Những đốm lửa mùa đông
Mùa đông Bắc Mỹ trải dài trong sắc lạnh khô khốc. Vạn vật thu mình lặng lẽ giữa không gian u buồn, ảm đạm, nhiều hôm, gió cũng như ngừng thổi. Những ngày dài lê thê giữa bầu trời xám đục ấy, nếu tình cờ bắt gặp vài cánh chim đỏ thắm thấp thoáng trên những cành cây trơ trụi, lòng người như được hong ấm, như nhận một phép màu bé nhỏ.
Những buổi sớm tinh mơ ở ngoại ô Pennsylvania, khi mảng rừng
trong các khu bảo tồn sinh thái còn ngái ngủ, vài tiếng huýt sáo trong trẻo bất
chợt vang lên. Ngay lập tức, đâu đó trên các ngọn cây cao, bầy chim hồng y dậy
sớm đồng loạt cất giọng, mỗi chú một giai điệu, giòn giã gọi bạn bè, nao nức
vang xuyên suốt cánh rừng còn đẫm sương đêm. Âm thanh tuyệt diệu ấy như êm ái
lay gọi đất trời còn đang mơ màng. Tiếng chim râm ran hòa quyện thành một khúc
giao hưởng tinh khôi, đánh thức sự sống đang chìm trong giấc ngủ trốn đông băng
giá.
Trong bộ cánh đỏ rực như những đốm lửa nhỏ, đàn chim ríu rít
nhảy nhót trên màn tuyết lấp lánh dưới nắng mai. Bình minh rộn rã trong tiếng
nhạc lích chích hồn nhiên. Chúng say mê vui đùa, mải miết thả hồn vào gió, đến
khi mặt trời vượt cao hẳn các ngọn thông mới rủ nhau tản mác đi kiếm mồi. Điệu
múa và tiếng hát của bầy chim như những tia lửa nhen hơi ấm đầu ngày, lóe thắp
trong lòng người ánh sáng hy vọng, giục giã sự toàn tâm hợp lực để xua tan mọi
u trầm của mùa đông rét buốt.
Những buổi sáng sau đêm tuyết rơi nhẹ, khi thả bước qua những
cánh rừng nhỏ, nơi các lối mòn ngập chìm dưới lớp tuyết trinh tuyền, khách dạo
chơi sớm thường sững lặng trước vẻ đẹp thuần khiết của thiên nhiên. Trên nền
tuyết trắng muốt, vô vàn tinh thể nước lấp lánh như những mảnh pha lê trong suốt,
kỳ ảo phản chiếu ánh sáng nguyên sơ của mặt trời mới lên. Ở đó, những chú chim
đỏ tíu tít đuổi nhau, tung rải tuyết, thoăn thoắt bay nhảy, mê mải hát ca như
đang thổ lộ tâm tình với mùa đông. Thi thoảng, nhác thấy một bóng hồng kiều diễm
đâu đó, vài chàng ngưng hẳn mọi trò ồn ào, xoay người uốn vặn, múa vẫy lông
đuôi, bâng quơ thổi sáo tán tỉnh. Đôi khi, cả đàn rủ nhau cùng đập cánh, vút
nhanh lên cao, xoãi cánh lơ lửng như những chiếc hoa đèn nhỏ rực rỡ, chao liệng
nhịp nhàng, thả tiếng hót trêu đùa bảng lảng vào không trung.
Mấy nàng chim mái, tròn trĩnh trong lớp lông màu hạt dẻ, đuôi
và cánh loáng thoáng chút đỏ điều, khi bay lượn sắc hồng chấp chới ánh xuân
trong màn nắng còn vương hơi sương. Các nàng luôn vui nhộn, nhảy chuyền trên những
cành cây cao. Thỉnh thoảng, một hai cô bạo dạn đáp xuống thảm tuyết mịn mát,
đôi mắt đen nháy như hai hạt cườm trong suốt, lúng liếng dõi theo những chàng
áo đỏ đang ngân cao tiếng hát giữa bờ rừng mênh mang tuyết trắng.
Khi quyết tâm bày tỏ lòng hâm mộ trước một cô chim nhỏ, chàng
hồng y si tình thường bắt đầu màn múa trình diễn với thế đứng thật thẳng, đầu
và ức hướng cao lên trời, khoe trọn bộ lông sang trọng, chiếc mào căng và lông
đuôi dài. Chàng dùng mỏ vuốt phẳng bộ lông đỏ thắm để lộ từng kết cấu và hoa
văn mỹ thuật, nhẹ nhàng rẽ cánh, xòe đuôi, oai phong hất chòm lông đầu lên
không trung. Giữ nguyên tư thế đó, chàng trang trọng đứng yên vài giây, rồi từ
từ tiếp tục màn trình diễn bằng cách chuyển trọng lượng thân mình từ bên này
sang bên kia, nhún nhảy dạo bước rồi tài tình lướt nhanh một vũ điệu trên tuyết.
Sau cùng, đầy tự tin, chàng đĩnh đạt cất tiếng hót, truyền đi một giai điệu du
dương tình cảm, âm vang dịu dàng khác hẳn khúc hát chào bình minh thường lệ.
Bài hát và điệu nhảy ấy chỉ đặc biệt dành để tặng riêng cô bạn duy nhất mà
chàng đang đêm ngày tơ tưởng.
Khảo sát về một số loài chim biết hót tiêu biểu ở vùng này đã
ghi nhận hồng y mái thường chăm chú lắng nghe rất kỹ chất lượng bài hát của các
bạn tình tiềm năng. Các nàng tinh tế phát hiện những điểm khác biệt rất nhỏ khiến
âm điệu giọng hót của kẻ trong mộng nghe réo rắt hơn các giọng hát đưa tình kém
cỏi khác.
Thông thường, các cô hồng y khá e lệ, ít khi khoe tiếng hót.
Khi nào vui lắm, nàng mới ngọt ngào hòa giọng như hát đối với anh chồng. Những
ai tình cờ may mắn được thưởng thức giai điệu líu lo mê hoặc của một nàng hồng
y đều phải trầm trồ tán thưởng đó là một trong những tiếng hót hay nhất trong cộng
đồng chim chóc đa dạng ở vùng Bắc Mỹ. Chim mái thường chỉ nhỏ nhẹ cất tiếng gửi
tín hiệu khẩn báo cho chồng biết tình hình quanh tổ liệu có thuận lợi để chàng
chuyển thức ăn tiếp tế, hay cần lập tức cẩn thận lánh xa. Lý do là bộ y đỏ chói
chang của chàng có nguy cơ làm tổ ấm của cả hai bị động vật săn mồi phát hiện.
Cũng có lời đồn tiếng hót của hồng y mái dặt dìu, yên bình, như phản ánh tinh
thần an nhiên, tự tại của các nàng trước cuộc sống gia đình êm ấm, hạnh phúc.
Hồng y vốn là loài chim thủy chung, sống son sắt một vợ, một
chồng. Khi đã gắn kết, đôi bạn chăm chút nhau tận tình, đồng cam cộng khổ, chia
ngọt sẻ bùi đến trọn đời. Nhiều câu chuyện cảm động từ những nhà quan sát chim
kể lại là đã có những cặp hồng y, sau khi bị chia lìa mấy mùa, kẻ thất lạc đã
quay về chốn cũ, nỉ non hót như gọi tìm bóng hình từng có thuở mặn nồng bên
nhau. Ở những vùng chim hồng y tụ về nhiều, khách dạo rừng dễ bắt gặp cảnh chim
trống âu yếm mớm cho bạn tình từng miếng mồi ngon, dù cả hai đang đứng ngay
trên máng hạt mà cư dân đặt để đãi ngộ sự hiện diện thú vị của chúng. Cũng
không hiếm những lúc các đôi chim ríu rít rỉa lông, rỉa cánh vui chơi bên vũng
nước trong. Đôi khi, cử chỉ ghé mỏ chạm yêu say đắm của chúng trông tựa như cảnh
trao đổi nụ hôn nồng nàn của đôi uyên ương giữa không gian ngập lạnh sương tuyết.
Từ mùa xuân đến đầu hạ là khoảng thời gian các cặp hồng y cần
mẫn xây tổ ấm, chuẩn bị đón chào đàn chim con. Cô vợ chọn địa điểm tốt để làm tổ.
Anh chồng đi tìm và tha về hết chuyến này đến chuyến khác đủ thứ cần thiết như
vỏ cây, nhành khô, lá vàng, dây cỏ, bùn ẩm, thậm chí cả rơm rác. Cô vợ tỉ mỉ lựa
kỹ các vật liệu thích hợp, rồi chăm chỉ bện đan cẩn thận thành một cấu trúc
hình chén xinh xắn, chỉ cỡ bát hương để bàn thờ ông bà của người nhà quê. Tổ được
nàng dệt thật chắc chắn để đảm bảo an toàn cho trứng và chim con. Trong suốt thời
gian đó, anh chồng luôn lẩn quẩn canh gác bên ngoài, đôi lúc phụ giúp vài việc
cần đến sức lực cả hai.
Khi chiếc tổ đã thành hình, chim trống cần cù kiếm mồi cho
gia đình, trong khi chim mái thu vén, sắp đặt nội thất, chuẩn bị mọi thứ trước
ngày “khai hoa nở nhụy”. Có lẽ nhờ đời sống lứa đôi viên mãn và tinh thần bầy
đàn gắn kết mà hồng y mái thường dửng dưng trước những khúc hát tán tỉnh của
các chàng chim đỏ xa lạ. Cũng có thể vì được chồng nâng niu, chiều chuộng nên
nàng chẳng hề xiêu lòng trước những gã hàng xóm lân la múa may quanh lãnh thổ
riêng của gia đình.
Trong mùa xây tổ và suốt mùa hạ, chim trống như bị ám ảnh nặng
nề với việc bảo vệ cơ ngơi lãnh địa riêng, đến mức có lúc hoảng loạn thất thường.
Hắn thường cáu kỉnh lục cục mổ hay hung hăng vung chân đá tấn công chính hình ảnh
phản chiếu của bản thân trên kính cửa sổ hoặc các bề mặt sáng bóng. Các nàng
chim mái cũng đáo để, kể cả lúc đang mang nặng bụng trứng, đôi khi vẫn chanh
chua gây sự với cái bóng ảo của mình khi sà xuống ngắm vuốt ở vũng nước hay yểu
điệu làm dáng trên bồn chim tắm lung linh ánh nắng.
Khi đàn con ra đời, cả bố lẫn mẹ đều thay phiên vò võ chăm
chút, mớm mồi, giữ ấm, dạy tập bay và tìm thức ăn. Những ngày đầu, lũ chim tí
hon yếu ớt, lông tơ chưa mọc đủ, chỉ biết há mỏ đòi ăn và rúc vào lòng mẹ. Dần
dần, chúng học vỗ cánh, nhảy chuyền, và cất lên những tiếng hót đầu đời. Khúc
ca non nớt ấy dù còn ngập ngừng, nhưng đã mang âm hưởng rộn rã, chan chứa tình
yêu cuộc sống mà cha mẹ chúng thường hát vang giữa mùa đông phủ ngập tuyết trắng.
Trong những ngày miệt mài xây tổ và thời gian nuôi con nhỏ, hồng
y trống luôn hiện diện như một bạn đời tận tụy. Chàng không ngơi nghỉ trong vai
trò kẻ canh giữ mái ấm gia đình. Mỗi khi tuần tra kiểm soát, chàng thường xù
lông gầm gừ và khẳng khái dõng dạc, như thể muốn tuyên bố với cả khu rừng rằng
khu vực tổ của gia đình chàng là vùng thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Ngày
ngày, sau lúc cùng vợ mớm mồi cho đàn con, chàng thường đậu trên một nhánh cây
gần tổ, vươn cánh duỗi chân hong nắng, nhưng mắt chẳng rời nơi ẩn trú của gia
đình. Thi thoảng, bắt gặp ánh nhìn khả nghi từ mấy gã hàng xóm hay đánh được
hơi hướm của bọn săn mồi, chàng bất ngờ cao giọng thất thanh hót vang, âm điệu
chói lói như tiếng tu-huýt của lính gác báo hiệu tình trạng vi phạm ranh giới.
Cái nhìn sáng quắc, đầy cảnh giác của chàng ta như lời lặng lẽ tâm nguyện, rằng,
không bao giờ để bất cứ kẻ xâm nhập nào đe dọa đến mái ấm nhỏ bé nơi vợ chồng
vun dưỡng tình yêu và sự sống non nớt của đàn con.
Thế nhưng, khi mùa đông tràn về, băng giá phủ kín cánh rừng,
bản tính khắt khe bảo tồn lãnh thổ dường như được cởi bỏ, nhiều cặp hồng y lại
hòa đồng, tập hợp thành từng bầy, chung sống yên bình. Chúng rủ nhau làm tổ san
sát trong bụi rậm kín gió hoặc tại hang hốc dưới tán lá che chắn an toàn trên
cây cổ thụ để cùng nhau sưởi ấm qua những ngày dài khắc nghiệt. Những lúc phải
mạo hiểm xông pha ngoài tuyết để tìm thức ăn, chúng cũng đi theo bầy đàn.
Nghiên cứu cho thấy hành vi săn mồi của hồng y mang tính chiến thuật cao, chúng
thường theo dõi, quan sát kỹ lưỡng con mồi và môi trường xung quanh, chỉ khi thời
cơ thuận lợi mới đồng loạt lao xuống tấn công. Tiếng hót êm ả của chúng đôi khi
còn được dùng để đánh lạc hướng sự chú ý của con mồi, khiến việc săn bắt hiệu
quả hơn.
Loài chim đỏ đáng yêu này đã trở thành biểu tượng của bảy tiểu
bang Hoa Kỳ: Illinois, Indiana, Kentucky, North Carolina, Ohio, Virginia và
West Virginia. Hồng y cũng được chọn làm linh vật của nhiều hội đoàn thể thao,
bởi chúng là hiện thân của tinh thần chiến đấu kiên cường. Trong dân gian, chim
hồng y không chỉ được tôn vinh bởi sắc lông thắm như những đốm lửa hồng giữa trời
đông, mà còn bởi chất giọng ngân nga trong vắt, thánh thót tựa tiếng dạo đàn
trong sương sớm. Khi cả bầy cùng hòa giọng chào bình minh, rừng cây như bừng tỉnh,
ngân lên một bản nhạc xanh trong, êm ái, dịu ngọt gửi tặng con người. Người ta
bảo, tiếng hót ấy thay đổi theo mùa, theo từng khoảnh khắc trong ngày, theo cả
sự khác biệt của địa phương chúng sinh sống, như một khúc giao hưởng tự nhiên bất
tận: lúc dồn dập, lúc dìu dặt, khi rộn rã tình yêu, khi lại thấm đẫm sự bình
yên ngọt ngào. Nét đa dạng trong chất giọng và mãnh lực của tiết tấu trong tiếng
hót đặc biệt của chim hồng y đã góp phần giữ cho nhịp điệu của hệ sinh thái
thêm phần hài hòa. Từ lâu, âm hưởng trong sáng của tiếng hót và hình ảnh giàu
biểu cảm của chim hồng y đã trở thành vô số chủ đề thú vị trong văn hóa dân
gian ở những vùng có chúng trú ngụ.
Vậy mà, buồn thay, đã có một thời những điều lệ bảo vệ môi
trường bị nới lỏng để phục vụ các chương trình khai thác dầu khí bằng thủy lực,
thường gọi là fracking, tức bơm chất lỏng áp suất cao vào lòng đất để phá vỡ đá
phiến. Dù hoạt động này giữ vai trò quan trọng cho lợi ích kinh tế và bối cảnh
năng lượng của Pennsylvania, quá trình thực hiện để lại nhiều hệ lụy nặng nề đối
với môi trường và đời sống xã hội ở những vùng có tiềm năng giếng dầu. Fracking
khiến rừng bị chia cắt thành những mảng nhỏ, rời rạc, làm mất đi sự trù phú
nguyên thủy của hệ sinh thái. Sự phân mảnh này gây hậu quả nghiêm trọng cho nhiều
loài động vật hoang dã, trong đó có chim hồng y, vốn cần những khoảng rừng ổn định
để làm tổ và kiếm ăn. Thời gian fracking thiếu sự quản chế chặt chẽ, quần thể
chim miền Bắc Hoa Kỳ quanh khu rừng nhỏ nơi đây, đã suy kiệt và xơ xác trông thấy.
Đã có vài mùa đông, cư dân trong vùng phải để ý tìm thật kỹ mới
thấy loáng thoáng dăm bảy chú hồng y gầy gò, phờ phạc, đứng ngơ ngác lẻ loi
trên những nhánh cây trơ lá, rên lào khào như đã mất cả tiếng hót. Mấy năm liên
tiếp, bóng dáng chúng thưa vắng hẳn, để lại mảng rừng xanh tiêu điều chỉ vương
đọng âm thanh rời rạc của vài nốt nhạc cũ, buồn tênh. Mãi đến khoảng năm 2023,
khi khu rừng được đưa vào diện bảo tồn và luật lệ kiểm soát fracking siết chặt
trở lại ở các khu vực lân cận, đàn chim hồng y rực rỡ mới dần hồi sinh, tung
tăng múa hát, nhen ấm nỗi giá lạnh của mùa đông.
Câu chuyện về chim hồng y không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp rực rỡ
hay tập tính độc đáo của chúng, mà còn gắn liền với vận mệnh của môi trường
xung quanh. Thức ăn của loài chim này thường dễ tìm trong các khu rừng thiên
nhiên ở Bắc Mỹ. Chúng thích săn côn trùng, nhện, ốc sên, mổ tách hạt dại, và nhấm
nháp các loại quả mọng như anh đào, dâu tây, việt quất, mâm xôi... Ở môi trường
thuận lợi, khi được gần nguồn thức ăn dồi dào và có bụi rậm để ẩn trú, hồng y
phương Bắc có thể sống trung bình từ ba đến sáu năm.
Nhờ ăn nhiều loại hạt và quả, chúng trở thành “những kẻ gieo
hạt thầm lặng” của thiên nhiên, góp phần duy trì và phát tán sự sống của các
loài thực vật bản địa. Bằng việc săn bắt côn trùng, chúng cũng giúp điều hòa quần
thể sâu bệnh trên các cánh đồng và nông trại. Nhưng hơn thế, loài chim nhỏ bé
này còn được xem như chiếc “phong vũ biểu sinh thái”: sự hiện diện hay vắng
bóng của chúng có thể phản ánh mức độ trong lành của bầu không khí, của đất đai
và của nguồn nước nơi chúng trú ngụ. Hỗ trợ những loài chim hữu ích như hồng y,
đôi khi chỉ bằng việc trồng thêm một khóm cây dại, hay giữ lại một hàng rào
xanh, cũng là cách âm thầm mà hiệu quả để gìn giữ vẻ phong phú và cân bằng mong
manh của hệ sinh thái quanh những khu dân cư.
Trong nhiều cộng đồng, hồng y không chỉ là loài chim đẹp mà
còn mang ý nghĩa tâm linh sâu xa: chúng được xem như linh vật trong huyền thoại
hay sứ giả từ thế giới bên kia, mang theo lời nhắn nhủ của người thân đã khuất.
Các bộ lạc thổ dân bản địa ở Hoa Kỳ luôn tin sự xuất hiện của chim đỏ thể hiện
mối liên kết thiêng liêng vẫn tồn tại giữa cõi sống và cõi chết, giúp người sống
tìm thấy niềm an ủi, sự cân bằng để bước vào hành trình chữa lành trong nỗi đau
mất mát. Hình tượng này cũng được nuôi dưỡng qua bao câu chuyện tín ngưỡng và
truyền thống tâm linh của nhiều nền văn hóa khác.
Nhỏ bé mà quý phái, chim hồng y Bắc Mỹ đã bay vào văn chương,
hội họa, nhiếp ảnh, âm nhạc như một nguồn cảm hứng dịu ngọt. Bóng hình chim đỏ
trở thành biểu tượng của ký ức và niềm tin, là tấm gương về sự thủy chung của
cuộc sống lứa đôi và tình yêu gia đình, là chiếc cầu nối giữa thiên nhiên và
tâm hồn, giữa thế giới hữu hình và miền thiêng liêng vô hình mà bao người luôn
khao khát chạm tới.
Tại Hoa Kỳ, nhà văn Ann H. Gabhart từng viết bài Cardinals
– Messengers from Heaven, trong đó loài chim hồng y được xem như sứ giả từ
Thiên đường, mang tin lành của những người thân đã khuất đến với người đang tưởng
nhớ. Nhà thơ Katherine M. Gotthardt, qua tập thơ Thirty Years of Cardinals
Calling, cũng dùng hình ảnh chim đỏ như biểu tượng thiêng liêng gắn với ký ức,
tình yêu, niềm hy vọng, và sự vượt lên trước nỗi mất mát. Hai nhà soạn nhạc
Milan Miller và Beth Husband đã cùng nhau viết bài hát đầy cảm xúc Who Are
You Redbird?, như một lời tâm sự gửi đến thiên nhiên, và cũng nhắc đến truyền
thuyết chim hồng y như để giúp mọi người vượt qua sự đau khổ.
Không chỉ các nghệ sĩ Mỹ, một số văn nghệ sĩ gốc Việt cũng
dành tình cảm đặc biệt cho loài chim quyến rũ này. Họa sĩ Đinh Cường
(1939-2016), đã viết những bài thơ như Con Chim Màu Đỏ Gạch Quay Về và Bài
Tặng Cánh Rừng Scibilia và Con Chim Màu Đỏ Gạch, trong đó bóng dáng
chú chim hồng y hiện lên như một người bạn tâm giao tri kỷ. Bài thơ mở ra một
thế giới của ký ức và mong chờ, nơi tiếng còi tàu vọng về những sân ga xa vắng,
nơi mùa xuân là lời hứa chưa thành. Nhịp thơ nhẹ, đều, mang theo chiều sâu của
nỗi nhớ. Trong cả tranh và thơ, Đinh Cường đã để lại những khoảng lặng trĩu nặng
sự hoài niệm. Bức tranh Con Chim Đỏ và bài thơ Con Chim Màu Đỏ Gạch
Quay Về, từ nét vẽ đến vần thơ, là biểu tượng của sự trở về, của niềm hy vọng
nhỏ nhoi giữa mùa đông, của ký ức và sự sống trở lại sau mùa đông dài. Khi đặt
hai tác phẩm bên nhau, người xem như cảm nhận rõ hơn: chim đỏ không chỉ là hình
ảnh đẹp, mà là biểu tượng của hồi tưởng, mùa xuân, nỗi nhớ, và sự sống mong
manh nhưng kiên trì trong tâm hồn họa sĩ. Con chim đỏ, nhỏ bé mà rực sáng, như
một điểm nhấn của sự sống trong tranh có vẻ như không là một nốt nhạc lẻ loi,
mà đã hiện lên giữa không gian rộng lớn như một người bạn nhỏ mang lại niềm ấm
áp riêng cho người họa sĩ.
Ngoài Đinh Cường, các văn-thi sĩ như Hoàng Xuân Sơn, Vũ Hoàng
Thư, Trần Thị Nguyệt Mai, Nguyễn Xuân Thiệp và họa sĩ Duyên cũng đã để lại những
dấu ấn nghệ thuật riêng về chim hồng y. Họ lấy hình ảnh chim đỏ vừa làm biểu tượng
của mùa xuân và ngày Tết, vừa báo hiệu sức sống mới, mang hơi ấm tinh thần
trong những ngày tha hương hay mùa đông của tâm hồn. Những vần thơ của họ gợi
nhớ sự giao hòa giữa thiên nhiên, ký ức quê nhà và khát vọng sum vầy.
Giữa cái lạnh tê buốt của mùa đông, những con chim bé nhỏ ấy
vẫn tràn đầy sinh lực, mạnh mẽ bay múa như đang nhắn gửi: dù gió bấc gầm gào,
tuyết trắng phủ dày, sự sống vẫn tiếp diễn, và đôi khi, còn bất ngờ trỗi dậy
vào khoảnh khắc mà mọi khát vọng, mọi thách thức đã lặng im.
Chim hồng y mang trong mình một sức sống bền bỉ và kỳ diệu.
Chúng dễ dàng thích nghi với nhiều không gian khác nhau: từ rừng sâu rậm rạp,
cánh đồng mênh mang, cho đến những vùng ngoại ô đông đúc, công viên nhộn nhịp
hay khu vườn thôn dã. Sự thân thiện với con người và khả năng thích ứng linh hoạt
đã giúp chúng tăng trưởng mạnh mẽ. Dù chủ yếu phân bố ở Bắc Mỹ, loài chim này
còn có mặt tại Trung Mỹ, nơi khí hậu khắc nghiệt hơn, và cả ở hải đảo Hawaii xa
xôi. Không thiên di theo mùa, nhưng với bản tính bầy đàn gắn bó, chúng vẫn tìm
đến nhau, hợp đàn vào mùa đông để tìm nơi ẩn trú an lành, giữ lấy sự sống như một
bản năng yêu thương kiên định.
Lối đường mòn qua cánh rừng ngoại ô thưa vắng dần, gió mùa
rít lạnh hơn qua màn sương mờ dày đặc. Sau cơn mưa tuyết nhẹ nhưng dai dẳng mấy
ngày qua, trên lối bùn trắng của con đường mòn ven rừng, vài dấu chân nhỏ hiện
ra, không phải của chim Hồng trong thơ cổ, mà của những con chim hồng y vừa rời
cành phong trơ lá, xuống bươi tìm hạt dại trong bụi rậm lầy lội tuyết, rồi giật
mình bay trốn khi nghe tiếng động.
Những dấu chân ấy không sâu, chỉ là vệt mờ như nét nắng vương
tro chạm khẽ lên tuyết ẩm, nhưng cũng đủ khiến khách qua rừng khựng lại, bâng
khuâng như nghe vọng về mấy câu thơ từ cõi u minh:
Chim Hồng lưu tạm dấu đi trên bùn,
Chim bay về cõi vô tung,
Người đi vào chốn mịt mùng ai hay?
(Theo Dấu Chim Hồng - Tô Đông Pha. Dịch giả: Sakya Minh-Quang) [*]
Người khách ấy, có thể là ta, có thể là ai đó từng đọc Tô
Đông Pha, bỗng thấy lòng lặng xuống, vẩn vơ chuyện vô thường. Chim Hồng đã bay
về cõi vô tung, còn chim đỏ vẫn quanh quẩn ven rừng gần nhà, nơi ký ức đọng lại,
nơi có tiếng chuông nhà thờ đổ, và hương trà thơm vẫn nhẹ lan.
Chim đỏ chẳng kiêu sa như chim Hồng, nhưng sự hiện diện của
chúng đôi khi đã khiến ta trăn trở về những chuyện đã qua, những người đã đi,
và những câu thơ còn dang dở trên tường cũ. Có lẽ, trong khoảnh khắc nào đó rất
xa, con chim hồng y cũng từng bay qua tầng tháp xưa, từng đậu lên vai một lão
Tăng đang ngồi thiền, từng nghe tiếng vó ngựa mỏi trên đường trường (dựa theo ý
tưởng trong Theo Dấu Chim Hồng [*]). Và giờ đây, nó trở về, không để
thay thế, mà để nối dài, như cách ký ức vẫn lặng lẽ tiếp lời cho những câu thơ
đã mất.
Trong không gian mênh mang buồn bã của mùa đông, những cánh
chim đỏ bé nhỏ bừng lên như những đốm lửa mong manh, dũng cảm thắp sáng sắc ấm
giữa tuyết giá. Chúng giúp ta quên thân phận là các dấu chân tạm trên mặt đất rộng
lớn này. Tiếng véo von của chim đỏ cất lên trong bầu trời ảm đạm mang giai điệu
vỗ về tha thiết, như thì thầm về những chuyển biến kỳ diệu đang âm thầm đưa nắng
xuân ấm áp trở lại, tuyết đang ngừng rơi, và chồi non sắp bật nhú.
Vũ Thị Ngọc Thư
Tài liệu tham khảo:
DeVries, S., Winters, C., & Jawor, J. (2014). Female Performance of Male
Courtship Display in Northern Cardinals. Southeastern Naturalist, 13(2), 13-17.
Đinh Cường (2014). Bài Tặng Cánh Rừng Scibilia và Con Chim Màu Đỏ Gạch.
Tranh: Con Chim Màu Đỏ Gạch. On website: 04/2020. Link:
https://www.phamcaohoang.com/2020/04/1547-tho-pham-cao-hoang
-tham-mot-nguoi.html
Đinh Cường (2016). Con Chim Màu Đỏ Gạch Quay Về.
Thơ và tranh Chim Đỏ. On website: 08/2017. Link:
https://www.phamcaohoang.com/2017/08/95-tho-inh-cuong-
con-chim-mau-o-gach.html
Gabhart, Ann H. Red Cardinals (2024). Mesengers from Heaven.
On website: February 18, 2024. Link:
https://www.annhgabhart.com/2024/02/18/
cardinals-messengers-from-heaven/
Gotthardt, Katherine M. (2022). Thirty Years of Cardinals Calling: Selected
Published Poems. Published by San Francisco Bay Press. Introduced by author on
June 9, 2022. Link:
https://katherinegotthardt.com/thirty-years-of-cardinals-calling/?
Institute for Environmental Research and Education (IERE)
Team (2025). What Fracking Does to the Environment? Published on IERE website
on June 16, 2025. Link:
https://iere.org/what-fracking-does-to-the-environment/
Kelvine (2025). Cardinals in New York: Types, Facts, Habitat,
and Viewing Tips. On ownyardlife website on 09/02/2025. Link:
https://ownyardlife.com/cardinals-in-new-york-
types-facts-habitat-and-viewing-tips/
Mehta Rani (2024). Exploring the Fascinating World of the Red Cardinal. On
theprimalx website since 2024. Link:
https://theprimalx.com/articles/exploring-the-fascinating-world
-of-the-red-cardinal/
Pennsylvania Society For Ornithology: Birds in PA (2023), Volume 37(2)
March-May.
Straub, L. (2015). After the Frack: Habitat Fragmentation.
Article published on Earth Insland Journal website: July 2, 2015. Link:
https://www.earthisland.org/journal/index.php/articles/entry/
after_the_frack_habitat_fragmentation
Vũ Hoàng Thư et al. (2021). Con Chim Màu Đỏ. Và Thủy Tiên Vàng Trên Đồi.
Published on website Feb 17, 2021. Link:
https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/02/17/
con-chim-mau-do-va-thuy-tien-vang-tren-doi/
[*] Phụ lục
Bài thơ Tầm Hồng Ký của Tô Đông Pha
Tầm Hồng Ký (尋鴻記)
Tác giả: Tô Thức (苏轼, 1037–1101)
----------------------------------------------
Nguyên tác chữ Hán
人生到處知何似?
應似飛鴻踏雪泥。
泥上偶然留指爪,
鴻飛那復計東西。
老僧已死成陳跡,
壞壁無由見舊題。
往日崎嶇還記否?
路長人困蹇驢嘶。
----------------------------------------------
Phiên âm Hán–Việt
Nhân sinh đáo xứ tri hà tự?
Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê.
Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo,
Hồng phi na phục kế đông tây.
Lão Tăng dĩ tử thành trần tích,
Hoại bích vô do kiến cựu đề.
Vãng nhật khi khu hoàn ký phủ?
Lộ trường nhân khốn kiện lư tê.
----------------------------------------------
Dịch nghĩa
Đời người rốt cuộc là chi?
Há chẳng giống chim Hồng giẫm trên tuyết bùn sao?
Trên bùn ngẫu nhiên để lại dấu vuốt,
Chim bay rồi — đâu còn biết hướng tây hay đông.
Lão Tăng đã mất, chỉ còn tro bụi,
Tường xưa sụp đổ, chữ cũ chẳng còn.
Những ngày gian khó xưa kia,
Đường dài, người mỏi, lừa kêu thảm thiết.
----------------------------------------------
Bản dịch thơ (Sakya Minh-Quang dịch)
Nhân sinh cuối cùng là chi?
Chim Hồng lưu tạm dấu đi trên bùn.
Chim bay về cõi vô tung,
Người đi vào chốn mịt mùng ai hay?
Lão Tăng đã mất tháp xây,
Thơ trên tường cũ còn đây nửa hàng!
Nhớ xưa bao lúc gian nan,
Đường xa, ngựa mỏi, người càng gian nan!
----------------------------------------------
Chú giải & ý nghĩa
• “Chim Hồng” (鴻): loài chim lớn, tượng trưng cho người
cao khiết, trí tuệ hoặc linh hồn đã siêu thoát.
• “Tuyết nê” (雪泥): bùn tuyết – chỉ sự mong manh của dấu vết nhân sinh.
• Hình ảnh “chim Hồng giẫm tuyết bùn” biểu tượng cho kiếp người thoáng hiện rồi
tan biến, để lại dấu tích mờ nhạt trong cõi vô thường.
• Câu kết với tiếng “lừa kêu” (驢嘶) khép lại bài thơ bằng âm thanh của
thực tại, gợi nỗi nhọc nhằn và cô tịch trong cuộc hành trình làm người.
• Bài thơ thể hiện rõ tinh thần triết lý và thiền vị của Tô Đông Pha, người từng
trải qua thăng trầm quan lộ, tù đày, và đạt đến một thái độ siêu nhiên, thấu suốt
vô thường.
----------------------------------------------
Ghi Chú:
Tựa “Tầm Hồng Ký” có thể dịch là Theo dấu chim Hồng, Tìm dấu chim Hồng hoặc Dấu
chim Hồng trong tuyết bùn. Tất cả đều diễn tả cùng một ý: kiếp người như dấu
chim Hồng — hiện ra giữa bùn tuyết rồi tan vào hư vô, chỉ còn thơ và ký ức ở lại.
12/12/2025
Vũ Thị Ngọc Thư
Nguồn: https://www.art2all.net/
Theo https://www.tongphuochiep.com/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét