Thứ Năm, 18 tháng 4, 2024

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: "Đàn bà làm thơ trăm cái khổ"

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ:
"Đàn bà làm thơ trăm cái khổ"

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã qua đời vào ngày 6/7/2023 sau nhiều năm bệnh tật, ốm đau. Bà đã về miền “gió Lào cát trắng”, thọ 74 tuổi. Khi nhắc đến tên Lâm Thị Mỹ Dạ, độc giả thường hay nhớ đến bài thơ “Khoảng trời, hố bom” từng được đưa vào dạy ở chương trình phổ thông trung học. Có lẽ ít ai biết rằng sự nghiệp văn chương của bà còn nhiều điều đáng nói hơn thế.
Nhà thơ đẹp của miền “gió Lào cát trắng” thời chiến tranh
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh năm 1949, tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Nhà thơ từng học trường Viết văn Nguyễn Du từ năm 1978 đến năm 1973. Bà từng trải qua các công việc như: nhân viên Ty Văn hóa Quảng Bình, phóng viên, biên tập viên Tạp chí “Sông Hương” của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế. Lâm Thị Mỹ Dạ cũng từng tham gia khóa đào tạo tại Học viện viết văn Marxim Gorki (Liên Xô cũ). Bà từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III và IV, Ủy viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam khóa V.
Những thành tựu chính trong sáng tác của Lâm Thị Mỹ Dạ là: từng giành giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1971-1973; Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam cho tập thơ “Bài thơ không năm tháng”; Giải A thơ của Ủy ban toàn quốc các Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999; Giải A thơ Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (1998-2004) của UBND tỉnh và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế… và nhiều thành công khác. Năm 2005, tập thơ “Cốm non” (Green rice) của Lâm Thị Mỹ Dạ được dịch ra tiếng Anh, in và phát hành tại Mỹ. Năm 2007 nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật với 3 tập thơ: “Trái tim sinh nở” (1974), “Bài thơ không năm tháng” (1983), “Đề tặng một giấc mơ” (1988).
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ kết hôn với một tên tuổi nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại: nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trong ký ức của người thân, gia đình, bạn bè, Lâm Thị Mỹ Dạ là người phụ nữ xinh đẹp, nữ tính và nhân hậu, giàu tình yêu thương.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được đông đảo độc giả biết đến từ năm 1973, sau khi đoạt giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ với bài “Khoảng trời, hố bom”. Từ đó bà định vị trong lòng người đọc như là một nhà thơ của miền đất miền Trung “gió Lào cát trắng” như tên một bài thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Trong nhiều lần trả lời phỏng vấn trên báo chí về bài thơ này, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cho biết đó là vào năm 1970, khi đang đi thực tế ở chiến trường ác liệt, nhà thơ đã gặp một đội nữ thanh niên xung phong, trong đó có một chị đã lớn tuổi, kể cho nhà thơ nghe về chuyện đã được giải ngũ nhưng khi về nhà thì cả gia đình đã chết hết do bom Mỹ, chỉ để lại một hố bom sâu hoắm. Chị nữ thanh niên xung phong ấy lại lặng lẽ quay lại chiến trường. Câu chuyện đã ám ảnh nhà thơ đến mức hai năm sau khi có dịp quay lại chốn cũ, hỏi thăm đơn vị nữ thanh niên xung phong thì không còn ai biết đến nữa, còn hay mất thế nào, cũng chỉ còn lại những hố bom đọng nước với những khoảng trời xanh vời vợi. Từ sự ám ảnh và cảm xúc đó, Lâm Thị Mỹ Dạ đã viết nên bài thơ “Khoảng trời, hố bom”.
Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường
Ðể cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Ðánh lạc hướng thù. Hứng lấy luồng bom…
Ðơn vị tôi hành quân qua con đường mòn
Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái
Một nấm mộ, nắng ngời bao sắc đá
Tình yêu thương bồi đắp cao lên…
Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em
Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ
Ðất nước mình nhân hậu
Có nước trời xoa dịu vết thương đau.
(Khoảng trời, hố bom)
Cũng từ đó, sức nặng thành công của bài thơ “Khoảng trời, hố bom” làm cho độc giả thường xuyên gắn tên tuổi Lâm Thị Mỹ Dạ với bài thơ này, đồng thời tạo ra sức ép cho nhà thơ khi sáng tác. Nhưng rồi nhà thơ cũng bộc bạch với Bảo tàng Văn học Việt Nam khi cung cấp tư liệu cá nhân: thơ cứ tự nhiên đến, như là một món quà trời cho.
Không chờ đến khi đổi mới năm 1986, với những lời kêu gọi mở cửa, hòa hợp, hòa giải dân tộc, cũng không cần chờ đến những giao lưu văn học sôi động giữa hai nước Việt Nam và Mỹ ở thập niên 90, để sau đó đến năm 2000 Lâm Thị Mỹ Dạ viết bài thơ “Bức tường đen” nổi tiếng ghi lại cảm xúc đau cùng với nỗi đau của những bà mẹ Mỹ khi đứng trước Bức tường đen đặt tại Washington D.C, trên đó có khắc tên hơn 58 ngàn lính Mỹ đã tử trận trong cuộc chiến tranh Việt Nam, mà ngay từ tháng 1.1975, Lâm Thị Mỹ Dạ bằng sự nhạy cảm của trái tim phụ nữ, đã viết bài thơ “Khuôn mặt ẩn kính” với lời đề từ: “Gửi những người lính Mỹ bị điều động sang cuộc chiến Việt Nam và đã chết ở Việt Nam”
Tôi muốn làm con nai nhỏ
Chạy hoài dưới trời cỏ xanh
Đừng bắt tôi đi vào rừng rậm
Tôi sẽ hoá thành chó sói dữ dằn
(Khuôn mặt ẩn kính)
Người viết lời tình dịu dàng của thời bình
Người phụ nữ đi qua chiến tranh và thành danh nhờ một bài thơ về chiến tranh dường như không để những ám ảnh khốc liệt thời chiến trở đi trở lại trong thơ của mình. Chị quay về với cuộc sống đời thường, với chuyện tình yêu. Như nhiều nhà thơ nữ khác, Lâm Thị Mỹ Dạ viết nhiều về tình yêu. Bài thơ “Hái tuổi em đầy tay” với tứ thơ lạ “hái tuổi” làm khi nhà thơ tròn 24 tuổi đã được đưa vào nhiều tuyển tập thơ tình Việt Nam bởi sức trẻ mãnh liệt của tình yêu.
Ngắt một chùm hoa cỏ
Cho ngày sinh hôm nay
Anh bỗng thành nắng gió
Hái tuổi em đầy tay!
(Hái tuổi em đầy tay)
Theo thời gian, độc giả thấy tình yêu hồn nhiên, mơ mộng của cô gái trẻ đã bước qua những dằn vặt của thời thiếu phụ và khi đến tuổi lá thu vàng, thì tình yêu ấy gắn với những hy sinh, tình nghĩa. Nữ thi sĩ đi qua tình yêu với nhiều cay đắng, đơn độc, muộn phiền dù vẫn có một mái ấm gia đình và kết hôn với một nhà văn tài hoa. Lâm Thị Mỹ Dạ từng viết:
Cuộc đời em đơn thân đến nỗi
Chưa bao giờ em tựa vào anh
Và vì thế em âm thầm sống
Tựa vào chính mình trĩu nặng, đớn đau
Bao lời tiếng lấm lem bùn đất
Bao đêm trắng tơ giăng chóng mặt
Em tựa vào em – đơn độc quen rồi
Em tựa vào em – gắng vững giữa đời
(Cho anh tựa vào em)
Nhưng cuộc đời mà nhà thơ nhận là đầy “bão giông nghiêng ngửa” ấy đã phải quằn mình để tìm lại bình yên, làm chỗ dựa cho cả gia đình sau khi nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mắc bạo bệnh và không thể hồi phục lại. Nhà thơ ngày xưa chỉ biết tựa vào chính bản thân mình, đã tình nguyện trở thành điểm tựa ân cần, chăm sóc người chồng suốt hơn hai mươi năm nay, rời khỏi nhiều hoạt động xã hội để có thể toàn tâm toàn ý với tình yêu, tình nghĩa.
Bàn tay nâng em thành bảo mẫu
Nước mắt lặn vào trong cho anh thấy nụ cười
Bệnh tật lo toan giấu vào đêm trắng
Giữa tháng ngày trĩu nặng
Em đứng thẳng người
Cho anh tựa vào em
(Cho anh tựa vào em)
Nhưng sâu xa trong trái tim mỗi phụ nữ làm thơ, có phải với họ tình yêu là quyết liệt, là đi đến tận cùng, là dâng hiến tất cả? Họ không sợ tình yêu, họ chỉ không sợ tìm được người để họ yêu. Trong bài thơ “Không đề II”, Lâm Thị Mỹ Dạ có đề từ là “Tặng một thời thiếu nữ”, trong đó nhà thơ bộc lộ một tình yêu không toan tính, một tình yêu chỉ vì người mình yêu.
Cuộc đời em vo tròn lại
Và ném vào cuộc đời anh
Nó sẽ lăn sâu tận đáy cuộc đời anh
Sâu cho đến tận… cái chết
Trời ơi
Làm sao có một cuộc đời
Để cho tôi ném đời mình vào đó
Mà không hề cân nhắc, đắn đo
Rằng: cuộc đời ấy còn chưa đủ…
(Không đề II)
Có lẽ, cho đến giờ này, cuộc đời của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã đủ để trả lời cho tâm tư của chính mình: Đã có một cuộc đời để cho nhà thơ ném đời mình vào đó, dẫu là hạnh phúc hay bất hạnh thì đó vẫn là một cuộc đời của một con người. Điều quan trọng hơn cả là, dẫu đã vắt kiệt mình cho tình yêu, thì nhà thơ vẫn có thể thanh thản thổ lộ rằng dù cho đi tất cả nhưng không đánh mất chính mình.
Thưa rằng tôi vẫn là tôi
Mong manh một chút tơ trời mỏng tang
Mà sao không dứt không tàn
Lửng lơ giữa chốn trần gian lạ lùng
Kiếp tơ sao nặng quá chừng
Muốn dứt chẳng đặng, muốn dừng chẳng thôi
Thưa rằng tôi vẫn là tôi
Cây cau trăm đốt giữa trời còn xanh.
(Thưa rằng)
Và trong hoàn cảnh đời thường, với tình yêu, với bệnh tật, thuốc thang, nhà thơ vẫn đau đáu chuyện sáng tác, đau đáu để cho ngôn ngữ lên tiếng thay mình. Có lẽ tình yêu trong Lâm Thị Mỹ Dạ, thơ và người luôn phải gắn với nhau, dẫu là hạnh phúc hay bi kịch.
Tôi tự đóng khung trong căn nhà bé nhỏ
Chuyện đời thường
Chuyện bệnh tật, thuốc thang…
Những vùng đất chỉ còn trong trí nhớ
Trùng điệp cao nguyên
Xanh thẳm biển mơ màng…
Đi cuối đất cùng trời mới tìm ra ngôn ngữ
Ngôn ngữ thơ, đau đáu những đêm trường
Xin cảm nhận Người từ trái tim lên óc não
Để cho thơ đi trọn con đường…
(Bi kịch của riêng tôi)
Những triết lý thủ thỉ với mọi người
Nét dịu dàng, hồn hậu, xinh đẹp của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ khiến người ta nghĩ rằng cuộc đời chị chỉ là để viết những lời tình dịu dàng. Nhưng không hẳn thế, tuy vẫn giữ nét dịu dàng ấy, nhà thơ đã thủ thỉ những triết lý rút ra từ những sóng gió cuộc đời, với một trái tim từng bị tổn thương, nhưng rồi lại vẫn phải tự chữa lành để mà gắng sống. Bài thơ “Biển” của Lâm Thị Mỹ Dạ được nhiều người thuộc bởi triết lý dung dị này:
Biển ơi! Biển thẳm sâu
Dạt dào mà không nói
Biển ơi cho ta hỏi
Biển mặn từ bao giờ
Nhặt chi con ốc vàng
Sóng xô vào tận bãi
Những cái gì dễ dãi
Có bao giờ bền lâu
(Biển)
Và nhà thơ cũng có những chênh chao giữa cơm áo đời thường, với vật lộn mưu sinh, với thật giả ở mọi ngõ ngách của cuộc đời này.
Tôi đi qua cái thật cái giả
Nghe xót lòng một nỗi đắng cay
Thương cò trắng trắng mình đơn lẻ
Nguyên chất ơi,
khan hiếm thế đời này!?
(Nguyên chất)
Bài thơ “Tôi có bao nhiêu đêm trắng” là bài thơ được nhiều độc giả yêu thích qua nhiều thế hệ, bởi họ tìm thấy trong đó những suy tư của bản thân, dẫu buồn nhưng không bi lụy.
Tôi có bao nhiêu đêm trắng
Đâu phải chỉ một đêm
Cuộc đời trần gian ngắn lắm
Thức nhiều chắc được dài thêm.
Tôi có bao đêm trắng
Khổ đau, mơ mộng, giận hờn
Cuộc đời trần gian ngắn lắm
Sao người không thương người hơn.
Cuộc đời thì ngắn ngủi, sao con người lại không yêu thương lấy nhau để cuộc đời dài thêm?
Có ai đi qua mùa xuân
Cho tôi làn hương tinh khiết
Cho tôi cái nhìn xanh biếc
Xa xưa – tôi đánh mất rồi.
Đêm trắng hay đồng nghĩa với suy tư, thao thức. Có đêm trắng nào yên lành, hay chỉ có những đêm trắng với bao suy nghĩ làm rối lòng người.
Ước được vô tư như gió
Đêm trắng cũng như ban ngày
Không nghĩ suy, không thao thức
Yên lành như quả trên cây.
Nhưng cuộc đời vẫn cần những đêm trắng. Bởi có những đêm trắng mới hiểu giá trị của những đêm êm đềm mộng đẹp. Có đêm trắng mới hiểu giá trị của ánh nắng ban ngày. Có đêm trắng mới hiểu mình cần sự ấm lòng, dù chỉ là một chút.
Ước có bao đêm trắng
Được đem bán hết cho đời
Đổi về cho tôi vạt nắng
Ấm lòng đêm – một chút thôi.
Trong thời đại ngày nay, khi những đêm thức trắng là chuyện thường thấy ở mỗi con người, bài thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ như là một tiếng lòng đồng cảm, nói giúp cho rất nhiều người những nỗi niềm.
Người mẹ viết văn làm thơ cho các con cũng là cho độc giả
Là người phụ nữ của gia đình, người mẹ tràn đầy tình yêu thương với con cái, độc giả không ngạc nhiên khi thấy Lâm Thị Mỹ Dạ sáng tác nhiều văn thơ dành cho thiếu nhi. “Chuyện cũ tuổi thơ”, “Đãi thóc”, “Hạt mưa”, “Hoa”, “Một tuổi cho con”, “Thời tuổi trẻ bà đâu”… cùng rất nhiều bài thơ khác trong tập thơ “Mẹ và con” xuất bản lần đầu năm 1994 là những bài thơ viết bằng trái tim của một người mẹ dốc hết lòng vì con cái và không quên hướng con cái đến với những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Bài thơ “Truyện cổ nước mình” thường được nhắc đến như là một bài thơ tiêu biểu cho lứa tuổi nhỏ, ngày trước đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông chương trình tiểu học.
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì gặp người tiên độ trì...
Tôi nghe truyện cổ thầm thì
Lời cha ông dạy cũng vì đời sau.
Đậm đà cái tích trầu cau
Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người.
Sẽ đi qua cuộc đời tôi
Bấy nhiêu thời nữa chuyển dời xa xôi.
Nhưng bao truyện cổ trên đời
Vẫn luôn mới mẻ rạng ngời lương tâm.
(Truyện cổ nước mình)
Ngoài làm thơ cho thiếu nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ còn xuất bản một số tác phẩm văn xuôi dành cho các em như: “Danh ca của đất” (truyện thiếu nhi, 1984), “Nai con và dòng suối” (truyện thiếu nhi, 1987), “Phần thưởng muôn đời” (truyện thiếu nhi, 1987)… và đều được đông đảo độc giả nhỏ tuổi đón nhận.
“Đàn bà làm thơ trăm cái khổ”
“Đàn bà làm thơ trăm cái khổ” là một câu thơ trong bài thơ “Thân phận tơ trời” của Lâm Thị Mỹ Dạ.
Đàn bà làm thơ trăm cái khổ
Thẩm vào trong như cát chẳng thấy gì
Thẩm vào hết
Thấm vào cho òa vỡ
Cảm xúc thơ
Nức nở phận mây, tơ…
Đàn bà làm thơ trăm cái khổ
Thẩm vào trong như cát chẳng thấy gì
Góc khuất nào người đời không thấu được
Xin chia cùng cho bạn nhẹ chân đi…
(Thân phận tơ trời)
Phụ nữ làm thơ bao giờ cũng nhạy cảm, mong manh, mãnh liệt, buồn đau, hạnh phúc… hơn người bình thường. Có phải vì mọi sắc thái tình cảm đều hơn người bình thường nên nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã phải thốt lên: “Đàn bà làm thơ trăm cái khổ”? Nhưng nếu nhưng nỗi đau khổ ấy được kết tinh lại thành những lời thơ hay, đẹp, thì đó cũng là sự đánh đổi xứng đáng. Cũng có thể vì nỗi khổ của đàn bà làm thơ, nên Lâm Thị Mỹ Dạ từng viết ở độ tuổi còn rất trẻ những lời tiên cảm như thốt ra từ gan ruột:
Khi nào em còn thở
Ngày sinh còn ra đi
Đến tận cùng ngày chết
Như một khoảng lạ kỳ
Ngỡ như ta đã sống
Ở thế giới nào kia
Yêu trái đất ghé lại
Rồi ngày mai chia xa
(Hái tuổi em đầy tay)
Nhà thơ ví mình vốn ở một thế giới nào đó không ưu không phiền, vì yêu trái đất nên mới ghé lại, mới đau khổ. Nhưng nhà thơ không nuối tiếc điều đó, cũng không sợ đau khổ, cũng không sợ chia xa…, bởi vì yêu. Với tâm thế ấy, một đời thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ đã chia xa độc giả và chắc sau những đau buồn, sẽ không ai nuối tiếc nhiều, bởi vì nhà thơ đã kịp để lại cho độc giả nhiều bài thơ còn mãi với thời gian.
24/12/2023
Hà Thanh Vân
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thơ có cần thiết cho đời sống? 10 Tháng Ba, 2023 Trong kỷ nguyên nghe nhìn, thơ đang có khoảng cách với đời sống. Độc giả thèm khát nh...