Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024
Thương nhớ sông quê
Thương nhớ sông quê
Con sông Nông Giang bắt nguồn từ sông Chu tại xã Xuân Bái huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa. Sông chảy qua thành phố Thanh Hóa dài quanh co uốn lượn ôm mình vòng qua phố xá. Sông chảy qua đời tôi từ thưở ấu thơ để đến bây giờ ở một nơi rất xa lòng tôi khôn nguôi nỗi nhớ về sông. Xa quê đã hơn 20 năm, bao lần về thăm quê nhưng nhà tôi đã không còn ở chỗ cũ nữa nên tôi cũng không tiện về thăm sông. Nhưng lần này, một người bạn từ thuở ấu thơ đã giúp tôi tìm lại những kỉ niệm thời niên thiếu với dòng sông quê hương.
Thương lắm chiếc ghe hàng sông quê
Thương lắm chiếc ghe hàng sông quê
Nhớ hồi nhỏ, nhà tôi nằm sát bến sông, nơi đó có chiếc ghe
hàng của má, đã gắn liền với tuổi thơ tôi qua biết bao kỷ niệm. Tôi hay gọi vui
là cái siêu thị mini hoặc chính xác hơn là tiệm tạp phô vì trên ghe cái gì cũng
có. Từ thịt, cá, rau cải, tương, chao, mắm, muối, bánh, kẹo, các loại gia vị,…
đến cây kim, cuộn chỉ, quyển tập, giày dép.
Ngày nào cũng vậy, cứ gà gáy tinh mơ là má tất tả dậy sớm để
lo sắp xếp hàng hóa trên ghe, từ mũi đến lái không thiếu thứ gì. Ngoài trời còn
chưa sáng, đôi chân má nhẹ nhàng bước đi vì không muốn làm tôi thức giấc. Má sải
bước thật khẽ xuống ghe hàng, chèo thật nhanh để kịp trời sáng, cho bà con
trong xóm mua đồ chuẩn bị ra đồng.
Những hôm trời mưa lớn, má vẫn khoan thai chèo cái ghe hàng
trong mưa gió, chiếc nón lá rách mà má vẫn đội hoài không chịu bỏ. Má nói “Nhà
mình nghèo, tiết kiệm được cái nào hay cái ấy, đặng còn có cái lo cho bây ăn học.”
Chiếc ghe hàng nhỏ nhiều năm qua đã cùng má chở hàng đi khắp mọi ngõ ngách trên
những kênh rạch chằng chịt ở thôn quê.
Việc nhà, việc buôn bán, dù có vất vả đến đâu má cũng chẳng
bao giờ than trách nửa lời.
Có những ngày trời nắng chang chang, má mặc chiếc áo bà ba đã
sờn vai, cũ kỷ mà tôi chẳng còn nhớ má may hồi nào. Tôi hay gọi đó là “cái áo
thập kỷ”. Đôi tay má vẫn chèo thoăn thoắt trên con sông quê nhà, đến chỗ nào
đông nhà dân, má cất tiếng rao: Ghe hàng đây! Ghe hàng đây!…. lời rao của má
như in sâu trong ký ức tuổi thơ của những đứa trẻ từng sống ở thôn quê như tôi.
Những ghe hàng trên sông quê không biết xuất hiện từ khi nào,
nhưng khi tôi lên 5- 6 tuổi đã thấy những chiếc ghe hàng này xuất hiện gần như
mỗi ngày trên con sông nhỏ chảy êm đềm vắt ngang ngõ nhà tôi…Má tôi cũng theo
đó, hành nghề ghe hàng buôn nẻo sông quê. Chuyện buôn bán cũng thật chân chất,
mộc mạc, không hề có nói thách hay trả giá, mà đan xen vào đó là tiếng nói cười,
những lời thăm hỏi, sẻ chia đầy ắp chân tình.
Trước đây, quê tôi là vùng quê nghèo, đường sá đi lại khó
khăn. Để ra đến chợ huyện mất hơn một tiếng đồng hồ. Nhờ những chiếc ghe hàng
như má tôi mà bà con trong xóm được sử dụng thực phẩm tươi ngon, phục vụ đắc lực
việc sinh hoạt và sản xuất của người dân nông thôn. Còn tôi, ghe hàng gắn liền
với những kỷ niệm đẹp, gợi thương, gợi nhớ. Những hôm nghỉ học, cứ năn nỉ má
cho theo ghe hàng đi bán, chỉ vậy thôi mà trong lòng tôi mừng vui khôn tả, để
xin má cho cục kẹo mè đen, bịch cốm có hình các ca sĩ, diễn viên đẹp. Có hôm
tôi chẳng xin má thứ gì đơn giản chỉ để nhìn ngắm đồ đạc treo lủng lẳng trong
ghe mà thích thú vô cùng.
Đã qua bao mùa nước nổi, chiếc ghe hàng đã gắn liền với má,
cùng má băng qua những cánh đồng ngập nước, qua những cây cầu khỉ bắt
ngang kênh lớn.
Năm tháng đi qua, má giờ đã già hơn xưa, chiếc ghe hàng má
cũng cho lui về “nghỉ hưu”. Những chiếc ghe hàng bồng bềnh trên sông nước quê
tôi vẫn còn hiện hữu. Thi thoảng nghe tiếng rao hàng, tôi giật hình như chạm
vào miền ký ức khát khao xưa, đó mãi mãi là hình ảnh đặc trưng đẹp nhất của miền
sông nước Cửu Long.
6/12/2021
Diệp Linh
Theo https://vanhocsaigon.com/
Hương của núi rừng
Hương của núi rừng
Mỗi buổi sớm thức dậy, khi ông mặt trời lấp ló sau rặng tre
cuối vườn, mấy con chim chào mào đít đỏ đang rủ nhau uống những hạt sương còn đọng
trên vòm lá trẩu lích chích sau nhà. Cũng là lúc cha khoác chiếc túi thổ cẩm
lên vai, lùa đàn trâu dưới sàn nhà lên núi. Tiếng mõ trâu lục cục vang lên rồi
nhỏ dần theo con đường mòn dẫn về phía sau bản.
Con thích nhất khi vào hè, vì lúc ấy con được nghỉ học, thay
cha lên núi chăn trâu. Mùi trâu nồng nồng ngai ngái theo con suốt dọc con đường
đất nhỏ. Đường càng đi lên càng dốc, con phải bám ghì vào lưng con trâu đực to
nhất. Có những lúc vớ được bụi cỏ voi ven đường, con nghé con nghịch ngợm háu
ăn dừng lại, lia lưỡi choàm choạp ngấu nghiến. Con lại phải xuống đất chạy ra
mà hô “é ọ.. é ọ… ” nhiều khi nghé con nổi tính bướng, con phải bẻ ngay roi tre
ven đường mà vút nhẹ vào mông nó mới chịu chạy theo đàn.
“Ai bảo chăn trâu là khổ? Chăn trâu sướng lắm chứ?”. Có lẽ niềm
vui của lũ trẻ chăn trâu cắt cỏ ở nơi nào và thời nào cũng giống nhau. Chỉ khác
ở cách tạo ra những niềm vui ấy. Ở dưới xuôi có đánh trận giả, đổ lỗ dế, bắt cá
cua trên đồng. Ở mạn ngược thì bọn trẻ lại dựng lều trại bằng cây cỏ bên những
bụi sim, tìm nho rừng, chuối rừng bên những khe núi, bắt cá bống trong những
vũng suối đầy những cát, với dòng nước trong vắt, chảy xiết qua những hòn đá cuội
gập ghềnh. Con còn nhớ mùi cá bống nướng thơm phưng phức, thịt trắng, mềm và ngọt,
mấy đứa chụm đầu với mớ tóc cháy nắng hanh hao xúm xít tranh nhau ăn bên mùi
hương cỏ non thơm mát.
Bọn con hay lấy quả của cây màng tang nhồi vào chiếc súng tự
chế bằng ống tre, bắn ra tiếng nổ “đoàng đoàng” vui tai. Quả màng tang có mùi dầu
hăng hắc, nhựa màng tang dính vào quần áo thì tẩy không ra, nhưng cây màng tang
qua tay mẹ lại thành vị thuốc. Mẹ lấy lá màng tang đem phơi khô để dùng dần trị
bệnh ngoài da, mụn nhọt. Mẹ bảo rễ cây màng tang còn dùng để trị bệnh nhức đầu,
đau dạ dày, đau xương khớp. Bây giờ, qua mạng internet con được biết người ta
còn nghiên cứu chiết xuất tinh dầu từ quả màng tang để pha chế thuốc xoa bóp,
dùng cho kỹ nghệ sản xuất nước hoa và kỹ nghệ hương liệu.
Nếu được hỏi mùi gì khiến con yêu quý nhất, thì đó chính là
mùi chàm trên vai áo mẹ. Mùi chàm nhuộm vải đã theo con từ khi mới lọt lòng được
quấn tã, bọc chăn địu trên lưng mẹ, theo mẹ đi làm trên đồi chè, nương lúa. Khi
lớn lên con cũng được theo mẹ đi hái cây chàm thường mọc khắp bên những khe suối.
Cây chàm thân gỗ, có lá kép lông chim màu xanh nhạt, hoa mọc xen kẽ với lá
thành từng chùm màu hồng. Khi nhuộm lên vải ra màu xanh lục và thơm mùi của cây
chàm. Nhuộm xong rồi mẹ lại khéo léo khâu áo cho cha, khâu túi đựng sách cho
con đi học, rồi thêu những họa tiết truyền thống làm thành những bộ váy áo sặc
sỡ, đẹp đẽ cho chị. Có lẽ mùi chàm cũng gây thương nhớ, tạo cảm hứng cho nhiều
tác giả đưa áo chàm vào những áng thơ văn: “Áo chàm đưa buổi phân ly/ Cầm tay
nhau biết nói gì hôm nay?” (Việt Bắc – Tố Hữu).
Cha thường bảo, với những du khách lần đầu đến với Tây Bắc,
hương vị khiến họ cảm nhận rõ rệt sự khác biệt với những nơi khác là ở văn hóa ẩm
thực. Thứ tạo ra hương vị đậm đà trong từng món ăn nơi đây, bí quyết chính là ở
gia vị, từ lá tới quả rừng. Này nhé, lá mắc mật để ướp trong thịt nướng, quả mắc
khén (được ví như hạt tiêu của người Tây Bắc), hạt dổi ngoài làm gia vị ướp thịt
cá còn để làm nước chấm vừa cay, vừa thơm nồng một hương vị đặc biệt, ăn một lần
sẽ nhớ đến suốt đời. Thảo quả ngoài là một vị thuốc, dược liệu quý còn là một
loại gia vị không thể thiếu trong ẩm thực Tây Bắc. Thảo quả có mùi thơm, ăn có
vị vừa cay vừa ngọt thường dùng để ướp gia vị, làm nhân bánh chưng, …
Nhưng với con mùi hương quyến rũ nhất núi rừng có lẽ là mùi
nước gội đầu của chị. Từ đầu giờ chiều, chị đi hái lá tre, lá hương nhu, nhổ
cây hoa cứt lợn, cắt lá xả, hái lá chè xanh, lá bưởi và không thể thiếu được quả
bồ kết đã nướng qua than hồng. Gội đầu xong, chị đứng đầu nhà hong tóc ướt, mùi
hương ngan ngát bay ngập nhà trong, thơm nồng nàn dịu ngọt. Cũng nhờ nồi nước gội
đầu “thần kỳ” ấy mà tóc chị đen lay láy, óng mượt chảy dài như suối đến tận
kheo chân.
Những mùi hương sinh ra từ núi rừng, quyến luyến con người đã
từng sinh sống ở nơi đây. Những mùi thơm từ cây cỏ, từ mùi chàm trên quần áo
truyền thống, mùi hương từ trên suối tóc của thiếu nữ vùng cao vẫn mãi in đậm
trong trái tim người con của quê hương Tây Bắc dù có đi đâu, làm gì và bao xa vẫn
luôn thương nhớ về nguồn cội.
7/12/2021
Đặng Thùy Tiên
Theo https://vanhocsaigon.com/
Ngày khởi nguyên cho những đam mê
Ngày khởi nguyên cho những đam mê
Ban mai đang rực hồng! Cuộc sống vẫn đang mở ra từng ngày dẫu
đại dịch Covid ngoài kia vẫn còn đang đe dọa! Những vệt sương như xanh hơn sau
một đêm đất trời vừa ân ái sau những cơn mưa thu! Vẻ đẹp khởi đầu cho một ngày
mới tôi nghe thấy chính là những thanh âm trong trẻo và tiếng lảnh lót đầy rạng
ngời của lũ chim! Nghe những tiếng hót lích chích, líu ríu tươi vui và náo nức
lúc ban mai, người ta bỗng thấy lòng mình như thư thái hơn, yêu đời hơn! Những
thanh âm trong vắt và tươi sáng tựa như giai điệu của một bản nhạc giữa thiên
nhiên hoang dã, rực rỡ và lung linh! Tôi vẫn đang nhìn thấy cả bầy chim ấy,
chúng đang đập cánh bay lên trong ký ức tuổi thơ của mình.
Lũ chim thật đáng yêu. Chúng hót như chưa từng được hót.
Chúng yêu như chưa từng được yêu. Chúng bay như chưa từng được bay! Chúng đang
là chủ nhân của những vòm cây xanh kia và cả khu vườn rộng lớn này. Khu vườn tốt
tươi có nhiều cây lá đang được chúng đánh thức bằng những tiếng hót nghe lanh lảnh.
Cả những tiếng tu huýt, lích chích, tinh tinh, chip chíu, khẹc khẹc, thật rộn
ràng…ngay vào lúc còn sớm tinh mơ. Không chính xác đó là những tiếng chim gì,
tôi chỉ lắng nghe tiếng chúng đang ríu ran gọi nhau sau vòm lá. Chúng đang vô
cùng vui vẻ, an nhiên, hạnh phúc tưng bừng náo nhiệt. Sự háo hức vỗ cánh, sự
yêu đương cho những mùa sinh sôi vẫn đang rộn rã mà không cần phải giấu diếm.
Chúng đang chụm mỏ lại và âu yếm gọi mời nhau trong giấc mơ phồn sinh.
Sự sống đang dâng trào trên mặt đất này với khúc hoan ca đầu
ngày. Sự sống vốn luôn là những dòng chảy bất tận không ngừng nghỉ trên mặt đất
này. Luôn cuồn cuộn, mỡ màng, căng nức, luôn ào ạt, náo nức, phồn sinh. Những đất
đai, những dòng sông, những cánh rừng, những cây cối, những bãi bờ, những người
nông dân cùng với mùa màng, cây cỏ…Tất cả cũng đang nâng cánh cho những bầy
chim. Có thể chúng sẽ bay đi ngay sau những phút rộn ràng ân ái. Bầu trời cao
xanh và mặt đất ấm nồng này luôn là thế giới của chúng. Những cánh bay kia có
thể sẽ bay đi tít xa, tới tận nơi không còn biên giới nữa. Tôi những mong sao
cho đến một ngày, chúng vẫn biết đường quay về!
Tiếng hót âm vang, lảnh lót và quyến rũ quá chừng! Rất có thể
chúng sẽ bị người đời và những kẻ ghen ghét sẽ luôn ghen tỵ và tìm cách vùi dập.
Có những tiếng hót âm vọng vút lên sẽ chợt tắt nửa chừng. Dẫu sao thì lũ chim
kia chúng vẫn đã từng được hót, chúng vẫn từng yêu và chúng vẫn cứ thản nhiên
mà hạnh phúc như không hề có cuộc chia ly. Chúng hót lên bằng hơi thở, bằng nội
lực và tiếng ca giọng hót của chính mình! Chúng thậm chí không quan tâm đến việc
bị ghen ghét. Chúng là những nghệ sĩ đích thực khi thích được sống hết mình, sống
giản dị, được tự do dưới bầu trời và trên mặt đất.
Dẫu mùa Xuân và mùa hạ đã đi qua, cái se se trong hơi lạnh
heo may khi thu về dễ làm cho người ta buồn nhớ. Một mùa thu đang về khi người
ta nhìn ngắm sắc màu của những chiếc lá. Bởi dưới những vòm cây kia, những chiếc
lá đã bắt đầu lớm chớm ngả vàng. Một làn miên hương lạ lùng thơm ngát vừa đi
ngang qua. Thứ hương thơm ấy sẽ được ướp thơm vào trong làn da và mái tóc của bạn
ngay trong khoảnh khắc ấy, ở chính nơi ấy. Liệu bạn có thực sự cảm nhận được điều
đó hay không?
Một ngày mới đang dần đến! Sẽ có bao điều thay đổi, có nhiều
thứ tốt đẹp xung quanh ta nhưng cũng vẫn còn không ít những nỗi lo lắng về đại
dịch và đời sống. Sau một đêm bạn được ngon giấc hay thậm chí là một đêm khá mệt
mỏi vì trằn trọc, vì mất ngủ. Dẫu cho thế nào, những tia nắng ban mai vẫn cứ hừng
lên rực rỡ và trong trẻo! Ban mai vẫn cứ đẹp như nó vốn có mặc cho những nỗi lo
lắng của con người về đại dịch vẫn chưa khi nào được an yên. Vũ trụ ngoài kia
và thiên nhiên tươi đẹp, sự trong lành thật hiếm hoi xung quanh chúng ta vẫn
luôn là những điều mơ ước, luôn là những bí ẩn đầy thú vị và thách thức loài
người!
Bạn mừng vui hay buồn nản thì trái đất vẫn cứ quay với những
vòng nối tiếp đêm ngày của tự nhiên và những kiếp luân hồi. Khi bạn yên lặng ngồi
tập thiền trước vũ trụ và bạn tập lắng nghe hơi thở trong tâm mình là lúc bạn
đang làm quen với mọi sự buông bỏ. Hãy lắng nghe chính bạn! Liệu trong tâm
chúng ta có đủ sự an tịnh, trong lòng chúng ta có đủ niềm tin và cả sự thứ tha
rộng mở. Khi nào thì cần hội tụ đủ trong tim mình sự rung cảm để nhận ra những
vẻ đẹp của đời sống xung quanh ta một cách đầy an nhiên?
Thế giới rộng lớn ngoài kia vẫn đang tiềm ẩn vô vàn những
bóng tối và ánh sáng, những bí mật thú vị đang cần chúng ta khám phá? Sự quyến
rũ lộng lẫy của những ban mai, của bầu trời, sự biếc xanh của cây lá, sự chiếu
rọi lấp lánh của ánh mặt trời nồng ấm hay là sự im lặng, lắng nghe tiếng thở rất
khẽ của những cánh hoa hàm tiếu đang rung rinh ? Bạn hãy nhắm mắt lại và lắng
nghe tiếng thở của chính mình, của vũ trụ, sẽ thấy sự lắng sâu của thiên nhiên,
của đất trời và tất nhiên cuối cùng là cảm nhận được sự lắng sâu của lòng người!
Những tia nắng đầu ngày thật trong trẻo và dịu dàng! Những
tia nắng khởi nguyên cho một ngày mới đang chiếu rọi lấp lánh. Những giọt
sương trong như ngọc kia đang tan chảy trên những cánh hoa hay trên từng vòm
lá! Những giọt sương ấy đã chịu đủ giá lạnh trong đêm qua để sớm nay dâng đời sự
trong trẻo và long lanh. Phải thế chăng mà những thi nhân tài hoa muốn soi mình
vào từng chiếc lá để gắng tìm thấy những kiếp phận người ! Người ta cũng muốn
soi vào từng giọt sương trong vắt kia để có thể sẽ nhìn thấy cả mặt trời!
Sự sống của thế gian và của mỗi con người đều linh thiêng
trong phút khởi đầu ! Ban mai đang mở ra một ngày mới ! Tiếng ban mai sẽ cất
lên trong muôn niềm yêu thương, trong sự giao hoà quấn quện của vũ trụ và lòng
người. Mong sao mỗi chúng ta cứ được sống trong an hoà, gần gũi với thiên
nhiên, người ta cứ sống thoải mái, giản dị, nhưng sẽ sống đầy mê đắm. Khi ấy,
con người ta sẽ chẳng cần đến mấy thứ danh xưng ồn ào mà trống rỗng làm gì, bởi
chẳng có gì hạnh phúc hơn là ta được sống thật với chính lòng mình.
Thật tuyệt khi chúng ta đang ở đây. Bạnđược sống, được tự do
hít thở, được cảm nhận cả sự giản dị tươi sáng và cảm nhận được phút khởi
nguyên trong lành ngay giữa lòng mẹ thiên nhiên. Sự sống hài hoà cùng thiên
nhiên đang lan tỏa trong tâm ta, trong thân xác ta,trong sự giản dị, bao dung
và lòng nhân ái. Những tiếng hót trong vắt và hồn nhiên lúc ban mai đã khởi nguồn
cho bao nhiêu đam mê và sáng tạo. Những tiếng hót ấy đang vang ngân trong chính
tâm hồn bạn!
Thật tiếc khi chính con người lại đang đánh mất đi những vẻ đẹp
ấy. Ta mong muốn được an nhiên, thư thái trong sự yêu thương giản dị. Soi vào
cuộc sống này để nhìn thấu từ ngay trong sâu thẳm nội tâm của chính mình. Khi
người ta hướng về bản thể, ta sẵn sàng tha thứ cho chính ta, cho người khác hay
sẵn sàng buông bỏ lại phía sau lưng mình tất cả mọi thứ bon chen xô bồ.
Những thứ đố kỵ, tranh giành, những sự tham lam phù phiếm…sẽ không còn chỗ
trong ta ! Nhìn cuộc đời ngoài kia đang dần trôi qua với sự trân trọng, lòng biết
ơn dẫu còn có nhiều nỗi vất vả và thậm chí còn cả những bất an vây quanh.
Tuổi trẻ của bạn, của tôi cứ sầm sập đi qua mà chúng ta nhiều
khi quên mất. Bởi ta vẫn còn mải mê chạy theo những thứ vật chất và hư danh. Liệu
chúng ta còn kịp ngoái lại để ít nhất cũng được thư thái mà sống chậm hơn khi
nhìn ngắm một ban mai đang mở ra rực rỡ ? Cuộc sống bộn bề với những lo toan,
mưu tính, lòng tham, sự tất tả cho cuộc mưu sinh cứ làm người ta trở nên phải sống
vội, sống gấp, sống qua quýt,sống lạnh nhạt. Nhiều người trở nên quá thờ ơ, thờ
ơ đến vô cảm, vì sống quá vội, sống gấp nên tự đánh mất niềm vui của chính
mình.
Ngoài kia, vẫn là cả một vùng trời bao la, một vùng đất rộng
lớn và cả một miền thiên nhiên với trời xanh mây trắng suốt bốn mùa đang chuyển
động. Vũ trụ đang mở ra như bông hoa khổng lồ, đang xòe hoa kết trái. Mọi thứ
đang sinh sôi và cũng tàn phai từng ngày ngay ở đây, ngay xung quanh mình ! Dẫu
cho thế nào thì bầu trời kia vẫn cứ cao xanh! Bởi thế, bạn vẫn có quyền chọn lựa
cho mình những sự khởi nguyên trong trẻo. Ngoài kia, mẹ thiên nhiên đang khởi
lên những nguồn năng lượng sáng tạo vô tận của đam mê.
Sự khởi nguyên nào, dù ở đâu cũng đều tinh khôi và trong trẻo.
Đó là những sự khởi đầu đẹp đẽ cho một ngày, cho một người, cho một đời, cho một
niềm đam mê, cho một vùng đất mới ! Rung động và xao xuyến trước những vẻ đẹp
thiên nhiên cũng là niềm xao xuyến trong tim với chính bạn, với cuộc đời, với
vũ trụ, với con người. Sự rung động, sự đam mê, sự run rẩy ấy cũng say đắm tựa
như khi bạn được nhìn thấy một nụ cười đầu tiên và bắt gặp ánh mắt đầu tiên,
khi bạn biết yêu từ cái nhìn đầu tiên ! Bạn sẽ bắt tay vào làm ngay một công việc
mà mình yêu thích trong sự bừng thức, sự ngỡ ngàng với chính mình.
Ngày mới khởi nguyên cho những đam mê! Đó là ngày mà trong bạn
có một ban mai đang mở ra với vẻ đẹp lộng lẫy. Một ngày mà bạn nhìn đâu cũng thấy
vui, nhìn ai cũng thấy tràn đầy biết ơn và thương mến ! Một ngày sẽ làm ấm áp
hơn cả những trái tim giá lạnh nhất và sưởi ấm tâm hồn của họ. Đó là khi sự tự
do, sự khao khát, sự an bình, sự tĩnh tâm đã được bạn nâng niu một cách trọn vẹn.
Bạn đã cảm nhận được hơi thở và sự ấm áp của vũ trụ xung quanh mình. Bao nhiêu
thứ năng lượng tốt đang được tỏa rạng và bạn thấy sung sướng thực sự khi được
hít thở đến căng lồng ngực mình những nguồn sinh khí tươi mát. Nghe hơi thở nhè
nhẹ của vũ trụ và nhắm mắt lại để tự chiêm ngưỡng những vẻ đẹp bí ẩn, lắng nghe
sự sâu lắng và mơ thấy ánh sáng rực rỡ của ban mai !
Hà Nội, 8/9/2020
Phạm Thị Phương Thảo
Nguồn: Rút trong tập tản văn mới in “Phụ nữ và những mùa
covid”, NXB Hồng Đức 12.2021
Theo https://vanhocsaigon.com/
Những mùa thị đã qua
Những mùa thị đã qua
Sáng nay trên đường về nhà bố mẹ, ngang qua ngõ nhỏ, tôi gặp
một bà cụ lưng đã còng, tay bê một rổ thị vàng ươm.
Tôi vội dừng xe:
– Bà ơi, bán cho cháu mấy quả thị!
– Đây cháu! Cây thị mật nhà bà đấy, thơm lắm, ngọt lắm!
– Vâng! Để cháu chọn ít quả!
– Lấy thêm mấy quả nữa này cháu! Rồi cho bà xin 10 ngàn.
– Sao bà lấy rẻ vậy ạ?
– Ôi! Rẻ đắt gì hả cháu? Của nhà bà mà! Bưa nay may có đứa
cháu chịu khó hái cho mà đi bán đó cháu ạ! Chứ không để thị rụng khắp vườn, bà
thấy không đành!
Đưa túi thị cho tôi xong, bà tại tiếp tục những bước đi nặng
nề về hướng chợ. Nhìn bà tôi thấy rưng rưng! Vì nhớ hình ảnh bà ngoại, vì cái sự
“không đành” của bà với những quả thị và vì… nhớ tuổi thơ!
Quê tôi đất chật người đông, lại là dân vùng biển nên thói
quen trồng cây ăn trái cũng không nhiều như vùng khác. Nhưng không hiểu sao,
quê tôi hồi ấy thị được trồng khá nhiều. Đến bây giờ tôi và bạn bè cùng lứa có
thể đọc vanh vách tên của những nhà có cây thị. Nhà bà ngoại tôi cũng có một
cây thị khá to, hàng xóm xung quanh cũng có những cây thị sum sê không kém. Trường
tôi học lại gần đó. Vậy nên, đến mùa thị, lớp học rồi áo quần chúng tôi như được
ướp trong hương thị ngọt ngào vì đứa nào cũng cố gắng mua hoặc xin mấy quả thị
để đưa vào lớp. Rồi những quả thị ấy lại theo chúng tôi về nhà. Có đứa thì
thích vân vê quả thị cho thật mềm rồi ăn – vì thị cũng rất ngọt, có đứa thì chỉ
thích đặt nó ở bàn học để mà hít hà cái mùi hương chẳng thể giấu đi đâu ấy. Giữa
đêm, trong giấc ngủ chập chờn, trong những cơn mộng mị của lũ trẻ, có những câu
chuyện ma đầy ám ảnh, có những trò chơi, có tiếng í ới gọi nhau, có bà Tiên tóc
trắng, có cô Tấm thảo hiền, có mùi thị vấn vít… Cứ thế, những quả thị ngọt lành
đi cùng tuổi thơ vừa êm đềm vừa dữ dội của chúng tôi.
Thị thường chín rộ vào độ cuối tháng 6 rồi kéo dài sang tháng
tận tháng 7, tháng 8 âm lịch. Và trên mâm cỗ cúng Lễ Vu Lan rồi rằm tháng 8 của
quê tôi hồi ấy ngoài chuối, bưởi, na, ổi… tôi còn thấy màu vàng nổi bật của những
quả thị. Mùi thơm của thị quyện với mùi thơm của hương trầm tạo nên một mùi
hương không thể trộn lẫn, nó ám ảnh tôi đến tận bây giờ. Nó đặc quyện, đậm đà
như chính tấm lòng hiếu nghĩa của những đứa con, đứa cháu với mẹ cha, tiên tổ.
Mùi hương ấy, tôi cứ thích gọi là hương quê!
Khi những quả thị chuyển từ xanh sang vàng như những nốt nhấn
trên những cành cao cũng là mùa thu tới. Màu vàng hươm của quả thị như tiếng gọi,
như đồng điệu với những vạt nắng thu đang dạo chơi trên khắp đường quê. Màu
vàng ấy tôi gọi là màu thu, mùi hương ấy tôi gọi là hương mùa thu. Thu của vùng
quê biển. Nếu thu của những làng bên là mùi lúa chín ngọt lành, mùi bưởi thơm
náo nức thì quê tôi chính là mùi hương ngọt ngào, đặc quyện của những quả thị!
Với nhiều người, nhất là những người sinh ra từ làng nhưng sống
ở phố hoặc xa xứ, nó trở thành mùi của kí ức, mùi của tuổi thơ, mùi của quê
hương, mùi của mùa. Người nào còn vấn vương với mùi quả thị là những người vẫn
nặng lòng với quê, vẫn còn muốn trân trọng, nâng niu những cái gì đã thành miền
thương nhớ nơi thôn quê bình dị. Và tôi thấy mến thương thật nhiều những con
người như thế!
Bây giờ, cứ mỗi độ thu sang, khi những quả thị khoác trên
mình màu vàng như nắng cũng có nghĩa là mùa thu đang độ ngọt. Trên những nẻo đường
quê, mùi thơm ngọt ngào của thứ quả đặc biệt ấy như níu những bước chân qua. Bọn
trẻ vẫn tung tăng đi học, vẫn cười nói rổn rảng. Liệu trong vô số những đứa trẻ
đi qua mùa thu ấy, đi qua mùa thị ấy có đứa nào chưa từng được đắm chìm trong
mùi hương quả thị? Trẻ ở phố chắc không thường xuyên, trẻ ở quê thì cũng có vẻ
ít dần đi khi bố mẹ chúng không để ý, khi chúng có nhiều trò vui.
Nhưng tôi tin, hương quê vẫn còn đó dù nó có phần nhạt nhòa.
Hương thu vẫn còn đó dù lòng người có chút hững hờ, thoáng qua!
Tự dưng thấy nhớ… những mùa thị đã qua!.
9/12/2021
Hương Nguyễn
Theo https://vanhocsaigon.com/
Những người giữ hồn thiêng sông núi
Những người giữ hồn thiêng sông núi
Đường về Lam Kinh như một tấm lụa dài, đồng ruộng, cây cối
xanh ngát. Gần một tiếng đồng hồ ngồi ô tô, cuối cùng tôi cũng đến khu di tích.
Vừa đặt chân xuống xe, tiếng reo rắt của chim chóc, tiếng xào xạc của lá cây và
cả tiếng lóc phóc phát ra từ đâu đó của những quả cây chín rụng xuống tấm thảm
thiên nhiên nơi đây vọng lại. Mỗi lần tôi đến Lam Kinh là mỗi lần trong tôi lại
có những xúc cảm khác nhau, nhưng thú vị nhất vẫn là được tận hưởng không khí
và quang cảnh Lam Kinh khi vào thu. Một chút gió, một chút lạnh thoang thoảng,
trời xanh cứ se sắt quyện vào hơi thở cổ kính, trầm mặc và thiêng liêng của Lam
Kinh khiến tôi nao lòng. Tôi hiểu tại sao Lam Kinh ngày càng là điểm thu hút của
khách thập phương, đồng thời, là nguồn cảm hứng vô tận cho văn nghệ sĩ.
Khu di tích lịch sử Lam Kinh tọa lạc trên diện tích hơn 200
héc ta, thuộc địa phận huyện Thọ Xuân. Thế đất nổi lên hình chữ Vương, thoai
thoải như mai rùa. Đây là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sinh ra anh hùng dân
tộc Lê Lợi và là nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh
trong mười năm ròng rã (1418-1427). Sau khi lên ngôi Hoàng đế (1428) ở Đông Đô
(Thăng Long – Hà Nội), đến năm 1430, Lê Lợi đổi Lam Sơn thành Tây Kinh (hay còn
gọi là Lam Kinh). Sau khi Lê Thái Tổ băng hà, vua Lê Thái Tông lên ngôi đã cho
xây dựng điện Lam Kinh. Ban đầu điện Lam Kinh được xây dựng quy mô nhỏ, chủ yếu
là khu “Sơn Lăng” (nơi an táng thờ cúng tổ tiên, các vua và hoàng hậu thời Lê
sơ). Sau này, để phục vụ cho vua và hoàng hậu mỗi năm về thăm quê hương, bái yết
sơn lăng, qua thời gian điện Lam Kinh dần được mở rộng, quy mô lớn và bề thế
hơn. Hiện nay, khu lăng mộ vua Lê Thái Tổ nằm trên đỉnh đồi hình mai rùa.
Nếu có dịp về Lam Kinh vào mỗi độ trung tuần tháng tám âm lịch,
chúng ta được bước vào một không gian của lễ hội, những bước chân rậm rịch của
người dân, tiếng nhạc rộn rã của những điệu múa Xuân Phả, sắc màu tươi tắn của
trang phục tràn ngập trên mọi nẻo đường. Tất cả đang bận rộn cho ngày “giỗ
vua”. Lại nhớ cách đây năm năm, trong một lần công tác, tôi có dịp ghé qua Lam
Kinh, lúc ấy con đường qua huyện Triệu Sơn đang trong thời gian thi công nên gồ
ghề, cứ xốc lên, xốc xuống. Lam Kinh khi ấy là những công trình, ngổn ngang vật
liệu xây dựng và những viên gạch lát sân rồng nặng hơn 20 kilogam xếp thành
dãy. Thái Miếu cũng vừa dựng xong, chưa được đặt đồ thờ. Nhưng giờ đây, trước mắt
tôi khung cảnh kỳ vĩ với đường dẫn lát đá phẳng phiu, Thái Miếu vương vít mùi
khói hương. Vẫn đó những cây cổ thụ với tầng tầng tán lá xòe rộng lừng lững, trầm
mặc và giờ đã vinh dự mang tên cây di sản. Những câu chuyện ở Lam Kinh trở
thành huyền thoại vừa hư, vừa thực. Tôi được anh Trịnh Đình Dương – Trưởng ban
Quản lí di tích dẫn đến Chính điện Lam Kinh đang được phục dựng. Tôi ngỡ ngàng
với những cây cột cái phải đến hai hoặc ba người mới ôm hết. Tôi đến bên cây cột
gỗ lim đã hiến thân làm “giường cột” cho Chính điện, mùi gỗ nồng nồng, man mát
đầu tay, tất cả vẫn đang trong thời hạn thi công, nhưng nay mai nữa thôi, Lam
Kinh sẽ hiển hiện bề thế giữa một vùng non nước tươi xanh.
– Để Lam Kinh được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt, chắc
ban mình phải cật lực lắm phải không anh?
Trả lời tôi, tiếng anh Dương hồ hởi, không giấu được niềm tự
hào:
– Cật lực chứ, nhưng ai cũng vui và phấn khởi lắm. Không nói
ra, nhưng tôi cũng như các cán bộ, nhân viên trong Ban đều biết rằng việc công
nhận Lam Kinh là Di tích Quốc gia đặc biệt chỉ là vấn đề thời gian. Một di tích
hội tụ đầy đủ yếu tố vật thể và phi vật thể cũng như một bề dày lịch sử như Lam
Kinh là điều đương nhiên rồi. Ban nhận định và biết trước điều đó nên chúng tôi
âm thầm chuẩn bị tư liệu gần như đầy đủ. Chính vì vậy, khi hồ sơ Lam Kinh được
đưa lên tháng 7, thì đến tháng 9 năm 2012, Lam Kinh đã được đón tin vui này.
Sau nhiều lần chuyển đổi, ngày 20 tháng 10 năm 2009, Chủ tịch
UBND tỉnh Thanh Hóa ký quyết định thành lập Ban Quản lí khu Di tích Lịch sử Lam
Kinh đóng trên địa bàn xã Xuân Lam. Tôi đến Ban Quản lí đúng lúc Ban vào thời
gian bận rộn nhất, ngoài một số cán bộ đang cặm cụi bên máy tính và những cuốn
sách chuyên môn bày kín mặt bàn, hầu như mọi người đều tản đi khắp di tích, người
ở Thái Miếu, người ở Sơn lăng, người lại đi sâu vào rừng, vào làng để khảo cứu.
Ai cũng bận với công việc được giao, nhưng ở khuôn mặt, ánh mắt họ lúc nào cũng
tràn đầy nhiệt huyết. Với đặc trưng nghề nghiệp, ngoài chuyên môn vững vàng, cần
lắm lòng yêu và say với nghề, bởi lẽ công việc này đòi hỏi sự chăm chút, tỉ mẫn
và kiên trì. Với con số hiện tại là 38 cán bộ, công nhân, viên chức, việc quản
lí khu di tích gặp vô vàn khó khăn. Chính vì vậy mà đầu năm 2013, lãnh đạo Ban
đã chủ động bố trí, phân công, lập kế hoạch công việc và giao cho các phòng, bộ
phận triển khai thực hiện.
Trời sang trưa, nắng ào ạt đổ xuống, xuyên qua tán lá. Con đường
nội bộ khá trơn do rêu bọc quanh gạch khiến bước chân tôi nặng dần. Tôi quay
sang anh Trịnh ĐÌnh Dương đang thong thả ngắm quang cảnh xung quanh hỏi:
– Đi bộ gần ba tiếng đồng hồ mà anh không thấy mệt sao?
– Thế này đã nhằm nhò gì so với những chuyến điền dã của anh
em trong Ban vào bản làng sưu tầm văn hóa phi vật thể. Thời gian anh em tôi ở
di tích nhiều hơn ở nhà, từng con đường, từng góc rừng như đã nằm trong tâm trí
hết rồi. Mỗi lần đi là mỗi lần chúng tôi lại khám phá, vỡ lẽ được nhiều điều của
di tích. Càng thấy yêu và gắn bó hơn.
Anh kể cho tôi nghe những chuyến đi ấy. Quả thật để thu thập
được những hiện vật, những điệu hát, những câu chuyện, tư liệu… còn lưu truyền
trong dân gian thật không phải dễ dàng. Nắng, mưa, dông bão, rồi cả đường xá đi
lại vô cùng khó khăn, có những lần phải leo đèo, lội suối từ quả núi này đến quả
núi kia, vậy mà điểm đến cứ mịt mù trước mắt. Nhiều khi phải cắm trại ngủ đêm bị
muỗi và côn trùng cắn nhằng nhịt khắp người. Nếu bỏ cuộc thì những nét đẹp văn
hóa cha ông để lại sẽ theo năm tháng phai nhạt dần đi. Nghĩ đến đó thôi, anh và
các đồng nghiệp đã thấy nhoi nhói lồng ngực. Niềm thôi thúc muốn giữ lại “hồn
thiêng” sông núi ấy đã tiếp thêm sức mạnh để những người “đãi cát tìm vàng” như
anh tiếp tục cuộc hành trình. Anh Dương là người “đứng mũi chịu sào” trước mọi
việc, nên anh lúc nào cũng tất bật, vội vã. Dù đã bước vào cái tuổi sắp lên
ông, nhưng nước da rám nắng, giọng nói chắc nịch, nhất là lúc bộc lộ về công việc
và chuyên môn của mình, trông anh Dương vẫn giữ được phong thái như thuở trai
tráng.
Theo lời giới thiệu của anh Dương, tôi sang phòng nghiệp vụ
tìm gặp chị Bùi Ánh Tuyết – Trưởng phòng nghiệp vụ Ban quản lí di tích lịch sử
Lam Kinh. Phòng nghiệp vụ chỉ rộng chừng mười lăm, mười sáu mét vuông, vật dụng
không có gì nhiều nhặn, ngoài cái bàn cũ kỹ, tủ sách nêm cứng, vài ba chiếc ghế
đã phần nào ọp ẹp. Chị Tuyết chừng ba bảy, ba tám tuổi, người mảnh mai, gương mặt
hiền hậu, nụ cười thân thiện. Có thể nói, để chuẩn bị một bộ hồ sơ cho Lam Kinh
được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt, công sức đóng góp của những người
như chị không nhỏ chút nào. Nào lập kế hoạch, chọn địa điểm, tìm hiểu địa điểm,
khảo sát, điền dã lấy thông tin tư liệu, xử lí tư liệu, viết báo cáo, chừng ấy
khâu cho một lần đi sưu tầm văn hóa phi vật thể, nghe có vẻ dễ dàng, nhưng với
người phụ nữ quả thật không hề đơn giản. Bảy lần khai quật khảo cổ ở Lam Kinh
do tình hình công việc đòi hỏi, chị và mọi thành viên trong Ban phải đi lấy tư
liệu từ Hà Nội, chặng đường thì xa, nhưng khi gom được tư liệu rồi, dù chỉ là
vài ba tấm ảnh cũng phải vội vàng về ngay để kịp làm báo cáo, ròng rã như vậy,
từ ngày này sang ngày khác, từ tháng nọ sang tháng kia. Nhưng thú vị nhất vẫn
là những lần vào bản làng. Đường xa, đi lại khó khăn, mưa vừa dứt đất đá trên đồi
thi nhau ào ạt đổ xuống sau lưng, vừa đi, cả đoàn vừa phải canh chừng, phải làm
vào được bản khi cái tối đang sầm sập đổ về trước mắt, chưa kể những tiếng kêu
của thú dữ, những con côn trùng lông lá, mình mẩy xù xì, lúc nào cũng chực chờ
lao đến khiến ai cũng dựng hết tóc gáy. Nhưng vào bản rồi, được gặp những người
dân chân chất, được ngồi nghe, xem và ghi lại những bài hát, điệu múa, câu chuyện
của ông cha mình để lại cho con cháu, mọi mệt nhọc phút chốc bay đi hết. Chị
Tuyết còn kể tôi nghe câu chuyện đặc biệt về việc Lê Lợi đánh giặc bằng ong
trong chính khu rừng Lam Kinh này. (Ong ở đây cũng lạ lắm, đàn đông đen đặc trời,
có lần đốt rừng, Ban thu được một bì xác ong). Khi ấy, quân ta thì mỏng, giặc lại
hùng hậu, Lê Lợi phải dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở, dựa vào muông thú để chiến
đấu. Tài trí của ông đã làm cho quân địch kinh hồn bạt vía.
– Sao những câu chuyện đặc sắc này không được đưa in thành
sách, mà cứ để lưu truyền trong dân gian?
Nghe tôi hỏi, chị Tuyết khẽ nhăn đôi chân mày, đi về phía cửa,
ngoài kia gió cứ vi vu, Lam Kinh mượt mà âm âm lời sông núi vọng về.
– Cái buồn của nghề này là đây. Đôi bàn tay tôi chỉ toàn chai
là chai do đã cào bao nhiêu lớp đất để cố tìm văn hóa của thế hệ cha ông. Chúng
tôi muốn lưu giữ, nhưng không đủ xác minh thực tế, cũng không có tư liệu nào
làm căn cứ, nên rốt cuộc vẫn phải để nó mãi là của dân gian mà thôi. Mừng vì
còn có ông bà kể lại cho mình, nhưng lại đau đáu trong lòng sợ đến mai kia thì…
Chị Tuyết không nói hết câu, tôi biết và cũng hiểu nỗi lo
trong lòng chị ngày càng lớn dần lên, bởi lẽ, hiện nay lớp trẻ chỉ ham mê với
thông tin mạng và công nghệ số, những gì nhanh, gọn, tức thì, có thể “ăn xổi”
được, văn hóa truyền thống đang bị lãng quên dần trong thế hệ tương lai ấy.
Với những kết quả đã đạt được, cán bộ, viên chức và người lao
động trong Ban hôm nay luôn tự hào là những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
giữ gìn, bảo tồn, phát huy giá trị di tích, góp phần xây dựng di tích lịch sử
Lam Kinh xứng tầm là di tích cấp Quốc gia đặc biệt, đáp ứng nhu cầu thưởng lãm
và sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân.
Những giá trị văn hóa – lịch sử của dân tộc cần lắm những con
người vừa có tâm, vừa có nghề say mê tìm tòi và gìn giữ cho muôn đời sau, để lớp
lớp con cháu khi về với Lam Kinh sẽ cảm nhận được những giá trị ấy đã kết thành
hồn thiêng sông núi, nuôi lớn niềm tự hào về dân mình, nước mình.
11/12/2021
Ngân Hằng
Theo https://vanhocsaigon.com/
Thương nhớ ngàn lau
Thương nhớ ngàn lau
Chớm đông, gió thổi hanh hao khô nẻ đồng. Gió thổi từ trên trời
xuống, nức nở dưới đất lên, mang theo chút hơi nước cuối cùng nơi những kẽ chân
chim ngoài đồng ruộng. Ông trời riết róng, bòn nốt chút nước đã trót hào phóng
ban xuống nơi kiệt cùng của nghèo khổ. Đồi bãi trơ trắng những mỏm đá khô
cằn, vết bùn trâu dẫm lên chưa kịp in đã khô cong, bạc trắng.
Trời vẫn thỉnh thoảng trở chứng, dấm dức như những đêm dài mất
ngủ của đàn bà góa bụa. Mòn miết, lặng lẽ lau âm thầm nở bung biên ngoài bãi.
Thứ hoa của đồng nội hoang dại không sắc không hương. Bông mỏng nhẹ, hoa bay
bay, xác xơ thân gầy khô rạc. Không mĩ miều, kiêu sa, loài hoa ấy có hương sắc
riêng, thứ hương sắc chỉ có những ngọn gió mới cảm nhận được.
Ngàn lau hoang sơ, ngàn lau trắng xao xác chiều hoang nổi
gió. Trắng cả cơn mê của ông nội tôi.
Quê nội ở tận miền sơn cước. Những năm cả nước đã có điện
từ lâu, quê nội vẫn leo lét ngọn đèn dầu. Bữa cơm của các cô chú và ông bà nội
tôi vẫn lem mùi dầu khét lẫn trong làn khói của nồi khoai luộc vội. Những đêm
mưa, thao thiết tiếng mưa rơi đều trên lá cọ. Cảm giác buồn thẳm sâu chui lên từ
đất, bao bủa cùng màn đêm đặc quánh húng hắng tiếng ho của bà và tiếng trở mình
trên ổ rơm của ông nội.
Ông tôi tham gia kháng chiến bị bom dội trúng hầm. Ngày hòa
bình trở về, mơ mơ tỉnh tỉnh, thỉnh thoảng vẫn không nhận ra vợ con. Ông tôi hiền
lắm. Ngày quần quật trên nương vỡ hoang, trồng cây, nuôi trâu bò. Đồi bãi bao
năm bỏ hoang từ ngày ông về xanh màu chè, khoai, bạch đàn, mít ổi… Ông tôi
quanh năm ngoài đồng ngoài bãi, còn việc nhà, trong xóm ngoài làng một mình bà
tôi lo toan.
Những hôm trở trời, vết thương cũ tái phát, ông như người mơ
ngủ. Cứ quần đùi áo cộc băng hết bưng này đến bãi khác, lau cứa vào chân tay ứa
hết cả máu. Cờ lau trong tay, ông hô hào anh em xung trận. Những mảnh kí ức của
chiến tranh nằm sâu đâu đó trong vùng nhớ quên lại dội về theo những đợt vết
thương cũ tái phát.
Rồi bất chợt ông ôm mặt khóc nức nở: “Chiến ơi! Sao mày bỏ lại
đồng đội và tao?”. Người đàn ông ngoài 70 ấy khóc rưng rức như một đứa trẻ. Những
giọt nước mắt lăn xuống gò má xạm đen. Vết sẹo bên thái dương giật giật liền hồi,
đỏ ửng rồi xám ngắt.
Chiều buông trên đồi đỏ rực. Vầng mây như máu nhuộm loang đỏ
cả một góc trời. Màu đỏ của chiều ngấm dần lên đường chân trời, men theo những
đám mây, lan vào đất cái tịch mịch âm u. Chiều khép sau rặng cây già. Khắc khoải
đâu đây tiếng chim kêu cuốc kêu sương, vấn vít trên ngọn cây mang theo nỗi buồn
man mác. Khóc thương gì nữa?
Đứng sau gốc tro, bà tôi bần thần đưa tay áo quệt nước mắt.
Phần vì đã quá quen với những cơn mê không hồi kết của ông, phần vì bà biết
trong sâu thẳm có những vùng nhớ quên mà bà không thể bước chân vào.
Cũng có lúc, ông ngồi nhìn xa xăm. Bàn tay to bè nhăn
nheo thô ráp vuốt vuốt bông lau trắng trong tay. Từng bông trắng nhỏ bay lả tả,
rụng xuống nền đất đỏ nứt nẻ chân chim và ngai ngái mùi lá mục, mùi cỏ cháy.
Bóng lưng ấy bất động im lìm như tượng, tạc vào chạng vạng lặng yên. Ngọn gió
nào vừa thổi qua trên mái đầu phơ bạc mang theo kí ức về miền xa xăm.
Độ mươi hôm, ông tôi hết cơn mê tỉnh, lại lên đồi vun gốc
chè, cắt cây dại cho bà ủ gốc hành tăm.
Chiều hôm trước, ông tôi lót lại ổ rơm.Trên chiếc giường đơn
kê sát bếp, ông rải 1 lớp rơm khô, sạch dày dặn ở phía dưới sau đó rải chiếu
lên. Thói quen ấy duy trì từ lúc ông mới xuất ngũ đến lúc cuối đời. Ông cầm tay
bà, thơm lên trán bà, thủ thỉ:
– Bà vào đây nằm với tôi một chút.
Bà ngạc nhiên vì từ khi xuất ngũ đến giờ chưa bao giờ ông nói
những lời như vậy. Ông vuốt tóc bà, nước mắt ngân ngấn. Ông đằng hắng vài tiếng
trong cổ họng, ngập ngừng như muốn nói điều gì đó nhưng rồi lại thôi.
Đêm hôm ấy, ông mê sảng gọi tên đồng đội. Trong giấc mơ, ngàn
lau trắng muốt văng vẳng tiếng hò xung phong. Những gương mặt thân quen về cười
nói. Lau bồng bệnh như sương, phủ lên mái đầu bạc, kéo mờ ánh mắt nhìn trân trối.
Cảm giác nhẹ bẫng như bay, dập dờn. Vết sẹo bên thái dương không còn đau nữa.
Ngoài kia, núi đồi yên lặng, ngàn lau vẫn nở mòn miết, bung
biên. Hoa bay bay, thân gầy xác xơ. Tiếng cuốc khắc khoải bay lên khỏi rặng cây
tối nâng đỡ lấy một ngôi sao vừa tụt xuống phía chân trời vô định.
15/12/2021
Chu Cẩm Ly
Theo https://vanhocsaigon.com/
Những ngày cuối năm
Những ngày cuối năm
Thời gian chỉ còn rất ngắn cho một năm để gói ghém những gì cần
lưu giữ vào kho kỷ niệm. Thảo dặn lòng sẽ chỉ mang đi những yêu thương, chào
đón những điều mới mẻ để đồng hành cho chặng đường sắp tới. Vậy mà, Thảo vẫn
nao nao khi nghĩ về những kỷ niệm không thể nào quên…
Thảo chào đời trong tháng 12. Bố kể ngày ấy rét như cắt da cắt
thịt. Bà nội ho khù khụ mà vẫn xuýt xoa: Khổ thân con bé, sao không chọn ngày
nào ấm áp mà ra cơ chứ. Bà đốt củi, cời than cho mẹ nằm. Bố thì đun đun nấu nấu
cho mẹ ăn để đủ sữa cho Thảo bú. Bà cởi cái áo bông cũ duy nhất đang mặc trên
người ra, bọc cho Thảo. Bà ngồi bên bếp lửa, run run ngắm đứa cháu gái rồi nói:
Con phải luôn giữ ấm cho hai mẹ con nó nhé. Ai ngờ đấy là lời cuối cùng trước
lúc bà ra đi…
Những ngày cuối năm, cơn gió đông lướt qua đồng làng rồi sầm
sập ào vào nhà. Bố đứng lên kéo lại cánh cửa bị giật tung. Tiếng thở của bố dường
như dài hơn trước những giọt mưa chỉ lây phây thôi mà đủ sức kéo cái rét ngọt đến
thấu xương về quần thảo trong căn nhà bé nhỏ.
Mỗi ngày cuối năm, Thảo thấy tóc bố thêm nhiều sợi bạc. Vết
chân chim lại hằn thêm nơi đuôi mắt mẹ. Nhưng họ vẫn nở nụ cười tươi khi giang
tay ôm chặt nó vào lòng. Có lần Thảo chợt thấy bố ngây người nhìn mẹ đang phô
hàm răng đều nhưng nhức. Sau này lớn hơn, Thảo mới biết nụ cười ấy đã nhốt bố
như tù binh suốt từ thời trai trẻ.
Một gia đình mặn nồng là thế, vậy mà thời gian trôi đi, ông
trời nỡ khắc vào mảnh đời của Thảo những vết đau thật lớn. Vào tháng 12 năm Thảo
mười tuổi, mẹ đã qua đời. Một điều rất lạ là cả bà nội và mẹ đều mất cùng ngày,
cùng tháng và cách nhau đúng mười năm. Sau này bố kể lại, vào hai thời khắc đau
buồn ấy, không hiểu sao Thảo đều sốt đến miên man…
Tháng 12, còn có ngày sinh nhật bố. Năm tháng trôi đi, nó đã
là con bé có da có thịt, phổng phao và lẻo mép hơn. Thảo vẫn nhớ như in vào
đúng ngày sinh nhật bố năm Thảo lên mười một tuổi, bố mua cho nó một hộp sáp nẻ
màu hồng rất thơm, nhắc nó bôi vào tay mỗi tối. Chỉ sau này lớn lên, Thảo mới
thấy day dứt. Ngày sinh nhật, người ta thường nhận được quà tặng. Còn bố, ngày
của mình bố lại cho đi. Thảo luôn nhớ như in những ngày bên bố. Thảo chờ mỗi tối
khi bố xong công việc, là nó mang cái hộp màu hồng ra bôi cùng bố. Hộp sáp nẻ
này rất đặc biệt bố ạ, mịn mịn là. Thảo cứ lắc nẻo thế rồi quệt từng tí một
nhét vào những vết nứt nẻ trên hai bàn tay của bố. Từ lúc Thảo hiểu chuyện, mỗi
khi trời trở rét, nó lại thắc thỏm. Mong sao cơn gió chỉ tạt qua, nắng đủ hồng
lên, giọt mưa chỉ làm lớp hoa màu thêm mỡ màng, để những người nông dân hai
sương một nắng bớt nhọc nhằn. Mong sao thửa lúa xanh rờn rồi trĩu hạt, để bố vuốt
đi những giọt mồ hôi mặn mòi mà nở nụ cười rạng rỡ.
Thời gian đã cho Thảo trưởng thành. Thảo đã được dùng những hộp
mỹ phẩm đắt tiền hơn. Nhưng trong tiềm thức, Thảo không quên được hộp sáp
nẻ màu hồng mang bao kỷ niệm thuở ấu thơ. Thảo vẫn nhớ như in lời của người: Bố
già rồi. Bôi vào mai lại thế, phí đi. Để cho con bôi. Là con gái thì bàn tay phải
mịn màng mới đỡ vất vả, con ạ.
Bao năm xa nhà, trước những cám dỗ, thị phi vây bọc, những luẩn
quẩn vô thường, những yêu thương, buông bỏ… có lúc Thảo thật sự thấy nhọc nhằn.
Nhưng sức trẻ đã tiếp cho nó nguồn sinh lực để cống hiến, để vật lộn giữa trường
đời. Và hình ảnh hai bàn tay xù xì, chai sạn của bố đã luôn là nguồn động lực để
Thảo vượt qua, để bao giờ Thảo cũng xứng là một đứa con đúng như tên gọi của
nó…
Thảo treo lên tường một quyển lịch mới.
Chào tháng 12 ở lại với biết bao nỗi niềm.
Thảo sẽ viết tiếp những điều tươi mới cho một năm mới sắp kề
bên.
16/12/2021
Lưu Thị Phụng
Theo https://vanhocsaigon.com/
Cuối thời nhan sắc
Cuối thời nhan sắc
Một mùa xuân nữa trở lại. Nhẩm tính thời gian mà “buồn xuân
thêm tuổi”. Giật mình. Tôi đã trên thất tuần. Ngậm ngùi. Buồn xa vắng. Tôi
không dám nhìn kỹ tôi trong gương. Chỉ thoáng qua. Rưng rưng tôi nhắm mắt. Ngậm
ngùi thương cảm nỗi lòng của nàng cung nữ khi sắp phải từ giã thời vàng son của
mình trong thơ Đông Hồ.
Ngậm ngùi giai nhân khẽ thở dài
Nắng chiều ngả tía sắc lâu đài
Gượng cười trong nét vàng son cũ
Như ả cung tần tuổi nhạt phai”.
Tâm trạng của nàng cung nữ cũng giống như tôi, chỉ khác, nàng
là một giai nhân trong cung còn tôi chỉ là một phụ nữ của đời thường đang tiếc
nuối “tuổi xuân”…
Ôi, tuổi đời mênh mông rồi chồng chất. Bảy mươi lăm tuổi đã gần
kề. Khi ấy, không nhìn “tôi trong gương” tôi vẫn thấy “tôi trong gương”. Đưa
tay sờ lên mặt, da khô. Cười, hai bên khóe miệng xếp li. Nhìn xuống thân hình.
Đường cong ngày ấy nay còn đâu! Bàn tay ngọc nghiêng nghiêng chiếc nón nay hoa
nâu xôn xao gọi nhau về. Lại giật mình. Buồn tênh. Tôi không dám “nhìn” gương mặt
và vóc dáng cuối thời nhan sắc cửa người đàn bà nữa. Lại buồn. Mùa xuân này,
tôi vào tuổi bảy tư – đã là già. Nhưng thôi ! Cứ vậy đi. Thời gian và nhan sắc
muôn đời vẫn thế. Không níu kéo được. Chấp nhận. Nhưng… sao vẫn cứ thấy buồn.
Gió lành lạnh. Xuân reo trước ngõ. Mai Đồng Nai khoe sắc. Cả
một khóm hồng lấp lánh dưới nắng mai. Rực rỡ. Hồng của con gái Huế duyên dáng với
tình yêu mộng mị. Gương mặt tôi bỗng rạng rỡ. Tuổi thơ tôi. Thời con gái. Tôi bồi
hồi trở lại nhìn “tôi trong gương” qua thời gian và không gian của trời đất
giao hòa một thời. Có lẽ đây là giây phút đẹp nhất và cũng là niềm vui cuối của
“thời nhan sắc” mà bất kỳ người “thiếu nữ lớn tuổi” nào cũng muốn “trở lại”
nhìn “mình trong gương”.
Tôi nhìn tôi trong gương.
Tuổi thơ tôi. Mười một tuổi tôi đã biết “nhìn tôi trong
gương”. Tôi là con bé không đẹp nhưng ưa nhìn. Gương soi bảo thế. Trong gương
tôi biết được thế mạnh của tôi. Tôi bắt đầu làm điệu. Dĩ nhiên là chỉ có gương
soi và tôi. Mẹ mà biết được thì “mắc cỡ” lại còn “bị la”. Con nít không lo
học mà làm điệu ! Tôi vén khéo tóc hai bên bằng hai chiếc kẹp bạc. Mặt
tươi tắn, nước da trắng hồng. Mũi cao. Mắt sáng, tròn và trong. Tôi vẫn “nhìn
tôi” trong gương. Gương mặt ưa nhìn. Còn thân hình. Không nói làm gì – con nít.
Nhưng áo quần thì khỏi phải chê. Gọn gàng, tươm tất. Mười một tuổi tôi vào học
lớp Đệ Thất (lớp 6) trường Đồng Khánh. Mẹ may cho hai bộ áo dài trắng vải
Tétoron. Vải áo mỏng, vải quần dày hơn. Thêm hai chiếc áo lót xinh xinh mặc bên
trong áo dài. Cứ thế mà thay đổi. Sạch sẽ. Chưa có phòng riêng. Soi gương phải
lén vào phòng của chị gái. Nheo mắt. Cười mỉm. Cười duyên. Liếm môi. Vuốt tóc.
Ôi ! Tôi đó. Mười một tuổi ngộ nghĩnh và đáng yêu. Làm điệu, tôi soi gương.
Vui, tôi soi gương. Bị ba mẹ la, khóc tôi soi gương Những buồn vui, giận hờn vu
vơ tuổi thơ. Nói chung, tôi thích “nhìn tôi trong gương” và “điệu”.
Theo thời gian tôi lần đi qua tuổi mười bốn, mười lăm và đến
với tuổi mười sáu. Tôi nhìn tôi trong gương nhiều hơn. Đã biết làm dáng. Vừa
làm điệu vừa làm dáng. Thời thiếu nữ bắt đầu. Gió xuân hây hây làm hồng má thiếu
nữ xuân thì. Một chút sương khói mơ màng. Tôi bắt gặp tôi và các bạn trong
tranh của họa sĩ Đinh Cường, Đỗ Duy Tuấn. Tôi đó – 16 tuổi. Tôi “nhìn tôi
trong gương”. Một con bé thích làm người lớn với nét thơ ngây còn nguyên trên
gương mặt, dáng hạc thanh thoát. Trong gương, tôi mơ màng, mắt đắm đuối. Tóc
xõa ngang vai với chiếc hoa trắng cài trên tóc, dịu dàng, đằm thắm trong chiếc
áo dài trắng tinh khôi. Cặp sách trên tay. Guốc mộc. Tôi thấp thoáng trong
gương. Từ đầu xuống chân toát lên vẻ trang nhã, nhu mì của con gái. Tôi làm
dáng. Tôi muốn mình đẹp. Nhưng trời chỉ cho chừng ấy thôi. “Dễ thương”. Thôi,
thế là đủ. Âm thầm với gương soi. Tuổi mười sáu – tuổi bắt đầu biết yêu và
thích làm đẹp vì thế mà có những vui, buồn vu vơ. Tôi cười trong gương. Khóc
trong gương. Hạnh phúc trong gương. Buồn trong gương. Sáng mai thức dậy, tôi
soi gương. Nũng nịu cười trong mắt. Đi học về tôi soi gương. Vui vui với những
“cái đuôi” theo trên đường. Thế là “điệu” trong gương. Thiếu nữ mười sáu dễ
thương chi lạ. Da trắng hồng, mắt đen, má nõn nà, môi đo đỏ. Không trang điểm vẫn
dễ thương. Con gái thời của tôi đứa nào trông cũng duyên và dễ thương trừ những
đứa trời cho đẹp.
Rồi tuổi hai mươi đến sớm. Tôi đã vào Đại học. Một thiếu nữ đầy
đặn nét hoa, không đẹp nhưng ưa nhìn – các bạn của tôi nói thế; bởi dáng vẻ hiền
lành, áo dài lụa với nón lá nghiêng quai đội lệch trên đầu. Lúc này tôi “điệu”
nhiều hơn. “Soi gương” nhiều hơn. Sinh viên của lớp tôi có nhiều con gái đẹp.
Duyên dáng, dịu dàng, đằm thắm, ăn mặc kín đáo, nói năng nhỏ nhẹ, trang điểm
chút chút. Mỗi người một vẻ. Đó là nét đẹp rất riêng của thiếu nữ ngày xưa, thời
của tôi. Những sáng, những chiều tôi cùng các bạn thả gót ngọc qua các con đường
đẹp làm nền cho những hàng cây xanh của thành phố trên đường đến trường. Tuổi
hai mươi, gương mặt cô nào cũng dễ thương “ngơ ngơ ngác ngác” trên giảng đường
Đại học. Chính vẻ “ngơ ngác” đó mà con gái ngày ấy đã làm cho nhiều anh phải
“ngác ngác, ngơ ngơ”. Thuở ấy con gái chúng tôi hiền nhưng hay “làm điệu” mà
hay làm điệu thì phải “soi gương”…
Giã từ gương soi.
Tôi lặng lẽ băng qua thời con gái để đến với thời “thiếu nữ lớn
tuổi” ở giai đoạn mở đầu của tuổi già. Đó là lứa tuổi nửa trẻ nửa già – năm
mươi. Chính vì thế mà sợ – sợ già. Muốn mình trẻ mãi nên “cố níu kéo thời
gian”. Nhưng “thời gian không nhường ai”. Tôi luôn trong tâm trạng “man mác buồn”.
Thôi thì cố giữ được chừng nào hay chừng ấy với nỗi buồn vương trên tóc…
Rồi tóc tôi vơi dần theo năm tháng. Tóc ơi! Tóc lặng lẽ đi
đâu… đi đâu… từng sợi…từng sợi để cho tôi phải ngẩn ngơ “tìm tóc”. Ôi! Thật buồn
khi tôi cảm nhận được tuổi già đã thật sự đến. Một nỗi “sợ” khác xuất hiện, cụ
thể hơn, rõ ràng hơn khi tôi soi gương. Nhìn vào gương – tôi khóc. Vẫn biết đó
là qui luật của tạo hóa nhưng sao vẫn cứ thấy nao lòng. Tôi chính thức “giã từ
gương soi của một thời”. Bây giờ soi gương chỉ để kiểm tra lại sự sạch sẽ của
gương mặt, sự gọn gàng của đầu tóc, sự tươm tất của áo quần. Ôi, nét hoa thời
con gái “rộn rã trong gương” nay đã hợp đồng cùng thời gian dìu nhau ra đi…
Trời đang xuân. Đất đang xuân. Mọi vật đang rộn rã vào xuân
nhưng người “thiếu nữ trong gương soi” của ngày xưa đã không còn. Tôi buồn. Nỗi
buồn đọng lại trong vóc dáng của một “thiếu nữ lớn tuổi” không còn xuân nữa. Một
nét sầu trong mắt. Ướt mi. Thời gian ơi! Thời gian ơi! Tôi đã chính thức
giã từ thời con gái với “gương soi” của một thời…
20/12/2021
Bùi Kim Chi
Theo https://vanhocsaigon.com/
Thương mùa trái dại miền quê
Thương mùa trái dại miền quê
Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước miền Tây Nam Bộ, gắn
liền với nhiều kênh, rạch, sông ngòi chằng chịt. Tuổi thơ tôi mê nhất
là những mùa trái dại miền quê. Chẳng có gì ngoài những trái: ô môi,
trâm, cà na,… bấy nhiêu thôi mà làm tôi xốn xang những khung trời hoài niệm tuổi
thơ…
Trái ô môi là món quà quê dân dã mà người dân quê tôi hễ ăn
là nhớ hoài chẳng thể quên. Theo người dân quê, trái ô môi có nghĩa: “ô” là
đen, “môi” là miệng, liên tưởng hình ảnh khi ăn trái ô môi thì môi người chuyển
sang màu đen thẫm. Có người cũng giải thích vì trái ô môi dài, bên trong có cấu
tạo thành nhiều ô, mỗi ô là một miếng môi cơm (phần thịt của trái), nên gọi là
ô môi. Trái ô môi khi còn non có màu xanh, đến già có màu nâu đen, hình dáng
cong, dài chừng nửa mét. Khi trái chín, dùng liềm để hái, đem vào cất trong một
góc nhà vài ngày hay để trơ xuống đất chỗ khô ráo rồi lấy ra ăn sẽ cho mùi rất
thơm. Nhớ ngày ấy, những đứa trẻ chúng tôi thường ngồi tụm năm tụm ba chờ má,
chờ ngoại rốc ô môi cho ăn. Hạt ô môi thì lượm lại để dành, đủ lượng kha khá
thì đem đi ngâm nước nóng để cho lớp vỏ cứng mềm ra, rồi lột vỏ lấy nhân bên
trong ăn có vị chát chát nhưng thơm lừng, có khi nấu chè đậu xanh cùng hạt ô
môi ăn rất ngon. Rồi những buổi trưa lộng gió, ra hiên nhà mắc võng nằm đong
đưa, những trái ô môi già rơi rụng gãy làm đôi, tôi trốn ngủ trưa chỉ để đi lượm
ô môi “rớt” rồi len lén ngồi rốc, ăn nơi góc sân nhà. Tất cả vẫn còn lưu giữ
hình ảnh thân thương, gần gũi của tuổi thơ với những mùa ô môi chín.
Qua mùa ô môi, là đến mùa trâm. Trâm là loài cây mọc hoang
trên ruộng đồng, quanh hè nhà hoặc những bãi đất trống. Trâm có tàn cây rộng
nên tỏa bóng mát quanh năm, là nơi trú mưa, chạy nắng, cho người nông dân. Cũng
là nơi đám trẻ con chúng tôi thường tụ tập đùa nghịch mỗi buổi trưa hè hay những
buổi chiều tan học. Ở quê, trâm có hai loại là trâm gối và trâm sẻ, mọc thành từng
chùm, cơm thì mỏng, hạt thì to, đợi trái chín mùi có màu tím thẫm thì ăn ngon
nhất vì ngọt, thơm. Còn nhớ những ngày ấy đến mùa trâm chín, mấy thằng con trai
“lẹ giò” leo tít lên cây cao hái những chùm trâm to, chín đều thả xuống, mấy đứa
con gái “yểu điệu thục nữ” đứng dưới gốc nhốn nháo cố chụp lấy những chùm trâm
căng mọng màu tím thẫm, còn những chùm thấp thấp trong tầm tay thì vớ
tay hái rồi bỏ vào miệng thưởng thức luôn tại chỗ. Sau một hồi trèo
hái thì cả bọn tụm lại vừa ăn vừa nói chuyện rôm rả và chia trái cho
nhau, xua tan cái nắng gió, nóng nực của buổi ban trưa. Rồi cứ vậy, thời
gian trôi nhanh mà làm sao quên được! Mùa trâm giờ chỉ còn trong ký ức xa xôi…
Đến khi con nước đổ về, khắp cánh đồng tràn ngập một
màu trắng bạc là báo hiệu mùa nước nổi dâng cao ở quê tôi. Mùa cà na lại trở
thành đặc sản mà không phải nơi nào cũng có, trong những ngày tháng 9, tháng 10
âm lịch. Hồi đó, cà na sai trái nhưng chủ yếu để hái ăn chơi, chứ không như bây
giờ trái cà na được bán rộng rãi khắp các chợ. Là món quà quê đem ra phố thị để
biếu tặng những người xa quê hoặc những ai chưa biết đến trái cà na.
Hồi đó, bên mép sông nhà ngoại tôi có một hàng cà na de ra, mọc
san sát nhau, cành lá sum suê xanh mướt cả một khúc sông. Muốn hái cà na, tôi
cùng mấy chị trong xóm phải dùng chiếc xuồng ba lá nhỏ của cậu đậu nơi bến
sông, bơi ra hái cà na với cái móc cậu làm dành cho chị em chúng tôi hái những
trái cà na đầu mùa. Tôi hí hửng ngồi trên xuồng, tay thoăn thoắc lượm mà lòng
vui rộn rã.
Nhớ ngày ấy, bọn trẻ con chúng tôi hiếu động, thường leo lên
cây cà na rung cho trái rụng xuống, rồi cả nhóm nhảy ùm xuống sông lượm trái,
chấm muối hột dầm ớt hiểm, ăn ngấu nghiến! Mới nghĩ đến đã nếm được vị
chua, chát của những trái cà na căn mọng đong đưa trên cành như mời gọi.
Bây giờ, ở quê cà na rừng thì hiếm khi thấy nhưng trong tôi
trái cà na vẫn bình dị, dân dã như người dân quê tôi. Mãi mãi đi vào lòng người
như câu ca dao:
“Xứ đâu là xứ quê mùa
Đi thăm cháu ngoại cho vùa cà na”
Thời gian không làm phai mờ mà chỉ làm khắc sâu thêm những ký
ức thân thương trong quá khứ. Thương những mùa ô môi hoang dại mà can trường, mạnh
mẽ, thương những mùa trâm chín căn mọng một màu tím sắt son, thủy chung, thương
những mùa cà na đậm vị chua, chát mà đầy mê hoặc lòng người. Tất cả những điều
bình dị ấy sẽ luôn là ký ức, một miền ký ức tuổi thơ theo tôi cả đời, chẳng bao
giờ quên.
22/12/2021
Diệp Linh
Theo https://vanhocsaigon.com/
Tản văn Chu Cẩm Ly: Lưng chừng sống
Tản văn Chu Cẩm Ly:
Lưng chừng sống
Thơ lặng lẽ đứng đợi ở góc phỗ cũ. Phố không mùa hay mùa ngủ
quên trên tán bàng già nua bên mái nhà rêu cũ. Phố của ta – Phố hiền hiền. Mái
ngói lô xô, tường gạch cũ kĩ.
Con đường lát đá dẫn vào từng ngõ nhỏ, có giàn hoa giấy xinh
xinh. Có con mèo lười hay ngủ mơ bên giá vẽ của bác họa sĩ già. Phố của anh thợ
kim hoàn gầy gò, ngày ngày vẫn cặm cụi bên những miếng vàng nhưng tấm áo anh
mang chưa bao giờ mới. Chị thợ may góa bụa mới lấy chồng tháng trước, chắc
tết này chị thôi mặc đồ đen. Phố của ly cà phê mười ngàn và những câu chuyện mỗi
ngày bận bịu cơm áo gạo tiền.
Từng phiến đá xám, nghiêng nghiêng bóng dáng nhỏ nhắn. Chiếc
khăn mỏng che nửa khuôn mặt yêu kiều. Thơ của tôi, hồn nhiên, tươi tắn như con
chim nhỏ. Thơ của tôi, nụ cười hiền ngoan đứng đợi tôi mỗi lúc tan tầm.
Nhìn thấy tôi, Thơ sẽ cười thật tươi, dụi đầu vào ngực tôi nũng nịu.
– Khăn quàng em chuẩn bị cho anh lúc sáng đâu rồi?
Mặc kệ những xô bồ bên ngoài kia, Thơ và tôi sống giản dị, có
chút thiếu thốn nhưng lúc nào cũng hạnh phúc. Khác với những cặp vợ chồng khác,
chúng tôi lựa chọn sinh con muộn. Hơi ích kỉ, nhưng có gì sai?
Mỗi sáng, Thơ sẽ dậy sớm, chuẩn bị cơm nước đầy đủ, bày biện
mọi thứ thật đẹp vào chiếc cặp lồng nhỏ. Em ríu rít sau lưng anh chồng đang
còng lưng đạp xe lên cái dốc cao. Tiếng cười trong vắt hòa trong phố xá nhộn nhịp.
Chiều về, gian nhà tập thể chật chội lại rộn ràng tiếng nồi
bát leng keng cùng tiếng hát khe khẽ : “Em ơi Hà Nội phố. Ta còn em mùi
hoàng lan, ta còn em mùi hoa sữa…”. Nốt nhạc du miên kéo dài trong giấc ngủ, đều
đều hơi thở trên đôi môi xinh, chúm chím, căng đầy. Thơ thường bị đánh thức giữa
đêm bởi tiếng sấm . Lúc đó, Thơ sẽ chui đầu vào ngực tôi, cuộn tròn như con mèo
ngoan.
Giữa yên lặng, gió thốc qua cửa sổ lạnh buốt.
Tôi choàng tỉnh, hình ảnh của Thơ ngày xưa vụt biến. Tiếng nhạc
tắt lịm, chỉ còn tiếng ú ớ mê ngủ. Ánh đèn ngủ vàng vọt soi lờ mờ gương mặt trắng
bệch của người ốm lâu ngày. Mái đầu rũ rượi ngoẻo hẳn sang một bên. Tôi muốn đặt
em lại cho ngay ngắn nhưng dường như những biến chứng sau tai nạn khiến chân
tay Thơ không thể cử động như bình thường. Vả lại, nếu tôi vô tình đánh thức
Thơ, em sẽ lại gào rú ngây dại, ánh mắt lạc lõng vô hồn.
Trời đã sang đông nhưng không khí trong phòng cảm giác nóng bức,
ngột ngạt. Tôi chầm chậm bước ra ban công. Lặng lẽ châm một điếu thuốc, rít một
hơi thật dài, phả vào đêm chút lãng đãng, mơ miên. Gió thổi từng đợt lạnh. Hơi
lạnh thấm lan trên da thịt.
Phòng bên có tiếng lục cục, rồi tiếng nước dội mỗi lúc một
rõ. Hình như không phải mỗi tôi mất ngủ, chị giúp việc cũng không ngủ được nên
dậy sớm chuẩn bị đồ ăn sáng chăng? Tôi với điện thoại, màn hình xanh điểm con số
1h sáng.
Hôm nay tôi có cuộc họp nên dậy sớm hơn thường lệ. Vừa đi xuống
nhà, bàn ăn đã chuẩn bị sẵn. Món trứng mà tôi yêu thích, 7 phần sống, 3 phần
chín. Bên cạnh đó là cốc nước ấm và môt ly cà phê đen.
Trong căn bếp nhỏ, bóng dáng nhỏ nhắn đi lại đi lại sẽ sàng.
Đủ yên tĩnh để nghe tiếng cà phê rơi tí tách. Tôi thả mình trong làn khói thuốc
để đầu óc mệt mỏi được thả lỏng. Dù sao, chút nữa thôi, khi bước chân ra khỏi
nhà, tôi sẽ bỏ lại tất cả dáng điệu chán nản ấy để đắp vào mình thứ nhiệt huyết
giả tạo. Công việc mang lại cho tôi sự thành công, tiền bạc, xe cọ và những mối
quan hệ rộng rãi. Nhưng nó không mang Thơ của ngày xưa về với tôi.
Tôi là một gã chồng tồi. Sau mỗi ngày rã rời với công việc và
nồng nặc hơi men quện với mùi nước hoa xa xỉ trong những cuộc ăn nhậu xã giao,
tôi sợ phải về nhà. Tôi sợ đối diện với em – Khuôn mặt ngây dại nhễu nhợt nước
dãi, nụ cười vô hồn cùng đôi mắt trắng dã làm sống lưng tôi ớn lạnh.
Tôi sợ cảm giác bức bối khi nghe tiếng dội nước đêm khuya từ
phòng bên. Cổ họng khô khốc, cảm giác khô khát, bồn chồn không yên. Máu trong
huyết quản rần rật chảy. Máu dồn căng lên mặt, lên não. Ngực tôi nóng ran. Từng
hơi thở gấp gáp. Tôi cố gắng ghìm cương con ngựa bất kham trong mình. Có một
chiếc cà vạt vô hình đang thít lấy cổ tôi, ngột ngạt. Theo thói quen, tôi đưa
tay lên cổ nhưng ở đó trống không. Bước chân vô hồn, tôi đi như người mộng du.
Chạm tay vào nắm cửa lạnh toát, tôi khựng lại…
Đồng hồ đều đặn buông những tiếng tích tắc nặng nề. Con thạch
sùng mất ngủ tróc lưỡi khô rời điểm vào căn phòng trống vắng, khắc sâu thêm cái
quạnh quẽ của đêm. Bấy nhiêu âm thanh dội lên cảm giác u mê, mệt mỏi .
Khói thuốc cuộn từng vòng trắng, tản mác lan ra xung quanh, lờ
mờ bóng ảnh. Người phụ nữ trong bếp trạc tuổi Thơ của tôi. Nhưng theo
phép lịch sự, tôi vẫn gọi là chị.
Mẹ tôi bảo:
– Tôi nghiệp con bé. Ví thử không có những biến cố trong cuộc
đời, giờ nó cũng đã có một mái ấm bên chồng con.
Chị hiền lành và chu đáo. Từ ngày mẹ tôi đưa chị từ quê ra
thay thế người giúp việc già vừa xin nghỉ, công việc chăm sóc Thơ nhẹ nhàng đi
đi rất nhiều.
Tôi cầm ly cà phê lên, tránh ánh mắt nhìn của chị. Phút bối rối,
ngượng ngập, chị quay mặt đi. Vị cà phê hôm nay chát đắng, khó nuốt.
Hôm sau, tôi cho chị nghỉ việc. Cầm phong bì tiền lương trên
tay, chị rơm rớm nước mắt. Từng ngón tay vân vê tà áo mỏng.
Dòng nhạc buồn vẫn lướt êm trên căn gác nhỏ. Đêm mông lung
trong căn phòng trống, vàng vọt ánh đèn chiếu thâu đêm. Những đêm thật dài
không còn nghe tiếng dội nước. Và một tôi sống giữa lưng chừng.
30/12/2021
Chu Cẩm Ly
Theo https://vanhocsaigon.com/
Tản văn Phan Hồng Cẩm: Đông ấm
Tản văn Phan
Hồng Cẩm: Đông ấm
Từng sợi rét cứ mặc nhiên len lỏi trong gió rồi mơn man hắt
nhẹ mái tóc ngang vai của cô nàng đỏng đảnh trong chiếc áo dạ đỏ rực lao nhanh
về phía chiều muộn. Rét luồn trong từng ô cửa, xét nét nhìn những bước chân con
người đang vội vã dưới làn mưa phùn bất chợt thoáng qua. Áo ai bỗng thấm ướt bất
chợt… Cái nhíu mày bất chợt… Tiếng xuýt xoa bất chợt… Thèm một bàn tay ấm áp bất
chợt… Mùa đông bao giờ vẫn thế, thả heo may và hình như muốn nhắc nhở trái
tim rằng… một mình lạnh lắm!
Đông đã về! Đông về dường như chưa bao giờ báo trước. Mới hôm
qua nắng còn tắt dần mà sáng ra đã thấy đông về gõ cửa rồi đĩnh đạc ngồi ngay
trước hiên nhà. Đông về ta thấy buốt hơn nghe tiếng trở người nặng nề của những
cụ già đang gồng mình với những thử thách nghiệt ngã của thời gian. Đông về khi
những tiếng ho đêm của bé con dày hơn khiến mẹ trẻ giật thót giữa giấc ngủ muộn.
Đông cũng về trong giai điệu thiết thao của người đã đi xa vào cõi vô thực khiến
ta thêm nhói buốt:
“Dường như ai đi ngang cửa, gió mùa đông bắc se lòng. Chút lá
thu vàng đã rụng. Dường như cũng bỏ ta đi…” (Phú Quang)
Đông lặng lẽ, đông âm thầm cứ mặc nhiên để người ta cảm thấy
lạnh lẽo, cô đơn. Tiếng rao đêm “Bánh bao đây… Ai bao đây… Bao không…” rồi
khuất xa trong màn đêm làm đông quánh đặc và nghẹn đắng. Quơ vội mấy tờ tiền lẻ,
gọi với theo mua một chiếc bánh bao nóng hổi như một thói quen. Áp chiếc bánh
vào má, hít hà mùi thơm của mẩu lá chuối xanh được cắt vuông vắn dùng để giữ
cho bánh không dính vào nhau khi đặt chúng vào trong nồi hấp. Một sự ấm áp dìu
dịu cứ len lỏi trong tim…
Ấm áp hay giá lạnh trong cuộc đời này suy cho cùng cũng chỉ
có người trong cuộc mới có thể cắt nghĩa được. Mùa đông lạnh nhưng cũng không
thể lạnh bằng lòng người khi thờ ơ, tàn nhẫn. Mọi hạnh phúc có thể hóa
đau thương bất chợt, ẩn giấu sau nụ cười cũng có khi là hàng ngàn giọt nước mắt
lặng lẽ rơi giữa đêm khuya. Đời cũng thật lạ… Đôi khi cái lạnh của mùa đông sẽ
là liều thuốc thử giúp ta dễ dàng nhận ra những điều ấm áp luôn được tồn tại
xung quanh đâu đấy.
Đông rất lạnh nhưng ở được bên cạnh người mình thương dù chỉ
trong ý nghĩ thôi cũng đủ làm ta ấm lại. Mùa đông giá buốt nhưng bỗng thật ấm
áp khi chúng ta tìm được nhau, tìm được bến đỗ của cuộc đời mình, một yêu
thương dù nhỏ bé nhưng cũng đủ làm tan băng giá. Tôi đang bâng khuâng không biết
rõ mình còn có thể đi đến những đâu trên thế giới và mong mỏi điều gì trong
thanh xuân của tuổi trẻ, của những ước mơ và hi vọng. Nhưng sau tất cả, tôi dám
chắc rằng: Hành trình tuyệt vời nhất, nơi sau cùng của trái tim mình đó là được
trở về nhà, được trở về lòng nhau và được trở về đúng nghĩa trái tim mình: Đừng
đóng chặt trái tim mình, hãy mở cửa trái tim để biết rằng giữa mùa đông ấy,
mình vẫn cảm thấy ấm áp.
7/1/2022
Phan Hồng Cẩm
Theo https://vanhocsaigon.com/
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Nụ Hôn Của Ngỗng Ông giáo già Thành Tâm quyết không bán cuốn sách ĐẮC NHÂN TÂM – Cẩm nang gối đầu giường của Dale Carnegie, nhà văn, dịch gi...
-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Qua bài thơ "Không đề" hiểu thêm tính sâu sắc của Văn Cao Nếu như ai đã từng thả bộ trên đôi bờ của một con sông, sẽ thấy mỗi b...