoa cúc vàng khiêm nhường trang điểm cho bầu trời thu đầy sương mù và hơi gió lạnh:
Nào hoa chẳng bén, khí đầm hâm
Có mấy bầu sương, nhị mới đâm
Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn
Cho hay thu muộn tiết càng thơm.
(Cúc)
Cây tùng bốn mùa vẫn xanh tươi dù cho các loài thảo mộc khác đã thay đổi theo tiết trời báo hiệu mùa đông buốt giá đã tới.
Thu đến cây nào chả lạ lùng
Một mình lại thuở ba đông
Làm tuyền ai rặng giá làm khách
Tài đông lương cao ắt cả dòng.
(Tùng)
Như vậy, thông qua hình ảnh bốn mùa - bức tranh thiên nhiên hiện lên vô cùng phong phú, sinh động và đầy sự độc đáo. Đó không chỉ là bức tranh phong cảnh mà đó còn là bức tranh tâm trạng của con người Nguyễn Trãi được thể hiện qua nhiều cung bậc khác nhau.
Tổng số bài thơ viết về bốn mùa của Nguyễn Trãi
Con người có rất nhiều cách cảm nhận thời gian trong năm. Các nhà thơ thời trung đại thường tính thời gian bằng những cách cảm nhận hết sức tinh tế đó là thời gian theo mùa, theo vòng tuần hoàn. Trong số các nhà thơ trung đại, Nguyễn Trãi là người thể hiện rõ nhất quy luật của thời gian trong năm thông qua các hình ảnh tượng trưng của từng mùa. Một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Ở mùa nào cũng vậy, Nguyễn Trãi đều có thơ. Điều này có thể thấy qua bảng thống kê sau:
STT Bài thơ viết về hình ảnh bốn mùa Tổng số bài Số câu thơ xuất hiện hình ảnh bốn mùa trong bài Mùa Tên bài thơ 1 Xuân Ngôn chí – Bài 1 28 1 2 Ngôn chí – Bài 2 1 3 Ngôn chí – Bài 21 0 4 Mạn thuật – Bài 1 2 5 Thời lệnh môn 1 6 Thơ tiếc cảnh 7 7 Vãn xuân 1 8 Xuân hoa tuyệt cú 1 9 Tích cảnh – Bài 3 0 10 Tích cảnh – Bài 5 0 11 Tích cảnh – Bài 7 1 12 Mai 1 13 Đào hoa – Bài 1 2 14 Đào hoa – Bài3 0 15 Đào hoa – Bài 4 1 16 Đào hoa – Bài 5 1 17 Thiện tuế thụ 1 18 Ba tiêu 1 19 Giá 0 20 Lão dung 0 21 Mạt lị 0 22 Lão Hạc 0 23 Tự thán 3 24 Ngôn chí – Bài 6 1 25 Ngôn chí – Bài 7 0 26 Ngôn chí – Bài 8 1 27 Mạn thuật – Bài 12 1 28 Mạn thuật – Bài 14 0 29 Hạ Hạ cảnh tuyệt cú 4 4 30 Hoè 1 31 Ngôn chí – Bài 20 3 32 Bảo kính cảnh giới 6 33 Thu Thu nguyệt tuyệt cú 6 1 34 Tích cảnh – Bài 1 3 35 Thuỷ trung nguyệt 1 36 Cúc 3 37 Hồng cúc 0 38 Thuật hứng 12 49 Đông Ngôn chí – Bài 13 3 2 40 Tùng 2 41 Lão mai 0 1.3.2.
Những nhận xét rút ra từ số liệu thống kê
Qua khảo sát, thống kê những bài thơ viết về hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi chúng tôi rút ra những nhận xét sau:
Số lượng bài thơ viết về bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi xuất hiện với tần số cao 16,9%. Hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập rất phong phú và đa dạng. Một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, ở mùa nào Nguyễn Trãi cũng đều có thơ, đặc biệt là những bài thơ viết về mùa xuân chiếm 10,6% và mùa thu 3,16% đó là một số lượng lớn. Tuy nhiên, thơ viết về mùa hạ chiếm 1,6% và mùa đông 1,18% một con số không nhiều nhưng cũng đủ làm nên tên tuổi của ông.
Nguyễn Trãi khi viết về hình ảnh bốn mùa không đơn thuần chỉ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà qua đó nó còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ.
Một lành xảy nảy bỗng hòe trồng
Một phút xuân qua một phút trông
Có thủa ngày hòe dương tán lục
Đùn đùn bóng rợp cửa tam công.
(Hòe)
Hoa cúc nở đưa hương ngào ngạt báo hiệu mùa thu đến.
Hoa cúc vàng khiêm nhường trang điểm cho bầu trời thu đầy sương mù và hơi gió lạnh:
Nào hoa chẳng bén, khí đầm hâm
Có mấy bầu sương, nhị mới đâm
Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn
Cho hay thu muộn tiết càng thơm.
(Cúc)
Cây tùng bốn mùa vẫn xanh tươi dù cho các loài thảo mộc khác đã thay đổi theo tiết trời báo hiệu mùa đông buốt giá đã tới.
Thu đến cây nào chả lạ lùng
Một mình lại thuở ba đông
Làm tuyền ai rặng giá làm khách
Tài đông lương cao ắt cả dòng.
(Tùng)
Như vậy, thông qua hình ảnh bốn mùa - bức tranh thiên nhiên hiện lên vô cùng phong phú, sinh động và đầy sự độc đáo. Đó không chỉ là bức tranh phong cảnh mà đó còn là bức tranh tâm trạng của con người Nguyễn Trãi được thể hiện qua nhiều cung bậc khác nhau.
Tổng số bài thơ viết về bốn mùa của Nguyễn Trãi
Con người có rất nhiều cách cảm nhận thời gian trong năm. Các nhà thơ thời trung đại thường tính thời gian bằng những cách cảm nhận hết sức tinh tế đó là thời gian theo mùa, theo vòng tuần hoàn. Trong số các nhà thơ trung đại, Nguyễn Trãi là người thể hiện rõ nhất quy luật của thời gian trong năm thông qua các hình ảnh tượng trưng của từng mùa. Một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Ở mùa nào cũng vậy, Nguyễn Trãi đều có thơ. Điều này có thể thấy qua bảng thống kê sau:
STT Bài thơ viết về hình ảnh bốn mùa Tổng số bài Số câu thơ xuất hiện hình ảnh bốn mùa trong bài Mùa Tên bài thơ 1 Xuân Ngôn chí – Bài 1 28 1 2 Ngôn chí – Bài 2 1 3 Ngôn chí – Bài 21 0 4 Mạn thuật – Bài 1 2 5 Thời lệnh môn 1 6 Thơ tiếc cảnh 7 7 Vãn xuân 1 8 Xuân hoa tuyệt cú 1 9 Tích cảnh – Bài 3 0 10 Tích cảnh – Bài 5 0 11 Tích cảnh – Bài 7 1 12 Mai 1 13 Đào hoa – Bài 1 2 14 Đào hoa – Bài3 0 15 Đào hoa – Bài 4 1 16 Đào hoa – Bài 5 1 17 Thiện tuế thụ 1 18 Ba tiêu 1 19 Giá 0 20 Lão dung 0 21 Mạt lị 0 22 Lão Hạc 0 23 Tự thán 3 24 Ngôn chí – Bài 6 1 25 Ngôn chí – Bài 7 0 26 Ngôn chí – Bài 8 1 27 Mạn thuật – Bài 12 1 28 Mạn thuật – Bài 14 0 29 Hạ Hạ cảnh tuyệt cú 4 4 30 Hoè 1 31 Ngôn chí – Bài 20 3 32 Bảo kính cảnh giới 6 33 Thu Thu nguyệt tuyệt cú 6 1 34 Tích cảnh – Bài 1 3 35 Thuỷ trung nguyệt 1 36 Cúc 3 37 Hồng cúc 0 38 Thuật hứng 12 49 Đông Ngôn chí – Bài 13 3 2 40 Tùng 2 41 Lão mai 0 1.3.2.
Những nhận xét rút ra từ số liệu thống kê
Qua khảo sát, thống kê những bài thơ viết về hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi chúng tôi rút ra những nhận xét sau:
Số lượng bài thơ viết về bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi xuất hiện với tần số cao 16,9%. Hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập rất phong phú và đa dạng. Một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, ở mùa nào Nguyễn Trãi cũng đều có thơ, đặc biệt là những bài thơ viết về mùa xuân chiếm 10,6% và mùa thu 3,16% đó là một số lượng lớn. Tuy nhiên, thơ viết về mùa hạ chiếm 1,6% và mùa đông 1,18% một con số không nhiều nhưng cũng đủ làm nên tên tuổi của ông.
Nguyễn Trãi khi viết về hình ảnh bốn mùa không đơn thuần chỉ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà qua đó nó còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ.
Mỗi mùa thể hiện một tâm trạng khác nhau. Mùa xuân là mùa đầu
tiên trong năm, tượng trưng cho sự khởi đầu mới mẻ với sắc xuân đầm ấm, tươi
vui. Mùa hạ với cái nắng vàng gay gắt cùng với tiếng ve, tiếng cuốc kêu… mang đến
âm thanh rộn rã của sự sống. Đến mùa thu, Nguyễn Trãi có một mảng thơ dành
riêng cho mùa thu, đó là bức tranh thu đẹp thanh sơ và giản dị với hình ảnh hoa
cúc, điển hình cho mùa thu ở nông thôn Việt Nam. Còn về đông, dường như mọi cảnh
vật đều trở nên tiêu điều, xơ xác, qua đó gửi gắm một nỗi buồn sâu sắc.
Có thể nói, bức tranh thiên nhiên bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi rất đa dạng và phong phú với những hình ảnh sinh động, gần gũi với con người. Đến với đề tài này chúng ta có thể tiếp cận với rất nhiều bài thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Trãi. Điều này cho thấy Nguyễn Trãi là một người rất tài năng trong nhiều lĩnh vực, không chỉ là một con người yêu thiên nhiên mà còn là một nhà cách mạng với tấm lòng yêu nước sâu sắc đã để lại những vần thơ về mùa còn đậm mãi với thời gian qua niềm hoài cổ.
Có thể nói, bức tranh thiên nhiên bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi rất đa dạng và phong phú với những hình ảnh sinh động, gần gũi với con người. Đến với đề tài này chúng ta có thể tiếp cận với rất nhiều bài thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Trãi. Điều này cho thấy Nguyễn Trãi là một người rất tài năng trong nhiều lĩnh vực, không chỉ là một con người yêu thiên nhiên mà còn là một nhà cách mạng với tấm lòng yêu nước sâu sắc đã để lại những vần thơ về mùa còn đậm mãi với thời gian qua niềm hoài cổ.
BỐN MÙA - NHỮNG GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT
Nhắc nhở quy luật tuần hoàn
Trong vòng tuần hoàn xuân - hạ - thu - đông, mùa xuân là mùa khởi đầu của một năm mới và cũng là mùa được mong đợi nhất bởi sự quyến rũ của cảnh xuân.
Mùa xuân đem lại nguồn cảm hứng dồi dào cho thi ca mọi thời đại, trong văn học hiện đại ta từng bắt gặp những vần thơ xuân tươi vui rạo rực của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử,... Các nhà thơ hiện đại quan niệm mùa xuân là mùa của hội hè, mùa của hò hẹn đối với tình yêu trai gái, còn các nhà thơ trung đại nói chung coi mùa xuân như một người bạn tri ân, người bạn để trút bày tâm sự và trước nỗi lo mùa xuân qua đi rồi mùa xuân lại đến. Và mùa xuân trong Nguyễn Trãi nói riêng, đó là một biểu tượng của vẻ đẹp toàn mĩ, hoàn chỉnh, phổ biến:
Đâu đâu cũng chịu lệnh đóng quân
Nào chốn nào, chăng gió xuân
Huống lai vườn còn hoa trúc cũ
Chồi thức tốt lạ mười phân.
(Thơ tiếc cảnh - Bài 13)
Ngọn gió mùa xuân hay là vị chúa đông quân kia đã đến, đã mang hơi thở ấm áp tới khắp mọi miền. Trong con mắt mỗi người, mảnh vườn ấy chợt tươi xanh hơn bởi mầm non hoa lá. Biểu tượng của sự sống, sức sống mùa xuân "chồi thức tốt lạ mười phân" đã vượt lên, lấn át củi khô cằn, đơn lẻ, lạc lõng của một cành trúc mùa đông. Qua đó, nhà thơ khẳng định một quy luật tất yếu của tự nhiên là sự sinh ra và mất đi, mùa đông có lạnh giá đến đâu thì cũng đến lúc phải nhường chỗ cho xuân tới, cho muôn hoa đua nở, chim ca ríu rít. Đó cũng là quy luật của đời người, ai ai cũng phải trải qua quá trình sinh ra, trưởng thành và mất đi không có gì là vĩnh cửu cả. Mỗi mùa đông qua đi và xuân lại đến con người lại được đánh dấu bằng một mốc mới, một thay đổi mới trong cuộc đời mình.
Nhắc nhở quy luật tuần hoàn
Trong vòng tuần hoàn xuân - hạ - thu - đông, mùa xuân là mùa khởi đầu của một năm mới và cũng là mùa được mong đợi nhất bởi sự quyến rũ của cảnh xuân.
Mùa xuân đem lại nguồn cảm hứng dồi dào cho thi ca mọi thời đại, trong văn học hiện đại ta từng bắt gặp những vần thơ xuân tươi vui rạo rực của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử,... Các nhà thơ hiện đại quan niệm mùa xuân là mùa của hội hè, mùa của hò hẹn đối với tình yêu trai gái, còn các nhà thơ trung đại nói chung coi mùa xuân như một người bạn tri ân, người bạn để trút bày tâm sự và trước nỗi lo mùa xuân qua đi rồi mùa xuân lại đến. Và mùa xuân trong Nguyễn Trãi nói riêng, đó là một biểu tượng của vẻ đẹp toàn mĩ, hoàn chỉnh, phổ biến:
Đâu đâu cũng chịu lệnh đóng quân
Nào chốn nào, chăng gió xuân
Huống lai vườn còn hoa trúc cũ
Chồi thức tốt lạ mười phân.
(Thơ tiếc cảnh - Bài 13)
Ngọn gió mùa xuân hay là vị chúa đông quân kia đã đến, đã mang hơi thở ấm áp tới khắp mọi miền. Trong con mắt mỗi người, mảnh vườn ấy chợt tươi xanh hơn bởi mầm non hoa lá. Biểu tượng của sự sống, sức sống mùa xuân "chồi thức tốt lạ mười phân" đã vượt lên, lấn át củi khô cằn, đơn lẻ, lạc lõng của một cành trúc mùa đông. Qua đó, nhà thơ khẳng định một quy luật tất yếu của tự nhiên là sự sinh ra và mất đi, mùa đông có lạnh giá đến đâu thì cũng đến lúc phải nhường chỗ cho xuân tới, cho muôn hoa đua nở, chim ca ríu rít. Đó cũng là quy luật của đời người, ai ai cũng phải trải qua quá trình sinh ra, trưởng thành và mất đi không có gì là vĩnh cửu cả. Mỗi mùa đông qua đi và xuân lại đến con người lại được đánh dấu bằng một mốc mới, một thay đổi mới trong cuộc đời mình.
Nguyễn Trãi - con người đam mê nhập cuộc với mùa xuân, ông
càng thấu hiểu về vẻ đẹp của mùa xuân, từ những cái nhỏ nhặt nhất của mùa xuân
mang lại. Đối với các nhà thơ khác mùa xuân trong họ chỉ dừng lại là miêu tả vẻ
đẹp, sắc trời mùa xuân nhưng với Nguyễn Trãi thì lại khác mùa xuân không chỉ là
đẹp mà nó còn là một điểm mốc để nhắc nhở quy luật tuần hoàn. Xuân đến - con
người thêm tuổi mới, như đứa trẻ thơ mới lọt lòng từ mùa xuân năm nay nhưng
sang mùa xuân năm sau, bi bô trong tiếng gọi "mẹ, mẹ..." Thời gian
trôi đi không chờ đợi ai cả, mùa xuân được nhà thơ tính theo ngày:
Ba xuân thì được chín mươi ngày
Sinh vật lòng trời chẳng tày
Rỉ bảo đông phong hời hợt ít
Thế tình chớ tiếc, dửng dưng thay!
(Thơ tiếc cảnh - Bài 11)
Mỗi một mùa thì có tháng, "Ba xuân thì được chín mươi ngày" thời gian có hạn, ba tháng trôi đi lại nhường chỗ cho ba tháng tiếp theo cứ thế cứ thế xuân - hạ - thu - đông lần lượt nhường chỗ cho nhau. Đó là một quy luật hiển nhiên của đất trời, mùa xuân vĩnh hằng mang bao điều tự nhiên, vui tươi háo hức nhưng tuổi xuân của con người thì chỉ có một lần. Do đó, con người phải biết nắm bắt thời gian, biết quý trọng thời gian cũng có nghĩa là quý trọng vòng tuần hoàn của chính bản thân mình. Vì sự vô hạn của tự nhiên và sự hữu hạn của đời người cảm nhận thông qua sự tuần hoàn của bốn mùa.
Nguyễn Trãi - con người của thiên nhiên, yêu thiên nhiên, sống cùng thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên theo vòng tuần hoàn:
Ba tháng hạ thiên, bóng nắng dài
Thu đông lạnh lẽo cả hòa hai
Đông phong từ hẹn tin xuân đến
Đầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi.
(Xuân hoa tuyệt cú)
Ba xuân thì được chín mươi ngày
Sinh vật lòng trời chẳng tày
Rỉ bảo đông phong hời hợt ít
Thế tình chớ tiếc, dửng dưng thay!
(Thơ tiếc cảnh - Bài 11)
Mỗi một mùa thì có tháng, "Ba xuân thì được chín mươi ngày" thời gian có hạn, ba tháng trôi đi lại nhường chỗ cho ba tháng tiếp theo cứ thế cứ thế xuân - hạ - thu - đông lần lượt nhường chỗ cho nhau. Đó là một quy luật hiển nhiên của đất trời, mùa xuân vĩnh hằng mang bao điều tự nhiên, vui tươi háo hức nhưng tuổi xuân của con người thì chỉ có một lần. Do đó, con người phải biết nắm bắt thời gian, biết quý trọng thời gian cũng có nghĩa là quý trọng vòng tuần hoàn của chính bản thân mình. Vì sự vô hạn của tự nhiên và sự hữu hạn của đời người cảm nhận thông qua sự tuần hoàn của bốn mùa.
Nguyễn Trãi - con người của thiên nhiên, yêu thiên nhiên, sống cùng thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên theo vòng tuần hoàn:
Ba tháng hạ thiên, bóng nắng dài
Thu đông lạnh lẽo cả hòa hai
Đông phong từ hẹn tin xuân đến
Đầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi.
(Xuân hoa tuyệt cú)
Bài thơ mang đến một quy luật tuần hoàn và đặc trưng của từng
mùa: hạ nắng dài, thu đông lạnh lẽo, xuân đến tốt tươi. Qua sự biến chuyển của
từng mùa, nêu lên được lẽ tuần hoàn của vũ trụ theo triết lí phương Đông.
Theo vòng tuần hoàn, mùa xuân xanh tươi nhường chỗ cho mùa hè nắng dài. Các nhà thơ trung đại thường coi mùa hè như một sự náo nhiệt, vui tươi, đồng thời dùng mùa hè để nói lên tâm sự. Mùa hè không chỉ có cái nóng nực, ngột ngạt mà cũng rất đẹp, rất tươi với màu nắng chói chang, bầu trời xanh. Đặc biệt, mùa hè rất rộn ràng với âm thanh của tiếng quốc kêu, tiếng tu hú gọi, tiếng sáo diều vi vu, tiếng ve râm ran, những âm thanh khuấy động làm cho không gian hè trở nên rộn ràng, bức tranh hè trở nên sinh động hơn. Phùng Khắc Khoan từng viết:
Bốn mùa im ắng há chim câm
Vừa mùa hè tiếng gáy ầm
Ai bảo kêu oan vô tích sự
Vừa kêu đã có nắng dương tràn.
(Văn đỗ quyên ngẫu thành)
Tiếng chim đỗ quên kêu rộn ràng, báo hiệu mùa hè, một mùa hè tưng bừng tràn ngập nắng hạ. Và mùa hè trong Nguyễn Trãi cũng vậy cũng tiếng đỗ quyên kêu, có hoa hòe nở rộ báo hiệu hè sang, thời khắc giao mùa giữa xuân và hạ:
Rỗi, hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
(Bảo kính cảnh giới - Bài 43)
Ở đây, nhà thơ miêu tả cảnh mùa hè với những hình ảnh thân quen: hòe, thạch lựu hiên, đây là những dấu hiệu đặc trưng mà quen thuộc của mùa hè, dưới ngòi bút của ông, chúng đã trở nên thú vị, độc đáo.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, khiếu quan sát tinh tường và một trực cảm nhạy bén trước sự biến đổi của thiên nhiên, cùng với tình yêu hương 20 sắc, dường như không một phút nào nhà thơ ngừng theo dõi bức tranh tứ mùa của mình, những đặc trưng của từng mùa đó. Mùa hè ở Việt Nam thường bắt đầu vào những ngày đầu của tháng tư khi những cơn mưa phùn gió đông với tiết trời mát mẻ, ẩm thấp đã hết thì mùa hạ lại đến thay vào đó là cái oi bức, nóng nực khác hẳn với mùa xuân. Hơn nữa nếu để ý thì ta sẽ thấy thời gian ban ngày của mùa kéo dài hơn so với ban đêm. Điều này khiến ai vô tình nhất cũng nhận ra đặc trưng của từng mùa.
Cũng đề cập tới quy luật tuần hoàn, các tác giả thời Hồng Đức cũng dùng các hình ảnh của thiên nhiên để báo hiệu mùa hè đã tới, tạo nên một bức tranh mùa hè thật sinh động gắn liền với cuộc sống của người dân quê: Nước nồng sùng sục đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè.
(Lại vịnh nắng mùa hè - HĐQÂTT)
Như vậy có thể thấy, mùa hè ở Việt Nam là rất điển hình với thời tiết nóng nực, ngột ngạt. Sự oi bức đó cũng đi vào trong thơ nhà thơ Trần Đăng Khoa trong bài thơ “hạt gạo làng ta” đã cho chúng ta hiểu rõ hơn về tiết trời mà hè:
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…
Vòng tuần hoàn luân chuyển theo mùa, nhắc nhở mùa này đã tới, mùa kia qua đi mà còn nhắc nhở con người nhiều điều trong cuộc sống. Thể hiện quy luật của thời gian và sự vĩnh cửu của nó. Trong cái vòng tuần hoàn đó Nguyễn Trãi còn thể hiện bao niềm tâm sự của mình, sự nuối tiếc thời gian trôi đi nhanh chóng, nuối tiếc tuổi thiếu niên mà mình chưa làm được gì, nỗi than đó được bật lên trong bài thơ:
Vì ai cho cái đỗ quyên kêu
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu
Lại có hòe hoa chim bóng lục
Thức xuân một điểm não lòng nhau
(Hạ cảnh tuyệt cú)
Trong bức tranh "tứ trời" ấy mùa hè dường như đã lùi lại nhường chỗ cho mùa thu đến. Vì vậy, bức tranh mùa thu cũng vào trong việc nhắc nhở quy luật tuần hoàn, mùa hạ nóng nực, oi bức qua đi, mùa thu mát mẻ đã tới. Thu đến gợi nhiều sự thay đổi thể hiện quy luật của tự nhiên. Nguyễn Trãi lại thể hiện niềm nuối tiếc, ông kí thác tâm tình của mình trong một mối cảm hoài tiếc cảnh:
Hầu nên khôn lại tiếc bâng khuâng …
Khoan khoan những lệ ác tan vầng.
(Tích cảnh - Bài 1)
Quy luật của thiên nhiên là vào thu cây cỏ đều biến đổi, trơ trụi lá, trở nên lạnh lùng, nhưng lại có một số loài cây ngược lại quy luậtt ấy, cứ tiếp tục xanh tươi bất chấp giá rét, cũng giống như sức mạnh và nghị lực của con người:
Thu đến cây nào chẳng lạnh lùng
Một mình lạt thuở ba đông.
(Tùng - Bài 1)
Mùa thu đến, mùa thu đi nhắc nhở thời gian đang dần về cuối, một vòng tuần hoàn trong năm gần khép lại cũng giống như thời khắc cuộc đời của con người đã vào tuổi xế chiều, tuổi con người sắp được nghỉ ngơi. Tuổi con người già theo năm tháng không có sự lặp lại nhưng với thiên nhiên thì lại khác, sự lặp lại của năm này với năm khác hoàn toàn giống nhau, không có sự phai mờ. Sự chuyển mùa giữa mùa này với mùa khác vẫn như thế:
Theo vòng tuần hoàn, mùa xuân xanh tươi nhường chỗ cho mùa hè nắng dài. Các nhà thơ trung đại thường coi mùa hè như một sự náo nhiệt, vui tươi, đồng thời dùng mùa hè để nói lên tâm sự. Mùa hè không chỉ có cái nóng nực, ngột ngạt mà cũng rất đẹp, rất tươi với màu nắng chói chang, bầu trời xanh. Đặc biệt, mùa hè rất rộn ràng với âm thanh của tiếng quốc kêu, tiếng tu hú gọi, tiếng sáo diều vi vu, tiếng ve râm ran, những âm thanh khuấy động làm cho không gian hè trở nên rộn ràng, bức tranh hè trở nên sinh động hơn. Phùng Khắc Khoan từng viết:
Bốn mùa im ắng há chim câm
Vừa mùa hè tiếng gáy ầm
Ai bảo kêu oan vô tích sự
Vừa kêu đã có nắng dương tràn.
(Văn đỗ quyên ngẫu thành)
Tiếng chim đỗ quên kêu rộn ràng, báo hiệu mùa hè, một mùa hè tưng bừng tràn ngập nắng hạ. Và mùa hè trong Nguyễn Trãi cũng vậy cũng tiếng đỗ quyên kêu, có hoa hòe nở rộ báo hiệu hè sang, thời khắc giao mùa giữa xuân và hạ:
Rỗi, hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
(Bảo kính cảnh giới - Bài 43)
Ở đây, nhà thơ miêu tả cảnh mùa hè với những hình ảnh thân quen: hòe, thạch lựu hiên, đây là những dấu hiệu đặc trưng mà quen thuộc của mùa hè, dưới ngòi bút của ông, chúng đã trở nên thú vị, độc đáo.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, khiếu quan sát tinh tường và một trực cảm nhạy bén trước sự biến đổi của thiên nhiên, cùng với tình yêu hương 20 sắc, dường như không một phút nào nhà thơ ngừng theo dõi bức tranh tứ mùa của mình, những đặc trưng của từng mùa đó. Mùa hè ở Việt Nam thường bắt đầu vào những ngày đầu của tháng tư khi những cơn mưa phùn gió đông với tiết trời mát mẻ, ẩm thấp đã hết thì mùa hạ lại đến thay vào đó là cái oi bức, nóng nực khác hẳn với mùa xuân. Hơn nữa nếu để ý thì ta sẽ thấy thời gian ban ngày của mùa kéo dài hơn so với ban đêm. Điều này khiến ai vô tình nhất cũng nhận ra đặc trưng của từng mùa.
Cũng đề cập tới quy luật tuần hoàn, các tác giả thời Hồng Đức cũng dùng các hình ảnh của thiên nhiên để báo hiệu mùa hè đã tới, tạo nên một bức tranh mùa hè thật sinh động gắn liền với cuộc sống của người dân quê: Nước nồng sùng sục đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè.
(Lại vịnh nắng mùa hè - HĐQÂTT)
Như vậy có thể thấy, mùa hè ở Việt Nam là rất điển hình với thời tiết nóng nực, ngột ngạt. Sự oi bức đó cũng đi vào trong thơ nhà thơ Trần Đăng Khoa trong bài thơ “hạt gạo làng ta” đã cho chúng ta hiểu rõ hơn về tiết trời mà hè:
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…
Vòng tuần hoàn luân chuyển theo mùa, nhắc nhở mùa này đã tới, mùa kia qua đi mà còn nhắc nhở con người nhiều điều trong cuộc sống. Thể hiện quy luật của thời gian và sự vĩnh cửu của nó. Trong cái vòng tuần hoàn đó Nguyễn Trãi còn thể hiện bao niềm tâm sự của mình, sự nuối tiếc thời gian trôi đi nhanh chóng, nuối tiếc tuổi thiếu niên mà mình chưa làm được gì, nỗi than đó được bật lên trong bài thơ:
Vì ai cho cái đỗ quyên kêu
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu
Lại có hòe hoa chim bóng lục
Thức xuân một điểm não lòng nhau
(Hạ cảnh tuyệt cú)
Trong bức tranh "tứ trời" ấy mùa hè dường như đã lùi lại nhường chỗ cho mùa thu đến. Vì vậy, bức tranh mùa thu cũng vào trong việc nhắc nhở quy luật tuần hoàn, mùa hạ nóng nực, oi bức qua đi, mùa thu mát mẻ đã tới. Thu đến gợi nhiều sự thay đổi thể hiện quy luật của tự nhiên. Nguyễn Trãi lại thể hiện niềm nuối tiếc, ông kí thác tâm tình của mình trong một mối cảm hoài tiếc cảnh:
Hầu nên khôn lại tiếc bâng khuâng …
Khoan khoan những lệ ác tan vầng.
(Tích cảnh - Bài 1)
Quy luật của thiên nhiên là vào thu cây cỏ đều biến đổi, trơ trụi lá, trở nên lạnh lùng, nhưng lại có một số loài cây ngược lại quy luậtt ấy, cứ tiếp tục xanh tươi bất chấp giá rét, cũng giống như sức mạnh và nghị lực của con người:
Thu đến cây nào chẳng lạnh lùng
Một mình lạt thuở ba đông.
(Tùng - Bài 1)
Mùa thu đến, mùa thu đi nhắc nhở thời gian đang dần về cuối, một vòng tuần hoàn trong năm gần khép lại cũng giống như thời khắc cuộc đời của con người đã vào tuổi xế chiều, tuổi con người sắp được nghỉ ngơi. Tuổi con người già theo năm tháng không có sự lặp lại nhưng với thiên nhiên thì lại khác, sự lặp lại của năm này với năm khác hoàn toàn giống nhau, không có sự phai mờ. Sự chuyển mùa giữa mùa này với mùa khác vẫn như thế:
Đông đã muộn, lại sang xuân
Xuân muộn thì hè lại đổi lần
Tính kể từ mùa cỏ nguyệt
Thu âu là nhẫn một hai phân.
(Thu nguyệt tuyệt cú)
Xuân muộn thì hè lại đổi lần
Tính kể từ mùa cỏ nguyệt
Thu âu là nhẫn một hai phân.
(Thu nguyệt tuyệt cú)
Cũng đề cập tới quy luật tuần hoàn, sử dụng các hình ảnh để
báo hiệu mùa thu tới vẽ lên bức tranh đầy sinh động và thu hút bạn đọc đó là bức
tranh thu trong thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Khuyến. Cảnh thu ở đây được nhà
thơ đón nhận bằng cả thị giác và thính giác có thể thấy bức tranh toàn cảnh về
mùa thu được nhà thơ cảm nhận từ cái chung đến cái riêng. Đặc biệt Nguyễn Khuyến
còn tinh tế khi cảm nhận được sự trôi đi của thời gian và sự thay đổi của cảnh
vật:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
(Thu vịnh - Nguyễn khuyến)
Chùm "hoa năm ngoái" nay đã trổ bông, điều này khiến người đọc liên tưởng về một quá khứ trong nhà thơ, giữa quá khứ và hiện tại như đan xen, đồng nhất với nhau.
Không chỉ các nhà thơ trung đại có những bài thơ bất hủ viết về thiên nhiên, nhắc nhở quy luật tuần hoàn mà Nguyễn Trãi cũng có những bài thơ thể hiện rất sâu sắc về vấn đề đó nhưng mỗi người có cách thể hiện riêng hướng tới người đọc một cách cảm thụ riêng về nó.
Bức tranh thiên nhiên chưa dừng lại ở đó, thu đi nhường chỗ cho đông lạnh giá, đó là mùa cuối cùng trong năm, khép lại một năm đã hết và bắt đầu cho một năm mới. Một năm có bốn mùa xuân - hạ - thu - đông, mỗi mùa thể hiện một nét đặc trưng riêng, một quy luật riêng, không chỉ về thời gian của mùa mà cả quy luật về con người
Chùm "hoa năm ngoái" nay đã trổ bông, điều này khiến người đọc liên tưởng về một quá khứ trong nhà thơ, giữa quá khứ và hiện tại như đan xen, đồng nhất với nhau.
Không chỉ các nhà thơ trung đại có những bài thơ bất hủ viết về thiên nhiên, nhắc nhở quy luật tuần hoàn mà Nguyễn Trãi cũng có những bài thơ thể hiện rất sâu sắc về vấn đề đó nhưng mỗi người có cách thể hiện riêng hướng tới người đọc một cách cảm thụ riêng về nó.
Bức tranh thiên nhiên chưa dừng lại ở đó, thu đi nhường chỗ cho đông lạnh giá, đó là mùa cuối cùng trong năm, khép lại một năm đã hết và bắt đầu cho một năm mới. Một năm có bốn mùa xuân - hạ - thu - đông, mỗi mùa thể hiện một nét đặc trưng riêng, một quy luật riêng, không chỉ về thời gian của mùa mà cả quy luật về con người
Mùa đông đến, con người đều có chung một cảm nhận như đến với
một thế giớ lạnh lẽo, cô đơn, vắng vẻ với những cảnh tiết đông chí sương muối,
rét "cắt da, cắt thịt" làm cho con người như muốn thu mình lại tự dằn
vặt, tự tâm sự với nỗi lòng mình.
Tà dương bóng ngả áp giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Tuyết sóc leo cây điểm phấn
Cõi đông dài nguyệt in câu.
(Ngôn chí - Bài 13)
Tà dương bóng ngả áp giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Tuyết sóc leo cây điểm phấn
Cõi đông dài nguyệt in câu.
(Ngôn chí - Bài 13)
Nếu mùa xuân là mùa đầu năm, mùa khởi đầu cho một công cuộc mới
thì mùa đông lại là mùa khép lại một năm, báo hiệu một năm đã hết. Nguyễn Trãi
rất khéo léo trong việc sử dụng các hình ảnh thiên nhiên bốn mùa để nhắc nhở
quy luật tuần hoàn. Nếu như con người và cảnh vật dường như đều muốn thu mình
vào cái vỏ bọc của chăn ấm, mọi hoạt động ngừng trệ hơn, không có vẻ tươi tắn của
mùa xuân, vẻ náo nhiệt của mùa hè và vẻ man mác dễ chịu của mùa thu thì các mùa
khác trong năm đều mang đầy sức sống và hấp dẫn, muốn khoe mình trong không
trung rộng lớn.
Mùa đông đến, rồi mùa đông lại đi đó là quy luật của tự nhiên nhưng mùa đông của con người có thể được ví như thời gian của con người đã đi về tuổi già, tuổi của nghỉ ngơi và tuổi thu mình hưởng thụ cái thú nhàn của cuộc sống. Đó là sự khác nhau giữa vòng tuần hoàn của thời gian và con người.
Mùa đông đến, rồi mùa đông lại đi đó là quy luật của tự nhiên nhưng mùa đông của con người có thể được ví như thời gian của con người đã đi về tuổi già, tuổi của nghỉ ngơi và tuổi thu mình hưởng thụ cái thú nhàn của cuộc sống. Đó là sự khác nhau giữa vòng tuần hoàn của thời gian và con người.
Vòng tuần hoàn của thời gian sẽ xua đi cái giá rét của mùa
đông để đón nhận mùa xuân tươi vui, sự chớm nở của nụ hoa mai là một dấu hiệu.
Phải có con mắt tinh mới có thể quan sát được sự biến chuyển của cảnh vật nhanh
nhạy đến như vậy.
Như vậy, thông qua hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, nhà thơ không chỉ khẳng định quy luật vận động của tự nhiên mà còn nói về quy luật của đời người. Bốn mùa có thể tuần hoàn với thời gian nhưng không có nghĩa là cảnh vật không có sự biến đổi, đời người cũng vậy sinh ra và mất đi là quy luật tất yếu.
Hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập không chỉ nhắc nhở quy luật tuần hoàn mà qua đó còn để nhà thơ thể hiện tình yêu của mình vào thiên nhiên, vào các hình ảnh bình dị nhất của cuộc sống đang diễn ra xung quanh mình như: nụ hồng đang nở chào đón ngày mới, hoa súng khép lại vào trong giấc ngủ ban đêm, tiếng chim ca nhảy múa, líu lo hót đua cùng với thiên nhiên đất trời.
Như vậy, thông qua hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, nhà thơ không chỉ khẳng định quy luật vận động của tự nhiên mà còn nói về quy luật của đời người. Bốn mùa có thể tuần hoàn với thời gian nhưng không có nghĩa là cảnh vật không có sự biến đổi, đời người cũng vậy sinh ra và mất đi là quy luật tất yếu.
Hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập không chỉ nhắc nhở quy luật tuần hoàn mà qua đó còn để nhà thơ thể hiện tình yêu của mình vào thiên nhiên, vào các hình ảnh bình dị nhất của cuộc sống đang diễn ra xung quanh mình như: nụ hồng đang nở chào đón ngày mới, hoa súng khép lại vào trong giấc ngủ ban đêm, tiếng chim ca nhảy múa, líu lo hót đua cùng với thiên nhiên đất trời.
Tình yêu thiên nhiên
Chỉ có xuất phát từ tình yêu thiên nhiên sâu sắc các thi nhân mới có thể cho người đọc chiêm ngưỡng những bức tranh bốn mùa không chỉ đẹp mà dường như có cả linh hồn. Chính tình yêu thiên nhiên là cơ sở cho lòng yêu nước của thi nhân.
Chỉ có xuất phát từ tình yêu thiên nhiên sâu sắc các thi nhân mới có thể cho người đọc chiêm ngưỡng những bức tranh bốn mùa không chỉ đẹp mà dường như có cả linh hồn. Chính tình yêu thiên nhiên là cơ sở cho lòng yêu nước của thi nhân.
Cũng từ tình yêu thiên nhiên sâu sắc nên người thi sĩ nắm bắt
được hết thần thái và những nét biểu hiện của bốn mùa, tâm hồn họ giao hòa cùng
bốn mùa và thấu hiểu được nó như một người bạn tri ân.
Thơ văn Nguyễn Trãi còn mở ra cho chúng ta một khía cạnh thưởng thức khác nữa và khía cạnh này đã chiếm một phần trọng yếu trong toàn bộ tác phẩm của nhà thi hào. Đó là tình yêu thiên nhiên của ông, tinh thần thưởng thức say sưa của ông trước cảnh nước non kì diệu. Đồng thời, còn là lòng tự hào trước giang sơn cẩm tú của đất nước ta, nhân dân ta, nó cũng là một khía cạnh của lòng tự hào dân tộc.
Trong lịch sử văn học Việt Nam trở về trước dễ thường không có ai yêu thiên nhiên, có thơ nhiều và có thơ hay về thiên nhiên như Nguyễn Trãi. Trở về sau, họa chăng có một mình Nguyễn Du. Nhưng đề tài thiên nhiên ở Nguyễn Du không tập trung bằng, lại càng không cụ thể bằng.
Thơ văn Nguyễn Trãi còn mở ra cho chúng ta một khía cạnh thưởng thức khác nữa và khía cạnh này đã chiếm một phần trọng yếu trong toàn bộ tác phẩm của nhà thi hào. Đó là tình yêu thiên nhiên của ông, tinh thần thưởng thức say sưa của ông trước cảnh nước non kì diệu. Đồng thời, còn là lòng tự hào trước giang sơn cẩm tú của đất nước ta, nhân dân ta, nó cũng là một khía cạnh của lòng tự hào dân tộc.
Trong lịch sử văn học Việt Nam trở về trước dễ thường không có ai yêu thiên nhiên, có thơ nhiều và có thơ hay về thiên nhiên như Nguyễn Trãi. Trở về sau, họa chăng có một mình Nguyễn Du. Nhưng đề tài thiên nhiên ở Nguyễn Du không tập trung bằng, lại càng không cụ thể bằng.
Thơ về thiên nhiên chiếm cái phần phong phú nhất, và cũng là
thành công nhất trong di sản thơ của Nguyễn Trãi. Xuân Diệu từng nói:
"Lòng yêu thiên nhiên, tạo vật là kích thước để đo tâm hồn". Ở Nguyễn
Trãi, lòng yêu thiên nhiên không chỉ phản ánh nhu cầu thẩm mĩ mà còn là hình ảnh
tượng trưng cho cuộc sống, thể hiện cái nhìn tiến bộ của ông. Điều này hoàn
toàn khác xa với quan niệm thẩm mĩ phong kiến. Thẩm mĩ phong kiến nhìn nhận
thiên nhiên ở trạng thái lớn lao, kỳ vĩ, hoành tráng, mĩ lệ. Trong Quốc âm thi
tập, Nguyễn Trãi đã dành riêng một đề mục Hoa mộc môn để nói về cỏ cây, hoa lá.
Trong đề mục này, các hình tượng: tùng - cúc - trúc - mai được Nguyễn Trãi tập
trung khắc họa rất đẹp. Cũng giống như thi pháp cổ phương Đông, Nguyễn Trãi đã
khai thác các hình ảnh thiên nhiên trên để thể hiện phẩm chất thanh tao, cao
nhã, trong sáng của người quân tử. Thiên nhiên ở những đề mục khác còn phẳng phất
phong vị Đường thi. Đây lả bức tranh lụa xinh xắn:
Nước biển non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu
(Báo kính cảnh giới - Bài 26)
Nước biển non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu
(Báo kính cảnh giới - Bài 26)
Khung cảnh bức tranh hiện lên thật thanh bình, yên ổn. Có thế
thì nước mới biếc, non mới xanh và đây là điểm tựa cho thuyền gối bãi. Từ cái nền
yên bình, thơ mộng ấy, ánh trăng đã xuất hiện. Nó cũng hiện lên giữa "đêm
thanh", ánh trăng bàng bạc soi rõ những du khách ngao du, thưởng ngoạn
trên lầu quả là lung linh huyền ảo. Cũng nói về ánh trăng như thế, trong Tự thuật
bài 31, Nguyễn Trãi viết:
Hương cách gác vân thu lạch lạch
Thuyền kê bãi tuyết nguyệt chênh chênh.
Đó lại là một cái lạnh khẽ khàng của mùa thu - mùa gợi ra biết bao cảm hứng sáng tác cho các thi nhân: con thuyền ấy vẫn kề trên bãi tuyết thì lại như một nàng thiếu nữ với dáng vẻ yểu điệu “nguyệt chênh chênh”.
Hương cách gác vân thu lạch lạch
Thuyền kê bãi tuyết nguyệt chênh chênh.
Đó lại là một cái lạnh khẽ khàng của mùa thu - mùa gợi ra biết bao cảm hứng sáng tác cho các thi nhân: con thuyền ấy vẫn kề trên bãi tuyết thì lại như một nàng thiếu nữ với dáng vẻ yểu điệu “nguyệt chênh chênh”.
Có thể nói, trăng xuất hiện rất nhiều trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi. Trong 254 bài thơ đã có tới 70 bài Nguyễn Trãi nhắc tới trăng.
Trăng hiện lên trong nhiều trạng huống khác nhau: là người bạn tri âm, tri kỉ,
là nơi gửi gắm niềm vui, nỗi buồn; là bến đỗ cho Ức Trai khi trống vắng, cô
đơn:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
(Thuật hứng - Bài 19)
Đứng trước một cảnh tượng của thiên nhiên, một biểu hiện của tạo vật tồn tại, Nguyễn Trãi có một năng lực rung cảm dạt dào lạ thường. Dù là một thoáng gió, một gợn mây, một tiếng chim kêu, một nhánh cúc nở; dù là những cảnh tượng bao la hùng vĩ như Vịnh Hạ Long, cửa biển Bạch Đằng, như trấn Vân Đồn, như cửa Thần Phú, như núi Non Nước, tâm hồn nhà thơ đều gắn bó với chúng, quyện lấy chúng, bao trùm lấy chúng, và chan hoà với chúng trong một niềm thông cảm như giữa những tâm hồn bạn, không ai còn bí mật với ai, không ai còn giữ kẽ với ai, không ai còn kiêu điệu với ai, còn thấy lớn hoặc còn thấy bé với ai. Cảnh vật thiên nhiên dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi sinh động lên, sống lên bằng sức sống riêng, bằng đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương hoa, và lắm khi bằng đủ đặc điểm độc đáo của nó nữa.
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
(Thuật hứng - Bài 19)
Đứng trước một cảnh tượng của thiên nhiên, một biểu hiện của tạo vật tồn tại, Nguyễn Trãi có một năng lực rung cảm dạt dào lạ thường. Dù là một thoáng gió, một gợn mây, một tiếng chim kêu, một nhánh cúc nở; dù là những cảnh tượng bao la hùng vĩ như Vịnh Hạ Long, cửa biển Bạch Đằng, như trấn Vân Đồn, như cửa Thần Phú, như núi Non Nước, tâm hồn nhà thơ đều gắn bó với chúng, quyện lấy chúng, bao trùm lấy chúng, và chan hoà với chúng trong một niềm thông cảm như giữa những tâm hồn bạn, không ai còn bí mật với ai, không ai còn giữ kẽ với ai, không ai còn kiêu điệu với ai, còn thấy lớn hoặc còn thấy bé với ai. Cảnh vật thiên nhiên dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi sinh động lên, sống lên bằng sức sống riêng, bằng đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương hoa, và lắm khi bằng đủ đặc điểm độc đáo của nó nữa.
Cảnh vật thiên nhiên nhờ ông trở nên có tình, có ý, có cá
tính, có tâm tư, khi kín đáo, khi sôi nổi, lúc trìu mến, lúc mỉa mai; nhưng tất
cả như chủ nhân của chúng, đều trong trắng, cao khiết, trung hậu, hiền hoà; tất
cả đều bừng sáng lên, niềm nở lên; tất cả đều như đủ dịu dàng, đủ đằm thắm để hứng
đón, để nâng niu, để vỗ về, an ủi những tâm hồn đau khổ đang bị những lực lượng
quái ác dày vò.
Cảnh vật thiên nhiên với nhà thơ là bạn bè, là thầy trò, có khi là con cái, với cái nghĩa thân yêu thắm thiết nhất của nó:
Khách đến chim mừng, hoa xẩy động
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về.
(Thuật hứng - Bài 3)
Hoặc:
Trà tiên, nước kín, bầu in nguyệt
Mai rụng, hoa đeo, bóng cách song.
(Thuật hứng - Bài 6)
Cảnh vật thiên nhiên với nhà thơ là bạn bè, là thầy trò, có khi là con cái, với cái nghĩa thân yêu thắm thiết nhất của nó:
Khách đến chim mừng, hoa xẩy động
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về.
(Thuật hứng - Bài 3)
Hoặc:
Trà tiên, nước kín, bầu in nguyệt
Mai rụng, hoa đeo, bóng cách song.
(Thuật hứng - Bài 6)
Từ giã chốn quan trường, Nguyễn Trãi quay trở về sống chan
hòa, làm bạn với mây núi, trăng sao. Cuộc sống dân giã nơi thôn quê đã giúp
Nguyễn Trãi phát hiện ra biết bao cảnh đẹp. Đó là bức kí họa tự nhiên, mộc mạc
của xóm chài:
Tằm ươm lúc nhúc thuyền gối bãi
Hào chất so le khóm cuối làng.
(Ngôn chí - Bài 8)
Đó là cảnh làng quê thanh bình, đầy sức sống:
Cây rợp bóng am che mát
Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn.
(Ngôn chí - Bài 20)
Tằm ươm lúc nhúc thuyền gối bãi
Hào chất so le khóm cuối làng.
(Ngôn chí - Bài 8)
Đó là cảnh làng quê thanh bình, đầy sức sống:
Cây rợp bóng am che mát
Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn.
(Ngôn chí - Bài 20)
Để rồi nhà thơ nhận ra giữa nhà thơ và thiên nhiên như không
còn khoảng cách: "Nhà thơ và cảnh vật tự nguyện hòa lẫn với nhau như bầu bạn,
như anh em, tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này" (Xuân Diệu - Bác văn
nghị số 3, tháng 8/1957)
Cò nằm, hạc đậu nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con.
(Ngôn chí - Bài 20)
Cò nằm, hạc đậu nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con.
(Ngôn chí - Bài 20)
Có lẽ chỉ có thiên nhiên mới có thể làm cho nhà thơ tạm nguôi
ngoai nỗi đau về thế thái nhân tình, để yên lòng trong cuộc sống nhàn cư, ẩn dật.
Và vì thiên nhiên có vai trò quan trọng như thế, cho nên trong mắt Nguyễn Trãi
bao giờ nhà thơ cũng chiều chuộng chúng, trân trọng chúng, ông nói:
Trì tham nguyệt hiện, chăng buông cá
Rừng tiếc chim về, ngại phát cây.
(Mạn thuật - Bài 6)
Hoặc:
Viện có hoa tàn, chăng quét đất
Nước còn nguyệt hiện, sá thôi chèo.
(Mạn thuật - Bài 10)
Nhà thơ không nỡ thả cá trong ao, vì sợ nó quẫy, nó lội, làm tan vỡ mất vành trăng in dưới nước, nhưng khi trong ao đã có cá rồi, có muốn câu để giải sầu, thì ông lại ngại không câu, vì thương chúng sẽ không được sống nữa:
Người tri âm ít, cầm nên lặng
Lòng hiếu sinh nhiều, cá ngại câu.
(Tự thuật - Bài 10)
Trong trường hợp khác nhà thơ không đóng cửa vì sợ nó che mất ngọn núi phía trước mặt, chiều tối, dạo chơi sông xong, cứ để ngay thuyền ở bến không cất đi, vì phòng trăng có xin trở nhờ thì cho chở! Chăng cài cửa, tiếc non che khuất Sá để thuyền cho nguyệt chở nhờ!
Nếu thuyền không chở trăng, thì nhà thơ cho chở gió mây, chở hơi khói: Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Trì tham nguyệt hiện, chăng buông cá
Rừng tiếc chim về, ngại phát cây.
(Mạn thuật - Bài 6)
Hoặc:
Viện có hoa tàn, chăng quét đất
Nước còn nguyệt hiện, sá thôi chèo.
(Mạn thuật - Bài 10)
Nhà thơ không nỡ thả cá trong ao, vì sợ nó quẫy, nó lội, làm tan vỡ mất vành trăng in dưới nước, nhưng khi trong ao đã có cá rồi, có muốn câu để giải sầu, thì ông lại ngại không câu, vì thương chúng sẽ không được sống nữa:
Người tri âm ít, cầm nên lặng
Lòng hiếu sinh nhiều, cá ngại câu.
(Tự thuật - Bài 10)
Trong trường hợp khác nhà thơ không đóng cửa vì sợ nó che mất ngọn núi phía trước mặt, chiều tối, dạo chơi sông xong, cứ để ngay thuyền ở bến không cất đi, vì phòng trăng có xin trở nhờ thì cho chở! Chăng cài cửa, tiếc non che khuất Sá để thuyền cho nguyệt chở nhờ!
Nếu thuyền không chở trăng, thì nhà thơ cho chở gió mây, chở hơi khói: Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà, nặng với then.
(Thuật hứng - Bài 24)
Mai nở trên cành, nhà thơ không nỡ bỏ:
Mai chăng bẻ bởi thương cành ngọc.
Mai rụng ở ngoài sân, trên đường vườn, không nỡ quét, trái lại còn: "nhặt hoa tàn, xem ngọc rụng"; nhưng trong "am", tức là trong nhà ở của mình, vì không có hoa, nên vẫn quét:
(Thuật hứng - Bài 24)
Mai nở trên cành, nhà thơ không nỡ bỏ:
Mai chăng bẻ bởi thương cành ngọc.
Mai rụng ở ngoài sân, trên đường vườn, không nỡ quét, trái lại còn: "nhặt hoa tàn, xem ngọc rụng"; nhưng trong "am", tức là trong nhà ở của mình, vì không có hoa, nên vẫn quét:
Quét con am để chứa mây!
(Mạn thuật - Bài 6)
Ở chỗ khác ông nói:
Thu êm cửa trúc, mây phủ
Xuân tĩnh, đường hoa, gấm phong.
(Thuật hứng - Bài 11)
Rõ ràng trúc, mai, mây, gió, chim, bướm, suối, thông, hoa, trăng, hồ, đá, là những người bạn nhỏ của nhà thơ, chúng bao vây, chúng xoắn vó, chúng quấn quýt lấy nhà thơ; chúng vòi quà, chúng đòi nụ cười hiền hòa, bàn tay mơn trớn, mắt nhìn đầm ấm của nhà. Chúng sung sướng vì biết nhờ có nhà thơ, chúng mới có cuộc sống và chúng mới có giá trị.
(Mạn thuật - Bài 6)
Ở chỗ khác ông nói:
Thu êm cửa trúc, mây phủ
Xuân tĩnh, đường hoa, gấm phong.
(Thuật hứng - Bài 11)
Rõ ràng trúc, mai, mây, gió, chim, bướm, suối, thông, hoa, trăng, hồ, đá, là những người bạn nhỏ của nhà thơ, chúng bao vây, chúng xoắn vó, chúng quấn quýt lấy nhà thơ; chúng vòi quà, chúng đòi nụ cười hiền hòa, bàn tay mơn trớn, mắt nhìn đầm ấm của nhà. Chúng sung sướng vì biết nhờ có nhà thơ, chúng mới có cuộc sống và chúng mới có giá trị.
Những ý nghĩ đó có vẻ như kì lạ nhưng lại rất thực và rất mộng
ở một tâm hồn rộng mở, một "túi thơ chứa hết giang san". Thực và mộng
hòa đồng, thâm nhập trong trạng thái thăng hoa của tâm hồn Nguyễn Trãi. Đó
chính là một trong những chất liệu góp phần tạo nên cái hay, cái đẹp trong tâm
hồn thơ Ức Trai.
Yêu thiên nhiên, gắn bó hết mình với cảnh sắc thiên nhiên đất trời, Nguyễn Trãi cũng rất am hiểu về chúng. Ông phát hiện ra mối quan hệ giữa thiên nhiên và thời gian. "Thiên nhiên đã khoác những chiếc áo màu khác nhau tùy theo từng thời gian. Cỏ cây, hoa lá, núi rừng, sông hồ, bầu trời.... đã thay đổi theo từng mùa, từng tháng. Những thay đổi đó đã làm cho lòng người đổi thay và lòng thi nhân thêm cảm xúc" [13, tr.675] Sắc đào nở thắm tươi báo hiệu một mùa xuân mới:
Yêu thiên nhiên, gắn bó hết mình với cảnh sắc thiên nhiên đất trời, Nguyễn Trãi cũng rất am hiểu về chúng. Ông phát hiện ra mối quan hệ giữa thiên nhiên và thời gian. "Thiên nhiên đã khoác những chiếc áo màu khác nhau tùy theo từng thời gian. Cỏ cây, hoa lá, núi rừng, sông hồ, bầu trời.... đã thay đổi theo từng mùa, từng tháng. Những thay đổi đó đã làm cho lòng người đổi thay và lòng thi nhân thêm cảm xúc" [13, tr.675] Sắc đào nở thắm tươi báo hiệu một mùa xuân mới:
Một đóa đào hoa khéo tốt tươi
Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười.
(Đào hoa - Bài 1)
Chỉ "một đóa đào hoa" thôi mà Nguyễn Trãi liên tưởng đến cả "cảnh xuân mơn mởn". Và nhìn thấy sắc đào tràn đầy nhựa sống như vậy, nhà thơ liên tưởng đến một niềm vui mới đang sắp tràn về. Phải là một con người tinh tế nhạy cảm, có tâm hồn yêu đời, nhà thơ mới có những phát hiện và cảm nhận tích cực như vậy
Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười.
(Đào hoa - Bài 1)
Chỉ "một đóa đào hoa" thôi mà Nguyễn Trãi liên tưởng đến cả "cảnh xuân mơn mởn". Và nhìn thấy sắc đào tràn đầy nhựa sống như vậy, nhà thơ liên tưởng đến một niềm vui mới đang sắp tràn về. Phải là một con người tinh tế nhạy cảm, có tâm hồn yêu đời, nhà thơ mới có những phát hiện và cảm nhận tích cực như vậy
Mùa xuân đi qua, mùa hạ tràn về. Nguyễn Trãi lại tiếp tục tiếp
nhận bắt nhịp với một bức tranh thiên nhiên mới:
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương
(Bảo kính cảnh giới - số 43)
Cái đẹp ở đây hiện lên thật bình dị, không cầu kì, phô trương. Các động từ "đùn đùn", "phun" kết hợp với cái tính từ chỉ sắc đỏ (hoa lựu) và mùi hương (hoa sen) đã tạo nên cho cảnh ngày hè thêm sức sống.
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương
(Bảo kính cảnh giới - số 43)
Cái đẹp ở đây hiện lên thật bình dị, không cầu kì, phô trương. Các động từ "đùn đùn", "phun" kết hợp với cái tính từ chỉ sắc đỏ (hoa lựu) và mùi hương (hoa sen) đã tạo nên cho cảnh ngày hè thêm sức sống.
Tạo vật dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi sinh động là như vậy,
chứa chan tình ý, sẵn sàng thông cảm với người.
Tạo vật và người dựa vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Cảnh tượng biến chuyển rất nên thơ dưới tác động của người, hay dưới hiện tượng tự nhiên, cái này là nguyên nhân của cái kia, cái kia là kết quả của cái nọ. Và hình khối, đường nét, màu sắc, âm thanh quyện lấy nhau, trong một điệu hợp xướng hài hòa, trong một khung cảnh diễm lệ; tất cả đều đẹp, đều xinh, đều êm ái, du dương, nhịp nhàng, uyển chuyển: tất cả đều ca lên cái vui tươi của một cuộc sống trong trẻo, thanh tao.
Và cảnh vật thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi diễm lệ là như thế, hùng vĩ là như thế. Đó là những cảnh vật của non sông gấm vóc của ta. Tổ quốc tươi đẹp của ta. Và phải có một tấm lòng yêu đất nước thật sâu sắc mới có một cái nhìn cảnh vật đất nước trìu mến như thế và mới có một nghệ thuật mô tả ra càng đẹp đẽ chừng nào thì tâm hồn nhà nghệ sĩ càng đẹp đẽ chừng ấy, và một tâm hồn đẹp đẽ nhất định xuất phát từ một thế giới quan lành mạnh, yêu đời, thắm đượm tình người.
Như vậy, đối với Nguyễn Trãi thiên nhiên là tài sản vật chất, cung cấp cho đời sống tinh thần, làm thoả mãn thế giới tâm hồn của con người. Trong Quốc âm thi tập, thiên nhiên luôn là thiên nhiên tâm trạng , ít khi là thiên nhiên khách quan thuần tuý. Thiên nhiên đã đi vào giải toả tâm sự, làm lắng lại nỗi buồn quy sơn, trở thành đối tượng thẩm mĩ của Ức Trai. Với sự xuất hiện của những hình ảnh dân giã, thân thuộc: trăng, núi, mây, tằm, hoè, lựu, cò, hạc,… càng khẳng định sâu sắc hơn về tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi, yêu những cảnh vật bình dị, đời thường nhất. Ông không hổ danh là nhà thơ của thiên nhiên. 30 Nguyễn Trãi, con người của thiên nhiên, yêu thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên
Tạo vật và người dựa vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Cảnh tượng biến chuyển rất nên thơ dưới tác động của người, hay dưới hiện tượng tự nhiên, cái này là nguyên nhân của cái kia, cái kia là kết quả của cái nọ. Và hình khối, đường nét, màu sắc, âm thanh quyện lấy nhau, trong một điệu hợp xướng hài hòa, trong một khung cảnh diễm lệ; tất cả đều đẹp, đều xinh, đều êm ái, du dương, nhịp nhàng, uyển chuyển: tất cả đều ca lên cái vui tươi của một cuộc sống trong trẻo, thanh tao.
Và cảnh vật thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi diễm lệ là như thế, hùng vĩ là như thế. Đó là những cảnh vật của non sông gấm vóc của ta. Tổ quốc tươi đẹp của ta. Và phải có một tấm lòng yêu đất nước thật sâu sắc mới có một cái nhìn cảnh vật đất nước trìu mến như thế và mới có một nghệ thuật mô tả ra càng đẹp đẽ chừng nào thì tâm hồn nhà nghệ sĩ càng đẹp đẽ chừng ấy, và một tâm hồn đẹp đẽ nhất định xuất phát từ một thế giới quan lành mạnh, yêu đời, thắm đượm tình người.
Như vậy, đối với Nguyễn Trãi thiên nhiên là tài sản vật chất, cung cấp cho đời sống tinh thần, làm thoả mãn thế giới tâm hồn của con người. Trong Quốc âm thi tập, thiên nhiên luôn là thiên nhiên tâm trạng , ít khi là thiên nhiên khách quan thuần tuý. Thiên nhiên đã đi vào giải toả tâm sự, làm lắng lại nỗi buồn quy sơn, trở thành đối tượng thẩm mĩ của Ức Trai. Với sự xuất hiện của những hình ảnh dân giã, thân thuộc: trăng, núi, mây, tằm, hoè, lựu, cò, hạc,… càng khẳng định sâu sắc hơn về tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi, yêu những cảnh vật bình dị, đời thường nhất. Ông không hổ danh là nhà thơ của thiên nhiên. 30 Nguyễn Trãi, con người của thiên nhiên, yêu thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên
Nguyễn Trãi, con người của thiên nhiên, yêu thiên nhiên, cảm
nhận thiên nhiên ở mọi góc độ, mọi khía cạnh khác nhau. Trong Quốc âm thi tập
hình ảnh bốn mùa lần lượt nối tiếp nhau xuất hiện, thứ nhất nó nhắc nhở quy luật
tuần hoàn, thứ hai các hình ảnh đó thể hiện cho tình yêu thiên nhiên của Nguyễn
Trãi. Và trong các hình ảnh tươi vui và đặc trưng của từng mùa ấy Nguyễn Trãi
còn chất chứa trong đó bao niềm tâm sự của cá nhân và thời đại.
Tâm sự cá nhân và thời đại
Văn chương xưa, hình ảnh thiên nhiên đặc biệt hình ảnh bốn mùa là yếu tố rất phổ biến và đóng vai trò quan trọng trong việc biểu lộ tình cảm ý chí của con người và thái độ đối với thời đại.
Tâm sự cá nhân và thời đại
Văn chương xưa, hình ảnh thiên nhiên đặc biệt hình ảnh bốn mùa là yếu tố rất phổ biến và đóng vai trò quan trọng trong việc biểu lộ tình cảm ý chí của con người và thái độ đối với thời đại.
Trong khi nhiều nhà thơ trung đại nhìn mùa xuân, thời gian
trôi đi như một dòng chảy “vô tâm” luân hồi thì Nguyễn Trãi với sự nhạy cảm,
đam mê nhập cuộc với mùa xuân, Nguyễn Trãi càng thấu hiểu hơn cái giá của ngày
hôm nay, của thời gian hiện tại. Qua lời ca loài hoa đào, nhà thơ đã nhận ra cả
quá trình biến chuyển của sự sống:
Khí dương hoá há có tư ai
Năng một hoa này, nhẫn mọi loài
Tính kể chỉn còn ba tháng nữa
Kịp xuân mựa để má đào phai.
(Hoa đào - Bài 4)
Khí dương hoá há có tư ai
Năng một hoa này, nhẫn mọi loài
Tính kể chỉn còn ba tháng nữa
Kịp xuân mựa để má đào phai.
(Hoa đào - Bài 4)
Ở đây nhà thơ cho thấy hoa đào biết mùa xuân chỉ có ba tháng
nên đã kịp đến và không để sắc màu của mình phôi pha trong những ngày đẹp đẽ ấy.
Ở đó có nỗi suy tư về thời gian, niềm lo âu về hạnh phúc, tương phản với thái độ
sống đơn điệu, thờ ơ trôi theo dòng chảy đời người cho nên qua thơ xuân, nhà
thơ đã đặt câu hỏi về thái độ của con người trước thời gian, cái đẹp của mùa
xuân là khách quan, tự thân nhưng cái đẹp có ý nghĩa sâu sắc hơn khi con người
có khả năng cảm nhận và chiếm hữu nó.
Khi mùa xuân đến trong Nguyễn Trãi dạt dào tâm sự, ông muốn gửi tới mọi người tất cả những gì đẹp nhất của mùa xuân. Ông ca ngợi vẻ đẹp và sự trân trọng của con người khi cảm nhận mùa. Nhưng đồng thời, ông cũng chê trách và thương thay cho ai kia dửng dưng không biết nối tiếc, trân trọng cái đẹp của mùa xuân - biểu tượng của sự sống - đã một đi không trở lại.
Ba xuân thì được chín mươi ngày …
Thế tình chớ tiếc, dửng dưng thay!
(Thơ tiếc cảnh - Bài 11)
Xuân đến, xuân đi, xuân lại về thời gian trôi đi theo vòng tuần hoàn. Mỗi mùa xuân đến, xuân đi trong Nguyễn Trãi có bao niềm tâm sự, trân trọng thời gian và đồng thời cũng luyến tiếc thời gian, luyến tiếc tuổi trẻ, điều đó được thể hiện sâu trong bài thơ:
Hỡi kẻ biên xanh chớ phụ người
Thức xuân kể được mấy phen tươi ?
Vì thu cho nhẫn đầu nên bạc,
Khi mùa xuân đến trong Nguyễn Trãi dạt dào tâm sự, ông muốn gửi tới mọi người tất cả những gì đẹp nhất của mùa xuân. Ông ca ngợi vẻ đẹp và sự trân trọng của con người khi cảm nhận mùa. Nhưng đồng thời, ông cũng chê trách và thương thay cho ai kia dửng dưng không biết nối tiếc, trân trọng cái đẹp của mùa xuân - biểu tượng của sự sống - đã một đi không trở lại.
Ba xuân thì được chín mươi ngày …
Thế tình chớ tiếc, dửng dưng thay!
(Thơ tiếc cảnh - Bài 11)
Xuân đến, xuân đi, xuân lại về thời gian trôi đi theo vòng tuần hoàn. Mỗi mùa xuân đến, xuân đi trong Nguyễn Trãi có bao niềm tâm sự, trân trọng thời gian và đồng thời cũng luyến tiếc thời gian, luyến tiếc tuổi trẻ, điều đó được thể hiện sâu trong bài thơ:
Hỡi kẻ biên xanh chớ phụ người
Thức xuân kể được mấy phen tươi ?
Vì thu cho nhẫn đầu nên bạc,
Chưa dễ ai đã ba bảy mươi.
(Thơ tiếc cảnh - Bài 5)
Hay:
Ba bảy mươi nào hống nhọc thân
Được thua đã biết sự vân vân.
(Thơ tiếc cảnh - Bài 6)
Cùng với dòng chảy của thời gian, mùa xuân rồi cũng qua đi, những cơn mưa bụi, những làn mưa xuân chấm dứt, nhường chỗ cho cái nắng chói chang của mùa hè.
Hè rộn ràng hơn với khúc nhạc làng quê, đó là những tiếng “lao xao” rất đời thường:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
(Cảnh ngày hè)
(Thơ tiếc cảnh - Bài 5)
Hay:
Ba bảy mươi nào hống nhọc thân
Được thua đã biết sự vân vân.
(Thơ tiếc cảnh - Bài 6)
Cùng với dòng chảy của thời gian, mùa xuân rồi cũng qua đi, những cơn mưa bụi, những làn mưa xuân chấm dứt, nhường chỗ cho cái nắng chói chang của mùa hè.
Hè rộn ràng hơn với khúc nhạc làng quê, đó là những tiếng “lao xao” rất đời thường:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
(Cảnh ngày hè)
Tiếng lao xao chính là âm hưởng của cuộc sống, gợi ra một cuộc
sống no đủ, thanh bình của người dân, qua đó cũng thể hiện ước mong chân thành
của Nguyễn Trãi, mong sao ở mọi nơi cuộc sống thanh bình, no ấm, đồng thời tác
giả thể hiện tình cảm đẹp đẽ và tư tưởng lớn lao, nguyện hi sinh, phấn đấu cho
hoà bình, hạnh phúc của dân tộc.
Dễ có ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
(Cảnh ngày hè)
Mỗi một mùa thể hiện một tâm sự khác nhau theo đúng đặc trưng của từng mùa. Hè nóng bức trong ánh nắng ban trưa, tiếng ve kêu râm ran trong không gian rộng lớn… điều đó thể hiện lòng rạo rực ở nhà thơ Nguyễn Trãi nhưng đồng thời thể hiện một nỗi buồn trước cảnh vật:
Vì ai cho cái đỗ quên kêu …
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
(Hạ cảnh tuyệt cú)
Dân giàu đủ khắp đòi phương
(Cảnh ngày hè)
Mỗi một mùa thể hiện một tâm sự khác nhau theo đúng đặc trưng của từng mùa. Hè nóng bức trong ánh nắng ban trưa, tiếng ve kêu râm ran trong không gian rộng lớn… điều đó thể hiện lòng rạo rực ở nhà thơ Nguyễn Trãi nhưng đồng thời thể hiện một nỗi buồn trước cảnh vật:
Vì ai cho cái đỗ quên kêu …
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
(Hạ cảnh tuyệt cú)
Tiếng cuốc kêu, chim ca vui nhộn, muôn hoa đua nở trong cảnh
ngày hè đang dần dần ẩn mình nhường chỗ cho mùa thu. Mùa thu hoa cúc vàng nở rộ
tạo nên một bức tranh mang nhiều tâm trạng nhất của các thi nhân trong văn học
trung đại nói chung và trong thơ Nguyễn Trãi nói riêng.
Nếu trong thơ Nguyễn Phi Khanh lấy mùa thu để thể hiện thời cuộc, nỗi băn khoăn trăn trở muốn ra tay cứu đời, cứu dân nhưng lại lực bất tòng tâm: Vạn sự bội nhân tiêu tiệm mình
Trữ sầu khi ngoá số tàn canh.
(Thu trung bệnh)
Thi sự bí ẩn của mùa thu đất trời cũng được ngòi bút của đại thi hào Nguyễn Trãi khai thác ở nhiều bài thơ. Ông tìm đến cảnh trí mùa thu như một nơi gửi gắm tâm tình, trút bầu tâm sự. Đưa hình ảnh mùa thu vào trong thơ, Nguyễn Trãi không chỉ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên trong mùa thu mà qua đó nhà thơ còn thể hiện tâm tư tình cảm của con người và niềm tiếc nuối của bản thân:
Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng
Thu đến đêm qua cảm vả mừng
Một tiếng chầy đảo đâm cối nguyệt
Khoan khoan những lệ ác tan vừng.
(Tích cảnh - Bài 1)
Nếu trong thơ Nguyễn Phi Khanh lấy mùa thu để thể hiện thời cuộc, nỗi băn khoăn trăn trở muốn ra tay cứu đời, cứu dân nhưng lại lực bất tòng tâm: Vạn sự bội nhân tiêu tiệm mình
Trữ sầu khi ngoá số tàn canh.
(Thu trung bệnh)
Thi sự bí ẩn của mùa thu đất trời cũng được ngòi bút của đại thi hào Nguyễn Trãi khai thác ở nhiều bài thơ. Ông tìm đến cảnh trí mùa thu như một nơi gửi gắm tâm tình, trút bầu tâm sự. Đưa hình ảnh mùa thu vào trong thơ, Nguyễn Trãi không chỉ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên trong mùa thu mà qua đó nhà thơ còn thể hiện tâm tư tình cảm của con người và niềm tiếc nuối của bản thân:
Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng
Thu đến đêm qua cảm vả mừng
Một tiếng chầy đảo đâm cối nguyệt
Khoan khoan những lệ ác tan vừng.
(Tích cảnh - Bài 1)
Ở đây nhà thơ lại thể hiện sự tiếc nuối thời gian, một nỗi lo
khi mùa thu tới. Thu sang hoa cúc nở rộ, cũng là loài hoa tượng trưng cho thú ẩn
dật của Nguyễn Trãi, yêu cảnh nhàn.
Người đua nhan sắc thuở xuân dương
Nghỉ chờ thu, cực lạ thường
Hoa nhắn rằng đeo danh ẩn dật
(Cúc)
Mùa thu đến làm cho cảnh sông thêm tình tứ vì nước thêm trong, trăng thêm sáng, trời thêm xanh cao:
Nguyệt trong đáy nước, nguyệt trên không
Vục lạnh, châu mừng thoát miệng rồng.
Người đua nhan sắc thuở xuân dương
Nghỉ chờ thu, cực lạ thường
Hoa nhắn rằng đeo danh ẩn dật
(Cúc)
Mùa thu đến làm cho cảnh sông thêm tình tứ vì nước thêm trong, trăng thêm sáng, trời thêm xanh cao:
Nguyệt trong đáy nước, nguyệt trên không
Vục lạnh, châu mừng thoát miệng rồng.
(Thuỷ trung nguyệt)
Ở đây, Nguyễn Trãi nói về thời gian, thiên nhiên đã gieo bao vui tươi, cảm xúc trong lòng người. Với thời gian, thiên nhiên đã gợi trong lòng Nguyễn Trãi bao niềm sầu khổ, buồn phiền.
Hoa nở thì cũng có hoa tàn, mùa xuân vui tươi thì cũng có mùa đông lạnh giá. Mỗi thời gian trôi qua chỉ làm cho Nguyễn Trãi thêm xót xa vì tiếc thời gian, tiếc cảnh đẹp, tiếc cuộc đời xuân xanh.
Nguyễn Trãi khi viết lên những bài thơ về mùa đông tuyệt tác thì trong ông chất chứa bao tâm sự, sự lo âu của con người đứng trước buổi chiều xế bóng Nguyễn Trãi thực sự tiếc những ngày tươi đẹp của tuổi hoa niên khi đứng trước cảnh huy hoàng của mùa xuân, nhưng Nguyễn Trãi vẫn giữ thái độ im lặng chứ không vội vàng hưởng thụ như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. Nguyễn Trãi giữ thái độ thung dung, không kêu gọi nhưng cũng không trỉ trích:
Ở đây, Nguyễn Trãi nói về thời gian, thiên nhiên đã gieo bao vui tươi, cảm xúc trong lòng người. Với thời gian, thiên nhiên đã gợi trong lòng Nguyễn Trãi bao niềm sầu khổ, buồn phiền.
Hoa nở thì cũng có hoa tàn, mùa xuân vui tươi thì cũng có mùa đông lạnh giá. Mỗi thời gian trôi qua chỉ làm cho Nguyễn Trãi thêm xót xa vì tiếc thời gian, tiếc cảnh đẹp, tiếc cuộc đời xuân xanh.
Nguyễn Trãi khi viết lên những bài thơ về mùa đông tuyệt tác thì trong ông chất chứa bao tâm sự, sự lo âu của con người đứng trước buổi chiều xế bóng Nguyễn Trãi thực sự tiếc những ngày tươi đẹp của tuổi hoa niên khi đứng trước cảnh huy hoàng của mùa xuân, nhưng Nguyễn Trãi vẫn giữ thái độ im lặng chứ không vội vàng hưởng thụ như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. Nguyễn Trãi giữ thái độ thung dung, không kêu gọi nhưng cũng không trỉ trích:
Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm
Những lệ xuân qua tuổi tác thêm
Chẳng thấy ngoài hiên tơ liễu rủ
Một phen liễu rủ, một phen mềm
(Tích cảnh - Bài 7)
Những lệ xuân qua tuổi tác thêm
Chẳng thấy ngoài hiên tơ liễu rủ
Một phen liễu rủ, một phen mềm
(Tích cảnh - Bài 7)
Bức tranh “tứ mùa” trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đã
thể hiện rõ tâm sự cá nhân và thời đại theo thời gian, theo vòng tuần hoàn qua
sự đặc trưng của từng mùa. Tuy nhiên, với cây bút tài hoa của Nguyễn Trãi chưa
dừng lại ở đó mà ông còn mượn các hình ảnh tượng trưng cho từng mùa như: tùng -
cúc - trúc - mai để nói lên tâm trạng cá nhân và thời đại của mình.
Nguyễn Trãi là nhà thơ của những phức điệu trữ tình, những trạng huống cảm xúc đối nghịch. Ông có quan phương nhưng cũng “ly tâm” “bung toả” đến tận cùng gam độ; ông như chiếc lá mỏng, chỉ một thoáng gió nhẹ của đời cũng run rẩy reo lên, rung lên tiếng xào xạc của điệu tâm hồn nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn, giàu cảm thông ân nghĩa. Do đó, có không ít những bài thơ của ông đồng thời còn tồn tại nhiều cảm xúc đối nghịch. Có thể coi bài Tự thán, số 38 là tiêu biểu của tiếng nói hướng nội, tiếng nói trữ tình trong thể đối nghịch và trong tính thống nhất, cũng là lời tâm nguyện, lời tuyên ngôn về một cách sống:
Nguyễn Trãi là nhà thơ của những phức điệu trữ tình, những trạng huống cảm xúc đối nghịch. Ông có quan phương nhưng cũng “ly tâm” “bung toả” đến tận cùng gam độ; ông như chiếc lá mỏng, chỉ một thoáng gió nhẹ của đời cũng run rẩy reo lên, rung lên tiếng xào xạc của điệu tâm hồn nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn, giàu cảm thông ân nghĩa. Do đó, có không ít những bài thơ của ông đồng thời còn tồn tại nhiều cảm xúc đối nghịch. Có thể coi bài Tự thán, số 38 là tiêu biểu của tiếng nói hướng nội, tiếng nói trữ tình trong thể đối nghịch và trong tính thống nhất, cũng là lời tâm nguyện, lời tuyên ngôn về một cách sống:
Non tây bóng ác đã mằng tằng
Nhìn đỉnh tùng thu vắng chừng
Thư nhạn lạc lài khi gió
Tiếng quyên khắc khoải thuở trăng.
(Tự thán - Bài 38)
Ở đây, Nguyễn Trãi diễn tả tâm trạng không qua sự tàn lụi của thời gian, vẻ hiu hắt của không gian, cái đơn lẻ đến nao lòng của cả thể xác, cảnh vật, tình đời, song trên hết cả là một lời thề, một lời nguyện ước: xin sống! Quả là thái độ sống dấn thân đến hết mình, một lời thề “chém đá chặt đanh!” Nguyễn Trãi chưa dừng lại ở đó mà qua hình ảnh thiên nhiên ông còn ao ước được sống an nhàn trong một thế giới vô kỷ, vô công, vô danh “tề thị phi”, “tề vạn vật” như trang tử:
Nhìn đỉnh tùng thu vắng chừng
Thư nhạn lạc lài khi gió
Tiếng quyên khắc khoải thuở trăng.
(Tự thán - Bài 38)
Ở đây, Nguyễn Trãi diễn tả tâm trạng không qua sự tàn lụi của thời gian, vẻ hiu hắt của không gian, cái đơn lẻ đến nao lòng của cả thể xác, cảnh vật, tình đời, song trên hết cả là một lời thề, một lời nguyện ước: xin sống! Quả là thái độ sống dấn thân đến hết mình, một lời thề “chém đá chặt đanh!” Nguyễn Trãi chưa dừng lại ở đó mà qua hình ảnh thiên nhiên ông còn ao ước được sống an nhàn trong một thế giới vô kỷ, vô công, vô danh “tề thị phi”, “tề vạn vật” như trang tử:
Am trúc hiên mai ngày tháng qua
Thị thi nào đến cõi yên hà?
(Ngôn chí - Bài 3)
Không chỉ ao ước được sống trong một thế giới vô kỷ, vô công, vô danh mà Nguyễn Trãi còn ước muốn “an phận, an lòng” hưởng thân nhàn:
Thị thi nào đến cõi yên hà?
(Ngôn chí - Bài 3)
Không chỉ ao ước được sống trong một thế giới vô kỷ, vô công, vô danh mà Nguyễn Trãi còn ước muốn “an phận, an lòng” hưởng thân nhàn:
Tuyết đượm chè mai câu dễ động
Trì in bóng nguyệt hứng đêm dài
(Tự thán - Bài 14)
Ở đây, nhà thơ muốn nói lên rằng, hãy sống với cuộc sống thực tại những gì mình đang có, chớ nên kham khổ với bản thân mình. Cuộc sống được an phận, an lòng sẽ làm cho tâm trí được thoải mái, thấy yêu cuộc sống này hơn.
Nguyễn Trãi một anh hùng trong lịch sử, một người rất có tài. Và trong ông mâu thuẫn luôn thường trực đó là mâu thuẫn giữa xuất và xứ, lách trần hay nhập thể. Một mặt ông muốn “cởi tục, tim thanh”, nhưng mặt khác lại vẫn đeo đẳng: “Bui có một niềm trăng nỡ trễ. Đạo làm con với đạo làm tôi”. Đây là vấn đề đặt ra cho nhà nho xưa nay. Nhưng đối với Nguyễn Trãi thì vấn đề trở thành day dứt, đau đớn. Ông biết quá rõ: thế thái nhân tình ở đời rất hiểm độc nhưng ông vẫn muốn được “đại dụng”, được đem sức tàn giúp việc đời, vẫn không muốn nhàn, không thể nhàn.
Còn có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung.
(Thuật hứng - Bài 23)
Không chỉ ao ước một cuộc sống an phận và trước thời đại mà Nguyễn Trãi còn là một con người rất nhạy cảm với quy luật của tuổi tác và thời gian đang vùn vụt qua đi, đối sánh sự tàn lụi với vẻ đẹp hiện hữu giữa cõi đời:
Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm
Những lệ xuân qua tuổi tác thêm
(Thơ tiếc cảnh - Bài 7)
Trì in bóng nguyệt hứng đêm dài
(Tự thán - Bài 14)
Ở đây, nhà thơ muốn nói lên rằng, hãy sống với cuộc sống thực tại những gì mình đang có, chớ nên kham khổ với bản thân mình. Cuộc sống được an phận, an lòng sẽ làm cho tâm trí được thoải mái, thấy yêu cuộc sống này hơn.
Nguyễn Trãi một anh hùng trong lịch sử, một người rất có tài. Và trong ông mâu thuẫn luôn thường trực đó là mâu thuẫn giữa xuất và xứ, lách trần hay nhập thể. Một mặt ông muốn “cởi tục, tim thanh”, nhưng mặt khác lại vẫn đeo đẳng: “Bui có một niềm trăng nỡ trễ. Đạo làm con với đạo làm tôi”. Đây là vấn đề đặt ra cho nhà nho xưa nay. Nhưng đối với Nguyễn Trãi thì vấn đề trở thành day dứt, đau đớn. Ông biết quá rõ: thế thái nhân tình ở đời rất hiểm độc nhưng ông vẫn muốn được “đại dụng”, được đem sức tàn giúp việc đời, vẫn không muốn nhàn, không thể nhàn.
Còn có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung.
(Thuật hứng - Bài 23)
Không chỉ ao ước một cuộc sống an phận và trước thời đại mà Nguyễn Trãi còn là một con người rất nhạy cảm với quy luật của tuổi tác và thời gian đang vùn vụt qua đi, đối sánh sự tàn lụi với vẻ đẹp hiện hữu giữa cõi đời:
Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm
Những lệ xuân qua tuổi tác thêm
(Thơ tiếc cảnh - Bài 7)
Cũng nhờ nhạy cảm, ông bộc lộ được những xúc cảm riêng tư
không dĩ thành lời. Dường như ông chạnh lòng xót xa - một chút thương thân
trách phận, một chút “nói mát”, giận hờn.
Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
(Thơ tiếc cảnh - Bài 10)
Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
(Thơ tiếc cảnh - Bài 10)
Chung quy, con người cá nhân hiện diện trong thơ văn Nguyễn
Trãi thuộc một mẫu hình riêng. Thông qua sự tuần hoàn của bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông và các hình ảnh tượng trưng cho từng mùa đã vẽ lên một bức tranh “tứ
mùa” đầy sinh động, trong đó thể hiện một tâm sự cá nhân, và thời đại rất là
khéo léo, tinh tế.
Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có một bức tranh bốn mùa với đủ những gam màu, âm thanh khác nhau, đặc trưng cho từng mùa của thiên nhiên Việt Nam. Đó không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng được tái hiện trong thơ, thông qua hình ảnh bốn mùa. Dòng chảy thời gian trong bốn mùa ấy là dòng chảy của những tâm sự chất chứa trong lòng nhà thơ. Đó là âm hưởng chung của thời đại, khi hiểu rõ được bản chất của hiện thực xã hội thì thường tìm đến thiên nhiên là nơi trú ngụ của tâm hồn, vì chỉ có sự bao la rộng lớn của thiên nhiên mới chứa đựng hết cái vô cùng trong tâm hồn nhà thơ. Trong đó, vẻ đẹp của hình ảnh bốn mùa chính là nguồn cảm hứng làm rung động trái tim người thi sĩ.
Những thi phẩm đặc sắc về hình ảnh bốn mùa là những đóng góp quý giá cho kho tàng văn học dân tộc, nó không chỉ có giá trị tư tưởng sâu sắc mà qua đó còn khẳng định tài năng nghệ thuật uyên bác, tài hoa của các thi nhân xưa.
Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có một bức tranh bốn mùa với đủ những gam màu, âm thanh khác nhau, đặc trưng cho từng mùa của thiên nhiên Việt Nam. Đó không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng được tái hiện trong thơ, thông qua hình ảnh bốn mùa. Dòng chảy thời gian trong bốn mùa ấy là dòng chảy của những tâm sự chất chứa trong lòng nhà thơ. Đó là âm hưởng chung của thời đại, khi hiểu rõ được bản chất của hiện thực xã hội thì thường tìm đến thiên nhiên là nơi trú ngụ của tâm hồn, vì chỉ có sự bao la rộng lớn của thiên nhiên mới chứa đựng hết cái vô cùng trong tâm hồn nhà thơ. Trong đó, vẻ đẹp của hình ảnh bốn mùa chính là nguồn cảm hứng làm rung động trái tim người thi sĩ.
Những thi phẩm đặc sắc về hình ảnh bốn mùa là những đóng góp quý giá cho kho tàng văn học dân tộc, nó không chỉ có giá trị tư tưởng sâu sắc mà qua đó còn khẳng định tài năng nghệ thuật uyên bác, tài hoa của các thi nhân xưa.
MỘT VÀI PHƢƠNG DIỆN TRONG HÌNH THỨC BIỂU ĐẠT
Quốc âm thi tập được đánh giá là đã tạo nên sự bức phá của dòng thơ Nôm Việt Nam: “đến Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là một sự bứt lên thành một tiếng Việt văn chương với chiều sáng tạo: Vừa sử dụng, nâng cao tiếng nói của nhân dân thường ngày vừa sử dụng trực tiếp chữ Hán, hoặc dịch ra tiếng Việt một cách mạnh dạn, đồng thời cũng tiếp nối hoặc sáng tạo cho một âm điệu mới cho thể thơ, 8 câu 7 chữ là âm điệu câu thơ 6 chữ xen vào từng lúc”.[3, tr.19]. Như vậy, khác với tập thơ chữ Hán, Ức Trai thi tập thì tập thơ Nôm Quốc âm thi tập đại thành này nhờ sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Nguyễn Trãi có thể vẽ lên được bức tranh thiên nhiên bốn mùa đầy sức sống, bên cạnh đó Nguyễn Trãi có thể bộc lộ được tâm tư, tình cảm, các sắc thái trữ tình một cách sâu sắc hơn, linh động, uyển chuyển hơn. Vì lẽ đó mà lời thơ dung dị, gần gũi, với nếp nghĩ, với lời ăn tiếng nói hàng ngày của mỗi người dân Việt. Song không dừng lại ở việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, Nguyễn Trãi còn có sự trau chuốt, gọt giũa, cách tân theo những hướng tiến bộ cả mặt ngôn ngữ lẫn thể thơ. Nguyễn Trãi đồng thời cũng hạn chế đến mức tối đa việc vận dụng chữ Hán, thay vào đó là ông dịch ra tiếng Việt một cách dễ nhớ dễ thuộc.
Nguyễn Trãi là người có ý thức dân tộc sâu sắc, có tinh thần yêu nước nồng nàn. Ta thấy trong Quốc âm thi tập, tác giả đã sử dụng một nguồn thi liệu dân tộc phong phú, từ hệ thống đề tài đến thể thơ hình ảnh thơ và hệ thống vần thơ, nhịp thơ. Đặc biệt biết đem đến thành công cho tập thơ là tuy sử dụng chất liệu dân gian nhưng không thụ động, Nguyễn Trãi đã vận dụng một cách sáng tạo. Chính vì vậy, Quốc âm thi tập là nhịp cầu, làm cho thơ ca dân gian và thơ ca bác học xích lại gần nhau, giúp thơ ca tiếng Việt khắc phục được khuynh hướng ngoại lai, phát triển mạnh mẽ và gần gũi với con người.
Với tình yêu thiên nhiên và cách cảm nhận thiên nhiên ở nhiều góc độ đã giúp ông vẽ lên bức tranh “tứ mùa” hết sức lung linh. Và thời gian trôi đi không bao giờ trở lại, còn bốn mùa vẫn luôn tuần hoàn cùng với thời gian, cái đặc biệt ở đây là Nguyễn Trãi đã nắm bắt được cái mới mẻ, cái hồn riêng của từng mùa ở 38 những thời điểm khác nhau, điều này càng làm cho bức tranh bốn mùa thêm sinh động và phong phú. Để làm nên được thành công đó là nhờ sự sử dụng nhuần nhuyễn và khéo léo các giá trị nghệ thuật trong thơ. Các giá trị nghệ thuật đó là: ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị; hình ảnh thơ mang hơi thở của cuộc sống đời thường; sự cách tân trong thể thơ, vần thơ và nhịp điệu thơ.
Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị
Văn học là những tác phẩm nghệ thuật được xây dựng dựa trên chất liệu ngôn từ trong đó thơ ca chính là những công trình nghệ thuật được tạo nên nhờ sáng tạo ngôn từ một cách xuất sắc nhất. Đặc trưng của thơ đòi hỏi sự sáng tạo này phải đạt đến trình độ điêu luyện có như vậy người nghệ sĩ mới có thể truyền tải được một nội dung lớn, đằng sau những câu thơ ngắn gọn, súc tích đặc biệt trong thơ trung đại chủ yếu là ý tại ngôn ngoại thì việc lựa chọn và sử dụng ngôn từ là hết sức quan trọng, do đó để nắm được một cách sâu sắc những thi phẩm viết về thiên nhiên bốn mùa của các thi nhân xưa, việc tìm hiểu về nghệ thuật ngôn ngữ trong tác phẩm là hết sức cần thiết. Nếu nhà điêu khắc tư duy bằng khối lượng, mảng, đường nét; nhạc sĩ tư duy bằng giai điệu, âm nhạc của các nhạc cụ; tư duy của nhà viết kịch không thể thoát ly không gian (giới hạn của sân khấu) và thời gian diễn xuất thì nhà văn không thể tư duy nghệ thuật bên ngoài các khả năng nghệ thuật của ngôn từ. Với một tác phẩm đồ sộ như Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã ghi dấu ấn trong văn học Việt Nam bởi một nghệ thuật ngôn từ trong sáng, giản dị.
Thực tế khảo sát cho thấy, ở Quốc âm thi tập chứa đựng một số lượng từ vựng rất phong phú và đa dạng. Bao gồm một vạn, một ngàn lượt từ (11.067) với 2235 từ khác nhau. Trong đó hệ thống từ thuần Việt chiếm ưu thế hơn so với từ hán Việt, từ đơn âm và hư từ cũng được sử dụng rộng rãi. Với số lượng từ phong phú, có giá trị nghệ thuật, tác giả Quốc âm thi tập không chỉ thành công trong việc diễn tả những trạng huống tình cảm của bản thân mà còn góp phần thúc đẩy ngôn ngữ văn học phát triển.
Trong Quốc âm thi tập ngôn ngữ được lựa chọn một cách rất chính xác và cầu kì tạo nên những câu thơ có niêm luật rất chính, từng chữ đối nhau cũng rất 39 cân xứng. Vì vậy, mà hình ảnh trong thơ trở nên trong sáng, bóng bẩy, nàng thu trở nên bí ẩn, sâu sắc hơn.
Nếu Ức Trai thi tập Nguyễn Trãi sáng tác chủ yếu bằng chữ Hán thì đến tập thơ Quốc âm thi tập ông khẳng định ý thức dân tộc sâu sắc bằng cách sử dụng chữ Nôm để làm chất liệu sáng tác, chủ yếu tạo nên nhưng vần thơ gần gũi với hiện thực đất nước và con người Việt Nam, đồng thời mở đường cho sự phát triển của thơ Nôm Đường luật. Ngôn ngữ trong thơ đã rũ bỏ được sự gò bó, công thức để tìm đường đến với hiện thực vốn rất bình dị, quen thuộc với cuộc sống của con người.
Với ý thức dân tộc sâu sắc: người nước ta không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Xiêm. Nguyễn Trãi đã vận dụng một lời ăn, tiếng nói hằng ngày của nhân dân, tạo nên bức tranh ngôn ngữ đậm đà tính dân tộc. Cụ thể là lớp từ vựng khẩu ngữ. Mặc dù sử dụng khẩu ngữ thế nhưng đọc Quốc âm thi tập ta không hề thấy khô khan. Mặc dù sử dụng khẩu ngữ trong Quốc âm thi tập chủ yếu là những từ để hỏi:
Được thua phú quý dầu thiên mệnh
Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn.
(Mạn thuật - Bài 5)
Bên cạnh việc sử dụng các khẩu ngữ trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi còn sử dụng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào trong thơ và đặc biệt trong miêu tả thiên nhiên bốn mùa, không chỉ vẽ lên bức tranh sinh động mà còn vẽ lên được bức tranh tâm trạng. Trong tổng số 1908 câu thơ của Quốc âm thi tập có 37 câu thơ được sử dụng dưới hình thức lấy ý từ kho tàng vô giá đó. Các yếu tố thành ngữ, tục ngữ và ca dao ấy thể hiện nguyên dạng khi ông cải biến và sử dụng một cách biến hoá dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy, khả năng biểu hiện của thành ngữ và tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập dường như vốn phong phú lại càng trở nên giàu có hơn, đa dạng hơn, góp phần bộc lộ tâm trạng của chủ thể trữ tình.
Trước hết, chúng ta bàn về việc sử dụng nguyên vẹn cả từ lẫn ý, so với tục ngữ và ca dao thì thành ngữ được sử dụng nguyên vẹn nhiều hơn cả. Trong bài Mạn thuật, số 7 ông viết:
Chim kêu cá lội yên đòi phận
Câu quạnh cây nhà dưỡng mộ thân.
Trong câu thành ngữ “chim kêu cá lội” nói về hiện tượng tự nhiên. Nguyễn Trãi đã trích nguyên vẹn để đưa vào nửa vế câu đầu trong phần thực. Qua đó, ông muốn gửi gắm những suy nghĩ, mong muốn thoát khỏi áng phong trần của cuộc đời bình dị như quy luật của tạo hoá: con cá thì lội, con chim thì kêu.
Quốc âm thi tập được đánh giá là đã tạo nên sự bức phá của dòng thơ Nôm Việt Nam: “đến Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là một sự bứt lên thành một tiếng Việt văn chương với chiều sáng tạo: Vừa sử dụng, nâng cao tiếng nói của nhân dân thường ngày vừa sử dụng trực tiếp chữ Hán, hoặc dịch ra tiếng Việt một cách mạnh dạn, đồng thời cũng tiếp nối hoặc sáng tạo cho một âm điệu mới cho thể thơ, 8 câu 7 chữ là âm điệu câu thơ 6 chữ xen vào từng lúc”.[3, tr.19]. Như vậy, khác với tập thơ chữ Hán, Ức Trai thi tập thì tập thơ Nôm Quốc âm thi tập đại thành này nhờ sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Nguyễn Trãi có thể vẽ lên được bức tranh thiên nhiên bốn mùa đầy sức sống, bên cạnh đó Nguyễn Trãi có thể bộc lộ được tâm tư, tình cảm, các sắc thái trữ tình một cách sâu sắc hơn, linh động, uyển chuyển hơn. Vì lẽ đó mà lời thơ dung dị, gần gũi, với nếp nghĩ, với lời ăn tiếng nói hàng ngày của mỗi người dân Việt. Song không dừng lại ở việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, Nguyễn Trãi còn có sự trau chuốt, gọt giũa, cách tân theo những hướng tiến bộ cả mặt ngôn ngữ lẫn thể thơ. Nguyễn Trãi đồng thời cũng hạn chế đến mức tối đa việc vận dụng chữ Hán, thay vào đó là ông dịch ra tiếng Việt một cách dễ nhớ dễ thuộc.
Nguyễn Trãi là người có ý thức dân tộc sâu sắc, có tinh thần yêu nước nồng nàn. Ta thấy trong Quốc âm thi tập, tác giả đã sử dụng một nguồn thi liệu dân tộc phong phú, từ hệ thống đề tài đến thể thơ hình ảnh thơ và hệ thống vần thơ, nhịp thơ. Đặc biệt biết đem đến thành công cho tập thơ là tuy sử dụng chất liệu dân gian nhưng không thụ động, Nguyễn Trãi đã vận dụng một cách sáng tạo. Chính vì vậy, Quốc âm thi tập là nhịp cầu, làm cho thơ ca dân gian và thơ ca bác học xích lại gần nhau, giúp thơ ca tiếng Việt khắc phục được khuynh hướng ngoại lai, phát triển mạnh mẽ và gần gũi với con người.
Với tình yêu thiên nhiên và cách cảm nhận thiên nhiên ở nhiều góc độ đã giúp ông vẽ lên bức tranh “tứ mùa” hết sức lung linh. Và thời gian trôi đi không bao giờ trở lại, còn bốn mùa vẫn luôn tuần hoàn cùng với thời gian, cái đặc biệt ở đây là Nguyễn Trãi đã nắm bắt được cái mới mẻ, cái hồn riêng của từng mùa ở 38 những thời điểm khác nhau, điều này càng làm cho bức tranh bốn mùa thêm sinh động và phong phú. Để làm nên được thành công đó là nhờ sự sử dụng nhuần nhuyễn và khéo léo các giá trị nghệ thuật trong thơ. Các giá trị nghệ thuật đó là: ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị; hình ảnh thơ mang hơi thở của cuộc sống đời thường; sự cách tân trong thể thơ, vần thơ và nhịp điệu thơ.
Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị
Văn học là những tác phẩm nghệ thuật được xây dựng dựa trên chất liệu ngôn từ trong đó thơ ca chính là những công trình nghệ thuật được tạo nên nhờ sáng tạo ngôn từ một cách xuất sắc nhất. Đặc trưng của thơ đòi hỏi sự sáng tạo này phải đạt đến trình độ điêu luyện có như vậy người nghệ sĩ mới có thể truyền tải được một nội dung lớn, đằng sau những câu thơ ngắn gọn, súc tích đặc biệt trong thơ trung đại chủ yếu là ý tại ngôn ngoại thì việc lựa chọn và sử dụng ngôn từ là hết sức quan trọng, do đó để nắm được một cách sâu sắc những thi phẩm viết về thiên nhiên bốn mùa của các thi nhân xưa, việc tìm hiểu về nghệ thuật ngôn ngữ trong tác phẩm là hết sức cần thiết. Nếu nhà điêu khắc tư duy bằng khối lượng, mảng, đường nét; nhạc sĩ tư duy bằng giai điệu, âm nhạc của các nhạc cụ; tư duy của nhà viết kịch không thể thoát ly không gian (giới hạn của sân khấu) và thời gian diễn xuất thì nhà văn không thể tư duy nghệ thuật bên ngoài các khả năng nghệ thuật của ngôn từ. Với một tác phẩm đồ sộ như Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã ghi dấu ấn trong văn học Việt Nam bởi một nghệ thuật ngôn từ trong sáng, giản dị.
Thực tế khảo sát cho thấy, ở Quốc âm thi tập chứa đựng một số lượng từ vựng rất phong phú và đa dạng. Bao gồm một vạn, một ngàn lượt từ (11.067) với 2235 từ khác nhau. Trong đó hệ thống từ thuần Việt chiếm ưu thế hơn so với từ hán Việt, từ đơn âm và hư từ cũng được sử dụng rộng rãi. Với số lượng từ phong phú, có giá trị nghệ thuật, tác giả Quốc âm thi tập không chỉ thành công trong việc diễn tả những trạng huống tình cảm của bản thân mà còn góp phần thúc đẩy ngôn ngữ văn học phát triển.
Trong Quốc âm thi tập ngôn ngữ được lựa chọn một cách rất chính xác và cầu kì tạo nên những câu thơ có niêm luật rất chính, từng chữ đối nhau cũng rất 39 cân xứng. Vì vậy, mà hình ảnh trong thơ trở nên trong sáng, bóng bẩy, nàng thu trở nên bí ẩn, sâu sắc hơn.
Nếu Ức Trai thi tập Nguyễn Trãi sáng tác chủ yếu bằng chữ Hán thì đến tập thơ Quốc âm thi tập ông khẳng định ý thức dân tộc sâu sắc bằng cách sử dụng chữ Nôm để làm chất liệu sáng tác, chủ yếu tạo nên nhưng vần thơ gần gũi với hiện thực đất nước và con người Việt Nam, đồng thời mở đường cho sự phát triển của thơ Nôm Đường luật. Ngôn ngữ trong thơ đã rũ bỏ được sự gò bó, công thức để tìm đường đến với hiện thực vốn rất bình dị, quen thuộc với cuộc sống của con người.
Với ý thức dân tộc sâu sắc: người nước ta không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Xiêm. Nguyễn Trãi đã vận dụng một lời ăn, tiếng nói hằng ngày của nhân dân, tạo nên bức tranh ngôn ngữ đậm đà tính dân tộc. Cụ thể là lớp từ vựng khẩu ngữ. Mặc dù sử dụng khẩu ngữ thế nhưng đọc Quốc âm thi tập ta không hề thấy khô khan. Mặc dù sử dụng khẩu ngữ trong Quốc âm thi tập chủ yếu là những từ để hỏi:
Được thua phú quý dầu thiên mệnh
Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn.
(Mạn thuật - Bài 5)
Bên cạnh việc sử dụng các khẩu ngữ trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi còn sử dụng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào trong thơ và đặc biệt trong miêu tả thiên nhiên bốn mùa, không chỉ vẽ lên bức tranh sinh động mà còn vẽ lên được bức tranh tâm trạng. Trong tổng số 1908 câu thơ của Quốc âm thi tập có 37 câu thơ được sử dụng dưới hình thức lấy ý từ kho tàng vô giá đó. Các yếu tố thành ngữ, tục ngữ và ca dao ấy thể hiện nguyên dạng khi ông cải biến và sử dụng một cách biến hoá dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy, khả năng biểu hiện của thành ngữ và tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập dường như vốn phong phú lại càng trở nên giàu có hơn, đa dạng hơn, góp phần bộc lộ tâm trạng của chủ thể trữ tình.
Trước hết, chúng ta bàn về việc sử dụng nguyên vẹn cả từ lẫn ý, so với tục ngữ và ca dao thì thành ngữ được sử dụng nguyên vẹn nhiều hơn cả. Trong bài Mạn thuật, số 7 ông viết:
Chim kêu cá lội yên đòi phận
Câu quạnh cây nhà dưỡng mộ thân.
Trong câu thành ngữ “chim kêu cá lội” nói về hiện tượng tự nhiên. Nguyễn Trãi đã trích nguyên vẹn để đưa vào nửa vế câu đầu trong phần thực. Qua đó, ông muốn gửi gắm những suy nghĩ, mong muốn thoát khỏi áng phong trần của cuộc đời bình dị như quy luật của tạo hoá: con cá thì lội, con chim thì kêu.
Thiên nhiên trong thơ ông rất thi vị và trữ tình đặc biệt
trong hình ảnh bốn mùa. Câu thơ phảng phất hương vị Đường thi. Non nước Việt
Nam thơ mộng là thế, dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi càng thơ mộng và đẹp đẽ hơn.
Và dù phảng phất phong vị Đường thi nhưng nó không lấn át đi bản sắc dân tộc đậm
đà. Làm nên được sự kì diệu ấy, chính là nhờ vào việc sử dụng thành ngữ tài
tình, đúng lúc, đúng chỗ của Nguyễn Trãi.
Trong thời đại ông sống lúc bấy giờ, cuộc sống của những người dân vô cùng cực khổ, ông cảm thấy đau đớn nhận ra bản chất của con người, giữa giàu và nghèo, giữa người dân và quan lại triều đình. Ngôn ngữ của ông không chỉ vẽ lên bức tranh thiên nhiên bốn mùa tuyệt mĩ mà ông còn sử dụng những hình ảnh đặc trưng của từng mùa để nói lên thái độ của mình. Như ông nói người đời lắm kẻ ưa công danh, phú quý, ưa nịnh nọt, mong có địa vị cao trong xã hội nhưng Nguyễn Trãi lại khác muốn có cuộc sống đời thường và bình dị. Lấy từ những câu thành ngữ “công danh phú quý”, Nguyễn Trãi đã tách ra làm hai vế câu thơ thất ngôn:
Phú quý treo sương ngọn cỏ
Công danh gửi kiến cành hoè.
(Tự thán - Bài 3)
“Phú quý” là để chỉ cảnh giàu sang của một con người, còn công danh nói tới danh tước, chức vụ của một con người. Đây là điều có thể nói trong cuộc sống ai cũng muốn. Nhưng để có công danh, phú quý một cách chân chính không phải là dễ. Theo Nguyễn Trãi, cảnh giàu sang như giọt sương treo trên ngọn cỏ, phút chốc là tan biến. Còn công danh nó giống như một giấc mộng mà trong giấc mộng ấy, Nguyễn Trãi xuất hiện là một vị quan tài ba nhưng lại bị nghĩ là gian thần. Hai từ “công danh” và “phú quý” đi kèm với hai động từ “treo”, “gửi” lại đặt bên cạnh “ngọn cỏ”, “cành hoè” đã bộc lộ thái độ rõ ràng, dứt khoát và quan niệm của Nguyễn Trãi đối với “danh” và “của” trong cuộc đời - thái độ coi khinh không bén mảng tới tâm hồn thanh hùm Nguyễn Trãi.
Bên cạnh việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập mượn hình ảnh thiên nhiên để nói về thời cuộc. Nguyễn Trãi còn cho ta thấy được việc lựa chọn từ ngữ đó còn có khả năng tạo hình, tạo nhạc làm cho câu thơ trở nên sinh động:
Chim kêu hoa nở ngày xuân tĩnh
Hương lụi cờ tàn tiệc khách thôi.
(Ngôn chí - Bài 1)
Trong thời đại ông sống lúc bấy giờ, cuộc sống của những người dân vô cùng cực khổ, ông cảm thấy đau đớn nhận ra bản chất của con người, giữa giàu và nghèo, giữa người dân và quan lại triều đình. Ngôn ngữ của ông không chỉ vẽ lên bức tranh thiên nhiên bốn mùa tuyệt mĩ mà ông còn sử dụng những hình ảnh đặc trưng của từng mùa để nói lên thái độ của mình. Như ông nói người đời lắm kẻ ưa công danh, phú quý, ưa nịnh nọt, mong có địa vị cao trong xã hội nhưng Nguyễn Trãi lại khác muốn có cuộc sống đời thường và bình dị. Lấy từ những câu thành ngữ “công danh phú quý”, Nguyễn Trãi đã tách ra làm hai vế câu thơ thất ngôn:
Phú quý treo sương ngọn cỏ
Công danh gửi kiến cành hoè.
(Tự thán - Bài 3)
“Phú quý” là để chỉ cảnh giàu sang của một con người, còn công danh nói tới danh tước, chức vụ của một con người. Đây là điều có thể nói trong cuộc sống ai cũng muốn. Nhưng để có công danh, phú quý một cách chân chính không phải là dễ. Theo Nguyễn Trãi, cảnh giàu sang như giọt sương treo trên ngọn cỏ, phút chốc là tan biến. Còn công danh nó giống như một giấc mộng mà trong giấc mộng ấy, Nguyễn Trãi xuất hiện là một vị quan tài ba nhưng lại bị nghĩ là gian thần. Hai từ “công danh” và “phú quý” đi kèm với hai động từ “treo”, “gửi” lại đặt bên cạnh “ngọn cỏ”, “cành hoè” đã bộc lộ thái độ rõ ràng, dứt khoát và quan niệm của Nguyễn Trãi đối với “danh” và “của” trong cuộc đời - thái độ coi khinh không bén mảng tới tâm hồn thanh hùm Nguyễn Trãi.
Bên cạnh việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập mượn hình ảnh thiên nhiên để nói về thời cuộc. Nguyễn Trãi còn cho ta thấy được việc lựa chọn từ ngữ đó còn có khả năng tạo hình, tạo nhạc làm cho câu thơ trở nên sinh động:
Chim kêu hoa nở ngày xuân tĩnh
Hương lụi cờ tàn tiệc khách thôi.
(Ngôn chí - Bài 1)
Nguyễn Trãi - một cây bút tài ba, cùng với sự sáng tạo, nhạy
cảm với những cảnh vật xung quanh cùng với cách sử dụng ngôn ngữ giản di, phong
phú đã đưa ông đến thành công của nghệ thuật. Ngôn ngữ ngày thường được sử dụng
rất nhiều trong thơ ông:
Rỗi, hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn tán rợp giương.
(Bảo kính cảnh giới - Bài 43)
Với các hình ảnh quen thuộc của cuộc sống đời thường của con người như: “hoè lục”, “thạch lựu” đã vẽ lên một bức tranh cảnh ngày hè sinh động, có hình ảnh lẫn mùi hương. Điều đó càng thể hiện rõ trong việc sự thành công trong việc sử dụng ngôn từ vốn có của mình và cách dùng từ như vậy đã tạo nên một nhịp thơ mạnh mẽ, tạo nên thế giới của sự sống
Rỗi, hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn tán rợp giương.
(Bảo kính cảnh giới - Bài 43)
Với các hình ảnh quen thuộc của cuộc sống đời thường của con người như: “hoè lục”, “thạch lựu” đã vẽ lên một bức tranh cảnh ngày hè sinh động, có hình ảnh lẫn mùi hương. Điều đó càng thể hiện rõ trong việc sự thành công trong việc sử dụng ngôn từ vốn có của mình và cách dùng từ như vậy đã tạo nên một nhịp thơ mạnh mẽ, tạo nên thế giới của sự sống
Bốn mùa đầy hấp dẫn, các nhà thơ trung đại đã sáng tạo nên
nhiều bức tranh thiên nhiên sinh động, trong đó nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng có
cách sử dụng từ ngữ trong thơ hết sức độc đáo:
Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cánh
Xanh xanh như sắp thập thò ra.
(Nguyên đán ngẫu vịnh - Nguyễn Khuyến)
Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cánh
Xanh xanh như sắp thập thò ra.
(Nguyên đán ngẫu vịnh - Nguyễn Khuyến)
Ở đây, nhà thơ không sử dụng cụm từ “sắp nở ra”, hay “đang hé
nở” mà lại một động từ “sắp thập thò ra”. Nhà thơ cũng rất tinh tế, theo dõi,
quan sát rất tỉ mỉ sự chuyển động của thời gian mới phát hiện được sự cựa quậy,
trỗi dậy của bông hoa đang tách mình ra khỏi vỏ bọc của nụ. Điều này khẳng định
tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ trước thiên nhiên, cuộc sống. Nguyễn Khuyến đã kết
hợp hài hoà khả năng quan sát hiện thực với biện pháp miêu tả trực tiếp cụ thể
mang đến cho thơ giá trị đích thực của cuộc sống.
Như vậy, có thể thấy việc sử dụng ngôn ngữ trong thơ là rất điển hình, ngôn ngữ giản dị, đời thường phù hợp với người dân Việt Nam lúc bấy giờ và cho tới ngày nay cách sử dụng theo lối ngôn ngữ đó được các nhà thơ hiện đại rất ưa chuộng. Tuy nhiên ở mỗi tác giả, mỗi thời kì văn học khác nhau, sắc thái biểu hiện và cách sử dụng ngôn ngữ cũng có phần thay đổi cách tân đi để phù hợp với thời đại.
Như vậy, có thể thấy việc sử dụng ngôn ngữ trong thơ là rất điển hình, ngôn ngữ giản dị, đời thường phù hợp với người dân Việt Nam lúc bấy giờ và cho tới ngày nay cách sử dụng theo lối ngôn ngữ đó được các nhà thơ hiện đại rất ưa chuộng. Tuy nhiên ở mỗi tác giả, mỗi thời kì văn học khác nhau, sắc thái biểu hiện và cách sử dụng ngôn ngữ cũng có phần thay đổi cách tân đi để phù hợp với thời đại.
Đúng như M. Gorki nói: “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”,
ngôn ngữ là chất liệu làm lên thơ ca. Một tác phẩm thành công trước hết cần đến
sự thành công về mặt ngôn ngữ, điều này đòi hỏi sự sáng tạo rất lớn của các thi
nhân trong quá trình sáng tác, không nhất thiết phải tuân theo một nguyên tắc
có sẵn nào, không cần phải đánh bóng, mà thơ ca đòi hỏi ngôn ngữ phải có sự
sáng tạo độc đáo, biết lấy những vật liệu thông thường nhưng đặt đúng chỗ, thơ
là cảm xúc nên cái làm nên sức sống của thơ phải xuất phát từ cảm xúc chứ không
phải là kĩ thuật. Nhà thơ là người dùng tâm hồn để truyền sức sống cho ngôn ngữ.
Như vậy, thông qua nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn Trãi đã góp vào kho tàng văn học dân tộc bức tranh tứ thời đầy màu sắc mới lạ và hấp dẫn. Chiêm ngưỡng những bức tranh này ta sẽ thấy sự điêu luyện nghệ sỹ Nguyễn Trãi trong việc dùng từ.
Như vậy, thông qua nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn Trãi đã góp vào kho tàng văn học dân tộc bức tranh tứ thời đầy màu sắc mới lạ và hấp dẫn. Chiêm ngưỡng những bức tranh này ta sẽ thấy sự điêu luyện nghệ sỹ Nguyễn Trãi trong việc dùng từ.
Hình ảnh thơ mang hơi thở của cuộc sống đời thường
Trong thơ ca, ngoài cái đẹp của tự thân đề tài, ngôn ngữ còn có cái đẹp của những hình ảnh mà tác giả tạo nên trong trí tưởng tượng của người đọc. Thông qua ngôn ngữ, những hình ảnh tưởng tượng được xác nhận rất hiện thực, rất cụ thể vào trong thơ. Tất nhiên không thể thiếu hình ảnh của phong, hoa, tuyết, nguyệt; của tùng, trúc, cúc, mai là những biểu tượng muôn đời của thơ ca cổ điển. Nhưng đến với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi thì không chỉ có thế. Hình ảnh thiên nhiên đất nước con người hiện lên trong những bài thơ được miêu tả với cái nhìn thực hơn, đời hơn.
Với niềm tự hào “Quê cũ nhà ta thiếu của nào” (Mạn thuật - Bài 13), Nguyễn Trãi đã miêu tả phong vị quê hương bằng những hình ảnh đậm đà tính dân tộc. Đó là hình ảnh rau muống, dọc mùng:
Ao quan thả gửi hai bè muống,
Đất bụt ương nhờ một luống mùng.
(Thuật hứng - Bài 23)
Hình ảnh rau muống trong hai câu thơ trên của Nguyễn Trãi gợi nhắc tới hai câu ca dao quen thuộc:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Trong thơ ca, ngoài cái đẹp của tự thân đề tài, ngôn ngữ còn có cái đẹp của những hình ảnh mà tác giả tạo nên trong trí tưởng tượng của người đọc. Thông qua ngôn ngữ, những hình ảnh tưởng tượng được xác nhận rất hiện thực, rất cụ thể vào trong thơ. Tất nhiên không thể thiếu hình ảnh của phong, hoa, tuyết, nguyệt; của tùng, trúc, cúc, mai là những biểu tượng muôn đời của thơ ca cổ điển. Nhưng đến với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi thì không chỉ có thế. Hình ảnh thiên nhiên đất nước con người hiện lên trong những bài thơ được miêu tả với cái nhìn thực hơn, đời hơn.
Với niềm tự hào “Quê cũ nhà ta thiếu của nào” (Mạn thuật - Bài 13), Nguyễn Trãi đã miêu tả phong vị quê hương bằng những hình ảnh đậm đà tính dân tộc. Đó là hình ảnh rau muống, dọc mùng:
Ao quan thả gửi hai bè muống,
Đất bụt ương nhờ một luống mùng.
(Thuật hứng - Bài 23)
Hình ảnh rau muống trong hai câu thơ trên của Nguyễn Trãi gợi nhắc tới hai câu ca dao quen thuộc:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Chỉ là những thứ rau cỏ hằng ngày thôi, ấy vậy mà bước vào thơ ca, nó trở nên thi vị, ý nghĩa biết nhường nào. Phải là một con người thực sự yêu cuộc sống, gắn bó với cuộc sống, với những người lao động cần lao, Nguyễn Trãi mới nhận ra giá trị của vật nhỏ bé, bình dị đến như vậy.
Tiếp thu hệ thống hình ảnh ca dao, đồng thời trên cơ sở của ý thức trân trọng, nâng niu thành quả lao động của bản thân và của mọi người, nhằm tôn vinh những sản vật hàng ngày đó, Nguyễn Trãi cũng đã hơn một lần nhắc tới từ “rau”: “Rau trong nội, cá trong ao”. Chúng ta thấy xuất hiện trong Quốc âm thi tập, bên cạnh rau muống, dọc mùng, còn có mồng tơi, kê khoai, núc nác… là những sản vật dân dã hằng ngày, gần gũi với đời sống của người dân Việt, đặc biệt là ở vùng nông thôn Việt Nam.
Ngày tháng kê, khoai những sản hằng
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng
Chỉ là những thứ rau cỏ hằng ngày thôi, ấy vậy mà bước vào thơ ca, nó trở nên thi vị, ý nghĩa biết nhường nào. Phải là một con người thực sự yêu cuộc sống, gắn bó với cuộc sống, với những người lao động cần lao, Nguyễn Trãi mới nhận ra giá trị của vật nhỏ bé, bình dị đến như vậy.
Tiếp thu hệ thống hình ảnh ca dao, đồng thời trên cơ sở của ý thức trân trọng, nâng niu thành quả lao động của bản thân và của mọi người, nhằm tôn vinh những sản vật hàng ngày đó, Nguyễn Trãi cũng đã hơn một lần nhắc tới từ “rau”: “Rau trong nội, cá trong ao”. Chúng ta thấy xuất hiện trong Quốc âm thi tập, bên cạnh rau muống, dọc mùng, còn có mồng tơi, kê khoai, núc nác… là những sản vật dân dã hằng ngày, gần gũi với đời sống của người dân Việt, đặc biệt là ở vùng nông thôn Việt Nam.
Ngày tháng kê, khoai những sản hằng
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng
(Mạn thuật - Bài 1)
Cây rậm chồi cành chim kết tổ
Ao quang mấu ấu cá nên bầy.
(Ngôn chí - Bài 10)
Cây rậm chồi cành chim kết tổ
Ao quang mấu ấu cá nên bầy.
(Ngôn chí - Bài 10)
Và với mỗi mùa, Nguyễn Trãi lại đưa vào bức tranh thiên nhiên
của mình một hình ảnh riêng tượng trưng cho mùa đó.
- Mùa hè đó là:
Rỗi, hóng mát thuở ngày thường …
Hồng liên, trì đã tịn mùi hương.
(Bảo kính cảnh giới - Bài 43)
- Mùa thu:
Nào hoa chẳng bén, khí đầm hâm ...
Cho hay thu muộn tiết càng thơm.
(Cúc)
- Mùa hè đó là:
Rỗi, hóng mát thuở ngày thường …
Hồng liên, trì đã tịn mùi hương.
(Bảo kính cảnh giới - Bài 43)
- Mùa thu:
Nào hoa chẳng bén, khí đầm hâm ...
Cho hay thu muộn tiết càng thơm.
(Cúc)
Mùa xuân:
Một đoá đào hoa khéo tốt tươi
Cành xuân mơn mởn thấy xuân cười.
(Đào hoa - Bài 1)
- Mùa đông:
Tà dương bóng ngả áp giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu.
(Ngôn chí - Bài 13)
Khắc hoạ cuộc sống đạm bạc, bình dị, cực khổ của mình, Nguyễn Trãi đã sử dụng rất nhiều hình ảnh “bát dưa muối”, “bát cơm xá”.
Cơm ăn chẳng quản dưa muối
Áo mặc nài chi gầm thêu
Một đoá đào hoa khéo tốt tươi
Cành xuân mơn mởn thấy xuân cười.
(Đào hoa - Bài 1)
- Mùa đông:
Tà dương bóng ngả áp giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu.
(Ngôn chí - Bài 13)
Khắc hoạ cuộc sống đạm bạc, bình dị, cực khổ của mình, Nguyễn Trãi đã sử dụng rất nhiều hình ảnh “bát dưa muối”, “bát cơm xá”.
Cơm ăn chẳng quản dưa muối
Áo mặc nài chi gầm thêu
(Thuật hứng - Bài 22)
Cơm ăn miễn có dầu xoa bạc Áo mặc âu chi quản cũ đen. (Bảo kính cảnh giới - Bài 13) Nhắc đến cuộc sống thiếu thốn của mình, không phải là nhằm than vãn, Nguyễn Trãi muốn nói lên dù gian khổ khó khăn mấycũng phải giữu được đạo làm người. Và dù như thế nào nữa, cơm canh có không ngon, cũng phải nhớ đến công ơn những người làm ra nó.
Bát cơm xoa nhờ ơn xã tắc
Gian lều cỏ, đội đức Đường, Ngu.
(Ngôn chí - Bài 14)
Với Nguyễn Trãi, công việc cày cấy cũng được nhắc vào thơ với một niềm hăng say lao động. Gần gũi với nhân dân, hiểu được giá trị đích thực của những sản vật trên, Nguyễn Trãi nhắc tới:
Nước dưỡng cho thanh đìa thưởng nguyệt,
Đất cày ngỏ ải, lảnh ương hoa
(Ngôn chí - Bài 3)
Cơm ăn miễn có dầu xoa bạc Áo mặc âu chi quản cũ đen. (Bảo kính cảnh giới - Bài 13) Nhắc đến cuộc sống thiếu thốn của mình, không phải là nhằm than vãn, Nguyễn Trãi muốn nói lên dù gian khổ khó khăn mấycũng phải giữu được đạo làm người. Và dù như thế nào nữa, cơm canh có không ngon, cũng phải nhớ đến công ơn những người làm ra nó.
Bát cơm xoa nhờ ơn xã tắc
Gian lều cỏ, đội đức Đường, Ngu.
(Ngôn chí - Bài 14)
Với Nguyễn Trãi, công việc cày cấy cũng được nhắc vào thơ với một niềm hăng say lao động. Gần gũi với nhân dân, hiểu được giá trị đích thực của những sản vật trên, Nguyễn Trãi nhắc tới:
Nước dưỡng cho thanh đìa thưởng nguyệt,
Đất cày ngỏ ải, lảnh ương hoa
(Ngôn chí - Bài 3)
Đi vào khảo sát những hình ảnh trong Quốc âm thi tập, chúng
tôi đặc biệt chú ý tới hình ảnh “cây chuối”. Chuối là một cây rất quen thuộc,
trồng gần nhà, hình như bất cứ lúc nào từ nhà trông ra cũng thấy, nhưng ít ai để
ý tới nó, người ta chỉ chú ý kĩ tới nó nhiều nhất có lẽ vào lúc có tâm trạng buồn
đau. Ca dao xưa có nói:
Trông ra bụi chuối là tre
Em nghe ai dụ, đánh què chuyên anh.
Bây giờ “bụi chuối” theo “là tre” khẽ rung động chuyển mình theo chiều gió với vẻ thoả thích, hoặc nếu là đêm tối, chúng luôn biến dạng tạo nên những hình thù thiếu minh chính của chúng
Trông ra bụi chuối là tre
Em nghe ai dụ, đánh què chuyên anh.
Bây giờ “bụi chuối” theo “là tre” khẽ rung động chuyển mình theo chiều gió với vẻ thoả thích, hoặc nếu là đêm tối, chúng luôn biến dạng tạo nên những hình thù thiếu minh chính của chúng
Cũng bắt nguồn từ câu chuyện tình trong cao dao xưa, nhưng đến
Nguyễn Trãi, hình ảnh cây chuối được xây dựng với nhiều sáng tạo mới. Cây chuối
trở thành “một bức tình thư” cuộn tròn, e ấp. Nhưng cũng không kém phần rạo rực
sôi nổi:
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem…
(Ba tiêu)
Có người nói các loại cây khác vào mùa xuân đều tươi tốt thêm riêng cây chuối thì ngược lại, chuối lụi tàn vào mùa xuân và tươi tốt vào mùa hè. Tuy nhiên Nguyễn Trãi lại viết: “Tự bén hơi xuân lại tốt thêm”. Ở Nguyễn Trãi, hình ảnh cây chuối được mùa xuân bồi đắp cho tình xuân, sức xuân. Do đó khi bắt gặp hơi hướng tốt lành đó, chuối đã tốt “lại tốt thêm”. Từ hệ quả đó nảy sinh ra “buồng lạ” - “lạ” là lạ lùng và thú vị, chứ không phải lạ hiểu theo cách thông thường. Cùng với sự thú vị ấy, chuối đã toả ra những hương thơm ngào ngạt suốt đêm. Điều đặc biệt ở đây là Nguyễn Trãi đã mượn hình ảnh cây chuối để thể hiện cảm xúc sâu sắc, kín đáo. Từ lâu chúng ta đã biết thuật ngữ “phong thư” là biệt danh của cây chuối. Thế nhưng chưa ai ví tàu lá chuối non như một bức tình thư “phong còn kín”. Sự liên tưởng này là một sự liên tưởng độc đáo chỉ đến Nguyễn Trãi mới có và cũng ví nó tình tứ, e ấp, cuộn tròn, kín đáo như vậy nên ngay cả ngọn gió đến với nó cũng không phải là ngọn gió vô tình. Như vậy, bài thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi không chỉ nhằm miêu tả cây chuối theo nghĩa tự thân của nó - đầy đặn và đầy sức sống - mà hấp dẫn hơn, lạ lẫm hơn, nó là hình ảnh ẩn dụ chỉ vẻ đẹp của tình yêu dịu dàng, tế nhị. Cũng nhằm biểu hiện tình yêu nhưng đến Nguyễn Trãi, hình ảnh cây chuối đã có những cách tân vượt bậc, mang giá trị thẩm mĩ, giá trị nhân văn sâu sắc.
Tóm lại, qua sự khảo sát thế giới hình ảnh trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thấy hầu hết đó là những hình ảnh có phần xa lạ với văn văn chương bài học đương thời. Sở dĩ có hiện tượng đó vì Nguyễn Trãi trên cơ sở gắn bó hết mình với cuộc sống nhân dân và bằng tình yêu thiên nhiên, yêu cây cỏ, yêu cảnh vật hàng ngày, ông đã đưa những sản vật của nhân dân của thơ ca dân gian vào thơ mình một cách tự nhiên, trở thành đối tượng của cái đẹp. Điều này thể hiện sự thay đổi trong cảm hứng sáng tạo, cảm hứng thẩm mĩ theo chiều hướng dân chủ, tiến bộ của Nguyễn Trãi.
Sự cách tân trong thể thơ, vần thơ và nhịp điệu thơ
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem…
(Ba tiêu)
Có người nói các loại cây khác vào mùa xuân đều tươi tốt thêm riêng cây chuối thì ngược lại, chuối lụi tàn vào mùa xuân và tươi tốt vào mùa hè. Tuy nhiên Nguyễn Trãi lại viết: “Tự bén hơi xuân lại tốt thêm”. Ở Nguyễn Trãi, hình ảnh cây chuối được mùa xuân bồi đắp cho tình xuân, sức xuân. Do đó khi bắt gặp hơi hướng tốt lành đó, chuối đã tốt “lại tốt thêm”. Từ hệ quả đó nảy sinh ra “buồng lạ” - “lạ” là lạ lùng và thú vị, chứ không phải lạ hiểu theo cách thông thường. Cùng với sự thú vị ấy, chuối đã toả ra những hương thơm ngào ngạt suốt đêm. Điều đặc biệt ở đây là Nguyễn Trãi đã mượn hình ảnh cây chuối để thể hiện cảm xúc sâu sắc, kín đáo. Từ lâu chúng ta đã biết thuật ngữ “phong thư” là biệt danh của cây chuối. Thế nhưng chưa ai ví tàu lá chuối non như một bức tình thư “phong còn kín”. Sự liên tưởng này là một sự liên tưởng độc đáo chỉ đến Nguyễn Trãi mới có và cũng ví nó tình tứ, e ấp, cuộn tròn, kín đáo như vậy nên ngay cả ngọn gió đến với nó cũng không phải là ngọn gió vô tình. Như vậy, bài thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi không chỉ nhằm miêu tả cây chuối theo nghĩa tự thân của nó - đầy đặn và đầy sức sống - mà hấp dẫn hơn, lạ lẫm hơn, nó là hình ảnh ẩn dụ chỉ vẻ đẹp của tình yêu dịu dàng, tế nhị. Cũng nhằm biểu hiện tình yêu nhưng đến Nguyễn Trãi, hình ảnh cây chuối đã có những cách tân vượt bậc, mang giá trị thẩm mĩ, giá trị nhân văn sâu sắc.
Tóm lại, qua sự khảo sát thế giới hình ảnh trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thấy hầu hết đó là những hình ảnh có phần xa lạ với văn văn chương bài học đương thời. Sở dĩ có hiện tượng đó vì Nguyễn Trãi trên cơ sở gắn bó hết mình với cuộc sống nhân dân và bằng tình yêu thiên nhiên, yêu cây cỏ, yêu cảnh vật hàng ngày, ông đã đưa những sản vật của nhân dân của thơ ca dân gian vào thơ mình một cách tự nhiên, trở thành đối tượng của cái đẹp. Điều này thể hiện sự thay đổi trong cảm hứng sáng tạo, cảm hứng thẩm mĩ theo chiều hướng dân chủ, tiến bộ của Nguyễn Trãi.
Sự cách tân trong thể thơ, vần thơ và nhịp điệu thơ
Trong quá trình sáng tác thơ của mình, Nguyễn Trãi đã vận dụng
thi pháp thơ Đường một cách sáng tạo. Thi sĩ đã thử nghiệm ngòi bút của mình
theo hai thứ tiếng Hán và tiếng Nôm. Ở thứ tiếng nào, Nguyễn Trãi cũng thu được
thành công nhất định. Đặc biệt, thơ Nôm của Nguyễn Trãi có sự cách tân sáng tạo
mới mẻ.
Qua khảo sát toàn bộ 254 bài thơ trong Quốc âm thi tập chúng
tôi thấy có tới 186 bài thơ được sáng tác theo hình thức thất ngôn xen lục ngôn
(chiếm 73,2%). Trong đó thế tứ tuyệt có 25 bài (chiếm 13,44%) và thể thất ngôn
bát cú 161 bài (chiếm 86,56%). Nhìn chung câu lục ngôn trong các bài thơ cũng
không nhất định. Phần lớn các bài chỉ có một đến hai câu sáu tiếng nhưng cũng
có một số ít bài chừng tới 7 câu 6 tiếng xen một câu 7 tiếng, vị trí câu sáu tiếng
cũng có sự khác nhau. Có khi ở dòng đầu:
Giữ bao nhiêu bụi, bụi lầm
Giơ tay áo, đến tùng lâm.
(Ngôn chí - Bài 4)
Vầu làm chèo, trúc làm nhà
Được thú vui ngày tháng qua.
(Trần tình - Bài 3)
Giữ bao nhiêu bụi, bụi lầm
Giơ tay áo, đến tùng lâm.
(Ngôn chí - Bài 4)
Vầu làm chèo, trúc làm nhà
Được thú vui ngày tháng qua.
(Trần tình - Bài 3)
Việc sử dụng thể thơ sáu chữ xen bảy chữ với tần số cao cùng
với số câu và vị trí câu sáu chữ không ổn định thể hiện sự thử nghệm, tìm tòi của
Nguyễn Trãi trong việc sáng tác thơ Nôm của mình. Rõ ràng Nguyễn Trãi đã có ý
thức vận dụng thể thơ này với mong muốn tìm ra một thể thơ mới cho dân tộc, giải
toả những gò bó của thể thơ ngoại lai Trung Quốc.
Song song với việc phá cách thể thơ, Nguyễn Trãi có những cách tản độc đáo trong việc gieo vần. Như đã biết, vần được xem là một trong những đặc trưng nghệ thuật rất quan trọng. Vần giúp cho các phần trong câu, các câu trong bài gắn kết với nhau, làm cho tổ chức tác phẩm thêm vững chắc, dễ nhớ, dễ thuộc. Vần còn là yếu tố tạo nên tính nhạc trong thơ. Đọc Quốc âm thi tập chúng tôi nhận thấy có sự ảnh hưởng qua lại từ văn học dân gian về mặt vần trong những câu thơ sáu chữ và bảy chữ. Tục ngữ có cách bắt vần chữ cuối nhịp đầu bắt vần với chữ đầu nhịp sau. Đây được gọi là cách bắt vần theo kiểu vần liền (vần lưng sát) thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi, có rất nhiều bài có cách bắt vần theo kiểu vần liền:
Của thết người là của còn
Khó khăn phải đạo, cháo càng ngon.
(Bảo kính cảnh giới - Bài 22)
Song song với việc phá cách thể thơ, Nguyễn Trãi có những cách tản độc đáo trong việc gieo vần. Như đã biết, vần được xem là một trong những đặc trưng nghệ thuật rất quan trọng. Vần giúp cho các phần trong câu, các câu trong bài gắn kết với nhau, làm cho tổ chức tác phẩm thêm vững chắc, dễ nhớ, dễ thuộc. Vần còn là yếu tố tạo nên tính nhạc trong thơ. Đọc Quốc âm thi tập chúng tôi nhận thấy có sự ảnh hưởng qua lại từ văn học dân gian về mặt vần trong những câu thơ sáu chữ và bảy chữ. Tục ngữ có cách bắt vần chữ cuối nhịp đầu bắt vần với chữ đầu nhịp sau. Đây được gọi là cách bắt vần theo kiểu vần liền (vần lưng sát) thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi, có rất nhiều bài có cách bắt vần theo kiểu vần liền:
Của thết người là của còn
Khó khăn phải đạo, cháo càng ngon.
(Bảo kính cảnh giới - Bài 22)
Làm quan đã dại, tài chưa đủ
Về ở thanh nhàn, hạn đã hồng.
(Thuật hứng - Bài 16)
Chí cũ ta liều, nhiều sự hoà
Người xưa sử chép thấy ai còn.
(Thuật hứng - Bài 4)
Đó là câu thơ bảy chữ. Những câu thơ sáu chữ cũng được phối hợp nhịp nhàng theo kiểu vần liền. Trong bài Điệp trản, Nguyễn Trãi viết:
Thục Đế, để thành leo lét.
Ngoài cách bắt vần theo kiểu vần lưng sát, Quốc âm thi tập cũng có rât nhiều bài bắt vần theo kiểu lưng cách. Câu thơ sáu chữ và bảy chữ đều có cách bắt vần như vậy. Đây là cách bắt vần chữ cuối nhịp đầu bắt vần với chữ cuối nhịp sau.
Về ở thanh nhàn, hạn đã hồng.
(Thuật hứng - Bài 16)
Chí cũ ta liều, nhiều sự hoà
Người xưa sử chép thấy ai còn.
(Thuật hứng - Bài 4)
Đó là câu thơ bảy chữ. Những câu thơ sáu chữ cũng được phối hợp nhịp nhàng theo kiểu vần liền. Trong bài Điệp trản, Nguyễn Trãi viết:
Thục Đế, để thành leo lét.
Ngoài cách bắt vần theo kiểu vần lưng sát, Quốc âm thi tập cũng có rât nhiều bài bắt vần theo kiểu lưng cách. Câu thơ sáu chữ và bảy chữ đều có cách bắt vần như vậy. Đây là cách bắt vần chữ cuối nhịp đầu bắt vần với chữ cuối nhịp sau.
Thơ Nguyễn Trãi viết.
Đìa cỏ, được câu ngâm gió
(Mạn thuật - Bài 1)
Chứa thủa khô khao có thủa đào
(Thuật hứng - Bài 21)
Điều đặc biệt khi so sánh vần trong câu thơ thất ngôn hay lục ngôn của Nguyễn Trãi với câu thơ lục bát và song thất lục bát, chúng tôi thấy ở Quốc âm thi tập, tác giả đã sử dụng rất nhiều vần lưng ở những vị trí khác nhau. Vần được gieo vào hầu hết các chữ của câu dưới từ chữ thứ hai đến chữ thứ sáu; chữ thứ hai, thứ ba là ít; chữ thứ sáu nhiều hơn một chút. Chiếm ưu thế hơn vẫn là trường hợp vần được gieo ở chữ thứ tư hoặc chữ thứ năm. Có nghĩa là vần ở cuối câu thơ trên hợp với vần ở chữ thứ tư hoặc chữ thứ năm trong hai câu thơ dưới:
Đìa cỏ, được câu ngâm gió
(Mạn thuật - Bài 1)
Chứa thủa khô khao có thủa đào
(Thuật hứng - Bài 21)
Điều đặc biệt khi so sánh vần trong câu thơ thất ngôn hay lục ngôn của Nguyễn Trãi với câu thơ lục bát và song thất lục bát, chúng tôi thấy ở Quốc âm thi tập, tác giả đã sử dụng rất nhiều vần lưng ở những vị trí khác nhau. Vần được gieo vào hầu hết các chữ của câu dưới từ chữ thứ hai đến chữ thứ sáu; chữ thứ hai, thứ ba là ít; chữ thứ sáu nhiều hơn một chút. Chiếm ưu thế hơn vẫn là trường hợp vần được gieo ở chữ thứ tư hoặc chữ thứ năm. Có nghĩa là vần ở cuối câu thơ trên hợp với vần ở chữ thứ tư hoặc chữ thứ năm trong hai câu thơ dưới:
Lận đận nhà giàu no bữa cốm
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn
(Bảo kính cảnh giới - Bài 21)
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn
(Bảo kính cảnh giới - Bài 21)
Trường hợp vần lưng gieo ở chữ thứ năm:
Ai hay đều có hai con mắt
Xanh ngọc dầu chủng mặt chúng người
(Tự thuật - Bài 19)
Cách gieo vần ở chữ cuối của câu thơ trên với chữ thứ hai, ba, bốn, năm, sáu ở câu dưới như vậy đã thể hiện mạnh mẽ xu hướng phá cách trong sáng tác Đường luật Nôm của Nguyễn Trãi. Dường như với Nguyễn Trãi, xu hướng dân tộc hoá trước hết biểu hiện ở chỗ tìm cho mình một cái riêng, cố gắng khác nước ngoài mà cuộc vận động tạo vần lưng là một đặc sắc.
Cùng với vần thì nhịp điệu là một trong những yếu tố thứ nhất tạo nên chất thơ, tạo nên âm vang, điều tiết cảm nhận của người đọc và tạo nghĩa. Dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi, ông đã có những kiến tạo độc đáo trong nhịp điệu thơ của mình. Bằng cách thêm những câu thơ sáu chữ xen vào những câu bảy chữ, tiết điệu của bài thơ trở nên phong phú hơn. Câu lục ngôn trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi có rất nhiều cách ngắt nhịp.
Nhịp 3/3:
Bẻ cài trúc / hòng phân suối Quét con am / để chứa mây.
Nhịp 1/2/3:
Nẻo / xưa nay / cũng một đường Đây xoé xoé / nẻo tam cương.
(Tự thán - Bài 23)
Nhịp 2/2/2:
Thân nhàn / dầu tới / dầu lui.
(Ngôn chí - Bài 12)
Ai hay đều có hai con mắt
Xanh ngọc dầu chủng mặt chúng người
(Tự thuật - Bài 19)
Cách gieo vần ở chữ cuối của câu thơ trên với chữ thứ hai, ba, bốn, năm, sáu ở câu dưới như vậy đã thể hiện mạnh mẽ xu hướng phá cách trong sáng tác Đường luật Nôm của Nguyễn Trãi. Dường như với Nguyễn Trãi, xu hướng dân tộc hoá trước hết biểu hiện ở chỗ tìm cho mình một cái riêng, cố gắng khác nước ngoài mà cuộc vận động tạo vần lưng là một đặc sắc.
Cùng với vần thì nhịp điệu là một trong những yếu tố thứ nhất tạo nên chất thơ, tạo nên âm vang, điều tiết cảm nhận của người đọc và tạo nghĩa. Dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi, ông đã có những kiến tạo độc đáo trong nhịp điệu thơ của mình. Bằng cách thêm những câu thơ sáu chữ xen vào những câu bảy chữ, tiết điệu của bài thơ trở nên phong phú hơn. Câu lục ngôn trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi có rất nhiều cách ngắt nhịp.
Nhịp 3/3:
Bẻ cài trúc / hòng phân suối Quét con am / để chứa mây.
Nhịp 1/2/3:
Nẻo / xưa nay / cũng một đường Đây xoé xoé / nẻo tam cương.
(Tự thán - Bài 23)
Nhịp 2/2/2:
Thân nhàn / dầu tới / dầu lui.
(Ngôn chí - Bài 12)
Sự đa dạng trong nhịp điệu của câu thơ lục ngôn cũng tác động
rất lớn, làm thay đổi nhịp trong câu thơ thất ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Trãi
không còn giữ nguyên vẹn nhịp 4/3 mà có sự chuyển biến rõ rệt.
Đọc Quốc âm thi tập, tôi thấy hiện tượng hai câu bảy chữ đi liền nhau theo kiểu ngắt nhịp của câu thơ song thất lục bát là khá phổ biến
Đọc Quốc âm thi tập, tôi thấy hiện tượng hai câu bảy chữ đi liền nhau theo kiểu ngắt nhịp của câu thơ song thất lục bát là khá phổ biến
Miệng thế nhọn / hơn chông mác nhọn
Lòng người quanh / nửa nước non quanh.
(Bảo kính cảnh giới - Bài 29)
Thơ đài tục / hiền câu đài tục
Chủ vô tâm ý khách vô tâm.
(Ngôn chí - Bài 4)
Nhịp điệu không những tạo nên tính nhạc trong thơ mà còn có khả năng tạo nghĩa rất lớn. Chỉ cần ngắt nhịp chệch đi một chữ, câu thơ đó sẽ mang lại những cách hiểu nghĩa khác nhau. Ở Quốc âm thi tập việc sử dụng cách ngắt nhịp theo kiểu song thất lục bát khác với kiểu ngắt nhịp trong thơ Đường đã góp phần tâm trạng hoà tâm hồn Nguyễn Trãi. Trong việc ý thức xây dựng ngôn ngữ dân tộc, thể thơ dân tộc, Nguyễn Trãi cũng chú ý đến nhịp điệu, điều này thể hiện sự quan tâm tỉ mỉ của Ức Trai tới những bước đi đầu tiên của nền văn học thành văn nước ta.
Như vậy, với việc sử dụng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, cách gieo vần lưng ở những vị trí không cố định, kết hợp với lối kiến tạo nhịp điệu thơ Nôm, Nguyễn Trãi đã thể hiện khát khao đổi mới thơ ca theo hướng dân tộc hoá. Trên cơ sở tiếp thu những tinh hoa truyền thống của dân tộc và những thành tựu đặc sắc của Trung Hoa, Nguyễn Trãi đã phá vỡ những quy định nghiêm ngặt của thơ Đường Luật, làm cho câu thơ, bài thơ trở nên gần gũi, dễ nhớ, dễ thuộc. Đồng thời, nó cũng góp phần chuyển tải tiếng nói yêu nước thương dân, niềm tự hào, lòng tự tôn dân tộc của Nguyễn Trãi với công chúng bạn đọc sau này. Có thể nói, với Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi đã khẳng định được vị thế của thơ Nôm của ông nói riêng, thơ Nôm của dân tộc nói chung trong tiến trình phát triển của văn học nước nhà.
Lòng người quanh / nửa nước non quanh.
(Bảo kính cảnh giới - Bài 29)
Thơ đài tục / hiền câu đài tục
Chủ vô tâm ý khách vô tâm.
(Ngôn chí - Bài 4)
Nhịp điệu không những tạo nên tính nhạc trong thơ mà còn có khả năng tạo nghĩa rất lớn. Chỉ cần ngắt nhịp chệch đi một chữ, câu thơ đó sẽ mang lại những cách hiểu nghĩa khác nhau. Ở Quốc âm thi tập việc sử dụng cách ngắt nhịp theo kiểu song thất lục bát khác với kiểu ngắt nhịp trong thơ Đường đã góp phần tâm trạng hoà tâm hồn Nguyễn Trãi. Trong việc ý thức xây dựng ngôn ngữ dân tộc, thể thơ dân tộc, Nguyễn Trãi cũng chú ý đến nhịp điệu, điều này thể hiện sự quan tâm tỉ mỉ của Ức Trai tới những bước đi đầu tiên của nền văn học thành văn nước ta.
Như vậy, với việc sử dụng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, cách gieo vần lưng ở những vị trí không cố định, kết hợp với lối kiến tạo nhịp điệu thơ Nôm, Nguyễn Trãi đã thể hiện khát khao đổi mới thơ ca theo hướng dân tộc hoá. Trên cơ sở tiếp thu những tinh hoa truyền thống của dân tộc và những thành tựu đặc sắc của Trung Hoa, Nguyễn Trãi đã phá vỡ những quy định nghiêm ngặt của thơ Đường Luật, làm cho câu thơ, bài thơ trở nên gần gũi, dễ nhớ, dễ thuộc. Đồng thời, nó cũng góp phần chuyển tải tiếng nói yêu nước thương dân, niềm tự hào, lòng tự tôn dân tộc của Nguyễn Trãi với công chúng bạn đọc sau này. Có thể nói, với Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi đã khẳng định được vị thế của thơ Nôm của ông nói riêng, thơ Nôm của dân tộc nói chung trong tiến trình phát triển của văn học nước nhà.
Xuất hiện ở nửa đầu thế kỉ XV, thiên tài văn
học Nguyễn Trãi trở thành một hiện tượng văn học kết tinh truyền thống, thành tựu
của văn học Lý - Trần, đồng thời là một hiện tượng văn học mở đường cho một
giai đoạn phát triển mới. Cuộc cách mạng về thơ mà Nguyễn Trãi tiến hành viết
thi phẩm nổi tiếng Quốc âm thi tập bắt nguồn sâu xa từ chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần dân tộc, ý thức tự hào dân tộc, nỗi niềm mong muốn xây dựng một nền văn
hoá dân tộc ngày càng rực rỡ.
Có thể nói, Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm cổ nhất nhưng lại biểu hiện cho một quan niệm thẩm mĩ mới nhất của thơ ca Việt Nam thời bấy giờ. Đó là quan niệm cái bình thường chính là đối tượng của cái đẹp, cái bình thường nhưng đem lại rung động thẩm mĩ rất cao. Điều đó thể hiện trước hết ở việc Nguyễn Trãi đã mạnh dạn sử dụng một loạt các hình ảnh thiên nhiên đặc trưng của các mùa rất sinh động và độc đáo.
Hình ảnh bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông trong Quốc âm thi tập là một trong những mảng sáng tác chiếm nhiều giấy mực của Nguyễn Trãi. Không chỉ về số lượng mà cùng với thời gian những thi phẩm này đã khẳng định được giá trị của mình trong kho tàng văn học dân tộc.
Bằng sự rung động chân thành của tâm hồn trước vẻ đẹp tự nhiên và bằng ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Trãi đã khắc hoạ thành công bức tranh tứ thời với đầy đủ đường nét, gam màu khác nhau đặc trưng cho từng mùa khác nhau trên đất nước Việt Nam.
Có thể nói, Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm cổ nhất nhưng lại biểu hiện cho một quan niệm thẩm mĩ mới nhất của thơ ca Việt Nam thời bấy giờ. Đó là quan niệm cái bình thường chính là đối tượng của cái đẹp, cái bình thường nhưng đem lại rung động thẩm mĩ rất cao. Điều đó thể hiện trước hết ở việc Nguyễn Trãi đã mạnh dạn sử dụng một loạt các hình ảnh thiên nhiên đặc trưng của các mùa rất sinh động và độc đáo.
Hình ảnh bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông trong Quốc âm thi tập là một trong những mảng sáng tác chiếm nhiều giấy mực của Nguyễn Trãi. Không chỉ về số lượng mà cùng với thời gian những thi phẩm này đã khẳng định được giá trị của mình trong kho tàng văn học dân tộc.
Bằng sự rung động chân thành của tâm hồn trước vẻ đẹp tự nhiên và bằng ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Trãi đã khắc hoạ thành công bức tranh tứ thời với đầy đủ đường nét, gam màu khác nhau đặc trưng cho từng mùa khác nhau trên đất nước Việt Nam.
Qua việc khảo sát thống kê cùng với việc phân tích tìm hiểu
hình ảnh bốn mùa trong thơ ca trung đại Việt Nam chúng tôi đã rút ra được kết
quả nghiên cứu như sau:
Thông qua những bài thơ viết về hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập người đọc sẽ được chiêm ngưỡng những bức hoạ về vẻ đẹp bốn mùa của tự nhiên, nó không chỉ mang vẻ đẹp mĩ lệ, cổ điển mà còn mang vẻ đẹp hết sức bình dị dân giã, gần gũi với cuộc sống đời thường. Đó là kết quả của việc nâng cao ý thức dân tộc và quá trình hiện thực hoá trong thơ ca. Đồng thời, việc phân tích tìm hiểu về hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập chúng ta sẽ thấy quy luật vận động của bốn mùa trong tự nhiên thông qua đó nhà thơ nói về quy luật của đời người. Đằng sau bức tranh thiên nhiên ấy còn chất chứa bao nỗi niềm của chính các nhà thơ, đó là những tâm sự về tình cảm cá nhân và về thời đại lúc bấy giờ. Và hình ảnh bốn mùa là nơi họ lựa chọn để chút bầu tâm sự.
Bên cạnh sự thành công về mặt nội dung, Nguyễn Trãi còn sử dụng một cách linh hoạt, uyển chuyển vốn thành ngữ, tục ngữ, ca dao làm cho văn học dân gian và thơ ca bác học xích lại gần nhau hơn tạo nên tính dân tộc, tính đại chúng đậm đà. Nguyễn Trãi cũng đưa vào thơ Nôm của mình những hình ảnh rất dung dị, quen thuộc với nếp cảm, nếp nghĩ của người dân, góp phần chuyển tải tâm hồn của cha ông gần với thế hệ con cháu chúng ta. Sau cùng Nguyễn Trãi đã có những cách tân táo bạo trong việc chêm xen thể thơ sáu chữ vào những câu bảy chữ, vận dụng cách gieo vần ở những vị trí khác nhau, vận dụng nhịp điệu 3/4 khác cách ngắt nhịp 4/3 của thơ Đường. Với những việc làm đó Nguyễn Trãi đã từng bước phá vỡ những “khuôn vàng thước ngọc” của thơ ca cổ trung đại, giải toả những gò bó của thơ Đường luật Trung Hoa, xây dựng một lối thơ Việt Nam theo xu hướng dân chủ, tiến bộ.
Mặc dù Nguyễn Trãi đã rời xa chúng ta về mặt thời gian nhưng không gian thì không bao giờ ngăn cách. Chúng ta sẽ nhớ mãi đến tên tuổi của Ức Trai - ngôi sao khuê rực sáng trên bầu trời tinh tú của dân tộc: “Ức trai tâm thượng quang khuê tảo” (Lê Thánh Tông). Chúng ta sẽ mãi nhớ đến Quốc âm thi tập bởi đây không chỉ là “tác phẩm mở đầu cho nền thơ cổ điển Việt Nam” (Xuân Diệu) mà còn là tác phẩm thể hiện đường gươm thử thách, đường gươm bậc thầy của Nguyễn Trãi.
Với những thành công của việc đưa các hình ảnh thiên nhiên bốn mùa vào trong thơ của mình đã đánh dấu bước phát triển mới trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Những thi phẩm đặc sắc này không chỉ mang dấu ấn riêng của tác giả mà còn mang hơi thở của thời đại.
Thông qua những bài thơ viết về hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập người đọc sẽ được chiêm ngưỡng những bức hoạ về vẻ đẹp bốn mùa của tự nhiên, nó không chỉ mang vẻ đẹp mĩ lệ, cổ điển mà còn mang vẻ đẹp hết sức bình dị dân giã, gần gũi với cuộc sống đời thường. Đó là kết quả của việc nâng cao ý thức dân tộc và quá trình hiện thực hoá trong thơ ca. Đồng thời, việc phân tích tìm hiểu về hình ảnh bốn mùa trong Quốc âm thi tập chúng ta sẽ thấy quy luật vận động của bốn mùa trong tự nhiên thông qua đó nhà thơ nói về quy luật của đời người. Đằng sau bức tranh thiên nhiên ấy còn chất chứa bao nỗi niềm của chính các nhà thơ, đó là những tâm sự về tình cảm cá nhân và về thời đại lúc bấy giờ. Và hình ảnh bốn mùa là nơi họ lựa chọn để chút bầu tâm sự.
Bên cạnh sự thành công về mặt nội dung, Nguyễn Trãi còn sử dụng một cách linh hoạt, uyển chuyển vốn thành ngữ, tục ngữ, ca dao làm cho văn học dân gian và thơ ca bác học xích lại gần nhau hơn tạo nên tính dân tộc, tính đại chúng đậm đà. Nguyễn Trãi cũng đưa vào thơ Nôm của mình những hình ảnh rất dung dị, quen thuộc với nếp cảm, nếp nghĩ của người dân, góp phần chuyển tải tâm hồn của cha ông gần với thế hệ con cháu chúng ta. Sau cùng Nguyễn Trãi đã có những cách tân táo bạo trong việc chêm xen thể thơ sáu chữ vào những câu bảy chữ, vận dụng cách gieo vần ở những vị trí khác nhau, vận dụng nhịp điệu 3/4 khác cách ngắt nhịp 4/3 của thơ Đường. Với những việc làm đó Nguyễn Trãi đã từng bước phá vỡ những “khuôn vàng thước ngọc” của thơ ca cổ trung đại, giải toả những gò bó của thơ Đường luật Trung Hoa, xây dựng một lối thơ Việt Nam theo xu hướng dân chủ, tiến bộ.
Mặc dù Nguyễn Trãi đã rời xa chúng ta về mặt thời gian nhưng không gian thì không bao giờ ngăn cách. Chúng ta sẽ nhớ mãi đến tên tuổi của Ức Trai - ngôi sao khuê rực sáng trên bầu trời tinh tú của dân tộc: “Ức trai tâm thượng quang khuê tảo” (Lê Thánh Tông). Chúng ta sẽ mãi nhớ đến Quốc âm thi tập bởi đây không chỉ là “tác phẩm mở đầu cho nền thơ cổ điển Việt Nam” (Xuân Diệu) mà còn là tác phẩm thể hiện đường gươm thử thách, đường gươm bậc thầy của Nguyễn Trãi.
Với những thành công của việc đưa các hình ảnh thiên nhiên bốn mùa vào trong thơ của mình đã đánh dấu bước phát triển mới trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Những thi phẩm đặc sắc này không chỉ mang dấu ấn riêng của tác giả mà còn mang hơi thở của thời đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Huệ Chi (1994), Thi hào Nguyễn Khuyến - Đời và Thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Xuân Diệu (1981), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam – Tập 1, NXB Văn học. 3. Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội.
4. Nguyễn Lộc (2005), Văn học Việt Nam (nửa cuối thể kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX), NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Trần Thanh Mai (1980), Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi (trích trên đường tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi), NXB Văn học, Hà Nội.
6. Bùi Văn Nguyên (1984), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XVIII, NXB Giáo dục.
7. Bùi Văn Nguyên (1994), Thơ quốc âm, NXB Giáo dục.
1. Nguyễn Huệ Chi (1994), Thi hào Nguyễn Khuyến - Đời và Thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Xuân Diệu (1981), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam – Tập 1, NXB Văn học. 3. Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội.
4. Nguyễn Lộc (2005), Văn học Việt Nam (nửa cuối thể kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX), NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Trần Thanh Mai (1980), Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi (trích trên đường tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi), NXB Văn học, Hà Nội.
6. Bùi Văn Nguyên (1984), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XVIII, NXB Giáo dục.
7. Bùi Văn Nguyên (1994), Thơ quốc âm, NXB Giáo dục.
8. Bùi Văn Nguyên (2000), Văn chương Nguyễn Trãi rực rỡ ánh
sao khuê, NXB Khoa học Xã hội.
9. Nguyễn Đăng Na (2007), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam -Tập 1, NXB Khoa học Xã hội.
10. Vũ Nguyên (2007), Tác giả trong nhà trường Nguyễn Trãi, NXB Văn học.
11. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
12. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Hữu Sơn biên soạn và tuyển chọn (2005), Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.
14. Nguyễn Du tác gia và tác phẩm (2003), Vũ Thanh biên soạn và tuyển chọn, NXB Giáo dục.
9. Nguyễn Đăng Na (2007), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam -Tập 1, NXB Khoa học Xã hội.
10. Vũ Nguyên (2007), Tác giả trong nhà trường Nguyễn Trãi, NXB Văn học.
11. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
12. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Hữu Sơn biên soạn và tuyển chọn (2005), Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.
14. Nguyễn Du tác gia và tác phẩm (2003), Vũ Thanh biên soạn và tuyển chọn, NXB Giáo dục.
15. Chương Thâu (1980), Trên đường tìm hiểu sự nghiệp thơ văn
Nguyễn Trãi, NXB Khoa học Xã hội.
16. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
17. Lê Trí Viễn (2005), Tổng quan văn chương Việt Nam, NXB Giáo dục. 18. Lê Trí Viễn (2003), Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Phan Sĩ Tấn - Trần Thanh Đạm (tuyển chọn), Thơ văn Nguyễn Trãi, NXB Giáo dục.
16. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
17. Lê Trí Viễn (2005), Tổng quan văn chương Việt Nam, NXB Giáo dục. 18. Lê Trí Viễn (2003), Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Phan Sĩ Tấn - Trần Thanh Đạm (tuyển chọn), Thơ văn Nguyễn Trãi, NXB Giáo dục.
PHỤ LỤC:
Khảo sát thống kê những câu thơ tiêu biểu xuất hiện hình ảnh bốn mùa.
1. Cởi tục trà thường pha nước tuyết, Tầm thanh trong vắt tiển chè mai Chim kêu hoa nở ngày xuân tĩnh Hương lụi cờ tàn tiệc khách thôi. (Ngôn chí - Bài 1)
2. Trà mai đêm nguyệt dậy xem bóng Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu. (Ngôn chí - Bài 2)
3. Thuyền chèo đêm nguyệt, sông biếc Cây đến ngày xuân, lá tươi. (Ngôn chí - Bài 21)
Khảo sát thống kê những câu thơ tiêu biểu xuất hiện hình ảnh bốn mùa.
1. Cởi tục trà thường pha nước tuyết, Tầm thanh trong vắt tiển chè mai Chim kêu hoa nở ngày xuân tĩnh Hương lụi cờ tàn tiệc khách thôi. (Ngôn chí - Bài 1)
2. Trà mai đêm nguyệt dậy xem bóng Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu. (Ngôn chí - Bài 2)
3. Thuyền chèo đêm nguyệt, sông biếc Cây đến ngày xuân, lá tươi. (Ngôn chí - Bài 21)
4. Đìa cỏ được câu ngâm gió Hiên mai, cầm chén hỏi trăng. (Mạn
thuật - Bài 1)
5. Xuân chầy liễu thấy chưa hay mặt Vườn kín hoa truyền mới lọt tin. (Thời lệnh môn - Tải xuân đắc ý)
6. Cầm đuốc chơi, này khách nói Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân. (Vãn xuân)
7. Ba tháng hạ thiên, bóng nắng dài, Thu đông lạnh lẽo cả hoà hai, Đông phong từ hẹn tin xuân đến, Đầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi. (Xuân hoa tuyệt cú)
5. Xuân chầy liễu thấy chưa hay mặt Vườn kín hoa truyền mới lọt tin. (Thời lệnh môn - Tải xuân đắc ý)
6. Cầm đuốc chơi, này khách nói Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân. (Vãn xuân)
7. Ba tháng hạ thiên, bóng nắng dài, Thu đông lạnh lẽo cả hoà hai, Đông phong từ hẹn tin xuân đến, Đầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi. (Xuân hoa tuyệt cú)
8. Dặng dõi bên tai tiếng quản huyền Lòng xuân nhẫn động ắt
khôn thìn. Xuân xanh chưa dễ hai phen lại, Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.
(Tích cảnh - Bài 3)
9. Hỡi kẻ biên xanh chớ phụ người Thức xuân kể được mấy phen
tươi. (Tích cảnh - Bài 5)
10. Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm Những lệ xuân qua tuổi tác thêm. (Tích cảnh - Bài 7)
11. Giữa mùa đông, trỗi thức xuân Nam chi nở, cực thanh tân. (Mai)
12. Một đoá đào hoa khéo tốt tươi Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười. (Đào hoa - Bài 1)
13. Khi hồng quân hãy sá tài qua Chớ phụ xuân này, chớ phụ hoa. (Đào hoa - Bài 3)
14. Khí dương hoà há có tư ai, Năng một hoa này, nhẫn mọi loài Tính kể chỉn còn ba tháng nữa Kịp xuân mựa để má đào phai. (Đào hoa - Bài 4)
15. Má đào phai hết bởi xuân qua Nẻo, lại đam thì liền luống hoa. (Đào hoa - Bài 5)
16. Cây lục vờn vờn bóng lục in Xuân nhiều, tuổi đã kể dư nghìn. (Thiên tuế thụ)
17. Tự bén hơi xuân tốt lại thêm Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm Tình thu một bức, phong còn kín Gió nơi đâu, gượng mở xem! (Ba tiêu)
10. Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm Những lệ xuân qua tuổi tác thêm. (Tích cảnh - Bài 7)
11. Giữa mùa đông, trỗi thức xuân Nam chi nở, cực thanh tân. (Mai)
12. Một đoá đào hoa khéo tốt tươi Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười. (Đào hoa - Bài 1)
13. Khi hồng quân hãy sá tài qua Chớ phụ xuân này, chớ phụ hoa. (Đào hoa - Bài 3)
14. Khí dương hoà há có tư ai, Năng một hoa này, nhẫn mọi loài Tính kể chỉn còn ba tháng nữa Kịp xuân mựa để má đào phai. (Đào hoa - Bài 4)
15. Má đào phai hết bởi xuân qua Nẻo, lại đam thì liền luống hoa. (Đào hoa - Bài 5)
16. Cây lục vờn vờn bóng lục in Xuân nhiều, tuổi đã kể dư nghìn. (Thiên tuế thụ)
17. Tự bén hơi xuân tốt lại thêm Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm Tình thu một bức, phong còn kín Gió nơi đâu, gượng mở xem! (Ba tiêu)
18. Vườn xuân đầm ấm nắng sơ soi Áo tế hung hung thuở mặc
thôi. (Gía) 19. Tìm được lâm tuyền chốn dưỡng thân Một phen xuân tới một phen
xuân. (Lão dung)
20. Mai son bén phấn dây dây Đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay Mấy kẻ hồng nhan thì bạc phận Hồng nhan kia chớ cậy mình thay. (Mạt lị)
21. Lầu nguyệt đã quen thối địch Non xuân tùng bạn khách ăn thông. (Lão Hạc)
22. Song có hoa mai, đìa cỏ nguyệt Án còn phiến sách, triện còn hương. (Tự thán - Bài 12)
23. Trường ốc ba thu, uổng mỗ danh Chẳng tài đâu xứng trước tiên sinh. (Ngôn chí - Bài 6)
24. Đã mấy thu nay để lệ nhà Duyên nào đeo đẳng khó chăng tha. (Ngôn chí - Bài 7)
20. Mai son bén phấn dây dây Đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay Mấy kẻ hồng nhan thì bạc phận Hồng nhan kia chớ cậy mình thay. (Mạt lị)
21. Lầu nguyệt đã quen thối địch Non xuân tùng bạn khách ăn thông. (Lão Hạc)
22. Song có hoa mai, đìa cỏ nguyệt Án còn phiến sách, triện còn hương. (Tự thán - Bài 12)
23. Trường ốc ba thu, uổng mỗ danh Chẳng tài đâu xứng trước tiên sinh. (Ngôn chí - Bài 6)
24. Đã mấy thu nay để lệ nhà Duyên nào đeo đẳng khó chăng tha. (Ngôn chí - Bài 7)
25. Túi thơ bầu rượu quản tình suông Quẩy dụng dầm hâm mấy dặm
đường Đài Tử Lăng cao tu mát Bè Trương Khiên nhẹ khách sang. (Ngôn chí - Bài 8)
26. Trường văn nằm ngả mấy thu dư Uổng tốn công nhân biện lỗ ngự. (Mạn thuật - Bài 12)
26. Trường văn nằm ngả mấy thu dư Uổng tốn công nhân biện lỗ ngự. (Mạn thuật - Bài 12)
27. Án tuyết mười thu uổng đốc thư Kẻo còn biền biệt chữ
tương như. (Mạn thuật - Bài 14)
28. Đâu cũng chịu lệnh đóng quân Nào chốn nào, chăng gió xuân Huống lai vườn còn hoa trúc cũ Chồi thức tốt lạ mười phân. (Thơ tiếc cảnh - Bài 13) 29. Vì ai cho cái đỗ quyên kêu, Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu Lại có hoè hoa chen bóng lục Thức xuân một điểm não lòng nhau. (Hạ cảnh tuyệt cú)
28. Đâu cũng chịu lệnh đóng quân Nào chốn nào, chăng gió xuân Huống lai vườn còn hoa trúc cũ Chồi thức tốt lạ mười phân. (Thơ tiếc cảnh - Bài 13) 29. Vì ai cho cái đỗ quyên kêu, Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu Lại có hoè hoa chen bóng lục Thức xuân một điểm não lòng nhau. (Hạ cảnh tuyệt cú)
30. Mống lành nẩy nẩy bãi hoè trồng, Một phút xuân qua một
phút trông. Có thuở ngày hè giương tàn lục Đùn đùn bóng rợp cửa tam công. (Hoè)
31. Rỗi, hóng mát thuở ngày trường Hoè lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tịn mùi hương. (Bảo kính cảnh giới - Bài 43)
32. Cây rợp bóng am che mát Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn. (Ngôn chí - Bài 20)
33. Đông đà muộn, lại sang xuân, Xuân muộn thì hè lại đổi lần. Tính kể tư mùa có nguyệt Thu âu là nhẫn một hai phần. (Thu nguyệt tuyệt cú)
31. Rỗi, hóng mát thuở ngày trường Hoè lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tịn mùi hương. (Bảo kính cảnh giới - Bài 43)
32. Cây rợp bóng am che mát Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn. (Ngôn chí - Bài 20)
33. Đông đà muộn, lại sang xuân, Xuân muộn thì hè lại đổi lần. Tính kể tư mùa có nguyệt Thu âu là nhẫn một hai phần. (Thu nguyệt tuyệt cú)
34. Hầu lên khôn lại tiếc khuâng khuâng Thu đến đêm qua cảm vả
mừng. (Tích cảnh 1)
35. Thu cao thỏ ướm thăm lòng biển Vực lạch châu mừng thoát miệng rồng. (Thủy trung nguyệt)
36. Người đua nhan sắc thuở xuân dương Nghĩ chờ thu, cực lạ thường! (cúc)
37. Cõi đông cho thức, xạ cho hương Tạo hoá sinh thành khác đấng thường Chuốt lòng son, chăng bén tục Bền tiết ngọc, kể chi sương. (Hồng cúc)
38. Nào hoa chẳng bén, khí đầm hâm Có mấy bầu sương nhụy mới đâm Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn Cho hay tu muộn tiết càng thơm. (Cúc 2) 39. Buồng văn khép cửa lọn ngày thu Đèn sách nhàn làm song nhật nho. (Thuật hứng - Bài 13)
40. Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc Thuyền chở yên hà nặng vạy then. (Thuật hứng - Bài 24)
41. Đêm có mây, nào quến nguyệt Ngày tuy gió, chẳng bay hương Nhờ ở vũ lộ đà no hết Đông đổi dầu đông, hãy một đường. (Lão mai)
42. Tà dương bóng ngả áp giang lâu Thế giới đông nên ngọc một bầu Tuyết sóc leo cây điểm phấn Cõi đông dãi nguyệt in câu. (Ngôn chí - Bài 13)
35. Thu cao thỏ ướm thăm lòng biển Vực lạch châu mừng thoát miệng rồng. (Thủy trung nguyệt)
36. Người đua nhan sắc thuở xuân dương Nghĩ chờ thu, cực lạ thường! (cúc)
37. Cõi đông cho thức, xạ cho hương Tạo hoá sinh thành khác đấng thường Chuốt lòng son, chăng bén tục Bền tiết ngọc, kể chi sương. (Hồng cúc)
38. Nào hoa chẳng bén, khí đầm hâm Có mấy bầu sương nhụy mới đâm Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn Cho hay tu muộn tiết càng thơm. (Cúc 2) 39. Buồng văn khép cửa lọn ngày thu Đèn sách nhàn làm song nhật nho. (Thuật hứng - Bài 13)
40. Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc Thuyền chở yên hà nặng vạy then. (Thuật hứng - Bài 24)
41. Đêm có mây, nào quến nguyệt Ngày tuy gió, chẳng bay hương Nhờ ở vũ lộ đà no hết Đông đổi dầu đông, hãy một đường. (Lão mai)
42. Tà dương bóng ngả áp giang lâu Thế giới đông nên ngọc một bầu Tuyết sóc leo cây điểm phấn Cõi đông dãi nguyệt in câu. (Ngôn chí - Bài 13)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét