Thứ Ba, 29 tháng 10, 2024

Sự tích câu ca dao

Sự tích câu ca dao

Những chiến thuyền sắt nặng nề, khi chiến đấu nằm chềnh ềnh ở các cửa sông, rất khó tác chiến. Rồi các xe ngựa kéo, các binh khí sắt do họ hướng dẫn đều không thể bằng các thớt voi chiến dũng mãnh của ta. Giáp sắt nặng, kém xa giáp mây mà binh lính Âu Lạc vẫn dùng. Đặc biệt, Giáp mây nhẹ, bền và dẻo, có thể làm phao khi vượt sông , giáp sắt không làm được.
Truyện kể rằng: Ngày ấy người con gái duy nhất của Thục Phán An Dương Vương đã quá tuổi cập kê. Nàng Mỵ Châu đẹp nghiêng nước nghiêng thành, nhưng chưa chịu lấy ai. Vua rất nóng ruột. Một hôm, An Dương Vương gọi con gái đến:
– Con gái yêu quý của cha! Cha đã già rồi, mẹ con mất đã lâu, cơ nghiệp họ…
Mỵ Châu vội quỳ xuống
– Thưa cha, con hiểu! Phải chăng cha định nhắc đến chuyện thành thân của con?
– Phải lắm con gái ạ! Bao người đã đánh tiếng; bao chàng trai đã cầu hôn. Tướng quân Đức Trung vẹn toàn, tướng Long Hổ đầy quả cảm, con trai tể tướng giàu có … con đều không ưng ai. Con còn băn khoăn nỗi gì?
– Thưa cha, họ dũng mãnh nơi chiến địa; họ trung nghĩa vẹn toàn với cha. Nhưng … nhưng con thấy họ đều … đều …
– Sao? Con bảo sao?
– Họ cục mịch, thô kệch … thế nào ấy cha ạ!
– Trời ơi! Con gái rượu của ta! ở đất Âu Lạc này con kiếm đâu ra những người hơn thế? Hoạ có tìm nơi đất Tần, đất Sở mới có …
Mỵ Châu quay ngoắt lại, ôm lấy tay áo cha;
– Cha hiểu đúng ý con rồi! Con muốn vượt ra ngoài biên giới, con muốn thử sức đua chen với công chúa các nước, con muốn …
– Thôi thế thì cha hiểu … Cha hiểu rồi! Sao con không nói sớm cùng cha?
Mỵ Châu cúi đầu e thẹn. An Dương Vương hùng dũng bước quanh điện:
– Cha cũng đang muốn mở rộng bang giao, bắt tay với các cường quốc. Cha muốn xây dựng Âu Lạc này thành một nước giàu có. Muốn vươn lên chắc phải nhờ đến các nước mạnh như Tần, Nam Việt con ạ. Họ sẽ hoà hiếu với ta, họ sẽ giúp ta.
Buổi thiết chiều hôm sau, tại cung điện trung tâm Loa Thành, An Dương Vương ngự trên long ngai rực rỡ ánh vàng, Người giơ tay phán:
– Hỡi các đại thần! Ta muốn  hoà hiếu, bang giao với Tần, với Nam Việt , các khanh nghĩ sao?
Tướng quân Cao Lỗ bước ra:
– Muôn tâu! Tần là nước lớn, đã từng giao tranh với ta, bang giao với họ là phải. Nam Việt là nước mạnh, họ lại ở gần ta. Ta và Triệu Đà đã qua hai lần giao chiến tàn khốc, kéo dài gần 10 năm. Ta lo đắp Loa Thành, sức dân đã cạn, sức quân đã mệt … Hoà hiếu bây giờ là đúng lúc, là tốt ạ!
– Hay lắm! Các khanh có ý kiến gì khác không?
– Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!
An Dương Vương cười lớn và đứng dậy:
– Ta muốn cử sứ giả tài giỏi sang thuyết phục Triệu Đà. Nói rõ lòng ta cho họ hiểu. Từ nay hai nước sẽ vĩnh viễn hoà hiếu, không giao tranh, không lấn đất. Trong số các con trai của Triệu Đà, các khanh hãy chọn lấy một người toàn mỹ để ta gả con gái Mỵ Châu cho họ!
– Trời ơi! Cao Lỗ vội quỳ xuống – Muôn tâu! Công chúa chúng ta lá ngọc cành vàng, là người con duy nhất của quân Vương, gả đi xứ người, thần e rằng …
– Không sao, không sao! Công chúa rất muốn vậy!
Một vài tiếng thở dài trong đám đại thần; một vài vị lắc đầu, nhìn nhau.
An Dương Vương cao giọng:
– Các khanh! Ta còn muốn họ giúp ta xây dựng Âu Lạc phồn thịnh. Hà, hà … ta lớn mạnh bằng chính tài trí, sức của họ! ha … ha … Bãi triều!
Và, chuyện đi sứ, chuyện Mỵ Châu lấy Trọng Thuỷ nhanh chóng diễn ra.
Chuyện kể rằng: Từ ngày sang làm dâu xứ người, Mỵ Châu gặp muôn vàn trắc trở. Khó khăn thứ nhất Nàng vấp phải là ngôn ngữ. Giao tiếp hàng ngày Nàng chỉ quanh quẩn với mấy thị nữ mang từ Âu Lạc sang. Kế đến là khí  hậu. Ở đây, thủ đô Phiên Ngung cũng đầy sông, đầy suối, hoa lá tốt tươi, nhưng mùa rét thì thật là quái ác. Nàng quấn mình trong nhung lụa, người dày lên như cỗ kiệu tay, da Nàng khô khốc trong gió bấc. Rồi còn phong tục, tập quán nữa, muôn vàn điều khó xử, nhiều khi Nàng như không chịu nổi cái nguýt cháy thịt của công chúa, cung tần Nam Việt.
Nhưng nỗi khổ nhất đối với Nàng là về người chồng – Trọng Thuỷ. Vốn được nuông chiều từ nhỏ, Trọng Thuỷ lớn lên trong buông thả, chơi bời và trâng tráo … Bọn nịnh thần luôn gần gũi anh ta. Suốt ngày đàn hát, đùa rỡn với cung nữ; về đến cung, anh ta nhìn Nàng như nhìn con thú nuôi. Nhiều đêm, cung của Nàng lạnh như nhà gái goá. Gió đập phành phạch vào cánh cửa để ngỏ như giã vào tim Nàng.
Ba năm sống như thế, Mỵ Châu héo đi trong tủi hờn. Nhưng biết trách ai? Có lẽ chỉ có một người duy nhất ở Triều đình nhà Triệu thông cảm và thương xót cho cảnh ngộ của Nàng. Đó là tể tướng Lữ Gia. Ông là người nhân hậu, trung thực. Khi đón Nàng về làm dâu Nam Việt; ông ta đã tấu với Triệu Vương nên để Trọng Thuỷ sang ở rể Âu Lạc. Một là để rèn rũa Hoàng Tử, hai là tỏ lòng hoà hiếu . Nhưng Trọng Thuỷ nào có nghe? Tể tướng quyền uy cũng chịu lép trước con vua ngỗ ngược. Mỗi khi thấy Mỵ Châu lướt qua như chiếc bóng, ông bất giác thở dài.
Một ngày kia, nhớ ngày giỗ mẹ, Mỵ Châu mạnh dạn bẩm với thừa tướng Lữ Gia. Việc đến tai Triệu Vương. Ông ta giật mình tự hỏi: Sao ba năm rồi mà con dâu không chửa đẻ gì? Phải chăng khí hậu phương Bắc quá khắc nghiệt hay nỗi nhớ nhà giày vò Nàng? Triệu Vương xuống chiếu đồng ý để Nàng về thăm quê, đồng thời bắt Trọng Thuỷ sang ở rể ba năm.
Trước khi đi, Trọng Thuỷ vùng vằng:
– Thế chưa hết ba năm, con về thì sao?
– Nếu Thục Phán đồng ý, cho phép!
– Con nhổ vào cái phép tắc của ông ta!
– Thế thì chỉ có cách là sát nhập Âu Lạc vào Nam Việt của ta mà thôi!
– Việc ấy thì Trọng Thuỷ này thừa sức làm!
Hai cha con họ chụm đầu bàn bạc. Rồi Triệu Đà vươn vai sảng khoái:
– Chà, thế này là cơ hội lớn cho Nam Việt, cho nhà Triệu ta rồi!
Lại nói về Âu Lạc và An Dương Vương.
Nhà vua cho xây thành ốc Cổ Loa có một không hai, để phòng thủ đất nước. Thành kiên cố và kỳ lạ đến nỗi sau này dân gian truyền rằng Vua có Thần Kim Quy và nỏ thần trợ giúp. An Dương Vương đã giữ yên bờ cõi sau hàng chục trận giao tranh với giặc xâm lăng. Lòng dân trăm họ hướng về, chỉ ngặt nỗi vua chưa có người nối ngôi.
Bây giờ, để tỏ lòng hoà hiếu, sứ giả Âu Lạc đã đến nước Tần. Các nước Điền Việt, Dạ Lang … đều đã có thoả ước. Chỉ có nhà Triệu thì nay đã thành thông gia, chung con chung của. Thật là một thời thái bình, thịnh trị!!!
Theo thoả ước, nhà Triệu nhận giúp đỡ Âu Lạc những kỹ nghệ hiện đại như: đúc đồng, đúc sắt, đóng thuyền chiến, rèn vũ khí … Về nghề nông, họ truyền dạy gieo trồng một số giống cho nhiều hạt. Về hành chính, họ cho người chỉ đạo, xắp xếp bộ máy quan lại.
Ngày đón con gái về thăm và đón cả đoàn uỳ tùng của con rể đông đến hàng trăm người, An Dương Vương mừng ra mặt.
Hiểu thấu ý đồ nham hiểm của nhà Triệu, quan Tùy giá Đinh Công Tuấn ra sức can ngăn An Dương Vương. Ông tâu với vua mối hiểm hoạ khôn lường khi Trọng Thuỷ ở lâu trong Loa Thành. Ông lo lắng khi hàng trăm người của Triệu Đà toả đến tận hang cùng, ngõ hẻm của các làng, chạ. Ông chưa kịp tấu bày ngọn ngành, An Dương Vương đã gạt phắc đi:
– Trọng Thuỷ nay là con ta. Các tuỳ tùng của con ta là tay chân của ta! Họ sẽ giúp Âu Lạc ta hưng thịnh. Ta đã quyết rồi, khanh không cần bàn cãi nữa! Ông Tuấn khóc rống lên, ôm lấy đại thần Cao Lỗ mà rằng:
– Ông ở lại gắng giúp Vương gia … tôi xin về quê, tôi xin về quê! Tôi không nỡ ngồi đây mà trông cảnh nước mất, nhà tan !
Nói rồi ông xoã tóc, đi chân đất cùng người tâm phúc bỏ về quê Hậu Bổ trên đất Phong Châu xưa.
Lại nói, nước Âu Lạc rộn lên như một công xưởng lớn. Nơi này đúc đồng, đúc sắt, nơi kia đóng thuyền, đóng xe. Thục Phán An Dương Vương có ngờ đâu rằng: Các kỹ nghệ của nước ta như đúc tên đồng, trống đồng, dệt giáp mây, trang trí đồ gốm, cách pha chế sơn quang dầu, sơn then … đã được người Nam Việt ghi chép lại. Hàng trăm kho đạn chứa quân lương, vũ khí đã được đám tuỳ tùng nhà Triệu vẽ sơ đồ, giấu đi. Các đường đi lối lại trong nước và đặc biệt trong Loa Thành đã được Trọng Thuỷ thông tỏ.
Lại nói chàng rể Trọng Thuỷ – từ ngày sang Âu Lạc, cũng biết cưa sừng làm nghé: Một hai tôn kính Cha vợ, đi lại đàng hoàng, trang trọng. Chẳng còn nguồn vui nào khác nên chàng ta cũng gắng gần gũi Mỵ Châu, chăm chút đến nàng hơn. Mỵ Châu mơn mởn trở lại, nàng như hồi sinh giữa quê hương. Nàng hát, nàng vui vầy cùng các thôn nữ. Nhìn vào, ai cũng bảo nàng hạnh phúc lắm. Nhưng thật nham hiểm đến tột cùng và ngây thơ đến dại dột, ấy là chuyện chiếc áo lông ngỗng. Trước lúc Trọng Thuỷ trở về Nam Việt, nàng nghẹn ngào lưu luyến:
– Nếu có chuyện binh đao xẩy ra thì thiếp có áo lông ngỗng mà chàng tặng đây! Thiếp sẽ bứt lông dải dọc đường, chàng theo đó mà tìm thiếp – một lối đánh dấu đường có một không hai trong lịch sử chiến tranh.
Thế rồi, vào một mùa đông lạnh buốt, gió Đông Bắc hun hút thổi. Quân Triệu Đà vây chặt thành Cổ Loa. Rồi  chuyện thành thất thủ, chuyện An Dương Vương đưa Mỵ Châu chạy trốn. Rồi đến đất Cửu Chân, Thục Phán vung gươm chém đứt đầu công chúa …
Khi có chiến sự xẩy ra mới thấy những sự giúp đỡ của nhà Triệu thật lố bịch. Những chiến thuyền sắt nặng nề, khi chiến đấu nằm chềnh ềnh ở các cửa sông, rất khó tác chiến. Rồi các xe ngựa kéo, các binh khí sắt do họ hướng dẫn đều không thể bằng các thớt voi chiến dũng mãnh của ta. Giáp sắt nặng,  kém xa giáp mây mà binh lính Âu Lạc vẫn dùng. Đặc biệt, Giáp mây nhẹ, bền và dẻo, có thể làm phao khi vượt sông , giáp sắt không làm được.
Ngược lại, nhà Triệu ào ạt tiến đến đâu đã có người dẫn đường hoặc bản đồ vẽ sẵn. Họ vào Loa Thành nhanh như trở bàn tay.
Lại nói đến dân thành Cổ Loa. Họ đau đớn mang xác công chúa Mỵ Châu về chôn cất và lập đền thờ Nàng bên giếng Ngọc – nơi nàng thường cùng các thôn nữ chiều chiều ra tắm. Họ đón những viên ngọc trai do dân Cửu Chân mò được. Nghe nói ngọc đó là do những con trai hớp được máu của Mỵ Châu mà kết thành. Ngọc ấy đem về rửa ở giếng Ngọc thì trong sáng đến lạ thường: Vâng! một phần tinh huyết nhỏ nhoi của con người ta được đằm mình trong làn nước mát của quê hương thì cũng đã thoả nguyện. Và, từ ấy, làng Cổ Loa xuất hiện một câu ca truyền trong dân gian. Câu ca ấy hát rằng:
“Ta về ta tắm áo ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Nghe đâu, mấy tháng sau khi tàn binh lửa, Trọng Thuỷ trở lại Loa Thành. Anh ta thẫn thờ trước cảnh tan hoang. Một trưa hè nóng bức, Trọng Thuỷ lần ra giếng Ngọc. Trời oi nồng đến lạ thường. Giếng nước trong vắt mời gọi. Trọng Thuỷ bức bối, giật phăng xiêm áo, vớ lấy gàu định kéo nước dội lên đầu cho thoả. Nhưng với mãi, với mãi … mặt nước vẫn lung linh, thăm thẳm. Như có ai kéo xuống, Trọng Thuỷ nhao người, lao đầu rơi xuống giếng. Kỳ lạ thay, không ai thấy xác anh ta đâu cả…
Một số người lầm tưởng: Do lòng chung thuỷ, nhớ thương vợ mà anh ta tự tử (!)
Bây giờ, những đêm trăng sáng, các bô lão làng Cổ Loa thường ngồi nhâm nhi chén rượu, luận bàn về tình làng xóm, nghĩa lân bang. Mỗi khi nhấp chén rượu đắng, mắt họ nhìn xa xăm, nhất là về phương Đông Bắc- Nơi gió mùa lạnh giá hằng năm vẫn thổi về…
Ngoài kia, những bức tường thành hoang phế thẫm đen trước mặt.
Trong làng, tiếng ai đó hời hời ru con: “Ta về ta tắm ao ta …” Họ ru lại câu ca dao có từ thời xa xưa ấy. Tiếng ru lay, lõm lũy tre làng….
11/1/2024
Đỗ Hàn
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lời tạ lỗi muộn màng

Lời tạ lỗi muộn màng Viết cho H., HQ Tr.Uý tại BTL/HQ bến Bạch Đằng ngày xưa. Nếu anh tình cờ đọc được thì xem như đây là một lời tạ lỗi m...