Chữ hiếu: Nền tảng làm người
Con người yêu con là lẽ tự nhiên, song yêu cha mẹ là do văn
hóa. (A natural man loves his children, but a cultured man loves his parents.Lâm
Ngữ Đường, The Art of Living) (1)
Mỗi năm, khi mùa Vu lan về, biết bao gia đình trên thế giới
như ấm lại bởi tấm lòng hiếu thảo của những người con hướng về các đấng sinh
thành; nhất là khi sự trơ lì vô cảm, sự hờ hững vô ơn đang khiến sa mạc lan rộng
trên cõi thế. Mùa Vu lan như một cơn mưa tưới thấm những vùng đời sỏi đá, để từ
đó ươm mầm cho sự thương yêu, qua chữ Hiếu.
Người Á Đông luôn cho rằng trong trăm nết thì chữ Hiếu đứng đầu. Bách
hạnh hiếu vi tiên! Hiếu đứng đầu trăm nết, như Bát-nhã Ba-la-mật đứng đầu lục độ.
Đứng đầu ở đây có nghĩa là làm nền tảng. Không có nền tảng thì tất cả đều sụp đổ.
Trong lục Ba-la-mật, nhờ có Bát-nhã Ba-la-mật mà năm Ba-la-mật kia (trì giới, bố
thí, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định) mới tựu thành được tinh thể vô biên của
chúng. Cũng vậy, nếu một người sống không có chữ Hiếu thì mọi cái gọi là đức hạnh
hay hy sinh của người đó, nếu có, đều chỉ là con số không rỗng tuếch, hay chỉ để
lòe đời. Không phải ngẫu nhiên mà trong Nho giáo, kinh Hiếu lại được đặt ngang
lên tầm một cuốn kinh, để được sánh ngang với kinh Dịch, kinh Lễ, kinh Thi,
kinh Nhạc v.v… Cùng đích của Khổng giáo là đạo Nhân, xem vạn vật hồn nhiên nhất
thể, rộng yêu thương tất cả mọi người; nhưng Đức Khổng Tử biết con người khó có
thể trực tiếp đến đạo Nhân nên Ngài phải dạy cho con người hiếu đễ, từ đó làm nền
tảng đi đến đạo Nhân. Không Hiếu mà đòi đạt Nhân là vọng tưởng.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong một tôn giáo tìm cầu giải
thoát, tưởng chừng như siêu việt cả thế gian như đạo Phật, sự tích Đức Mục Kiền
Liên vào địa ngục cứu mẹ lại trở thành một huyền thoại sống mãi trong lòng những
ai xem chữ Hiếu là chuẩn mực của đạo đức làm người. Một người không sống hiếu
thảo được với cha mẹ mà nghĩ rằng mình là người có thể yêu nhân dân hay phục vụ
nhân loại, thì đó chỉ là tự lừa mình và dối đời. Yêu nhân loại, yêu nhân dân dễ
lắm vì chẳng có gì là cụ thể cả. Nói như người phương Tây thì “Everything means
nothing” (Tất cả có nghĩa là không có gì cả). Yêu cái gì mang tính chung chung
thì vô cùng dễ, yêu cái cụ thể mới khó. Trong đạo làm người, cái cụ thể đó nằm
một cách cụ thể trong chữ Hiếu.
Yêu con cái là lẽ tự nhiên thường tình vì “nước mắt chảy xuống”,
theo cách nói bình dị của dân gian. Điều đó thì ai cũng biết nhưng không phải
ai cũng có thể hiểu! Chỉ khi “hiểu” được điều đó thì ta mới có thể để “nước mắt
chảy ngược” mà sống hiếu thảo với mẹ cha. Bởi vậy, nên yêu cha, yêu mẹ là
nền tảng thực sự của một người văn hóa.
Nhân thân nan đắc. Được mang hình hài của con người giữa nhân
gian là một điều vô cùng may mắn, vì thân người khó có được, giữa dòng trầm
luân sinh tử luân hồi. Cho nên những ai cư xử vô đạo với cha mẹ là đã đánh mất
điều may mắn đó, vì họ tự đưa mình xuống thấp hơn cõi người. Đạo lý phương Đông
không bao giờ cho phép người con trực tiếp lên án cha mẹ, đừng nói chi đến chuyện
đối xử vô đạo hay nhẫn tâm tàn hại, cho dẫu đó là những người mang trọng tội. Đạo
lý, nếu cần phải duy trì để giữ giềng mối cho sự vận động của guồng máy xã hội,
sẽ được thực hiện bởi Trời, bởi phép nước hoặc bởi một người nào khác.
Trong sách Mạnh Tử, ông Đào Ứng đã giả định một vấn
đề nan giải để đề nghị Mạnh Tử đưa ra được giải pháp. Ông Cổ Tẩu – cha vua Thuấn
– là người cực ác, giết người phải tội chết, ông Cao Dao là người chấp pháp muốn
bắt ông Cổ Tẩu để xử tử theo luật pháp, thì vua Thuấn phải xử lý thế nào? Vua
Thuấn là con, xét về tình thì dĩ nhiên phải bảo vệ cho cha là đạo trời; nhưng
vua Thuấn lại là vua, nên xét về lý thì theo luật phải xử tội cha để duy trì trật
tự xã hội là đạo người. Mạnh Tử đã đề xuất một giải pháp mang tính điều hòa sâu
xa, đượm đầy ý nghĩa nhân văn cao viễn, mà mãi đến ngày nay vẫn còn là bài học
kinh điển về đạo lý làm người:
“Thuấn sẽ xem việc bỏ thiên hạ như bỏ một đôi dép rách, lén
đưa cha đi trốn, lần theo bờ biển mà ở, suốt đời vui vẻ, vui mà quên đi thiên hạ”(2).
Trong mọi nền văn học, triết học nhân loại có lẽ khó có một
giải pháp nào hay hơn được nữa. Tìm được sự hòa điệu cho mâu thuẫn giữa lý và
tình, giữa hiếu và tình, giữa hạnh phúc và trách nhiệm… vẫn luôn là vấn đề nan
giải muôn thuở của con người. Lắm khi bước được ra khỏi vòng tranh chấp, con
người đã thấy đời đổ tan hoang với những nỗi lòng thê thiết. Nếu vua Thuấn cứ
căn cứ theo luật pháp cho phép ông Cao Dao xử tử cha mình, cho đúng với nghĩa “pháp
bất vị thân” thì trước mắt có thể duy trì được giềng mối xã hội, nhưng chắc
chắn sẽ để lại một vết thương trầm trọng không gì cứu vãn được trong nền đạo lý
làm người cho muôn ngàn thế hệ mai sau.
Tấm lòng của cha mẹ đối với con cái là vô bờ bến, mà lắm khi
cuộc sống xô bồ trong thực tế nghiệt ngã đã khiến chúng ta không nhận ra điều
đó, để đến khi nhận ra được thì có khi chỉ còn ôm một mối hận trong đời. Trong
bộ phim The Edge of Heaven của nhà văn Đức gốc Thổ Nhĩ Kỳ Fatik Akin,
nhân vật chính Nejat – một giáo sư văn học, do một ngộ nhận mà giận cha mình
không muốn nhìn mặt. Cho đến khi vào ngày lễ Eid Al-Adha của những người Thổ để
tưởng nhớ sự tích Ibrahim tuân theo lệnh của Thượng đế, hiến tế con trai độc nhất
của mình là Ishmael cho Ngài (tức câu chuyện Abraham hiến tế con mình là Isaac
trong kinh Cựu ước), anh nhớ lại thuở bé, khi nghe câu chuyện đó, Nejat đã
hỏi cha anh sẽ làm gì nếu Thượng đế bắt ông phải làm như vậy, thì người cha trả
lời: “Cha thà làm kẻ thù của Thượng đế chứ không bao giờ làm tổn thương đến con
của cha” (I’d rather make an enemy of God than harm my child)(3). Chỉ một
hồi tưởng đó đủ để Nejat tìm được sự hòa giải với cha mình, khi ngồi trên bãi
biển để đợi cha về. Câu trả lời đó nói lên được tất cả tấm lòng của những người
làm mẹ, làm cha trong khắp thiên hạ. Liệu có một lý tưởng nào cao cả hơn, có tấm
lòng nào lớn lao hơn câu nói đó?
Khi còn học lớp đệ ngũ (lớp 8 bây giờ), cô giáo dạy văn cho
chúng tôi làm một bài văn nghị luận về một câu nói của cụ Tú dặn con lúc lâm
chung, trong tác phẩm “Nửa chừng xuân” của nhà văn Khái Hưng:
“Ở đời không có gì xấu hơn sự quên ơn. Cừu nhân, ta không sợ
bằng ân nhân. Ta chỉ lo sẽ xảy ra sự gì khiến ta không thể trả được ơn, chứ đối
với kẻ thù thì không có khí giới nào mạnh bằng lòng hữu ái. Lòng hữu ái ấy, nếu
ta đem ra đối đãi với ân nhân thì chẳng hóa ra ta đặt ân nhân ta ngang hàng với
kẻ địch của ta ư?”.
Từ những lời cô giảng, lớn lên tôi mới thấm thía thêm rằng, đối
với một cừu nhân ta có thể quên đi như quên một thứ gì đó xấu xa, nhơ bẩn trong
đời, chẳng có gì đáng phải bận tâm thêm nữa; nhưng đối với ân nhân mà không báo
đền được thì buồn và ray rứt lắm. Mà sống trong đời, có mấy ai lại không chịu
ơn người khác? Sống, có nghĩa là ta đang mang ơn cuộc đời. Chừng nào ta còn tồn
tại trong “cõi người ta” thì ta cứ mãi mang ơn về tất cả những gì ta đang hưởng
thụ được. Ta phải lao động để sống, cũng chính là để trả ơn đời. Con người sẽ sống
tốt đẹp hơn nếu luôn nhớ rằng mình đang nhận nhiều ân huệ, và trân trọng những
ân huệ đó.
Nhưng trước hết và trên hết, có một mối ân sâu mà ta nhận
ngay khi vừa mở mắt chào đời, và cả đời ta không thể nào báo đáp được, dù chỉ
trong muôn một: đó là công ơn cha mẹ. Phật giáo đã ảnh hưởng sâu xa đến nền
đạo lý Việt Nam qua bài ca dao tuyệt diệu:
Cha già là Phật Thích Ca
Mẹ già như thể Phật Bà Quan Âm
Nhớ ngày xá tội vong nhân.
Lên chùa lễ Phật, đền ơn sinh thành.
Trong tác phẩm Cổ học tinh hoa, cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
cũng có ghi lại một câu chuyện rất giản dị mà vô cùng cảm động:
Dương Phủ, lúc nhỏ nhà nghèo nhưng hết sức cày cấy để phụng
dưỡng song thân.
Một hôm, ông nghe bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ, ông bèn
nói với song thân xin từ biệt ít lâu để đến hầu bậc Vô Tế.
Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão Tăng bảo ông rằng:
– Được gặp bậc Vô Tế chẳng bằng được gặp Phật.
Ông hỏi:
– Phật ở đâu?
Lão Tăng nói:
– Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như
thế này, đi đôi dép kiểu như thế này, thì chính là Phật đấy.
Dương Phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai như thế cả.
Khi ông tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa, mẹ ông nghe tiếng mừng quá,
tức thì vội khoác chăn, đi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bây giờ ông trông ra,
thì hình dáng Phật mà lão Tăng đã nói chuyện cho nghe.
Từ đấy, ông biết cha mẹ trong nhà tức là Phật, chẳng phải cầu
kỳ đi mộ Phật đâu xa nữa.
Báo hiếu cha mẹ là bài học vỡ lòng cho mọi sự tri ân. Nền tảng
để con người sống cho ra một con người, để góp phần xây dựng nên một xã hội
bình ổn chỉ có thể là chữ Hiếu. Chỉ khi chúng ta biết trân trọng công ơn cha mẹ
theo tinh thần bài ca dao đó và câu chuyện trên thì ta mới cảm nhận được vẻ đẹp
của sự tri ân, rồi ta mới cảm nhận được ân huệ của cuộc đời để sống tốt đẹp
hơn. Chúng ta đừng tự lừa gạt mình và đừng để bị lừa gạt bởi những danh từ kêu
to nhưng sáo rỗng về lý tưởng, về tình yêu dành cho nhân loại, một khi chúng ta
sống chưa xứng đáng là một người con. Chỉ khi nào ta sống xứng đáng là một
người con thì ta mới có nền tảng đạo lý để tập sống xứng đáng như một con người.
Chú thích:
(1) http://www.mskousen.com/2008/03/me-and-william-f-buckley-a-true-story/
(2) Thuấn thị khí thiên hạ, do khí tệ sỉ dã; thiết phụ
nhi đào, tuân hải tân nhi xử, chung thân hân nhiên, lạc nhi vong thiên hạ.
(Mạnh Tử, Tận Tâm thượng, 35).
(3) http://www.nbrmp.org/features/ TheEdgeofHeaven.cfm.
1/5/2024
HUỲNH NGỌC CHIẾN
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét