Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2024
Hồi ký Nguyễn Hiến Lê 1
Vài lời thưa trước
[1] Đổi ra bát tự, bốn can bốn chi
để lấy số Tử bình hay Hà Lạc thì tôi sinh năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quí
Mùi, giờ Tân Dậu.
[1] Nghĩa đen là “Địa lí ăn mía”. Ăn mía thì hít hết nước rồi bỏ bã. Nghĩa bóng là sách đó rút hết tinh tuý môn địa lí rồi. Người Trung Hoa dùng nhiều hình ảnh ngộ nghĩnh mà đúng.
[1] Thời
đó giá vàng khoảng 25 đồng một lượng.
[5] Hệ
thống giáo dục công cộng dưới thời Pháp thuộc trước 1945, bắt đầu từ khi trẻ em
bước vào ngưỡng cửa của cấp Sơ Đẳng (Élémentaire), gồm có 3 năm: lớp
Năm tức lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin), lớp Tư tức lớp Dự Bị (Cours Préparatoire)
và lớp Ba tức lớp Sơ Đẳng (Cours Élémentaire). Sau lớp Ba nếu thi đậu bằng Sơ Học
Yếu Lược thì được thi “Concours lên lớp Nhì”, nếu đậu thì được học tiếp 3
năm cấp Tiểu học (Primaire Supérieur) gồm lớp Nhì Nhất Niên (Cours
Moyen Première Année), lớp Nhì Nhị Niên (Cours Moyen Deuxième Année) rồi đến lớp
Nhất (Cours Supérieur) và cuối năm này thì thi bằng Tiểu Học Cụ Thể (Certificat
d’Études Primaire Supérieure). (Bs Bùi Minh Đức, Thế hệ giáo khoa thư, tạp
chí Sông Hương số 230, tháng 04-2008, http://tapchisonghuong.com.vn/modules/printview.php?ID=102).
(Goldfish).
Còn chế độ tiểu gia đình ở phương Tây bây giờ thì thôi, tôi
ngán quá! Chẳng phải chỉ riêng tôi, các bạn già của tôi cũng vậy, mà ngay trong
số nhà văn, nhà báo Âu, Mĩ cũng ngán nữa. Cuối cuốn Tương lai ở trong tay
ta (Cảo Thơm - 1962) tôi đã chép hai cảnh thương tâm do bà Pearl S. Buck kể
lại: cảnh một bà già muốn được ngủ một đêm với một đứa cháu nội nhỏ mà phải xin
phép con trai của mình, cha đứa nhỏ, ông con cho phép sau khi dặn kĩ: “Chỉ lần
này thôi nhé!”; và cảnh một ông già khi bước chân vào một viện dưỡng lão, quay
lại nhìn con trai, nghe nó dặn nhỏ: “Ba đừng nói hớ tên gia đình mình ra nhé”.
Khi cha tôi mất, tôi đã biết lo về thân phận của mình, nhưng
tuổi đó chỉ ngủ một đêm, sáng dậy đã quên hết. Lo thì lo vậy, chứ không biết
siêng học. Không còn cha nhắc nhở, kiềm chế nữa, tôi bỏ bê việc học trọn một
niên khóa. Tôi vẫn đi học đều đều, không trốn buổi nào, nhưng thường đi sớm mà
về rất trễ vì cùng với bạn thơ thẩn trên bờ đê tìm cỏ gà, bắt dế. Tối tối, tôi
và em trai tôi rủ nhau ra chơi ở cột đồng hồ - một cột sắt cao khoảng 3 thước,
trên có một đồng hồ, lớn như đồng hồ chợ Bến Thành; cột dựng ở giữa ngã năm,
bên bờ sông, đầu ngõ Phất Lộc trông ra, cột đó nay vẫn còn. Thời đó đường Bờ
Sông chỉ trải đá, chưa tráng nhựa, chiều hè gió ngoài sông thổi vào, bụi mù,
thành phố phải dùng những xe bò kéo chở nước đi tưới. Tối, có ba bốn ngọn đèn
điện sáng trưng, các loài sâu có cánh bu lại, trẻ con mấy phố và ngõ chung
quanh cũng bu lại chạy nhảy trên một cái nền tròn rộng, bắt cào cào, bươm bướm,
dế, cả cà cuống nữa.
Đã sẵn đà rồi, mấy năm sau tôi học dễ dàng. Chỉ có niên khóa lớp nhì năm thứ nhất (Moyen première année), tôi gặp một thầy bất công, giả dối, tôi không ưa, suốt đời tôi ghét nhất bọn giả dối và bọn bán nước, lại thêm mùa đông bị bệnh sưng đầu gối và mắt cá chân, đau nhức vô cùng, phát sốt lên mê man cả tuần lễ, phải nằm liệt giường, uống thuốc Bắc và thuốc Nam gần một tháng mới hết, phải bỏ mất mấy kì thi hằng tuần; nên số điểm của tôi kém, cuối năm tôi phải “đúp”, mặc dầu tôi còn sức lên lớp hơn nhiều bạn khác. Thời đó Pháp muốn hạn chế sự học của mình, không cho cuối hè được thi lại những môn thiếu điểm. Trong năm đó tôi đã đọc loại sách Livres roses của Pháp, muốn tra những chữ khó, tôi đã nhịn ăn sáng 6 tháng để mua cuốn tự điển Larousse élémentaire illustré. Ngày nay học sinh ở cấp 3 vẫn không có tự điển Việt ngữ để tra.
[1] Bến
đó cũng tựa như cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn, nhưng nhỏ hơn nhiều.
[6] Tên
người thầy này, trong sách có chỗ in là “Chữ”, có chỗ in là “Chử”. Tôi tạm ghi
tất cả là “Chử”. (Goldfish).
Trường Bưởi nổi tiếng nhất ở Bắc cũng như Pétrus Ký ở Nam.
Đa số học trường Bưởi ở trong giới trung lưu, ông cha có Nho học. Những gia
đình giàu có, có thế lực ít nhiều, nhất là theo Pháp thì xin cho con vào học
trường Tây, tốn kém hơn vì phải mặc đồ Tây.
Hai năm đầu, tôi không thích lối dạy của vài giáo sư mà sức
khoẻ cũng kém, lại bị sưng đầu gối, mắt cá chân, phải nghỉ học non một tháng. Lần
này nhờ uống một thứ thuốc ngâm rượu gồm 4, 5 vị rất nóng: quế chi, đại hồi, tiểu
hồi, xương truật… và xông chân bằng khói cành dâu đốt cháy, tưới nước tiểu mà bệnh
hết luôn, không tái phát nữa. Gần đây tôi mới biết bệnh đó là bệnh phong thấp,
sưng khớp xương cấp (rhumatisme articulaire aigu), có thể biến chứng, hại cho
tim; thời đó những gia đình nghèo như nhà tôi, đau nặng thì nhờ số phận, nhờ trời
hết, chứ tiền đâu mà đi bác sĩ: mỗi lần coi mạch phải trả 5 đồng, bằng hai chỉ
vàng. Mới mạnh được ít tháng thì bị mụn ghẻ… Mụn ghẻ nổi khắp người, mưng mủ
lên, nửa năm mới hết, nên học chỉ vào hạng khá - khoảng thứ mười trong lớp
thôi, nhưng cũng được phần thưởng vì xuất sắc về môn: Toán, Sử.
Thầy Foulon trái lại, cao lớn, có lẽ cao hơn một thước tám,
lúc nào cũng hấp tấp, rạp mình xuống lái chiếc xe “cuốc” (course), có vẻ khác đời,
chứ không hẳn là một triết nhân.
Ở làng Hạ Đình, tôi nhiều lần rẽ vào thăm nhà thờ cụ Lê Đình Duyên, thầy học của ông nội tôi mà cũng là ông nội chồng một bà cô tôi, con gái cụ Đổ Uẩn mà chương II tôi đã nhắc tới. Cụ làm Đốc học Hà Nội trào Tự Đức, thời Hà Nội bị Pháp chiếm, có khí tiết, được sĩ phu Hà Nội rất trọng. Nhà thờ của cụ bằng gạch nhưng rất nhỏ, chiều sâu chưa đầy ba thước, chiều ngang chỉ độ bốn thước, giữa có một cái bệ gạch, hai bên cắm hai tấm bảng “Vinh qui” vua ban khi cụ đậu Hoàng Giáp. Đồ thờ không có gì quí. Phía trước là một nhà mái lá, phía sau là một căn bếp mái lá, bên trái là một cái ao nhỏ. Đất vườn rộng độ một sào. Các nhà Nho chân chính thời xưa đa số nghèo như vậy.
[1] Có
lẽ cụ Nguyễn Hiến Lê muốn nói, trong một năm đậu một bằng Tú tài bản xứ và hai
bằng Tú tài Pháp: một ban Toán (Mathématiques élémentaires) và một ban Triết
(Philosophie). Trần Bích San, trong bài Giáo dục Việt Nam thời
Pháp thuộc, cho biết:
Bậc Trung Học (Enseignement Secondaire) 3 năm: còn được
gọi là bậc Tú Tài Pháp-Việt, bậc Trung Học gồm 3 năm [ngày nay là các lớp 10,
11, 12]. Học xong 2 năm đầu được thi lấy bằng Tú Tài phần thứ nhất
(Baccalauréat, 1ère partie). Đậu bằng này được học tiếp năm thứ ba không phải
thi tuyển. Năm thứ 3 được chia làm 2 ban: ban Triết và ban Toán. (…) Từ niên học
1937-1938 trên toàn cõi Việt Nam đều áp dụng chương trình Pháp-Việt đủ
3 ban: Toán, Khoa Học, Triết. Ngoài ban mình học, học sinh được phép thi tốt
nghiệp các ban khác nhưng phải tự học thêm những môn mà ở ban mình theo học
không có. Học sinh cũng được phép thi bằng Tú Tài Pháp. Học xong năm này thi lấy
bằng Tú Tài Toàn Phần (Certificat de Fin d'Études Secondaire Franco-Indigènes).
Học sinh tốt nghiệp 2 hoặc 3 ban hoặc thêm bằng Tú Tài Pháp được ưu tiên khi
thi vào các trường Đại Học có thi tuyển như các trường Grandes Écoles ở Pháp hoặc
các trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp ở Hà Nội lúc đó.
Họ tới rất sớm, chia nhau người quét sân, lau bộ phản ở giữa
mái hiên, người đun nước, mài nghiên son. Khi bác tôi bắt đầu dạy thì bọn lớn
đưa bài họ đã chép ở nhà cho bác tôi chấm câu, trong khi họ đứng bên trả bài
hôm trước, xong rồi, bác tôi mới giảng bài mới cho, có khi cho họ tập làm câu đối
ngăn ngắn. Không ai đủ sức để học làm thơ, làm phú. Họ chỉ cốt học được, viết
được một văn tự bán nhà bán ruộng và kí tên để sau làm tổng lí.
Thời đó tôi ham biết văn thơ Trung Quốc, nghe những tên
như Văn tâm điêu long, Chiêu minh văn tuyển, Tiền Xích bích phú, Qui
khứ lai từ là trong lòng vang lên một điệu trầm trầm như nhớ nhung cái gì,
nhưng khi gợi ý với bác tôi thì người gạt đi: “Cháu học tiếng Tây mà muốn biết
những cái đó làm gì? Phải tốn công mười năm đèn sách mới hiểu được, mà cái học
Nho bây giờ đã thành vô dụng rồi. Thím Tư (tức mẹ tôi) muốn cho cháu về đây học
bác để sau này đọc được gia phả bên nội bên ngoại. Bác nghĩ vậy là phải, còn
văn thơ cổ nhân thì thôi. Để sức mà tìm hiểu khoa học, cháu”.
Không, cái đức giản dị, thanh bạch của cổ nhân, người không hề
đánh mất chút nào cả, suốt đời giữ được trọn. Thân hình mảnh khảnh, thấp, trán
rộng và cao. Vẻ mặt nghiêm, nhưng tính tình thì khoan, lúc vui thường nói đùa nữa.
Ở nhà bận một bộ áo cánh bằng vải tám, thô, dày, khuy cài bên trái theo kiểu
xưa, chứ không ở giữa ngực; đi dạy học thì chít thêm cái khăn lượt, khoác thêm
chiếc áo dài vải thâm; khi nào xuống Hà Nội - trong 13 năm tôi chỉ thấy ba lần:
lần cha tôi mất, lần bà ngoại tôi mất, và lần thay mặt bác Ba đi điếu cụ Lương
văn Can - người mới bận chiếc áo the duy nhất của người, có lẽ may từ khi cưới
vợ và tới khi mất vẫn còn.
Nhờ những buổi bắt châu chấu, bắt ếch rất vui đó, chúng tôi có thêm được chút protéine; vì dân quê Bắc, Trung từ xưa tới nay, thời nào cũng thiếu protéine, lúc nào cũng thèm thịt. Đọc cuốn Việc làng của Ngô Tất Tố, chúng ta thấy dân quê ganh tị nhau từng miếng thịt mỏng dính, dài hai đốt tay, chúng ta không nên khinh họ mà nên thương hại họ. Nhiều vụ đánh nhau, gây thương tích, kiện nhau ở phủ huyện, nguyên do là tại chia thịt không đều. Những câu tục ngữ như “Một miếng ở làng bằng một sàng xó bếp”, những tục khao vọng, việc chẳng quan trọng gì như được lên lão, mua được chức nhiêu, xã, đậu bằng sơ học (hết lớp ba), cũng đặt ra ăn uống linh đình, mời hương chức và bà con tới dự, không có tiền thì bán ruộng, cầm vườn đi, nếu không thì bị làng chê cười, không công nhận địa vị, chức vị, bằng cấp của mình; rồi như thói nhớ ngày giỗ của bà con, hàng xóm còn hơn ngày giỗ nhà mình để lại làm giúp mà được mời ăn; thói đâu động đũa động bát là bu lại; ăn uống no say rồi còn đem phần về nhà nữa: một cục xôi, vài miếng thịt mỏng gói trong cái lá chuối; tất cả những hủ tục mà nhóm Tự Lực văn đoàn và Ngô Tất Tố chế giễu tàn nhẫn, truy nguyên tới cùng thì một phần lớn chỉ tại dân quê thiếu thịt, thiếu protéin.
[1] Mãi
năm năm sau, đi làm có tiền, tôi mới mua được bộ đó trong một tiệm tạp hoá ở Bạc
Liêu.
Người giàu nhất trong làng tôi, họ Phùng, có một ngôi nhà
ngói đại khái cũng như nhà tôi, và sáu mẫu ruộng. Ông ta trước làm ruộng, có hồi
làm lí trưởng, có uy tín, được bầu làm tiên chỉ. Chức này như chức cố vấn, có
danh chứ không có quyền. Tôi không biết ông ta, nghe nói không hống hách gì mấy,
rất có tinh thần gia tộc, bênh vực người trong họ, muốn rằng họ ông luôn luôn mạnh
nhất trong làng, mà quả thật, không họ nào lớn, nhiều người làm hương chức bằng
họ ông. Sở dĩ ông giàu được phần lớn nhờ cần và kiệm: lúa dư ăn, nhưng lúc nào
giá cao, ông bán để đổi ngô, bắt cả nhà ăn độn. Ông có một người con học bác
tôi, thông minh hơn các học trò khác nên bác tôi khuyên ông cho con ông sang Việt
Trì học, ông nghe lời và sau cậu bé trạc tuổi tôi, đậu bằng cấp tiểu học, thi
vào vào trường Sư phạm, học thêm một năm, rồi được bổ làm trợ giáo (instituteur
auxiliaire) ở trường sơ học Phú Xuyên, tổng tôi, lương 20 đồng một tháng, bằng
hai lương hương sư.
Trái lại, nếu họ tức khí, ham danh, ham ganh đua, ưa nịnh, dại
dột bán đi hai mẫu ruộng để mua phiếu trong làng, đút lót quan phủ mà tranh chức
lí trưởng thì mau suy lắm. Họ “bận việc quan”, vợ họ ham danh bà lí, sinh làm
biếng, bỏ bê vườn ruộng, mà ruộng bán cũng gần hết rồi, huê lợi không có gì,
làm sao sống được? Lí trưởng không có lương, chỉ được thu tiền trà nước mỗi khi
thị thực đơn từ, văn tự của dân, có thể mùa thu thuế cũng được hưởng một số tiền
nào đó do hương hội, tiên chỉ ấn định tùy theo tục lệ mỗi làng; nhưng những số
thu đó không đủ ứng những số chi tiêu khá lớn vì thường phải ra phủ, phải đút
lót cho quan, phải tiếp đãi bạn hương chức trong làng, nhất là phải tỏ ra “lịch
thiệp”, văn minh, chứ không “đình dù” (tiếng này vốn là tên một làng, Tự Lực
văn đoàn dùng với nghĩa quê mùa, hủ lậu), nói trắng ra là phải biết hút thuốc
phiện và đi cô đầu. Tới cái mức đó thì bán hết gia sản cũng không đủ, và tôi biết
một ông lí - em ruột ông nhà giàu làm thầy đồ và thầy lang kể trên - khi làm hết
khóa ba năm rồi, phải bỏ làng vào Nam làm lao công, rồi sau mua bán ve chai để
sống và gởi thây luôn ở Cao Lãnh. Một ông lí khác sau khi bán hết tổ nghiệp, bỏ
làng, về quê vợ sống, không biết làm nghề gì, con cái không đứa nào được học tới
lớp nhì.
Từ trăm năm trước, đất đai khai phá hết rồi, bạt hết đồi, gò
để biến thành ruộng, rồi bờ ruộng mỗi ngày một xén lần tới mức chỉ còn đặt vừa
một bàn chân, không còn cách nào mở mang thêm đất cày được nữa. Xưa mỗi gia
đình có được bốn năm mẫu; dân số mỗi ngày một tăng, nay mỗi gia đình chỉ còn
trung bình được năm bảy sào để nuôi năm sáu miệng ăn. Phương pháp canh tác vẫn
cổ hủ như đời Minh Mạng, Thiệu Trị; cày bừa vẫn là kiểu cũ, phân bón vẫn là
phân chuồng, không có phân xanh, lúa giống cũng không thay đổi, công việc thủy
lợi thiếu hẳn, năng suất của ruộng không tăng mà dân số thì tăng, nên mỗi ngày
một nghèo thêm. Trong làng lại không có một công nghệ nào; ngoài những ngày
mùa, dân không biết làm gì để kiếm thêm lợi, như vậy là đa số non nửa năm ở
không, đàn ông thì thả diều, chơi bời lêu lổng, đàn bà thì ngồi lê đôi mách.
Bùi Hiển trong Nằm Vạ và Mạ Đậu có giọng
hoạt kê, cho ta thấy vài hài kịch trong đời sống dân quê Nghệ-Tỉnh.
[1] Tâm
trạng tủi nhục đó do tổ chức hương thôn của mình. Mỗi làng là một địa phương tự
trị, có tục lệ riêng, tài sản riêng (công điền), gần như một triều đình riêng.
Người nơi khác tới có cảm tưởng như vô một xứ lạ, bị dân làng nghi kị, không muốn
cho nhập tịch – vì không muốn chia công điền cho họ - và chỉ cho ngụ cư (ngày
nay gọi là tạm trú). Dân ngụ cư không có chút quyền lợi gì cả (không được dự việc
làng không được chia ruộng) nên bị khinh. Đã bị nghi kị lại bị khinh, tất khó
làm ăn, nên không ai muốn bỏ quê hương mà đi ngụ cư nơi khác cả, cho việc li
hương phải ngụ cư là một tủi nhục. Ngày nay chế độ xã hội chủ nghĩa lại áp dụng
chính sách thời phong kiến, chính sách địa phương tự trị đó cũng phân biệt tạm
trú và thường (có hộ khẩu) gây rất nhiều rắc rối và tham nhũng. Bao giờ nước
mình mới văn minh được?
Trong lớp tôi, hồi đó còn một anh nữa, tên là Thiều, nhỏ người,
thông minh, học lơ mơ mà cũng vào hạng trên trung bình, ít nói, hay mỉm cười bí
mật, bỗng nhiên thôi học, và mùa xuân 1930 tôi thấy anh đứng soát vé ở ga xe lửa
Việt Trì. Chúng tôi chỉ nhìn nhau, khẽ mỉm cười. Tôi hiểu rồi: anh thôi học để
làm cách mạng và lãnh nhiệm vụ đưa đón các đồng chí từ trong nước qua Trung Hoa
hoặc từ Trung Hoa về. Việt Trì là một trạm liên lạc quan trọng của đảng.
Tôi oán cách người Pháp dùng môn chánh tả để loại thí sinh.
Cách đó vô lí, tàn nhẫn. Một người đứng yên một chỗ đọc (lệ trường thi như vậy?),
không có người thứ nhì đứng ở cuối phòng đọc lại cho, thì chỉ những thí sinh ngồi
ở gần nghe rõ, ngồi ở xa tất bị thiệt thòi nhiều. Rồi cái lệ nghe không rõ mà
không được phép xin giám khảo đọc lại cho, thì như vậy đâu còn là môn chánh tả,
chỉ là môn nghe; thí sinh tai hơi nặng, hoặc ít được học giáo sư Pháp thì phần
rớt gần như chắc chắn. Mà rớt môn chánh tả thì những môn khác đáng được bình,
ưu cũng không chấm.
- Con đỗ vào trường Công chánh rồi mẹ ạ. Đỗ đầu, được học bổng.
[1] Ông Kiên là cháu nội cụ nghè Lê Đình Duyên, thầy học của ông nội tôi mà tôi đã nói ở trên.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Trâu chọi - Truyện ngắn của Lê Mạnh Thường Quá trưa. Nắng giãy nảy. Gió lừ đừ. Ve kêu sốt sắng. Lão Sung loạng choạng rẽ xe vào cổng. ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét