Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2024

Hồi ký Nguyễn Hiến Lê 2

Hồi ký Nguyễn Hiến Lê 2

Những Năm Ở Đại Học
HỌC XÁ PAUL BERT VÀ BOBILLOT
Năm đó có ba anh bạn có tú tài Pháp hoặc bản xứ xin vô học trường Công chánh, họ khỏi phải thi, thành thử lớp học có độ hai chục người. Năm đầu còn học bổ túc về văn hóa, chương trình gần như ban Tú tài toán, nhưng nhẹ hơn, và thêm mỗi tuần vài giờ vẽ, thực tập gì đó.
Tôi, anh Hách bạn cùng khóa ở trường Bưởi và một anh nữa ở trường Khải Định (Huế) học không kém ba anh có tú tài, mặc dầu những môn trường dạy, họ đã học cả rồi. Môn toán khá nặng, gồm cả tú tài I và nửa tú tài II, tôi sàn sàn như ba anh ấy; chỉ có môn luận Pháp văn là tôi kém mỗi một anh, anh Nghiêm Xuân Việt học trường Albert Sarraut từ nhỏ và đậu tú tài Pháp, ban toán, hạng bình thứ. Tôi chép lại điều đó để chứng tỏ rằng học sinh xuất sắc các trường Cao đẳng tiểu học Pháp Việt nếu có đủ sách, có người hướng dẫn, thì đậu Cao đẳng tiểu học rồi, học một năm, thi nhảy tú tài I là điều không khó, nếu lại chuẩn bị từ hồi lên năm thứ ba, tự học luôn cả chương trình tú tài I thì có thể đậu Cao đẳng tiểu học và tú tài I cùng một năm.
Cuối năm đầu, thi lên lớp tôi đậu hạng nhì, sau anh Việt và trên hai anh tú tài kia. Nhưng hai năm sau tôi thụt xuống hạng 5 và 6 vì tôi không thích một số môn chỉ cần trí nhớ, nhất là không thích môn họa đồ (topographic), gọi nôm na là môn nhắm máy, đo đất.
Năm đầu cư xá của chúng tôi và các trường Nông lâm, Kiến trúc, Mĩ thuật ở một ngôi nhà lầu không có vườn, một tiệm buôn cũ của Pháp (?) tại đường Paul Bert; từ năm thứ nhì, cư xá Paul Bert dời hết qua khu Đại học đường Bobillot[1] chung với các trường khác; đây có sân rộng, phòng ngủ ở trên lầu, thoáng, trông ra đê Nhị Hà. Những giờ có “cua” (cours) chúng tôi phải lại lớp học ở Sở Thanh tra Công chánh, trên bờ sông Nhị, gần đường hàng Vôi. Giáo sư đa số là kĩ sư Pháp, khi thực tập ngoài trời thì ra bờ sông hoặc các vườn hoa. Mỗi buổi chiều được phép ra phố từ 17 đến 18 giờ, chủ nhật được ra trọn ngày. Một số bạn ra phố rất thường; tôi trái lại chỉ chủ nhật mới về nhà một lúc, mặc dầu nhà chỉ cách cư xá hơn một cây số vì cảnh nhà rất buồn: mẹ tôi hồi đó không bán trái cây ở chợ Đồng Xuân nữa mà buôn đồ lên Vĩnh Yên về Hà Nội giao cho khách hàng, mỗi chuyến mất ba bốn ngày. Trong nhà chỉ còn ba em tôi: em trai đã đậu bằng tiểu học, thôi học, nhưng đương thời buổi kinh tế khủng hoảng không sao kiếm được việc làm, phải ở không; em Oanh đương học nghề kim hoàn, cũng bỏ dở về nhà, em Mùi không học gì cả. Thế là ba anh em, sau hai bữa cơm rau, không có việc gì, ở không suốt ngày, gia cảnh lại muốn suy. Mẹ tôi muốn tập cho hai em gái tôi buôn bán, nhưng đứa lớn không muốn học mà đứa nhỏ thì nhỏ quá. Người rất buồn. Ít khi tôi về nhà mà gặp người.
Vì vậy ba năm ở Đại học tôi không vui bằng những năm ở Trung học. Nghỉ hè năm đầu, tôi được trường cho ra nghỉ mát ở Đồ Sơn nửa tháng và tôi còn giữ được vài hình ảnh đẹp: những đồi thông rì rào bên bờ biển, một ngôi đền ở lưng chừng núi nhìn ra biển khơi, một mỏm đá ở cuối bán đảo, ba phía là biển mênh mông, rùng rợn dưới ánh trăng mờ mờ. Một buổi sáng tôi nhảy chuyền các mỏm đá trên một bãi vắng, ngược làn gió theo một làn hương và rốt cuộc tìm được trong một khe đá một bông dứa dại, ngào ngạt, bẻ đem về treo ở phòng...
Hè năm thứ nhì tôi về Phương Khê thì bác Hai tôi đau, không rõ bệnh gì, sức suy kiệt lần lần rồi tắt thở một buổi xế trưa. Chôn cất xong, tôi ở lại nửa tháng rồi về Hà Nội. Ở đâu không khí cũng buồn, chỉ mong sớm đến ngày tựu trường.
Niên học thứ nhì 1932-1933 để lại cho tôi hai kỉ niệm: buổi Bảo Đại mới ở Pháp về chưa đầy một năm, lại thăm trường. Sinh viên các trường đều tụ họp cả ở giảng đường Bobillot, Bảo Đại bận quốc phục: khăn xếp vàng chữ nhất, áo gấm vàng, quần lụa trắng, ngồi giữa, hai bên là Thống sứ Bắc kì và Viện trưởng Đại học Thalamas.
Thân hình to lớn, khỏe mạnh, da trắng trẻo, nhưng vẻ ngượng nghịu. Bảo Đại đứng dậy, ngoáy ngoáy cái cổ - cơ hồ khó chịu vì cổ áo - rồi móc trong túi một miếng giấy nhỏ, cầm lên đọc. Chỉ có vài hàng tiếng Pháp, đại ý là khuyên chúng tôi chăm học để sau này giúp nước, ông ta trông mong ở chúng tôi nhiều và dành tất cả cảm tình cho chúng tôi. Nói không đầy một phút mà cũng phải cầm giấy.
Một lần nữa đi nghe Phạm Quỳnh diễn thuyết buổi tối, cũng ở giảng đường. Các quan lớn Pháp, Việt một số thân hào Hà Nội ngồi cả trên sân khấu; sau khi được giới thiệu, Phạm Quỳnh đạo mạo trong quốc phục khăn đen, áo thâm với cặp kính trắng, đứng dậy, tiến ra cầm một xấp giấy để đọc; lời lẽ bóng bảy, nhưng giọng đều đều mà bài diễn văn - bằng tiếng Pháp - dài quá, nghe chán quá. Buổi tối đó tôi chỉ nhớ cái đầu không có một sợi tóc, nhẵn bóng như trứng đà điểu của ông Viện trưởng Thalamas.
Tôi nhận thấy tình bạn ở Đại học không đằm thắm bằng ở Trung học. Tôi chưa thấy một hội cựu ái hữu cựu học sinh tiểu học nào cả; mà cũng không thấy hội cựu ái hữu sinh viên Đại học, chỉ có những hội của những người cùng nghề luật sư hay y sĩ, mục đích để bênh vực quyền lợi chung, không gọi là hội ái hữu được. Chỉ các trường trung học là có nhiều hội ái hữu học sinh, như hội cựu học sinh Chu Văn An (trường Bưởi), Khải Định, Pétrus Ký, Gia Long, trung học Vinh, Cần Thơ, Long Xuyên (Thoại Ngọc Hầu)… hội nào cũng rất đông, buổi họp nào cũng rất vui. Có nhiều nguyên nhân, theo tôi nguyên nhân chính là trong tuổi thiếu niên ở trung học, tình cảm người ta dồi dào nhất. Ở tiểu học, trí óc chưa phát triển, tình cảm còn hồn nhiên, chưa có thắc mắc, suy tư, bạn chỉ là bạn chơi những trò đánh bi, đánh đáo, chưa phải là bạn tâm tình. Lên tới trung học, tới tuổi dậy thì, chúng ta mới hiểu và thích cái đẹp của thiên nhiên, của thơ văn, của tâm hồn, của thiếu nữ, tình xuân của ta phơi phới, ta vui khi nhìn ánh vàng ban mai trên ngọn cây, buồn khi nghe tiếng gà gáy hoặc cuốc kêu giữ trưa, ta rạo rực trước dòng nước loang loáng ánh trăng trong một không khí thoang thoảng hương bưởi, du dương tiếng sáo, ta mơ mộng một cuộc đời mai sau, ta tạo cho mình một lí tưởng, lí tưởng càng cao thì lòng ta càng dào dạt, và ta muốn có bạn tâm sự để thố lộ những thắc mắc, san sẻ những ước mơ của mình. Vì vậy mà những bạn thân nhất của ta thường là những bạn ở Trung học.
Lên tới Đại học, qua tuổi mộng mơ rồi, chúng ta có óc thực tế hơn. Mỗi người đã có một hướng đi rõ ràng trong đời, lo chuẩn bị cho tương lai, cho nên ít tâm sự với nhau.
Trong số bạn học ở trường Công chánh, chỉ có anh Đỗ Văn Hách là hoàn cảnh, tính tình hơi giống tôi, bình dị, ngay thẳng, nhưng không thích thơ văn như tôi. Nghiêm Xuân Việt, có khiếu về thơ văn, nhưng tính tình ít hợp, phù táo, quá cương. Sau khi ra trường, hai anh ấy đều làm việc ở trong Nam như tôi.
Tóm lại đời sinh viên của tôi trôi đều đều, không có kỉ niệm gì đặc biệt.
MẤY THÁNG ĐỢI BỔ - HỌC CHỮ HÁN
Tháng 6 năm1934 [2], thi ra trường, tôi đậu hạng 6, hơn người thứ 7 khá nhiều điểm, sáu người đều sàn sàn như nhau.
Mẹ tôi vui nhưng không để lộ ra, cũng chẳng ăn mừng gì cả.
Người mừng nhất lại là bác Ba tôi - cụ Phương Sơn - ở Long Xuyên. Bác tôi cho rằng thời đó ở Đại học ra cũng như thời xưa đậu Cử nhân, và tôi là người đầu tiên trong nhà đỗ đạt, nên cho tôi một bài thơ:
Người mừng nhất lại là bác Ba tôi - cụ Phương Sơn - ở Long Xuyên. Bác tôi cho rằng thời đó ở Đại học ra cũng như thời xưa đậu Cử nhân, và tôi là người đầu tiên trong nhà đỗ đạt, nên cho tôi một bài thơ:
MỪNG LỘC ĐÌNH [3] THI ĐẬU
Hăm sáu tháng năm[4] giữa buổi trưa,
Một phong dây thép trạm xa đưa.
Sussès [5] Hà Nội coi không chán,
Tiệp báo Sài Gòn [6] chậm cũng vừa.
Bút chẩm [7] ai bàn tài bất đệ,
Dù che [8] ta chắc phúc còn dư
Mừng này biết lấy gì cho nhỉ?
Hai chữ khiêm khiêm [9] nhắc đạo xưa.
Riêng tôi thì rất buồn. Ngày đi coi bảng, bạn bè thi đậu, người nào cũng hớn hở mà tôi thì không muốn về nhà nữa. Đậu cao hay thấp, điều đó tôi ít quan tâm tới, nhưng “Lúc đó đương thời kinh tế khủng hoảng, tôi biết đợi nửa năm nữa chưa chắc đã được bổ mà cảnh nhà tôi lại túng bấn. Ăn cơm với rau tôi không ngại, ngại nhất là trông nét mặt ưu tư của mẹ tôi, và thấy mình đã khôn lớn mà cứ nằm dài ra ăn báo cô, không giúp người được gì. Người ta chỉ chiều mới thấy buồn, tôi hồi ấy sáng dậy đã thấy buồn rồi, ước sao được ngủ luôn một giấc sáu bảy tháng. Nói gì đến buổi chiều nữa. Mỗi lần mặt trời gần lặn, nỗi chán nỗi chán nản của tôi dâng lên mênh mông như bóng tối. Tôi không muốn ở nhà, đi thơ thẩn ở ngoài đường cho hết ngày”[10].
Vì về nhà phải thấy cảnh bốn anh em ăn rồi ở không, chẳng có một công việc gì. Mẹ tôi thì đem hàng tạp hoá lên bán ở Vĩnh Yên rồi mua hàng ở Vĩnh Yên chở về Hà Nội, vất vả, cực nhọc, mỗi tuần đi hai chuyến, ở Hà Nội độ hai ngày, nhưng về nhà chỉ có hai buổi tối. Cả nhà chỉ trông cậy vào tôi, mà tôi thì nằm “ếp rệp” - tiếng thời đó dùng để mỉa hạng người thất nghiệp.
Ngay đến về Phương Khê, tôi cũng không thấy vui vì bác tôi đã mất năm trước, tôi chỉ ở ít ngày, qua ngày giỗ rồi xuống Hà Nội.
Một người cháu của mẹ tôi ở phố Hàng Đường vỡ nợ, thiếu người hai ngàn đồng [11] không trả nổi. Trong mười năm, người tiết kiệm được đồng nào, không dám để trong nhà, đành gởi người cháu đó. Họ buôn bán tưởng là phát đạt vì khách hàng đông, nhưng vì bán chịu nhiều, lại tiêu pha quá mức, nên sụp đổ rất mau. Vụ đó đau xót cho người nhất, nhưng người không phàn nàn gì cả, âm thầm chịu đựng và làm việc tăng lên, ít khi về nhà để rán gây dựng lại. Nghị lực của người dẫu đàn ông cũng ít ai bằng.
Nhớ lại mấy tháng đó, chỉ có bốn ngày thăm cảnh Lạng Sơn với hai anh bạn cùng thi đậu là vui: anh Huỳnh Diên Phú bao tiền xe lửa cho tôi, và anh Nguyễn Văn Hợp tìm chỗ cho chúng tôi ở trọ. Đường xe lửa Hà Nội - Lạng Sơn dài 180 cây số, đi mất gần một ngày. Từ ga Đồng Mỏ trở lên, hai bên đường toàn là núi đá thấp, rất buồn. Nay tôi giữ được hình ảnh những con đường vắng vẻ, sạch sẽ, mát mẻ, thoang thoảng hương long não trong thành phố; buổi chợ tám giờ sáng đã tan với những người Mán bận quần áo tím, đeo gùi dựng sản phẩm trong rừng ra bán; con sông Kì Cùng hai bờ đá dựng đứng, dòng nước cuồn cuộn ở dưới sâu sáu bảy thước; cái hang Gió ở trên một ngọn núi đá nhìn xuống thành phố; nhất là cái ánh sáng xanh mờ mờ như ánh trăng trong động Tam Thanh. Rất tiếc là lần đó chúng tôi không đủ tiền để đi thăm cửa Nam Quan.
Để cho qua ngày, tôi tự học lại chữ Hán. Mỗi ngày, buổi chiều tôi lại thư viện Trung Ương đường Trường Thi, mượn bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh mới xuất bản hai năm trước (1932) rồi bắt đầu từ chữ A, tìm những từ và từ ngữ nào tôi đoán là thường dùng mà chưa biết thì tôi chép lại trong một tập vở, mỗi ngày độ chép ba bốn chục từ; tôi lại mượn cuốn Grammaire chinoise của Cordier cũng chép lại những điều quan trọng. Tôi ở thư viện từ 3 đến 5-6 giờ chiều. Tối hôm đó và sáng hôm sau, tôi học hết những trang đã ghi đó; rồi chiều lại ra thư viện chép bài học sau. Mỗi tuần nghỉ một ngày để ôn lại những bài trong tuần, và đi vô làng Thịnh Hào hoặc làng Hạ Đình thăm các anh em cháu cô cháu cậu của tôi.
Một buổi tối, một anh bạn học ở Công chánh lại chơi, thấy tôi học dưới ngọn đèn dầu, hỏi tôi: “Anh tính thi Tri huyện à?”. Tôi mỉm cười lắc đầu, đáp: “học cho biết vậy thôi”.
Học ba tháng, được độ ba ngàn từ, tôi viết thử một bài bằng chữ Hán độ sáu bảy hàng, đưa một ông bác, cụ Hi Thanh, con cụ Đỗ Uẩn ở Thịnh Hào, xin cụ sửa cho. Cụ đọc rồi chỉ mỉm cười, không sửa gì cả. Có thể không có lỗi, nhưng chắc chắn là ngây ngô, “pas chinois”. Nhưng người con thứ của cụ, anh Nhiếp học chữ Hán khá, làm thợ bạc, thấy vậy, khen tôi rồi để khuyến khích tôi, đi mượn cho tôi một bộ Tam Quốc Chí in thạch bản, có lời bình của Thánh Thán, bảo tôi đọc. Vì đã biết truyện rồi, nên tôi đọc được, mới đầu chậm, sau quen, và rất thích lời bình của Thánh Thán[12].
Vừa đọc xong bộ đó thì tôi được giấy bổ vào làm ở Sở Thuỷ lợi miền Nam Đông Dương. Trước đó, một công ti khai mỏ của Pháp ngỏ ý muốn tôi làm ở Savanakhet, nhưng mẹ tôi ngại xa lạ, không cho tôi nhận (coi bài Tựa cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười). Thâm ý của người là muốn cho tôi làm việc ở Bắc để gần nhà săn sóc các em được. Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng lần này mẹ tôi vui vẻ cho tôi nhận việc: Nam Việt tuy xa nhưng có bác Ba tôi trong đó, thì cũng như gần. Người thu xếp cho tôi một số tiền (ba chục đồng) mang đi, lại đưa thêm hai chỉ vàng (đánh thành nhẫn) để phòng khi thiếu thốn. Mẹ tôi lo cho tôi thật chu đáo.
Hôm nay gần tới buổi hoàng hôn của cuộc đời, ôn lại dĩ vãng, tôi thấy sự thay đổi lớn lao vào giữa đời (khoảng 1950) là do một sự may và vài sự rủi tạo nên. May vì năm 1928, mẹ tôi bỗng nảy ra ý cho tôi học thêm chữ Hán trong hai vụ hè, tổng cộng được bốn tháng với bác Hai tôi, nếu không thì một nhúm chữ nghĩa cha tôi dạy vỡ lòng cho tất sẽ quên hết. Rủi vì năm 1934 ở trường Công chánh ra, gặp hồi kinh tế khủng khoảng mà tôi chỉ đậu vào hạng sáu, phải đợi năm tháng mới được bổ, nên để qua ngày giờ, tôi tự học thêm chữ Hán, vừa tới lúc dược bồ dụng thì tôi đã tạm đọc được sách Hán, nếu không có năm tháng đó thì mớ chữ nghĩa học được của bác tôi chưa dùng được, để lâu cũng sẽ quên nữa. Có số vốn nhỏ đó rồi, trong mười năm sau, cứ lâu lâu tôi lại đọc sách thêm, nhờ bác Ba tôi chỉ dẫn, mà khi bỏ nghề Công chánh và dạy học, tôi mới quyết tâm viết lách, nghiên cứu, thành một nhà văn. Kết quả là ba năm học nghề Công chánh tôi chỉ dùng được hơn mười năm để mưu Sinh, mà vài năm học chữ Hán (tính số giờ thì vài năm đó chỉ bằng 6 tháng liên tiếp chuyên học) lại dùng được suốt đời; nhờ đó một phần lớn mà tôi đã sống trong sạch và phong lưu, lại hiểu biết thêm nhiều, làm quen được một số bạn văn và khá nhiều độc giả, gây được một chút thanh danh cho nhà, đền đáp được phần nào công của tổ tiên mấy đời.
Vậy trong rủi có may, mà ở đời có những cái tưởng như vô ích lại hữu ích vô cùng. Năm 1928, ai chẳng bảo chữ Hán là vô dụng?

Trở lui lên nữa, nếu tôi không mồ côi cha sớm, sự học của tôi chắc đã tấn tới nhiều, không bị “đúp” hai năm ở tiểu học, lại thi đậu vào trường Bưởi ngay từ lần đầu thì năm 1931, đáng lẽ đậu Cao đẳng tiểu học, tôi đã đậu tú tài, rồi sau đậu cử nhân hay tiến sĩ mà thành một “ông lớn” như vài bạn tôi, chứ đâu được làm một “thư sinh” như ngày nay.

[1] Có lẽ toạ lạc tại số 19 đường Bobillot (sau đổi tên thành đường Lê Thánh Tôn). (Goldfish)
[2] Sách in là: “Tháng 9 năm 1934”. Tôi sửa lại theo ĐVVCT: “(…) tháng 6-1934, tôi thi ra trường Công chánh…” (trang 23), vì theo bài thơ của cụ Phương Sơn thì cụ nhận được dây thép (điện tín) báo tin thi đậu vào ngày “Hăm sáu tháng năm” tức 26 tháng 5 năm Giáp Tuất, nhằm ngày 7-6-1934. (Goldfish).
[3] Lộc Đình là tên hiệu của tôi, vì sinh ở ngõ Phất Lộc. Trong nhà, bác tôi chỉ gọi tôi bằng tên đó. [Ở đây cụ Nguyễn Hiến Lê chỉ nói gọn về tên hiệu thôi. Lộc là ngõ Phất Lộc, còn Đình là cái đình không biết thờ ai ở trong (hay ngoài?) ngõ Phất Lộc. (Goldfish)].
[4] Ngày tháng âm lịch.
[5] Tôi đánh điện mỗi chữ đó, nghĩa là thi đậu, kết quả.
[6] Lúc đó bác tôi cũng đợi tin người con trai lớn – anh Tân Phương – thi Tú tài I ở Sài Gòn. Tiệp báo là báo tin thi đậu. [Tân Phương: sách in là Tâm Phương, chắc là sai nên tôi đã sửa lại vì trong các chương sau đều in là Tân Phương. (Goldfish)]
[7] Ám chỉ ngôi ngôi mộ Gò Mẹo cụ tổ sáu đời và ngôi mộ Gò Dù cụ tổ năm đời của tôi ở Phương Khê – Coi chương III. Bất đệ là không đậu.
[8] Ám chỉ ngôi ngôi mộ Gò Mẹo cụ tổ sáu đời và ngôi mộ Gò Dù cụ tổ năm đời của tôi ở Phương Khê – Coi chương III. Bất đệ là không đậu.
[9] Quẻ Khiêm trong Kinh Dịch có câu: “Khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục”, nghĩa là người quân tử nên rất khiêm tốn để nuôi cái đức của mình.
[10] Trong Tự học, một nhu cầu của thời đại.
[11] Số tiền thời đó lớn lắm, bằng 40 lượng vàng, vì tôi nhớ mỗi tháng mẹ tôi chỉ cho bốn anh em chúng tôi tám đồng để đi chợ và tiêu vặt trong nhà. Học sinh nghèo ở trọ trả 2 đồng một tháng, và công nhựt một người thợ tầm thường từ một đến hai hào.
[12] Đoạn từ “Nhưng người con thứ… “, trong ĐVVCT in như sau: “Nhưng người con cả của cụ, anh Nhiếp hơn tôi 15-16 tuổi, chữ Hán khá, làm thợ bạc, thấy vậy khen tôi và để khuyến khích tôi, đi mượn cho tôi một bộ Tam Quốc Chí in thạch bản có lời bình của Thánh Thán, bảo tôi đọc. Vì đã biết truyện rồi, nên tôi đọc được, mới đầu chậm, sau quen, càng ngày càng thích, thích nhất là lời bình của Thánh Thán. Lối phê bình đó mới mẻ với tôi quá”. (trang 25). (Goldfish).
PHẦN II - Chương X
Vô Nam Làm Việc (1935-1955)
Làm Sở Thuỷ Lợi Miền Tây
TRÊN XE LỬA, NHỚ LẠI LẦN CẤT MỘ CHA TÔI

Mười một giờ trưa ngày rằm tháng chạp năm Giáp Tuất (19-1-1935) mẹ tôi, em trai và một người em họ tôi đưa ra ga Hàng Cỏ để đáp xe lửa vô Nam.
Hôm đó trời u ám, mưa phùn lất phất. Buồn vô hạn. Ở sân ga mẹ tôi chỉ dặn tôi vào Nam thế nào cũng phải đi thăm ngay bác Ba tôi ở Tân Thạnh rồi viết thư cho người biết để người yên lòng.
Anh Đỗ văn Hách cũng được bổ vào cùng một sở với tôi và cùng đi một chuyến xe. Toa xe lửa hạng ba của chúng tôi vắng, chỉ có hai anh em tôi và một người cháu gái của anh Hách bồng con nhỏ, tiễn anh tới Nam Định. Chúng tôi chào hỏi nhau ít câu, rồi để họ nói chuyện với nhau, tôi ngồi riêng ra, nhìn cánh đồng bằng phẳng, chưa trồng gì, còn trơ chân rạ, với làng xóm, bụi tre, cây đa, vài mái đình chùa ở xa xa mà nhớ lại lần cải táng cha tôi từ ngoại ô Hà Nội về Phương Khê, hồi tháng tám âm lịch bốn tháng trước.
Mẹ tôi đã tính toán từ trước, đợi tôi thi đậu rồi mới cải táng, nhân dịp đó bảo các anh con bác tôi làm cỗ cúng tổ tiên và mời mấy người thân trong họ, mấy bà lí, bà chánh trạc tuổi mẹ tôi ở trong làng và một làng bên tới dự. Mẹ tôi lại biết tôi không khéo ăn nói, nên nhờ một người em cháu cô cháu cậu với tôi, con cả chú Ba Đỗ, lớn tuổi mà có vẻ nho nhã, đứng ra tiếp khách thay tôi.
Hôm đó thật vui. Mẹ tôi và mấy anh em tôi đi từ làng Thịnh Hào rất sớm, xách một cái bồ nhỏ trong chứa hài cốt cha tôi, ra ô Câu Giấy đón xe hàng đi Sơn Tây. Gió thu hây hẩy, hai bên đường ruộng lúa mơn mởn, chúng tôi vừa đi vừa ăn cốm Vòng dẻo, thơm, ngọt. Không có món điểm tâm nào thanh bằng thứ đó. Xế trưa tới Phương Khê, sắp hài cốt vô một tiểu sành rồi chôn trong một thửa ruộng của nhà, trên đồng đỗ, nhìn ra bờ đê, chôn xong xây gạch bốn bên liền. Công việc chuẩn bị kĩ từ trước, khoảng ba bốn giờ chiều đã xong, rồi về nhà thờ làm lễ, tiếp khách khứa. Tôi thấy hôm đó mẹ tôi rất vui, rộng rãi với mọi người. Người thật khéo xử, ghét cái danh hảo, cho nên tôi thi đậu mà người không khao vọng, mà chỉ nhân việc cất mộ cha tôi, trình với vong linh tổ tiên, và họ hàng, làng mạc bên chồng rằng người đã ở vậy nuôi con trên mười năm và con người đã thành tài.
Ngồi trên xe lửa, ôn lại từng ngôn ngữ, cử chỉ của người hôm đó tôi càng phục: người không được học mà tính toán việc gì cũng chu đáo, xử sự đàng hoàng, khiêm tốn, mềm mỏng mà tự trọng, bà con bên chồng không ai không kính.
Rồi tôi lại nghĩ sau khi tôi đi, cảnh nhà còn buồn hơn nữa. Cả ba em tôi đều không có nghề gì, em trai tôi lại lông bông, không biết mẹ tôi sẽ tính sao. Tôi định vào làm trong Nam ít năm rồi xin đổi về Bắc, cưới vợ ngoài đó, chỉ có cách đó nhà mới vui hơn được. Tôi tưởng người cũng mong vậy. Không hiểu sao một năm sau người lại có ý cho tôi ở luôn trong Nam.
HÀ NỘI - SÀI GÒN – LONG XUYÊN
Xe tới Thanh Hóa thì tối, nên tôi không được thấy phong cảnh miền bắc Trung phần. Từ Tourane khí hậu khác hẳn: trời nắng ấm, trong trẻo, không ảm đạm như ở Bắc, chúng tôi lên xe ca (car) vì khúc này chưa có đường xe lửa. Trong cuốn Tương lai ở trong tay ta, tôi đã ghi cảm tưởng và nỗi lòng tôi như sau:
“Hồi đó, một ngày gần Tết, một ông bạn đồng song và tôi ngồi chiếc xe “ca” vượt cảnh núi trùng trùng điệp điệp trên quốc lộ Số 1 để vào Sài Gòn nhận việc, vì con đường xe lửa “xuyên Đông Dương” chưa hoàn thành. Qua những rừng dừa ở Tam Quan, ở Sông Cầu, rồi leo ngọn Đèo Cả, nhìn xuống biển khơi một màu ngọc thạch, tôi thấy trong lòng nổi lên một khúc nhạc tựa như khúc Xuân tình. Dưới con mắt tôi, cái gì cũng mới: từ trời biển, núi sông đến cô bạn đồng hành cười luôn miệng và giọng líu lo như tiếng chim, nhất thiết đều khác hẳn với quê hương chúng tôi mà tươi sáng quá chừng! Lòng tôi cũng mới: từ nay bắt đầu bước vào đời, được bay bổng như những con hải âu lấp loáng ở ngoài Nam Hải kia, được tự do tạo cuộc đời theo ý muốn của mình. Nhớ lại tuổi thiếu niên bị câu thúc và thiếu thốn, tôi có cảm tưởng rằng chiếc xe ca mỗi giờ mỗi phút đưa tôi xa cái thời đó cũng như xa cảnh mưa phùn ảm đạm ở Bắc Việt mà chúng tôi mới từ biệt ngày rưỡi trước.
“Nghĩ tới tương lai, tôi không hề lo lắng (...) mà trước mặt chỉ thấy hăng hái và hi vọng, tràn trề hi vọng. Có ít nhất là ba chục năm để sống, sẽ gặp những thời thế mới, hoàn cảnh mới, sẽ kiếm được tiền, học hỏi thêm, và sẽ hoạt động để đóng một vai trò nào đây. Có gì thú cho bằng, kích thích cho bằng nữa? Tôi nghĩ thầm: ở trường ra ai cũng như ai, đều sắp hàng ở cái vạch trắng đánh dấu mức khởi hành của cuộc đua, thử xem sau này ai tới trước và tới đâu? Chiếc xe ca vẫn lăn đều đều trên đường tráng nhựa, một bên là dãy Trường Sơn, một bên là biển cả, gió khơi lộng vào tóc, hương rừng ùa vào phổi.
Đó là tâm trạng của tôi hồi đó như vậy”.
Tới Nha Trang chúng tôi bỏ xe hơi lên xe lửa. Tám giờ sáng hôm sau đến Sài Gòn. Một anh bạn học, Lê Trọng Minh, đợi chúng tôi ở sân ga, đưa chúng tôi về Đa Kao. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là ga Sài Gòn nhỏ quả, kém xa ga Hàng Cỏ; mà Sài Gòn rất tươi sáng, náo nhiệt: ánh vàng tưng bừng trên cành, trên những ngọn sao, dầu, cao vút, thẳng như cây cột, khiến tôi nhớ phố Lò Sũ ở Hà Nội; đường phố nhộn nhịp người qua lại, phụ nữ hầu hết bận áo cụt[1], chưa quen mắt nên tôi thấy chướng.
Nghỉ ở Đa Kao một chút - mấy từ này tôi nghe lạ quá, như không phải tiếng Việt - rồi tôi qua Khánh Hội ở trọ nhà một người em họ tên là Quýnh làm thư kí tại ngân hàng Đông Dương. Giờ đó trời đã nóng như đầu hè ở Bắc. Hôm sau lại sở nhận việc, chúng tôi được biết chỉ ở Sài Gòn hơn mười bữa rồi ăn Tết xong, xuống làm ở Long Xuyên. Tôi liền viết thư cho mẹ tôi hay và báo tin cho bác Ba tôi ở Tân Thạnh rằng ba mươi Tết tôi sẽ xuống thăm người.
Ở Sài Gòn non nửa tháng đó, tôi đã bắt đầu ngán “Hòn ngọc Viễn Đông”. “Đủ mọi giống người hỗn tạp, đa số là con buôn; nóng, bụi và ồn; muốn kiếm một chỗ thanh tĩnh có chút di tích dể ôn lại dĩ vãng thì không biết kiếm ở đâu, và suốt ngày thâu đêm, chỉ thấy người ta ăn uống, đánh tứ sắc và ca vọng cổ”.
Sáng sớm 30 Tết, chú Quýnh và tôi lại chợ Bến Thành lên xe đò[2] để đi Mĩ Luông. Trên đường tôi để ý nhận thấy miền Nam nhiều sông rạch quá, cho nên nhiều cầu, nông dân ít người lam lũ, và ruộng nhiều chỗ chưa gặt xong, còn đương đập lúa ở ngoài đồng, vài chỗ có những đống lúa mới đập chưa chở về nhà. Từ cảnh vật đến người, đâu đâu cũng có vẻ tươi sáng, vui vẻ, thoải mái.
Đường dài quá, trên trăm rưỡi cây số, qua mấy thị xã, mấy chợ quê rồi mà vẫn chưa tới nơi, tôi sốt ruột. Khoảng 12 giờ trưa xe mới ngừng ở chợ Mĩ Luông và chú Quýnh và tôi xuống đò qua làng Tân Thạnh ở bờ bên kia sông Tiền Giang. Đi bộ một quảng nữa, gặp một người anh con bác tôi, anh Việt Châu đi đón.
BÁC BA TÔI VÀ LÀNG TÂN THẠNH
Tới nhà, bác Ba tôi nắm chặt tay tôi, mừng biết bao. Đã mấy năm nay bác cháu anh em chỉ biết nhau trong bức thư chứ đâu đã biết mặt. Cả nhà xúm lại chung quanh chúng tôi.
Bác trai tôi cũng thấp người, da trắng như cha tôi, có phần đẫy hơn; trán cao, mặt vuông, miệng rộng - nghe nói hồi trẻ môi son nữa - tướng phương phi, phúc hậu, tính tình nghiêm hơn bác Hai, nhưng có phần khoan hơn cha tôi. Bác gái tôi cũng thấp, trắng trẻo, ra vẻ nhàn hạ phong lưu, không cực khổ, tháo vát như mẹ tôi, tính tình thành thật, dễ dãi, rộng rãi.
Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục tôi đã chép khá kĩ về bác Ba tôi, đây chỉ xin tóm tắt vài nét chính. Học giỏi, có tài văn thơ, thi Hương thử một lần rồi bỏ, gia nhập Đông Kinh nghĩa thục, cưới con gái (cô Năm) cụ cử Lương Văn Can, thục trưởng, cả hai vợ chồng đều dạy giúp nghĩa thục. Hiệu là Phương Sơn, bạn đồng chí trong nghĩa thục gọi là Tiểu Phương để phân biệt với bác Cả tôi là Đại Phương, chơi thân với cụ Đỗ Chân Thiết (Đỗ Cơ Quang), thân phụ Đỗ Bàng và Đỗ Thị Tâm, nhưng chí hướng mỗi người một khác, bác tôi ôn hòa hơn.
Nghĩa thục bị đóng cửa thì bác gái trước và con trai mới vài tuổi đều chết, bác tôi bỏ Hà Nội, lẻn vào Sài Gòn, định ở Nam ít tháng để liên lạc với các đồng chí rồi sẽ qua Xiêm, không ngờ tàu vô Vũng Tàu thì hay tin đêm trước Phan Xích Long công phá Khám Lớn Sài Gòn (1913), mật thám canh gác rất ngặt, bác tôi lại phải lẻn vào một miền hẻo lánh ở ven Đồng Tháp Mười[3]. Ở đó, người tiếp xúc được với vài đồng chí cũ và mới, liên lạc được với cụ Lương Văn Can đang bị an trí ở Nam Vang, nhưng thấy thời cơ chưa thuận tiện, người tạm trú tại nhà một người có Nho học và có uy tín trong làng Tân Thạnh để dạy học, được người trong miền kính mến. Rồi người cưới vợ, được người quen chỉ cách cho, xin khẩn một khu ruộng - thời đó Đồng Tháp còn hoang vu - thành một điền chủ hạng trung, có độ hai trăm héc-ta, chỉ một nửa là làm lúa sạ được. Vốn tri túc, người không khuếch trương thêm, tiêu khiển với mấy chậu cảnh, với việc dạy học và làm thuốc giúp bà con trong vùng. Danh tiếng lan xa, đa số các nhà giàu sang ở Long Xuyên, Sa Đéc đều nhờ người trị bệnh. Tóm lại, người là một ẩn sĩ phong lưu, nhà cầm quyền Pháp ở Long Xuyên có lần muốn mua chuộc người bằng lợi lộc, người từ chối; họ thấy người không bạo động, nên để yên. Chính người đã lấy số Tử vi cho tôi khi mới sanh. Năm đó (1935) người 53 tuổi, còn mạnh lắm.
Làng Tân Thạnh ở giữa miền Hồng-Cao (Hồng Ngự - Cao Lãnh) mà tôi đã tả trong bài Tựa cuốn Nguyễn Quang Diêu của Nguyễn Văn Hầu, nổi tiếng là đất văn học và cách mạng trong vùng. Văn học thì xưa có một số nhà Nho, học trò cụ Tú Thường[4] ở Cái Vừng; khi tôi tới, mấy nhà Nho đó còn sống, con cháu họ đã theo Tây học, có người qua Pháp đỗ kĩ sư điện, hoặc cử nhân văn chương; đặc biệt là có một người xuất thân trường nữ học Gia Long, thiếu nữ đầu tiên trong tỉnh năm 1928 có bằng Cao đẳng tiểu học. Cách mạng thì phái cổ có cụ Hồ Nhật Tân hướng ứng phong trào Đông kinh nghĩa thục, phái mới có bốn năm người kháng Pháp, theo đảng Cộng Sản. Làng lại giàu có: đầu thế chiến thứ nhất chỉ có những nhà lá rải rác trên bờ rạch Đốc Vàng thượng[5], sau nhà là lau sậy; phương tiện giao thông chỉ có ghe, xuồng, từ làng ra tỉnh lị Long Xuyên mất một ngày, lên Sài Gòn mất một tuần; vậy mà chưa đầy hai chục năm sau, dân chúng đã khai phá sâu vào được mấy cây số suốt hai bên bờ rạch, cất được mấy ngôi nhà đúc và vô số nhà sàn mái ngói, phương tiện giao thông đã có ca-nô. Nhiều điền chủ có ba trăm héc-ta ruộng hoặc hơn.
Nhà bác tôi chỉ là một nhà sàn mái ngói vào bực trung trong làng, trước có sân rộng trồng hoa nhìn ra rạch Đốc Vàng thượng, một bên là vườn xoài, sau lưng là một hàng tre. Nhà rộng 9 thước, gồm hai lớp: lớp ngoài sâu độ tám thước, lớp trong độ sáu thước. Bên hông nhà là một lẫm cũng bằng cây, khá lớn, vừa để chứa lúa vừa để chất các đồ làm ruộng.
Hôm đầu, ngồi xe mệt mà không được nghỉ, phải hầu chuyện bác tôi và nói chuyện với hai người con trai lớn của bác: anh Xuân Tăng đương học ban tú tài ở Cần Thơ, và anh Xuân Thiếp đậu bằng tiểu học rồi ở nhà học chữ Nho, theo nghề Đông y[6].
Tối đó bác tôi đưa tôi và chú Quýnh đi chào mấy vị lớn tuổi và có danh vọng trong họ bác gái tôi: một bà cụ con một vị Cai tổng đã khuất, mà thời trước Cai tổng miền này có uy quyền ngang với phủ huyện; dân trong tổng còn sợ hơn sợ chủ quận vì chủ quận ở xa; một vị Hương Cả (cũng như Tiên chỉ ở Bắc) có học Nho, vào hạng khá giàu. Sáng hôm sau, mùng một, bác tôi đưa chúng tôi đi thăm cảnh trong làng rồi xuống chợ Tân Phú trên rạch Đốc Vàng hạ, vào thăm ông Phủ Nghĩa (phủ hàm), người giàu nhất nhì tỉnh Long xuyên. Ông năm đó khoảng bảy chục tuổi mà còn mạnh, tướng mạo phương phi. Bác tôi tuy không thích làm giàu nhưng trọng những người tay trắng làm nên như ông (miễn là không làm giàu một cách tàn nhẫn, tí tiện), khen ông là giỏi tính toán, khéo cư xử, không khoe giàu, biết xét người. Ông cũng có biệt nhãn với bác tôi vì tư cách, học thức.
Ông phủ hồi nhỏ nghèo, không được học, nhưng thông minh, cần kiệm, cố gây một số vốn rồi xin khẩn đất hoang, gặp thời, làm đâu trúng đấy, mấy chục năm sau có khoảng ngàn mẫu ruộng, dinh cơ ở Tân Phú gồm một nhà lầu nền đúc, nhiều nhà một tầng cũng nền đúc, mấy cái lẫm lúa, vài nhà máy xay lúa, tất cả choán một khu rộng trên bờ rạch Đốc Vàng hạ. Trước nhà luôn luôn có mấy chiếc ghe lúa đậu, xuồng và ca-nô chật bến. Ông cất cho làng một ngôi chợ gần dinh cơ của ông và nhiều dãy phố cho mướn ở chợ Mĩ Luông. Có ba người con trai, đều vào hạng biết làm ăn, chứ không phá của vì ông biết dạy con; một người làm cai tổng, một người làm hội đồng tỉnh. Dân trong miền không oán ghét gia đình đó vì họ không cướp bóc, hà hiếp ai.
Coi dinh cơ của họ đồ sộ, người ăn kẻ làm tấp nập, từ trên nhà tới dưới bến, trông cũng vui mắt, nhưng tôi không thích mà thích một nhà sàn có hoa cỏ, cây cao bóng mát hơn.
Chiều mùng hai tôi phải từ biệt bác tôi để qua Chợ Mới, ngủ tại nhà một người anh họ, anh Thiệm, ở Phương Khê vào đây làm ăn từ mấy năm trước, có một sạp bán vải ở chợ. Sáng sớm mồng ba tôi với anh Thiệm đi đò đạp qua Long Xuyên. Đò là một chiếc ghe dài chở được ba bốn chục người và nhiều hàng hóa, nhưng không có chèo mà có một xa quạt ở phía sau do bốn người đạp. Đò đi rất chậm, lại ghé nhiều nơi đón khách, nhờ vậy tôi được coi phong cảnh hai bên bờ rạch Ông Chưởng (Chưởng binh Lễ tức Nguyễn Hữu Cảnh 1650-1700). Miền này phong phú, nhà cửa san sát, hầu hết là nhà sàn mái ngói, một số là nhà nền đúc. Nhà nào cũng có vườn trồng xoài, mận… đẹp nhất là mai vàng.
Mười một giờ trưa mới tới Long Xuyên, gặp anh Thái và anh Hách ở Nha Trang vào, ba chúng tôi cùng học một lớp, nay cùng làm một sở. Lại gặp một hai thầy họa đồ (Opérateur) giúp việc cho chúng tôi nữa. Mướn phòng ngủ rồi rủ nhau đi coi thị xã. Thành phố nhỏ mà buồn, đi độ một giờ là hết. Chia làm hai khu vực: khu thương mãi ở phía Nam gồm một nhà lồng (chợ) ở sau nhà việc (cơ sở hành chánh) của làng Mĩ Phước, và gần bờ sông Hậu Giang. Chung quanh chợ có ba bốn dãy phố buôn bán, hầu hết là của Hoa kiều, có một đường lát đá dọc theo sông Hậu đưa xuống Cái Sơn, ngoại ô, cảnh ở đây đã như nhà quê rồi. Khu hành chánh ở phía bắc; một cây cầu sắt bắt qua rạch Long Xuyên nối hai khu với nhau. Khu hành chánh gồm các công sở như Tòa bố (tỉnh đường), sở Bưu điện, sở Công chánh, Địa chánh, Bệnh viện, trường tiểu học Nam, Nữ... Chỉ có hai con đường chính song song nhau: Gia Long và Lê Lợi, với vài con đường ngang, nhỏ. Đường Lê Lợi có nhiều phố lầu của công chức gần bờ hồ và sông Hậu, nhiều cây cao bóng mát, như cây teck, cây dái ngựa (?) mùa xuân hương thơm ngào ngạt. Đường Gia Long vắng vẻ, hầu hết là nhà sàn cách nhau có khi tới trăm thước; nét đặc biệt là có một con kinh ở bên đường và nhiều cầu gỗ đưa từ đường vào nhà, nhà nào cũng có vườn rộng; lắm chỗ còn bỏ hoang. Ngày nay đường đó đã đông nghẹt nhà lớp trước lớp sau, có chỗ tới ba lớp; kinh đã lấp, cầu đã dỡ và đường đã mở rộng thành một đại lộ lớn nhất thị xã.
CÔNG VIỆC CỦA CHÚNG TÔI
Sáng hôm sau chúng tôi lại sở Trường tiền (Công chánh) lãnh việc rồi dọn đồ đạc, máy móc xuống ghe (mỗi người trong ba anh em tôi được một chiếc ghe, loại ghe hầu dài ba bốn thước, rộng trên một thước), chèo xuống Ô Môn (cách Long Xuyên khoảng bốn chục cây số trên đường đi Cần Thơ) để tối đó bắt đầu làm việc.
Công việc của chúng tôi là đo mực đất cao thấp (nivellement) ở miền Tây, từ Châu Đốc, Long Xuyên qua Rạch Giá, xuống Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau; từ mực đất đó mà đo xuống mực nước kinh rạch để tính ra đường nước chảy, khi thảo những kế hoạch thủy lợi.
Ba anh em tôi mỗi người chỉ huy một đội, đi đo một miền. Chúng tôi đo theo các đường lộ và bờ kinh, rạch. Công việc phải làm ban đêm, có hai kíp thay phiên nhau, một kíp từ sáu giờ chiều tới nửa đêm, một kíp từ nửa đêm tới sáu giờ sáng. Mới đầu dùng đèn điện, bất tiện, sau dùng đèn khí đá (Acétylène). Tôi cho việc làm đêm đó là một sáng kiến không có lợi của các kĩ sư Pháp sở tôi.
Mỗi đêm chúng tôi đo được từ ba đến bốn cây số, đo tới đâu, ghe dời chỗ theo tới đó, cứ như vậy tiến hoài, có khi phải trở lại hai ba lần một con đường cũ.
Vào mùa mưa thì cực vô cùng, nhất là ở những miền còn hoang như Chắc Băng - Cạnh Đền, miệt thứ[7], U Minh (Rạch Giá) hoặc Thới Bình (Cà Mau), kinh Gãy (Đồng Tháp Mười)... Vì đất sình lầy, trơn, đâu đâu cũng có đỉa, muỗi, vắt; có khi phải vạch lau sậy mà đi trong đêm tối.
Nhưng mùa nắng mà đi do dọc theo những lộ và rạch miền Sa Đéc, Cần Thơ thì tuyệt thú; không sao quên được ánh trăng vằng vặc trên rạch Cái Răng, Bình Thủy, không khí mát mẻ, hiu hiu gió, thoang thoảng hương sao, hương bưởi, hương mù u…, và tiếng đàn kìm não nùng văng vẳng gảy bản vọng cổ. Miền này quả là nhiều trăng, nước, hương và nhạc.
Một thú nữa là được dời chỗ hoài, mỗi ngày ăn chợ một nơi, hôm trước ở Long Xuyên thì hôm sau đã tới Tầm Bót. Làm xong “ca” sau, sáu giờ sáng, thì chợ đã họp đông rồi, tôi lại mua những thức ăn đặc biệt miền Nam như bánh ú, bánh da lợn, bánh bò, dà châu quẩy[8] (bánh củ cải chiên), bánh cam với ít trái cây tùy mùa: soài, xa pô ti, mảng cầu Xiêm... để ăn điểm tâm (tôi không thích hủ tiếu, cà phê; phở Bắc không có).
NGƯỜI NAM
Tôi làm quen được với nhiều người. Tới tỉnh nào cũng gặp được những bạn đồng sự, họ thường lớn tuổi, giàu có; người nào cũng mỗi năm thu lúa ruộng được ngàn giạ là ít, theo giá thời đó như vậy là họ có thêm mỗi tháng khoảng 100 đồng, bằng lương của họ; ngoài ra họ còn những nguồn lợi khác. Họ hiếu khách, đối với bọn trẻ chúng tôi rất rộng rãi, lái xe hơi đưa đi chơi, tiệc tùng liên miên ở tửu lâu: như vậy đỡ bận cho vợ con mà lại tự do hơn.
Rồi tới các điền chủ hạng “bự” (giàu lớn) mà già, dinh cơ đồ sộ hơn ông phủ Nghĩa ở Đốc Vàng (Long Xuyên) nhiều, thì tôi “viễn chi”; nhưng các con họ, các công tử, các “cậu” đã đi học ở Sài Gòn hay Hà Nội hay bên Pháp ít năm, chẳng được bằng cấp gì, về nhà coi ruộng cho cha, gặp chúng tôi mừng lắm vì có người để “nói chuyện”. Đa số sống lêu bêu suốt ngày không làm một việc gì, bày ra ăn uống rồi đàn ca, coi đá gà, đá cá, kiếm gái, hút xách... Đời họ sao buồn thế! Tôi gặp một lần cho biết thôi, không trở lại.
Một hạng người mà tôi tò mò muốn biết hơn: hạng cư sĩ. Thời 1933-1938, phong trào tôn giáo ở Nam đương lên: chỗ nào cũng có những đàn cầu cơ của đạo Cao Đài; thuyết pháp của Phật giáo; thị trấn nào cũng có một nhóm trí thức theo Thông thiên học (Théosophie). Về tôn giáo, ở trường ra tôi mù tịt. Tôi mượn sách báo của họ đọc cho biết, khen sư Thiện Chiếu lí luận rành rẽ; ghét cuốn Đạo giao (không nhớ của ai) chỉ nói về tà thuật chứ không giảng về triết lí; tìm hiểu thuyết luân hồi theo Thông thiên học; nhưng vẫn cho rằng đạo Khổng thiết thực hơn cả.
Tôi vào thăm một nhà cách mạng, cụ Võ Hoành, trong Nam gọi là cụ cử Võ, bạn của bác Ba tôi ở Đông Kinh nghĩa thục, lúc đó đang bị an trí ở Sa Đéc. Tôi đã chép cuộc tiếp xúc với cụ trong phụ lục cuốn Đông Kinh nghĩa thục.
Tôi đã thấy đời sống của những nông dân cất vội một cái chòi mỗi chiều chừng ba thước trên một bờ kinh để “làm” một khoảnh đất mới, thất bại thì dỡ nhà, chở nồi niêu, chén bát, đồ đạc với con heo xuống một chiếc xuồng ba lá chèo đi kiếm đất khác. Đời họ rất vất vả nhưng không bao giờ đói vì có cá, tôm, rùa đem đổi lấy gạo được. Cá Đồng Tháp nhiều vô kể, chỉ thua cá Biển Hồ (Cao Miên), mà Đồng Tháp chính là một biển hồ thứ nhì thông với biển hồ thứ nhất bằng sông Cửu Long và sông Tonlé Sap.
Tôi đã có lần được một bạn rủ đi nghe một cuộc đàn ca trên bờ rạch Bình Thủy. Một căn nhà lá nhỏ cất trên một khu đất vừa mới phát, còn gốc lau sậy. Ngoài sân phơi nhiều quần áo của hạng phụ nữ sang mà trong nhà đồ đạc rất sơ sài: một cái bàn con, vài cái ghế, một bộ ván trải chiếu. Trên vách treo một cây đàn kìm. Năm sáu cành sậy xuyên qua vách lá hở, đâm tua tủa vào một góc phòng. Người chồng trẻ, dáng dấp một thư sinh, bận bộ bà ba lụa đen, đun nước pha trà Thiết Quan Âm tiếp chúng tôi. Vợ bận áo dài, nhỏ nhắn, nước da trắng mịn, vẻ mặt thanh tú, dịu dàng, hỏi thăm chúng tôi vài câu, rồi anh bạn tôi lên dây cây đàn kìm, gảy khúc Phụng cầu hoàng, nàng cất tiếng họa theo. Ngón đàn của anh mùi, mà giọng nàng thanh, ấm. Nàng ngước cặp mắt long lanh lên ca, cặp mắt bồ câu tuyệt đẹp, hai bàn tay búp măng đặt lên dùi, móng tay hồng hồng; lúc này tôi mới thấy nét mặt nàng phảng phất buồn. Bạn tôi vừa đàn vừa đăm đăm nhìn nàng và mỗi khi xuống một nhịp nào, giọng đàn, giọng ca thật hòa hợp nhau, thì hai người cùng mỉm cười ngó nhau và người chồng ngồi bên cũng mỉm cười. Sự hân hoan tương đắc đó, chỉ hạng nghệ sĩ mới cảm được. Tôi tự thấy lúc đó là người ngoại cuộc, mà chính họ cũng chẳng để ý gì đến tôi.
Đàn được vài bản, bạn tôi treo đàn trả lại chỗ cũ, rồi từ biệt chủ nhân ra về. Vợ chồng đó là một cặp nghệ sĩ, mê nhau rồi bỏ nhà ra đi, sống cuộc đời giang hồ; vì có tài mà lại đứng đắn, lễ độ, nên được nhiều người mến, thương tình giúp đỡ; và họ biết giữ tư cách của họ. Người vợ sau bị giặc Pháp giết, người chồng theo kháng chiến. Truyện họ tôi đã kể rõ trong tập Con đường thiên lí[9].
Tôi đã vào những nhà sàn ba gian lợp ngói hay lá thấp lè tè, tối om om và thấy nhà nào căn đẹp nhất cũng dành cho việc thờ phụng tổ tiên mà những đồ quí nhất cũng là đồ thờ; bên cạnh bàn thờ, tôi lại thường thấy treo hình các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Chủ nhân để búi tóc, bận bà ba đen, luôn luôn nhã nhận tiếp tôi, và khi thấy tôi chăm chú nhìn các đôi câu đối, đoán rằng tôi biết chút ít chữ Hán thì không e dè gì cả, đọc cho tôi nghe thơ văn của các nhà cách mạng hoặc hỏi tôi truyện Mã Chí Ni, Gia Lí Ba Đích (tức Mazzini và Garibaldi, hai nhà yêu nước người Ý) trong bộ Ẩm Băng thất của Lương Khải Siêu. Các nhà Nho đó rất nghiêm khắc trong việc dạy con, rất trọng cổ tục, được dân làng kính nể. Và tôi cho rằng sinh lực miền Nam này dào dạt ở thôn quê, trên bờ những con rạch mát rượi bóng dừa, trên những cánh đồng bát ngát bông sen và bông súng, trong những căn nhà sàn vách ván này, chứ không phải trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, trên đường Catinat hay Tổng đốc Phương[10].
CẢNH NAM
Hai năm lênh đênh trên sông rạch, tôi được biết gần khắp miền Tây, mấy năm sau nhờ đi kinh lí khi bằng xe hơi, khi bằng tàu thủy của sở, tôi lại biết thêm được ít nhiều về miền Đông nữa và tôi nhận thấy Nam Việt không bằng phẳng, đơn điệu, buồn tẻ như ta tưởng lầm khi nhìn bản đồ in trong các sách địa lí. Nó chỉ rộng bằng nửa Bắc Việt mà có rất nhiều miền khác nhau về địa hình, phong cảnh, phong tục, lối sống, nhìn bề ngoài không nhận ra dược.
Miền Tây, từ vịnh Thái Lan vô, có đất Hà Tiên, quê hương của thi sĩ Đông Hồ, mà chính thi sĩ đã giới thiệu với chúng ta như sau, trong cuốn Văn học Hà Tiên:
“Ở đó kì thú thay, như gồm hầu đủ hết.
Có một ít hang sâu động hiểm của Lạng Sơn. Có một ít ngọn đá chơi vơi giữa biển của Hạ Long. Có một ít núi vôi của Ninh Bình, một ít thạch thất sơn môn của Hương Tích. Có một ít Tây Hồ, một ít Hương Giang. Có một ít chùa chiền của Bắc Ninh, lăng tẩm của Thuận Hóa. Có một ít Đồ Sơn, Cửa Tùng, có một ít Nha Trang, Long Hải.
Ở đây không có một cảnh nào to lớn, đầy đủ; ở đây chỉ nhỏ nhắn, xinh xinh, mà cảnh nào cũng có”.
Hồi xưa nó là một tiểu vũ trụ biệt lập, rất hợp cho kẻ nào có chí vẫy vùng, muốn nghênh ngang một cõi như Mạc Cửu.
Tiến vô trong - về phía Đông - xa xa vài chục cây số, xưa là cánh đồng lầy, ta gặp dãy núi Thất Sơn dài 30 cây số, rộng 17 cây số mà Nguyễn Văn Hầu đã tả trong cuốn Nửa tháng trong miền Thất Sơn. Một khu núi đá có đất, ngọn cao nhất 716 thước, cây cối xanh tốt, leo lên ta gặp những hang, động của các tu sĩ sống cô liêu, làm bạn với chồn, khỉ, hàng tháng không xuống tới chân núi; không tiếp xúc với ai, họ âm thầm, lầm lì sống với một bình nước mưa hay nước suối, một nhúm gạo, vài trái cây rừng. Lâu lâu ta gặp một người, ta nhìn kĩ mới nhận ra là phụ nữ, vì họ búi tóc, bận một bộ bà ba vải đen, đi chân không, vai đeo một cái đãy, ngực bó lại cho khỏi lộ[11]; họ mạnh dạn bước như đàn ông, chỉ trong nét mặt là để lộ một chút nữ tính mà người tính mắt mới thấy. Ta có cảm tưởng họ đăng sơn để đem một tin tức cho sư phụ. Miền này xưa kia có nhiều nhà chân tu ái quốc, đệ tử của Phật Thầy Tây An trong phái Bửu Sơn kì hương, một số ở làng Ba Chúc, một làng có rất nhiều chùa nền đá, tường gạch mà mái lá; đàn ông, đàn bà ăn mặc y như nhau, rất trọng hiếu, nghĩa.
Dưới chân núi, khắp trong vùng này có nhiều ông “đạo” kì cục: ông thì nằm suốt năm, người ta gọi là Đạo Nằm; ông thì chỉ ăn ớt, gọi là Đạo Ớt; ông thì nói gì cũng chỉ “ừ”, gọi là Đạo Ừ... ông nào cũng có một số nông dân chất phác theo, cung phụng đủ thứ.
Núi cuối cùng là núi Sam, lẻ loi, khá cao, nhưng ít cây cối, cách thị xã Châu Đốc năm cây số. Năm nào lụt lớn, cả miền bị ngập, thì núi Sam nổi lên như một hòn giữa biển, và tối đến, lưng núi lốm đốm những ngọn đèn đỏ, khiến ta nhớ cảnh Hương Cảng in trong các tập quảng cáo du lịch.
Xuôi dòng sông Hậu, tới Long Xuyên. Cả miền này năm nào cũng ngập nước một hai tháng, xưa chỉ trồng lúa sạ; nhà toàn là nhà sàn. Cá tôm rất nhiều, nhất là cá linh, ngon như cá mòi, có nơi ăn không hết, làm nước mắm cũng không hết, phải dùng làm phân bón. Nửa thế kỉ trước, mùa nước rút, có những rạch lúc nhúc cá linh, người ta chỉ việc xuống xúc cơ man cá.
Xuôi xuống nữa tới Cần Thơ, Sóc Trăng, vựa lúa của miền Tây mà cũng là của Nam Kì. Mùa nước lớn miền này không bị ngập, đất tốt, dân đông, vườn tược xum xuê, trái cây nhiều, đời sống rất dễ dàng, vui vẻ, đúng với câu “gạo trắng, nước trong”. Tuy cùng một miền mà Sóc Trăng có nhiều người Việt gốc Miên, cho nên phong tục và phong cảnh hơi khác. Thỉnh thoảng ta gặp những chùa Miên ở trên một giồng trồng toàn sao.
Giáp Cần Thơ, phía tây là Rạch Giá với cảnh rừng bần ở bờ biển, rừng tràm ở U Minh. Dân U Minh sống bằng nghề “ăn” ong, đốn tràm, bầy chim (xưa còn bắt sấu nữa), trồng khóm, lúa. Không biết những “sân chim” nay còn không?
Phía nam Sóc Trăng là Bạc Liêu, miền nước mặn. Một cánh đồng lúa bát ngát, bờ biển có ruộng muối, vườn nhãn. Miền này có nhiều điền chủ lớn, như hội đồng Trần Trinh Trạch; và nổi tiếng vì một hạng công tử tiêu tiền của cha mẹ như rác, ngông tới nổi ngồi trong rạp hát, đốt một tấm giấy xăng (100 đồng thời trước 1930) cho bạn tìm một tấm giấy năm đồng! Cảnh Bạc Liêu thật tẻ: bằng phẳng quá, trơ trọi quá; đường xe hơi và con kinh chạy theo sát nó thẳng tắp và chói lòa ánh nắng; đường thì nhiều cát mà kinh thì nhiều cá chốt.
Cuối cùng là Cà Mau với những rừng đước âm u, những rạch nước đỏ như nước trà đậm, do lá cây mục. Sản phẩm chỉ có cá, tôm, cua và than đước.
Đó là phía sông Hậu. Phía sông Tiền, hữu ngạn là miền của Phật giáo Hoà Hảo, ở quận Tân Châu[12], tín đồ mặc toàn đồ đen, đàn ông để tóc xõa xuống vai; tả ngạn là cánh đồng Tháp Mười rộng ba chục cây số, lên tới biên giới Miên, dài năm sáu chục cây số, từ Hồng Ngự tới Tân An, mới khai thác được một dải năm mười cây số từ bờ sông Tiền vào, còn thì hầu hết là cỏ lát, từ phi cơ nhìn xuống chỉ thấy một tấm thảm xanh đậm với những đường ngang, đường dọc lấp lánh như bạc, tức những con kinh đào thông ra sông Tiền. Đời sống ở đây khác hẳn ở Cần Thơ, Sa Đéc. Dân tứ xứ tụ làm ăn, người nghèo chỉ có một cái xuồng, lựa được miếng đất nào thì tấp vào, cất tạm cái chòi bằng lá rồi bắt đầu khai phá, khá thì ở lâu, không khá thì dời đi nơi khác. Miền này có thể gọi là miền “Far West” (cực Tây) của Nam Kì.
Chỉ một miền Tây mà gồm bấy nhiêu khu vực khác nhau xa như vậy. Miền Đông cũng rất thay đổi, nhưng tôi chỉ đi ngang qua, không ở lâu. Cảnh Biên Hòa gợi cho tôi nhớ cảnh quê Bắc: cũng ít sông rạch, nhiều đường đất; trên đường thỉnh thoảng gặp những chiếc xe bò và một người gánh đồ như ở Bắc; làng xóm không trải ra theo các bờ rạch mà tụ lại, có hàng rào. Thủ Dầu Một có nhiều vườn cao su tối tăm, lạnh lẽo, khiến tôi nhớ cuốn Bão rừng của Nguyễn Văn Xuân và thương cảnh dân Bắc vào dây kiếm ăn mà họ bảo là “đi Tân thế giới”.
Rồi có cánh núi Tây Ninh, núi Bà Rá với những thánh thất Cao Đài (kiến trúc tựa như nhà thờ Notre Dame de Paris), những tín đồ mặc toàn đồ trắng, khác hẳn với Hoà Hảo; có cảnh biển Phước Hải, Long Hải, Gò Công. Tôi quên chưa kể những tỉnh Mĩ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, mỗi tỉnh có một vẻ riêng, có thế coi như một miền nhỏ được.
Phong tục những nơi có nhiều người Việt gốc Miên như Xà Tón (Tri Tôn) khác xa phong tục nơi có người Chà Và gốc Mã Lai như ở Châu Giang - ngang Châu Đốc - mà ngay những người Việt gốc Hoa cũng mỗi nơi một khác: Bạc Liêu có nhiều người Triều Châu, Chợ Lớn có nhiều người Quảng Đông, ngôn ngữ khác nhau mà cách ăn uống cũng khác nhau.
Nam Việt quả thực là nhiều vẻ, có đi nhiều mới biết được, và có ở lâu mới thấy thích.
Nhưng xét chung thì Nam Việt đẹp nhờ trăng và nước. Ở đây nhiều sông rạch hơn Hàng Châu, gần xích đạo hơn Hàng Châu và Venise, mà càng gần xích đạo thì trăng càng tỏ. Thi sĩ Trung Hoa thích cảnh trăng ẩn sau đám mây, nửa mờ nửa tỏ; tôi cho rằng trăng vằng vặc trên dòng nước mới đẹp.
Trăng ở đây tỏ nhất vào giữa tháng giêng và tháng hai âm lịch. Vào những khoảng đó, nếu làm việc ở miệt vườn như Long Xuyên, Cần Thơ, mà lại nhằm ngày rằm, làng nào cũng cúng đình thì thế nào tôi cũng dạo trên bờ rạch để ngắm cảnh.
Dưới rạch thỉnh thoảng có một hai chiếc tam bản hoặc ghe hầu lặng lẽ xuôi dòng đưa các ông già bà cả đi lễ đình, có thiếu nữ theo hầu. Trên đường đất theo bờ rạch, nam thanh nữ tú dập dìu chơi xuân, lúc ẩn lúc hiện dưới bóng rặng dừa, rặng xoài hay bằng lăng. Trong gió mát thoang thoảng hương xoài, hương mù u. Và chỗ nào cũng nghe thấy tiếng đàn kìm từ trong nhà sàn bên đường đưa ra các điệu Vọng cổ. Tây Thi, Tứ Đại Oán... cứ tiếng đàn ở sau lưng nhỏ lần thì đã văng vẳng tiếng đàn ở phía trước. Trời trong, nước trong. Trăng nhấp nhô trên mặt nước, lấp lánh trên đường cát, nhảy múa trên tàu dừa, chảy trên tóc, trên vai thiếu nữ. Trong lòng tôi thấy rạo rực và tôi hiểu được tại sao người Trung Hoa đã cho Lí Bạch chết vì muốn ôm trăng trên dòng nước. Trong sân đình đông nghẹt người. Các bà già và thiếu nữ đi xem kết quả của cuộc thi nữ công - thực ra chỉ là thi bánh mứt - còn bọn trai làng thì cốt ngắm các cô dự thi. Mười một giờ khuya buổi lễ mới vãn, trăng lúc này mới thật đẹp. Tôi đi một mình xuôi ra ngoài vàm, nghe tiếng lá xào xạc trong cảnh tĩnh mịch, tiếng nước bập bềnh vỗ vào bờ. Trong một bụi chuối cách dường vài chục thước có những cặp tình tự với nhau. Xa xa vẳng lên một khúc Xuân tình.
ĐỌC SÁCH, VIẾT HỒI KÍ
Làm việc ban đêm ở ngoài trời, chúng tôi được tự do, tự chủ, không bị viên phó kĩ sư Pháp dòm ngó một cách khó chịu như ở bàn giấy.
Lại có rất nhiều thì giờ rảnh. Nếu làm kíp đầu hôm thì hôm sau không biết làm gì cho hết ngày. Ở gần một châu thành, có thể dạo phố, vào một tiệm sách xem có báo, sách mới không, hay ghé thăm một người quen, rủ nhau đi coi cảnh chùa, thánh thất Cao Đài, chụp hình... Nhưng ở giữa đồng, gập hồi mưa gió liên tiếp cả tuần thì buồn ơi là buồn! Phải nằm co trong chiếc ghe hầu, cửa đóng kín mít, đậu trên những kính Xa No, Phụng Hiệp, xa chợ, xa bạn, xa nhà!
Những lúc đó phải kiếm cái gì để đọc, đọc bậy bạ, hỗn độn: Ngày nay, Phổ thông bán nguyệt san, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn – chỉ có tiểu thuyết Lê Văn Trương, các thầy họa đồ trong bọn tôi rầt mê, là tôi đọc không nổi – phóng sự của Maurice Decobra, truyện trinh thám của Conan Doyle, La Sonate à Kreutzer của Tolstoi của một anh bạn ở Bạc Liêu cho mượn, các sách Phật học, Thông thiên học… Vẫn không sao hết được bảy tám giờ một ngày. Lại chỉ có cách học chữ Hán như năm 1934 là phương thuốc thần hiệu hơn hết.
Bác tôi đưa cho tôi bộ Mạnh Tử, một bộ Ẩm Băng Thất của Lương Khải Siêu. Ẩm Băng Thất là một trong những bút hiệu của Lương, có nghĩa là ông phải uống nước đá (băng) nếu không thì lòng ông cuồng nhiệt về việc cứu nước cứu dân, nóng quá không chịu nổi.
Không có tự vị Hán Việt để tra, còn tự vị Hán như Từ Nguyên, Từ Hải cũng chưa mua được, cho nên gặp chữ nào, câu nào không hiểu, tôi gom lại, chép gởi về bác tôi nhờ người giảng. Cách đó bất tiện cho cả hai bác cháu, nhưng cứ mót từng chút như vậy, lần lần cũng biết thêm mà vỡ nghĩa.
Hồi đi đo ở Cần Thơ, thấy một Hoa kiều ngồi lề đường bán bộ Văn tâm điêu long[13] mà tôi muốn biết từ hồi học với bác Hai tôi ở Phương Khê, tôi mua liền, về ghe lật ra coi, đọc không nổi. Bộ đó của Lưu Hiệp (thế kỉ thứ VI) viết theo thể biền ngẫu, là bộ phê bình văn học đầu tiên của Trung Hoa.
Tôi thường kiếm những bộ có dịch ra Bạch thoại và chú thích kĩ như bộ Cổ văn quan chỉ[14](tuyển những bài cổ văn hay nhất từ thời Chiến Quốc đến đời Minh), vì chỗ nào đọc cổ văn không hiểu thì tôi coi bản Bạch thoại. Một hôm, vào đụt mưa trong một tiệm tạp hoá ở Bạc Liêu, tôi mua được bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim để lẫn lộn với các đèn cầy: bộ đó cũng có lợi cho tôi vì tác giả khi trích dẫn, chép cả nguyên văn chữ Hán rồi phiên âm và dịch.
Học chữ Hán cũng vẫn không hết thì giờ, tôi xoay ra viết hồi kí, nhật kí. Viết hồi kí để cho vơi lòng nhớ quê, nhớ gió bấc mưa phùn, nhớ mặt nước xanh rêu của Hồ Gươm, nhớ con đê thăm thẳm của sông Nhị, nhớ người thân còn sống và đã khuất. Cầm bút lúc nào là tâm hồn tôi rung động nhè nhẹ lúc ấy, như được nghe một bản nhạc êm đềm, bản nhạc của cố hương và dĩ vãng.
Viết hồi kí để ôn lại cái vui đã qua thì viết nhật kí để ghi lại cái vui hiện tại: cái vui những đêm trăng rạo rực, thả thuyền trên rạch Cái Răng hay Bình Thuỷ mà nghe tiếng đàn tranh, đàn nguyệt văng vẳng bất tuyệt trên bờ; cái vui nhìn mặt trời đỏ như than hồng, lớn như chiếc mân, từ từ hạ xuống cánh đồng mênh mông phẳng lì, mờ mờ khói toả ở Bạc Liêu hay Rạch Giá; rồi những cảnh âm u trong rừng đước, rừng vẹt ở Cà Mau, cảnh phồn thịnh, vườn tược xum xuê Cần Thơ, Sa Đéc…
Tôi cứ nhớ đâu chép đó, viết bừa đi, chẳng cần bố cục, cũng chẳng sửa, viết có khi quên giờ giấc, đặt cây bút xuống nhìn lên bờ thì làng xóm đã lờ mờ sau làn sương mỏng.
Viết xong tôi không coi lại, cất đi, có dịp về Tân Thạnh sẽ đưa bác tôi coi. Mỗi tháng trung bình tôi viết cho bác tôi một bức thư, cũng để kể những việc hàng ngày: cảm tưởng sau khi đi thăm ai, khi vào một thánh thất, nghe người giữ thánh thất gọi tôi bằng “anh”, tức coi tôi như người đồng đạo; hoặc khi vào một chùa ở Rạch Giá thấy một vị hoà thượng thản nhiên ngồi như Phật trên toà cho Phật tử sụp xuống lạy, bên cạnh là một bàn đầy những trái ngon nhất, quí nhất với bức tượng bán thân bằng thạch cao của Napoléon I. Bác tôi thường khen là viết hay, khuyến khích tôi.
Quả là cái may cho tôi được bổ vào làm việc ở Nam Việt, tại miền Hậu Giang gần làng bác tôi. Nếu không có cuộc đoàn tụ giữa bác cháu đó thì đời tôi tất khác hẳn.
Tóm lại, hai năm đo đường ở Hậu Giang là những năm vui nhất trong đời tôi, mà cũng có ích nhất: vui vì thấy những cảnh mới, gặp được bạn mới, nhất là được ở gần bác; có ích vì nhãn quan, kiến thức được mở mang. Và cũng vì thế để dành được một số tiền: lương của tôi kể cả phụ cấp được khoảng tám chục đồng (80 đồng), tiêu chưa tới ba chục, còn dư được năm chục.

[1] Ý nói áo bà ba. Trong Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “…cách ăn mặc của phụ nữ ở đây (tức Sài Gòn) cũng không được nhã: áo dài thì ngắn quá, mầu thì lòe loẹt quá, ra đường thì nhiều cô chỉ mặc áo bà ba, không quen mắt như tôi, thấy trơ trẽn lắm”. (Goldfish).
[2] Cách tạo từ này đặc biệt của miền Nam, nơi có nhiều sông rạch: đò đã mấy ý sơ nghĩa là thuyền, chỉ còn nghĩa là đưa khách.
[3] Ẩn sĩ tôi tả trong cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười – Chương IX – chính là bác Ba tôi.
[4] Tức cụ Tú Trần Hữu Thường. (Goldfish).
[5] Tức Đốc Binh Vàng, người có công dẹp giặc Xiêm và Miên với Chưởng binh Lễ năm 1937, có đề thờ ở làng Tân Thạnh. Coi Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười (Theo một số liệu mới phát hiện gần đây thì niên đại này chưa chính xác lắm (BT). 
[6] Tức Nguyễn Xuân Tăng hiệu là Tân Phương và Nguyễn Xuân Thiếp hiệu là Việt Châu. (Goldfish).
[7] Miền này ở Rạch Giá, đào nhiều kinh song song nhau để khai phá, mỗi kinh gọi bằng một con số: kinh thứ 7, kinh thứ 8… do đó có tên là miệt thứ.
[8] Theo Wikipedia thì: “món 油炸鬼 (Phiên âm Hán Việt: Du tạc quỷ, tiếng Việt đọc theo giọng Quảng Châu thành giò cháo quẩy hoặc dầu cháo quẩy) có nghĩa là quỷ sứ bị rán bằng dầu. Theo truyền thuyết Trung Quốc thì cái tên này bắt nguồn từ câu chuyện Nhạc Phi bị vợ chồng Tần Cối và Vương thị hãm hại. Để nguyền rủa hai vợ chồng Tần Cối, người Trung Quốc làm một món ăn gồm hai viên bột dài giống hình người được rán kỹ trong dầu, tượng trưng cho hình tượng vợ chồng Tần Cối là hai quỷ sứ bị rán trong vạc dầu ở địa ngục”. (http://vi.wikipedia.org/). (Goldfish).
[9] Nxb Long An, 1990 (BT).
[10] Nay là đường Đồng Khởi và Châu Văn Liêm (BT).
[11] Sáu bảy chục năm trước thiếu nữ nào ở Nam cũng có tục đó.
[12] Nay thuộc huyện Phú Tân tỉnh An Giang, làng Hoà Hảo thuộc quận mới này.
[13] Văn là văn chương, tâm là lòng, điêu là chạm, long là rồng. Sở dĩ gọi là văn tâm vì có câu: “Ta hồ! Văn chương chi sự, thốn tâm thiên cổ”. Nghĩa là: Than ôi! Cái việc văn chương, một tấc lòng mà để ngàn năm. (Theo bài Tựa bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc của NHL). (Goldfish).
[14] Quan chỉ có nghĩa là coi (quan) bộ đó rồi thì có thể ngừng (chỉ), không coi cổ văn nào khác nữa vì bao nhiêu tinh tuý của cổ văn ở cả trong đó rồi (theo ĐVVCT, trang 31). (Goldfish).
Chương XI
Đời Công Chức Ở Sài Gòn
XUÂN NHẬT TẦM PHƯƠNG

Vì làm việc quanh quẩn ở miền Tây, nên mỗi năm tôi có dịp về Tân Thạnh thăm bác tôi ít nhất là hai lần, mỗi lần độ hai ngày, không kể lần Tết lâu hơn, được ba bốn ngày. Lần nào mới tới nhà, bác tôi cũng hỏi ngay ở chơi được mấy hôm. Thời giờ ngắn quá, hai bác cháu nói chuyện gần như trọn ngày mà vẫn chưa thỏa: chuyện tổ tiên, quê hương, chuyện tương lai, chuyện cách mạng, văn chương, phong tục miền Nam... Nhưng lần nào bác cũng bỏ ra một buổi dắt tôi đi thăm một vài điền chủ quen trong làng.
Có lần người giới thiệu cho tôi một thầy giáo già ở Cái Sơn, ngoài châu thành Long Xuyên và một cô giáo trẻ dạy trường Nữ Long Xuyên, cô Nguyễn Thị Liệp[1], chính thiếu nữ đầu tiên trong tỉnh đậu bằng Cao đẳng tiểu học mà tôi đã nói ở trên. Khi nào đi làm ở gần châu thành Long Xuyên, tôi cũng ghé lại thăm cô, hoặc nhờ giúp một vài việc như mướn giùm cho tôi cho một chiếc ghe. Thân phụ cô, ông Nguyễn Đình Huỳnh, là một nhà Nho làm đông y, có một số ruộng, vào hạng hơi phong lưu; thân mẫu cô, bà Ngô Thị Lựu, là vợ thứ, ông cha ở Huế vô cũng là nhà Nho. Cô mới được ba tuổi thì mồ côi cha, ở với người anh cả cùng cha khác mẹ; bà mẹ cũng vì cảnh con chồng đối xử không đẹp, khẳng khái dắt cô qua Long Xuyên ở nhờ một người em - y như cảnh bà ngoại tôi vậy - và vừa may thuê vá mướn, vừa làm thuốc tễ đem bán ở các chợ trong miền để nuôi con ăn học.
Cô học khá mà lại nhỏ tuổi nhất trong trường, nên được bà hiệu trưởng, người Pháp, giúp đỡ cho, chỉ cách thức thì vô trường nữ trung học Gia Long ở Sài Gòn. Cô may mắn thi đậu: khóa đó là khóa thứ tư của trường, chỉ có mười mấy nữ sinh. Được học bổng, ở nội trú, nhưng mỗi tháng mẹ cũng cấp thêm cho ba đồng. Bốn năm thi ra, đậu, được bổ về dạy lớp ba (élémentaire) trường nữ Long Xuyên, tức trường cũ của cô.
Lương hồi đó, năm 1928, sáu chục đồng một tháng, thêm phụ cấp sư phạm hai chục đồng nữa, mà đi chợ mỗi ngày chỉ mất có một cắc cho ba bốn người ăn. Tính rất cần kiệm, giản dị, mặc toàn đồ vải. Tiền lương đưa mẹ hết, mẹ may cho cái gì thì mặc cái đó. Trong làng, trong họ ai cũng khen bà mẹ có đức và cô con có hiếu. Cô có tình họ hàng gần với bác gái tôi. Mới tiếp xúc lần đầu, tôi thấy nét mặt cô dễ coi nhờ có chút duyên thầm; mà tính tình cũng rất dễ thương vì tự nhiên, giản dị, nhũn nhặn, thành thực.
Khoảng cuối năm 1935 bác tôi bảo tôi: “Thím tư - tức mẹ tôi - nghĩ cháu đã lớn tuổi rồi, muốn nhờ bác thay thím kiếm một nơi nào cho cháu”. Tôi thấy còn sớm quá, mới ra làm chưa được một năm, nên chỉ “dạ” rồi thôi. Ít tháng sau, nhân dịp về chơi nhà, bác tôi dắt tôi đi thăm một ông Hội đồng tỉnh, vào hạng điền chủ lớn thứ nhì trong làng, có độ ba trăm héc ta ruộng, ba bốn người con gái mà người lớn nhất đã gả cho một giáo sư tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội. Nhà đó hiền lương, có nền nếp, con gái người nào cũng giỏi nữ công, nhưng học may lắm thì hết tiểu học. Chỗ đó xứng đáng, nếu bác tôi hỏi thì được liền, nhưng thấy tôi không sốt sắng, nên bỏ qua.
Sau đó ít lâu, một người bạn tôi mới quen ở Rạch Giá, cũng do bác tôi giới thiệu, đưa tôi đi coi mặt một thiếu nữ, con một ông phủ ở Giồng Giềng[2] nhân một bữa tiệc buổi tối. Chỗ này sang trọng nhưng quan liêu. Đi coi về, tôi viết thư cho bác tôi, giọng hơi dí dỏm, bảo “trong ánh đèn măng sông (manchon) chỉ thấy một làn xanh xanh rực rỡ và thơm phức xẹt qua như một vì sao đổi ngôi”.
Bác tôi hiểu ý, và có lẽ vì lấy số tử vi cho tôi, thấy cung thê của tôi có các văn tinh xương, khúc, hóa khoa, đoán rằng vợ phải là người có học, nên lại giới thiệu cho tôi một chỗ khác: một cô giáo mới ở trường Gia Long ra, tên là H., dạy trường Nữ Long Xuyên. Nhà cô chỉ đủ ăn, cha người Trung (hay Bắc), làm Đông y. Bác tôi bảo tôi nhờ cô Liệp giới thiệu cho.
Cô mỉm cười nhận lời liền, sai đứa cháu đem một bức thư hỏi ý cô bạn trước rồi rất nhặm lẹ, bận thêm chiếc áo dài thâm, đưa tôi đi. Hai nhà chỉ cách nhau vài trăm thước, cô đi song song với tôi, mỗi người một lề đường, cách nhau cả mặt đường. Cô H. trắng trẻo, nhỏ nhắn, thanh tú, có vẻ thông minh và hiền từ, tôi không có gì để chê cả. Nhưng khi kể lại cuộc “Xuân nhật tầm phương” đó với bác, tôi lại muốn hỏi cô Liệp, xin ý kiến bác. Chắc bác tôi hơi ngạc nhiên, hồi âm cho tôi, bảo “dì Năm - cô Liệp thứ năm - về đức hạnh thì đáng quí, nhưng nhà nghèo và lớn tuổi hơn cháu”. Như vậy là bác tôi để tôi tự ý quyết định.
Độ một tháng sau tôi lại thăm cô Liệp, trước khi ra về, trao cô một bức thư cầu hôn. Cô không trả lời thẳng cho tôi mà viết thư cho bác tôi, đại ý rằng: cô cảm động về bức thư của tôi, nhưng nhà chỉ có một mẹ và một con, nên muốn được ở vậy phụng dưỡng mẹ và xin “đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì”.
Tính tôi khẳng khái, cô đã nói vậy thì tôi cũng không nói thêm nữa. Nhưng từ đó chúng tôi vẫn thỉnh thoảng thư từ với nhau và có dịp, tôi vẫn ghé nhà cô. Bà thân cô rất ít nói, có vẻ nghiêm khắc, nhưng cũng coi tôi như các bạn đồng sự của cô ở Long Xuyên. Sau cô mới cho hay rằng cô ngại tôi còn mẹ già ở Bắc, nếu mẹ tôi muốn cho tôi về làm việc ngoài đó thì khó xử cho cả hai bên: cô không thể bỏ mẹ mà theo tôi ra ngoài đó, tôi cũng không thể bỏ mẹ mà ở với cô trong này. Giá cô nói thẳng như vậy từ trước thì việc đó dễ giải quyết: mẹ tôi đã muốn tôi ở hẳn trong Nam, mà từ đời sống đến tính tình, mẹ tôi đều hợp với bà thân của cô, người sẽ vui vẻ chứ không thấy trở ngại gì cả.
Phương Đông ta có chuyện ông Tơ bà Nguyệt, chuyện duyên nợ ba sinh, không biết các dân tộc khác có không, nhưng tôi tin chắc rằng không dân tộc nào không tin rằng hôn nhân là chuyện may rủi, bất ngờ như có tiền định. Lần đó, đối với tôi là rủi; bây giờ ngẫm lại thì cơ hồ lại là may; dù may dù rủi thì theo các nhà lí số cũng là tiền định rồi, rất hợp với số tử vi của tôi.
Từ đó tôi không nghĩ đến việc tìm vợ nữa, cứ thủng thẳng có cơ hội rồi sẽ tính. Bác tôi thâm ý muốn cho tôi làm rể một điền chủ lương thiện, vào hạng trung phú, để khi về hưu có được vài chục héc ta ruộng, chứ liêm khiết như nếp nhà tôi, gánh gia đình lại nặng, chỉ trông vào số lương thì không sao khá được. Nhưng thấy tôi lơ là với mấy điền chủ đã giới thiệu, bác tôi từ đó để mặc tôi.
HỌ TRỊNH - LỄ CƯỚI
Mùa thu năm 1936, tôi đi đo ở vùng Bạc Liêu, nhiều nhất là trên đường Bạc Liêu xuống Cà Mau, mấy lần đi ngang qua Giá Rai, một quận cách Bạc Liêu chừng 30 cây số, rất buồn, dưới kinh là nước mặn và cá chốt, trên bờ mươi tiệm Triều Châu nối nhau thành một dãy phố duy nhất dài độ hai trăm thước, sau lưng toàn là ruộng lúa. Có nhiều điền chủ giàu, nhưng đa số ở trong làng Long Điền xa xa, hoặc trên đường Bạc Liêu - Cà Mau.
Ở Giá Rai có một tiểu khu của sở Thủy lợi do một ông đốc công già gốc Bắc chỉ huy, ông Trịnh Đình Huyến. Ông ở trường Công chánh Hà Nội ra trước tôi non hai chục năm, tính tình ngay thẳng, vui vẻ, hiền lương, được các bạn trong sở quí trọng.
Ông thuộc giới sang trọng, có tiếng tăm ở Hà Nội: nhà có bốn anh em, ông là cả, tới người em trai thứ cũng ở sở Công chánh ra như ông; người em trai kế đó là luật sư Trịnh Đình Thảo, có tiếng ở Sài Gòn, đậu tiến sĩ luật ở Pháp về; người em gái út gả cho một luật sư nữa, có cử nhân luật ở Hà Nội. Bà vợ là em ruột của ông Vũ Văn An, người Việt đầu tiên được bằng cấp kĩ sư Hóa học ở Paris, ngành nhuộm, có một cửa hàng tơ lụa nhập cảng lớn ở Hà Nội.
Nhà bảy tám người con, nên mặc dầu bà khéo làm ăn mà cũng phải tiết kiệm mới đủ. Nhưng lối sống vẫn là lối của giới sang trọng ngoài Bắc, khác lối sống của tôi.
Mới gặp tôi vài lần, ông bà có lòng mến tôi rồi, và bà nhờ người đánh tiếng muốn gả trưởng nữ là cô Trịnh Thị Tuệ cho tôi. Tôi quí tính tình của ông, lại được biết cô Tuệ học giỏi, sớm đậu tiểu học, học tới năm thứ ba Cao đẳng tiểu học rồi thôi, về giúp việc nhà, nữ công khéo, biết săn sóc các em, được cả nhà mến, các em nể, nghe lời, nên tôi có ý muốn nhận lời, viết thư hỏi bác tô rồi thưa với mẹ tôi.
Lễ cưới định vào hồi lễ Phục sinh năm sau - 1937. Rất đơn giản. Mẹ tôi ở Hà Nội vào, cưới xong, ở chơi Giá Rai một hai ngày, rồi cùng với vợ chồng tôi về Tân Thạnh làm lễ tổ tiên. Ít bữa sau, vợ chồng tôi lên Sài Gòn trước, để tìm nhà, mua sắm đồ đạc; mẹ tôi ở lại Tân Thạnh chơi với hai bác tôi, sẽ lên sau.
Lần đó là lần đầu tiên mẹ tôi vào Nam, có lẽ vui nhất là được nhắc lại chuyện cũ với bác tôi, sau trên hai chục năm xa cách. Nhà cửa thu xếp xong, tôi mời mẹ tôi lên. Người ở chơi ít ngày rồi về Hà Nội.
ĐỔI VỀ SÀI GÒN - MẸ TÔI VÔ THĂM CHÁU NỘI
Tôi cưới vợ đúng vào lúc làm xong hai năm tập sự, được vào chính ngạch và đổi về Sài Gòn làm ở phòng giấy. Từ đây chấm dứt đời sống tự do giữa thiên nhiên, cây cỏ, mây nước mà bước vào cuộc đời “sáng vác ô đi, tối vác về”.
Chúng tôi thuê nhà ở Khánh Hội, cách sở độ một cây số, trong một khu yên tĩnh. Nhà tôi siêng năng coi sóc việc nhà, biết tiết kiệm vừa phải, mỗi tháng cũng để dành được chút ít. Tôi ít giao du, lâu lâu chúng tôi đi thăm bà con như ông Trịnh Đình Thảo, ông Nguyễn Khắc Tín, em dị bào của mẹ tôi, làm việc tại Phủ Toàn quyền và vài bạn học của tôi.
Lại chỉ đọc sách để tiêu khiển. Tôi vào Chợ Lớn mua một cuốn tự điển Bạch thoại, vài bộ truyện Tàu: Tam Quốc chí, Thủy hử… (bằng chữ Hán), một tập Văn tuyển của Hồ Thích... Mỗi năm nhà tôi về thăm gia đình ở Giá Rai vài lần và cùng với tôi về Tân Thạnh một lần.
Năm 1938 (âm lịch ngày 11 tháng hai năm Mậu Dần[3], giờ Thân)[4], nhà tôi sanh con trai (sanh hơi khó), đặt tên là Nguyễn Nhật Đức. Nó rất dễ thương, trắng trẻo, tương đối mạnh, có vẻ lanh lợi, hiền lành. Cả gia đình ngoại đều cưng nó. Nhà tôi săn sóc nó rất kĩ: ăn ngủ đều có giờ, nửa đêm dậy cho nó tiểu; nó đau yếu lặt vặt thì chỉ giữ cho nó khỏi lạnh, giảm bú đi, cho uống nhiều nước ấm, chứ ít cho uống thuốc. Nấu nước rồi lọc kĩ bằng bông gòn rồi mới cho no uống. Không bồng bế nó suốt ngày như nhiều gia đình khác, không ru nó, cứ tới giờ đặt nó vô chiếc giường xinh xinh của nó, mặc cho nó ngủ. Nhờ vậy nó không quấy, nhèo nhẹo như đa số trẻ khác. Ngủ đẫy giấc thì nó tỉnh dậy, quẫy chân, đập tay, “e, e” vài tiếng để gọi, chúng tôi chạy lại nhìn cặp mắt đen lánh, mấy sợi tóc lơ thơ của nó, mắng nó: “chó con”, nó toét miệng ra cười, đưa tay đòi bồng ra khỏi giường.
Tôi khen nhà tôi giỏi nuôi con và tin rằng trẻ mà khỏe mạnh, khéo nuôi thì đa số đều dễ thương cả. Nó nhõng nhẽo hoặc bướng bỉnh, hỗn láo là tại cha mẹ. Khi nó đã bắt đầu hiểu biết một chút (một, hai tuổi) chúng tôi cho nó tự do trong những giới hạn nào đó, hễ nó vượt khỏi giới hạn thì ôn tồn chặn lại, giảng cho nó hiểu tại sao. Rồi tùy sự phát triển tinh thần, tâm lí của nó, mở rộng lần lần giới hạn ra, cho hợp với nhu cầu của nó. Phải tốn công theo dõi nó trong những bước đầu, sau nó thành nếp, mà trở thành yêu tự do, mà biết tự chủ. Chúng tôi dạy con theo nguyên tắc đó. Con tôi chưa chắc biết rằng nó được hướng phúc của cha mẹ.
Khi nó phúc đầy tuổi tôi, mẹ tôi vô thăm nó, mang cho nó một hộp bánh. Lần này người vui hơn lần trước. Nó chưa biết nói, mới biết ngồi. Nó không bụ sữa mà cũng không gầy, bụng lép xẹp, vui vẻ suốt ngày. Tôi không bao giờ quên cảnh bà cháu ngồi trên giường, bà têm trầu, nhai bỏm bẻm, nhìn cháu ở trước mặt, ngồi tròn như con ốc, mân mê đồ chơi. Một lần tôi đi xóm về, gần tới nhà, thấy mẹ tôi đứng ở cửa, tôi bồng nó đưa lên cao, nó đưa hai tay ngã mình ra trước đòi bà bế, mẹ tôi thích lắm. Lần đó mẹ tôi ở chơi độ một tuần, về Tân Thạnh thăm hai bác tôi bốn năm ngày rồi lại về Bắc để buôn bán.
Trong tập Làm con nên nhớ (Lá Bối – 1970) tôi viết:
“Má tôi ít học nhưng có tình thương con thì là có lương tri, mà có lương tri thì còn hơn là có học: người đã để tôi tự ý định đoạt lấy cuộc đời của tôi, không can thiệp vào sự lựa nghề, lập gia đình của tôi. Hồi trẻ tôi cho vậy là tự nhiên; phải tới ngày nay, hai thứ tóc rồi, tôi mới hiểu rằng người đã hi sinh cho tôi. Không hi sinh mà tôi là con trưởng, lại để sống xa người tới hai ngàn cây số! Không hi sinh mà nhà tôi trước sau làm dâu không đây một tháng! Không hi sinh mà người phải đi về bốn ngàn cây số để bồng cháu nội trong tay có bảy ngày!
“Nhưng giả sử hồi đó người có “can thiệp” vào đời sống của tôi thì bây giờ tôi cũng hiểu được rằng người không phải là ích kỉ. Người chỉ tìm hạnh phúc cho con người theo quan niệm của người, thế thôi (...). Khi quan niệm của cha mẹ không hợp với ý muốn của ta thì ta bảo rằng cha mẹ không sáng suốt. Lạ thật! Chỉ tại “nước chảy xuôi chứ không bao giờ chảy ngược” như tục ngữ nói”.
Ông Đông Hồ khi đọc câu cuối đó rớt nước mắt. Chính tôi khi viết nó (1970) cũng rớt nước mắt. Tôi viết nó khi mẹ tôi đã mất 25 năm, cha tôi mất đúng 45 năm rồi! Muốn tỏ lòng với cha mẹ thì cha mẹ đã không còn.
CON TÔI HỌC VẦN QUỐC NGỮ
Nhà tôi nuôi con rất kĩ mà dạy con cũng rất kĩ.
Khi nó được độ ba chục tháng, nhà tôi mua cho nó một hộp vần Quốc ngữ của nhà Mai Lĩnh, trong chứa độ hai chục miếng gỗ vuông, mỗi chiều bốn năm phân, dày nửa phân, hai mặt dán giấy màu in các chữ cái với một hình loài vật, trái cây, đồ dùng, ví dụ chữ Đ thì vẽ cái đu, chữ Ô thì vẽ cái ô (dù), chữ G thì vẽ con gà… Nó dùng những miếng gỗ đó để cất nhà mà đồng thời để học chữ cái. Khi nó thuộc mặt chữ rồi, chúng tôi dạy nó đánh vần. Buổi tối nằm chơi với nó trên giường, hoặc trên ghế bố, dưới gốc cây trước nhà, chúng tôi nói b-a-ba, b-á-bá, b-ơ-bơ… nó đọc theo; hết vần xuôi tới vần ngược: a-n-an, a-i-ai, a-c-ac… (đó là lối dạy thời trước); chỉ ít tuần nó quen miệng, ghép vần được gần hết. Trong thời gian đó chúng tôi cho nó tập viết chữ bằng phần trên bảng đen, công việc đó dễ, vì nó đã thuộc mặt chữ từ trước. Quen tay rồi mới cho nó viết bằng bút chì trên giấy.
Chúng tôi lại mua cho nó một bàn toán nhỏ (cho con nít chơi) cho nó tập đếm.
Vừa chơi vừa học như vậy trong mươi tháng, khi nó đúng bốn mươi tháng thì nó đã viết, đọc được chữ Quốc ngữ, làm toán cộng, toán trừ được 2 số, và ít lâu sau thuộc bảng cửu chương.
Nó thích coi hình máy bay và xe hơi trong bộ Larousse Universel, nhưng chưa học vần Tây nên chưa biết tra, chỉ tìm được số trang thôi. Một hôm tôi thấy một miếng giấy trên đó nó viết:
Mục lục
máy bay...[5]
xe hơi...[6]
Tôi mỉm cười, hỏi:
- Mục lục là gì?
Nó đáp: Con không biết.
Tôi xoa đầu nó, nghĩ bụng: “thằng này học được”.
Nó thấy tôi tra mục lục một cuốn Quốc văn để lựa bài cho nó đọc nên nó làm theo, lập bảng mục lục để dễ tìm những trang có hình máy bay, xe hơi. Tôi mua sách báo nhi đồng cho nó đọc. Rồi xin cho nó vô lớp vỡ lòng tiếng Pháp của trường Bà Phước tại nhà thờ Tân Định, rất gần nhà tôi vì lúc đó chúng tôi đã dời nhà lại đường Monceau (Huỳnh Tịnh Của).
“Buổi sáng hôm đó, nhà tôi và tôi dắt nó tới trường, nó đi giữa, mỗi đứa chúng tôi nắm một tay còn cập sách thì tôi cầm. Trường nằm dưới bóng một hàng sao cao vút đưa lên nền trời xanh dịu. Khi nó rời chúng tôi để vào lớp thì nó òa lên khóc một chút. Lúc ấy tôi thấy mặn mặn ở cuống họng. Cảnh hai mươi mấy năm trước, ngày cha tôi đưa tôi vào học trường Yên Phụ lại diễn ra: đến giờ ra chơi, chúng tôi cũng đợi cháu ở góc sân; đến giờ về lại đợi cháu ở cửa và cháu cũng lại hỏi:
– Ba má đợi con có lâu không?
Chúng tôi cũng hỏi lại:
- Ngồi trong lớp con có ngoan không? Bà Phước có hỏi gì con không?...”.
Tôi cho rằng trẻ thời đó cho học vỡ lòng bằng tiếng Việt, khi nó biết đọc biết viết rồi, cho học tiếng Pháp, có lợi hơn là học toàn tiếng Pháp từ hồi vỡ lòng, vì trong hai, ba năm đầu học tiếng Pháp, chưa đọc được sách Pháp, nó có thể đọc sách Việt, mở mang trí óc hơn, và hết ban tiểu học Pháp, nó có thế thi cả bằng Tiểu học Việt được.
Năm sau tôi xin cho con tôi vào lớp tư (Préparatoire) ở trường Tân Định, cách nhà tôi vài chục thước. Nó theo nổi, mặc dầu không đủ tuổi. Nhưng chưa học hết nửa niên khóa thì nó phải tản cư với má nó về nhà một người em rể của nhà tôi ở Long Điền, quận Giá Rai. Lúc đó ông nhạc tôi đã đổi ra Tuy Hoà, không ở Giá Rai nữa.
 
[1] Về sau “cô” làm hiệu trưởng, nên nhiều người gọi là cô (hoặc bà) Đốc. (Goldfish).
[2] Tức Giồng Riềng. (Goldfish)
[3] Tết Mậu Dần, mẹ tôi ở Vĩnh Yên mua một chục huệ cúng, giò nào cũng nở hết tới ngọn.
[4] Tức ngày 12-3-1938. (Goldfish).
[5] Số trang.
[6] Trong bài Tựa cuốn Thế hệ ngày mai.
Chương XII
Ba Lần Ra Bắc
CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH PHƯƠNG ĐÔNG

Dân tộc mình theo chế độ gia tộc của Trung Hoa mà chế độ này có từ đời Văn vương nhà Chu, thế kỉ XII trước Tây lịch, tới nay đã trên ba ngàn năm.
Theo lệ nhà Thương, khi vua chết thì truyền ngôi cho em, không có em mới truyền cho con; người em lên ngôi, khi chết lại truyền cho con của vua - anh trước, do đó mà gây nhiều vụ chú cháu tranh giành ngôi báu. Văn vương bỏ lệ đó, truyền ngôi cho con là Võ vương mặc dầu ông có mấy người em, từ đó về sau, chỉ đích tử mới được nối nghiệp cha, làm chủ cả thiên hạ. Chế độ đó người Trung Hoa gọi là “tôn pháp”, chẳng những được áp dụng trong hoàng tộc, mà cả trong gia đình các khanh, đại phu, sĩ, thứ nhân nữa, khiến cho gia tộc Trung Hoa có nhiều nét đặc biệt.
Vua (thiên tử hay chư hầu) lựa một người con mà truyền ngôi cho – theo nguyên tắc là con trưởng, tức đích tử - chỉ người con đó được làm thiên tử hay vương, còn những người khác thì lãnh tước nhỏ hơn, hoặc làm chư hầu, hoặc làm khanh, đại phu. (Nếu đích tử chết sớm mà có con trai, thì người con trai lớn, gọi là đích tôn, được kế nghiệp).
Người con (hay cháu) kế vị gọi là tự vương hay tự quân (tự là nối), làm chủ tể trong tôn miếu, các người con khác chỉ làm bồi tế.
Các gia đình đại phu cũng vậy: người con kế nghiệp làm chủ tế gọi là “đại tôn”, các người khác làm bồi tế gọi là “tiểu tôn”. Có những thể chế qui định từng chi tiết trong các cuộc tế: đại tôn, tiểu tôn đứng chỗ nào, làm những việc gì… không được việt vị.
Trong gia đình thường dân, luôn luôn người con trưởng được hưởng gia tài, giữ việc hương khói. Địa vị người con đó quan trọng nhất nhưng trách nhiệm cũng lớn nhất: lo cho mọi người đủ ăn đủ mặc, dạy dỗ người dưới, chịu sự chê trách của gia tộc và xã hội nếu trong gia đình có kẻ nghèo đói hoặc hư hỏng, bị tội, làm nhục tổ tiên.
Ngược lại, người đó và cả vợ nữa được người trên nể, người dưới nghe lời. Khi em còn nhỏ, ở chung nhà thì anh có quyền thay cha đã mất - quyền huynh thế phụ -; em lớn rồi ra ở riêng, may mà giàu có, sang trọng hơn anh thì về nhà vẫn phải lễ phép với anh chị và có bổn phận phải giúp đỡ anh chị mà không được khoe giàu sang trước mặt anh chị.
Con gái không được quyền kế thừa, ra ở riêng rồi thì không còn địa vị gì trong nhà nữa - nữ nhân ngoại tộc - thành người gia đình bên chồng, của một họ khác[1].
Tổ chức gia đình đó thích hợp với chế độ nông nghiệp, để cho đất đai của gia đình bớt bị phân tán, vào tay người ngoài, và để cho sự khai thác chung được dễ dàng, sự tiêu xài đỡ tốn kém. Nó lại tạo nên tinh thần gia tộc: giúp đỡ lẫn nhau, giữ danh dự chung cho nhau.
Tới ngày giỗ cha mẹ, ông bà, em nào ở gần thì phải về nhà người anh trưởng làm giỗ. Nếu là ngày giỗ tổ họ thì mỗi chi phải đem đồ lễ (thường là một mâm xôi, một con gà luộc) lại người tộc trưởng để cúng. Nếu là ngày giỗ tổ chi thì cũng vậy, mỗi gia đình trong chi đem đồ lễ tới nhà chi trưởng để cúng. Người nào trong họ đỗ đạt, có danh tiếng hay làm ăn thịnh vượng, thường tự cho là một vinh dự được cúng vào nhà thờ họ một bức hoành phi, một đôi câu đối sơn son thiếp vàng; có khi xây lại nhà thờ cho họ nữa, hoặc cúng họ một hai mẫu, dăm ba sào ruộng làm “nghĩa điền” hay “học điền”. Ruộng đó do người trưởng tộc quản lí, thu hoạch được bao nhiêu thì giữ một phần nhỏ để bù công khai thác, còn bao nhiêu cho vào một quĩ riêng để giúp đỡ những gia đình nghèo trong họ (nghĩa điền), hoặc trợ cấp cho những thanh niên tuấn tú trong họ để có phương tiện học đến nơi đến chốn (học điền).
Muốn cho chế độ được vững, đời Chu tạo ra chữ hiếu và đề cao hiếu đễ: con phải hiếu với cha mẹ, kẻ nhỏ phải tôn trọng, vâng lời người trên. Ai cũng nhận rằng dân tộc Trung Hoa là dân tộc trọng chữ hiếu nhất. Vì trọng chữ hiếu, nên họ cũng rất chú trọng đến tang lễ, tế tự. Người Pháp xưa cũng có quyền trưởng tử (droit d'ainesse) nhưng người con trưởng Pháp có quyền hưởng gia tài chứ không chắc có những bổn phận như người con trưởng Trung Hoa.
Trong một gia đình, người con trưởng có tư cách và khả năng thì các em được nhờ; nếu con trưởng kém nhưng các em khá thì cũng đỡ.
BỔN PHẬN CON TRƯỞNG
Chế độ gia đình, chế độ tôn pháp đó nay đã lỗi thời, nhưng bốn chục năm trước, nhiều nhà còn giữ, trong đó có gia đình tôi[2].
Tôi là con trưởng, nên từ hồi 15, 16 tuổi ta, gặp những ngày giỗ ngày tết, tôi cũng ăn mặc chĩnh tề, lên gối xuống gối, làm lễ trước bàn thờ. Và khi đã học chữ Hán hết một vụ hè với bác Hai tôi thì người thảo cho tôi vài bài văn bằng chữ Hán để tôi khấn trong mỗi trường hợp hoặc giỗ hoặc tết. Bác tôi còn giữ cổ tục quá, lớn lên tôi bỏ lệ đó, khấn bằng tiếng Việt, vì nghĩ bà ngoại tôi, mẹ tôi đâu có biết chữ Hán, mà thưa với người bằng chữ Hán.
Dĩ nhiên, tôi tự cho tôi có bổn phận với các em tôi, mà các em tôi cũng tự cho có quyền buộc tôi phải bao bọc.
Vợ tôi tuy cha mẹ còn cả mà lại là phận gái, nhưng vì là chị cả, nên cũng có bổn phận trông nom các em, dù đã ra ở riêng rồi. Do đó, gánh của chúng tôi khá nặng; tiền lương của tôi ít, mà vợ tôi lại không buôn bán, làm ăn gì, phải khéo thu vén lắm mới đủ tiêu.
Tôi làm việc ở Sài Gòn được một hai năm thì xin cho em trai tôi, Nguyễn Hữu Hùng làm họa viên dưới quyền tôi, thế là đỡ được một phần cho mẹ tôi. Cũng vào khoảng đó, hai người em vợ tôi lên Sài Gòn học, ở nhà chúng tôi, tôi phải giảng bài thêm cho một người để thi vô trường Trung học Gia Long. Nhà hẹp, bấy nhiêu người đã thấy chật rồi; sau khi mẹ tôi qui tiên, hai em gái tôi vào ở với chúng tôi, nhà còn chật nữa, tiêu pha tốn hơn nữa.
RA BẮC LẦN THỨ NHẤT – MẸ TÔI MẤT
Sau khi Hùng, em trai tôi vào làm việc ở Sài Gòn, mẹ tôi mướn một căn phố nhỏ ở Vĩnh Yên đưa hai em gái tôi lên ở trên đó để tập cho chúng buôn bán mà người đỡ phải đi đi về về trên đường Hà Nội, Vĩnh Yên, vì người đã già rồi.
Năm 1939 người vào thăm vợ chồng tôi và cháu thì năm sau (tháng hai âm lịch năm Canh Thân) người đau nặng, ngất đi, em tôi đánh điện vào gọi tôi ra. Được tin tôi cho em trai tôi (Hùng) mang một số tiền ra ngay; mặt khác tôi đánh điện cho bà nhạc tôi lúc đó ở Hà Nội, nhờ lên thăm mẹ tôi và có chuyện gì gấp thì trông nom giùm. Tôi phải thu xếp việc nhà, việc sở, sẽ ra sau vài ngày.
Lúc đó đương có chiến tranh ở châu Âu, các công sở hạn chế cho nghỉ phép, tôi chỉ được nghỉ nửa tháng. Vợ chồng tôi cùng ra, cháu mới đủ hai tuổi, chúng tôi để ở Sài Gòn giao cho anh Nguyễn Xuân Thiếp, con bác tôi, và chị giúp việc nhà.
Tới Vĩnh Yên thì mẹ tôi vẫn còn tỉnh, nhưng rất yếu, nằm suốt ngày, chỉ ăn cháo và đi sông mỗi ngày mấy lần, phân rất xấu mà ít. Tôi cho là đau ruột, có người bảo là lao ruột. Trong khi đau có hai em gái tôi và hai người cháu, một ở Phương Khê và một ở hàng Đường (Hà Nội tên là Ba Cương), thay phiên săn sóc. Mẹ tôi không chịu uống thuốc Tây mà uống thuốc Bắc của một ông lang Hà Nội. Ông này trị không bớt. Khi tôi ra thì chân người đã phù.
Thấy cả vợ chồng tôi cùng ra, vậy là đủ mặt bốn con và một nàng dâu, người vui lắm, chỉ hận rằng vắng cháu nội. Mẹ tôi kể cho chúng tôi nghe rằng bà nhạc tôi được điện tín của tôi, ngay chiều tối, mướn một chiếc xe hơi và cùng với một ông anh ruột, ông Loan, lên thăm mẹ tôi, thấy bệnh có thế trị được, chưa nguy, nên dặn dò hai em tôi ít lời rồi quay về Hà nội. Mẹ tôi bảo vợ chồng tôi rằng quí tình sốt sắng của bà nhạc tôi lắm. Tôi ra được hai ngày thì mẹ tôi biết bệnh khó qua được, gọi riêng tôi vào nói chuyện, cho biết tình hình tài chánh: bạc mặt còn 300 đồng, tiền họ[3] đã đóng được ba trăm đồng, các món nợ có thể đòi được là 150 đồng, trà hột để bán còn 70 đồng (giá vàng hồi đó khoảng 200 đồng một lượng). Như vậy là người đã dành dụm, chuẩn bị hết, nên số tiền tôi gởi ra chưa dùng tới. Người không muốn phiền con cái chút nào cả. Ngày nay tôi cũng giữ được tính đó của người.
Sau năm năm vào Nam, lần này là lần đầu tiên tôi về Bắc, cho nên tôi xin phép người đi thăm mồ mả tổ tiên và họ hàng ở Phương Khê, Hà Nội. Chúng tôi cứ đi một hai ngày thì lại về Vĩnh Yên một ngày.
Nhà Phương Khê thật hoang tàn: nhà khách và nhà bếp đã bán, hàng rào tre cũng sắp bán, cỏ mọc đầy vườn, nhà thờ tuy còn vững nhưng gần như trống không, bàn thờ chỉ còn mối một cái bát cắm nhang.
Nhà thờ bên ngoại ở số 4 ngõ Phất Lộc, một người cháu ngoại bà cả Tiệm cũng bán rồi, và lấy ra một phần tiền mua một cái nhà khác nhỏ hơn trong một ngõ hẻm khu Khâm Thiên, còn bao nhiêu bỏ túi.
Nhà số 2, phần của cha tôi thì vẫn còn và mỗi tháng mẹ tôi vẫn thu được ít tiền nhà.
Tôi thấy khi mà con cháu hư hỏng thì không có cách gì cấm chúng bán sản nghiệp tổ tiên. Tôi nghe nói có trường hợp cha mẹ cấm ngặt con không được bán nhà và vườn; nó không bán nhưng cho thuê chín mươi chín năm và thu tiền một lúc thì cũng như bán. Lại như bác Hai tôi cấm con cả bán phần hương hỏa nếu không có thỏa thuận của ba người em; có ngờ đâu cả bốn anh em đều đồng tình bán.
Ở Hà Nội chúng tôi đi thăm tất cả bà con bên nhà tôi; đặt biệt là ông Phương (em ruột ông nhạc tôi), ông Loan (anh ruột bà nhạc tôi) và cụ Bang, bà ngoại nhà tôi. Cụ hồi trẻ, một tay làm nên cơ đồ cho chồng, sau giận chồng vì chồng mê mấy nàng hầu, cụ để lại tất cả sản nghiệp cho chồng, ra đi, nhất quyết không trở lại.
Tay không mà sau mười năm lại gây dựng một cơ đồ trị giá cả vạn nữa. Chồng mất, con trai cả về lạy cụ, khóc lóc, cụ mới chịu về đưa ma chồng, nhưng không khóc mà cũng chẳng lễ. Bảy cô nàng hầu lạy cụ, cụ chỉ cười.
Trên bảy chục tuổi, cụ ở một mình một căn nhà năm gian giữa một trại rộng 5, 6 mẫu ta ở làng Khương Hạ (Hà Đông), trồng, na, nhãn. Có bao nhiêu tiền cụ chỉ mua quà cho các con cháu, và cho trẻ con trong xóm. Năm nào cũng phơi cả chục kí nhãn nhục làm quà cho người quen. Hễ có con cháu về chơi thì cụ đích thân nấu nướng để đãi, ăn không hết. Có khi mổ lợn phân phát cho dân nghèo trong làng. Bà nhạc tôi hỏi: “Sao cụ phung phí thế?”. Cụ đáp: “Các ông các bà khá giả hết, tôi để của lại làm gì?” Đúng lắm. Mà con không khá thì để của cho chúng cũng vô ích.
Gần đến ngày trở về Sài Gòn, vợ chồng tôi vào từ biệt mẹ tôi. Người bảo: “Vợ chồng con cũng tử tế, hầu hạ mẹ trong mấy ngày như vậy cũng đủ rồi, vào trong đó mà làm ăn và trông nom cháu bé... Có sự nào thì mẹ mất ba cái gậy” (vợ chồng tôi và cháu). Tối rưng rưng nước mắt. Về Sài Gòn được ít ngày thì có điện tín mẹ tôi đã qua đời ngày rằm tháng ba âm lịch, thọ 55 tuổi. Một đời lao lực, tận tụy cho mẹ, chồng và con, khi mất không tiêu của con một đồng nào mà còn để lại dư tiền để làm ma. Người còn hận một điều là em trai tôi và em Oanh chưa thành gia thất[4].
Theo người dặn, các em tôi tạm chôn người ở nghĩa trang Phúc Yên, đợi hết tang sẽ cải táng về gần mộ bà ngoại tôi ở Hạ Đình (Hà Đông) để mẹ con được gần nhau mà chúng tôi mỗi lần đi thăm mộ mẹ thì không quên mộ bà ngoại. Đám tang có đủ đại diện họ bên người, họ bên chồng, bà nhạc tôi cũng đi đưa, bạn bè của người ở Vĩnh Yên cũng khá đông.
Chôn cất xong, em trai tôi ở lại ít ngày rồi trở vào Sài Gòn làm việc. Hai em gái tôi ở lại khoảng một tháng nữa, thu tiền nợ, tiền họ, bán hết hàng hóa; ai cũng quí mẹ tôi, nên không ai thiếu cả. Nhờ vậy mà trang trải được tất cả phí tổn thuốc men, chôn cất, lại còn dư 300 đồng nữa. Tôi chia cho mỗi em một trăm làm vốn, chỉ giữ lại mỗi đôi hoa tai kiểu cổ của mẹ tôi. Nhưng rồi cũng không giữ được lâu. Năm 1945, nhà tôi tản cư ở Long Điền, chôn xuống đất, bị bọn Miên đào lấy hết.
RA BẮC LẦN THỨ NHÌ - ĐÁM CƯỚI EM TÔI – XÂY MỘ TỔ TIÊN
Ba năm sau (1943), nhờ bà nhạc tôi làm mai, cô em út của tôi (Mùi) được ông bà Tô Đình Huy hỏi cho người con trưởng Tô Đình Huân. Họ Tô là một nhà có học và danh giá ở Hà Nội. Ông Huy làm thông dịch viên tòa án, sau làm làm thư kí (clerc) cho một luật sư, biết chữ Hán. Bà Huy có họ với bà nhạc tôi. Cậu Huân vì đau yếu chỉ học xong tiểu học rồi làm thư kí. Có mấy người em học y khoa và dược khoa. Gia pháp nhà đó khá nghiêm.
Nhà trai xin cưới vào mùa xuân ở Hà Nội. Vậy vợ chồng tôi phải đưa cô em ra ngoài đó. Năm đó thế chiến đương gay go, đường giao thông có thể bị trắc trở; mà cũng đã mãn tang mẹ tôi rồi, đến lúc bốc mộ người đưa về Hạ Đình; tôi lại muốn xây cất tất cả các mộ bên nội bên ngoại cho xong, e sau này khó có dịp về Bắc; nên lần này, tiền bạc để dành được bao nhiêu tôi đem tiêu hết, dắt cả gia đình (vợ chồng tôi, con tôi, ba người em) để làm bốn công việc: gả em gái, bốc mộ mẹ, xây mộ bà ngoại và mẹ tôi ở Hạ Đình; xây mộ các cụ ở Phương Khê; tìm mộ hai cụ ngoại tôi ở Đan Loan (Hải Dương) và xây luôn.
Tưởng như vậy mồ mả sẽ giữ được, ít gì cũng hết đời tôi; nhưng năm 1975, sau ngày Giảng phóng, tôi được một đứa cháu ở Phương Khê cho hay rằng mộ của các cụ đều phải bạt nấm hết để khỏi cản trở công việc canh tác, mà mộ của cha tôi phải dời lại Gò Dai, nghĩa địa chung cho cả làng. Rồi năm 1979, cháu tôi, Tô Lệ Hằng, con gái lớn của cô Mùi, ở Pháp về, nhân dịp ra Hà Nội công tác ít bửa với cơ quan nguyên tử lực Việt Nam, bỏ ra một buổi về làng Hạ Đình tìm mộ bà ngoại và mẹ tôi mà không thấy. Họ hàng mẹ tôi ở hàng Đường và làng Hạ Đình cũng không ai nhớ: người già thì chết lần, người trẻ thì không quan tâm đến mồ mả, mà làng mạc, đồng ruộng đã thay đổi nhiều rồi.
Tôi bùi ngùi nhớ đến hai câu của cổ nhân:
”Vị qui tam xích thổ, nan bảo bách niên thân,
Kí qui tam xích thổ, nan bảo bách niên phần” 
Nghĩa là:
Chưa về ba thước đất thì khó giữ được thấm thân trăm năm,
Đã về ba thước đất rồi thì khó giữ được nấm mồ trăm năm.
Bà ngoại tôi mất năm nay được đúng năm mươi năm, mẹ tôi mất mới bốn chục năm mà mộ đã thất lạc. Cha tôi mất được sáu mươi năm, mộ tuy còn nhưng phải dời đi; mà đứa cháu ở Phương Khê mới cho tôi hay nghĩa địa chung ở Gò Dai sẽ phải dời đi nơi khác nữa. Tất là sẽ dời đi xa, vì trong làng hết đất rồi, mà dời đi xa thì mấy đứa cháu ở làng sẽ không đi thăm được, cũng kể như mộ thất lạc luôn.
Tôi chỉ làm hết bổn phận với tổ tiên, còn những sự thay đổi trong đời người, trong xã hội thì ngay cả trong thời đại ổn định là thời đại nông nghiệp, mà cổ nhân đã phải than thở như trên, huống hồ là thời đại bất ổn, thế giới xáo trộn rất nhanh như thời đại chúng ta ngày nay.
Khi làm xong các việc rồi, tôi trở về Sài Gòn thì em Oanh tôi – chị của cô Mùi – xin phép ở lại Hà Nội với một bà dì em dị bào với mẹ tôi. Tôi bằng lòng và bảo lấy tiền cho thuê nhà số 2 ở Phất Lộc, mà chi tiêu. Ít năm sau, cô ấy có chồng, chồng là con trai bà dì, tên Nguyễn Văn Quí, mới đầu dạy học, sau đổi qua làm sở Quan thuế.
Em trai tôi năm sau cũng được bác tôi kiếm vợ cho ở làng Tân Thạnh, con một điền chủ nhỏ, làm hương chức.
Thế là nguyện vọng của mẹ tôi được thoả mãn, mà bổn phận đối với gia đình tôi đã làm xong.
RA BẮC LẦN THỨ BA – THI KĨ SƯ
Tháng giêng âm lịch năm Giáp Thân (1944) tôi còn ra Bắc lần nữa để thi vấn đáp và thực tập vào ngạch kĩ sư. Số người lấy đậu cho toàn quốc đã hạn định. Bài viết tôi khá, nhưng thực tập kém nên rớt.
Trong khi nhắm máy vẽ bản đồ ở núi Trầm (thuộc tỉnh Hà Đông, cách Hà Nội hai chục cây số), tôi làm việc ngay ở dưới chân chùa Vô Vi, một ngôi chùa nhỏ bằng gạch, cất trên một ngọn núi đá lởm chởm cao độ dăm chục thước, trồng nhiều cây đại cổ thụ và nhìn xuống một cánh đồng chiêm xanh mởn. Vừa nhắm máy tôi vừa ước ao một ngày kia đi dạo những cảnh chùa như Nguyễn Công Trứ, đàm đạo với một vị hòa thượng trước một chén trà lão mai, và ngâm câu thơ:
Hương đắc phù sinh bán nhật nhàn.
Lần này tôi không về Phương Khê vì nhà thờ đã bán rồi, tôi không biết ghé đâu. Vả lại chiến tranh đã tới lúc quyết liệt. Phi cơ Đồng minh ngày nào cũng bay qua Hà Nội, dội bom các đường xe lửa, cầu cống, mấy lần tôi phải núp dưới hầm. Lại nghe tin đường xe lửa Hà Nội - Sài Gòn bị dứt thêm vài chỗ, cho nên thi xong tôi vội vã về Sài Gòn liền.
Tôi nhớ trong lần ra Bắc này gặp hai anh bạn cũ trường Yên Phụ: anh Vũ Đình Hòe và anh Lê Huy Vân ở tòa soạn Thanh Nghị. Hòe làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, hôm đó dạy học ở trường Thăng Long (?) về, đi bộ nói chuyện với tôi một quãng, cho chiếc xe nhà lững thững theo sau. Anh bảo tôi chính quyền Pháp muốn trợ cấp cho tờ báo nhưng anh không nhận. Tôi đưa anh coi một tập tùy bút, anh cho là chưa đăng được; tôi cũng nhận rằng loại tùy bút đó không hợp thời, mà càng không hợp với tờ Thanh Nghị. Anh nhờ tôi viết phóng sự về miền Nam, tôi suy nghĩ một chút rồi đáp sẽ viết về Đồng Tháp Mười. Anh hẹn với tôi một buổi đi ăn cơm tiệm với anh và anh Vân để nói chuyện được nhiều hơn; nhưng tôi ít thì giờ, không nhận lời được.
Chuyến về thật vất vả. Có mấy cây cầu sập. Cầu Quảng Trị bị một trái bom vào đúng khúc giữa, hai nhịp cầu gẫy gục xuống thành một chữ V rất đều đặn. Tôi nhớ đêm đầu tiên, xe lửa tới miền Thanh Hóa gặp một chiếc cầu sập, phải xách đồ đạc xuống, qua phà sang bờ bên kia lên xe khác. Chiếc phà đã đậu sẵn ở bờ. Hành khách vì mệt hoặc lo buồn, lủi thủi, lặng lẽ xuống phà. Chỉ nghe thấy tiếng nước vỗ vào be phà, tiếng kéo sợi xích sắt loảng xoảng, rồi chiếc phà rời bến. Dòng nước lừ đừ, gợn sóng vàng vì trăng mới ló. Không khí lạnh lẽo, ai cũng kéo áo lên che cổ. Bờ bên kia chỉ thấy lù lù chuyến tàu xam xám với một ngọn đèn le lói. Cảnh thê lương lạ lùng. Có tiếng lịch kịch phà chạm bờ, rồi tiếng xích sắt loảng xoảng nữa. Hành khách lại lủi thủi kéo nhau lên bờ và sau cùng chuyến xe cũng lủi thủi, âm thầm chuyển bánh từ từ, không một tiếng còi. Tôi có cảm tưởng như qua một chuyến đò ngang ở âm ti, trên Suối vàng, còn chúng tôi thì như những bóng ma đi tới đâu không biết, tới điện Diêm vương hay vào thẳng ngay Địa ngục?
CẢNH BỜ BIỂN TRUNG VIỆT - ĐÈO CẢ, ĐÈO HẢI VÂN, THÀNH PHỐ NHA TRANG
Mấy chuyến về Bắc đó, tôi được thấy những cảnh đẹp mê hồn ở bờ biển Trung Việt, mà bây giờ nhớ lại tôi vẫn cho là những lúc ngắn ngủi nhưng thú nhất trong đời tôi.
Hai cảnh đẹp nhất là đèo Cả và đèo Ải Vân (cũng gọi là Hải Vân). Năm 1941, trong một dịp ra chơi Nha Trang, Tuy Hòa (nơi ông nhạc tôi làm việc) và Qui Nhơn, tôi đã được ngắm cảnh đèo Cả.
Xe lửa từ Nha Trang ra, vừa qua một trái núi thì tới bãi biển Đại Lãnh dài khoảng hai cây số, như một cánh cung ba mặt là núi, một mặt là biển. Một rặng dương (filaos) vi vu bên đường Quốc lộ số 1 ngăn bãi cát vàng ở bờ biển với đồng lúa xanh ở chân núi. Chỉ trong một khoảng không đầy hai cây số vuông mà có đủ cả cảnh núi cao, rừng rậm, có thác, có suối, với một nhịp cầu bắc ngang; có cảnh đồng ruộng thôn quê, cảnh phố xá ở trước ga, cả một xóm chài nữa với những chiếc lưới đong đưa trước gió.
Ra khỏi ga Đại Lãnh độ dăm trăm thước, ở bên đường xe lửa hiện lên một tấm biển đề chữ Varella. Tôi gọi nhà tôi lại: “Tới đèo Cả rồi!”. Đồng thời một lính lê dương cũng la lên: Varella! Hành khách đổ xô lại cửa để ngắm cảnh.
Xe chạy chậm lại, độ mười cây số một giờ vì đường dốc mà nguy hiểm. Đèo dài 11 cây số, từ ga Đại Lãnh đến ga Hảo Sơn. Núi ở bên trái rất cao và có nhiều cây lớn, và những tảng đá phẳng như bàn cờ bên những dòng thác và suối. Xe chạy sát một vách núi dựng đứng, nhìn xuống biển thấy ngợp. Mũi La, cao ngất đâm thẳng ra mặt biển mênh mông, thấp thoáng vài cánh buồm xa xa. Cảnh thật hùng vĩ.
Cái đặc sắc nhất ở đây là màu ngọc thạch của nước biển, trong lạ lùng, đứng trên xe lửa nhìn xuống mà cũng thấy rõ những tảng đá ở đáy, gần bờ. Màu đó càng lan xa càng biến đổi lần lần, đục lại thành màu xám, tới ngoài khơi thì thành màu lơ đặc, đặc tới nỗi tôi tưởng nó là mực Waterman.
Đường xe lửa ngòng ngoèo qua sáu cái hầm rất ngắn, trừ hầm cuối cùng dài non hai cây số. Trong hầm tối như đêm và nghe tiếng xe chạy rầm rầm như bao nhiêu tảng đá đổ trên đầu.
Trong chuyến ra Bắc lần thứ nhì, tôi được ngắm cảnh đèo Cả ban đêm mà tôi đã ghi lại trong tập Hoa đào năm trước (Lá Bối - 1970):
“Đêm đó tôi đương ngắm cảnh biển mênh mông nhấp nhô dưới ánh trăng thì xe lửa lượn vào một khúc quẹo và những làn sóng bạc bỗng biến đâu mất mà trước mặt tôi hiện lên một dãy núi đen tím với một cái vũng lốm đốm mươi ngọn đèn chài đỏ như than hồng trên một làn nước phẳng lặng: cảnh biến đổi thật huyền ảo và trong một phút tôi có cảm giác là mọc cánh mà lên tiên”.
Hôm sau, ra khỏi Tourane[5], gặp trời nắng, tôi được ngắm cảnh đèo Ải Vân nữa, một thứ đèo Cả nhưng cao hơn, dài hơn gấp ba gấp bốn, thay đổi nhiều hơn. Ở đây xe lửa chạy theo bờ biển 30, 40 cây số; non ba giờ liền, tôi được nhìn một cuốn phim chụp cảnh thiên nhiên, quay chầm chậm trong một không gian đầy âm nhạc là gió rừng và sóng biển.
Vì đèo rất cao, một đầu máy kéo không nổi chuyến xe, nên phải móc thêm một đầu máy ở phía sau để đẩy tiếp. Cả hai đầu máy phì phì nhả khói, nặng nhọc lắm mới lên nổi đèo và chuyến xe như con rắn khổng lồ uốn khúc, đứng ở giữ thấy cả hai đầu máy ở hai đầu. Ở đây cũng như ở đèo Cả, xe chạy ở giữa, một bên là vách đá dựng đứng, một bên là biển thẳm mênh mông.
Nhưng cảnh ở đây thay đổi luôn luôn, nhiều vẻ đẹp hơn đèo Cả; chỗ thì cây cối thưa thớt, thoải mái mà chỉnh tề; chỗ thì chen chúc nhau, cố bám lấy nhau trên một sườn núi cho khỏi tuột xuống thung lũng. Có nơi rừng bị một giống dây leo lá tròn trùm kín hàng mấy chục mẫu trông xa như một tấm màn xanh phơi trên sườn núi, có cột chống ở dưới.
Thỉnh thoảng xe qua những chiếc cầu nho nhỏ bắc qua suối. Dòng nước trong leo lẻo xô đẩy nhau trên những phiến đá nhẵn rồi chui vào một cửa tò vò chuối màu xanh non, sau cùng thoát ra tại một bãi cát vàng ở xa xa. Đẹp nhất là những thảm cỏ có điểm hoa tím và vàng rung rinh như cánh bướm.
Xe phì phì uốn khúc gắng lên kịp con đường Quốc lộ số 1[6] nó đã vờn mây ở dãy núi bên kia. Xe chui vào hầm – quãng này có bảy tám cái hầm – và mỗi lần ở hầm ra thì cả một cảnh trời cao biển rộng hiện ra trước mắt: trời xanh lơ, biển xanh màu ngọc thạch như ở đèo Cả (Tôi nghe nói từ Huế trở ra biển mới đục, mất màu thần tiên đó). Biển ôm những cù lao ở ngoài khơi, liếm những bãi cát vàng cánh cung ở bờ, vỗ vào những gốc si bám vào chân vách đá. Nó gần tới bờ lại lùi ra, để lại một viền bọt trắng.
Xe vẫn phì phì lên, cảnh vẫn thay đổi; có khi xe lùi vào trong để cho ta ngắm những vùng nho nhỏ có dăm nóc nhà ngói đỏ giữa vài thửa ruộng, sau một bãi cát; có khi nó lượn bên một bãi cỏ rộng lưa thưa vài gốc dương đương hoà nhạc với sóng biển: đây hẳn là chỗ hẹn hò của những con nai vàng trong đêm trăng, và xe như hữu tình cũng chạy chậm lại.
Nó vẫn phì phì leo dốc. Càng lên, núi càng cao, ngọn núi càng xích lại gần nhau. Núi đã mờ mờ. Xe đã chui vào mây. Lạ thay, tôi có cảm giác biển cũng dâng lên để được gần trời. Mây lờn vờn ở ngoài khơi, bóng mây làm cho mặt biển lốm đốm như mai con đồi mồi.
Xe vẫn uốn khúc, nặng nề leo mà không theo kịp Quốc lộ số 1 nó đã khuất trong mây rồi. Chung quanh chỉ thấy biển và mây (gọi đèo này là Hải Vân, phải quá), đương giữa trưa mà có sương mai.
Tôi nhìn về phía sau: đầu máy thứ nhì đã rời chuyến xe quay trở về lúc nào rồi. Xe đã lên đỉnh đèo. Tôi tiếc ngơ ngẩn. Quốc lộ 1 và đường xe lửa lại cùng nhau xuống, một đường chạy sát bờ biển như mê cảnh biển, một đường lùi vào trong như không muốn rời núi mây.
Nhưng đến Lăng Cô (một ga nhỏ) thì hai đường gặp nhau như cùng nhận rằng có thể không ngắm mây, chứ không thể không ngắm Lăng Cô.
Có người cho rằng Lăng Cô là cảnh đẹp nhất trên đường Tourane – Huế. Từ trên cao nhìn xuống, nó y hệt như một bức tranh thuỷ mạc của Trung Hoa. Một cù lao nhỏ ở gần bờ biển, bằng phẳng, trồng toàn dương, có nhà, có chùa, có ghe đánh cá và lưới đánh cá phất phơ dưới gió. Một cây cầu dài nối với bờ. Những buổi chiều mây ngũ sắc in trên mặt nước, những chiếc ghe giương buồm ra khơi, hay trong những đêm trăng sóng bạc nhấp nhô vạch một đường sáng tới một đảo ở chân trời, ngồi ở gốc dương đầu cầu cảnh thì ai mà không mơ tới cảnh Bồng Lai ở cuối con đường sáng đó?
Trên hai giờ liên tiếp được thưởng cảnh thần tiên như vậy, tâm hồn tôi nhẹ nhàng lên, tươi trẻ lại. Trên ba mươi lăm năm nay không được thấy lại cảnh đó, nay không biết ra sao. Non sông Việt Nam sao mà đẹp thế! Đăng buồn là nơi nào cảnh đẹp nhất thì dân thường nghèo nhất.
Cảnh Trung Việt còn đặc điểm này nữa: hầu hết thành phố nào cũng ở cửa hoặc gần cửa một con sông nhỏ. Dãy Trường Sơn ở gần biển, nên sông đều ngắn và hạ du cũng hẹp có hình mẫu tự delta Hi Lạp (cho nên từ delta của Pháp ta dịch là Tam giác châu) mà đáy và chiều cao chỉ dài vài chục cây số. Muốn coi toàn cảnh những hạ du đó, chỉ cần leo lên chỗ nào cao nhất trong thành phố.
Một lần tôi đã leo lên gác chuông nhà thờ công giáo Nha Trang, lần khác leo lên núi Khỉ ở Tuy Hòa (núi có tên như vậy vì có nhiều khỉ) thấy cảnh đại khái như nhau.
Cảnh ở Nha Trang đẹp hơn, điển hình hơn.
Cánh đồng Nha Trang từ trên cao nhìn xuống rõ là một hình tam giác: đỉnh A hướng về dãy núi Trường Sơn; hai cạnh AB, AC màu xám nhạt là hai dãy núi chạy dài ra tới biển; đáy BC là bờ biển, một đầu là Hải học viện, một đầu là nhà tu Công giáo. Sông Nha Trang lấp lánh uốn khúc từ A ra tới bờ biển, qua một cánh đồng xanh mơn mởn nằm từ cạnh này đến cạnh kia, rồi qua một dãi cát trắng rộng độ hai cây số sát bờ biển. Ở giữa dãi cát đó, tại cửa sông là thành phố gồm hai khu vực: khu nhà lá thưa thớt, màu xám ở bên mặt (khi nhìn ra biển), và khu công sở, biệt thự ở bên trái, y như bàn cờ mà quân cờ tròn là những dám cây xanh xen với những nóc đỏ tường vàng như những mảnh giấy màu hình chữ nhật. Đây đó nhô lên vài ngọn đồi đá trên có một ngôi chùa cổ, và vài hòn nhỏ ở ngoài cửa biển như những đốm đen trên mặt nước xanh biếc. Dưới mắt ta đủ cả cảnh rừng núi, sông biển, đồng ruộng, bãi cát, thành thị, thôn quê, với đủ các màu sắc thiên nhiên rực rỡ không nơi nào bằng.

[1] Tôi chỉ ghi lại vài nét chính, chế độ đời Chu phiền phức hơn nhiều. Coi cuốn coi cuốn Wang dao ou la Voie royale (Tome I) của Léon Vandermeersch (EFEO, Paris 1977).
[2] Nửa thế kỉ trước trong Nam còn một số gia đình theo tục này: cùng mang tên họ, Ngô hay Trần chẳng hạn thì dù một người ở Bắc, một người ở Nam, gặp nhau cũng có thể nhận là cùng họ, tuỳ tuổi tác mà gọi nhau như bà con, và không được gã con cho nhau. Tục đó từ đời Chu truyền lại.
[3] Tức tiền chơi hụi. (Goldfish).
[4] Chắc sách in thiếu vì người em gái út, cô Mùi, cũng chưa có chồng. (Goldfish).
[5] Tức Đà Nẳng (BT).
[6] Đường xe hơi (theo ĐVVCT). (Goldfish). 
Chương XIII
Tôi Tập Viết
ĐỌC SÁCH ĐỂ TIÊU KHIỂN VÀ HỌC THÊM

Trong một chương trên tôi đã nói hồi học trường Bưởi, có lần ngồi trên đường Cổ Ngư ngắm mây nước hồ Tây với bạn, tôi cao hứng ngâm câu: “Nhập thế cục bất khả vô văn tự”. Nhưng đó chỉ là một ý nghĩ thoáng qua, nhiều lắm thì cũng chỉ như một mơ mộng ngông của chung các thanh niên khi nhớ một áng văn hay đứng trước một cảnh đẹp. Chưa gọi là một ý muốn, một quyết tâm được.
Tổ tiên tôi, bên nội cũng như bên ngoại không có ai viết sách cả. Bác Hai tôi còn muốn tôi đừng học văn thơ nữa mà chuyên tâm vào khoa học. Và tôi đã lựa một ngành kĩ thuật thuộc về khoa học. Tôi cũng không được một giáo sư nào khuyến khích viết văn như hai bạn Võ Phiến, Nguyễn Hữu Ngư. Và ở trường Công chánh ra, tôi đã quên từ lâu câu: “Nhập thế cục bất khả vô văn tự” rồi.
Hai năm lênh đênh trên sông rạch miền Tây, sở dĩ tôi chép hồi kí và nhật kí chỉ là để giải muộn, tiêu cho hết 24 giờ mỗi ngày, cho nên chép xong rồi bỏ, không hề đọc lại.
Từ năm 1938, về Sài Gòn làm việc, tôi không được rãnh như hồi đi đo mực đất nữa, nhưng việc nhà chẳng có gì, nên mỗi ngày có cả một buổi tối và mỗi tuần cả một ngày chủ nhật ở không. Tôi không có khiếu về âm nhạc, học đờn ít tháng rồi bỏ, không thích đánh cờ, rất ghét đánh bài, cũng không ưa họp bạn tán chuyện, nhậu nhẹt hoặc rủ nhau nhảy đầm – thời đó có phong trào nhảy đầm, nay gọi là vũ, nhưng theo tôi vũ và nhảy đầm khác nhau xa. Rốt cuộc, chỉ còn có cách là đọc sách, học thêm. Cho nên, một anh bạn trường Công chánh, sau bốn năm xa cách, gặp tôi ở Sài Gòn, thấy tôi dịch Hán văn, ngạc nhiên hỏi: “Anh học chữ Hán hồi nào vậy”, tôi đáp: “Học trong khi các anh nhảy đầm”. Anh ta cười.
Nhiều người, từ bạn bè đến độc giả bảo tôi sống như một nhà tu khổ hạnh. Tôi không biết các nhà tu khổ hạnh có thấy khổ hay không khi họ nhịn ăn, nhịn uống, nhịn ngủ, tự quất vào thân cho đến rớm máu, hoặc khi họ tĩnh toạ cả chục năm quay mặt vào tường, nắm chặt bàn tay tới nỗi móng tay mọc dài xuyên thấu lòng bàn tay (?) (chắc phải có người đút cho họ ăn, đổ nước vào miệng cho họ uống?); chứ riêng tôi, chẳng tu hành gì cả, không thấy lối sống của tôi với sách vở là khổ.
Năm 1946 hay 1947[1], tôi làm đôi câu đối:
Trị ái thư, loạn ái thư, thư trung hữu hữu,
Bần dĩ đạo, phú dĩ đạo, đạo ngoại không không.
mà một ông bạn dịch là:
Trị yêu sách, loạn yêu sách, trong sách chi chi cũng có,
Nghèo giữ đạo, giàu giữ đạo, ngoài đạo thảy thảy đều không.
“Thư trung hữu hữu”. Trong sách có nhiều cái thú lắm chứ.
Trong cuốn Tự học, một nhu cầu của thời đại, tôi đã trích nhiều danh ngôn về thú đọc sách, như:
“Sự tiếp xúc với sách an ủi tôi trong cảnh già và cảnh cô độc (...) Những nỗi đau khổ nhờ nó mà bớt nhói. Muốn tiêu khiển, tôi chỉ có cách đọc sách” (Montage).
“Sự học đối với tôi là phương thuốc công hiệu nhất để trị những cái tởm ở đời, vì tôi chưa lần nào buồn rầu đến nỗi đọc sách một giờ mà không hết buồn” (Montesquieu).
“Sự học trang hoàng đời sống và làm cho ta mến đời hơn. Nó là một thú vui không khi nào giảm” (J. Viênnt).
Còn Khổng tử thì suốt đời “học bất yếm” (học không chán) và “triêu văn đạo, tịch tử khả hỉ (Sáng được nghe đạo lí, tối chết cũng không hận).
Tôi cũng như Montaigne, muốn tiêu khiển chỉ có cách đọc sách và cũng như Khổng Tử, học bất yếm. Etiemble, tác giả cuốn Confucius (Gallimard – 1966), bảo đã mang ơn Khổng tử ngang với Montaigne, chắc cũng là hạng ham đọc sách. Bác Hai tôi từ hồi tôi 16-17 tuổi, bảo rằng tôi “đam thư” nghĩa là mê sách. Chữ đam đó dùng theo nghĩa gốc là “quá mức”, ham quá mức. Đó là một tính bẩm sinh có lẽ do di truyền của ông nội, bà nội tôi. Tôi nghĩ không có gì đáng khen cả, ở đời thiếu gì người mê sách.
Về Sài Gòn dễ kiếm sách báo để đọc. Sách báo Việt thời đó không có bao nhiêu, tôi lựa mua hết thảy những gì đáng đọc được: báo Ngày Nay, Thanh Nghị, Tri Tân, Tao Đàn, Phụ nữ Tân văn; sách của Tự lực Văn đoàn, nhà Tân Dân, nhóm Hàn Thuyên…
Sách Pháp, vì ít tiền, tôi chỉ mua một số nhỏ còn thì mượn của Thư viện thành phố. Chính ở Thư viện này, tại phòng cho mượn sách, tôi thường gặp ông Nguyễn Ngọc Thơ mà tôi đã quen ở Rạch Giá, hồi ông còn làm tri huyện. Cùng mắc một bệnh đọc sách nên chúng tôi lần lần thân với nhau, nhưng chỉ thân trong tình sách vở thôi.
Sách Trung Hoa thì mỗi tháng độ một lần, tôi vào Chợ Lớn, đường “Thuỷ Binh” (rue de Marins nay là đường Đồng Khánh, sau 30-4 đổi là Trần Hưng Đạo) mua. Muốn tiết kiệm, tôi mua những sách rẻ tiền, in mờ, nhiều lỗi, hoặc không có chú thích. Đó là một lầm lớn: vừa tốn tiền, vừa mất thì giờ đọc. Cũng có một vài nhà xuất bản đứng đắn, in những sách hay, không lỗi, có chú thích, mà tương đối rẻ tiền như Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải, nhưng thời đó tôi chưa biết. Tôi cũng không biết viết thư xin mục sách của các nhà xuất bản lớn ở Trung Hoa, Pháp.
Tóm lại trên con đường tự học, tôi chẳng có chút hiểu biết, kinh nghiệm nào cả, phương tiện thật thiếu thốn, tốn công nhiều mà kết quả rất ít. Vì nghĩ vậy mà sau này tôi viết cuốn Tự học để thành công (sau sửa chữa, đổi nhan đề là Tự học, một nhu cầu của thời đại) để hướng dẫn thanh niên tránh những lỗi lầm của tôi.
Khi thế chiến xảy ra, sách ngoại quốc không vô được nữa, mỗi chủ nhật tôi lại một tiệm sách cũ ở đường Gia Long[2] và mấy quán sách cũ ở trước Nhà hát Thành phố, thỉnh thoảng kiếm được một cuốn lí thú, như cuốn Le Roman russe của E.M Vogué; nhưng không có sách Trung Hoa. Ở những nơi đó gặp nhiều người ham đọc sách, nhưng tôi chỉ biết mặt họ chứ không tìm cách làm quen. Đó cũng là một sở đoản của tôi: vì ít giao du nên không học được kinh nghiệm của người.
Tôi vào hạng đọc sách chứ không chơi sách, không mua những sách đẹp, quí, hiếm[3], muốn mua cũng không đủ tiền, chỉ lựa những cuốn có ích hoặc tôi thích thôi. Sau này, vào khoảng 1960, tôi thấy lối chơi sách khá đặc biệt: một độc giả lại thăm tôi bảo bất kì tác phẩm nào của tôi ông cũng mua, chẳng những vậy, cuốn nào tái bản mà tôi có thêm bớt, sửa chữa dù ít, cũng mua đủ; như vậy phải đọc các báo, phải đều đều lại tiệm sách để theo dõi sự xuất bản sách của tôi. Dĩ nhiên ông ấy để sách tôi vào một chỗ và không cho ai mượn. Tôi lấy làm hân hạnh lắm nhưng nghĩ bụng có những cuốn tầm thường thì giữ làm gì. Ông ấy chỉ lại chỗ tôi một lần đó thôi. Trong nước không biết có được ba người như ông không. Từ đó tôi không gặp lại ông, cũng không nhận được bức thư nào của ông. Tôi cũng vô tình không hỏi tính danh, địa chỉ của ông nữa. Không biết hiện nay ông ở đâu mà tủ sách của ông còn không?
Sách nào mua về, tôi cũng đọc hết, dù chán tôi cũng rán, để biết qua nội dung. Tôi biết nhiều người mua về, lật coi qua rồi để đó, rất ít khi đọc, rồi lần sau lại mua thêm nữa, số sách mỗi ngày một nhiều, số sách chưa đọc mỗi người một tăng tới lúc quên không biết mình có những cuốn gì nữa. Đặc biệt nhất là một ông bạn tôi, cử nhân luật, cứ ít tháng lại gởi mua một chồng sách ở Pháp, nhận được sách ông xếp thật ngay ngắn trên một cái bàn gần đầu giường, rồi ngắm nghía, một lát thiu thiu ngủ. Ngày nào cũng vậy, mà không hề đọc được mười trang. Mỗi cuốn ông chỉ coi cái bìa, trang có nhan đề và bảng mục lục. Hễ gói sau ở Pháp tới, ông dẹp chồng sách cũ đi mà bắt đầu ngắm chồng sách mới. Kiểu chơi sách này thật kỳ cục.
Tôi coi sách chỉ là một phương tiện để học, để tra cứu. Khi đọc tôi luôn luôn có một cây viết chì để đánh dấu những chỗ đáng nhớ, hoặc có thể dùng tới sau này; cuốn nào thường phải đọc lại thì tôi ghi những ý quan trọng cùng số trang lên mấy trang trắng (page de garde) ở đầu sách.
Trước năm 1950, tôi không có ý chuyên viết sách, sống về nghề văn, càng không có ý khảo cứu, mà số sách trong nhà lại ít, độ năm trăm cuốn trở lại, cho nên tôi thấy không cần phải làm thẻ cho mỗi cuốn, cũng không cần đóng tủ riêng để chứa. Tôi chỉ có mỗi cái tủ nhỏ cao độ một thước, bề ngang độ nửa thước, bề sâu độ bốn tấc, với một cái giỏ mây lớn bằng cái rương, mua ở Chợ Cũ. Những sách có giá trị tôi sắp vào trong tủ, còn bao nhiêu cho cả vào trong giỏ mây. Về sau sách mỗi ngày mỗi nhiều, tới ba ngàn cuốn, mới thấy bất tiện vì không có thẻ cho mỗi cuốn; nhưng lúc đó tôi bận công việc viết lách, không thể bỏ ra vài ba tháng để làm thẻ, mà cũng không thể nhờ ai được, nên đành để như cũ. Tuy nhiên, sách nào thường dùng tôi để riêng, sắp theo từng loại, không cho ai mượn cả; vợ con muốn coi cũng phải hỏi tôi. Có những cuốn cả năm tôi không dùng tới, nhưng bất thần tôi chỉ cần tra trong mươi phút thôi mà kiếm không ra thì bực lắm; có cuốn mất rồi, không sao mua được nữa, dù có cả ngàn vàng[4]. Như vậy sách đối với tôi hơn cái cày đối với người làm ruộng, cái búa cái đe đối với thợ rèn, cho nên không cho mượn được. Tôi phải nhắc đi nhắc lại với người nhà như vậy, và phải nhiều năm họ mới hiểu được.
Những sách tôi đã đọc rồi mà cho là không quan trọng, hoặc không dùng tới nữa thì tôi để riêng, nhưng cũng sắp sơ sơ vào từng loại.
MUỐN HIỂU RÕ MỘT NGOẠI NGỮ THÌ PHẢI DỊCH
Đó là việc về sau, chứ trước năm 1945, tôi không có chương trình vì chưa có chủ đích viết sách, chưa có hướng đi.
Như trên tôi đã viết, tôi đọc sách chỉ để tiêu khiển và vì tò mò, nhân đó mà học thêm. Môn tôi muốn học thêm làm môn chữ Hán, đạo Khổng và văn thơ Trung Hoa. Năm 1938-1939, tôi đã lem nhem đọc được vài cuốn cổ văn dễ dễ và vài cuốn Bạch thoại, mười phần hiểu được sáu bảy. Học một ngoại ngữ, khi còn “ba chớp ba nhoáng” như người miền Nam nói, thì đọc sách ai cũng mắc cái lỗi tưởng mình hiểu rồi mà thực ra là chưa hiểu. Muốn kiểm soát sự hiểu biết của mình, muốn hiểu cho rõ thì phải dịch ra tiếng Việt. Khi dịch, bắt buộc ta phải tra tự điển; câu nào dịch rồi mà ý nghĩa không xuôi, có điểm nào vô lí hoặc mâu thuẫn với một số câu ở trên thì bắt buộc ta phải soát lại xem mình dịch sai ở chỗ nào, phải tra tự điển lại, suy nghĩ, lí luận, tìm xem dịch sai ở đâu. Dù cẩn thận tới mấy cũng có chỗ sai sót, vì mình không ngờ. Cái khổ tâm của người tự học là ở đó. Tục ngữ có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Tôi không có thầy - vì không ở gần bác tôi mà hỏi thường được - lại không có sách hướng dẫn, toàn là tự mò lấy, cho nên mệt sức lắm mà sở học có nhiều khuyết điểm.
Để học Bạch thoại, tôi tập dịch Nam du tạp ức và bài Tam bất hủ trong tập Văn tuyển, cả hai đều của Hồ Thích. Văn Hồ Thích giản dị, minh bạch, nên tôi dịch không sai lắm. Tập trên chép những điều Hồ Thích mắt thấy tai nghe khi ông đi từ Thượng Hải xuống chơi Quảng Tây theo lời mời của các nhà cầm quyền Quảng Tây: Lí Tôn Nhan, Bạch Sùng Hi… Hồ khen cảnh thịnh trị của Quảng Tây, trên dưới thân với nhau, trên làm gương cho dưới, cần kiệm và giản dị, dưới kính yêu trên; Hồ lại tả phong cảnh rất đẹp ở Quảng Tây, chép một số bài dân ca nữa. Bản dịch đó tôi còn giữ.
Bài Tam bất hủ là một áng văn hay của Hồ Thích, sau đó tôi cho in vào phần Phụ lục cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng. Trong tập Hồ Thích văn tuyển, ngoài bài đó ra còn hai truyện ngắn nhưng không hay, kém xa truyện ngắn của Lỗ Tấn nên tôi không dịch.
Đọc cổ văn Trung Quốc tôi dùng bộ Cổ văn quan chỉ. Nhờ có lời chú thích và bản dịch ra bạch thoại nên tôi mò lần cũng ra. Và tôi cũng dịch độ một trăm bài ra tiếng Việt, không phải để tập dịch mà để học, cho nên bản dịch đó sau này bỏ, không dùng. Công việc thật mệt, mỗi ngày tôi dịch được một bài thôi. Nhờ dịch mà tôi thấy được cái hay của cổ văn: bài nào bố cục cũng kĩ, mở thường đột ngột mà kết thường gọn, mạnh; ý nhiều khi khoáng đạt, có chút triết lí mà lời thì gọn, hàm súc, du dương. Sau này mỗi khi muốn có cái cảm giác nhẹ nhàng của người mới tắm dưới suối lên rồi đứng hóng gió trên ngọn đồi thì cứ phải lật bộ cổ văn ra, chứ không tìm được trong một tác phẩm hiện đại nào cả. Cho tới bây giờ, tôi vẫn cho những bài Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú, Hĩ vũ đình kí của Tô Đông Pha, Tuý ông đình kí của Âu Dương Tu, Lan Đình tập tự của Vương Hi Chi, Nhạc Dương lâu kí của Phạm Trọng Yêm… là những viên ngọc nhỏ trong văn học Trung Hoa.
Tôi thích quá, mua một bộ tặng ông bạn Pháp lai, Paul Schneider[5], lúc đó mới bắt đầu học chữ Hán; và mới rồi ở Pháp ông viết thư cho tôi bảo thỉnh thoảng vẫn mở bộ đó ra đọc lại. Ông đã dịch một số thơ Việt Nam ra tiếng Pháp và đương nghiên cứu về chữ Nôm, hiện đã xuất bản được vài cuốn có giá trị về thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ở trung học tôi không được học cách luyện văn, viết một bài luận cho có nghệ thuật; đọc cổ văn tôi mới tìm được nghệ thuật của cổ nhân, và tôi bất giác bắt chước các viết của cổ nhân. Trong mấy năm đầu thế chiến, tôi tập viết mười bài tuỳ bút, và trên mười bài luận về các nhân vật lịch sử như: Hồ Quý Li, Trần Danh Án, Anh em Tây Sơn… Một số bài được bác Ba tôi bảo đáng được “bình”, riêng bài Hương và Sắc, bác tôi phê “ưu” với hàng chữ: “Hạ bút thành văn, bút cũng thơm”. Bài này tôi đã cho in vào tập Hương sắc trong vườn văn (1961). Đa số những bài khác gần đây đọc lại tôi không vừa ý vì lí luận thiên lệch, quá bất công với cổ nhân, có giọng một hủ Nho, không chịu hiểu hoàn cảnh, tâm lí người xưa mà cứ đưa đạo lí ra để bắt bẻ. Tật đó tôi lây của cổ nhân nhưng đã biết sớm bỏ.
Về Triết học Trung Quốc, tôi chỉ đọc được bộ Tứ thư, Chu Hi chú giải; tôi không có bản dịch ra Việt văn và bộ giúp tôi nhiều nhất là bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim. Tôi cũng mua những cuốn Lão Tử, Mặc Tử của Ngô Tất Tố (Mai Lĩnh xuất bản).
Tôi mừng khi kiếm được những cuốn về Văn học sử Trung Quốc như: Trung Quốc văn nghệ tư trào sử lược của Chu Duy Chi, Trung Quốc văn học sử đại cương của Dương Triệu Tổ[6], Tân trứ Trung Quốc văn học sử của Hồ Vân Dực[7], Bạch thoại văn học sử của Hồ Thích, Histoire de la litérature chinoise của Margouliès, La Littérature chinoise của O.Kaltenmark Ghéquier.
Nhờ những cuốn đó mà tôi thoả mãn được lòng tò mò của tôi khi học chữ Hán với bác Hai tôi vì sách Việt chưa có cuốn nào viết về văn học Trung Quốc cả, trừ cuốn Hán văn khảo quá sơ lược của Phan Kế Bính.
Đọc những sách chữ Hán kể trên, mới đầu tôi hiểu được ít thôi vì sách không có chú thích; mà đọc hai cuốn chữ Pháp thì không cuốn nào in chữ Hán, chỉ phiên âm ra tiếng Pháp, lối này tôi chưa quen, không sao nhận ra được tên người và tên tác phẩm chữ Hán, nên hết hứng thú. Nhưng lần lần rồi cũng quen và hiểu được gần hết.
DỊCH SÁCH
Cũng vào khoảng đầu thế chiến, một số nhà văn ở Hà Nội đã bàn đến giáo dục như Vũ Đình Hoè trên tờ Thanh Nghị, Thái Phỉ trong cuốn Một nền giáo dục Việt Nam mới.
Tôi quan tâm ngay đến vấn đề đó vì hồi ấy con tôi đã được vài tuổi. Một người bạn cho tôi mượn cuốn L’Éducation des sentiment của P. Félix Thomas, được giải thưởng của Học viện Luân lí - Chính trị ở Pháp.
Khi phân tích một tình cảm nào, tác giả cũng xét qua lại hết thảy những thuyết của các triết gia cổ kim, rồi dùng những kinh nghiệm, những hiểu biết của ông về trẻ em – ông là một nhà giáo dục – để xét những thuyết đó chỗ nào sai, chỗ nào đúng, rồi bày tỏ chủ trương của mình, chủ trương này có tính cách trung dung, không quá thiên về trí dục – và khuyên ta cách thực hành ra sao trong sự giáo dục trẻ.
Lòng yêu trẻ của ông thật nồng nàn, nên văn ông có nhiều chỗ cảm động, chỗ nào cũng sáng sủa, có khi hoa mĩ, đọc rất thú. Cho nên tôi hăng hái dịch ngay, chỉ lược dịch thôi, có chỗ tóm tắt đại ý, chỉ cốt sao không phản ý tác giả là được. Tuy nhiên, những đoạn hay tôi đều dịch sát, không bỏ một câu, cốt lột được nghệ thuật viết của tác giả. Nhờ vậy bản dịch đầu tay đó[8] được anh em trong nhà đều khen là trôi chảy, sáng sủa mà có văn chương. Về sau tôi giữ lối đó khi dịch những sách trong loại Học làm người.
Tôi còn dịch một chương trong cuốn Un Art de vivre của A. Maurois nhưng không nhớ chương nào vì không giữ được bản thảo.
Năm 1944, tôi không thoả mãn về cuốn Một nền giáo dục Việt Nam mới của Thái Phỉ nên viết một cuốn khác dày khoảng trăm rưỡi trang đánh máy, mới đưa cho bác Ba tôi và thi sĩ Việt Châu (con trai thứ của bác tôi) coi, rồi sau thất lạc trong Đồng Tháp Mười, hồi tản cư năm 1946. Tôi không nhớ tên tác phẩm đó nữa. Thời đó tôi viết bản nháp trong những vở học trò 100 trang, xong rồi mới sửa lại và chép tay trên giấy đánh máy, chép một mặt thôi mà cũng chỉ chép một bản vì khan giấy. Thời chiến tranh, các nhà máy giấy trong nước chỉ sản xuất được một thứ giấy rất xấu, đen, dày, một mặt láng, một mặt nhám; rồi sau thứ giấy đó cũng hiếm, các nhà xuất bản phải dùng thứ giấy bản của làng Bưởi (gần Hà Nội).
VIẾT DU KÍ
Làm ở sở Thuỷ lợi, tôi có dịp đi kinh lí nhiều nơi, được biết, thác Khône ở Lào, Đồng Tháp Mười, Long Hải, thác Trị An, Đế Thiên Đế Thích (1943). Thấy cảnh nào đẹp tôi đều chép vào nhật kí hay du kí.
Tôi tiếc không giữ được nhật kí thác Khône, nay chỉ nhớ đại khái. Sở phái tôi đi lên đó để đo lưu lượng (débit) sông Cửu Long cuối mùa nắng, lúc mực nước thấp nhất. Từ Sài Gòn, chúng tôi đi xe hơi của sở hai ngày mới tới, làm việc ba ngày rồi về.
Không phải chỉ có một cái thác mà có tới sáu bảy cái nằm ngang một dãy. Ở đó lòng sông toàn đá nổi lên ngăn dòng nước, nước sông ứ lại ở phía trên rồi trút xuống thành thác, cái cao nhất có thể tới chục thước. Vì là mùa cạn nên nước không chảy xiết lắm, nhưng tiếng nước ầm ầm dội cũng rất xa. Bên bờ sông là những ngọn núi cao, đầy cổ thụ, cảnh thật hoang du. Có một đường xe lửa nhỏ dài bảy cây số nối quãng trên với quãng dưới thác. Tàu thuỷ Luang Prabang xuống phải ngừng ở quãng trên, chuyển hành khách và hàng hoá lên xe lửa để xuống quãng dưới, từ đây có tàu khác đón để đưa xuống Nam Vang.
Khône có một nhà bưu điện và một nhà thương, một sở Hiến binh, vài biệt thự cho công chức, còn toàn là nhà sàn bằng gỗ, lá của người Lào. Có mỗi một cái quán của Hoa kiều[9] bán sữa, cà phê và vài thứ bánh ngọt. Cảnh rất buồn.
Một nhân viên công chánh ở đó, coi đường xe lửa mời tôi về nhà thầy ta ở và tổ chức một buổi nhạc của người Lào cho tôi xem. Có hơn một chục người Lào lại nghe, họ ngồi xổm cả xuống sàn, bà già cũng nhai trầu như mình, thiếu nữ thì không. Họ gầy, yếu, đen đủi, y phục xấu xí - không có chiếc xà rông nào rực rỡ cả - khác xa hình ảnh các phù sảo xinh tươi, tình tứ trong các tiểu thuyết Pháp tả xứ Lào. Chủ nhà bảo tôi muốn thấy mĩ nhân Lào thì phải lên phía Bắc, ở Vientiane, Luang Prabang. Tiếng khèn (một thứ sáo có nhiều ống) không réo rắt mà cứ đều đều một điệu buồn buồn, giọng hát cũng không hay, tôi chỉ nghe một lát là chán.
Tối hôm sau, chủ nhân dắt tôi đi coi “bun” ở một ngôi chùa. Chùa nhỏ, rất ít tượng Phật. Một ông Lục ngồi trên cao, độ hai chục thanh niên nam nữ Lào tay cầm cây nến đỏ nhỏ, nối nhau chạy theo một vòng tròn trước mặt ông Lục. Ông như nhập định, không hề nhúc nhích. Đứng coi độ mười phút rồi tôi ra về. Tôi nghĩ mỗi năm lên bờ thác Khône độ vài tháng viết sách thì thú, ở lâu chắc chịu không nổi.
Khi về Sài Gòn, ngoài cảnh thác hùng vĩ, tôi chỉ còn giữ được vài hình ảnh này: một đám thiếu nữ Lào để cả xà rông tắm, lội trên dòng sông, khi tà dương gần tắt chỉ còn ít ánh vàng trên ngọn cây rừng.
Như trên tôi đã nói, bác Ba tôi từ năm 1913 hay 1914, phải lẻn về làng Tân Thạnh ở ven Đồng Tháp Mười để tránh bọn mật thám Sài Gòn, rồi sau lập nghiệp ở đón nên biết được cảnh hoang vu của Đồng Tháp hồi đầu thế kỉ, kể cho tôi nghe nhiều chuyện về dân tình, lối sống, thổ sản miền đó; sau tôi lại đi đo trong Đồng Tháp một thời gian, rồi đi kinh lí nhiều lần từ Hồng Ngự tới Tân An; về Sài Gòn tôi đọc thêm được nhiều tài liệu của sở Thuỷ lợi, mua được cuốn La Plaine des Jonc[10] của V. Delahaye, nhờ vậy tôi biết được khá nhiều về Đồng Tháp.
Sau khi nhận lời anh Vũ Đình Hoè viết giúp tờ Thanh Nghị, tôi khảo cứu thêm các cuốn sử, địa phương chí, các số báo Courrier de Saigon năm 1865-1866, đọc tất cả những gì liên quan đến Đồng Tháp để viết cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, nhưng sau sáu bảy tháng viết xong thì sở Bưu Điện Sài Gòn không còn nhận đồ bảo đảm ra Hà Nội nữa vì đường giao thông trắc trở, tôi đành cất bản thảo đi, đợi một cơ hội khác. Cuốn đó tôi viết công phu, nhưng sau bản thảo mất ngay trong Đồng Tháp Mười hồi tôi tản cư về đó, năm 1946. Tôi rất tiếc, và tám năm sau tôi phải viết lại. Tôi sẽ trở lại việc này trong một chương khác.
Nhưng thích nhất là cuộc du lịch Đế Thiên Đế Thích. Năm 1943, viên kĩ sư thấy tôi làm việc đắc lực, tạo cơ hội cho tôi đi kinh lí ở ngay trong vùng có những cổ tích hoang tàn của Cao Miên đó mà có người gọi là “kì quan thứ tám của thế giới”.
Tôi mang theo cuốn Guide Groslier rồi lên xe đò đi Nam Vang. Ở Nam Vang một ngày coi chùa Vàng, chùa Bạc, làm vài việc cỏn con cho sở rồi năm giờ chiều lên xe đi Siemreap, khoảng hai giờ khuya tới Siemreap. Hồi đó vào hạ tuần tháng giêng dương lịch năm 1943, mùa tốt nhất để đi coi cảnh Đế Thiên Đế Thích vì trời rất trong, không mưa và hơi có gió bấc, không khí không nóng lắm, đêm hơi lạnh.
Ở Siemreap, tôi ghé nhà anh Hách – anh đã đổi lên trên đó để xây một cái đập cho công cuộc thuỷ nông – và anh và hai bạn công chánh nữa[11] đưa tôi đi thăm các di tích hoang tàn.
Trong hai ngày, chúng tôi đi coi thành phố Siemreap và một khu rừng chu vi trên ba chục cây số, chỗ nào cũng có phế tích. Không thể đi coi hết được, chúng tôi chỉ thăm độ 15 ngôi đền lớn, nhỏ, kiến trúc đẹp nhất và ba cái hồ, mà lại coi vội vì không có đủ thì giờ.
Trong suốt cuộc du lịch đó, lòng tôi lúc nào cũng phơi phới, nhẹ nhàng, như nghe một bản nhạc êm đềm. Cảnh thật thanh tĩnh, nên thơ, gây biết bao nỗi hoài cảm. Tôi thích cảnh stung (sông) Siemreap dưới trăng với những cầu gỗ khom khom có tay vịn, như cầu Thê Húc ở hồ Hoàn Kiếm nhưng dài hơn. Trăng vằng vặc[12] chiếu qua cành lá thưa, lấp lánh trên một dòng nước con con - mùa này nước stung cạn – thỉnh thoảng có mùi hương dịu và tí tách có tiếng nước nhỏ giọt từ các guồng nước – thứ guồng dùng ở Quảng Nam – cứ đều đều, chậm chạp quay, như gạn từng giọt nước pha lê vào những máng nước dài đưa vào vườn hoa của các biệt thự trên bờ.
Tôi mê cảnh đền Bayon mà Doudart de Lagrée bảo là “thần tiên lạ lùng”, với 50 ngọn tháp[13], 43 đầu Phật, mỗi đầu có bốn mặt, mặt nào cũng có nụ cười hiền từ, khoan hoà, bí mật.
Đền Angkor Vat dưới ánh nắng tà dương làm tôi xúc động mạnh. Khi qua cái hào rộng trên 200 thước mà lục bình như muốn giữ mây chiều lại, vừa bước tới cửa Tây thì đền hiện lên, đè nặng lên tâm hồn tôi. Tôi thấy ngộp gấp mấy lần khi đi thăm đền Hùng ở Phú Thọ. Ở đây, kiến trúc Miên đã đạt tới tuyệt đỉnh: hàng triệu phiến đá hợp thành một khối cân đối, rất hài hoà để diễn một ý tưởng vừa hùng vừa diễm.
Nhưng hợp với tâm hồn tôi nhất là đền Ta Phrom, kiến trúc khác hẳn các đền kia, không cao, không đồ sộ mà trải rộng ra trong một khu rừng, và ở sâu trong rừng, có một lối đi lát đá dài 500 thước đưa vào. Chỉ riêng đền này còn giữ vẻ hoang vu. Trường Viễn Đông Bác Cổ đã có sáng kiến lựa nơi đây mà bảo tồn cảnh thiên nhiên để ta được hưởng cái cảm giác rùng rợn của các nhà thám hiểm thời trước.
Ở đây mới thực là cảnh hoang tàn. Ở đây ta mới thấy sự chiến đấu giữa cây và đá, giữa loài người và hoá công. Có những rễ cây lớn mấy tấc, dài hàng chục thước, uốn khúc ôm lấy bệ của toà đền và nổi gân lên như muốn vặn cho nó đổ mới chịu được. Có cây lại ngạo nghễ ngồi xếp bằng trên một toà khác, ung dung thả hàng trăm rễ xuống, như hàng trăm tay của loài bạch tuộc, ghì chặt lấy mồi của mình, không cho nó cựa rồi hút dần tinh tuý của nó, cho thịt nó rã, xương nó tan, mà hiện nay ngôi đền cũng đã gần tan gần rã. Có cây độc ác hơn, đâm một rễ lớn từ đỉnh đền xuống như cắm lưỡi gươm vào đầu quân thù”.
Mấy chục năm nay, tôi vẫn ao ước chiến tranh trên bán đảo chữ S này chấm dứt, sẽ đi thăm lại Đế Thiên Đế Thích, cũng như tất cả cảnh đẹp ở Việt Nam, nhưng nay không còn hy vọng gì nữa.
Về Sài Gòn, tôi chép ngay lại cảm tưởng khi du lịch, sợ để lâu quên mất, và trong khi viết tôi được sống lại những lúc vui đã qua, như được du lịch lần thứ hai. Khoảng giữa tháng hai năm 1943, tôi hoàn thành tập du kí Đế Thiên Đế Thích. Tập này viết cũng rất kĩ.
Ngoài những cuộc kinh lí kể trên, tôi còn thường xin nghỉ mỗi năm nửa tháng hay một tháng để về thăm quê hương hoặc đi thăm ông nhạc tôi ở Tuy Hoà, nhân tiện ghé thăm Nha Trang, Quy Nhơn. Chính trong những chuyến nghỉ đó mà tôi được thấy cảnh đẹp mê hồn của miền duyên hải Trung Việt. Và lần nào về nhà tôi cũng ghi vội lại, định cứ mỗi năm đi tiếp một quãng: Quy Nhơn – Tourane, Tourane – Huế, Huế - Nghệ An, Nghệ An – Thái Bình[14], khi nào đi hết bờ biển Trung Việt sẽ viết một cuốn nhan đề là Trên con đường thiên lí tả những cảnh đẹp, những cổ tích, phong tục trên dãy đất đó của Việt Nam; cuốn đó sẽ là cuốn tôi viết say mê nhất và sẽ là tác phẩm chính của tôi. Nhưng tôi chỉ mới ra được tới Quy Nhơn thì thế chiến đã nổ, không có dịp tiếp tục đi nốt những chặng sau; và tôi chỉ ghi vội được bốn tập - mỗi tập ba bốn chục trang nhỏ: Về Bắc lần đầu, Về Bắc lần nhì, Về Bắc lần ba và Nha Trang – Tuy Hoà – Quy Nhơn.
Cũng may mà các tập đó không thất lạc và tôi đã trích được ít đoạn tả cảnh đèo Cả, đèo Hải Vân, Đại Lãnh, Lăng Cô, toàn thể thành phố Nha Trang, sửa lại rồi đưa vào chương trên.
Viết xong tập nào tôi cũng đưa bác Ba tôi đọc. Bác tôi rất khen tập Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đế Thiên Đế Thích và tập trong đó tôi đưa ra một chính sách giáo dục cho nước nhà, khen tôi có tài viết văn và văn của tôi hơi chịu ảnh hưởng của cổ văn Trung Quốc. Người cho tôi hai câu đối:
“Sơn thủy kì tung du thị học,
Văn chương diệu phẩm thực nhi hoa”.
Nghĩa:
Những nơi sơn thủy kì dị, đi chơi tức là học đấy,
Văn chương diệu phẩm thì thành thực mà hoa mĩ.
“Học bản tu thân, thân tức quốc,
Nhân năng bạt tục, tục nhi tiên”.
Nghĩa:
Học gốc ở tu thân, thân mình tức là nước,
Có tư cách bạt tục, tuy tục mà tiên.
Tôi cũng đưa ba tập đó cho thi sĩ Việt Châu coi - lúc đó anh giữ mục phụ trương văn thơ của một tờ nhật báo (tôi quên tên) do Bùi Thế Mĩ làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Việt Châu bảo tôi nên xuất bản hoặc đăng báo đi; tôi đáp: “Để thủng thẳng, gấp gì”.
Tôi tin rằng ba tác phẩm đó với bản dịch cuốn Huấn luyện tình cảm không kém một tác phẩm nào đã xuất bản trong loại của chúng, nên lúc nào in cũng được, đợi chiến tranh kết thúc rồi, kinh tế thịnh vượng lên, in sẽ có lợi hơn.
BẢN THẢO VIẾT TỪ NĂM 1937 ĐẾN NĂM 1945
Tính lại thì trong những năm ở Sài Gòn - từ 1937 đến 1945 - tôi đã tự học mà biết thêm một ít chữ Hán, một ít văn học và triết học Trung Quốc; và đã viết được trên ngàn trang, mục đích chỉ là để tiêu khiển, tự học, chưa có ý xuất bản, tuyệt nhiên không phải vì lợi hay vì danh. Viết để tiêu khiển thì tất nhiên chưa có chủ trương, đường lối rõ rệt, thích cái gì viết cái đó, tuỳ hứng. Tuy nhiên cũng đã có xu hướng: tôi không làm thơ, không viết tiểu thuyết mà thích loại kí (du kí, hồi kí), nghị luận, cảo luận, tuỳ bút, và chú ý tới các vấn đề giáo dục và văn học. Nhưng chưa có ý bước vào khu vực biên khảo. Hồi đó tôi trên dưới ba mươi tuổi, sự hiểu biết còn hẹp, lí luận chưa vững, nhưng nhận định không đến nỗi hời hợt, mà bút pháp đã định rồi: văn cần sáng sủa, bình dị, nếu hơi hoa mĩ thì càng quí, cần nhất là xúc cảm phải chân thành; những nét đó sau này tôi vẫn giữ, nhờ vậy mà độc giả thích tác phẩm của tôi.
Đến năm 1945, tôi đã có được khoảng chục bản thảo.
Không kể những tập Hồi kí tuổi xuân (viết từ hồi đi đo đất ở Hậu Giang), Ba lần về Bắc (năm 1940, 1943, 1944), tập Du Kí Nha Trang – Qui Nhơn, tập dịch Cổ văn Trung Quốc, tập Tuỳ bút, Cảo luận, tất cả đều viết xong rồi không sửa lại, chỉ coi như những tài liệu; còn sáu tập nữa:
- Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười (mất)
- Đế Thiên Đế Thích
- Bàn về giáo dục (mất)
- Huấn luyện tình cảm, dịch P. F. Thomas
- Nam du tạp ức, dịch Hồ Thích
- Dịch văn nước ngoài, dịch A. Maurois và bài Tam bất hủ của Hồ Thích tôi đều sửa chữa kĩ lưỡng định sau sẽ in, nhưng bản thảo Đồng Tháp Mười, bàn về giáo dục, dịch A. Maurois đã thất lạc trong hồi tản cư.
Trong số những bản còn lại, năm 191, nhà xuất bản P. Văn Tươi in tập Huấn luyện tình cảm, năm 1968 nhà Thời Mới in tập Đế Thiên Đế Thích; bài Tam bất hủ của Hồ Thích tôi cho vô phụ lục cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng (P. Văn Tươi, 1951), tập Nam du tạp ức để lâu quá, mất thời gian tính, tôi bỏ không dùng; còn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười tới năm 1954 tôi phải viết lại và xuất bản ngay năm đó.
Hồi đó tôi nghĩ rằng sẽ làm công chức tới khi về hưu, rãnh và có hứng thì viết, nếu về già góp với đời được độ mươi cuốn cũng là nhiều rồi. Nhưng rồi do thời cuộc biến chuyển, mùa thu năm 1945 tôi bỏ luôn nghề công chánh mà sống về nghề cầm bút và số tác phẩm ba chục năm sau gấp mười số tôi dự tính. Điều đó mẹ tôi, các bác tôi và chính tôi nữa cũng không sao ngờ được. Tới nay tôi cũng không biết cuộc đời của tôi, mấy phần do tôi quyết định, mấy phần do hoàn cành, thời thế xui khiến. Tôi cho rằng dù cho thời thế đưa đẩy thì vẫn phải có ý chí của con người.

1] Cuối chương XV và trong chương XVI, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết: ngày 10.10.1945 (tức ngày mùng 5 tháng 9 năm Ất Dậu), cụ NHL rời căn nhà số 50 đường Morceau Sài Gòn tản cư về Tân Thạnh. Cụ ở Tân Thạnh khoảng một năm rưỡi, trải qua hai cái Tết: Tết Bính Tuất (1946) và Tết Đinh Hợi (1947). Cụ bảo: “Tết trước, mới về Tân Thạnh, tôi còn vui vui, làm đôi câu đối này: Trị ái thư…”. Ta có thể suy ra rằng: “Tết trước, mới về Tân Thạnh” là Tết năm Bính Tuất, và nếu cụ làm đối câu đối đó vào ngày mồng một Tết thì ngày dương lịch là 2.2.1946. (Goldfish).

[2] Nay là đường Lý Tự Trọng. (Goldfish).
[3] Trong ĐVVCT, trang 38, cụ Nguyễn Hiến Lê viết: Tôi vào hạng đọc sách chứ không chơi sách như ông Vương Hồng Sển: không mua những sách đẹp, quí, hiếm…”. (Goldfish).
[4] Trong ĐVVCT, trang 40, ghi là: “ngàn đồng”. (Goldfish).
[5] Bút hiệu là Xuân Phúc (theo ĐVVCT, tr.43). (Goldfish).
[6] Trong ĐVVCT, tr.44, in là: Dương Triệu Tố. (Goldfish)
[7] Trong ĐVVCT, tr.44, in là: Hồ Văn Dực. Trong Đại cương văn học sử Trung Quốc (Nxb Trẻ - 1997) chỗ thì in Hồ Văn Dực, chỗ thì in Hồ Vân Dực. Theo bác Vvn thì tác giả cuốn Tân trước Trung Quốc văn học sử  新著中国文学史 (Bắc Tân thư cục ấn hành tháng 8-1936) là Hồ Vân Dực 胡云翼. (Goldfish).
[8] Bản dịch có nhan đề là Luyện tình cảm (Nxb Nguyễn Hiến Lê, năm 1951). Cụ NHL cho biết: “Cuốn này là cuốn tôi dịch trước hết, từ năm 1941, mười năm sau mới in” (Theo NHL, Mười câu chuyện văn chương). (Goldfish).
[9] Trong Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, cụ NHL cho biết người “Huê kiều” đó là người Triều Châu. (Goldfish).
[10] Tức Đồng cỏ lác. Theo cụ NHL thì, ở Đồng Tháp, “Đất chỗ nào có nhiều phèn thì chỉ thấy mọc nhiều năng, bàng, lác và đưng, tức những loại cỏ mà người Pháp gọi là Joncs, cho nên cánh đồng này mới có tên là Plaine des Joncs” (trích Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười). (Goldfish).
[11] Trong cuốn Đế Thiên Đế Thích, cụ NHL cho biết hai người bạn này là “anh Th.” và “anh T.”. Lúc ở Siemreap cụ “vào hỏi mua cuốn Guide Groslier mà không có, đành mượn của anh T.”. Tôi không hiểu tại sao cụ NHL đã “mang theo cuốn Guide Groslier rồi lên xe đò đi Nam Vang” mà còn tìm mua cuốn đó, và khi mua không được thì đành mượn của anh T.? Phải chăng khi cụ viết bộ Hồi Kí này cụ đã nhớ lầm? (Goldfish).
[12] Trong cuốn Đế Thiên Đế Thích, cụ NHL cho biết rời Sài Gòn ngày 21.1.1943. Tính ra ngày âm lịch là ngày 16 tháng chạp năm Nhâm Ngọ. (Goldfish).
[13] Theo Wikipedia thì ở Bayon có đến 54 tháp lớn nhỏ. (Goldfish).
[14] Trong ĐVVCT, tr.51, in là: Nghệ An - Ninh Bình. (Goldfish).
Chương XIV
Việt Nam Từ Đầu Thế Kỉ Đến Thế Chiến Thứ Nhì
Trong chương này tôi ghi lại sơ lược những biến cố lớn và tình hình xã hội Việt Nam. Tôi không bao giờ có ý viết sử nên không thu thập tài liệu; lại thêm một số sách rất ít ỏi tôi có được thì trong mấy năm nay, do thời cuộc phải dời chỗ hoài, gởi người này, tặng người khác, thất lạc gần hết, bây giờ có muốn tìm lại để tra cứu cũng không được. Vì vậy tôi đành nhớ tới đâu, chép tới đấy, chắc chắn là còn thiếu sót, lầm lẫn nhiều, nhưng về xu hướng và những nét chính thì may ra không đến nỗi sai lắm.
A. CHÍNH TRỊ
PHONG TRÀO CHỐNG PHÁP

Đầu cuốn Đông Kinh nghĩa thục, tôi đã nói cuối thế kỉ trước, các cuộc khởi nghĩa nối nhau tan rã gần hết.
Năm 1887, nghĩa quân ở Bình Định, Phú Yên bị Trần Bá Lộc dẹp, Mai Xuân Thưởng bị hành hình. Tám năm sau Phan Đình Phùng bị bệnh lị mất ở Hà Tĩnh; Nguyễn Thân đem hỏa thiêu thây của người, trộn với tro vào thuốc súng bắn ra biển. Hai năm sau nữa, tiếng súng im hẳn ở Bãi Sậy, Nguyễn Thiện Thuật lẻn qua Trung Hoa. Đầu năm sau nữa, Đề Thám trá hàng ở Nhã Nam. Nhưng cứ lớp trước tàn thì lớp sau lại dậy, tinh thần bất khuất của dân tộc ta không khi nào tắt. Năm 1903 hay 1904, Phan Bội Châu viết cuốn Lưu Cầu huyết lệ tân thư, tả cái nhục mất nước và tuyên bố phải mở mang dân khí làm nền tảng cứu quốc, rồi thành lập hội Duy Tân. Chủ trương của cụ đã hơi khác các nhà cách mạng trước: không tự lực hoạt động trong khu vực nhỏ, muốn thống nhất các hoạt động rời rạc, gây một phong trào toàn dân và sự viện trợ của ngoại quốc để hoặc động cho đắc lực.
Cuối năm 1904, ba cụ Phan Chu Trinh, Trần Quí Cáp, Huỳnh Thúc Kháng rủ nhau chu du mấy tỉnh miền Nam Trung Việt để cảnh tỉnh đồng bào. Trong dịp đó, cụ Phan Chu Trinh làm bài thơ bất hủ Chí thành thông thánh.
Phong trào Duy tân nổi lên mạnh mẽ những năm 1906- 1908. Có ảnh hướng lớn nhất là phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở Bắc do cụ Lương Văn Can khởi xướng. Nghĩa thục bị Pháp đóng cửa sau một năm hoạt động (1907), một số nhà cách mạng bị đày Côn đảo, rồi bị an trí ở Nam việt (cụ Lương bị an trí ở Nam Vang); nhưng chỉ trong một năm đó, các cụ đã gây được tiếng vang khắp nước, đâu đâu cũng nghe thấy trẻ ê a vần Quốc ngữ và các bà mẹ ru con bằng những bài ca ái quốc của nghĩa thục; hai chữ “khoa cử” bị các cụ “mài bỏ” và rất nhiều nơi mở tiệm buôn, thành lập các công ti khuếch trương nông nghiệp, công kĩ nghệ.
Cuối năm 1911, cụ Sào Nam (Phan Bội Châu) qua Trung Hoa, năm sau thành lập Việt Nam quang phục hội ở Quảng Châu, phát hành thông dụng phiếu và quân dụng phiếu để mua khí giới định tấn công Pháp. Thế chiến thứ nhất nổ, Đức giúp cho hội được một số tiền nhỏ. Các cụ vội vã hoạt động liền, tấn công vài đồn nhỏ ở miền Lạng Sơn, thất bại.
Năm 1917, lại có cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên do Lương Ngọc Quyến (con cụ Lương văn Can) và Trịnh Cấn (tức Đội Cấn) chỉ huy. Cụ Lương Ngọc Quyến lúc đó bị giam trong ngục Thái Nguyên, bị Pháp dùi bàn chân để buộc xích sắt, nên liệt hẳn một chân; mặc dầu vậy cụ vẫn liên lạc với viên đội khố xanh Trịnh Cấn, bày mưu cho Trịnh Cấn khởi nghĩa, phá ngục chiếm đồn. Nghĩa binh làm chủ được tỉnh lị Thái Nguyên dược một tuần (từ 30-8 đến 5-9), dùng lá cờ năm ngôi sao làm quốc kì, đặt quốc hiệu là Đại Hùng đế quốc, công bố hai bài tuyên ngôn với quốc dân; sau không chống nổi với Pháp, phải rút lui; nhưng còn chống cự được tới cuối năm. Lương Ngọc Quyến vì liệt một chân, yêu cầu Đội Cấn bắn một phát vào giữa ngực mình ngay ở Thái Nguyên (5-9); Đội Cấn bị vây và bị thương ở Pháo Sơn, chung quanh chỉ còn bốn thủ hạ, tự bắn vào bụng mà chết. Trong lịch sử cách mạng của dân tộc ta, hai cái chết đó cảm động và oanh liệt vào bực nhất. Mà cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên cũng là cuộc duy nhất trong thế chiến thứ nhất khiến Pháp phải lo ngại.
HAI CỤ PHAN
Cụ Tây Hồ (Phan Châu Trinh) qua Pháp từ năm 1911, chủ trương bất bạo động mà tranh đấu một cách công khai - bằng báo chí, diễn thuyết - đòi Pháp thay đổi chính sách cai trị. Năm 1914, đầu thế chiến, cụ bị Pháp giam, năm sau được thả. Năm 1922, khi Khải Định qua Pháp dự cuộc đấu xảo quốc tế, cụ gởi cho ông ta một bức thư trách ông ta bảy điều, lời rất nghiêm khắc nhưng xác đáng, mà hai điều quan trọng nhất là làm nhục quốc thể, có điều ám muội trong việc bang giao với Pháp.
Năm 1925 cụ về nước, hăng hái diễn thuyết hô hào dân chủ, mở mang dân trí, nhưng không được bao lâu thì mất vì bệnh ở Sài Gòn (1926). Học sinh các trường trung học có tiếng Bắc, Trung, Nam để tang cụ, có nơi bị đàn áp, gây ra vụ bãi khóa như ở trường Bưởi; nhiều người bị đuổi.
Năm 1924, nhà cách mạng Phạm Hồng Thái ném bom giết hụt Toàn quyền Đông Dương Merlin ở Sa Điện (Quảng Châu) - rồi tự trầm ở Châu Giang để khỏi bị địch bắt. Pháp căm tức, dò biết rằng vụ đó do đảng viên Việt Nam quang phục hội nhúng tay vào, nên kết án Phan Bội Châu tử hình vắng mặt và tìm mọi cách bắt cụ. Tháng 7 năm 1925 cụ bị bắt ở Trung Hoa, giải về Hà Nội, xử cụ tội tử hình trong phiên tòa 23-11-1925. Nhưng khắp trong nước, các đoàn thể, báo chí đều nổi lên mãnh liệt đòi ân xá cho cụ, và Toàn quyền Pháp là Varenne khôn ngoan nhượng bộ, chỉ giam lỏng cụ tại Huế, xóm Bến Ngự, bên bờ sông Hương. Từ đó cụ không hoạt động gì nữa rồi mất ngày 29- 11-1940. Trước khi mất cụ làm một bài thơ tự hỏi hoạt hoạt động của cụ trong mấy chục năm là công hay tội. Để trả lời câu đó tôi viết bài Cụ Phan và lòng dân in trong tập Kỉ niệm 100 năm năm sinh Phan Bội Châu (Trình Bày, 12-1967) mà dưới đây tôi xin trích một đoạn:
“Tết năm đó, vào tháng giêng hay tháng hai dương lịch 1926[1], tin cụ Phan bị bắt ở Trung Hoa, giải về giam ở Hỏa Lò Hà Nội, bị kết án tử hình rồi toàn dân sôi nổi đòi ân xá cho cụ, dân làng tôi đều biết hết. Chắc chắn họ không đọc báo; có người nào đó xuống phủ, xuống tỉnh, nghe đồn rồi về làng kể lại. Điều đó không có gì lạ. Điểm thích thú là trong mấy ngày Tết, lại nhà nào cũng nghe la lớn: “Cụ Phan” rồi tiếp theo là một tràng những tiếng cười ròn rã như tiếng pháo. Từ xóm Đình đến xóm Chùa, xóm Giếng tới xóm Đồng Đỗ, đâu đâu cũng vang lên hai tiếng “Cụ Phan”.
Có gì đâu. Tết thì nhà nào ở quê Bắc chẳng đánh tam cúc, và dân làng tôi gọi quân tướng điều là “Cụ Phan”. Một vài nhà hơi có học phân biệt tướng điều là cụ Phan Bội Châu, tướng đen là cụ Phan Chu Trinh, nhưng đại đa số chỉ gọi tướng điều là “Cụ Phan”.
Tôi không biết mấy làng bên cạnh có gọi như vậy không (...), nhưng tôi đoán rằng đó không phải là sáng kiến của riêng làng tôi, chắc nó phải đồng thời xuất hiện ở nhiều nơi, vì còn gì tự nhiên cho bằng dùng con bài quí nhất, vô địch trong cỗ tam cúc để chỉ cụ Phan. Nó tự nhiên quá nên rất phổ biến, tới nỗi ngay các tổng lí cũng vui vẻ, hãnh diện có được một “Cụ Phan”. Và tôi nghĩ hồi đó giá có một tên “trành” nào bán nước mà ngồi vào chiếu tam cúc, khi hạ quân tướng điều xuống chiếu thì tất cũng vỗ đùi một cái mà cười ha hả: “Cụ Phan”.
Những ván bài tam cúc đó quả là vui, vui nhất trong đời sống làng tôi”.
CÁC ĐẢNG PHÁI MỚI: VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG - ĐÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN ĐẢNG.
Từ 1925 trở về trước, hai cụ Phan tiêu biểu cho tinh thần ái quốc Việt Nam. Từ 1925 trở đi, xuất hiện thêm nhiều đảng phái mà người thành lập hầu hết ở trong giới tân học.
- Năm 1925 là đảng Tân Việt ở Trung Việt, đảng viên phần đông là công chức và tiểu tư sản. Đảng chưa hoạt động được gì thì phải giải tán.
- Hai năm sau, 1927, Nguyễn Thái Học, sinh viên trường Cao đẳng Thương mãi Hà Nội, lập Việt Nam Quốc dân đảng ở Bắc. Đường lối của đảng là dùng võ lực giành lại chủ quyền rồi thành lập chính thể Cộng hòa. Đảng được nhiều giới gia nhập: công chức, tiểu tư sản, công nhân, thương nhân, quân nhân, cả tổng lí, học sinh nữa[2]; lập được nhiều chi bộ, thâu nạp được nhiều đồng chí, rất có tiếng trong nước.
Đảng mới thực hành được vài vụ ám sát, như vụ ám sát Pháp kiều Bazin, giám đốc sở mộ phu cho các đồn điền cao su Nam Việt và Tân thế giới (Nouvelle Calédonie), thì do một tên phản đảng mà mật thám biết được nhiều bí mật của đảng, thẳng tay đàn áp, truy nã.
Từ đó Nguyễn Thái Học càng phải hoạt động gấp, mở cuộc tổng khởi nghĩa cùng một ngày ở nhiều nơi; nhưng vì tổ chức vội, có nhiều nơi nhận được tin trễ hoặc chuẩn bị không kịp, thành thử thất bại. Trong đêm 9, rạng ngày 10-2-1930, nghĩa quân chỉ tấn công được một đồn Yên Bái, giết được khoảng mươi sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp. Sáng hôm sau, liệng được ít trái tạc đạn ở Hà Nội.
Pháp phản ứng kịp và rất mạnh, dùng phi cơ liệng bom xuống đồn Yên Bái, bắn liên thanh xuống thành phố và các làng chung quanh; rồi 1ại thả bom san phẳng làng Cổ Am, cả ngàn người chết.
Nguyễn Thái Học lẩn tránh một thời gian, sau bị bắt ở Hải Dương, bị kêu án tử hình và ngày 17-6-1930, tại Yên Bái, ông cùng 12 đồng chí yếu viên của đảng hiên ngang bước lên đoạn đầu đài, người nào cũng hô lớn “Việt Nam” trước khi chết; khiến toàn dân vừa khâm phục, vừa xúc động, có tiếng vang rất lớn ở Pháp.
- Đầu năm 1930, ông Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Hương Cảng một đảng nữa, đảng Cộng sản Đông Dương, và ngay mùa hè năm đó, mấy ngàn bần nông Nghệ An nổi dậy, chiếm ruộng của điền chủ, chia nhau. Tới tháng chín, sáu ngàn nông dân vì đói mà nổi dậy, tiến ra Vinh. Pháp đàn áp tàn nhẫn, dùng phi cơ dội bom vào đám biểu tình, khiến một nữ kí giả Pháp, Andrée Viollis phải phẫn uất, ghê tởm, về Pháp viết cuốn Indochine S.O.S.
Từ đó đảng Cộng sản thỉnh thoảng lại gây được những cuộc biểu tình nhỏ, những cuộc đình công ở nhiều nơi trong nước: Hà Nội, Hải Phòng, Hòn Gai, Nam Định, Vinh, Sài Gòn, Mỹ Tho, Cao Lãnh...
Về lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam, và nhất là vai trò của ông Nguyễn Ái Quốc (tên hồi trẻ là Nguyễn Tất Thành, và tên sau này là Hồ Chí Minh), nhiều sách đã viết. Ai cũng biết không nhiều thì ít, ở đây tôi không cần kể lại, chỉ xin nhấn rằng tất cả trong các cuộc cách mạng Việt Nam, đảng Cộng sản có tổ chức chặt chẽ nhất, có đường lối, có chương trình hành động rõ rệt, có nhà lãnh tụ sáng suốt, nhiều kinh nghiệm, được khắp thế giới biết tiếng, nhờ vậy mà sau này thành công lớn.
Ngoài các đảng hoạt động bí mật kể trên, còn những nhóm, đảng hoạt động công khai, nhóm được dân tín nhiệm nhất là nhóm La Lutte (Tranh đấu) ở Nam Việt, mà ba kiện tướng là Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Phan văn Hùm.
Họ đều đã du học ở Pháp, trong khi du học đã hoạt động chính trị, sách động sinh viên Việt Nam biểu tình bênh vực cụ Phan Bội Châu, phản đối vụ hành hình ở Yên Bái, rồi về nước hoạt động công khai, đòi quyền lợi cho thợ thuyền, chống đế quốc thực dân, nhiều lần bị bắt giam. Nam Việt là thuộc địa của Pháp, dân chúng được tự do hơn hai xứ Bắc và Trung; chế độ báo chí cũng rộng rãi, nhất là các báo tiếng Pháp. Tạ Thu Thâu sáng lập tờ La Lutte (Tranh đấu), Nguyễn An Ninh sáng lập tờ La Cloche Fêlée (Chuông rạn) gây được nhiều cảm tình trong dân chúng. Đầu thế chiến thứ nhì, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu và Phan Văn Hùm đều bị đày ra Côn Đảo; Nguyễn An Ninh mất ngoài đó năm 1943, còn Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm mãi đến khi Nhật đảo chánh Pháp mới được thả.
Về giới chính khách thân Pháp, hợp tác với Pháp, chỉ đòi cải thiện chính thể, trước 1945 chúng ta thấy hai chủ trương:
- Chủ trương quân chủ lập hiến, do Phạm Quỳnh đề xướng trên tờ Nam Phong; ở Nam, Bùi Quang Chiêu cũng lập một đảng Lập hiến; tôi không rõ đường lối ra sao, có lẽ muốn có một chế độ dân chủ với một hiến pháp.
- Chủ trương xin Pháp cho Việt Nam tự trị, bỏ chế độ bảo hộ đi, mà ba kì sát nhập với nhau thành một thuộc địa của Pháp. Chủ trương này do Nguyễn Văn Vĩnh đưa ra, rất ít người theo.
Trong khoảng 1925-1930 ở Nam Việt xuất hiện hai giáo phái: Cao Đài do Lê Văn Trung, một viên hội đồng quản hạt, thành lập ở Tây Ninh; và Hòa Hảo do một nông dân, Huỳnh Phú Sổ thành lập ở làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, Châu Đốc, nhưng hai giáo phái đó đến đầu thế chiến thứ nhì mới hoạt động về chánh trị, nên tôi sẽ xét trong chương sau.
B. KINH TẾ
XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI TRƯỚC

Sau thế chiến thứ nhì, một số nhà kinh tế học phương Tây như Clark, Myrdal, Fourastié, Rostow nghiên cứu về sự phát triển kinh tế cho rằng có năm giai đoạn như sau:
1. Xã hội cổ: các hoạt động sản xuất rất hạn chế, mà theo phương pháp truyền thống, thiếu tính cách khoa học;
2. Giai đoạn dự bị, tức giai đoạn ở cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII lại phương Tây: người Âu bắt đầu có ý thức về sự tiến bộ kinh tế nhờ nhiều phát minh lớn về khoa học (xe lửa chạy bằng hơi nước, điện lực...); một nhóm người có tinh thần kinh doanh đã nghĩ tới việc phát triển kinh tế để đầu tư…
3. Giai đoạn bắt đầu phát triển mạnh: đầu tư nhiều, mở mang mọi ngành, tức giai đoạn ở hậu bán thế kỉ trước tại châu Âu;
4. Giai đoạn thành thục, tức giai đoạn của châu Âu đầu thế kỉ này;
5. Giai đoạn đại chúng tiêu thụ mạnh mẽ, tức giai đoạn của châu Âu và Nhật bản hiện nay, của Mĩ từ hai ba chục năm trước. Giai đoạn này cũng gọi là hậu kĩ nghệ (post industrielle, do Daniel Bell đặt ra), mọi người chỉ lo hưởng thụ cho nhiều để có thể sản xuất cho nhiều; sản xuất thừa thãi quá rồi, người ta ít ham cạnh tranh, thành công nữa; ý thức về quốc gia, giai cấp nhạt đi, có thể tinh thần nhân bản và sự giáo dục được tôn trọng hơn trước.
Cho tới khi người Pháp qua, xã hội Việt Nam là xã hội cổ của nền văn minh nông nghiệp, như xã hội thời Trung cổ của phương Tây. Trong cả ngàn năm nông nghiệp không tiến bộ được bao nhiêu, đất đai tuy mở mang được nhiều nhờ cuộc Nam tiến, nhưng đồng thời dân số cũng tăng lên, thành thử mức sống không cải thiện được. Theo Luro, do Paul Mus dẫn trong cuốn Việt Nam, sociologie d’une guerre (Seuil - 1952) thì thời xưa (tôi đoán là thời Minh Mạng hay Tự Đức) “cả nước Việt Nam chỉ có một lợi tức là bốn chục triệu (triệu quan tiền của ta hay triệu quan của Pháp, Luro và Mus đều không nói rõ), lương quan lại rất thấp, lính tráng gần như không được lãnh lương, mọi công việc xây cất, đào kinh, đắp đường, đắp đê... đều bắt dân làm xâu cả”.
Lời đó đúng. Trong một chương trên tôi đã kể cảnh nghèo của các cụ nghè liêm khiết, làm những chức lớn như quan tham tụng Lê Anh Tuấn, làng Thanh Mai (Sơn Tây) thời chúa Trịnh; quan Tế tửu ở Quốc tử giám (Hà Nội), nhà ở làng Hạ Đình (Hà Đông) thời Tự Đức.
Xã hội xưa đúng là cảnh bùn lầy nước đọng, không sao tiến được; chính quyền chỉ lo sao cho dân khỏi đói mà cũng không xong; và khi cuộc Nam tiến phải ngừng lại - vì Pháp chiếm hết Đông Dương - thì từ vua tới dân dành bó tay chịu sự đào thải thiên nhiên: dân số tăng lên quá, ruộng đất không đủ nuôi, thì những tai họa như lụt, hạn hán, bệnh dịch, chiến tranh... làm giảm số dân xuống cho có một sự thăng bằng tạm thời giữa sự sản xuất và dân số.
Bi đát thay, tới ngày nay mà tình cảnh nghèo khổ đó vẫn chưa được cải thiện: lương cán bộ, công nhân viên cũng không đủ sống như thời xưa, mà rất nhiều công trình xây dựng vẫn do chính sách làm xâu - nay gọi là lao động mà thực hiện được! Còn lợi tức trung bình hàng năm mỗi đầu người chỉ có 50 Mĩ kim, vào hạng thấp nhất thế giới, trong khi ở Pháp là 3.000-4.000, ở Hoa Kì là 5.000-6.000 Mĩ kim.
PHÁP KHAI THÁC VIỆN NAM, GIỚI TƯ BẢN VÀ ĐIỀN CHỦ XUẤT HIỆN
Năm 1867, Pháp chiếm trọn sáu tỉnh Nam Việt. Năm 1884 triều đình Huế kí Hòa ước Patenôtre, nhận cho Pháp bảo hộ cả Bắc và Trung kì.
Vào khoảng 1880, Pháp bắt đầu khai thác Nam kì. Mới đầu các dinh và công sở của họ ở Sài Gòn còn là nhà sàn bằng gỗ; năm 1887 mới đặt viên đá đầu tiên để xây cất nhà thờ Đức Bà ở trước Sở Bưu điện chính.
Ở Bắc sự khai thác trễ hơn: năm 1892 Hải Phòng còn là một xóm bùn lầy toàn nhà lá.
Pháp xây vài thành phố lớn đồng thời với vài đường giao thông chính, như đường lộ và xe lửa Sài Gòn-Mĩ Tho, Hà Nội-Hải Phòng...; rồi mở những tiệm buôn.
Sản phẩm chính của Nam kì là lúa, sau mới thêm cao su. Trung kì có cây rừng và cá biển. Bắc kì có nhiều mỏ. Cao nguyên có gỗ, cà phê. Vì vậy bọn tư bản Pháp lập nhiều đồn điền, nhà máy gạo, nhà máy chế biến mủ cao su ở Nam; đồn điền cà phê ở cao nguyên; họ khai thác mỏ than, mỏ đồng, mỏ thiếc, lập các xưởng xi măng, xưởng dệt, nhà máy giấy... ở Bắc; miền Trung chưa kịp thai thác được bao nhiêu, chỉ có nhà máy diêm, xưởng đóng tàu ở Vinh, vì con đường xe lửa xuyên Đông Dương mãi đến 1937 mới hoàn thành, mà năm 1939 đã có thế chiến thứ nhì rồi; cả nguồn lợi cá biển ở Trung họ chưa nghĩ tới.
Sự khai thác đó đưa xã hội Việt Nam vào giai đoạn hai của tiến trình phát triển kinh tế, tức giai đoạn ở cuối thế kỉ 17, đầu thế kỉ 18 tại phương Tây như trên tôi đã nói. Một số người Việt có óc kinh doanh bắt đầu tin ở sự tiến bộ kinh tế, hùn vốn lập hội, lập xưởng, nhà máy, như công ti Bạch Thái Bưởi ở Hà Nội, tranh việc chuyên chở trên sông với ngoại nhân; công ti Liên Thành sản xuất nước mắm ở Phan Thiết; Trương Văn Bền ở Sài Gòn lập xưởng làm xà bông... Họ chỉ là những nhà tư bản nhỏ, không so sánh được với bọn tư bản Pháp, Trung Hoa.
Riêng ở Nam Việt, xuất hiện một số đại điền chủ miền Tây vào khoảng 1920-1930. Trong xã hội cũ, Việt Nam không có giới điền chủ lớn. Đời Trần, một số hoàng thân được ban cho một khu đất rộng để khai phá, có gia thần (bề tôi riêng), nhiều nô tì, cả một số lính nữa, và khi quân Nguyên qua xâm lăng, các vị “vương” đó đem quân của mình ra chống cự như quân của triều đình. Chế độ đó có thể ví với chế độ phong kiến thời cổ ở Trung Hoa, hoặc chế độ Latifundia ở La Mã. Nhưng qua đời Lê, chế độ đó không còn; và tới đầu thế kỉ chúng ta, người giàu nhất làng tôi chỉ có sáu mẫu, khoảng hai héc ta, không đáng kể là tiểu điền chủ nữa. Hai héc ta mà nhà có độ mươi miệng ăn thì làm lấy chỉ đủ cơm ăn, áo mặc. Tại vài làng khác trong tổng, có vài người được hai chục mẫu thì cũng chỉ bằng bảy héc ta, vào hạng nông dân đủ ăn ở trong Nam. Tôi nghe nói vào khoảng 1930, có vài đồn điền của người Việt ở miền trung du như Phú Thọ, Bắc Cạn rộng một hai trăm mẫu, nhưng một phần lớn là đồi, chỉ một phần nhỏ cày cấy được, như vậy cũng chưa bằng một tiểu điền chủ ở miền Tây Nam Việt.
Sở dĩ miền Tây Nam Việt (suốt một dải từ Châu Đốc tới Cà Mau bên kia Hậu Giang, và từ Hồng Ngự xuống đến Tân An bên Tiền Giang) có nhiều điền chủ lớn là vì miền đó còn hoang vu khi người Pháp tới. Nó hoang vu vì đất có nhiều phèn, phải đào kinh thật nhiều, rửa phèn trong vài ba năm rồi mới tạm trồng lúa được. Chánh quyền Pháp bán những đất hoang đó hoặc cho khẩn một cách dễ dãi. Bọn tư bản Pháp lựa những miếng lớn và tốt hơn cả, có những đồn điền cả chục ngàn héc ta như đồn điền Gressier (?) dài vài chục cây số, rộng vài ba cây số trên hai bờ kinh Xà No ở Cần Thơ và Rạch Giá; một số người Việt khá đông chia nhau những miếng nhỏ vài ba trăm héc ta, may mà trúng được hai vụ liên tiếp thì lại khẩn thêm, tậu thêm, chỉ trong mươi năm thành đại điền chủ với cả ngàn héc ta ruộng.
Cũng có trường hợp dân nghèo rủ nhau khai thác một miền đất hoang, hi vọng hễ thành điền rồi thì xin nộp thuế cho chính phủ và sẽ được làm chủ ruộng. Mỗi gia đình chỉ làm độ mươi héc ta là nhiều. Vài chục gia đình làm được vài trăm héc ta. Lúc đó mới có một tên tư bản gian manh cướp công họ, chiếm đất, đuổi họ đi viện lẽ đã xin khẩn từ mấy năm trước rồi, trên địa bộ họ đứng tên rồi. Những vụ như vậy thường xảy ra, có vụ đổ máu như vụ đồng Nọc Nạn ở Bạc Liêu.
Chủ điền không thể khai thác lấy được, chia cho tá điền; nhiều tá điền quá thì phải dùng “cặp rằn” (do tiếng Pháp caporal) cai quản tá điền. Từ đó sinh ra nạn bóc lột, ở nông thôn phân ra hai giai cấp tư bản (điền chủ) và vô sản (tá điền) đấu tranh với nhau. Nhưng tôi nhắc lại, tình trạng đó chỉ xảy ra ở miền Tây Nam Việt, mà số điền chủ tàn bạo quá tới nỗi nông dân phải nổi loạn, không phải đâu đâu cũng có. Chẳng hạn tổng Phong Thạnh Thượng, chỗ bác Ba tôi ở, không xảy ra vụ nào cả.
Trong cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười tôi đã kể một lần vào thăm một trại ruộng lớn có máy cày (năm đó vào khoảng 1936-37). Chủ trại giữ tôi ở lại ăn cơm. Trại ở giữa một cánh đồng mênh mông, hoang vu, xa sông Tiền, xa chợ Hồng Ngự, vậy mà chỉ trong một hai giờ mà trên bàn đã có sáu bảy món ăn (thời đó chưa có tủ lạnh) với rượu quí, trái cây, bánh ngọt. Đĩa chén toàn là đồ Limoges, li bằng pha lê. Chủ nhân có 600 héc ta đất, phàn nàn đã lỡ mua non một vạn đồng bạc máy cày (lương tôi hồi đó, kể cả phụ cấp chỉ được 80 đồng) mà mới dùng được vài tháng đã phải bỏ vì không khí ẩm thấp, thợ chuyên môn không có, máy mau hư mà mỗi lần hư phải gở từng bộ phận đem qua Châu Đốc, có khi xuống tận Cần Thơ để sửa. Hạng bị phá sản không phải là ít, nhất là trong hồi kinh tế khủng hoảng: 1930-1934.
SỰ BÓC LỘT VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP THỜI PHÁP THUỘC
Chỉ hạng tư bản Pháp, chủ đồn điền cao su là làm ăn thịnh vượng nhất và bóc lột công nhân một cách tàn nhẫn, có tổ chức nhất, gây biết bao nỗi bi thảm mà một số bài báo và truyện Bão rừng của Nguyễn Văn Xuân đã tả, nhưng vẫn còn sơ lược. Bị chủ bóc lột một lớp rồi lại bị cai bóc lột một lớp nữa, nên mười người dân quê Bắc vào làm phu đồn điền cao su ở Nam (họ gọi là đi Tân thế giới) thì may ra có một người khôn lanh, có nghị lực, khi hết hạn giao kèo, trở về Bắc được với một số tiền nhỏ; còn chín người kia phải gởi xương trong rừng cao su, hoặc thoát ra được thì cũng bệnh tật, lang thang kiếm ăn qua ngày ở các thị trấn miền Nam.
Sự bóc lột tàn nhẫn, nhưng sự tranh đấu trong các đồn điền cao su không mạnh vì nơi đó là lãnh địa riêng của bọn tư bản Pháp; phu cao su gần như bị giam lỏng, khó tiếp xúc với ngoài.
Công việc tuyên truyền và huấn luyện của đảng Cộng sản có hiệu quả nhất ở các mỏ như mỏ than Hồng Gai, các nhà máy như nhà máy sợi Nam Định, các xưởng như xưởng Ba Son (Arsenal – xưởng đóng tàu) ở Sài Gòn... Thợ thuyền những nơi đó giác ngộ hơn, đoàn kết hơn, có tinh thần tranh đấu hơn, có thể gọi là gần họp thành một giai cấp đúng với nghĩa của Karl Marx; tôi nói gần vì trước thế chiến vừa rồi, số thợ đó còn ít quá, một hai vạn và đối tượng tranh đấu của họ là tư bản Pháp vì chủ của họ toàn là người Pháp; còn một số nhà tư bản Việt làm ăn nhỏ quả, chỉ mướn dăm chục hay cùng lắm là một trăm thợ, nếu thợ thấy bị bóc lột thì bỏ di, kiếm việc nơi khác, đấu tranh làm gì; hoặc nếu có đấu tranh thì chủ và thợ cũng dễ thỏa thuận với nhau, như người trong nhà.
Tóm lại, ta có thể kết luận rằng trước 1945, chỉ có vài vụ giai cấp đấu tranh giữa chủ điền và tá điền Việt mà không có sự đấu tranh giữa chủ và thợ thuyền Việt, chỉ có đấu tranh giữa chủ Pháp và thợ Việt thôi; và sau khi Sài Gòn được Giải phóng, điền chủ Việt mất hết đất, tư bản Pháp phải cuốn gói về Pháp, thì toàn quốc không còn đấu tranh giai cấp nữa, hiểu theo định nghĩa của Karl Marx.
Lịch sử giai cấp đấu tranh của ta quả thật là ngắn ngủi.
C. XÃ HỘI
GIỚI “BOURGOIS” LỚP ĐẦU

Để cai trị và khai thác Việt Nam, Pháp phải đào tạo một số tay sai: thư kí, thông dịch viên, com-mi, phủ, huyện, cán sự thấp và trung trong mọi ngành. Họ mở những trường tiểu học ở mỗi châu thành, mỗi phủ, quận; rồi năm sáu trường trung học ở các châu thành lớn (tất cả những trường đó, tiểu và trung, đều là trường Pháp Việt, dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ); năm 1907 mới mở ở Hà Nội một trường đại học cho toàn cõi Đông Dương, một hai năm sau đóng cửa[3], năm 1910 hay 1912 mở lại, nhưng mới đầu không đủ các ngành, chỉ đào tạo những cán sự chuyên môn, mãi đến năm 1930 mới mở vài ngành luật khoa, khoa học, và buộc sinh viên phải có bằng Tú tài, từ đó đại học Hà Nội mới xứng với tên đại học mà cũng chỉ bằng một đại học nhỏ nhất của Pháp.
Trước thế chiến thứ nhất, ở Bắc người Việt nào học vài ba năm tiếng Pháp, bập bẹ được ít câu, làm được bốn phép tính, cũng được tuyển dụng làm thầy kí, lương mười, mười lăm đồng một tháng. Làm ít năm, lương tăng, được mười tám, hai mươi đồng. Nếu thông minh và siêng năng, chỉ trong mươi năm thành ông Phán, lương bốn năm chục đồng. Bốn năm chục đồng vào khoảng 1920 là một số tiền lớn; họ có thể sắm một chiếc xe kéo gọng đồng, mướn một anh “xe” vừa kéo xe vừa làm việc nhà, một chị vú, một chị sen. Tốn kém gì đâu: hạng đó ở nhà quê mò cua bắt ốc, những ngày giáp hạt may lắm được củ khoai, bát ngô, nay được đủ cơm mỗi bữa, dù là cơm thừa canh cặn, cũng vẫn là sướng, huống hồ mỗi tháng được chủ trả cho năm hào hay một đồng, cuối năm lại được một bộ quần áo vải.
Hạng công chức đầu tiên đó sống an nhàn, sung sướng. Người nào chí thú thì chủ nhật họp nhau đánh chén, rồi đánh vài hội tài bàn, tổ tôm; kẻ chơi bời thì rủ nhau đi cô đầu “tom chát”, hút xách “đi mây về gió”.
Có bổng ngoại ít nhiều mà cần kiệm thì tậu nhà, mua ruộng, thành một nhà tư bản nho nhỏ, cho con học trường Tây, sau thành quan huyện, quan đốc.
Học hành chỉ được một nhúm chữ mà họ sướng gấp chục lần giới sĩ phu, các cụ cử, cụ nghè thời trước. Đúng như thơ Tú Xương:
”Thôi có ra gì cái chữ Nho,
Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co.
Sao bằng đi học làm thầy Phán,
Tối rượu Sam banh sáng sữa bò”.
Họ làm cho vợ con hưởng. Vợ họ ăn trắng mặc trơn, nói là coi sóc việc nhà nhưng chẳng phải mó tay vào việc gì cả, ngồi trên sập gụ chỉ tay năm ngón, tô điểm nhan sắc, phây phây ra, mất hết đức cần cù, nhẫn nại, hi sinh của các cụ bà lớp trước, như cụ bà Tú Xương chẳng hạn. Kẻ hư thì đánh bài, kẻ “đảm đang” thì chơi họ, cho vay lãi, kiếm thêm tiền, có khi nhiều hơn số lương của chồng nữa.
Những năm 1925-1928, kinh tế Việt Nam thịnh nhất, họ làm ăn dễ dàng, nên Tết tiêu pha lớn: may áo gấm, áo đoạn cho họ và cho cả các con cái, mua những cành đào lớn, những chậu quất, thược dược, cả chục giò thủy tiên để bày và tặng nhau; pháo đốt cả chục bánh toàn hồng, còn bánh, thịt thì ê hề, ăn đến ngày mùng bảy mới hết.
Tới thời kinh tế khủng hoảng (1930-1935) bọn tư bản càng lớn càng mau sạt nghiệp, bọn bần dân điêu đứng (công nhật chỉ có một hai hào), thì họ vẫn sung sướng vì lương chồng họ không bị giảm bao nhiêu mà vật giá sụt nhiều.

Đó là giới tiểu tư sản (bourgeois) đầu tiên ở Bắc và Trung do văn minh tạo thành. Ở miền Nam, giới đó xuất hiện sớm hơn và đọc tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh chúng ta biết được đời sống của họ ra sao. Xét chung, họ là những người hiền lành, thân Pháp, an phận, thỏa mãn, và vẫn trọng các nhà Nho, cha chú họ. Có người chê phụ nữ trong giới đó có tật xấu là biếng nhác, chỉ ham hướng thụ, đài các, thích danh vọng hão huyền. Tại hoàn cảnh xui nên như vậy. Sau này, trong thời loạn lạc, tôi thấy nhiều phụ nữ vào hạng trung lưu có tinh thần hi sinh cao, tháo vát, giỏi chịu cực khổ, lại giữ được truyền thống dân tộc mình sau những cuộc thử thách lớn lao, ngốc đầu lên được phần lớn là nhờ họ. Phụ nữ Tây phương không bằng họ được.
Tuy nhiên trong giới tiểu tư sản đầu tiên đó cũng có một số vượt hẳn lên; có kẻ gian hùng bực nhất như Trần Bá Lộc ở Nam (tôi không kể Nguyễn Thân ở Trung, Hoàng Cao Khải ở Bắc vì họ xuất thân cựu học); có người thành học giả như Huỳnh Tịnh Của, Pétrus Ký ở Nam; Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim ở Bắc; có người mạo hiểm kinh doanh, tranh đấu với ngoại nhân như Bạch Thái Bưởi ở Bắc.
LỚP SAU TIẾN BỘ HƠN, TẠO NÊN NƯỚC VIỆT NAM MỚI
Tới thế hệ sau, giới tiểu tư sản đông hơn, tiến bộ hơn, hiểu biết hơn tuy đa số vẫn ham hưởng thụ, có kẻ sa đọa hơn trước, nhưng một số có tư cách, chí khí, theo Tây học mà không vong bản, giữ được truyền thống, nên đóng những vai trò quan trọng, có thể nói là chính họ đã tạo nên nước Việt Nam mới.

Thành lập các hội kín, gây các phong trào cách mạng, phất cờ khởi nghĩa, nêu gương hi sinh cho quốc dân là họ. Viết báo, viết sách đả đảo thực dân, cảnh tỉnh đồng bào, đưa ra các đề nghị để cái cách xã hội hầu tiến kịp thời đại, là họ. Mài ngọn bút, luyện cho Việt ngữ thành lợi khí để truyền bá tư tưởng, diễn đạt tình cảm, tạo được một nền văn xuôi gọn, sáng, mỗi ngày mỗi thêm phong phú, tinh xác, là họ. Lập các nhà buôn, nhà máy để kiến thiết quốc gia, cũng là họ; về phương diện này họ chưa thành công nhiều vì ít vốn, ít kinh nghiệm, khó cạnh tranh với ngoại nhân, nhưng họ đã tin ở sự tiến bộ, tin ở sự phát triển kinh tế. Làm những công việc xã hội để giúp người nghèo, bênh vực quyền lợi của giới cần lao, hi sinh cho lí tướng bình đẳng, bác ái, tự do, cũng là họ.
Chúng ta cứ xét nội một điều này: từ thế kỷ XVIII đến nay, tất cả các vĩ nhân trong mọi hoạt động xã hội, chính trị, văn hóa, khoa học, mĩ thuật ở phương Tây hầu hết đều thuộc giới “bourgeois” cả, ngay đến Karl Marx, Lénine cũng vậy. Ở nước ta, trong giới lãnh đạo đảng Cộng sản, có đến ba phần tư hay hơn nữa ở trong thành phần tiểu tư sản. Là vì từ trước tới nay, chỉ tiểu tư sản mới được học nhiều hơn cả, có thì giờ để suy tư, sáng tạo hơn cả. Có thể nói thế giới ngày nay do giới tiểu tư sản tạo nên.
Tóm lại, trong khoảng nửa đầu thế kỉ, nhất là từ sau thế chiến thứ nhất trở đi, xã hội Việt Nam bắt đầu Âu hóa, có thêm giới trí thức tiểu tư sản, giới này lần lần thay thế giới sĩ phu thời trước mà lãnh đạo quốc gia. Sự biến chuyển đó lớn lao nhất trong lịch sử, nhưng so với Nhật Bản vẫn là nhỏ và trễ: Nhật đã Âu hóa từ 1870 và năm 1905 đã thắng được một dân tộc da trắng là Nga trong khi ta vẫn thiêm thiếp ngủ, phải nhờ tiếng súng của họ ở eo biển Đối Mã mới bừng tỉnh.
Mà sự biến chuyển đó chỉ mới phát ở các châu thành chưa lan sâu vào nông thôn vì sự kiềm chế của Pháp. Năm 1915 mới bỏ khoa thi hương ở Bắc, ba năm sau bỏ ở Trung. Nhưng ở làng nào cũng vẫn còn những trường học của các ông đồ; mãi đến 1925, mỗi làng ở Bắc, Trung mới có được một trường Sơ học chuyên dạy tiếng Việt tới lớp ba (lớp sơ đẳng – cours élémentaire).
Ở Nam, kinh tế phát triển hơn, trường học nhiều hơn, nhưng năm 1935, về miền Tây, tôi vẫn thấy dân quê giữ được nhiều truyền thống cũ, nhiều cổ tục. Có những cụ già để búi tóc mà đội nón Tây (casque), ngồi ca nô, xe hơi mà thích truyện Tàu, thuộc Minh tâm bửu giám, dạy con rất nghiêm: con đã đậu tri huyện rồi mà còn nọc ra đánh, đậu kĩ sư rồi mà bắt đi chăn trâu trong khi đợi bổ, và khi các cụ khuyên bảo điều gì thì dân làng răm rắp tuân theo, hơn là tuân chủ quận.
Và giới trí thức tiểu tư sản vì còn mới quá mà ít tiếp xúc với nông dân, chưa làm được gì cho họ nên chưa gây được uy tín lớn lao như giới sĩ phu thời xưa; trừ một số như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu.... miền Nam, còn hầu hết cho tới năm 1945 vẫn còn bị dân quê nghi kị, có khi mỉa mai nữa là khác.
D. VĂN HÓA
CHỮ QUỐC NGỮ

Xã hội tiến mau được, chủ yếu là nhờ sự giác ngộ của đại chúng; có những nhà lãnh đạo tài giỏi, có cả một giới thượng lưu trí thức đông đảo mà đại chúng mù chữ, lạc hậu thì cũng chẳng làm được gì, cũng như có tướng mà không có quân. Một kí giả phương Tây bảo trong mấy cuộc chiến tranh giữa Do Thái và Ả Rập, Do Thái thắng một phần là nhờ quân sĩ của họ có trình độ văn hóa cao, ra trận biết có sáng kiến, chẳng những biết sử dụng mà còn biết sửa chữa những khí giới tối tân. Trong sự chiến đấu còn vậy, huống hồ là trong sự phát triển kinh tế.
Muốn cho đại chúng mau giác ngộ thì phải mở nhiều trường, in nhiều sách báo; mà muốn cho họ mau đọc được sách báo thì chữ viết phải tiện lợi, không tốn công nhiều quá để học. Hai chục năm trước, một người Anh nói với chính khách Việt: “Dân tộc ông sẽ tiến mau hơn Trung Hoa, Thái Lan, vì các ông dùng tự mẫu La-tinh, bất kì người nào, chỉ học vài tháng là đọc được, viết được”.

Đúng vậy, Chữ Nôm của ta xuất hiện trễ lắm là vào đời Lí Cao Tông thế kỉ XII[4]. Giá thời đó vua chúa của ta biết bỏ chữ Hán mà dùng chữ Nôm làm quốc tự, trong vài thế kỉ, cải thiện được nó, qui định lối viết, lối đọc cho toàn quốc, giản dị hoá nó, bắt ai cũng phải học, thì nó thành một phương tiện truyền bá tư tưởng có hệ thống, không đến nỗi luộm thuộm, mỗi thời đọc, viết một khác, mỗi miền đọc viết một khác; thậm chí mỗi người đọc viết một khác nữa; mà văn hoá, văn thơ của ta nhờ đó phát triển được kha khá, và bây giờ các học giả khỏi phải bù đầu phiên âm tìm nghĩa một số khá nhiều chữ Nôm đời Lí, đời Lê; cãi nhau mấy chục năm nay mà vẫn chưa đọc được hai chữ Nôm mỗi người đưa ra một thuyết, chẳng thuyết nào thắng nổi thuyết nào.
Nhưng dù biết dùng chữ Nôm từ đời Lí mà không dám cải cách mạnh, vẫn dựa vào chữ Hán thì học nó cũng mệt lắm; ít nhất cũng phải biết vài nghìn chữ Hán, đọc lõm bõm được chữ Hán rồi mới đọc viết chữ Nôm. Như vậy một người tư chất trung bình phải mất bốn năm năm.
Và tới thế kỉ XVII, người Âu qua nước mình, tất phải dùng chữ Nôm đó, không đặt ra vần Quốc ngữ (dùng mẫu tự La tinh để phiên âm tiếng Việt) hoặc có đặt ra thì cũng chỉ để họ dùng với nhau, viết sách, viết thư cho nhau thôi; và Việt Nam ngày nay cũng sẽ ở tình trạng bối rối như Trung Hoa, Nhật Bản, muốn bỏ quốc tự lắm để dùng mẫu tự La tinh mà có nhiều điều trở ngại quá, hơn nửa thế kỉ rồi, chưa quyết tâm được. Thật là bỏ thì thương, vương thì tội. Thành thử dân tộc ta là dân tộc duy nhất ở Đông Á, được cái may mắn chỉ học vài tháng chứ không phải mất ba bốn năm để biết đọc biết viết. Đỡ tốn công biết bao.
VĂN XUÔI CỦA TA MỘT THẾ KỈ NAY
Do lẽ cổ nhân không trọng chữ Nôm (nôm na là cha mách qué), không dùng nó để thảo chiếu, biểu, văn thư, để viết sách, dạy học, chỉ coi nó là một thứ chữ phụ để ghi những điều không quan trọng, những tình cảm riêng tư... cho nên có tình trạng kì dị này mà tôi đã phân tích trong bài Tựa cuốn Luyện văn II (1956):
“... Thơ Nôm của ta đã có từ ngàn năm trước, phát triển từ ca dao đến các điệu hát rồi đạt tới một mức rất cao trong truyện Kiều, còn văn xuôi Nôm của chúng ta thì mới xuất hiện chưa đầy một thế kỉ nay. Vì bạn thử xét từ giữa thế kỉ XIX trở về trước, chúng ta có những tác phẩm nào là văn xuôi Nôm? Các bộ Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là tản văn Hán chứ không phải Nôm. Các bài phú, kinh nghĩa Nôm của Lê Quí Đôn, Nguyễn Công Trứ ư? Cũng không nữa. Những bài ấy tuy viết bằng tiếng Nôm, song toàn theo thể biền ngẫu, một thể có đối, có vần, có luật chặt chẽ, gần thi ca hơn là gần văn xuôi. Rốt cuộc chỉ còn những bài biểu, chiếu dưới triều Quang Trung (có lẽ cả trong thời Hồ Quí Li) mới thực là văn xuôi Nôm, song những bài đó ít quá (vua Quang Trung cầm quyền không được lâu, công cuộc cách mạng của ông chưa kịp hoàn thành) và viết rất vụng về, đầy những thành ngữ Hán, không có chút giá trị gì cả.
Vậy thực ra văn xuôi Nôm mới xuất hiện từ hồi Trương Vĩnh Ký viết cuốn Chuyện đời xưa (1866), nghĩa là cách đây (1956) chín chục năm. Nhưng trong hậu bán thế kỉ trước, lời xướng của ông được ít người họa; phải đợi đến đầu thế kỉ này, từ khi nhóm Đông Dương tạp chí ra đời (1913), văn xuôi Nôm mới phát triển đều đều và phát triển rất mạnh. Mặc dầu bị tiếng Pháp lấn áp trong mọi khu vực, mặc dầu bị đa số quốc dân thờ ơ, bị nhiều nhà giáo coi thường (...), mặc dầu gặp những nghịch cảnh đó mà văn xuôi của chúng ta trong nửa thế kỉ đã tiến những bước rất dài. So sánh văn của nhóm Đông Dương tạp chí với văn thời nay, ta tưởng có sự cách biệt hằng mấy thế kỉ, cách biệt hơn văn thế kỉ XVII với thế kỉ XX của Pháp, hoặc văn thế kỉ thứ VIII (đời Đường) với thế kỉ XIX (cuối Thanh) của Trung hoa.
Sự đột tiến đó do công lao của các nhà cầm bút tự tìm chữ, đặt chữ, áp dụng các cách hành văn của ngoại quốc rồi thí nghiệm trong tác phẩm của mình mà rán dung hòa cho văn được hợp với tính cách của Việt ngữ và không cách biệt quá với lời nói thông thường trong dân chúng”.
Hiện nay chúng ta có thể coi văn xuôi của ta đã trưởng thành rồi, nhưng Việt ngữ còn nghèo nàn, ngữ pháp còn kém uyển chuyển, chưa diễn hết được những tư tưởng mới, cảm xúc mới của phương Tây. Các nhà cầm bút còn phải tìm tòi, thí nghiệm trong một thời gian lâu nữa - vài ba chục năm - mà thành công mau hay chậm còn do trình độ kiến thức của họ và của dân chúng sớm bắt kịp được trào lưu thế giới hay không.

Trước thế chiến thứ nhì, các tạp chí của ta tiến đều đều từ hình thức đến nội dung: Nam Phong phong phú hơn Đông Dương tạp chí; Tri Tân có tính cách chuyên ôn cố; Phong Hóa, Ngày Nay trái lại có bộ mặt và xu hướng mới, muốn thực hiện một cuộc cải cách tiểu tư sản, đả phá hủ tục, đại gia đình mà giải phóng cá nhân, đề cao tự do; Thanh Nghị (và Thanh niên ở Nam) nghiêm trang hơn, phổ biến những tư tưởng dân chủ, kinh tế, giáo dục... Lại có riêng một tạp chí cho phụ nữ, khá có giá trị, tờ Phụ nữ Tân văn. Nhờ Hoàng Tích Chu (Hà Thành ngọ báo 1927) văn viết báo gọn hơn, mạnh hơn, có giọng chiến đấu hơn, không còn những bài xã luận lôi thôi, nhạt nhẽo nữa. Nhưng nổi tiếng nhất và ảnh hướng lớn nhất thì phải kể Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, có công về dịch thuật, biên khảo; lớp sau có Phong Hóa: Khái Hưng, Nhất Linh... sẽ xét ở dưới.
TIỂU THUYẾT TỪ 1925 ĐẾN NAY
Tiểu thuyết phát triển rất mạnh, mở đầu bằng phong trào lãng mạn, phát dương chủ nghĩa cá nhân.
Khi Tuyết hồng lệ sử của Từ Trẩm Á được dịch ra Việt ngữ, thanh niên nam nữ đua nhau đọc và có một số thiếu nữ vì tình duyên, đâm đầu xuống hồ Trúc Bạch (Hà Nội), làm xôn xao dư luận gần như thời Goethe xuất bản cuốn Werther. Truyện bi thảm hơn Werther nhiều, đầy nước mắt, chắc đã gây hại lớn cho thanh niên Trung Hoa nên về sau Từ Trẩm Á ân hận, tự trách mình:
”Nhi nữ hà quan thiên hạ sự,
Bất như thu lệ khấp thương sinh”.
(Tình của) Nhi nữ quan hệ gì tới việc thiên hạ?
Sao bằng gom lệ lại để khóc nhân dân.
Có thể Tương Phố và Đông Hồ cũng bị lôi cuốn trong đó mà viết những bài Giọt lệ thu, Linh Phượng kí.
Năm 1925 xuất hiện hai tiểu thuyết có giá trị: Tố Tâm và Quả dưa đỏ. Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách cũng là một truyện tình bi thảm, cũng nhiều câu sáo, thảnh thót, du dương, dễ câm, đáng được lưu lại vì đánh dấu một thời đại, ghi được phong tục, cách ăn mặc, ngôn ngữ, tình cảm của thanh niên nam nữ khi mới chịu ảnh hưởng của phương Tây. Quả dưa đỏ của nhà nho Nguyễn Trọng Thuật dựa vào một truyện trong Lĩnh Nam trích quái, có phong vị cổ, có ý răn đời, bố cục chặt chẽ, mà lạ thay cũng có vài đoạn tư tưởng rất lãng mạn.

Trong khi đó thì ở Nam, Hồ Biểu Chánh viết toàn những tiểu thuyết tả chân giới tư sản và nông dân, và có tính cách luân lí.
Bẵng đi bảy năm, tới khi tờ Phong Hoá ra đời (1932), tiểu thuyết lãng mạn tái hiện, lần này có hình thức mới hơn, nội dung cũng mới hơn, đầm đìa giọt lệ như Tố Tâm mà mơ mộng, đôi khi nên thơ. Tôi nhớ những năm đó các bạn nội trú của tôi ở trường Công chánh chuyền tay nhau đọc say mê những truyện Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên… trong tờ Phong Hoá. Văn của Khái Hưng, Nhất Linh mới mẻ, tự nhiên, nhẹ nhàng, tươi sáng hơn văn của Hoàng Ngọc Phách; cảm xúc, tư tưởng của họ cũng hợp với chúng tôi; họ tả cảnh, tả tình gọn mà khéo khiến độc giả - đa số thanh niên có tân học – mê những thiếu nữ thuỳ mị trong truyện, những cảnh nên thơ ở đồng quê, nhất là ở miền trung du như Vĩnh Yên, Phú Thọ và ghét những thói đài các rởm của giới quan quyền cũ, thói ỷ lại vào cha mẹ, tranh nhau hương hoả của tổ tiên, thói hiếp đáp nàng dâu, thói ham “đào mỏ” mà ép duyên trẻ… Họ nhắm một mục đích rõ rệt là đề cao tự do cá nhân, nhất là trong hôn nhân, đả phá chế độ đại gia đình; đó là một xu hướng của xã hội từ nông nghiệp chuyển qua kĩ nghệ, là tâm lí của thanh niên đã rời bỏ nông thôn mà ra thành thị học hành sinh sống. Lần lần tiểu thuyết của Nhất Linh có tính cách luận đề, ngày nay ít ai đọc, nhưng xét chung, nhóm Tự lực văn đoàn đã có công lưu lại cho ta những nét rất đúng, sâu sắc mà linh động về xã hội phong kiến và trưởng giả ở thời đó. Những truyện Gia đình, Thừa tự… là những tiểu thuyết phong tục rất có giá trị.
Họ còn gây được phong trào vui vẻ, trẻ trung: đổi mới y phục cho đẹp hơn, gọn hơn, tươi hơn (áo dài Lemur); yêu nghệ thuật, ca nhạc, nhảy đầm, thích các cuộc hội họp nam nữ, thanh niên hóa ra thành thực hơn, bạo dạn, hoạt bát, mạo hiểm, quan tâm tới những công tác xã hội, không tự giam trong phạm vi gia đình nữa. Phong trào đó cũng hợp với sự tiến hóa của xã hội, dĩ nhiên không tránh được cái hại thiếu kỉ luật, phóng túng. Cái gì quá mà chẳng hại, và huy chương nào chẳng có mặt trái? Năm 1952 hay 1953, một nhà văn khá có tên tuổi ở Sài Gòn viết báo mạt sát nhóm Tự Lực, tôi viết thư hỏi họ: ở vào giai đoạn 1930-1940, không qua giai đoạn cải cách tiểu tư sản đó thì làm sao bây giờ các ông hô hào tiến tới giai đoạn xã hội chủ nghĩa được. Họ ta không đáp 

Vào khoảng 1937, xuất hiện những tiểu thuyết có giá trị về nông dân của Trần Tiêu, Nam Cao, Bùi Hiển, Ngô Tất Tố... mà trong chương VII tôi đã nói qua. Những tiểu thuyết đó xuất hiện sau những tiểu thuyết về giới phong kiến, tiểu tư sản của nhóm Tự Lực là điều dễ hiểu: muốn viết về nông dân thì phải sống ở nông thôn; mà từ thượng cổ tới nay, thành thị vẫn dẫn đầu, dắt đường cho nông thôn; các tiểu thuyết gia tiểu tư sản ở thành thị viết về thành thị để mở đường rồi, những thanh niên có tài ở nông thôn như Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển mới noi theo mà tả phong tục nông thôn, tâm lí nông dân.
Cũng vào khoảng cuối những năm 1930, nổi lên phong trào phản kháng, tranh đấu của nhóm Hàn Thuyên (Trương Tửu. Nguyễn Đức Quỳnh) và vài nhà như Vũ Trọng Phụng, Lan Khai, Tam Lang, Nguyên Hồng. Họ bênh vực giới vô sản: Cơm thầy cơm cô, Tôi kéo xe, Lầm than, Bỉ vỏ… Những tác phẩm này viết không đều, nhiều cuốn hời hợt, vì tác giả - trừ Nguyên Hồng - không sống với giới vô sản, không hiểu sâu họ được.
Như vậy là đủ các giới trong xã hội đã xuất hiện trên tiểu thuyết trong khoảng 15 năm (1925-39). Tất cả những tiểu thuyết đó dù mang nhãn hiệu khác nhau: tâm lí, phong tục, trào phúng, tranh đấu, luận đề, lãng mạn, tả chân... đều ghi lại cho ta một cách trung thực nhiều hay ít, bề phải và bề trái của xã hội Việt Nam trong buổi giao thời từ chế độ nông nghiệp tiến lên chế độ tư bản; và đều đáng lưu lại cho hậu thế vì không có những tiểu thuyết đó thì con cháu chúng ta nhìn lui lại về đầu thế kỉ này sẽ như nhìn vào bóng tối, không biết cha ông họ sống ra sao, cảm xúc ra sao, suy nghĩ ra sao, hành động ra sao, chiến đấu ra sao, có công với hậu thế ra sao, đã truyền lại được gì?
THƠ MỚI
Đời sống và tập quán đã thay đổi: người ta học chữ Tây, ở nhà Tây, mặc áo Tây, dùng vải Tây, kim Tây, ô Tây (thay cái nón quai thao), khăn tua đen (thay khăn mỏ quạ), đi xe sắt (xe kéo bánh sắt), xe lửa, rồi bỏ kiểu áo tứ thân mà theo mốt Lemur, xem hát bóng, nhảy đầm, không ngâm Kiều, hát lí giao duyên nữa mà hát điệu Tây: “J'ai deux amours, mon pays et Paris”..., nếp suy tư, cảm xúc cũng thay đổi theo mà cách phô diễn cũng khác. Lưu Trọng Lư bảo: “... các cụ ta ưa nhìn màu đỏ choét; ta lại ưa màu xanh nhạt. Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì tiếng gà gáy đúng ngọ. Nhìn các cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi; ta thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ chỉ là hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình xa xôi... cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu...”
Lời nói “liều lĩnh” đó chỉ đúng một phần: cảm xúc của các cụ không khác chúng ta bao nhiêu, cũng nao nao vì tiếng gà gáy đúng ngọ, cũng thích nhìn các cô gái xinh xắn, ngây thơ, mà tình của các cụ cũng nhiều thứ lắm: tình duyên, tình hiệp, tình tự, tình câm, tình hóa, tình trinh, tình hào, tình linh, tình lụy, tình si, tình oán, tình ảo, tình nghi.... cứ coi tình sử của Trung hoa thì biết; mà phương Tây có bộ nào như bộ Liêu trai của phương Đông chưa? Khác nhất là ở điểm cảm xúc của các cụ tuy thâm mà trầm; các cụ quí sự trung hòa, nén lòng xuống, không cho nó bồng bột quá, và khi diễn thành thơ văn, các cụ dùng nghệ thuật ý tại ngôn ngoại, kín đáo mà hàm súc; lời phải tô chuốt, cô đọng, không trơn tuột như lời nói thường được.

Thanh niên giữa hai thế chiến chịu ảnh hưởng phương Tây, không ưa lối diễn tả đó, không chịu bó buộc, muốn phá tung luật thơ cổ, khuôn khổ thơ cổ, bắt chước lối phô diễn của phương Tây, cho rằng chỉ có lối đó mới tả được hết nỗi lòng của họ, phát triển được hết suy tư, ước vọng của họ. Do đó mà có phong trào thơ mới mà Hoài Thanh đã phân tích trong cuốn Thi nhân Việt Nam (1941). Phong trào đó là biến cố lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam từ trên một thế kỉ nay. Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Kí chỉ đánh dấu sự thay đổi chữ viết (bỏ chữ Nôm mà dùng chữ Quốc ngữ); thơ mới đánh dấu sự thay đổi lối phô diển, tức cả cảm quan và mĩ quan nữa.
Muốn thấy sự biến chuyển sâu xa đó trong tâm hồn thanh niên, tôi cho không gì bằng so sánh ba bài thơ cùng vịnh thu dưới đây:
THU
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa.
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.
THU ĐIẾU
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí.
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
ĐÂY MÙA THU TỚI
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh.
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò...
Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Bài đầu của bà Ngô Chi Lan, một nữ sĩ nổi tiếng giỏi thi ca, từ khúc, được Lê Thánh Tôn triệu vào cung dạy cung nhân, chỉ có 4 câu, 28 chữ mà tả đủ cả trời, nước, gió, chim (nhạn), hoa (sen), lá (phong), cả tiếng lá rụng nữa. Nhưng những nét đó toàn là những nét “ước định” (conventionnel) của Trung Hoa thời xưa, có nét không hợp với thu Việt Nam như “rừng phong lá rụng”, vì nước mình không có cây phong, cho nên chỉ có thể bảo thu đó là thu của Trung Hoa, không phải của Việt Nam. Hơn nữa, không thấy ý nghĩ, cảm xúc của tác giả vì ba chữ “cảnh tiêu sơ” cũng chỉ là một nét ước định thôi; thu thì cảnh bao giờ cũng tiêu sơ, ai tả thu bao giờ cũng ghi nét đó; nếu bảo đó là cảm xúc thì chỉ là cảm xúc chung của mọi người, không phải riêng của tác giả. Đã vậy, tác giả dùng những tiếng rất sáo như: gió vàng, giếng ngọc. Tóm lại tác giả lẩn tránh, không để mình hiện trong thơ. Không có cá nhân tác giả.
Bài giữa của Nguyễn Khuyến dùng 8 câu, tả nhiều chi tiết hơn mà chi tiết nào cũng có tính cách Việt Nam, nhất là hai câu 5-6: rõ ràng là thu ở nông thôn Bắc, không thể ở rừng núi, ở thành thị, cũng không thể ở nông thôn Nam được: vì mùa thu trong Nam là mùa mưa, mùa nước lụt, trời thường u ám mà nước luôn luôn đục. Tôi còn ngờ rằng cảnh cá đớp động dưới chân bèo ở Trung Hoa cũng không có.

Tác giả dùng toàn những tiếng Việt mà dùng rất đắc thế: nước trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí, sẽ đưa vèo, vắng teo. Ta lại thấy tác giả ngồi tựa gối buông (có sách chép là ôm) cần trong chiếc thuyền bé tẻo teo nữa. Thấy cả tính tình tác giả: kín đáo, ung dung, nhàn tản, đi câu mà không cốt được cá, chỉ cốt ngắm cảnh, (một cảnh thật đẹp, không tiêu sơ, vì ở quê ông, miền hạ du Bắc Việt, thu không tiêu sơ như ở Trung Hoa); có thể ông đương mong khách tới chơi nữa (ngõ trúc quanh co khách vắng teo).
Không có một chữ nào sáo hay cầu kì, toàn là tiếng Nôm cả. Tôi cho bài đó là bài vịnh thu hay nhất của mình thời trước.
Bài cuối của Xuân Diệu, không phải là bài tả thu hay nhất trong thơ mới. Tôi sở dĩ lựa, vì Xuân Diệu rất thiết tha, rạo rực, say đắm, đại biểu cho thanh niên thời đại của ông: không nhà thơ nào chịu ảnh hưởng đậm của thơ Pháp như ông.
Trong mắt các nhà thơ cũ thì bài Đây mùa thu tới rườm quá, nhiều chữ trùng điệp (điều đó kị trong thơ) như câu đầu đã “đứng chịu tang” thì tất buồn rồi, chữ “buồn” trong câu nhì hóa dư; câu ba tại sao lặp lại “mùa thu tới”? Rồi đã “nhành khô gầy”, lại “xương mong manh”. Ngoài ra có những chỗ Tây quá, các cụ cho là ngây ngô như “hơn một loài hoa”, “sắc đỏ rủa màu xanh”... Nhưng chính những chỗ đó, thanh niên thời 1935-1940 lại rất thích vì mới mẻ. Ba tiếng “chim bay đi”, các cụ chê là lời đàn bà, con nít, mà lại không ngâm được, tác giả không thuộc luật bằng trắc; nhưng phái mới lại khen ba âm bình bổng đó đi liền nhau gợi hình ảnh một đàn chim bay thành hàng trên trời mà Xuân Diệu không phải là không thuộc luật, ông đã dụng ý phá luật, chứng cứ là toàn bài, trừ ba chữ đó ra, còn đều giữ đúng luật cả.
Ta phải nhận rằng Xuân Diệu có những ý mới, hình ảnh lạ, những nhận xét đúng, như “Đã nghe rét mướt luồn trong gió, đã vắng người sang những chuyến đò”; và bốn câu sau thật buồn, riêng hai câu cuối vừa đẹp, vừa diễn tả một nỗi bâng khuâng, buồn vơ vẩn, không hề thấy trong thơ cũ.
Sau một thời gian bút chiến giữa hai phái thơ cũ và thơ mới, thơ mới thắng; phái mới hồn thơ dào dạt, đa số có tài, mỗi nhà một vẻ như Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Thâm Tâm, Bàng Bá Lân... làm cho thơ Việt rất thịnh một thời, như trăm hoa đua nở, chỉ trong mươi năm đuổi kịp được một trăm năm thơ Pháp, từ Lãng mạn đến Thi sơn (Parnasse), Tượng trưng. Nhưng khi Xuân Xanh bắt trước Mallarmé thì độc giả không theo nổi, chê là thơ “hủ nút”. Người ta lại càng chán hạng bất tài “vô bệnh thân ngâm”, chuyên làm thơ ủy mị “anh anh, em em”.
Kịch của phương Tây cũng được một số văn thi sĩ thí nghiệm, thành công ít nhiều như Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Vũ Hoàng Chương... nhưng ngành này không thịnh, chỉ có chút ảnh hưởng ở vài thành phố ngoài Bắc.
BIÊN KHẢO TRƯỚC NĂM 1945
Về ngành biên khảo dịch thuật, phái tân học cũng góp công được nhiều. Thời Nam Phong, phái cựu học nhận nhiệm vụ “bàn giao” cổ học lại cho phái tân học, dịch được Mạnh tử, Luận ngữ, ít thiên Liệt tử, Mặc tử, ít thơ văn Trung Hoa: cổ văn, Tình sử; giới thiệu Chiến Quốc sách, Tư Mã Quang; dịch vài bộ sách cổ của ta như Vũ trung tuỳ bút, Lĩnh Nam dật sử… Chỉ có Phan Kế Bính là soạn được một tập biên khảo: Việt Hán văn khảo nhưng sơ sài quá. Nên kể thêm các truyện Tàu như Đông Châu liệt quốc, Tam Quốc chí, Thuỷ hử…
Thật là một điều đáng ngạc nhiên: chính một nhà tân học, Trần Trọng Kim, lại âm thầm tiếp tục làm công việc bàn giao mà các nhà cựu học bỏ dở: bộ Nho giáo của ông (cuốn đầu xuất bản năm 1930) rất đầy đủ, chép lịch sử đạo Nho từ đời thượng cổ đến nhà Thanh (thêm một chương về Nho giáo ở Việt nam), được các nhà cựu học khen là rất quí, sáng sủa, tinh tế, ngay Phan Khôi cũng phải nhận là các nhà Nho không sao viết nổi.
Bộ sử Việt Nam đầu tiên bằng tiếng Việt cũng của Trần Trọng Kim; bộ văn phạm Việt Nam đầu tiên bằng tiếng Việt cũng do ông soạn. Người dịch nhiều thơ Đường nhất cũng lại là ông trong khi ông lánh mặt ở Singapore. Ông là học giả đáng làm gương cho lớp sau, là nhà biên khảo có công nhất, có uy tín nhất trong nửa đầu thế kỉ. Cùng với ông, có thể kể thêm Bùi Kỉ, người soạn cuốn Quốc văn cụ thể và hiệu đính, chú thích một số truyện bằng thơ Nôm của ta: Kiều, Trê cóc...
Khi thế chiến thứ nhì nổ ở châu Âu, văn học của ta chuyển hướng.
Không ai bảo ai, người đọc đều chán loại báo vui vẻ, trẻ trung, loại tiểu thuyết tình ái lãng mạn; mà người viết cũng chán không muốn viết các loại đó nữa.

Các báo có tính cách khảo cứu, phổ thông kiến thức, giáo dục như: Thanh Nghị, Tri Tân, Khoa Học, dù khô khan cũng bán khá chạy; và những nhà xuất bản Hàn Thuyên, Mai Lĩnh, Tân Việt cho ra những cuốn phổ thông kiến thức về sử (lịch sử thế giới), triết Tây (Bergson của Nguyễn Chí Thiệp), triết Đông (Lão tử, Mặc tử của Ngô Tất Tố), về thực nghiệp (của Lê văn Siêu).
Ai cũng hóa ra đăm chiêu, tự hỏi tương lai thế giới sẽ ra sao, nước nhà sẽ ra sao, và mỗi người phải làm gì, chuẩn bị ra sao...
Vậy là phong trào báo chỉ mới, tiểu thuyết và thơ mới thực sự chỉ phát triển mạnh trong khoảng tám chín năm, từ 1932 đến 1939 (không kể truyện Tố Tâm xuất hiện lẻ loi năm 1925) rồi ngưng lại, lùi bước; nhưng nó đã ồ ạt xâm chiếm tâm hồn thanh niên ở thành thị, thay đổi một xã hội, hào quang của nó rực rỡ, ảnh hướng của nó sâu, nó đánh dấu một giai đoạn chuyển mình của dân tộc.
PHONG HÓA
Trong hai tiết Tiểu thuyết từ 1925... và Thơ mới, tôi đã kể nhiều sự thay đổi trong nếp sống từ khi ta tiếp xúc với văn minh phương Tây. Sự thay đổi đó bắt đầu từ thập niên 20 (1920-1929), nhưng qua thập niên sau, từ khi có phong trào vui vẻ trẻ trung của nhóm Tự Lực, nó mới tiến nhanh, mà cũng chỉ thấy rõ ở các thành thị thôi, còn ở thôn quê thì người dân vẫn giữ cổ tục.
Thay đổi nhiều nhất là giới thanh niên nam nữ. Họ thích chủ nghĩa cá nhân, muốn thoát li gia đình, tự do sống theo ý mình, tự do kết hôn v.v... Nhưng vì tổ chức xã hội, tình hình kinh tế nước mình, họ vẫn phải sống nhờ gia đình, nên họ chỉ muốn tới mức nào đó thôi. Còn bậc cha mẹ hoặc vì thương con, hoặc vì tự xét không chống lại được trào lưu, nên cởi mở lần cho con, sau cùng cũng tự thay đổi một chút cho khỏi lạc hậu. Xã hội đó không bị xáo trộn lắm.
Trước kia, trong những gia đình nề nếp, con gái chỉ được học vài năm, biết đọc biết viết thì thôi, rồi lo việc bếp nước, may vá, săn sóc các em, chăm nom việc nhà; họ ít khi được ra ngoài một mình; y phục thì dài, rộng, che hết các đường cong của thân thể, màu sắc không lòe loẹt, quần chỉ dùng màu đen, răng nhuộm đen, tóc vấn khăn, để đuôi gà. Việc hôn nhân thì cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy.
Từ thập niên 30, đã nhiều gia đình cho con gái học nghề cô giáo, cô mụ, kĩ sư, dược sĩ, bác sĩ...; họ hội họp thường với bạn trai, đi xe đạp, rồi lái xe hơi, tập thể thao, chơi quần vợt, bơi ở hồ tắm, học đàn, ca, “nhảy đầm”. Y phục thì bó sát người, áo màu, quần trắng, răng trắng, tóc vấn tròn, sau cắt ngắn; họ đi coi hát bóng, cải lương, kịch, đá banh, đi một mình hay với bạn gái hoặc trai. Về hôn nhân, họ được phép tự quyết định, cha mẹ chỉ góp ý thôi.
Báo chí thỉnh thoảng cũng đăng tin một cặp nam nữ thất vọng về tình duyên, cùng nhau tự tử, tin con gái bỏ nhà theo trai, tin vợ xin li dị chồng, hoặc giết chồng... những chuyện đó thời xưa cũng có, và thời nào cũng ít, không đủ để kết tội một xã hội là “cương thường đã đảo ngược”. Xét chung, bọn chúng tôi thời đó ít người lố lăng, đa số đứng đắn, lễ độ, biết trọng cha mẹ, thầy học; một số có tư cách, lí tưởng nữa, và chế độ gia đình vẫn vững, xã hội vẫn ổn định. Phái nữ cũng đáng khen, lanh lẹn, tháo vát và tiến bộ hơn xưa: khi lập gia đình rồi thì biết hi sinh cho chồng con, nhất là trong cơn hoạn nạn.
Tóm lại, một số tục cổ đã bỏ, nhưng tinh thần đạo đức phương Đông còn giữ được; ảnh hưởng của Nho giáo vẫn ngấm ngầm tác động, để đến khi xã hội biến chuyển hoặc quốc gia lâm nguy thì nó dậy lên để cứu vớt dân tộc.

[1] Tết năm Bính Dần nhằm ngày 13-2-1926. (Goldfish)
[2] Trong một chương trên tôi đã nói năm 1930, chỉ một lớp ở trường Bưởi đã có hai bạn tôi là đảng viên.
[3] Trong bài “Sự ra đời của Đại học Đông Dương qua tài liệu lưu trữ”, Đ.T.D cho rằng trường Đại học Đông Dương được thành lập ngày 16/5/1906, tổ chức lễ khai giảng đầu tiên cuối tháng 11/1907; nhưng sau năm học đầu tiên kết thúc, trường đột ngột đóng cửa… (http://news.vnu.edu.vn:8080/). (Goldfish).   
[4] Có người bảo từ thời Sĩ Nhiếp (187-226). 
Chương XV
Thế Chiến Thứ Nhì
ĐỨC MẠNH LÊN – PHÁP THUA

Đầu năm 1938, khi nhà tôi có mang được bảy tám tháng, vợ chồng tôi không hiểu sao tin chắc sẽ sinh con trai và bàn tính với nhau đặt tên cho nó là Nhật Đức. Nhật Đức có nghĩa là đức của mặt trời và còn một nghĩa nữa là Nhật và Đức, hai dân tộc có tinh thần quật cường mạnh nhất thời đó.
Nhật chỉ sau 35 năm duy tân đã theo kịp Âu, Mĩ và năm 1905 đã thắng Nga, một nước lớn ở Âu châu, rửa nhục cho các giống da vàng bị giống da trắng ức hiếp, xâm chiếm đất đai, bóc lột; và các quốc gia lớn nhỏ từ Ấn Độ đến Phi Luật Tân có cảm tình ngay với Nhật, hăng hái muốn noi gương Nhật.
Còn Đức thì sau thế chiến thứ nhất, phải ký hiệp ước Versailles rất khắt khe: mất một phần thổ địa, mất hết các thuộc địa; không được phép có không quân; lục quân và hải quân bị rút xuống chỉ còn là lực lượng cảnh bị trong nước; lại phải bồi thường chiến phí rất nặng, tưởng không sao ngóc đầu lên nổi. Vậy mà từ năm 1925, Hitler khéo lợi dụng lòng phẫn uất của dân chúng, táo bạo đưa ra một đường lối cứu quốc để phục hồi địa vị đại cường của Đức ở châu Âu và trên thế giới (trong cuốn Mein Kampf: cuộc chiến đấu của tôi), được dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt, do đó nắm được chính quyền, xé bỏ hiệp ước Versailles, tổ chức lại quân đội, vừa tuyên truyền, dọa dẫm, vừa dùng ngoại giao, khiến Đức tới năm 1938, lại có cái khí thế lấn át các nước Trung Âu và cả Pháp ở Tây Âu nữa.
Lỗi ở các nước đồng minh ức hiếp dân tộc Đức quá trong hiệp ước Versailles; ở các nhà cầm quyền Pháp không đoàn kết, nhu nhược, không biết lo xa; nhưng cũng ở các nhà cầm quyền Anh nữa, làm ngơ cho Đức tổ chức lại quân đội, nhất là hải quân vì truyền thống ngoại giao của họ là giữ sự quân bình lực lượng ở lục địa Tây Âu, không muốn cho Đức yếu quá, sợ Pháp sẽ nuốt Đức mà hóa vô địch châu Âu. Anh cũng không muốn cho Đức mạnh quá, nhưng khi đã lỡ cho Đức lập lại quân đội, thì lực lượng, quân số, võ khí của họ tiến rất mau, ngăn họ lại không kịp.
Vậy khi Đức đã chiếm được Áo, muốn nuốt luôn Tiệp Khắc, Anh và Pháp nhượng bộ Đức, bỏ rơi Tiệp, tưởng như vậy Hitler sẽ thỏa mãn mà châu Âu được yên ổn. Không ngờ năm 1939, Đức kí với Nga một hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau; rồi đem quân vô chiếm Ba Lan. Lần này Anh Pháp không nhượng bộ nữa, thế chiến thứ nhì nổ (tháng 9 năm 1939).
Hết thảy gia đình bên tôi và bên nhà tôi (mà tôi đoán đa số giới trí thức Việt Nam cũng vậy) thấy Đức mạnh lên thì mừng vì Đức là kẻ thù của Pháp; và khi Anh, Pháp tuyên chiến với Đức thì ai cũng thầm mong cho Đức thắng, nhưng chưa dám chắc vì Đức chỉ có một mình; các cường quốc Nga, Mĩ, Ý, Nhật đều đứng ngoài coi. Chúng tôi còn hơi lo nữa: vật giá đã lần lần tăng lên, đời sống sẽ khó khăn. Tôi còn nhớ, sau khi chiến tranh nổ được độ nửa tháng, một buổi chiều đi lang thang ở chợ cũ, thấy giá các đồ nhập cảng đã tăng lên gấp rưỡi hay gấp hai, tôi mua một con dao nhíp (canif) - trong Nam gọi là con dao con chó – lưỡi thép, vỏ đồng, để gọt bút chì, rọc và xén giấy mà người Huê kiều chủ quán bảo là của Đức. Con dao đó là vật duy nhất tôi còn giữ được, sau bốn chục năm, nay lưỡi đó đã mòn gần hết.

Pháp rất tin rằng chiến lũy Maginot ở phía Bắc ngăn được Đức, nên đưa quân lên đó, không ngờ chờ hoài không thấy gì cả; và thình lình tháng 5-1940, Đức không kể gì đến sự trung lập của Hòa Lan, Bỉ, đi vòng chiến lũy, ồ ạt xâm lấn hai nước trên rồi tiến như vũ như bão vào đất Pháp, chọc thủng Sedan, vượt sông Meuse. Liên quân Anh Pháp không cự nổi, rút lui.
Lúc này chúng tôi mừng rỡ: Pháp sẽ thua. Một hôm viên kĩ sư sở tôi bảo một họa viên phóng lại một bản đồ phía Bắc nước Pháp tới ngang Reims, tôi bảo ông ta: “Cũng một công, sao ông không bảo phóng thêm xuống khởi Paris đi?” Ông ta ngó tôi, đáp: “Chúng không tới Paris được đâu”. Tôi nghĩ bụng: “Để coi”.
Ngày 14 tháng 6 Paris bỏ ngỏ cho Đức vô. Dân Paris tản cư trong cảnh hỗn độn không thể tả. Chưa bao giờ Pháp thua một cách mau chóng, nhục nhã như vậy. Paul Reynaud từ chức, thống chế Pétain năm đó đã 84 tuổi, đứng ra lập nội các mới, ngày 17-6 xin đình chiến. Nước Pháp bị chia đôi, miền Bắc bị Đức chiếm, miền Nam gọi là “miền tự do” do Pétain làm quốc trưởng, thành lập chính phủ Vichy.
Ngay ngày hôm sau 18 tháng 6, tướng De Gaulle ở Londres hô hào dân Pháp tiếp tục cuộc kháng chiến; và lần lần thành lập được “nước Pháp tự do”.
ĐÔNG DƯƠNG TRONG ĐẦU CHIẾN TRANH
Pháp thua, những người Việt yêu nước mừng lắm và hi vọng lần này có thể gỡ ách của Pháp được. Một nhật báo ở Sài Gòn đăng tin không biết có phải là trào phúng không: ở một tỉnh nọ miền Hậu Giang, một buổi tối, vài ba thanh niên lái xe đạp đi chơi, khi xuống một dốc cầu, một thanh niên bỗng la lớn: “Đức thắng rồi, tụi bay ơi!”' Một tên lính gác cầu bắt lại; thanh niên đó ngạc nhiên hỏi: “Tôi làm gì mà bắt tôi?”
- “Tại anh la Đức thắng”
- “Thì thắng của tôi đức đây nè.”
Tên lính cúi xuống coi cái thắng (cái “phanh” để hãm xe), thấy nó đứt thật, tẽn (mắc cỡ) lính gác cho thanh niên đó đi. Một ít tay sai của Pháp còn quyến luyến với chủ như chú lính đó.
Ảnh hướng thứ nhất tới Việt Nam là Nhật, ngay từ ngày 19 tháng 6 đã đưa tối hậu thư cho chính quyền Pháp ở Đông Dương buộc phải đóng cửa biên giới Việt Nam-Trung Hoa, không cho chở xăng và một số dụng cụ bằng đường xe lửa qua Trung Hoa nữa. Lúc đó Nhật đương đánh nhau với Trung Hoa và đã chiếm được gần hết các thành phố lớn ở duyên hải từ Bắc tới Nam Trung Hoa. Tướng Catroux, toàn quyền Đông Dương chịu đóng biên giới nhưng đòi phải có một thỏa hiệp rõ ràng giữa Pháp và Nhật; và trong khi chờ đợi, ông ta vẫn liên lạc với Anh ở Singapour, hi vọng nhận được khí giới của Anh, Mĩ. Chính phủ Vichy cách chức ông, đưa Hải quân Đề đốc Decoux lên thay, và ít bữa sau Pháp kí hoà ước với Nhật.
Hai bên thương thuyết với nhau: Nhật chịu nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, mà Pháp chịu cho Nhật được nhiều dễ dàng về quân sự ở Bắc Việt để Nhật giải quyết cho xong chiến tranh với Trung Hoa. Không đợi kết quả cuộc thương thuyết, quân đội Nhật trong đó có một số nhà yêu nước Việt Nam, đánh phá Lạng sơn và một số đồn ở biên giới. Cả hai bên tổn thất nặng (tháng 9-1940). Hiệp ước Pháp Nhật kí rồi, việc đó êm.
Cũng vào khoảng đó, Thái Lan tấn công để đòi lại vài tỉnh: Battambang, Siemreap... Pháp đưa quân lên chống cự. Thái được Nhật ủng hộ, Pháp phải nhượng cho Thái ba tỉnh ở Miên và hai tỉnh ở Lào[1]. Ở Nam Việt đảng Cộng sản nổi lên nhiều nơi như Tam Bình, Vũng Liêm, Xoài Hột... bị Pháp đàn áp tàn nhẫn.
Tháng 7 năm sau (1941) Nhật lại buộc Pháp phải để cho họ dùng một số sân bay, đổ bộ ở Sài Gòn, Cam Ranh. Pháp phải nhượng bộ nữa. Lúc đó tôi nghỉ phép, đi thăm cảnh Nha Trang - Tuy Hòa - Qui Nhơn, vừa về tới nhà ở Khánh Hội thì được lệnh phải dọn đi ở chỗ khác nội trong 48 giờ, vì gần trọn khu bến tàu ở Khánh Hội để cho quân Nhật đóng. Gia đình tôi phải đi ở nhờ một người bà con một hai ngày mới kiếm được một căn phố chật hẹp ở đường Monceau (sau đổi là Huỳnh Tịnh Của)
Ngày 7-12-1941, Nhật thình lình tấn công Pearl Harbour (Trân Châu cảng), ở quần đảo Hawai; Mĩ bị thiệt hại nặng[2]. Ba ngày sau, Nhật lại đánh đắm hai hàng không mẫu hạm lớn nhất của Anh ở ngoài khơi Mã Lai. Tin đó làm cho người Việt nào cũng phấn khởi, ảnh hưởng lớn hơn vụ Nhật thắng hải quân Nga năm 1905 nhiều. Lần này Nhật thắng được hai cường quốc bực nhất Mĩ, Anh; chỉ trong một tháng lần lần chiếm hết các quần đảo lớn nhỏ ở Thái Bình Dương (trừ Úc), Thái Lan, Miến Điện, ngấp nghé cả Ấn Độ nữa. Đông Dương tuy còn thuộc Pháp nhưng đã ở trong tay họ rồi. Chương trình Đại Đông Á của họ đã gần thực hiện được.
Họ đặt nhiều cơ sở ở Việt Nam, nhiều người Việt học tiếng Nhật, làm việc cho họ - hai người anh con bác Ba tôi, Tân Phương và Việt Châu, làm sở Thông tin Domei của họ. Lính họ đi nghênh ngang ngoài đường, lùn tịt mà gươm dài sát đất. Pháp phải cung cấp cho họ đủ thứ: thực phẩm, than đá, xi măng... Và nhân dân thì chịu thiếu đủ thứ, nhất là vải và thuốc men. Năm 1944, một số nông dân ở Rạch Giá phải ở trần, chỉ có mỗi chiếc quần cụt bằng bố tời. Thuốc Tây thì kí ninh cũng thiếu, mà thuốc Bắc thì những vị hoàng cầm, hoàng bá đều là thuốc giả. Giấy báo và giấy viết như tôi đã nói, vừa đen vừa xấu, in sách phải dùng giấy bản làng Bưởi. Miền Nam may mắn có đủ gạo ăn, miền Bắc đầu năm 1945 có hàng triệu người chết đói vì chính sách thu lúa tàn nhẫn của Pháp và Nhật, và vì đường giao thông nghẽn, không chở gạo trong Nam ra cứu đồng bào ngoài đó được.

Năm 1939, một lượng vàng giá khoảng 160 đồng, đầu năm 1945 giá trên 1.000 đồng; đồng bạc bị phá giá gấp 6 lần; đời sống rất khó khăn. Vậy là từ năm 1930 tới năm 1945, trong 15, 16 năm, hết nạn kinh tế khủng hoảng, dân mới dễ thở được độ 5 năm (1935-1939) thì lại bị nạn chiến tranh. Công việc kiến thiết, khai hoang, phát triển công nghiệp, từ 1920 đến 1945 mới bắt đầu thực hiện được trong khoảng 15 năm (từ 1920 đến 1930, từ 1935 đến 1939) đã hai lần bị ngưng trệ, mỗi lần khoảng 5 năm.
NGƯỜI VIỆT YÊU NƯỚC – CÁC GIÁO PHÁI Ở NAM
Phải thú thực rằng thời đó chúng tôi cũng như hầu hết mọi người, không biết gì về tình hình thế giới cả. Trong nước có lẽ chỉ các tổ chức cách mạng là có máy thâu thanh, còn thường dân nếu có - số này hiếm lắm, cả sở tôi không người nào có - thì cũng phải nộp cho chính quyền Pháp, hoặc cất giấu đi, không dám dùng, thành thử ai cũng chỉ biết những tin tức mà Nhật và Pháp muốn cho biết thôi. Tất nhiên Nhật chỉ loan những tin lợi cho Nhật, Pháp cũng chỉ thông báo những tin của chính phủ Vichy; tất cả những tin đó đều một chiều, thiếu thốn, nếu không sai.
Vì vậy chúng tôi không biết Hitler tàn sát hằng triệu dân Do Thái ra sao, Mĩ mạnh ra sao và từ cuối 1942, Đức yếu ra sao.
Chúng tôi được nghe nói Nhật rất tàn nhẫn với thuộc địa của họ (Triều Tiên, Mông Cổ, Mãn Châu), chẳng hạn biết ba nhà phải dùng chung một con dao phay (sợ dân thuộc địa dùng dao mà nổi loạn chăng?). Một nhà văn Việt Nam – Nguyễn Vĩ - viết cuốn Kẻ thù là Nhật Bản, nhưng cuốn đó không được phổ biến trong thời chiến tranh, nên nhiều người không được đọc.
Mà chúng tôi cũng không hề tính xa: hết chiến tranh, nếu Nhật Bản, Đức mà thắng thì họ có cho dân tộc mình được chút nào hay không, hay chính sách thực dân của họ còn tàn khốc hơn của Anh, Pháp nữa?
Chúng tôi chỉ biết mỗi một điều là họ thù địch với Pháp nên mong nhờ họ gỡ cho cái ách của Pháp đã, rồi ra sao thì sau sẽ hay. Tôi không làm chính trị, chỉ có lòng yêu nước, không muốn một nước nào chiếm giang sơn của mình, tước hết chủ quyền của mình, bắt mình làm nô lệ:
“Nam quốc sơn hà” thì phải “Nam tộc cư”.
Đó là tâm lí của mọi người Việt Nam, trừ một số Việt gian, bất kì trong giới nào. “Dù bị đô hộ một trăm năm, một ngàn năm, dân Việt Nam vẫn còn tinh thần Việt Nam, vẫn không chịu thừa nhận chính quyền ngoại nhân. Chính quyền ngoại nhân bao giờ cũng chỉ như một miếng da “cấy” vào một cơ thế khác, thế nào rồi cũng bị đẩy ra (...). Cứ xét các ông vua triều Nguyễn được Pháp đưa lên thì biết: ông nào có tư cách cũng chỉ ít thăng là chống lại họ, còn ông nào ngồi lâu được thì dân không thèm biết tới”. (Cụ Phan và lòng dân – Bài đã dẫn).
Nước nước nào giúp chúng tôi lật đổ Pháp, đuổi Pháp đi là chúng tôi mang ơn, mặc dầu chúng tôi biết rằng nhờ một thực dân đuổi một thực dân thì không khác gì “tiền môn cự hổ, hậu môn tiến lang”[3] (của trước đuổi con cọp mà cửa sau rước con chó sói vào) như cụ Phan Chu Trinh và các cụ trong Đông Kinh nghĩa thục nói; biết rằng trên thế giới không có một chính phủ nào nhân từ cả, chỉ có cá nhân tốt thôi, mà người nào dù tốt mà làm chính trị thì cũng phải bỏ lòng công bằng, nhân ái đi mà chỉ nghĩ cái lợi cho quốc gia. Khi cái lợi của quốc gia bắt buộc thì họ cũng phải nuốt ngay lời hứa mà phản bạn như Nhật tháng 9 năm 1940 sau khi kí hiệp ước với Pháp, được Pháp nhường cho một chút quyền lợi ở Đông Dương rồi, liền để cho Pháp tàn sát các nhà cách mạng Việt Nam đã nghe lời họ, theo họ đánh phá các đồn ở Lạng Sơn.
Chính sách của Nhật lúc đó là cho Pháp tạm nắm chủ quyền ở Đông Dương, miễn Decoux ngoan ngoãn nghe lời, Nhật đòi gì cũng sẵn sàng cung cấp; như vậy Nhật được rảnh tay đối phó với Mĩ, Anh ở Thái Bình Dương. Cho nên khi Pháp thẳng tay đàn áp đảng Cộng sản Đông Dương, họ làm thinh, còn thích là khác nữa.
Đối với Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Phục quốc hội của Cường Để, họ cũng không giúp đỡ gì, và cứ hẹn lần, bắt phải chờ thời. Khi thế chiến phát, ở Nam, hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo cũng nổi lên làm chính trị.
Mới đầu Cao Đài do Lê Văn Trung, một viên Hội đồng quản hạt thành lập, chỉ hoạt động về tôn giáo, thờ chung Phật, Lão, Khổng, Ki tô, thêm cả Lí Bạch, Victor Hugo nữa, chỉ thiếu Mohamad. Họ dùng cách cầu cơ để truyền bá tín ngưỡng, khéo tổ chức, đặt ra các chức sắc, có lễ phục riêng, xây cất được nhiều thánh thất cùng một kiểu kiến trúc. Thánh thất chính ở Tây Ninh. Sau một viên đốc phủ sứ ở Bến Tre lập một giáo phái riêng, gọi là Cao Đài Bến Tre, nhưng không phát triển bằng Cao Đài Tây Ninh.
Năm 1934, Phạm Công Tắc lên thay Lê Văn Trung lúc đó đã chết và hướng về chính trị; tới năm 1939, Cao Đài thành một đảng chính trị mạnh có khoảng nửa triệu tín đồ và mỗi ngày mỗi thân Nhật hơn, ủng hộ Cường Để.
Hòa Hảo xuất hiện sau Cao Đài. Mới đầu Huỳnh Phú Sổ cũng chỉ là một ông “đạo” như người ta thường thấy ở miền Tây, nhưng thông minh hơn, có tư cách hơn. Chỉ là một nông dân học hết lớp ba ở trường làng Hòa Hảo (quận Tân Châu - Châu Đốc) mà năm 1939 (21 tuổi ta) bỗng trị bệnh bằng nước lã, lá cây, được nhiều người tin, lại thêm có tài làm thơ lục bát, giọng rất mộc mạc, ý nghĩa không sâu sắc, nhưng làm rất mau. Bài thơ nào cũng có ý răn dời, khuyên hiếu nghĩa, kính Phật; nhiều người xa lại xem, rất phục. Rồi lại làm những bài “Sấm giảng” có giọng chính trị, tiên tri, báo trước rằng sắp “đổi đời” và sẽ có một vị “vương” toàn đức toàn trí ra đời ở miền Thất Sơn làm vua ở Việt Nam, và đưa dân tộc tới vinh quang. Việt Nam sẽ thành một nước văn minh nhất thế giới. Tiếng tăm của ông lần lần lan khắp các tỉnh miền Tây, nơi mà tín đồ nhiều nhất, rồi tới những tỉnh khác ở Nam, có lẽ cũng đông gần bằng tín đồ Cao Đài. Người ta đoán phỏng được 500.000 người theo hẳn, còn số có cảm tình thì tới cả triệu.
Giáo phái đó trước 1950 không có tổ chức gì cả (sau năm 1964 mới tổ chức mạnh), không có một “thánh thất” như Cao Đài, ai theo thì cứ tu tại nhà, tụng “giảng” của “Thầy” tức những bài thơ lục bát của Huỳnh Phú Sổ, và có thể căng một tấm vải rộng màu nâu, gọi là “trần điều” gần nóc nhà, trên bàn thờ Phật. Họ theo đạo Phật mà giản dị hóa cách tu, tụng niệm, ăn chay, chú trọng đến đạo làm người, nhất là đạo Hiếu, Nghĩa.
Không có chức sắc, chung quanh giáo chủ chỉ có một số tín đồ thân tín, mới đầu là nông dân, sau thêm một số người có học: một luật sư, vài kinh lí, kĩ sư, bác sĩ. Những người này rất phục Huỳnh Phú Sổ mà họ gọi là “Thầy” (Thầy Tư) vì họ tin rằng thầy là hậu thân của Phật Thầy Tây An ở Châu Đốc thời xưa (Phật Thầy có tiên là Đoàn Minh Huyên, hiện còn mộ ở Núi Sam), hoặc được một thần linh nào nhập vào nên không học mà xuất khẩu thành thi.
Nhà thầy ở làng Hòa Hảo, nhưng từ khi nổi danh, thầy thường đi nơi này nơi khác thuyết giáo và được đệ tử đưa đón long trọng, mời về nhà để hầu hạ.
Thầy không có một đường lối, một chương trình chính trị, mà đệ tử cũng không có ai là chính khách, lập nổi một chương trình hoạt động. Không gọi là một tổ chức chính trị được. Nhưng cũng như mọi người có tinh thần quốc gia, thầy muốn đuổi Tây, mà tín đồ của thầy đông, coi thầy như thần thánh, thầy bảo gì cũng nghe, nên người Nhật để ý tới giáo phái Hòa Hảo có phần hơn giáo phái Cao Đài vì giáo phái Hòa Hảo có tính cách nông dân cuồng tín.
Dĩ nhiên chính quyền Pháp thấy hai giáo phái đó có thể gây rối, nên năm 1941, bắt Phạm Công Tắc đày đi quần đảo Comores thuộc Madagascar trên Ấn Độ Dương.
Còn Huỳnh Phú Sổ thì cũng năm đó, họ cho vào nhà thương điên ở Chợ Quán, gọi thầy là “bonze fou” (nhà sư điên), sau đưa xuống an trí ở Bạc Liêu. Ở đây thầy lại có cơ hội thu hút một số đông tín đồ nữa. Năm 1942, Pháp thấy vậy tính đày thầy qua Lào để thầy hết thuyết giáo được vì khác ngôn ngữ, nhưng chưa kịp thi hành thì hiến binh Nhật bắt cóc thầy đem về Sài Gòn, cho thầy ở một biệt thự gần Sở Hiến binh của họ, Pháp phản kháng nhưng vô hiệu.
Nhật cũng cứu vài người khác có tinh thần quốc gia bị Pháp nghi ngờ như Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc ở Bắc, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân ở Nam đưa qua Singapour mà họ gọi là Chiêu Nam đảo, tính sau này có dịp thì sẽ dùng. Còn các nhà cách mạng trong nhóm Đệ tứ quốc tế như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm đã bị nhốt ở Côn Đảo từ đầu thế chiến.
Qua năm 1944, Đức không ngóc đầu lên được nữa; tháng 6 năm 1944 Đồng minh đổ bộ lên bờ biển Normandie của Pháp, rồi Paris được giải phóng, De Gaulle trở về Pháp.
Tháng 5 năm 1945 Hitler tự tử. Chiến tranh kết liễu ở châu Âu.
Ở Thái Bình Dương, Nhật rất lúng túng, lo lắng. Chính phủ Vichy đã không còn, Pháp tự do đã đứng về phe thắng, Anh, Mĩ đã tấn công lấy lại các đảo trên Thái Bình Dương, cả Phi Luật Tân nữa, thế nào Đồng minh cũng đổ bộ lên Đông Dương, và người Pháp ở Đông Dương cũng đương tổ chức kháng chiến để tiếp ứng quân Đồng minh. Nhật thấy tình thế nguy kịch rồi, phải lật Decoux, đánh Pháp để nắm hết quyền ở Đông Dương mà chống cự với Đồng Minh, do đó có cuộc đảo chính chớp nhoáng đêm mùng 9 tháng 3 năm 1945.
NHẬT LẬT ĐỔ PHÁP ĐÊM 9-3-1945
Ở Sài Gòn, biến cố xảy ra thật đột ngột, chính người Pháp cũng không ngờ. Tối hôm đó, đường tôi ở cũng yên tĩnh như mọi ngày; sáng hôm sau dậy, trên đường lại sở, không thấy có gì khác - hoặc giả có mà không quan trọng, lâu quá, tôi quên rồi chăng - tới sở mới biết là Nhật đã đảo chánh. Ai cũng ngạc nhiên, nở nụ cười, nhưng vui tưng bừng thì hình như không. Tại cuộc đảo chánh đó đợi lâu quá rồi, bây giờ đã quá trễ? Tôi đoán được tình hình Nhật đã nguy mà mình sẽ bị họ lôi cuốn vào chiến tranh lúc gần tàn rồi chăng? Ai cũng tự hỏi tương lai sẽ ra sao?
Báo chí cho hay 8 giờ tối hôm 9-3, đại sứ Nhật ở Sài Gòn đưa tối hậu thư cho Decoux buộc Pháp phải đặt lực lượng quân sự Pháp ở Đông Dương dưới sự chỉ huy của họ; Decoux trả lời có ý “hoãn binh”, Nhật ra tay liền. Nhờ tổ chức tỉ mỉ từ trước, họ làm chủ tình hình Nam Kì rất mau. Ô Huế, Hà Nội, Pháp chống cự được vài giờ rồi cũng phải đầu hàng. Ở Lạng Sơn, họ chống cự được mấy ngày, sau bị Nhật tàn sát.
Tóm lại, chỉ trong không đầy 24 giờ, phần lớn quân đội Pháp bị loại, các tướng bị bắt làm tù binh. Ở Nam và Trung có một ít quân Pháp trốn được qua Lào, ở Bắc vài ngàn quân Pháp rút được qua Trung Hoa. Thường dân Pháp được yên ổn. Nhật muốn gây xáo trộn càng ít càng tốt, vì họ đương gặp nhiều khó khăn ở Thái Bình Dương, nên cho phép các nhà chuyên môn Pháp được tiếp tục làm việc, nhưng công chức Việt không muốn. Cả sở Thủy lợi của chúng tôi không còn người Pháp nào; một viên kĩ sư Nhật tạm nói được tiếng Pháp tới điều khiển sở, nhưng công việc ở trong tay chúng tôi hết, ông ta chỉ biết kí tên. Vả lại công việc cũng chẳng có gì.
Một vài kĩ sư Pháp mon men tới sớ, bị đánh. Tôi thấy trong cả khu công chánh gồm nhiều sở ở đường Pellerin[4], nơi tôi làm việc, chỉ có hai trường hợp hành hung công chức Pháp. Một kĩ sư có tiếng là gắt gao bị một nhân viên – hình như theo đạo Cao Đài - quất bằng gân bò, té, gãy xương sườn; và viên kĩ sư coi cả miền Nam từ phòng giấy xuống cầu thang, bị khoảng hai chục nhân viên chặn ở chân cầu thang; vài người nhảy tới thoi vào đầu, vào ngực; hắn can đảm, giữ được bình tĩnh, không chống đỡ, lách ra cửa, và anh em chúng tôi thấy vậy không nỡ đánh nữa. Nếu hắn chống cự lại, chắc bị đòn nặng hơn nhiều.
Còn ở ngoài đường thì tôi chỉ thấy mỗi một người Pháp già bị một thanh niên đánh, té nhào xuống đường. Tôi hơi thương hại.
Sau tôi nghe nói một số người Pháp ở miền Tây trốn vào bưng, không bị dân chúng đánh đập, giam giữ, tố cáo; có người còn giúp đỡ lương thực cho họ nữa. Ở Nam này như vậy, mà có lẽ ở Bắc và Trung cũng không khác mấy. Người Việt chúng ta chỉ muốn họ cút đi thôi, họ không chịu đi, để cho người Nhật tống cổ họ thì chúng ta lại thương hại họ. Có người bảo người Việt nào cũng có một ông Phật ở trong lòng, câu ấy đúng. 
NỘI CÁC TRẦN TRỌNG KIM – NHẬT ĐẦU HÀNG – VIỆT MINH ĐẢO CHÍNH - BẢO ĐẠI THOÁI VỊ
Thời cuộc biến chuyển rất mau, không ai ngờ nổi.
Chiều tối ngày 9-3, Bảo Đại đi săn về, bị Nhật giữ lại vì họ đương tấn công Pháp, và sáng hôm sau mới thả cho về cung và cho biết Việt Nam đã độc lập rồi. Trước kia ai cũng tưởng Nhật sẽ dùng Cường Để, nhưng Nhật có óc thực tế, không muốn gây nhiều xáo trộn lúc đó, nên dùng Bảo Đại.
Bảo Đại liền tuyên bố với thế giới và quốc dân rằng kể từ ngày 11-3, hiệp ước bảo hộ kí với Pháp bị hủy bỏ; Việt Nam lấy lại quyền độc lập và hợp tác với Nhật để xây dựng cho Đại Đông Á được thịnh vượng.
Cơ mật viện, đứng đầu là Phạm Quỳnh đồng loạt từ chức.
Lúc đó Dương Bá Trạc đã chết vì bệnh ở Singapour, xác được hỏa táng; Trần Trọng Kim đã qua Băng Cốc (Vọng Các), Nhật phái người đưa ông về Huế để gặp Bảo Đại.
Trong cuốn Một cơn gió bụi (Vĩnh Sơn - 1969), ông viết:
“Từ trước tôi không biết vua Bảo Đại là người như thế nào. Vì trong thời bảo hộ của nước Pháp, hình như ngài chán nản không làm gì cả, chỉ săn bắn và tập thể thao. Hôm mùng 7 tháng tư, tôi vào yết kiến thấy có vẻ trang nghiêm và nói những điều rất đứng đắn”.
Bảo Đại yêu cầu ông lập chính phủ. Ông chỉ muốn yên thân để dưỡng già, từ chối vì bệnh tật, không có đảng phái và không hoạt động về chính trị, đề nghị nên dùng Ngô Đình Diệm. Nhưng Ngô Đình Diệm từ chối – hay vì do gì không biết - nên Bảo Đại cố nài ông vì nghĩa vụ mà lo việc nước và ngày 17-4 ông đành đứng ra lập nội các gồm toàn các kĩ thuật gia đứng đắn, có tinh thần quốc gia như Trần Đình Nam, Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Hồ Tá Khanh, Vũ Ngọc Các, Trịnh Đình Thảo (Lưu Văn Lang không nhận). Trần Trọng Kim làm thủ tướng.
Nội các bắt tay ngay vào việc, sửa soạn một hiến pháp, thay đổi chính sách thuế khóa, lập các đoàn thanh niên tiền phong, đưa tiếng Pháp xuống hàng ngoại ngữ, ân xá các chính trị phạm không phải cộng sản, và tranh đấu để thống nhất ba kì, đòi quyền nội trị về mình... Nhật có lẽ thấy nguy tới nơi nên không làm khó gì nhiều, lần lần trả lại hết.
Khó khăn nhất là nạn đói ở Bắc do Pháp (trước kia) và Nhật thu lúa của nhân dân nhiều quá. Có cả triệu người chết đói, cảnh hỗn loạn lan tràn. Lợi dụng tình thế, đảng Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo, có tổ chức rất chu mật, có tinh thần hi sinh cao, giỏi tuyên truyền, khéo gợi lòng ái quốc của dân và lôi cuốn được nhiều nông dân, nắm được quyền nhiều làng ở Bắc Việt, nhất là miền thượng du. Ở Trung, Nam đảng đó cũng hoạt động kín đáo và mạnh.
Ai cũng biết Nhật cứ lùi hoài, mất hết đảo này tới đảo khác thì thế nào cũng thua. Anh, Mĩ lúc đó khí thế rất hăng, nhưng mọi người - và chính nội các Trần Trọng Kim cũng vậy - hi vọng rằng Nhật cầm cự được mươi tháng, một năm đủ cho mình lập lại được trật tự trong nước, thi hành được một số cải cách, cải thiện kinh tế, lập được một đạo quân phòng vệ. Tóm lại là dựng được một cơ sở cho nền độc lập, rồi khi Nhật thua, đồng minh tới thì mình cũng dễ ăn nói; Đồng minh vẫn tuyên bố cho tự do, không lẽ lại cướp nền độc lập của mình, lúc đó đã thành “sự đã rồi”, mà bắt mình nô lệ trở lại. Mà nếu như vậy chăng nữa thì có một chút khí giới, có một số quân đội đã luyện tập, toàn dân sẽ nổi dậy chống cự, chết thì chết.
Ngờ đâu nội các Trần Trọng Kim hoạt động chưa được bốn tháng thì ngày 6 tháng 8, Mĩ thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima, ba ngày sau thì trái bom thứ nhì xuống Nagasaki, chỉ trong một phút, cả một thành phố thành bình địa, non 100.000 người chết, khoảng 100.000 người bị thương, 200.000 người không có chỗ trú vì trong một vòng tròn bán kính là 15 km không còn một ngôi nhà nào đứng vững.
Ngày 15 tháng 8 Nhật phải đầu hàng không điều kiện.
Hai ngày sau, Bảo Đại ban chiếu “thiết tha hiệu triệu những nhà ái quốc hữu danh và ẩn danh (...) mau mau ra giúp trẫm để đối phó với thời cuộc”, còn riêng ông ta thì “ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”.
Cũng ngày đó (17-8), ở Hà Nội 20.000 người biểu tình trước Nhà hát Tây và các nhà lãnh đạo Việt Minh xuất hiện lần đầu tiên trước quần chúng, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới khắp thành phố. Ngày 20 tháng 8, Việt Minh chiếm được hết các cơ quan hành chánh ở Hà Nội. Ngày 21 tháng 8, Tổng hội sinh viên “đại biểu mọi đảng phái, mọi tầng lớp dân chúng” đưa kiến nghị, đánh điện tín yêu cầu Bảo Đại thoái vị để thành lập chính thể cộng hòa. Nội các Trần Trọng Kim tự xét không đương nổi đại sự, tự ý rút lui.
Ngày 25 tháng 8, ba đại diện của Việt Minh là Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tới Huế; Bảo Đại ban chiếu thoái vị, “khuyên tất cả các giai cấp, các đảng phải, cho đến cả người hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt để chính phủ dân chủ”, rồi giao bảo ấn cho đại diện Việt Minh.
Nhà Nguyễn chấm dứt sau non bốn thế kỉ, kể từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ ở Thuận Hóa, và từ hôm đó, hoàng đế Bảo Đại thành công dân Vĩnh Thụy.
Ở Nam, Việt Minh do Trần Văn Giàu cầm đầu, tiếp xúc với các đảng quốc gia như đảng Việt Nam độc lập của Hồ Văn Ngà, Thanh niên Tiền phong, một số trí thức, một số Cao Đài, Hòa Hảo, cả nhóm “Trốt kít”, La Lutte, tổ chức một cuộc biểu tình lớn ở Sài Gòn ngày 25 tháng 8.
Ngày 2-9 chính phủ Hồ Chí Minh tuyên bố ở Hà Nội Việt Nam độc lập, là một nước Cộng hòa dân chủ, và thành lập chính phủ lâm thời gồm: Chủ tịch Hồ Chí Minh và hơn một chục bộ trưởng: Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận, Phạm Văn Đồng, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Văn Tố...
Thế là lịch sử Việt Nam đã qua một chương khác.
VỢ CON TÔI TẢN CƯ - HUỲNH PHÚ SỔ VÀ VIỆT CHÂU
Trong một chương trên tôi đã nói đầu năm 1944, Hải Phòng thường bị phi cơ Đồng minh dội bom, cả một khu tan tành, đường xuyên Đông Dương bị cắt nhiều nơi. Mùa hè năm đó Sài Gòn bị bom ở gần chợ Bến Thành, gần Sở thú... Trận khủng khiếp nhất xảy ra tôi không nhớ vào tháng nào, trong khi tôi đi kinh lí miền Tây bằng một chiếc tàu của sở. Mười hai giờ trưa tàu mới rời bến, tối tới Mĩ Tho thì hay tin Sài Gòn bị bom, nhiều nơi cháy, từ Mĩ Tho nhìn về phía Sài Gòn thấy hừng hừng một góc trời. Tôi cho tàu đậu lại, sáng hôm sau đi chuyến xe lửa đầu tiên, tới Sài Gòn vào khoảng bảy giờ, hay tin khu Tân Định tôi ở không sao. Tôi ghé thăm nhà: vợ con vẫn bình tĩnh, rồi tới sở hỏi viên kĩ sư có nên tiếp tục cuộc kinh lí nữa không. Ông ta đáp: Thôi, để tàu dùng vào việc khác. Lần đó có lẽ giang cảng Sài Gòn bị thiệt hại khá nhiều.
Dân chúng Sài Gòn bắt đầu tản cư, và tôi cho vợ con mang theo tất cả những giấy tờ quan trọng xuống làng Long Điền, quận Giá Rai, Bạc Liêu, tạm lánh ở nhà người em gái có chồng làm điền chủ và xã trưởng Long Điền (Lúc đó ông nhạc tôi đã ra làm việc ở Tuy Hòa, không còn ở Giá Rai nữa).
Tôi ở lại nhà đường Huỳnh Tịnh Của với hai người anh, con bác Ba tôi: Tân Phương và Việt Châu, em trai tôi và một đứa nhỏ giúp việc.
Vậy là cháu Nhật Đức mới vào học được mấy tháng ở trường tiểu học Tân Định, đã phải nghỉ học một thời gian.
Cả hai anh tôi đều thông minh, có khiếu về văn: Tân Phương học ở Cần Thơ, rớt Tú tài Pháp I, rớt vì dở toán quá, nghỉ học vài năm rồi qua Hương Cảng. Thượng Hải chuyên học tiếng Anh hai năm, lúc đó làm thông dịch viên tiếng Anh cho sở Thông tin Domei của Nhật; rồi giới thiệu cho em là Việt Châu vô làm. Việt Châu chỉ có bằng tiểu học rồi về nhà học chữ Hán và Đông y.
Hai anh đều như tôi, rất mừng khi Nhật đổ bộ lên Sài Gòn, mong Nhật đuổi Pháp đi, nhưng không thích gì Nhật, không học tiếng Nhật. Tân Phương không làm chính trị; Việt Châu cũng vậy, nhưng Việt Châu không nhớ do một cơ hội nào được nghe thầy Tư Hòa Hảo (tức Huỳnh Phú Sổ) xuất khẩu thành thi, lấy làm lạ, nhất là thấy thầy như có một ma lực gì kì dị, thu phục được rất nhiều người, nên từ ngạc nhiên sinh ra ngưỡng mộ, xin được giáp mặt thầy. Tiếp xúc vài lần, hai bên đều quí nhau: thầy Tư khen thơ Việt Châu hay nhưng ủy mị, Việt Châu không khen thơ thầy Tư hay nhưng nhận là làm rất mau và có ý nghĩa răn đời. Mới đầu giao tình chỉ có tính cách vì thơ văn như vậy.
Tháng 7 năm 1945, Nhật nhờ thầy Tư đi khuyến nông ở khắp miền Tây. Thầy rủ Việt Châu đi theo. Đi khoảng một tuần về, Việt Châu bảo tôi: “Con người đó thật kì dị. Mỗi ngày ngồi xe hơi đi mấy trăm cây số, diễn thuyết hai ba nơi, mỗi nơi nói thao thao bất tuyệt trong hai ba giờ, ở giữa trời, trước một dám nông dân hằng ngàn người, ai nấy im phăng phắc như nuốt từng lời một, có kẻ khóc mướt nữa. Có lần đương diễn thuyết thì trời đổ mưa, thầy Tư vẫn nói mà dân chúng vẫn nghe dưới mưa. Lần nào diễn thuyết xong rồi cũng lên xe đi nơi khác liền, không thấy mệt nhọc, vẫn ung dung làm thơ. Mà ăn rất ít, toàn đồ chay. Sinh lực sao mà dồi dào thế. Sức lôi cuốn, thôi miên quần chúng sao mà mạnh thế”.
Tôi cũng rất ngạc nhiên, cho là một dị nhân, và tôi bỗng nhờ tới Raspoutine thời Nicolas II ở đầu thế kỉ, nhưng không nói ra. Raspoutine cũng có sức mạnh phi thường, cũng có tài thôi miên, nhưng đời sống bê bối, hình dáng ghê tởm, rõ là một nhân vật bất tường, còn Huỳnh Phú Sổ thì ai cũng khen là nghiêm trang, đạo đức.
Từ đó Việt Châu theo thầy Tư và trong nhóm trí thức chung quanh thầy, thầy quí Việt Châu hơn cả, vì anh tuy ít học nhưng văn nhã, hoạt bát, trong sạch, có nhiều lương tri. Họ thành một cặp tri kỉ.
Khoảng giữa tháng 8, thầy phái anh ra Hà Nội xem tình hình ngoài đó và tìm hiểu thực lực của Việt minh. Anh ra tới Huế, yết kiến Trần Trọng Kim cho biết tình hình trong Nam, rồi tiếp tục ra Bắc, mới tới Nghệ An (?) thì gặp Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận từ Hà Nội vào để nhận ấn của Bảo Đại, anh theo họ trở vô Huế, rồi về Sài Gòn.
Tôi biết vậy thôi, chứ con đường của ai người ấy đi, mà mọi việc anh thường quyết định rồi mới cho tôi hay.
Từ khi Nhật đảo chánh, việc sở không có gì, tôi vẫn tiếp tục viết lách, dịch thuật, nhìn xem Nhật hành động ra sao.
TỜ TÂN VIỆT NAM
Tháng 5 hay 6-1945, ông giám đốc nhà Tín Đức thư xã cho ra tờ tuần báo Tân Việt Nam, mời ông Nguyễn Văn Nho làm chủ bút. Ông Nho thuộc lớp sau Nguyễn Văn Tố, nổi tiếng học giỏi trong tỉnh Bắc Ninh, ở trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội ra, đã viết ít bài đăng báo Pháp, và lúc đó dạy Việt ngữ ở trường Pétrus Ký, có tiếng hơn giáo sư Phạm Thiều, được giáo giới quí, học sinh trọng.
Tờ Tân Việt Nam 16 trang, khổ như tờ Tri Tân[5], có tính cách chính trị (số nào cũng có một bài xã luận lời già giặn của Nguyễn Văn Nho), bán không chạy bằng tờ Thanh niên của Huỳnh Tấn Phát vì hơi đạo mạo, có ít cây viết trẻ, phần văn nghệ kém.
Tôi nghĩ nước nhà đã đi vào vận hội mới nên gởi ông Nho vài bài tuỳ bút, tiểu luận đã viết từ trước, ông đăng và mời tôi lại nhà nói chuyện ở đường Boresse[6] (?). Từ cửa bước vào là một phòng hẹp với một bàn viết, mấy cái ghế, cái tủ. Sách vở giấy tờ ngổn ngang trên mặt bàn, dưới chân bàn, thật lộn xộn. Ông Nho khoảng 50 tuổi, lúc đó có lẽ đã bắt đầu bệnh cùi, mặt có vết đỏ hơi sần sùi, nhất là ở tai. Ông thông minh, hoạt bát, cởi mở, hiểu đời và nhiều nhiệt tâm. Tôi nhớ ông viết một bài về việc cứu đói ở Bắc Việt, đại ý bảo những kẻ yếu quá rồi thì đành hy sinh họ đi, chỉ cứu những người còn còn có sức một chút, vì không thể nào cứu hết được mà nếu chia đều cho mỗi người thì rốt cuộc chẳng cứu được ai cả. Tôi phục ông có óc làm chính trị.
Một hôm, ông ngỏ ý muốn giao nhiệm vụ chủ bút cho tôi vì ông mắc nhiều công chuyện chính trị. Tôi còn suy nghĩ chưa kịp trả lời thì báo đình bản. Trước sau tôi đăng được 4-5 bài[7]. Đó là lần đầu tiên tôi ra mắt độc giả.
NGÀY 2 THÁNG 9 NĂM 1945 Ở SÀI GÒN – PHÁP TRỞ LẠI SÀI GÒN
Nhật đầu hàng rồi, Đồng minh để cho Anh giải giới Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vô (dưới Tourane một chút), Trung Hoa giải giới từ vĩ tuyến đó trở ra, như vậy là Mĩ, Nga, hai cường quốc lớn nhất không có ý muốn cho Pháp trở lại Việt Nam, nhưng De Gaulle vẫn muốn bám lấy cái thuộc địa cũ. Ngày 24-3-45 sẽ cắt Việt Nam làm ba nước: Bắc, Trung, Nam; hợp với Lào, Miên thành một liên hiệp Đông Dương mà người cầm đầu là một viên toàn quyền Pháp, ở dưới có một số bộ trưởng Pháp và bản xứ. Liên hiệp đó có một quốc hội cũng gồm Pháp và bản xứ; quốc hội chỉ có quyền bàn ngân sách và góp ý kiến về các đạo luật. Nghĩa là chưa được tự trị chứ đừng nói là độc lập; vẫn là chế độ cũ “cải thiện” được một chút xíu.
Cuối tháng 8, Pháp cho Sainteny nhảy dù xuống Bắc Việt, Cédile xuống Nam Việt; Cédile bị dân chúng bắt giam. Sau được thả, nhờ Nhật can thiệp.
Ngày 2-9 làm lễ tuyên ngôn độc lập, có một cuộc biểu tình rất lớn từ 2 giờ trưa ở Sài Gòn, sau nhà thờ Đức Bà, gồm 200.000 người, có đủ các đảng phái tham dự. Sự tổ chức kĩ lưỡng, mới đầu rất có trật tự, sau có vài phát súng ở gần nhà thờ bắn vào đám biểu tình, không trúng ai. Thanh niên Tiền phong túa ra lục xét những nhà tình nghi. Từ đó đoàn biểu tình hoá hỗn độn, mặc dù vẫn tiếp tục được một đoạn đường nữa rồi mới giải tán. Một ông bạn tôi sợ quá, run lẩy bẩy, tôi phải dìu ông về nhà. Nghe nói hôm đó có mấy người Pháp bị bắt hay giết. Vậy là kiều dân Pháp gây hấn trước.
Ngày 6 tháng 9, tướng Anh Gracey tới Sài Gòn để giải giới quân Nhật. Pháp mới nhờ Mĩ, Anh mà ngóc đầu lên khỏi gót sắt của Đức thì De Gaulle đã cho một trung đội quân viễn chinh núp sau lưng quân Anh để đổ bộ lên Sài Gòn, mưu tính giày xéo non sông ta. Gracey thả hết các tù binh Pháp (và Anh, Hòa Lan, Úc) ra. Cờ Tam tài lại hiện trên nóc Dinh Toàn quyền cũ.
Ngày 10 tháng 9, Trần Văn Giàu thấy tình hình khó khăn, lập một Ủy ban chấp hành gồm nhiều đảng phái: Cao Đài, Hòa Hảo, Đệ tứ Quốc tế v.v... Chủ tịch là Phạm Văn Bạch.
Cédile muốn hòa đàm, đưa ra đề nghị đúng như lời tuyên bố 24-3 của De Gaulle. Đại diện phái đoàn mình mỉm cười: “Hiện thời chúng tôi đã có nhiều hơn vậy rồi”.
Ngày 17 tháng 9, tờ Dân Chúng đăng lệnh tổng đình công của Ủy ban chấp hành để bao vây kinh tế Sài Gòn, lại dọa đốt Sài Gòn nữa.
Đêm 22 rạng 23 tháng 9, quân đội Pháp chiếm lại các công sở; thường dân Pháp thấy dễ dàng quá, càng khiêu khích thêm. Người mình phản ứng lại mạnh. Hằng trăm người, tối 24 tháng 9 bao vây khu Hérault của Pháp kiều ở Tân Định, giết 150 người Pháp, bắt đi 300 người khác, theo Philippe Devillers trong Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952.
Hai bên giao tranh một trận nhỏ, ngừng rồi lại đánh nữa. Không khí Sài Gòn thật khó thở. Khu tôi ở, nhà nào cũng đóng cửa và cũng có một cây tầm vông vạt nhọn. Pháp kiều, Ấn kiều không dám ló mặt ra.
Chúng tôi phải tích trữ gạo, một ít mè, hột vịt muối; rau cũng thiếu, phải đi nhổ rau càng cua ở bất kì chỗ nào: chân tường, lề đường, trên ống máng. Một vài người mạo hiểm ra ngoại ô mua được ít thịt, rau.
TÔI TỰ HỌC TIẾNG ANH
Trong thời gian non hai mươi ngày nằm nhà, để qua thì giờ, tôi nhờ anh Tân Phương chỉ cho tôi học tiếng Anh trong cuốn L’Anglais en 100 leçons (tôi không nhớ tên tác giả) mà tôi đã mua từ 1931, đã bắt đầu học được ít bài, rồi sau đó bỏ vì đậu vào trường Công chánh.
Loại sách đó thời tiền chiến rất thịnh hành, giúp những người tự học muốn thi Tú tài Pháp. Mỗi bài có độ ba chục từ mới, có chỉ cách đọc, sau mỗi bài học có một bài tập ngắn: dịch Anh ra Pháp hoặc ngược lại; cuối sách có bài Corrigé (sửa lại) của người làm sách, để người học coi mà tự sửa lấy bài của mình. Học như vậy chỉ ba bốn tháng có thể viết được ít câu tiếng Anh thông thường, ngắn, đọc được những loại dễ (loại cho trẻ em), nhưng nói thì người Anh không hiểu vì sai giọng; mà nghe người Anh nói mình cũng không hiểu. Vì vậy tôi chỉ nhờ anh Tân Phương chỉ cho tôi các đọc cho đúng giọng thôi.
Ngày nay phương pháp học đó đã lỗi thời. Học ngoại ngữ cốt nhất là nói được, cho nên ở Âu, Mĩ, người ta dùng phương pháp thính thị (audio-visuelle), chỉ sáu tháng là tạm nghe được, nói được, viết được một ngoại ngữ.
Trong đời tôi, đã hai lần rồi (1934 và 1945), hễ phải ở không trong một thời lâu thì tôi học ngoại ngữ. Cách đó là cách tốt nhất mà cũng ích lợi nhất để khỏi buồn. Và lần nào tôi học cũng chỉ cốt đọc được sách, không cần nói. Những môn tôi tự học để tiêu khiển đó, sau này giúp cho tôi rất nhiều trong việc viết sách. Một người nào đó đã nói: “Ai cũng biết sự ích lợi của những cái hữu ích mà không biết sự ích lợi của những cái vô ích”. Lời đó nhiều khi đúng.
GẶP HUỲNH PHÚ SỔ VÀ CỤ VÕ HOÀNH
Một hôm tôi nói với Việt Châu: “Hòa Hảo có một lực lượng khá lớn, nhưng thiếu tổ chức, thiếu chương trình hoạt động”. Chắc anh kể lại chuyện đó với thầy Tư Hoà Hảo, và ít ngày sau bảo tôi: “Chú có muốn gặp thầy Tư xem con người đó ra sao không? Nếu muốn thì hôm nào tôi dắt chú lại”. Tôi đáp: “Đi thì đi, cho biết”.
Và một buổi chiều, tôi theo Việt Châu lại chỗ thầy Tư ở, tại đường Michel[8]. Một biệt thự lầu mát mẻ, rộng rãi, có vườn. Tôi không nhớ có người gác không, nếu có thì cũng kín đáo. Chúng tôi đi thẳng vào phòng ngoài. Thầy Tư ngồi trên một cái sập giữa phòng, chúng tôi ngồi ghế, bên cái bàn kê ngay phía trước.
 
Rõ ràng là một thư sinh (lần đi thăm này trước khi Việt Châu đi Huế) trắng trẻo, mảnh khảnh, yếu đuối, xanh xao (Thầy bị di tinh, không sao trị được). Nét mặt đều đặn, cử chỉ, ngôn ngữ nhã nhặn. Nét đặc biệt nhất là cổ nhỏ, cao “ba ngấn”, với mớ tóc đen, mượt, lật ngược, xõa xuống vai.
Thầy bình tĩnh, ôn tồn hỏi tôi vài câu xã giao, cho tôi biết tình hình thời cuộc rồi bảo Việt Châu đưa tôi lên lầu, coi phòng người bắt tin ngoại quốc bằng máy một thu thanh. Tôi thấy trong nhà chỉ có vài đệ tử âm thầm đi đi lại lại để thầy sai bảo vặt. Thật tĩnh mịch.
Khi ra về, Việt Châu hỏi cảm tưởng của tôi, tôi đáp, cứ thực mà đáp: “Thành thực, nhã nhặn, hiền lành; không thấy được nhờ đâu mà thầy lôi cuốn, cảm hóa được quần chúng mạnh như anh và rất nhiều người nói. Biệt thự có vẻ của một cư sĩ, chứ không phải là trụ sở của một đảng cách mạng... Tôi thấy tướng thầy có vẻ yểu”.
Khoảng giữa tháng 9 hay đầu tháng 10, một hôm giữa trưa, Việt Châu về bảo tôi: “Tôi phải đi gấp bây giờ. Ở Cần Thơ có vụ lộn xộn giữa tín đồ Hòa Hảo và Việt Minh. Ủy ban nhân dân tỉnh đã bắt vài người trong đạo. Thầy Tư phái tôi xuống dưới đó dàn xếp”.
Tôi cho không là có gì quan trọng mà anh ấy đi thì tất dàn xếp xong vì được thầy Tư tin, tín đồ trọng, lại quen vài người Việt Minh (tháng trước anh đã ra Huế, gặp Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận; bạn thi sĩ của anh có vài người theo Việt Minh từ lâu như Trần Huyền Trân, Thâm Tâm ở Hà Nội), mà anh khéo ăn khéo nói, bình tĩnh nữa.
Anh hẹn ba bốn ngày thì về. Bốn năm ngày sau vẫn chưa về. Rồi một hôm tôi hay tin đương đêm có người đến bao vây chỗ ở của thầy Tư Hòa Hảo, thầy leo tường trốn thoát. Tôi nghĩ bụng vụ Cần Thơ không êm rồi, Việt Châu không biết ra sao đây.
Cũng vào khoảng đó, một buổi sáng đi lang thang ở khu Nguyễn Du hay Duy Tân ngày nay, tôi thấy cụ Võ Hoành ở trong một biệt thự bước ra, có mấy thanh niên đi hai bên hộ vệ. Cụ có vẻ đã yếu nhiều, không quắc thước như hồi Việt Châu và tôi lại thăm ở Sa Đéc khoảng mười năm trước (việc này tôi đã chép trong phụ lục III cuốn Đông Kinh nghĩa thục, in lần thứ ba). Tôi bùi ngùi: chí hướng của cụ và các đồng chí non bốn chục năm trước bây giờ mới đạt, nhưng cụ Huấn Quyền đã mất ở Bến Tre, cụ Dương Bá Trạc cũng đã mất ở Singapour, di hài hỏa thiêu đem về Sài Gòn làm lễ truy điệu ở vườn Tao Đàn, do Cao Đài tổ chức mấy tuần trước, chỉ còn cụ (Võ Hoành), cụ Phương Sơn, bác tôi, và cụ Nguyễn Hải Thần đều quá già rồi, hoạt động gì được nữa, mà nói gì chắc cũng chẳng ai nghe. Cụ lên một chiếc xe hơi với mấy thanh niên, tôi nhìn theo tới khi xe khuất ở góc đường.
Mấy năm sau tôi hay tin cụ tản cư vào đồng Tháp Mười và mất trong đó, không hiểu vì bệnh hay vì nguyên do gì khác. Rồi tới khoảng 1972, một bạn văn cho tôi hay có gặp một người con trai của cụ làm thợ nề ở Sài Gòn, nhà rất nghèo, tôi bảo dắt tôi lại chơi để tôi hỏi rõ về cái chết của cụ; bạn đó hứa rồi quên mất. Con cái các nhà Nho cách mạng hầu hết đều cực khổ cả.
Cuối tháng 9, một số dân Sài Gòn đã bắt đầu tản cư. Ngày 5-10 tướng Leclerc tới Sài Gòn để chỉ huy quân đội Pháp, chiếm lại miền Nam sau khi Gracey làm xong nhiệm vụ giải giới Nhật, rút quân về Anh. Tân Phương, em trai tôi và tôi cũng tính tản cư về Tân Thạnh, nhà bác Ba tôi.
Báo đăng tin Pháp đã thả bom xuống một cựu thuộc địa Pháp ở bán đảo Ả Rập (Syrie), trúng quốc hội, mấy trăm người chết. Như vậy thì Việt Nam không sao thoát nạn binh lửa, nhưng lúc đó tôi vẫn ngây thơ tin rằng Mĩ, Anh, Nga không để cho Pháp tái chiếm Việt Nam và chỉ trong một tháng là sẽ có hòa đàm. Cho nên chúng tôi cứ để nguyên đồ đạc, chỉ mang theo mỗi người một chiếc va li chứa ít quần áo thường, vài bản thảo, vài cuốn sách. Sáng ngày 10 tháng 10, chúng tôi khóa cửa lại, nhờ hàng xóm coi chừng giùm, rồi cùng nhau lên đường.

[1] Nhưng khi Nhật đầu hàng (1945) rồi, Pháp đòi lại hết.
[2] Có sách nói tổng thống Roosevelt biết trước vụ đó nhưng chịu hi sinh trọn hạm đội ở Pearl Habour để cho dân chúng phẩn uất, chịu cho ông đem quân qua châu Âu giúp Anh, Pháp (De Gaulle) chống với Đức, Ý.
[3] Câu này có người ghi là: Tiền môn cự hổ, hậu hộ tiến (hoặc nghinh) lang. (Goldfish).
[4] Sau đổi tên thành đường Pasteur. (Goldfish).
[5] Tức khổ 20 x 25cm. (Goldfish).
[6] Nay là đường Yersin. (Goldfish).
[7] Có lẽ tất cả các bài đó hoặc một vài bài trong số đó, cụ NHL dùng bút hiệu Lộc Đình. Năm 1980, khi ông Lê Phương Chi hỏi về bút hiệu này, cụ NHL cho biết: “(…) Bây giờ thì anh đã thấy bút danh Lộc Đình tôi dùng ký dưới một vài bài văn ngắn từ hồi trẻ…” (trích trong bài Tâm tình học giả Nguyễn Hiến Lê của Lê Phương Chi). (Goldfish).
[8] Bây giờ là đường Phùng Khắc Khoan, quận I.

PHẦN III - Chương XVI
Trong Chiến Tranh Việt – Pháp (1945-1954)
Tản Cư Về Tân Thạnh
Hôm đó chúng tôi rời căn nhà 50 đường Monceau, có ngờ đâu tám năm sau mới trở lại.
Trời trong trẻo, mát mẻ. Trên đường xuống Phú Nhuận, có nhiều nhà treo cờ thanh thiên bạch nhật: hôm đó là ngày quốc khánh (lễ Song thập 10-10) của Trung Hoa, quân cách mạng thắng quân nhà Thanh ở Vũ Xương năm 1911. Đa số xe đạp cắm một cây cờ Trung Hoa nhỏ bằng giấy trước ghi đông. Trung Hoa đã leo lên địa vị cường quốc thứ năm trên thế giới; người ta cho rằng cờ của họ là lá bùa hộ mạng khi gặp quân Anh, Pháp.
Gần tới ngã năm Phú Nhuận tôi thấy một chiếc “xe cá” chở đầy sách gấp mười số sách của tôi, trong lòng vừa phục mà vừa thương hại: chở gởi đi đâu? xa không? cực khổ quá!
Ba anh em chúng tôi chỉ có hai cái va li nhỏ, một giỏ đồ vặt, cố mắc vào xe đạp, rồi thay phiên nhau đẩy. Một đứa cháu 12 tuổi giúp việc nhà, lẽo đẽo theo sau. Lác đác có từng nhóm người tản cư cũng như chúng tôi, không ai có vẻ buồn rầu, lo lắng cả. Gặp nhau người ta còn mỉm cười với nhau nữa.
Vào khoảng trưa chúng tôi tới Thủ Đức, vào một khu vườn cao su cách chợ hơn một cây số, chỗ để hai chiếc xe ngựa lớn, có mui, có cửa, của sở Thủy lợi. Người coi vườn chào tôi, đưa chìa khóa xe cho tôi. Tôi hỏi thăm tình hình trong miền, người đó đáp: “Yên ổn lắm, nhưng những nhà ở gần đường lộ cũng ngại quân Anh, Pháp sẽ lên đây. Họ tính lùi vào trong xóm, ở xa đường một chút... Còn đường về miền Tây, ông có tin tức gì không?
Tôi bảo: “Nghe nói quân Pháp đã xuống đến Tân An rồi, con đường Sài Gòn - Tân An nghẽn. Vì vậy tụi tôi phải đi vòng lên đây để kiếm đường về miền Tây”.
Người đó khuyên tôi lên chợ Lái Thiêu rồi kiếm ghe quá giang về Mĩ Tho. Chúng tôi theo ý kiến đó, nghỉ lại trong xe, nấu cơm lấy mà ăn; sáng hôm sau lại lên đường. Người coi vườn tiễn chúng tôi một quãng, chỉ cho chúng tôi một bụi cây ở xa, bảo: “Người ta nói Phan Văn Hùm bị giết ở bụi cây đó. Ông biết Phan Văn Hùm không?”.
Tôi đáp: “Nghe tiếng chứ không biết mặt. Tại sao ông ấy bị giết?”.
- “Không ai biết. Thời buổi này mà!”.
Chia tay người đó rồi, tôi mới hỏi Tân Phương:
Phan Văn Hùm là một nhà cách mạng trong nhóm Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, chắc là theo Đệ tứ Quốc tế, được nhiều người mến. Mà nhóm Đệ tứ có Trần Văn Thạch ở trong Ủy ban Hành chánh Nam Bộ thì ai giết Phan Văn Hùm? Tôi chắc là người ta đồn bậy.
Tân Phương làm thinh, có vẻ suy nghĩ.
Cũng ngày đó, chúng tôi lại được tin Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng Ngãi trên đường từ Huế về Sài gòn. Tôi xúc động mạnh vì tôi rất quí ông ta. Ông gốc ở Long Xuyên, du học Pháp về, sống rất giản dị, bình dân, khắp thành phố Long Xuyên không ai không vừa trọng vừa yêu, nhất là giới thợ thuyền. Căn nhà của ông ở gần Cầu Máy, một khu lao động, tuy bằng gạch, nhưng nhỏ, hẹp, xấu xí.
Hai chiến sĩ đệ tứ bị giết trong khoảng nửa tháng hay một tháng thì khó có thể cho là bịa được, mà cũng khó bảo là ngẫu nhiên được. Mấy năm sau tôi mới được biết cả hai vụ đó có thật, chỉ sai một điểm là Phan Văn Hùm bị giết ở gần quê ông (Búng, thuộc tỉnh Thủ Dầu Một), chứ không phải ở gần Thủ Đức.
Bốn giờ chiều chúng tôi mới tới chợ Lai Thiêu, may gặp một nhân viên của tôi cũng tản cư về đó và làm trong Ủy ban hành chánh xã. Thầy kiếm nhà cho chúng tôi tá túc. Nhà ở giữa một khu vườn măng cụt và sầu riêng, có đường mương ngang dọc, săn sóc rất kĩ.
Thầy lại xin cho chúng tôi một giấy chứng nhận của Ủy ban hành chánh và sáng hôm sau tìm cho tôi một chiếc ghe về phía Mĩ Tho. Thầy làm việc với tôi đã mười năm, tính tình hiền lương; tôi tiếc là từ buổi đó đến nay tôi không được gặp lại thầy nữa.
Lái Thiêu cũng sợ quân Anh, Pháp sắp tới, nên rất nhốn nháo. Nhân viên các ủy ban và thanh niên đi đi lại lại, người nào cũng vội vàng, dân chúng chen chúc nhau ở trụ sở hành chánh để xin giấy tờ đi đường. Thiếu giấy, phải dùng mặt sau của các công văn thời trước. Con dấu thì bằng gỗ. Ai cũng có thể làm giấy chứng nhận giả được.
Náo nhiệt nhất là cảnh chợ. Trên bờ, dưới sông, tấp nập kẻ qua người lại và ghe xuồng đủ cỡ... Mọi người lo mua đồ tích trữ: từ gạo, than đến thuốc uống, cả nồi niên, chiếu, nóp... Rõ ràng là cảnh sắp loạn lạc, chia li.
Chiếc ghe chúng tôi mướn được là ghe thương hồ, bán hết đồ, trở về Mĩ Tho. Chúng tôi đi chung với một gia đình khác làm ăn ở Lái Thiêu, di tản về quê ở Tân An. Ghe đi vòng lên Đức Hòa rồi theo một con kinh vào Đồng Tháp. Khỏi Đức Hòa một chút, một chị nông dân Thanh niên tiền phong bảo ghe ghé bờ để xét. Chị bận một bộ đồ hàng Tân Châu - tôi đoán là bộ tốt nhất của chị - lưng dắt dao găm, nhưng coi mặt không dữ tợn. Thấy tôi mang một cuốn sách khá dày, chị mở ra coi mà lại cầm ngược - chị chưa biết chữ Quốc ngữ - hỏi tôi:
- Anh mang sách gì vậy?
Tôi đáp:
- Sách về nghề đốc công thủy lợi của tôi.
- Sách Tây hả?
- Phải.
- Thời buổi này mà anh còn giữ sách Tây à? Anh đi theo tôi vô Ủy ban xã.
Tôi lên bờ theo chị. Ghe phải đậu lại. Chúng tôi đi qua một cánh đồng rộng, tới xóm làng, lại đi một đỗi nữa mới tới trụ sở ủy ban ở trong một Nhà việc. Ủy ban gồm sáu bảy người đương bàn về kế hoạch phục kích quân Pháp ở một dốc cầu. Trông thấy tôi vào, một người chạy ra hỏi:
- Ủa. Ông đi đâu đây?
Lại gặp may nữa: cũng là một nhân viên cũ sở Thủy lợi.
Thầy đó cầm cuốn sách của tôi, đưa viên chủ tịch coi. Tôi được thả. Thầy còn ân cần đưa tôi ra khỏi xóm, bảo tôi:
- Ông đừng nên giữ một cái gì có màu xanh, đỏ, trắng của cờ Pháp, người ta cho là ám hiệu liên lạc với địch đấy.
Về tới ghe, ai nấy đều mừng. Tối đó ghe đậu ở một xóm bên bờ kinh. Đồng quê hồi đó còn yên ổn, không có trộm cướp. Khoảng bốn giờ chiều hôm sau tôi mới tới một chợ quê cách Tân An độ mươi cây số về phía tây, ghe đậu lại. Chủ ghe, một giáo viên hồi hưu, đãi chúng tôi một bữa cháo vịt rất thân mật. Sáng hôm sau - ngày thứ năm từ khi rời Sài Gòn - chúng tôi lại dắt xe ra đường lộ Tân An - Trung Lương, rồi thuê xe ngựa đi từng chặng tới Mĩ Tho. Quân Pháp mới tới thành phố Long An, chưa tiến xa hơn nữa; nên trên đường xe cộ dập dìu.
Khoảng 3 giờ chiều chúng tôi tới Mĩ Tho. Không khí căng thẳng, thành phố rất náo nhiệt. Chúng tôi lại Ủy ban Hành chánh Nam bộ (đã rút về Mĩ Tho từ trước) để trình diện, nhưng ai nấy bận việc tíu tít, không tiếp chúng tôi được. May sao gặp được ông bạn cũ Nguyễn Ngọc Thơ tản cư theo ủy ban. Ông cho tôi hay có tin hôm sau quân Pháp sẽ tới tấn công Mĩ Tho, ủy ban đã ra lệnh đào đường lộ, ngã cây để chặn đường; còn ủy ban thì cũng sắp phải dời đi nơi khác, rồi ông khuyên tôi sáng hôm sau còn chuyến tàu thủy chót về Long Xuyên, đừng bỏ lỡ cơ hội đó.
Chúng tôi lại một trường tiểu học, vô một lớp học, sắp đặt hành lí, kê bàn làm chỗ ngã lưng rồi đi nghe diễn thuyết về hôn nhân - diễn giả khuyên thanh niên đợi 25 tuổi hãy kết hôn - lại ăn cơm xã hội của thị xã. Tối trở về trường, tắm xong, ngủ thẳng một giấc tới sáng.
Thức dậy, không kịp ăn sáng, chúng tôi ra bến tàu, mua giấy đi Long Xuyên. Khi tàu rời bến, chúng tôi mới nhẹ người.
Năm giờ chiều hôm đó tới Long Xuyên. Như vậy từ Sài Gòn đi Long Xuyên mất sáu ngày. Chúng tôi ghé nhà cô Nguyễn Thị Liệp và nhờ người nhà nhắn với bác tôi ở Tân Thạnh (Đốc Vàng) rằng chúng tôi đã tới Long Xuyên.
Thị xã Long Xuyên có vẻ buồn hiu. Ủy ban hành chánh đã ra lệnh tiêu thổ kháng chiến: đập phá các công sở, đốt hết các hồ sơ; tư gia thì phải dỡ mái ngói, gở tất cả các cánh cửa, để địch không có chỗ ở. Lệnh chỉ được thi hành một phần thôi: mới có vài cơ sở bị phá, một số nhà dỡ một phần mái; nhưng đồ đạc quí thì đã chở lần lần đi gởi ở trong làng, xa thị xã, những chỗ chắc địch sẽ không tới.
Ở Long Xuyên hai ba ngày thì có ghe nhỏ ở Tân Thạnh qua đón chúng tôi. Hồi đó đã gần cuối mùa lụt, nước trong đồng rút mạnh ra Tiền Giang, Hậu Giang; ghe gặp toàn nước ngược, cả giờ chỉ tiến được vài ba cây số. Chiều hôm đó chúng tôi phải nghỉ lại nhà một người quen ở giữa đường Long Xuyên - Mĩ Luông; sáng hôm sau mới đi tiếp. Trên bờ, thấp thoáng trong các vườn xoài, dừa, một đám khoảng vài chục thanh niên vác tầm vông vạt nhọn, đương tập quân sự. Người nào cũng bận bà ba đen, đi chân không, nét mặt hăng hái, vui vẻ. Nghe họ hô “một hai, một hai” và tiếng chân họ nện trên mặt đất, lòng tôi cũng sôi lên.
Tới Mĩ Luông, ghe phải đi men bờ, ngược lên gần chợ Thủ rồi mới qua sông. Ngồi ghe lâu quá, tù túng, mấy anh em tôi lên đi bộ cho ghe được nhẹ. Giữa đường từ Mĩ Luông tới chợ Thủ, chúng tôi được biết ba tín đồ Hoà Hảo bị giết ngày 17-10-1945 ở sân vận động Cần Thơ: Nguyễn Xuân Thiếp, hiệu là Việt Châu, người thứ nhì là em trai út Thầy Tư Hòa Hảo, người thứ ba là con trai của Trần Văn Soái, Tổng tư lệnh quân đội Hòa Hảo.
Chúng tôi bàng hoàng, lặng lẽ cúi đầu đi, không ai nói một lời. Tôi nhớ lại buổi trưa đó, anh Việt Châu từ biệt tôi đi Cần Thơ để hòa giải, hai bên vui vẻ và tự tin, chắc thành công: mọi sự chia rẽ lúc đó chỉ có lợi cho địch, mà anh tuy theo Thầy Tư nhưng vẫn có cảm tình với Việt Minh thì khó khăn nào mà không giải quyết được. Dè đâu, lần chia tay đó lại là lần vĩnh biệt.
VIỆT CHÂU
Chỉ vì tin đó mà chuyến về hết vui. Bác trai tôi rầu rầu trách chúng tôi: “Sao ở trên đó lâu vậy? Ở nhà mong mãi”.
Cả nhà xúm lại. Chúng tôi kể tin tức Sài Gòn, Long Xuyên, những nỗi khó nhọc khi đi đường đường, mà không dám nhắc tới tin buồn kia.
Bác tôi nói trước:
- Khi nó hỏi ý bác có nên giúp thầy Tư Hòa Hảo không, bác bảo giúp thì giúp, nhưng chỉ nên lãnh công việc xã hội, đừng làm chính trị. Nó không nghe lời bác. Có tin cho hay khi nó tới Cần Thơ, người ta ngờ nó xuống để kích động tín đồ, bắt giam nó liền, không chịu nghe nó phân trần. Rồi tín đồ thấy nó bị bắt lại càng làm dữ, tình hình mỗi ngày thêm găng và kết quả như vậy. Ra pháp trường, nó không một lời nào nhắn gia đình gì cả, ung dung ngâm bốn câu thơ rồi hô: “Việt Nam muôn năm”. Thật là có tinh thần Nguyễn Trung Trực.
Việt Châu (Nguyễn Xuân Thiếp) tính tình giống bác tôi, có khí tiết mà mềm mỏng, khéo xử sự, biết lo cho gia đình mà có tài làm thơ, nên bác tôi mến nhất. Anh sanh năm 1918, biết chút ít chữ Pháp, chữ Hán và nhà coi sóc ruộng nương. Năm 1940 hay 41, mới 23 tuổi đã xuất bản tập thơ Lông ngỗng gieo tình (truyện Mị Châu, Trọng Thủy) được một số thi sĩ ở Bắc khen, rồi ít năm sau viết xong một tập thơ nữa trên ngàn câu về Dương Qui Phi, chưa xuất bản. Thỉnh thoảng có thơ văn đăng trên báo; lại giữ phụ trương văn chương một tờ nhật báo ở Sài Gòn, có nhiều bạn thơ ở Bắc, Nam, thường thư từ với Trần Huyền Trân, một thi sĩ theo Việt Minh từ trước 1944.
Trong cuốn Thi ca Việt Nam hiện đại (Khai Trí - 1967), Trần Tuấn Kiệt có chép sơ lược tiểu sử và trích ít bài thơ của anh. Thơ anh trôi chảy, bóng bảy, lãng mạn như các nhà thơ trẻ tuổi hồi đó, nhưng cũng có bài tả những cảnh chưa ai tả, như bài Hoa Ô môi mà trong cuốn Thi ca Việt Nam hiện đại đã trích đăng.
Mới 28 tuổi đã lìa đời, nếu không sự nghiệp thi văn của anh còn tiến nhiều. Từ 1945 đến 1974, năm nào “tổ đình” - đình thờ gia đình thầy Tư ở làng Hòa Hảo, được tín đồ coi như thánh địa - cũng làm giỗ anh với hai người tử vì đạo với anh.
Nhưng có điều là do thời cuộc, thơ anh ngay vợ con anh cũng không giữ được. Anh có hai người con trai, một người theo nghề võ, một người viết báo, nhưng không ai biết làm thơ.
TÂN PHƯƠNG
Chín năm sau bác tôi lại bị một cái tang nữa. Người con trai lớn tên là Nguyễn Xuân Tăng (bút hiệu là Tân Phương) đẹp trai, nhưng ẻo lả, chết một cách thật vô nghĩa.
Bác sĩ rọi phổi bảo là bị bệnh lao. Thời đó (khoảng 1950), Tây y đã có những thuốc rất công hiệu để trị lao: Streptomicine, Rimifon, P.A.S. Anh ấy mới chích một mũi Steptomicine rồi nhất định không chịu chích nữa (có lẽ vì sợ chích) mà tự dối mình là chỉ ho thường thôi chứ không bị lao, rồi uống thuốc Nam, thuốc Bắc, không chịu đi bác sĩ. Bệnh mỗi ngày một nặng, vài ba năm sau, khi toát mồ hôi lạnh, yếu quá rồi, vợ mới vội đưa ngay lên bệnh viện Grall ở Sài Gòn, thì phổi đã bị vi trùng lao đục rỗng, vài ngày sau chết tại bệnh viện. Năm đó anh mới 39 tuổi. Thật uổng một đời thông minh.
Giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, làm thông dịch viên cho cơ quan Domei của Nhật. Mới tự xuất bản được một tập nhỏ nhan đề là Vers une dictature đại ý là muốn cho thế giới hết loạn thì phải cho Hội Vạn quốc (Société des Nations) có đủ binh lực và quyền hành để buộc các nước lớn nhỏ trên thế giới phải tuân lệnh. Tập đó ra năm 1938 hay 1939, trước khi thế chiến nổ. Thỉnh thoảng anh có viết chuyện ngắn, làm một bài thơ đăng báo. Anh viết kĩ, văn gọn, có khí, đôi khi bóng bẩy.
Tôi còn giữ được truyện ngắn Tình trong bức tường (đăng trên nguyệt san Tiểu thuyết Thứ bảy – số tháng 9 năm 1944) tả mối tình tuyệt vọng của một thanh niên hơi có học, nghèo, làm thợ nề mê con gái một điền chủ, mà không dám ngỏ lời, kín đáo chép tâm sự bỏ vào một cái chai lén giấu trong bức tường của ông điền chủ khi chàng xây tường.
Thơ anh cũng đăng trên nguyệt san đó, bài thơ Trương Lương cũng được nhiều người tán thưởng.
KHÔNG KHÍ LÀNG TÂN THẠNH
Không khí làng Tân Thạnh đã thay đổi nhiều. Trên đường chỉ thấy thanh niên nam nữ đa số là gia đình nông dân. Các hương chức và điền chủ ít ai ra khỏi nhà. Ghe xuồng bớt qua lại, tuyệt nhiên không thấy một chiếc ghe hầu, một chiếc ca nô. Một hai miễu ông Tà bị lật đổ, nhưng chưa hất xuống rạch. Ở đình người ta làm lễ, nhưng rất sơ sài; một hai nhà cách mạng theo phong trào mới tới dự, nhưng bận áo bà ba và không vái. Vài nhà cách mạng khác bỏ làng, theo kháng chiến. Gần cuối năm 1945, vài gia đình ở nơi khác tản cư về đây, trong số đó có gia đình cô giáo Liệp[1] và gia đình một thầy giáo nữa ở Long Xuyên.
Chủ tịch Ủy ban Hành chánh xã là một thanh niên học tới trung học, ở bên cạnh nhà bác tôi và có họ hàng với bác gái tôi. Mấy anh em tôi lại trình diện với ông ta và tôi cũng đi canh gác một hai đêm với thanh niên ở bến đò gần nhà.
Trong làng ai cũng biết nhau và có họ hàng xa gần với nhau nên ít có sự nghi kị. Chỉ có mỗi một lần vào mùa xuân năm 1946 vài anh bộ đội đóng đâu ở phía Phong Mĩ vào nhà bác tôi đòi khám xem có súng ống không vì họ biết anh Tân Phương làm việc với Nhật. Họ chỉ xét qua loa rồi ra. Sau đó anh ấy lánh qua bên chợ Thủ sống với vợ con. Còn anh Việt Châu thì không ai nhắc tới cả. Mãi hai năm sau, khi thầy Tư Hòa Hảo đã bị thủ tiêu (lúc này tôi đã qua Long Xuyên rồi), ủy ban xã mới mời bác tôi vô trụ sở, giam mấy ngày để điều tra, rồi thả, vì biết bác tôi từ 1939 không hề ra khỏi làng, không hề biết mặt thầy Tư.
Mùa đông năm 1945, một chiếc ghe chở muối từ Bạc Liêu lên bán ở Long Xuyên, ghé Tân Thạnh cho tôi biết: vợ con tôi vẫn bình an ở nhà người em ruột tại Long Điền. Em rể nhà tôi trước làm Xã trưởng làng đó, nay lại làm Chủ tịch ủy ban nhân dân xã. Tôi yên tâm. Tạm sống xa nhau như vậy vì tôi tin chiến tranh sẽ mau kết thúc.
Nhưng đợi tới cuối năm, tình hình vẫn chưa có gì thay đổi. Tết đó thật buồn, chợ Tết lèo tèo, nhà nào cũng cúng qua loa. Không có dưa hấu, quít, mứt. Chỉ gói một nồi bánh tét, mổ thịt một vài con gà.
TÔI HỌC ĐÔNG Y
Về Tân Thạnh được vài tháng, không có công việc gì làm, để khỏi buồn, tôi xin bác tôi dạy cho tôi đông y.
Tôi học bộ Y học toản yếu gồm sáu quyển của Lưu Thánh Tuyền. Tôi đọc rồi bác tôi cắt nghĩa. Thỉnh thoảng có bệnh nhân xa gần lại nhờ bác tôi trị (làm phúc), nhờ vậy tôi có dịp tập coi mạch.
Sau chín mười tháng tôi nhận được một số bệnh, biết chút y lí, phân biệt được hàn nhiệt, hư thực trong những trường hợp dễ, sử dụng được một số toa thuốc cơ bản, cổ điển: loại bổ, loại tán (làm cho tà khí tan đi), loại hàn (thuốc mát), loại nhiệt (thuốc nóng), loại công (công phá, như thuốc xổ); thuộc được tính chất độ một trăm vị thuốc thường dùng; biết gia giảm những vị nào cho hợp với bệnh nhân; lại biết nấu thục địa, sao, tẩm một số thuốc.
Đọc các sách thuốc khác như bộ của Hải Thượng Lãn Ông, tôi đã hiểu được nhưng chưa thể làm y sĩ được vì thiếu nhiều kinh nghiệm. Sự hiểu biết của tôi chỉ dùng được cho người trong nhà, về những bệnh thông thường.
Tôi thấy y lí của phương Đông, sự phân biệt hàn nhiệt, hư thực thật tinh tế và có lợi. Tôi lấy thí dụ bệnh ho do phải cảm hay thời tiết thay đổi, nếu phân biệt được hàn nhiệt, thì chỉ vài thang là hết, trong khi các bác sĩ thử hết thuốc nước này, thuốc hoàn khác mà bệnh không dứt. Mới mười năm trước đây, đọc một số báo Pháp hay Mĩ thấy một bác sĩ chỉ dùng cách này mà trị được một bệnh ho dai dẳng: bảo bệnh nhân vẩy nước trong phòng cho không khí ẩm thấp, mát mẻ; vài ngày sau bệnh nhân hết ho. Trường hợp đó đông y cho là do nhiệt mà ho.
Bệnh đi tiêu chảy, đông y phân biệt hàn nhiệt và cách trị khác nhau. Bệnh lị Đông y phân biệt hàn nhiệt, tây y phân biệt dysenterie amibienne và dysenterie bacillaire. Hai cách phân biệt đó có điểm nào giống nhau không?
Đông y có một kinh nghiệm lâu dài (trên mấy nghìn năm) và rộng rãi (trên miền Đông Á rộng bằng cả châu Âu không kể Nga) tất có nhiều điều đáng cho tây y tìm hiểu. Ngày nay ai cũng biết công dụng của tử hà sa (nhau), đồng tiện (nước tiểu trẻ em), cam thảo (để trị loét bao tử) mà người Trung Hoa đã tìm ra được hàng ngàn năm trước; phương Tây đương nghiên cứu khoa châm cứu của Trung Hoa và hình như bây giờ đã có bác sĩ nhận rằng thận có nhiều công dụng khác quan trọng ngoài công dụng tiết ra nước tiểu, rằng Đông y có lí khi bảo trẻ em và người già cần bổ thận. Nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu rõ quan niệm khí (khí huyết), quan niệm thận thủy và thận hỏa… của Trung Hoa. Nghiên cứu theo khoa học để tìm hiểu Đông y là việc làm lí thú và có ích cho nhân loại.
Tuy nhiên chúng ta phải nhận rằng Đông y chỉ giúp cho Tây y được thôi chứ không thể nào tiến mau như Tây y được. Tây y dùng thuốc hóa học, chế tạo được rất nhiều thuốc mới mà giá lại rẻ; Đông y gần như chuyên dùng thảo mộc, mà trồng thảo mộc đã lâu, lại phải tùy đất, tuỳ thời tiết, phải bào chế, giá thuốc quá đắt, ít người mua nổi.
Nhất là phương pháp dạy, nghiên cứu của Đông y cổ lỗ quá, cần phải canh tân.
CÁC KHOA HỌC HUYỀN BÍ CỦA TRUNG HOA
Trong những năm 1939-1940 tôi đã đọc một hai cuốn Tử vi viết bằng tiếng Việt. Năm 1945 về Tân Thạnh tôi đọc thêm sách Tử bình bằng chữ Hán. Năm 1974 tôi lại được đọc cuốn Bát tự Hà Lạc của Học Năng, một bạn già của tôi quê ở Thanh Trì (Hà Nội) có cả Hán học lẫn Tây học, đã lần hiệu trưởng nhiều trường tiểu học.
Tôi đọc chỉ do tò mò muốn biết mấy môn học huyền bí đó của Trung Hoa. Hơn hai chục năm trước, một anh bạn “làm cách mạng” thấy tôi đọc sách tử vi, hỏi tôi:
- Tại sao anh lại tin những sách vô lí như vậy?
Tôi đáp:
- Anh thiếu tính thần khoa học rồi. Phải tìm hiểu một môn học rồi mới phê bình nó được chứ. Ở đời thiếu gì cái vô lí mà có thực. Một người thân ở xa bị tai nạn, đúng lúc đó mình ở nhà bồn chồn, lo lắng cho người đó; hiện tượng cách cảm (télépalhic) đó, lấy logique mà xét thì thấy vô lí, nhưng vẫn có thực. Anh vẫn thường bắt tin tức thế giới trong máy thâu thanh; nửa thế kỉ trước, ai mà không cho như vậy là vô lí, không thể có được.
Anh bạn đó làm thinh.
Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau:
“Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là ngẫu nhiên. Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi được biết.[2]. Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con. Hiện nay, sau nửa thế kỉ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì không thể cho là ngẫu nhiên được.
(...) Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đó phần nhiều đúng, đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh vấn là quan trọng”. (trang 174-175).
Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm: lấy theo Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6, 7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai.
So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi thấy:
- Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không thể cải được mệnh.
Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung: mạng, thiên di, tài bạch, quan lộc. phúc đức, phụ mẫu, phu thê, tử tức, huynh đệ... cho nên đoán được nhiều chi tiết: tính tình mỗi người, sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng nương..., nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên khoa đó được nhiều người tin là đúng.
Sự thực, theo tôi thì khoa đó không hợp lí vì dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống nhau thì số y hệt nhau: điều đó không chấp nhận được.
Ngoài ra, Tử vi còn nhiều điểm mâu thuẫn, chẳng hạn sao phá quân thuộc thủy, ở cung tí cũng là thủy thì tốt; nhưng tại sao ở cung ngọ là hỏa (thủy khắc hỏa) cũng là tốt? Nhất là ở 4 cung thìn tuất sửu mùi (thổ), thủy bị thổ khắc mà sao cũng vẫn tốt? Lại thêm ở cung hợi (thủy), thủy với thủy mà lại cho là xấu, hãm địa?
Không thể nào kể hết những điểm khó hiểu đó được.
Lại thêm các sách không nhất trí về cách tính sao hỏa, và 12 sao vòng trường sinh, không biết nên theo cách nào.
- Tử bình gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng hợp lí. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản với sao khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều người không thích khoa đó.
- Hà lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn tử bình ở chỗ đổi những can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ, mỗi hào trong kinh Dịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm).
Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con... Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch.
So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử vi thích hợp với đàn bà, họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử bình hợp lí, thích hợp với giới trí thức; Hà lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời.
Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.
Thí dụ trường hợp của tôi. Tôi sinh năm Tân Hợi, tháng 11, ngày 20, giờ Dậu (Tây lịch: 8-1-1912), bát tự là năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quí Mùi, giờ Tân Dậu.
Số Tử vi đoán tính tình, khả năng của tôi đúng, về phúc, thọ của tôi cũng đúng, về vợ con cũng đúng nữa; nhưng về cung quan lộc thì đúng một phần thôi, về đại hạn 43-52 tuổi thì sai nhiều.
Số Tử bình đoán đại khái cũng đúng gần như Tử vi, tuy ít chi tiết hơn, và riêng đại hạn 41-50 tuổi thì đúng hơn Tử vi.
Số Hà lạc cũng đoán rất đúng về đại hạn đó, còn về phúc, thọ, tư cách thì cũng giống Tử vi và Tử bình. Về gia đình tôi, Hà lạc không đoán, như tôi đã nói.
Ba khoa nguyên tắc khác hẳn nhau mà kết quả hợp với nhau như vậy thì đáng gọi là kì dị. Nhưng tôi cũng thấy mấy người trong họ hàng tôi số Tử vi, Tử bình khác nhau xa; và có khi gần hoàn toàn sai cả nữa.
Vậy ba khoa đó bảo là vô căn cứ thì sai mà bảo là đáng tin hẳn thì cũng không được. Tò mò đọc cho biết thì nên, bỏ trọn đời để nghiên cứu thì tôi e mất thì giờ mà chưa chắc đã phát kiến được gì. Cho nên tôi không muốn lấy số cho trẻ trong nhà. Và tôi cho cứ tận lực của mình là hơn cả. Nếu có số thì con người có khi cũng thắng được số[3]. Tất cả các sách số đều khuyên vậy: “Tín mệnh bất tín lực, thất chi viễn hĩ” (Tin số mà không tin sức mình thì lầm lớn). Vả lại người ta có thể sửa được số. Cổ nhân tin rằng số giàu mà mình không ham giàu, tránh giàu thì sẽ tăng tuổi thọ; số sang mà mình tránh sang thì được hưởng phúc nhiều hơn. Cổ nhân còn nói: “vận nước thắng vận người” (Quốc mạng thắng nhân mạng). Những lời đó đều đúng cả.
Đó là bài học tôi rút được khi rảnh, đọc chơi môn lí số của Trung Hoa.
Tôi lại đọc môn bói nữa trong bộ Bốc phệ chính tôn và Dã hạc.
Môn bói trong hai cuốn đó đều dùng quẻ Dịch một cách tài tình. Khi ta đã chấp nhận một số định đề, nguyên tắc rồi thì cứ áp dụng luật ngũ hành tương sinh tương khắc mà suy đoán mọi việc sẽ xảy ra. Bói và Tử bình có lẽ là hai khoa hợp logique nhất trong các khoa học huyền bí của Trung Hoa, khiến tôi mê mải đọc. Đem ra thực hành thì tôi thấy có một số quẻ đúng một cách kì dị như hai quẻ tôi đã dẫn trong cuốn Luyện lí trí (tr. 177), một quẻ về bệnh của mẹ tôi, một quẻ về việc buôn bán của một bà chị tôi; đúng về tốt xấu là chuyện thường (vì chỉ có tốt với xấu, như vậy dù có đúng cũng chỉ được 50%), nhưng còn đúng cả về ngày và tháng nữa thì thật lạ lùng.
Nhưng sau tôi thấy nhiều quẻ sai be bét: người chết rồi thì bảo là chưa chết; miếng đất đoán là sẽ mua được mà rốt cuộc không mua được. Đoán rất đúng sách, chỉ tại quẻ không nghiệm thôi. Chính một bạn tôi có mấy chục năm kinh nghiệm về khoa đó cũng nhận rằng có người xin quẻ thường nghiệm, có người trái lại; lại có người lúc thì nghiệm lúc thì không. Hình như quẻ nghiệm hay không còn tùy nhân điện của người xin quẻ, của người gieo tiền, hoặc tùy tâm trạng người đó, tùy lúc, tùy giờ hay tùy cái gì đó nữa.
Riêng tôi chỉ thấy sai nhiều nên không tin khoa đó nữa, cứ xét nhân sự mà quyết định mọi việc; nhưng vẫn nhận là kì dị, huyền bí chứ không phải là chuyện nói láo mà chơi.
Trong tủ sách bác tôi còn có một bộ Địa lí hám giá, tôi cũng lấy ra coi, chỉ xin bác tôi giảng cho ít thuật ngữ, một vài qui tắc rồi đọc lấy được.
Khoa này còn huyền bí hơn các khoa trên nữa. Cổ nhân đã nói muốn làm thầy địa lí (tức khoa phong thủy, để mả chỗ nào cho kết (phát) thì phải có “lòng thần, mắt thánh, cẳng tiều phu”. Tôi không có lòng thần, cũng không có mắt thánh, cho nên dù được các bác tôi dắt đi coi vài kiểu đất kết, chỉ cho “mạch” phát từ đâu, đi theo hướng nào, tụ ở đâu, đâu là tay long, đâu là tay hổ v.v... tôi cũng chẳng thấy gì cả. Tôi nghĩ, ở một miền hoang vu, nhận những chỗ cao thấp trên mặt đất thì còn có thể thấy được long mạch; chứ trên một cánh đồng đã khai phá cả mấy trăm năm, cả ngàn năm rồi, gò đồi đã san phẳng, hồ ao đã lấp hoặc đào thêm, đường đi đã chằng chịt như bàn cờ, thì căn cứ vào đâu để bảo đó là long mạch. Cho nên khoa địa lí tôi chỉ đọc qua thôi và tin rằng sẽ không còn ai học nó nữa.
TRỒNG DÂU NUÔI TẦM
Tôi làm tất các việc lặt vặt trong nhà: nhổ cỏ, quét sân, xách nước, giã gạo, bữa củi... Khi tản cư tôi còn được 700 đồng. Tôi hùn nuôi tằm, không lời mà cũng không lỗ. Tôi nghĩ nếu trồng dâu, có sẵn dâu để nuôi tằm thì vừa tiện vừa có lời. Tôi bèn cuốc một công đất ở bên cạnh nhà, đầu mùa mưa 1946 qua chợ Thủ mua từng bó thân dâu đem về chặt rồi giâm, cắm. Nhưng thiếu kinh nghiệm: Tân Thạnh ở ngang chợ Thủ, tuy chỉ cách con sông Tiền Giang mà đất hai nơi rất khác nhau: chợ Thủ là đất bãi, trồng dâu tốt, còn Tân Thạnh là đất đồng, đất sét, dâu mọc rất chậm, mới cao được vài tấc thì gặp mùa nước lớn, lá dâu vàng úa lần lần rồi ngọn chìm dưới nước. Thế là bỏ luôn cả việc nuôi tằm.
PHÁP BẮN PHÁ TÂN THẠNH – TÔI MẤT BẢN THẢO
Mùa xuân năm đó, luôn nửa tháng, sáng nào cũng khoảng 9, 10 giờ là máy bay Pháp lượn trên mấy làng Tân Phú, Tân Thạnh..., sà xuống tưởng như gần sát ngọn sao, ria liên thanh xuống. Nhiều nhà đào hầm ở dưới bụi tre để núp. Đàn bà, con nít và các ông già bà già ăn cơm sớm rồi di tản vào trong đồng từ 8, 9 giờ sáng, 3, 4 giờ chiều mới về. Nhà chúng tôi di tản qua chợ Thủ, chỉ có tôi và một người nữa ở lại coi nhà. Nhà cài then cửa trước, cửa sau, hễ máy bay tới thì ra núp ở bụi tre. Có hôm chúng bắn rát quá, tôi hồi hộp, quặn đau ở bụng. Bệnh loét bao tử của tôi có lẽ phát từ hồi đó. Trong xóm không có người nào bị thương, nhưng vài nhà bị mấy chục viên đạn vào nóc, vách.
Máy bay tới bắn phá được ít lâu thì quân Pháp và “partisan” (lính Việt đánh thuê) tới đóng đồn ở làng Tân Phú và làng Tân Thạnh, hai đồn cách nhau độ ba cây số. Mỗi đồn có một hạ sĩ quan Pháp và dăm ba lính Việt. Mới tới chúng hiếp dâm một chị nông dân rồi bắn chết, vất thây xuống sông. Chúng vào khám xét một số nhà, bắt gà, vịt…
Tới mùa nước lên, cả miền đó như mặt biển, nước mấp mé tới sàn, đường sá đều ngập hết, đi đâu người ta cũng phải dùng xuồng. Vậy mà tên Pháp coi đồn cũng chịu khó lội nước theo bờ rạch từ đồn nọ đến đồn kia để xét giấy tờ của các chủ nhà. Coi vẻ nó uể oải, một nhọc lắm, còn tên lính Việt đi theo thì như thường. Cuối mùa nước chúng rút đi đâu không biết, đồn bỏ hoang.
Một đêm, hồi chưa có đồn Pháp, ba bốn tên cầm đuốc vào nhà bác tôi, đập cửa bảo để xét nhà. Bác tôi không ngờ là cướp, mở của; chúng trói bác tôi bắt ngồi một chỗ, rồi đi lục một lát, sau thấy chiếc va li của tôi, chúng xách đi; ngoài ra không lấy gì khác. Trong va li đó chỉ có ít thước vải, vài cuốn sách và bản thảo. Cũng may tiền tôi không cất trong đó. Tôi không tiếc vải, chỉ tiếc hai bản thảo về cải tổ giáo dục và về Đồng Tháp Mười.
Chủ ý bọn đó không phải là để cướp nhà bác tôi mà để bắt cóc một ông Hội đồng, con ông phủ Nghĩa ở Tân Phú, có tiếng là giàu nhất trong quận. Từ mấy hôm trước ông ta đã bỏ nhà, lại trốn trong nhà bác tôi, suốt ngày không ra khỏi phòng riêng vậy mà chúng cũng hay được. Đêm đó ông ta ngủ ở nhà sau, thấy động ở nhà trước, nhanh chân nhảy ngay xuống dưới sàn núp, bọn cướp không thấy. May cho ông ta mà rủi cho bác tôi - bị thương nhẹ vì chúng hành hung - và cho tôi. Bản thảo Đồng Tháp Mười trả về cho Đồng Tháp Mười và chắc chúng dùng để vấn thuốc.

[1] Tôi không biết trước hay sau khi tản cư về làng Tân Thạnh, gia đình cô Liệp còn tản cư vô làng Vĩnh Trạch, quận Núi Sập (nay là huyện Thoại Sơn), ở nhà một ông họ Cao, cách chợ Long Xuyên khoảng 12 cây số. (Goldfish).
[2] Chính là tôi và ba em tôi (chú thích năm 1980)
[3] Nghĩ vậy cho nên theo Tử vi thì vận năm 1953-1963 của tôi rất xấu, vậy mà năm 1953 tôi vẫn đổi nghề, không dạy học nữa mà chuyên viết văn, xuất bản (coi ở sau) và từ đó tôi phát đạt.
Chương XVII
Các Cuộc Thương Thuyết Việt - Pháp
MỘT NĂM CHỜ ĐỢI: 1946

Như trong chương IX tôi đã nói, năm Tuất trước (Giáp Tuất 1934) là năm buồn nhất trong tuổi trẻ của tôi: không có việc làm trong 5 tháng, để cho qua ngày, tôi cặm cụi học chữ Hán. Năm Tuất này (Bính Tuất 1946) còn buồn gấp mấy năm đó nữa. Cũng thất nghiệp vì tôi đã quyết tâm còn chiến tranh với Pháp thì không trở về nghề Công chánh, về sở Thủy lợi; và để cho qua ngày tôi lại cặm cụi học chữ Hán. Nhưng lần trước còn tin chắc sớm muộn gì cũng được bổ dụng; lần này thì không biết được sẽ làm gì để mưu sinh; vốn liếng chỉ còn 500 đồng (lỗ mất 200 đồng vào việc trồng dâu rồi), nghề Đông y thì mới biết sơ sài, chưa đủ để làm thầy; tương lai thật mù mịt. Lần trước nằm dài ăn báo mẹ thì còn được; lần này năm dài ăn báo hai bác tôi thì thật khó coi; vì chiến tranh hai bác tôi cũng túng thiếu, chỉ làm được mấy chục công đất ở sau nhà, số thu hoạch chỉ vừa đủ gạo để ăn.
Lại thêm cảnh gia đình tôi nữa: nhà tôi và cháu ở nhờ người em gái ở Long Điền, cũng phải tản cư với gia đình cô em. Miền đó nhiều người Thổ (Miên), chúng nổi dậy, uống rượu say, đi cướp phá, tìm những chỗ chứa của, gập người Việt nào cũng “cáp duồng” (chặt đầu). Cái nạn Thổ ở Nam Việt thật tai hại: thời bình chúng ngoan ngoãn, lễ phép, mà thời loạn chúng thành giặc. Ngay ở Tân Thạnh cũng trong năm 1946, mấy lần có tin đồn Thổ ở Svay Rieng (Cao Miên) băng qua Đồng Tháp, tính đánh phá, đốt nhà, cướp lúa, cướp trâu bò ở mấy làng chung quanh chỗ tôi ở, dân chúng phải đề phòng, tổ chức chống cự.
Những đồ tư trang nhà tôi gởi gia đình cô em giữ, bị Thổ phát giác chỗ chôn giấu (chúng tưới nước, chỗ nào nước hút mau là đất mới lấp, đào lên là thấy liền), do đó mất hết.
Mùa xuân năm 1946, nhà tôi phải từ biệt cô em, dắt cháu lên Sài Gòn, thì nhà ở đường Monceau bị lính thủy Pháp chiếm, đồ đạc không còn gì. Vậy là hai bàn tay trắng, không có chỗ ở. May gặp được một cô bạn mở một tiệm may quần áo cho trẻ con Tây ở đường Sabourain (nay là đường Lưu Văn Lang) gần chợ Bến Thành, lại giúp cô ấy trong việc may cắt, tiếp khách, như vậy tạm yên chỗ ăn chỗ ở.
Yên chỗ rồi, nhà tôi về thăm tôi ở Tân Thạnh, cho hay tình hình như vậy, và bảo ở Sài Gòn có phong trào đả đảo người Bắc của chính phủ Nam Kì quốc do tên thầy tu D'Argenlieu, Cao ủy Pháp dựng lên, thủ tướng là bác sĩ Nguyễn văn Thinh. Thinh sau tự treo cổ để đền tội với quốc dân. Như vậy tôi không thể lên Sài Gòn được. Đành chờ một thời gian nữa, và vợ con một nơi, tôi một nơi.
Thêm một nỗi buồn nữa là em trai tôi một lần qua chợ Thủ, đắm xuồng, không vớt được thây. Năm đó chú ấy mới 33 tuổi ta, đúng như số tử vi đã cho biết. Còn yểu hơn cha tôi nữa. Để lại một đứa con gái mới được mấy tháng.
Anh Tân Phương đã qua chợ Thủ ở với vợ con và giữa năm cũng lên Sài Gòn. Các người tản cư đã hồi cư hết rồi. Gia đình cô Liệp cũng đã trở về Long Xuyên. Chỉ còn một mình tôi ở lại Tân Thạnh.
Lâu lâu có ai đi Long Xuyên mới đem về cho một vài tờ báo mà biết được qua loa tin tức. Tháng nào, tuần nào cũng mong tình hình sáng sủa. Đầu năm có tin phái đoàn Việt Nam (ở Bắc) qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau, tôi le lói có chút hi vọng; ít tháng sau thất vọng, cuối năm thì hoàn toàn thất vọng: chiến tranh đã nổ lớn ở Bắc Việt, chính phủ mình đã rút ra khỏi Hà Nội để trường kì kháng chiến (20-12-1946).
Trước Tết, mới về Tân Thạnh, tôi còn vui vui, làm đôi câu đối này:
“Trị ái thư, loạn ái thư, thư trung hữu hữu;
Bần dĩ đạo, phú dĩ đạo, đạo ngoại không không.
mà một ông bạn dịch ra như sau:
Trị yêu sách, loạn yêu sách, trong sách chi chi cũng có,
Nghèo giữ đạo, giàu giữ đạo, ngoài đạo thảy thảy đều không.
Và bác tôi cũng cho tôi câu đối:
Phú quí mạc cầu, nhất phiến băng tâm cư loạn;
Thư hoa chân ái, sổ thiên văn tự lưu phương.
Cũng ông bạn trên dịch là:
Phú quí chẳng màng, giữ tấm băng trinh thời loạn;
Sách hoa riêng thích, thơm trang giấy mực đời sau.
Tết này buồn não lòng, chỉ ngâm câu thơ cổ:
“Nhất niên tương tận dạ,
Thiên lí vị qui nhân”.[1]
(Một đêm năm gần hết,
Ngàn dặm người chưa về)
Và luôn cho tới ngày nay, ba mươi lăm cái Tết nữa rồi, không có cái Tết nào tôi hoàn toàn vui cả: khi đoàn tụ gia đình thì chiến tranh chưa chấm dứt, khi chiến tranh chấm dứt thì gia đình lại không đoàn tụ được. Cho nên ngày Tết tôi cũng coi như ngày thường, cũng đóng cửa gần như không tiếp khách, để viết lách cho tiêu sầu. Nhớ lại, chỉ những Tết hồi còn đi học là lưu lại nhiều kỉ niệm đẹp nhất. Hai câu thơ cổ dẫn trên, bác Hai tôi đọc cho tôi nghe một đêm 30 Tết, hồi 8 giờ tối, anh em tôi ở Hà Nội mới về tới nhà, khiến người lo lắng, tưởng có tai nạn gì.
CHIẾN SỰ 1945-194 
Dưới đây tôi ghi vắn tắt ít tin chiến sự và biến cố xảy ra ở Việt Nam từ ngày tôi rời Sài Gòn cho tới cuối năm 1946.
Ở Nam (dưới vĩ tuyến 16)
Ngày 5-10-1945, Leclerc một viên tướng giỏi của Pháp, biết nhận định tình hình, tới Sài Gòn thì Pháp có tất cả 35.000 quân, được Anh giúp đỡ để cho tái chiếm lại miền Nam.
Trong tháng 10, quân Anh “chiếm” Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một.
Pháp một mặt tiến lên Tây Ninh, tính diệt lực lượng Cao Đài; một mặt xuống Long An (Tân An), Mĩ Tho (25-10), Vĩnh Long, Cần Thơ, rồi Sa Đéc, Long Xuyên (1-1946), Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau; một mặt nữa cho quân đổ bộ lên Nha Trang rồi tiến vô Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết, cuối năm 1945 lên tới Ban Mê Thuột, Djiring, Đà Lạt.
Như vậy đầu tháng 2-1946, Leclerc tự cho là công việc “bình định” ở miền Nam của ông ở miền Nam đã xong, vì chỉ trừ từ đèo Cả đến Tourane, còn bao nhiêu tỉnh lị, một số lớn quận lị nữa từ đèo Cả tới Cà Mau và ở miền Tây Nguyên đã bị quân Pháp chiếm đóng và lập lại lần lần các cơ quan hành chánh.
Nhưng Leclerc sáng suốt hiểu rằng như vậy chỉ để cứu vãn uy tín của Pháp thôi, và phải thương thuyết ngay với Việt Minh ở Bắc, chứ 35.000 quân Pháp của ông không thể dẹp nổi kháng chiến Việt Nam.
Sở dĩ ông tiến mau được như vậy vì quân đội mình dùng chính sách tiêu thổ kháng chiến, rút lui để bảo toàn lực lượng rồi đánh du kích.
Trần Văn Giàu mới đầu chỉ huy cuộc kháng chiến, sau bị triệu về Bắc. Tướng Nguyễn Bình từ Bắc vô thay, tổ chức lại quân đội và vừa phục kích quân Pháp, vừa trừ Việt gian, nhất là bọn hương chức Pháp đặt lên. Như vậy Pháp chỉ thực sự làm chủ các tỉnh lị và quận lị thôi, không dám ra khỏi vài cây số, cũng không dám tiến xa quá một hai trăm thước hai bên đường lộ.

Lần lần, ủy ban kháng chiến cũng lập ủy ban hành chánh xã, huyện, tỉnh ở thôn quê; và Nam bộ trở lại tình trạng non một thế kỉ trước, dưới triều Nguyễn, khi quân Pháp mới chiếm xong lục tỉnh: Các làng xóm ban ngày thuộc về “đàng tân”, ban đêm thuộc về “đàng cựu”; đàng tân bây giờ là các công chức theo Pháp, đàng cựu là quân kháng chiến; và cũng như thời xưa, một số đàng tân bây giờ ủng hộ ngầm đàng cựu.
Ở Bắc (trên vĩ tuyến 16)
Ngày 2-9-1945, chính phủ Việt Minh làm lễ tuyên bố độc lập thì đúng một tuần sau, quân của Lư Hán lục tục tới Hà Nội. Tất cả là 180.000 người thốc thếch, rách rưới, ở Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông đi bộ qua, một số dắt theo cả vợ con, không ra thể thống quân đội của nước hùng cường thứ năm trên thế giới. Mới tới, Lư Hán đã định hối suất một đồng bạc Trung Hoa ăn hai đồng Việt Nam, như vậy họ tha hồ mua bất kì món gì họ thích với một giá rất rẻ.
Họ tới với mục đích là để giải giới quân Nhật, mà thực sự là để vơ vét. Tội nghiệp cho dân Bắc, vừa mới qua nạn đói chết cả triệu người thì lại bị cái nạn cướp bóc của mấy trăm ngàn tên lính Trung Hoa Quốc Dân Đảng này.
Một người Việt Nam như Nguyễn Hải Thần trong Đồng Minh hội, Vũ Hồng Khanh trong Việt Nam Quốc Dân đảng, theo Lư Hán qua; nhưng Tưởng Giới Thạch không có ý thực tâm ủng hộ họ, và Lư Hán chỉ muốn dùng họ để gây khó cho Việt Minh mà thủ lợi riêng. Việt Minh lúc đó thật bối rối, phải đương đầu với cả Trung Hoa lẫn Pháp, mềm dẻo với cả hai. Họ vội vàng tổ chức bầu cử Quốc hội ngày 6-1-1946, giải tán đảng Cộng sản, mỏ rộng nội các.
Mĩ có chút cảm tình với chính phủ. Nga không ủng hộ gì cả. Còn Trung Hoa thì theo Bernard Fall trong cuốn Les deux Việt Nam (Payot-1967), ngay từ 1944, khi tổng thống Mĩ Rosevelt muốn tặng cả Đông Dương cho Tưởng, Tưởng biết là khó nuốt nên từ chối. Pháp hiểu vậy nên điều đình với Tưởng, nhường chút quyền lợi cho Tưởng (khúc đường xe lửa từ Lào Cai đi Vân Nam, trả lại Quảng Châu Loan, cho được tự do ra vô cảng Hải Phòng) và đáp lại, Tưởng thừa nhận Pháp có chủ quyền ở Đông Dương.
Chính ông Hồ Chí Minh cũng thích Pháp hơn, tuyên bố với kí giả Pháp P.M. Dessinges của tờ Résistance: “Chúng tôi phục nước Pháp và dân tộc Pháp lắm và không muốn cắt đứt những dây cột chặt hai dân tộc chúng ta... Chúng ta phải khéo thu xếp với nhau. Nhưng xin ông nhớ cho rằng chúng tôi quyết tâm chiến đấu tới cùng, nếu người ta bắt chúng tôi phải chiến đấu…” (Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952 - Philippe Devillers - Editions du Seuil - 1952).
Ủy viên chính trị của Pháp ở Bắc là Sainteny và tướng Leclerc lúc đó đã ra Bắc, cũng muốn thương thuyết với ông Hồ Chí Minh hơn là với Nguyễn Hải Thần hay Bảo Đại. Nhờ vậy mà có Hiệp ước 6-3-46 kí giữa Sainteny và Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh. Hiệp ước đó nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (libre) ở trong Liên hiệp Đông Dương và Liên hiệp Pháp, có chính quyền, quân đội, tài chính riêng. Sẽ có một cuộc trưng cầu dân ý để xem Nam bộ sẽ sát nhập vào quốc gia mới đó không.
Hai bên (tướng Salan và tướng Võ Nguyên Giáp) kí thêm mấy ước khoản nữa: Quân đội Việt được Pháp huấn luyện và giúp khí giới; sau 5 năm, quân đội Pháp sẽ rút hết.

Ông Hồ Chí Minh nói với Sainteny: “Tôi muốn nhiều hơn vậy... nhưng tôi cũng hiểu rằng không thể trong một ngày mà có được tất cả”.
Ngày 18 tháng 3, Leclerc đem quân vô Hà Nội, cùng với Sainteny lại thăm ngay ông Hồ Chí Minh. Hai bên rất vui vẻ.
D’ARGENLIEU PHÁ HIỆP ƯỚC 6-3-46 - NAM KÌ QUỐC - HỘI NGHỊ ĐÀ LẠT
Nhưng trong khi đó thì D'Argenlieu, cao ủy ở Sài Gòn hủy ngầm hiệp ước đó. D'Argenlieu rất trung thành với De Gaulle, mà De Gaulle muốn nắm chặt các thuộc địa cũ để cho Pháp còn có vẻ một cường quốc. Lại thêm bọn thực dân Pháp ở Nam bộ tham lam không muốn nhả quyền lợi ra, xúi D'Argenlieu phá đám.
Ngày 17-4-46 hai bên Pháp Việt mở một hội nghị ở Đà Lạt chuẩn bị cho hội nghị quan trọng hơn ở Paris. Ngay từ buổi họp đầu tiên, đại biểu Việt Nam đòi bàn về vấn đề Nam Bộ. Đại biểu Pháp đáp rằng không có chỉ thị của cấp trên nên không bàn tới. Sự thực là D'Argenlieu đã có chủ trương tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam rồi.
Ngày 1-6-1946, khi chiếc phi cơ đưa Hồ Chí Minh sang Pháp, bay ngang qua không phận Damas, thì ông Hồ Chí Minh bắt được tin nước Cộng hòa Nam Kì tự trị đã được thành lập ở Sài Gòn, bác sĩ Thinh làm thủ tướng, các bộ trưởng hầu hết có quốc tịch Pháp.
Vậy là trước khi họp hội nghị Fontainebleau, D'Argenlieu đã vi phạm một điều khoản trong hiệp ước ngày 6 tháng 3.
Bọn Thinh dùng tay sai gây phong trào đả đảo Bắc Kì; nhiều người Bắc ở Sài Gòn bị hành hung, dân chúng cả Bắc lẫn Nam phẫn uất; tướng Nguyễn Bình phản ứng mạnh, khủng bố dữ bọn Việt gian, không khí Sài Gòn nghẹt thở.
Ông Hồ Chí Minh bực mình về hành động của D'Argenlieu, nhưng hi vọng rằng ở Paris, sẽ được đảng Cộng sản, đảng Xã hội, nhiều chính khách trong các đảng khác nữa giúp đỡ. Không ngờ tới Pháp thì nội các Pháp đương bị một cuộc khủng hoảng. Ông cùng phái đoàn phải ghé Biarritz, đợi xong cuộc khủng hoảng rồi mới lên Paris.

Rủi cho Việt Nam, nội các mới (thành lập ngày 24-6) gồm 3 thành phần: Cộng sản, Xã hội và Phong trào Cộng hòa nhân dân (M.R.P). Một lãnh tụ của phong trào Cộng hòa nhân dân, Georges Bidault, làm thủ tướng, mà Bidault rất có ác cảm với ông Hồ Chí Minh, suốt trong chiến tranh Việt Pháp, lúc làm thủ tướng, lúc làm bộ trưởng ngoại vụ, nhất định không chịu thương thuyết với ông Hồ Chí Minh, và những người Pháp hiểu dân tộc Việt Nam như Jean Lacouture, P. Mus, Philippe Devillers cho rằng Bidault với D'Argenlieu là những người chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc làm hỏng cuộc hòa giải Việt Pháp, kéo dài cuộc chiến tai hại cho cả hai dân tộc, để rốt cuộc đưa tới sự thất bại tủi nhục của Pháp ở Điện Biên Phủ sau này.
HỘI NGHỊ FONTAINEBLEAU THẤT BẠI
Hội nghị Fontainebleau họp ngày 6-7. Phía Pháp không có một đại biểu nào vào hàng bộ trưởng. Phái đoàn Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng cầm đầu. Ngay từ buổi đầu, ai cũng thấy ngay rằng chính quyền Pháp chỉ coi Việt Nam như một nước lệ thuộc ở trong Liên hiệp Đông Dương, thuộc quyền cao ủy Pháp ở Sài Gòn. Pháp không muốn bàn thêm gì cả mà chỉ muốn rút lại những nhượng bộ trong Hiệp ước 6-3.
Lại thêm trong khi ở Paris có hội nghị thì ở Việt Nam D'Argenlieu đem quân chiếm các tỉnh Pleiku, Kontum; rồi lại họp một hội nghị Đà Lạt nữa, mời đại biểu của tất cả các chính quyền Đông Dương, trừ chính quyền Việt Minh.
Dĩ nhiên hội nghị Fontainebleau thất bại. Sau cùng, để khỏi về tay không, gần nửa đêm 14-9, ông Hồ Chí Minh lại tư dinh bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet, trong đảng Xã hội Pháp mà ông quen biết từ ba chục năm trước, để kí với Moutet một thỏa hiệp ước (modus vivendi) “định cách thức giao trả một số công sở cho chính phủ Hồ Chí Minh, chính phủ này chịu nhận ở lại trong Liên hiệp Pháp (lời Marius Moutet); “các cuộc thương thuyết sẽ tiếp tục càng sớm càng tốt, trễ nhất vào tháng giêng năm 1947”; trong khi đó “cả hai chính phủ quyết định chấm dứt những hành động thù nghịch, cùng các bạo động ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ”.
HỒ CHÍ MINH VỀ NƯỚC – VỤ HẢI PHÒNG
Ông Hồ Chí Minh về đường biển, ngày 20 tháng 10 mới tới Hải Phòng. Dân chúng hoan hô nhiệt liệt. Ông vẫn muốn mềm mỏng, kiên nhẫn với D'Argenlieu, hi vọng hòa giải được; nhưng hình như trong nội bộ có một phe “cực tả” tin chắc rằng thế nào cũng phải có cuộc sống mái với Pháp và phải tăng cường ngay võ bị. Việt Nam Quốc Dân đảng trách ông nhu nhược.
Quân Pháp đã đổ bộ lên Bắc Việt rồi được tăng viện, lần lần chiếm các công sở, mở rộng khu vực đóng quân... Họ lại lấn quyền kiểm soát quan thuế, tự ý đặt những cơ quan liên bang mà chẳng hỏi ý kiến mình. Tới cuối năm 1946, sức họ mạnh rồi, thế nào họ cũng sẽ dùng võ lực để giải quyết mọi vấn đề. Mà phía mình, tướng Võ Nguyên Giáp cũng thấy nếu để chậm trễ thì sẽ tới một lúc không sao đuổi được quân Pháp đi, đành để chúng cột tay cột chân mình thôi.

Ngày 20 tháng 11 xảy ra vụ Hải Phòng. Một chiếc thuyền Trung Hoa chở khí giới, xăng nhớt vô hải cảng, bị một chiếc tàu tuần Pháp bắn; quân đội Việt Nam can thiệp. Hai bên bắn qua bắn lại. Ủy ban hỗn hợp Pháp-Việt bắt ngưng bắn để hai chính phủ thảo luận với nhau về vấn đề quan thuế, ngoại thương. Tướng Valluy ương ngạnh không chịu, đòi quân đội Việt Nam phải rút hết ra khỏi Hải Phòng, mình không chịu. Thế là một chiếc tuần dương hạm Pháp bắn tưới vào một khu người Việt, cháy rụi hết các nhà 1á. “Ít nhất có sáu ngàn người chết” (Paul Mus trong Việt Nam, sociologie d'une guerre).
Toàn dân phẫn uất, nhưng Hồ Chí Minh vẫn không tuyệt vọng, ngày 15-12 đánh một điện tín cho Léon Blum, lãnh tụ đảng Xã hội Pháp, lúc đó làm thủ tướng, khẩn khoản yêu cầu làm cách nào cho tình hình bớt căng. Điện tín đó phải do Sài Gòn kiểm duyệt rồi mới chuyển đi. Sài Gòn trì hoãn không chuyển ngay, mãi tới ngày 26-12 mới tới Paris. Mà đêm 19-12 đã xảy ra chiến tranh ở Hà Nội rồi.
ĐÊM 19-12-1946
Vụ tấn công thình lình đêm 19-12, Võ Nguyên Giáp đã chuẩn bị trước, chẳng may một tên Pháp lai, Fernand Petit, làm phản gián cho Pháp, len lỏi vào đoàn Tự vệ của mình, biết trước, 18 giờ lại báo cho Pháp hay nội đêm đó quân mình sẽ ra tay. Nhờ vậy quân Pháp kịp thời đối phó. Đúng 20 giờ điện tắt trong khắp thành phố. Quân tự vệ tiến vào khu Pháp ở, giết khoảng 40 người Pháp và bắt cóc khoảng 200 người khác. Dân Pháp đã được báo trước, nên chống cự lại dữ dội, không vậy thì còn chết nhiều hơn nữa. Tướng Morlière phản ứng lại liền, giải vây được cho nhiều nhà, nhiều khu. Hai bên chiến đấu suốt đêm. Sáng hôm sau, nhiều nơi trong thành phố có vẻ hoang tàn: nhà cháy, thây người, vật chướng ngại, cây đổ.... ngổn ngang khắp nơi. Cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục. Mãi chiều, quân Pháp mới tiến tới khu dinh thự của chính quyền mình. Các nhà lãnh đạo của mình đã rút ra khỏi Hà Nội, vô Hà Đông rồi. Tối hôm đó Pháp kiểm soát được gần trọn khu trung ương thành phố.
Nhưng chiến tranh vẫn tiếp tục một hai tháng nữa. Tại khu Việt và Hoa, quân Tự vệ đục tường nhà nọ thông sang nhà kia để chiến đấu rồi rút lui. Ngõ Phất Lộc của chúng tôi và mấy phố chung quanh: hàng Mắm, hàng Muối, hàng Mã Mây chống cự được khá lâu nhờ có nhiều ngóc ngách. Quân Pháp phải chiếm lại từng nhà một, khi chiếm xong thì thành phố chỉ còn là một cảnh hoang tàn, dân chúng đã di tản gần hết.
Ngay đêm 19-12, tướng Giáp đã ban lệnh tổng tấn công khắp mặt trận, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân chiến đấu bằng bất kì khí giới gì có trong tay. Các đồn Pháp ở Phủ Lạng Thương, Bắc Ninh, Nam Định, Huế bị tấn công trước hết (2 giờ sáng ngày 20). Ngày 21 thì lệnh được thi hành khắp nước.
Như vậy là phe diều hâu của Pháp: Bidault, D'Argenlieu, Pignon... đã thắng phe bồ cầu: Sainteny, Leclerc...; và chiến tranh du kích dai dẳng, tàn khốc lan khắp cõi Việt Nam. Điều đó Leclerc ngại nhất vì nó sẽ làm cho sinh lực Pháp tiêu mòn.

Tin Pháp bị Việt tấn công gây xúc động lớn trong dư luận Pháp cũng như trong Quốc hội. Marius Moutet, bộ trưởng Hải ngoại, tuyên bố rằng ông sắp qua Đông Dương để rán lập lại những điều kiện của một chính sách hòa giải mà cả hai bên Pháp, Việt phải thi hành một cách chân thành.
Nhưng báo chí tỏ ra quá khích. Philippe Devilers trong sách đã dẫn bảo báo chí không biết rõ sự thực - vì suốt thời gian khủng hoảng không có một phóng viên báo Pháp hay báo ngoại quốc nào ở Bắc cả - và dân Pháp chỉ được biết những tin do bọn thực dân và diều hâu Sài Gòn tung ra thôi. Ngay báo của phe tả cũng không biết gì hơn. Và một số người Pháp hiểu rõ Việt Nam cho rằng báo chí Pháp cũng chịu một phần trách nhiệm trong cuộc chiến tranh đó.
Mới tới Sài Gòn, Moutet vẫn còn giữ ý kiến hòa giải. Ngày 1-1-1947, ông Hồ Chí Minh gởi lời chúc mừng năm mới chính phủ Pháp, dân tộc Pháp, và cả Marius Moutet mà ông mong được gặp gỡ ở Hà Nội. Ông lại gởi một thư riêng cho Moutet, đưa đề nghị ngưng chiến. Thư đó không tới tay Moutet. Về sau khi thăm thành phố Hà Nội tan hoang rồi, Moutet đổi ý, không muốn gặp Hồ Chí Minh nữa. Có sách nói ông ta được lệnh ở Paris không thương thuyết.
Thế là Hồ Chí Minh hết hi vọng ở đảng Xã hội Pháp và cả ở đảng Cộng sản nữa, vì có tin nói rằng đảng này cũng dè dặt chưa lên tiếng. Và chiến tranh phải tiếp tục non tám năm nữa.

[1] Thơ của Đới Thúc Luân đời Đường. Chữ thứ tư trong câu trên, sách in là: tân. (Goldfish).
Chương XVIII
Tôi Qua Long Xuyên
HUỲNH PHÚ SỔ BỊ THỦ TIÊU
Mùa xuân năm 1947 tôi qua Long Xuyên chỉ mang theo hai bộ đồ bà ba đen và hai trăm đồng, một là để coi tình hình, hai là để cân thuốc Bắc về làm một tễ thuốc. Tôi lại tá túc nhà cô Liệp.
Tôi tính ở Long Xuyên độ nửa tháng, không dè khi sắp về thì cả miền quê hương thầy Tư Hòa Hảo từ phía trên Chợ Mới xuống tới phía dưới Mĩ Luông, hai bên bờ Tiền Giang, tín đồ Hòa Hảo rất xôn xao, rục rịch nổi dậy, vì có tin thầy Tư bị thủ tiêu trong buổi họp đêm 16-4-47 ở địa phận làng Tân Phú, cách nhà bác tôi độ vài cây số. Huỳnh Phú Sổ quá tín, chỉ dắt theo bốn vệ sĩ nên bị hại. Tôi đã hỏi vài người bạn trong nhóm đồ đệ thân tín của thầy, họ bảo tất cả tín đồ đều tin rằng thầy khỏng thể chết được, thầy chỉ tạm lánh mặt trong một thời gian thôi rồi sẽ trở về. Họ dẫn vài câu thơ của thầy nói trước về vụ đó nữa. Tới nay họ vẫn còn nói như vậy. Họ cố bám vào một hi vọng hão huyền chăng 
Vậy là tôi không thể trở về Tân Thạnh được, phải tạm ở lại Long Xuyên vài tháng cho yên vụ đó đã, không dè tới trên sáu năm.
TÌNH HÌNH LONG XUYÊN

Những người ở thị xã Long Xuyên đã hồi cư về gần đủ, lại thêm có người ở nơi khác tản cư về đây, cho nên thị xã có vẻ phồn thịnh hơn trước. Một vài cơ quan chưa xây cất lại, nhưng nhà thường dân thì đã sửa sang. Đường phố đông đúc, nhất là ở bến tàu và chợ. Chưa có xe đò chạy Sài Gòn, vì đường chưa được yên, nhưng có tàu thủy, mỗi tuần vài chuyến, chuyến nào cũng đông hành khách và chở nhiều hàng hóa. Đặc biệt nhất là chợ có nhiều sạp vải, sạp nào cũng đắt hàng vì trong sáu, bảy năm chiến tranh dân thiếu vải nhất. Sữa, đường cũng nhiều. Mới chỉ có một tiệm thuốc Tây, nhưng thuốc Bắc thì có tới bốn năm tiệm.
Ít thấy Tây đi ở ngoài đường. Hầu hết các sở làm đều do người Việt điều khiển. Công chức đàn ông mặc đồ tây đi làm, còn đàn bà - ngay cả các cô giáo - cũng còn bận bà ba tới sở, tới trường. Không khí tương đối yên ổn. Lâu lâu mới có một lựu đạn nổ, phần nhiều là ở bên chợ vào ban đêm. Tối, nhà nào cũng đóng cửa sớm.
Xét chung, thì công chức hồi cư trở lại làm việc có vẻ hơi ngượng khi gặp những người như tôi bận bà ba, lết đôi guốc trên lề đường. Họ cũng rất muốn nước nhà độc lập, cũng muốn người Pháp về hết, nhưng chiến tranh kéo dài quá, họ không thể sống cực khổ trong đồng, trong bưng được, nên phải hồi cư. Về rồi, họ được truy lãnh những tháng lương từ khi họ tản cư, lại được làm việc với ông chủ Việt, đời sống như vậy rất dễ chịu, mà công việc lại chẳng có gì. Hầu hết nhà nào cũng có người thân còn đi kháng chiến, có người còn hoạt động kín trong châu thành nữa.
Ngay trong nhà tôi ở, cũng có hai thanh niên đều là cháu mà như con nuôi của cô Liệp theo kháng chiến, một đi bộ đội, một nằm vùng ở châu thành. Lại thêm một cháu xa làm liên lạc viên, tới xin ở nhờ. Một nữ sinh cũ cũng nằm vùng, lâu lâu tới cho tin tức hoặc quyên tiền.
Tôi đoán các nhà láng giềng nếu không biết rõ như vậy thì cũng nghi ngờ. Công an tỉnh cũng có thể biết nữa nhưng không làm gì lộ liễu quá thì họ để yên. Còn các công chức Việt quan trọng, chủ một sở chẳng hạn, thì nhắm mắt cho nhân viên giúp đỡ kháng chiến, miễn đừng để lụy cho họ thì thôi. Những nhân viên đó là cháu họ, con của bạn bè họ, hoặc hàng xóm của họ, mặt mũi nào mà tố cáo; vả lại tố cáo chỉ gây vạ cho bản thân họ thôi. Có thể nói, chỉ trừ một số rất ít Việt gian, còn tối đại đa số người Nam đều có cảm tình với kháng chiến, một số lớn còn giúp đỡ nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp cho kháng chiến nữa. Cho nên năm 1975, sau ngày 30-4, tôi nói với các bà con và bạn bè ở Hà Nội vào: “Đừng nghĩ lầm rằng đa số người Nam là ngụy! Ngược lại, chỉ có một số rất ít ngụy thì họ đã trốn đi ngoại quốc gần hết rồi; còn lại toàn là những người yêu nước, ghét Pháp, ghét Mĩ. Nếu lực lượng kháng chiến không được dân chúng ở đây ủng hộ thì không làm sao thành công, không sao sống được. Ngoài đó, các anh bảo bộ đội sống trong dân chúng như cá trong nước, như vậy là nhận rằng dân trong này đã nuôi nấng, che chở bộ đội. Nay bảo dân trong này là ngụy thì có phải là mâu thuẫn, vong ân không? Không một gia đình nào trong này không có anh em, con cháu theo kháng chiến, hoặc ủng hộ kháng chiến”.
Ở Long Xuyên, tôi gặp ba người bạn cũ. Anh Hách, người cũng vào Sài Gòn với tôi để nhận việc ở sở Thủy lợi như tôi, anh cũng thôi việc công chính, không trở lại sở cũ, có một cái sạp bán vải ở chợ Long Xuyên. Người thứ nhì là một thầy họa đồ, trước giúp việc tôi ở sở Thủy lợi, tản cư về Lấp Vò rồi qua Long Xuyên mở một quán cóc bán tạp hóa, cũng bỏ luôn nghề cũ. Người thứ ba là ông Nguyễn Ngọc Thơ mà tôi đã gặp ở Mĩ Tho trên đường tản cư về Tân Thạnh. Ông lúc này làm chủ quận châu thành Long Xuyên. Thời Nhật, ông làm thư kí riêng của Toàn quyền Decoux; nhờ thông minh, lanh lợi, thạo việc, biết nhiều nhân vật ở Nam, giải quyết việc gì cũng mau mà lại liêm khiết, nên chính quyền nào cũng dùng ông. Tính giản dị, bình dân.
Tôi lại biết thêm được vài ông nữa: ông Paulus Hiếu chủ sở Kho bạc, ông Nguyễn Văn Hiếu chủ sở Địa chánh, một bác sĩ, một dược sĩ chủ nhà thuốc Tây, một điền chủ có Tú tài Pháp, một ông có cử nhân luật, tên là Kính, bạn cột chèo của anh Hách. Giới trí thức ở Long Xuyên đại khái có bấy nhiêu người.
TÔI DẠY TƯ TẠI NHÀ

Mới đầu tôi có ý định làm thử nghề Đông y, bắt mạch ra toa cho mấy người quen, làm vài tễ thuốc. Nhưng sau tôi thấy nghề đó khó sống nên thôi.
Mà muốn làm thầy lang thì phải có chân trong hội Đông y sĩ, phải làm đơn xin hành nghề “médicastre” nghĩa là nghề “lang băm”, gởi cho chủ tỉnh. Việc đó tôi cũng không thể làm được.
Lí do nữa: tôi tự xét chưa đủ kinh nghiệm làm một thầy lang kha khá.
Một hôm, ông Thơ thấy tôi ở không và không muốn trở về nghề công chánh, nhờ tôi kèm Pháp văn và Toán cho một đứa con trai của ông học lớp Nhất. Sau ông giới thiệu thêm một đứa cháu nữa. Từ đó hai ba ông Trưởng ti nữa dắt con lại nhờ dạy; từ hai trò lần lần đến tám trò, mỗi ngày dạy hai giờ, mỗi tháng được khoảng 1.000 đồng.
Vì ít học sinh nên tôi dạy kĩ, tùy theo tư chất của mỗi trẻ, nếu thông minh thì tôi thúc, bắt học nhiều, kém thông minh thì chỉ bắt buộc nhớ những điều cần thiết thôi. Cha mẹ học sinh thấy tôi siêng mà dạy rõ ràng, trẻ dễ hiểu, mau tấn tới nên càng tín cậy. Chỉ trong ba tháng tôi luyện Pháp văn và Toán cho hai đứa thi vào trường Trung học Cần Thơ, cả hai đều đậu.
Tôi nổi tiếng dạy giỏi và đầu niên học sau số học sinh xin học rất đông, tôi chỉ nhận hai chục em thôi, và mở thêm một lớp buổi chiều riêng cho chúng.
Tuổi trung bình của chúng là 14, 15. Đa số siêng, nhất là con gái; con trai ít cẩn thận. Cứ khoảng mười đứa có một đứa thông minh, sau có thể lên đại học được. Mà những đứa đó thường ở trong những gia đình trung lưu, cha làm thầy giáo, thầy kí. Em nào cũng lễ phép, dễ bảo, hồn nhiên, dễ thương.
Một hôm ông Thơ bảo đi ngang qua chợ, thấy một người chừng 30 tuổi bận đồ tây rách, ngồi ở lề đường, trước mặt để một miếng bìa với mấy hàng chữ tự xưng là con một đốc phủ sứ vì gia đình sa sút, nên xin những người hảo tâm giúp cho một vài đồng. Rồi ông tâm sự với tôi: “Tôi ngại làm cái nghề của tôi thất đức - lúc đó ông cũng là Đốc phủ sứ rồi. Con tôi, tôi chưa thấy đứa nào học được”.
Tuy ông làm chủ quận, sau làm tỉnh trưởng Long Xuyên mà đứa con ông học tôi, phải đi bộ, có hôm đi chân không, vừa đi vừa cạp một trái bắp nấu. Về điểm đó, tôi khen ông. Con trai tôi ở Sài Gòn, hồi đó, nghỉ hè về ở với tôi, tôi cũng cho sống như vậy.
HỌC HÀM THỤ
Có dư tiền tôi gởi mua sách ở Pháp: vài cuốn dạy tiếng Anh, bộ đĩa Linguaphone, một số sách Anh, Pháp về Culture humaine, và khá nhiều sách về văn học, giáo dục, tâm lý, khoa học, xã hội học… Sau mấy năm thiếu sách, lúc này tôi gặp sách nào cũng muốn mua. Tôi lựa những cuốn sách giới thiệu trong hai cuốn: Quels livres faut-il avoir lus? của A. Souché, La Bibliothèque de l’Honnêtre homme của một nhóm học giả ở Bỉ…
Mới đầu đọc lung tung rồi sau thấy vấn đề nào thích thì tôi mua thêm. Lần lần tôi hướng về giáo dục, về ngữ học, lịch sử văn học Trung Hoa, tiểu sử danh nhân, loại tự luyện đức trí (Culture humaine) môn tổ chức.
Nhân đọc một cuốn sách Pháp, tôi được biết năm 1926 người ta lập ở Paris một Uỷ hội quốc tế để nghiên cứu sự tổ chức công việc theo khoa học. Mỗi nước lập một Uỷ hội quốc gia nữa. Ở Pháp, Uỷ hội đó là Comité national de l’Organisation Française. Hội mở một trường dạy môn tổ chức công việc, lấy tên là École d’Organisation scientifique du travail, có lớp hàm thụ cho những người ở xa Paris.
Học phí khá cao. Tôi rủ anh Hách hùn tiền ghi tên học. Tôi yêu cầu trường gởi một lần hết các bài giảng và bài tập cho tôi. Mục đích của chúng tôi là học cho biết chứ không cần được bằng cấp của trường, vì muốn được bằng thì phải làm một luận án (mémoire) và qua Paris tự biện hộ (défendre: có người dịch là bảo vệ) cho chủ trương của mình trước mặt các giám khảo của trường. Như vậy bằng cấp được chính phủ Pháp công nhận, rất có giá trị 

Tôi học môn đó rất kĩ, mỗi bài dài chừng mươi, mười lăm trang lớn (khổ 21x31) chữ in, tôi đọc vài lần rồi tóm tắt đại ý trong một tập vở riêng. Mỗi bài thuộc về một đề tài, do một giáo sư giảng. Có giáo sư giảng về hai ba đề tài. Họ đề là những nhân viên quan trọng trong hành chính hay xí nghiệp, có nhiều kinh nghiệm. Mỗi ngày tôi bỏ ra một buổi để học, ba tháng thì hết khoá. Mới đầu tôi làm được vài bài tập gởi qua cho họ chấm; sau thôi, vì có bài muốn làm thì phải có tài liệu mà ở Long Xuyên tôi không thể kiếm được.
Tôi lại gởi mua những sách mà trường giới thiệu để nghiên cứu thêm.
Năm 1948 gia đình bác tôi ở Tân Thạnh tản cư qua Long Xuyên, ở nhờ nhà một người quen bên chợ. Như một chương trên tôi đã nói, quân đội Pháp đã rút đi từ 1946, bỏ các đồn ở Tân Thạnh và Tân Phú. Nhưng Ủy ban nhân dân miền Nam, theo đúng chiến lược tiêu thổ kháng chiến, ra lệnh cho dân chúng phải dỡ nhà, rút sâu vào trong đồng, nhà nào không dỡ được thì phải phá hủy. Thế là bao nhiêu nhà gạch của các điền chủ lớn bị san phẳng hết. Bác tôi phải dỡ nhà, vào trong đồng cất tạm một cái chòi để ở. Vì loạn lạc, ruộng chỉ làm được ít công; vì tuổi già, không chịu được mọi sự thiếu thốn ở trong, bác tôi xin Ủy ban nhân dân xã cho qua Long Xuyên làm thuốc. Vì ở Long Xuyên có nhiều người biết tiếng từ lâu, nên “thân chủ” - bệnh nhân - tới mỗi ngày cũng được trung bình ba người. Trước kia chỉ trị bệnh làm phúc, nay đành phải nhận tiền coi mạch, nhưng để tùy ý ai đưa bao nhiêu thì đưa. Như vậy gia đình gồm bốn người, sống tằn tiện thì cũng đủ.
Cũng vào khoảng đó hay năm sau, nhà tôi thôi không làm ở tiệm may đường Sabourain nữa mà dạy học giúp cho một cô bạn có một trường tư nhỏ ở khu Bàn Cờ. Chỗ ở rất chật, phải kê bàn học sát nhau để nằm. Cháu đã vào trường Jean Jacques Rousseau (nay là trường Lê Quí Đôn), nhà tôi vừa dạy học vừa kèm cho nó.
Năm 1949 một viên kĩ sư người Việt đồng sự với tôi ở sở Thủy lợi trước kia, bấy giờ coi cả khu Công chánh miền Tây gồm 5, 6 tỉnh, ba lần mời tôi trở lại sở Công chánh, tôi đều từ chối.
DẠY TẠI TRƯỜNG THOẠI NGỌC HẦU
Tháng 11 năm sau, ông Thơ đã làm tỉnh trưởng Long Xuyên, và đã mở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu ở thị xã, hai lần khẩn khoản mời tôi dạy thay ông Kính phải trở về bộ Tư pháp. Giữa niên học, không dễ gì kiếm được người thay, nên tôi vì tình bạn với cả hai ông ấy, nhận lời giúp với điều kiện là cuối niên khóa nếu tôi muốn thôi thì phải cho tôi thôi[1].
Tôi dạy Pháp văn, Việt văn, Đức dục, sau thêm cả Hán văn nữa ở nhiều lớp từ năm thứ Tư xuống tới năm thứ Nhì (bây giờ tương đương với 9, lớp 7). Tôi soạn bài kĩ, giảng cho rõ ràng, bắt học sinh làm nhiều bài tập, công bằng, thẳng thắn, dù con bạn thân mà làm biếng tôi cũng rầy, dù con các người tai mắt trong tỉnh, nếu lười tôi cũng mắng nặng lời. Mới đầu có vài phụ huynh phàn nàn với ông tỉnh trưởng Thơ về điều đó, ông Thơ không nói gì với tôi cả, nhưng rồi cũng tới tai tôi, tôi nổi giận, một hôm ở giữa lớp học, tôi bảo các học sinh:
“Các cháu về nói với ba má các cháu rằng tôi không hề xin vô làm giáo sư trường này đâu. Ông tỉnh tưởng khẩn khoản nhờ tôi hai ba lần tôi mới nhận lời dạy giúp với điều kiện là lúc nào tôi muốn thôi thì phải cho tôi thôi. Tôi quen sống thanh bạch rồi, ăn cơm rau quen rồi, không cần bơ sữa như kẻ khác đâu. Trò nào không muốn học tôi thì cứ đi ra khỏi lớp” 

Tôi ghét bọn con nhà giàu, sang mà làm biếng; rất yêu những thanh niên nghèo mà thông minh, siêng học. Tôi thường giúp đỡ hạng sau, hoặc cho tiền, cho sách; nghỉ hè tôi lại nhà họ chơi, dắt họ đi chơi.
Nhưng tôi có tật nóng tính, hễ giận thì la lớn nên học sinh sợ tôi, kính tôi chứ ít mến tôi. Năm nào tôi cũng đề nghị với hiệu trưởng cho mỗi lớp năm bảy học sinh ở lại vì sức non quá, nhưng hiệu trưởng không nghe, có lẽ vì không muốn làm mất lòng phụ huynh. Tôi bất mãn vì điểm đó lắm, bảo như vậy trái với qui tắc sư phạm, trái với cả cái lợi của học sinh vì học mà không hiểu thì đã mất thì giờ mà lại chán. Nhưng đa số phụ huynh học sinh hồi đó không cần con thi đậu, chỉ cần trong học bạ được ghi là học tới năm thứ Tư thôi; cho nên mỗi lớp năm Thứ tư Cao đẳng tiểu học Pháp Việt (chương trình Hoàng Xuân Hãn gọi là lớp Tứ niên, chương trình thời ông Diệm gọi là Đệ Tứ, cuối năm này học sinh thi lấy bằng Thành chung, sau gọi là bằng Trung học đệ nhất cấp, học hai năm nữa thi Tú Tài I) có đến bốn năm học sinh không viết được câu đúng văn phạm Pháp.
Tôi cho rằng trong nghề dạy học, tư cách ông thầy quan trọng nhất: phải đứng đắn, nhất là công bằng; rồi lời giảng phải sáng sủa, có mạch lạc, muốn vậy ăn nói phải lưu loát, và soạn bài phải kĩ.
Khi tôi rời Long Xuyên, tôi chắc có nhiều người không ưa tôi, nhưng không ai không trọng tư cách của tôi; và bây giờ các học sinh cũ của tôi - nhiều người theo kháng chiến, rồi làm cán bộ ở tỉnh - đối với tôi vẫn lễ phép, xưng con với tôi như hồi còn đi học, gặp tôi thường nhắc lại những câu tôi khuyên hồi còn ở trường.
Một người bảo đã lấy lời khuyên này của tôi làm chăm ngôn: “Về vật chất nên sống dưới mức trung, về bản tính thần nên trên mực trung”.
Một người khác bảo nhờ tôi khuyên “Bất cứ việc gì ở đời, làm hết sức mình đi rồi mặc cho hoá công định đoạt, đừng có tham vọng cướp quyền của hoá công”, mà vượt được nhiều nỗi khó khăn trong đời sống hàng ngày.

Bài giảng của tôi ngày nay chắc họ quên hết, nhưng những lời khuyên như trên, có thể nhiều người còn nhớ. Dạy ba năm ở Thoại Ngọc Hầu, mà non ba chục năm sau, bây giờ về Long Xuyên còn gặp được năm sáu trò cũ coi tôi như cha, có trò thân mật như người trong nhà; điều đó làm cho tuổi già của tôi được vui. Vợ sau của tôi dạy học ở Long Xuyên trên 35 năm, còn được nhiều cảm tình của học trò cũ hơn tôi. Mấy năm trước, cứ tới sinh nhật của nhà tôi, họ họp nhau chừng mươi người lại chúc thọ, đem thức ăn tới nấu nướng rồi già trẻ cùng ăn với nhau. Có vài người - đều là cô giáo - còn thân mật tới nỗi, ngày giỗ của bà nhạc tôi, cũng đến cúng như con cháu trong nhà vậy.
Cả vợ lẫn chồng được như vậy, tôi cho là một hạnh phúc lớn; từ xưa tới nay rất ít gia đình có được. Long Xuyên đúng là quê hương thứ hai của tôi, mà bây giờ tôi quyến luyến với nó hơn quê hương thứ nhất nhiều.
Trong giới phụ huynh học sinh ở Long Xuyên, tôi cũng được nhiều người kính nể. Một vị nói với một độc giả của tôi ở Phan thiết như sau: “Ông ấy - tức tôi - săn sóc sự học con em một cách công bằng, thận trọng, biết thích nghi với trẻ, đối với học sinh luôn luôn có thái độ ân cần, rộng rãi, hết lòng hướng dẫn chúng, sửa chữa chúng, giúp chúng thành những người biết tự trọng và trọng người”.
Lời khen đó, tôi không dám nhận hết.
NẾP SỐNG CỦA TÔI – CHỮ NHÀN VÀ ĐIỆU HÁT NÓI – CẢNH MIỀN TÂY
Trong những năm 1949-1953, tôi làm việc rất nhiều, vừa học vừa dạy học lại vừa viết sách. Hễ miệng thôi giảng thì tay cầm cuốn sách lên, đặt cuốn sách xuống thì lại cầm cây bút lên. Hấp tấp tới trường rồi hấp tấp về nhà. Mỗi tuần tôi chỉ nghỉ buổi chiều chủ nhật để qua khu chợ (cách nhà tôi khoảng 1 cây số), thăm bác tôi và một hai người bạn. Có người thấy vậy chê tôi: “Đi chơi mà cũng phải có ngày giờ nữa”. Tôi đáp: “Hồi đi học, chúng ta làm gì cũng có giờ, thì bây giờ ra đời, tại sao lại không giữ được thói quen đó. Tôi muốn làm một thư sinh suốt đời mà”. Bây giờ bảy chục tuổi tôi vẫn còn là một thư sinh, vẫn làm việc đều đều có giờ như xưa, và tôi cho đời thư sinh của tôi ba chục năm nay hoàn toàn tự do và độc lập, phong lưu nữa, thú gấp trăm đời những chính khách được hằng vạn người hoan hô nhiệt liệt năm trước mà năm sau đã bị đả đảo cũng nhiệt liệt, may thì trốn thoát ra nước ngoài, không may thì bị băm vằm không toàn thây. Tôi không muốn lên voi xuống chó, chỉ muốn đều đều ở mực trung. Tôi không muốn được thiên hạ hoan nghênh, chỉ muốn được một số bạn thân hiểu tôi, được một số học sinh quí mến, và một số độc giả trung thành, không thất vọng về tôi.
Trong gia đình, tôi muốn vợ con hiền lương, con học được và thích đọc sách chứ không ham sang giàu. Nhà ở tôi không muốn sang trọng, lộng lẫy, ít đồ đạc thôi nhưng nhiều sách. Chỗ làm việc phải rộng rãi, sáng sủa và trông ra một khu vườn có lá có hoa. Hoa thì tôi muốn loại dễ trồng mà có hương thơm, có bóng mát để chim chóc, ong bướm tới. Tôi ngại nhất loài hoa bắt người ta phải hầu hạ như hải đường, phong lan. Quần áo tôi muốn giản dị, dễ thay dễ giặt. Đi đâu mà phải bỏ ra mười lăm, hai mươi phút để thay quần áo, thắt cà vạt, xỏ giầy, tôi thấy bực mình. Ở xứ nóng như nước mình, bận bộ bà ba là tiện nhất, ra đường khoác thêm chiếc áo dài thì càng nhã, không cũng không sao, rồi xỏ chân vào đôi dép cao su, trước sau không mất quá một phút. Như tôi đã nói ở chương V, chỗ ở thì tôi muốn nửa quê, nửa tỉnh; công việc thì tôi muốn nửa viết lách, nửa làm vườn.
Nhàn là mục đích lí tưởng của nhân loại ở thời đại nông nghiệp. Văn minh Trung Hoa đã đề cao sự nhàn, tạo được những triết nhân, nghệ sĩ biết hưởng nhàn, ca tụng cái nhàn như Đào Uyên Minh, Tô Đông Pha…
Tôi thích bài Qui khứ lai từ của Đào Tiềm:
”…Thăm vườn dạo thú hôm mai,
Cửa dù có, vẫn then cài như không.
Chống gậy dạo quanh vườn lại nghỉ,
Ngắm cảnh trời khi ghé trông lên.

….Mây đùn mấy đám tự nhiên,
Chim bay mỏi cánh đã quen lối về.
Bóng chiều ngả bốn bề bát ngát,
Quanh gốc tùng, tựa mát thảnh thơi.
Giàu sang đã chẳng thiết gì,
Cung tiên chưa dễ hẹn gì lên chơi.
Chi bằng lúc chiều trời êm ả,
Việc điền viên vất vả mà vui.
Lên cao hát một tiếng dài,
Xuống dòng nước chảy ngâm vài bốn câu…”.
(Từ Long dịch)
Tôi thích bài Tiền Xích Bích phú của Tô Đông Pha, nhất là đoạn cuối:
“... Tự ở nơi biến đổi mà xem ra thì cuộc trời đất cũng chỉ ở trong một cái chớp mắt; tự ở nơi không biến đổi mà xem ra thì muôn vật cùng với ta đều không bao giờ hết cả... Vả lại ở trong trời đất, vật nào có chủ ấy, nếu không phải là của ta thì dẫu một li ta cũng không lấy. Chỉ có ngọn gió mát ở trên sông cùng vầng trăng sáng ở trong núi, tai ta nghe nên tiếng, mắt ta trông nên vẻ, lấy không ai cấm, dùng không bao giờ hết, đó là cái kho vô tận của tạo hóa mà là cái vui chung của bác với tôi”.
Trong văn học phương Tây tôi chưa gặp được bài nào vừa tao nhã vừa du dương như hai bài đó, nhưng phải đọc trong nguyên văn chữ Hán[2] mới thưởng được hết cái thú của nó.
Trong Việt văn, bài Hát nói Chữ nhàn của Bùi Kỉ có giọng ung dung, phơi phới nhất:
”Đem hãn mặc[3] mài viên khối lỗi[4]
Tìm yên hoa gỡ mối giang san,
Dù ái ưu cũng có khi nhàn,
Thì tiêu khiển trong cuộc rượu cung đàn chơi cũng nhã.
Hãy gác vinh nhục thị phi cùng cổ kim nhân ngã,
Đem hạo nhiên[5] mà hể hả với cầm tôn[6].
Trộm cái “nhàn” trong túi kiền khôn,
Dăm bảy vốc con con thôi cũng đủ.
Thử tung ra cho nó: chảy cồn cồn như nước, tuôn cuồn cuộn như mây, bay lững thững như trăng, thổi thênh thênh như gió.
Rải rác ra ngoài bát hoang trong lục vũ[7] vẫn còn thừa.
Cái nhàn đã lạ lùng chưa?
(Nam Phong số 123, tháng 11, 1927)
Thể Hát nói là một biến thể của thể song thất lục bát, hoàn toàn Việt Nam. Nó không ngắn, không dài, gồm mười một câu, hoặc thêm bốn câu Mưỡu nữa là mười lăm câu, theo tôi rất vừa vặn (thể Sonnet của Pháp cũng vậy, có 14 câu); nó có qui luật, nhưng không chặt chẽ, tương đối tự do, nên rất hợp để diễn những tư tưởng phóng khoáng, có thể hùng hồn, có thể nhàn nhã, hùng và nhàn là hai hình thức của phóng khoáng. Vì vậy tôi thích thể đó. Nó xuất hiện rất trễ, vào đời Nguyễn, chỉ thịnh được khoảng 60 năm rồi suy lần, tới nay gần như tắt hẳn. Thật đáng tiếc!
Tôi chưa bao giờ được hưởng cái thú “đập trống”, nhưng được nghe ca được ít bài hát nói từ hồi thanh niên và lần đầu tôi đã thích liền. Giọng ca, đệm tiếng đàn đáy thưa thớt như uể oải, có vẻ ung dung lạ lùng, kéo dài ra, có chỗ ngưng lại khá lâu, bắt mình lắng tai đợi câu tiếp; có chỗ dồn dập một chút, đúng là “chảy cồn cồn như nước, tuôn cuồn cuộn như mây”, rồi lại ung dung tiếp tục.
Tôi nghĩ muốn thưởng thức hết cái thú của nhàn thì phải nghe điệu Hát nói, mà nghe trên một bờ liễu hoặc giữa một lòng rạch dưới ánh trăng, khi gió vi vu trên cành sao mà làng xóm bên bờ đã tắt đèn.
Có đào nương nào ca lên bài Chữ nhàn để tôi thâu băng, rồi những đêm khuya nằm trong chiếc võng dưới mái hiên, bên một dòng rạch nhỏ dưới vài gốc mận và xoài đương hoa, cho băng chạy nhè nhẹ đủ nghe thôi thì thú quá.
Bùi Kỉ đã vịnh chữ “Nhàn” rồi lại còn đề cao chữ “Lao”, “Hùng”. Tôi xin chép lại cả bài “Chữ Lao” dưới đây để ghi lại tâm trạng cụ:
Phàm vật hữu hình giai hữu hoại,
Vỏ kiền khôn trút lại mấy từng tro.
Tội gì mà lo tính quanh co,
Thừa hơi sức để bày trò thân nhọc?
Song đã là người, dù lớn nhỏ cũng linh kỳ chung dục[8].
Chẳng có lẽ si si ngốc ngốc, chịu hồ đồ tranh trọc với cừ lư[9]
Kìa thử xem kiến cõng mồi, chim nhặt rác, ong ủ mật, nhện xe tơ
Vật còn thế, nỡ người ngu hơn vật?
Nợ vũ trụ chồng chồng chất chất,
Trốn làm sao, toan lẩn quất cho rồi.
Đã xuất thân ngang dọc với đời,
Quản chi nước mắt mồ hôi, bỏ cái tiếng nâng trời là hả.
Nên chăng thì cưỡi gió đè mây, nắm nhật nguyệt vào trong chương bả[10].

Chẳng nên thì vỡ bờ, sạt bến, cát dã tràng tơi tả tử tiếc gì công.
Dẫu sao cũng nhất thế hùng!
(Nam Phong số đã dẫn trên)
Tôi đã nhiều lần nói tới sự bận rộn của đời sống từ khi văn minh cơ giới thay văn minh nông nghiệp. Lần đầu trong bài Tựa cuốn Tố chức gia đình (P. Văn Tươi - 1953) về sự bận rộn của đời sống của con người.
“Văn minh cơ giới tặng cho mỗi người chúng ta 100 tên nô lệ (máy móc) mà chúng ta cực hơn cổ nhân vì chúng ta thành nô lệ của cơ giới, nhiều nhà bác học lo cho nhân loại sẽ bị diệt chủng vì cơ giới. Người ta tranh giành nhau tài nguyên, thị trường, dùng những khí giới mỗi ngày mỗi thêm khủng khiếp, tàn nhẫn để diệt nhau và bọn muỗi mắt như chúng ta sẽ bị hi sinh trước hết. Thật là văn minh, thì loài người không đề cao chữ “hùng”.
Tôi rất thích nhàn mà từ 1949 đến nay trên ba chục năm rồi, không năm nào được hưởng nhàn. Trong cuộc đời đã qua của tôi, nhớ lại chỉ có hai năm thật nhàn, thân nhàn mà tâm cũng nhàn, tức hai năm tôi lênh đênh trên những kinh rạch, tha hồ ngắm cảnh miền Tây: cảnh mặt trời mọc trên bờ biển Rạch Giá sau tấm màn lưa thưa của rặng bần mà có người ví với màn liễu – không đúng hẳn nhưng đẹp thì không kém; cảnh mặt trời đỏ như một mâm than hồng từ từ lận trên cánh đồng Sóc Trăng bát ngát; cảnh trăng cô liêu, lạnh lẽo, tĩnh mịch trên sông Cửu Long, hoặc nhảy múa trên những làn sóng ở rạch Bình Thủy; cảnh một đầm sen giữa Đồng Tháp Mười, chung quanh toàn là lau sậy; cảnh những rừng chàm đìu hiu ở miền U Minh, những rừng đước âm u ở Cà Mau. Rồi những vườn soài bông vàng phủ kín, hương hăng hắc mà mát, trái đong đưa trên cành, đi ngang qua tôi chỉ muốn đưa tay lên vuốt những má no tròn, mịn màng, ửng đỏ rủ xuống ở trên đầu tôi. Rồi những rặng bằng lăng dài hàng cây số, bông tựa như bích đào, cánh nhẹ hơn lụa lả tả bay trong gió và trôi theo dòng nước trong veo; những rặng dừa vừa yểu điệu vừa mạnh mẽ như thôn nữ miền Nam (Tây), tàu lá phe phẩy, lóng lánh dưới ánh vàng ban mai, thật lộng lẫy, tình tứ, “voluptueux” như Somerset Maugham nói. Buồng dừa nào cũng chi chít, chỉ nhìn thôi cũng đủ thấy mát và ngọt. Dừa đáng tượng trưng cho thiếu nữ đồng bằng Cửu Long. Còn thiếu nữa đồng bằng Nhị Hà có cây gì tượng trưng được không? Tôi không thấy. Vì vậy mà tôi yêu dừa. Nhưng dừa muốn thật đẹp thì phải ở bên một dòng nước, ở chỗ quang đãng đủ cho năm sáu cây phát triển, xoè tàn ra bốn bên, và thân cao khoảng 6-7 thước.

Câu “Trúc nên thưa, dừa nên cao” thật đúng, nó vươn được lên nền trời xanh mây trắng. Mọc chen chúc nhau như có lần tôi thấy ở Nha Trang thì nó làm sao phô hết duyên dáng được 
VIẾT SÁCH ĐỂ TỰ HỌC
Tôi đã lạc đề xa quá. Tôi nhắc lại: trong năm năm từ 1949 đến 1953, tôi làm việc rất nhiều, vừa dạy học, vừa học, vừa viết sách, không có thì giờ để hưởng nhàn. Dạy học thì mỗi tuần 16 hay 18 giờ thôi, không bận gì mấy. Học mới tốn thì giờ hơn. Tôi học môn tổ chức, học tiếng Anh, lại học thêm về văn học Trung Hoa nữa, nhờ có mấy bộ văn học sử mua được. Ngoài ra còn học các lớp hàm thụ: Cours d'édition et de librairie; Cours de technique littéraire; Institute Pelman. Những bài hàm thụ đều giúp cho tôi tài liệu để sau viết sách: Nghề viết văn, Hương sắc trong vườn văn, nhiều cuốn loại Học làm người.
Như trong chương XIII tôi đã nói muốn học một ngoại ngữ thì phải dịch. Tôi muốn học thêm về một môn nào thì nên viết về môn đó. Điều đó tôi đã trình bày trong cuốn Tự học, một nhu cầu của thời đại:
“Có người nói: khi chưa biết về một vấn đề nào thì người ta viết sách về vấn đề ấy”.
Nếu lời ấy là mỉa mai thì là mỉa mai một cách vô lí. Khi đọc bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim hoặc bộ Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn, không ai tự hỏi hai học giả ấy trước khi viết sách đã biết rõ về đạo Khổng hoặc triều Lí chưa? Điều chúng ta đòi hỏi ở tác giả là tài liệu phải chính xác, lí luận phải vững vàng, văn phải sáng sủa và tươi nhã; còn tác giả phải học thêm nhiều trong khi soạn sách không thì ta không cần biết tới.
Vì có học giả nào không vừa học vừa viết? Trần Trọng Kim đâu phải là một nhà cựu học, Hoàng Xuân Hãn đâu có bằng thạc sĩ về sử học? Và trước khi soạn hai bộ ấy, họ Trần và họ Hoàng có lẽ cũng không biết gì nhiều về Khổng tử hoặc Lý Thường Kiệt hơn bạn và tôi, vậy mà tác phẩm của hai nhà ấy vẫn rất có giá trị.
Tôi muốn đổi câu dẫn trên ra như sau cho nó chứa một lời khuyên chí lí và nghiêm trang:
KHI MUỐN HỌC VỀ MỘT VẤN ĐỀ NÀO THÌ CỨ VIẾT SÁCH VỀ VẤN ĐỀ ẤY”.
Chúng ta ai cũng có tính làm biếng, học cái gì cũng chỉ mới biết qua loa mà đã cho là mãn nguyện, không chịu suy nghĩ kĩ, tìm tòi thêm.

Nhưng khi viết sách, ta cần kiểm soát từng tài liệu, cân nhắc từng ý tưởng, rồi bình luận, sau cùng sắp đặt lại những điều ta đã tìm kiếm, hiểu biết để phô diễn cho rõ ràng. Trong khi làm những công việc ấy, ta nhận thấy có nhiều chỗ tư tưởng của ta còn mập mờ, ta phải tra cứu để hiểu thêm, đọc thêm nhiều sách nữa, do đó sự học của ta cao thêm một bực. Càng được nhiều sách thì càng gặp những ý tưởng mâu thuẫn nhau, và ta lại phải xem xét đâu là phải, đâu là trái và ta lại đào bới cho sâu thêm; nhờ vậy ta hiểu thấu triệt được vấn đề, nhớ lâu hơn, có khi phát huy được những điều mới lạ.
Cho nên muốn học một cách kĩ lưỡng không gì bằng viết sách về điều mình học. Viết sách là tự ra bài cho mình làm
Học mà không làm bài thì chỉ là mới đọc qua chứ không phải học.
Song tôi xin dặn bạn: khi viết nên nhớ mục đích của ta là để tìm hiểu chứ không phải cầu danh. Đừng cầu danh thì danh sẽ tới. Cầu nó, nó sẽ trốn và sự học của ta cũng sẽ hoá ra nông nổi”.
Một anh bạn thân của tôi, học giả Lê Ngọc Trụ (mất năm 1979, nhà ngôn ngữ học có công nhất với chính tả Việt ngữ, tác giả cuốn Việt ngữ chánh tả tự vị, ngay khi cuốn Tự học của tôi vừa mới phát hành, một hôm gặp tôi ở Thư viện đường Gia Long, bảo tôi: “Lời anh nói rất đúng: chính tôi viết về chính tả Việt ngữ là để tự học đấy”.
Tôi nắm chặt tay anh, cười: “Anh em mình giống nhau quá. Tôi viết cuốn Tổ chức công việc theo khoa học cũng để tự học”.
LOẠI TỔ CHỨC CÔNG VIỆC
Học xong mỗi bài của trường Tổ chức công việc theo khoa học ở Paris gởi cho, tôi tóm tắt đại ý trong một tập vở rồi tôi lại đọc thêm những sách gởi mua từ Pháp về môn đó để bổ túc những bài học ấy, cũng ghi chép những ý chính. Được một hai tập 100 trang vở học trò.
Tôi sắp đặt lại hết những điều ghi chép ấy, chia thành chương, lập một bố cục, viết một cuốn về môn Tổ chức, chủ ý để hiểu rõ môn học và khi coi lại, đỡ mất thì giờ tìm trong một xấp dày tài liệu, bài giảng của trường và trong non một chục cuốn sách khác nữa.
Tôi viết kĩ lưỡng, sáng sủa, mạch lạc. Viết xong tôi thấy tập đó có ích cho giới trí thức Việt Nam vì rất ít người biết về môn tổ chức. Đọc nó đủ biết được những nguyên tắc quan trọng cùng cách thực hành; nó luyện cho ta được tinh thần khoa học, giúp ta làm việc mau hơn, có hiệu quả hơn mà đỡ tốn thì giờ, đỡ mệt sức. Mà nó lại dễ đọc hơn, dễ hiểu hơn sách Pháp. Nghĩ vậy tôi đem cho ông Paulus Hiếu, chủ sở Kho bạc Long Xuyên đọc. Ông thích nó, đề nghị với tôi để ông xuất bản giúp; ông sẽ bỏ tiền ra tìm nhà in ở Sài Gòn, in xong ông sẽ gởi cho một số tiệm sách ở Sài Gòn và Hà Nội, ông sẽ thu tiền, tóm lại là mọi công việc ông đảm đương hết, có lời sẽ chia hai. Ông thật là một người tốt, yêu văn hóa, nhờ ông mà tôi chính thức bước vào làng văn, công đó tôi không quên.
Cuốn đó in có 2.000 bản, phí tổn khá nặng vì phải làm nhiều Cliché (bản kẽm), ra mắt độc giả cuối năm 1949, hai năm sau bán hết, nhưng không lời bao nhiêu.
Đó là cuốn đầu tiên tôi ra mắt độc giả. May mắn nó được hoan nghênh liền. Một nhà giáo ở Long Xuyên bảo tôi: “Tôi mong có một cuốn như vậy từ lâu”.
Một độc giả ở Sài Gòn, nhà văn Thiên Giang, chưa hề quen biết tôi, đọc xong viết thư cho tôi, khen là viết sáng sủa, sách có ích, và bảo tôi sẽ thành công trong nghề cầm bút.
Ông giám đốc nhà xuất bản Phạm Văn Tươi ở Sài Gòn do có cuốn đó mà để ý đến tôi liền.
Tôi mừng rằng không là “mẻ” cái vốn của ông bạn P. Hiếu. Sau đó, tôi “khai thác” thêm môn tổ chức, áp dụng vào công việc hằng ngày, vào việc học, việc vặt trong nhà.
Tháng 11.1950, tôi nhận dạy cho trường Thoại Ngọc Hầu. Nguyên tắc của tôi là chỉ cho học sinh cách học, rồi hướng dẫn họ, để họ có thể tự học được. Điều đó rất quan trọng vì hết thảy các học sinh không biết cách ghi chép lời giảng của thầy, không biết cách học bài, làm bài, không biết cách học ôn, cách tìm tài liệu, không có một thời dụng biểu ở nhà. Họ không hiểu rằng cách học một bài ám đọc (récitation), khác cách học một bài toán; một bài sử, địa khác một bài sinh ngữ… Họ không có cả một sổ tay ghi những điều cần nhớ để thường coi lại.
Dạy được ba bốn tháng, tôi nghĩ công việc cần nhất là phải chỉ cho học sinh cách học đã, và ngày 29 tết âm lịch năm Tân Mão (tháng 2-1951) tôi khởi sự viết, mới đầu chỉ định viết 50 trang để toà hành chánh tỉnh quay ronéo chừng 100 bản phát cho học sinh. Nhưng khi đã hạ bút thì ý này gợi ý kia, vấn đề này kéo vấn đề khác và số trang rốt cuộc tăng lên gấp ba.

Tập đó tôi viết dễ dàng và vui, chỉ trong ba tháng là xong. Tôi áp dụng môn tổ chức vào việc học để cho đỡ phí sức, đỡ tốn thì giờ mà mau có kết quả; tôi dẫn nhiều kinh nghiệm bản thân từ hồi tôi học ở trường Yên Phụ và trường Bưởi. Trong phần I tôi đã nói tôi sớm có tinh thần phương pháp, ngay từ hồi học lớp Sơ đẳng (cours élémentaire), tôi đã có lối học riêng của tôi: ở trong lớp vừa chép bài vừa học thầm, vừa đi từ trường về nhà vừa nghĩ cách làm một bài toán, tìm ý cho một bài luận, rồi về tới nhà là làm, học ngay bài trong ngày, nhờ vậy tôi tốn rất ít thì giờ. Lên trung học, tôi có một sổ tay tóm tắt những ý quan trọng trong mỗi bài sử, địa, vật lí, hoá, toán…, những điều tôi cho rằng lúc nào cũng phải nhớ, như vậy khi học ôn để thi trong lớp hoặc thi ra trường, tôi chỉ cần coi lại những sổ tay đó, ít khi phải coi lại trong sách.
Những kinh nghiệm đó và nhiều kinh nghiệm khác nữa tôi đều chỉ lại cho học sinh.
Viết xong, thấy tập đó có thể in thành sách được, tôi đặt cho nó nhan đề Kim chỉ nam của học sinh. Lúc này tôi đã có được một số tiền tiết kiệm rồi, khỏi phải nhờ ông Hiếu nữa. Tôi mướn nhà in duy nhất ở Long Xuyên in cho 1.000 cuốn, tôi không nhớ phí tổn bao nhiêu (có lẽ là 3.000đ)[11]. Nhà in chỉ có máy đạp chân (pédale) in rất chậm, mà mỗi “cahier” chỉ được 4 hay 8 trang nhỏ, cho nên công in và khâu rất tốn mà mà sách rất xấu. Họ chỉ in các mẫu giấy tờ cho công sở và ít quảng cáo cho nhà buôn, chưa bao giờ in sách nên thiếu rất nhiều phương tiện 
Tôi bán được một số ít cho vài tiệm sách ở Long Xuyên còn thì gởi lên Sài Gòn cho nhà Phạm Văn Tươi. Ông Tươi chê sách in xấu quá nhưng khen nội dung có giá trị, bán trong mấy tháng đã hết, và xin tôi cho phép tái bản.  Cuốn đó bán chạy hơn cuốn Voulez vous que vos enfants soient de bons élèvres của giáo sư La Varenne, Thiên Giang lược dịch, nhan đề là Muốn thành học sinh giỏi, cũng do nhà P. Văn Tươi xuất bản, ra trước cuốn của tôi chừng một năm, không hề tái bản. 
Kim chỉ nam của học sinh rất được hoan nghênh. Nhiều phụ huynh học sinh sau gặp tôi, cảm ơn tôi vì nhờ cuốn đó mà con họ tấn tới. Một giáo sư bảo học trò: “Nếu theo đúng cuốn đó thì học rất giỏi, nhưng ít người theo đúng được lắm”. Cần gì phải theo đúng. Cứ hiểu nguyên tắc, hiểu phương pháp rồi chịu khó áp dụng tuỳ khả năng, hoàn cảnh của mỗi người, cũng đủ có lợi nhiều rồi.

Tôi mừng nhất là nó đã thay đổi hẳn cuộc đời của một thanh niên hiếu học nhưng nhà nghèo, không cách nào tiến thân, sau thành một bác sĩ, một nhà văn, trước 1975 đã ra được một hai tập thơ, hai cuốn dạy cách đề phòng các bệnh của thiếu nhi và của học sinh. Trong tờ Bách Khoa số 20-4-75, thanh niên đó, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết: Kim chỉ nam đã mở cho tôi chân trời mới, đọc xong, tôi thấy gần gũi với ông - (tức tôi) - kỳ lạ. Có những điều tôi đã thoáng nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì không được hướng dẫn nên không đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ thống hoá, đặt ra những nguyên tắc giúp cho việc học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được nhiều kết quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày những phương pháp thực hành, không có những lý thuyết viễn vông, nhàm chán”.
Thanh niên đó từ mười năm nay đã thành một bạn thân của tôi.
Kim chỉ nam của học sinh được tái bản bốn năm lần, lần nào cũng in ba ngàn bản. 
Sau Kim chỉ nam, cũng trong loại tổ chức, tôi viết cuốn Tổ chức công việc gia đình (1953), chỉ cách tổ chức công việc trong nhà, dự tính, sắp đặt, chỉ huy, cư xử với người giúp việc…
Nhưng sách của tôi khác những sách trong loại đó của Âu, Mĩ ở điểm tôi đề cao nếp sống giản dị, đừng để “cái hình hài làm tội cái tâm” mà “đời sống vật chất thì nên dưới mức trung, còn đời sống tinh thần nên trên mức ấy” - cuốn đó được tái bản hai ba lần.
Lại mười năm sau (1964), tôi mới viết một cuốn nữa về cách Tổ chức công việc làm ăn. Cũng vẫn áp dụng những nguyên tác tổ chức theo khoa học, nhưng cuốn này tôi chỉ in được một hai lần, mỗi làn in 2.000 bản. Thời đó giới kinh doanh không cần biết môn tổ chức. Họ chỉ cần chạy chọt, xin được cái “lít xăng” (licence: giấy phép) xuất nhập cảng, vay ngân hàng một số vốn để “khai thác” là đủ làm giàu. Có kẻ chỉ cần bán lại “licence” cũng đủ sống phong lưu. Trong cái việc đấu thầu, hễ “quen lớn”, có phe cánh là lãnh được những lô “bở”. Không biết tới cuối thế kỷ này người mình đã có được tinh thần “làm ăn” như phương Tây chưa. Cuốn đó của tôi ra sớm quá.
Ngay cuốn Tổ chức công việc theo khoa học mặc dầu in trước sau ba lần, mỗi lần 2.000 bản, cũng vẫn “được ra sớm quá”. Hiện nay (1980) từ Nam ra Bắc vẫn còn rất nhiều cơ quan không biết cách quản lí, tổ chức, làm việc luộm thuộm như tổng lí, hương chức thời tiền chiến. Mà ở phương Tây thì khoa tổ chức của Taylor, Fayol đã bị coi là lạc hậu từ hai chục năm nay rồi. Ngày nay họ tìm cách thích ứng công việc với người chứ không thích ứng người với công việc; tập cho thợ có sáng kiến, tự lãnh trách nhiệm, giúp cho thợ tự giải quyết lấy các vấn đề... Rồi đây các máy điện tử (Ordinateur[12]) sẽ làm thay đổi hẳn cách quản lí nữa; sự quyết định sẽ không tập trung vào ban giám đốc mà phân tán cho các phòng, xưởng, nghĩa là cho cấp dưới.
Chỉ một khoá hàm thụ mà giúp tôi viết bốn cuốn như trên.
Để giúp học sinh có phương pháp, sau tôi còn dịch và viết mấy cuốn nữa - có thể coi như thuộc về loại tổ chức - như:
Muốn giỏi toán hình học phẳng (dịch J. Chauvel) - 1954.
Muốn giỏi toán hình học không gian (n.t) - 1956.
Muốn giỏi toán đại số (tôi viết) - 1957.
Bí quyết thi đậu - 1955.
Mấy cuốn đó đều viết theo tinh thần cuốn Kim chỉ nam, tinh thần giúp đỡ thanh niên, giúp họ nhớ rằng cần nhất là có phương pháp, có chủ đích, làm việc đều đều. Trong đời có nhiều người rất thông minh mà thiếu những đức đó nên không làm được gì cả; trái lại có những người thông minh chỉ trên trung bình một chút thôi mà lập được sự nghiệp nhờ những đức đó.

Một số độc giả quá yêu tôi, bảo giá tôi đừng viết những cuốn đó mà khảo cứu về những đề tài cao xa thì có lợi hơn. Phải, có thể có lợi cho tôi hơn về kiến thức, nhưng chắc là ít lợi cho thanh niên. Không thấy ai viết sách dạy phương pháp làm việc cho học sinh thì tôi phải viết. Và học sinh thấy có ích nên cuốn nào cũng được tái bản nhiều lần. Trong 30 năm cầm bút, tôi bỏ ra hơn một năm giúp đỡ học sinh như vậy, tôi nghĩ không phải là phí thì giờ.
LOẠI VỀ VIỆT NGỮ
Vì dạy Việt ngữ cho lớp đệ tứ niên, tôi phải đọc kĩ cuốn Văn phạm Việt Nam của Trần Trọng Kim và vài cuốn như Nhận xét về văn phạm Việt Nam của Bùi Đức Tịnh… Đọc xong tôi thấy những sách văn phạm (nay gọi là ngữ pháp) đó, nhất là cuốn của Trần Trọng Kim phỏng theo ngữ pháp của Pháp quá, không hợp với đặc tính của tiếng Việt. Tôi lại thấy tất cả các giáo sư và học sinh đều miễn cưỡng dạy và học môn đó – vì nó có trong chương trình - chứ không tin tưởng, không thấy ích lợi chút nào cả. Và tôi viết cuốn Để hiểu văn phạm, đưa ra vài ý kiến, mặc dầu tôi chưa hề nghiên cứu về ngữ pháp.
Đại ý tôi cho rằng Việt ngữ không có phần từ pháp (morphologie), không biến di tự dạng (cùng một từ dùng làm danh từ, động từ thì viết cũng vậy: cái cuốc, cuốc đất), cho nên nhiều từ không có từ loại nhất định; ta không nên chú trọng quá đến việc phân biệt từ loại, mà nên chú trọng đến sự phân biệt từ vụ, đến vị trí của mỗi từ trong câu.
Tôi lại đề nghị không nên dùng gạch nối, vì Việt ngữ có tính cách đơn âm (ngày nay, người ta gọi là ngôn ngữ cách thể - langue isolante), rất khó để gạch nối cách nào cho hoàn toàn hữu lí được lắm, mà chỉ làm rối trí thêm cho học sinh. Viết liền những từ ghép, lại càng không nên.
Tập đó dày khoảng hơn trăm trang, tôi viết trong hai tháng, ngoài những giờ dạy học. Nhà P. Văn Tươi không nhận xuất bản vì khó bán. Tôi đề nghị bỏ vốn ra in một ngàn (hay một ngàn rưỡi) bản và để cho họ độc quyền phát hành (nhà P. Văn Tươi đứng tên), bán được bao nhiêu, trừ hoa hồng rồi còn thì về phần tôi. Lợi về vật chất không có gì nhưng về tinh thần thì đáng kể. Chính nhờ cuốn đó mà mấy năm sau, ông Trương Văn Chình (bút hiệu Trình Quốc Quang, tác giả hai cuốn Hội nghị Đà Lạt, Hội nghị Fontainbleau) ở Hà Nội di cư vô, lại đường Monceau kiếm tôi, đề nghị với tôi viết chung về ngữ pháp Việt Nam vì chủ trương của tôi có nhiều điểm hợp với ông. Rồi hơn hai chục năm sau, miền Nam giải phóng rồi, một số học giả trong viện Khoa học Xã hội (ban Ngôn ngữ) ở Bắc vô cũng lại thăm tôi, bảo họ để ý đến tôi từ khi đọc cuốn đó. Nó được chú ý như vậy vì là cuốn đầu tiên vạch một hướng mới cho công việc nghiên cứu ngữ pháp Việt, thoát li ảnh hưởng của các sách ngữ pháp Pháp dùng trong các trường học.
Cũng vì dạy Việt văn, nên tôi có ý viết một cuốn chỉ cho học sinh trung học và những người lớn tự học cách viết văn và sửa văn, nhan đề là Luyện văn.
Để viết cuốn này, tôi đọc khá nhiều tác phẩm văn chương Việt, Pháp, và một số sách Pháp về nghệ thuật viết như cuốn  L’Art d’écrire của Antoine Albalat, La Formation du style của tu viện trưởng Moreux, Le style au microscope (ba cuốn) của Criticus…
Không kể thì giờ đọc sách và thu thập tài liệu để dẫn chứng, chỉ nội công việc viết kĩ ba trăm trang cũng mất sáu tháng làm việc từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối, trừ những giờ dạy học, chấm bài, giờ ăn và ngủ trưa. Nhưng tôi không thấy mệt vì viết rất có hứng.
Viết xong cuối năm 1952, nhà P. Văn Tươi in ngay, sau tái bản được hai ba lần. Sách in ra đúng lúc Việt ngữ được trọng dụng, ai cũng thấy cần nói và viết tiếng Việt cho đúng, cho hay, còn tiếng Pháp chỉ là một ngoại ngữ ở các trường trung học, cho nên được độc giả hoan nghênh, cho là “gia đình nào cũng phải có”; có vị còn khuyến khích tôi, buộc tôi viết thêm nữa: “ông Lê, ông phải soạn ngay một cuốn Luyện văn thứ nhì và phải xuất bản gấp nội trong ba tháng, không được trễ, để hè này tôi có sách đọc mà quên cái nắng nung người đi nhé. Vấn đề còn rộng, ông chưa xét hết và ông không được từ chối”.

Tôi không từ chối, nhưng còn bận nhiều việc khác, nên năm 1956 tôi mới viết được cuốn II, 1957 mới ra nốt cuốn III. Hai cuốn này cao hơn cuốn I nên chỉ in được một lần thôi.
DỊCH DALE CARNEGIE VÀ VIẾT LOẠI SÁCH HỌC LÀM NGƯỜI
Để học tiếng Anh, tôi tập dịch sách Anh ra tiếng Việt cũng như trước kia để học bạch thoại, tôi dịch Hồ Thích.
Thật may mắn, ông P. Hiếu giới thiệu cho tôi hai cuốn How to win friends and influence people và How to stop worrying đều của Dale Carnegie và kiếm cho tôi được cả nguyên bản tiếng Mĩ với bản dịch ra tiếng Pháp.
Hai cuốn đó cực kỳ hấp dẫn, tôi say mê đọc, biết được một lối viết mới, một lối dạy học mới, toàn bằng thuật kể chuyển. Mỗi chương dài từ 10 đến 20 trang, chỉ đưa ra một chân lí, một lời khuyên; và để cho người đọc tin chân lí, lời khuyên đó, Carnegie kể cả chục câu chuyện có thực, do ông nghe thấy hoặc đọc được trong sách báo, nhiều khi là kinh nghiệm bản thân của ông nữa, kể bằng một giọng rất có duyên, cho nên đọc thích hơn tiểu thuyết mà lại dễ nhớ.
Tiếng Anh của tôi hồi đó còn non lắm – thực sự thì cũng chỉ kể như mới học sáu tháng - nên nhiều chỗ tôi phải dựa vào bản dịch tiếng Pháp. Và dịch cuốn How to win friends xong, tôi đưa ông Hiếu coi lại, sửa chữa. Do đó mà chúng tôi kí tên chung với nhau. Tôi đặt cho nhan đề là Đắc nhân tâm.
Chủ trương của tôi là dịch loại sách “Học làm người” như hai cuốn đó thì chỉ nên dịch thoát, có thể cắt bớt, tóm tắt, sửa đổi một chút cho thích hợp với người mình miễn là không phản ý tác giả; nhờ vậy mà bản dịch của chúng tôi rất lưu loát, không có “dấu vết dịch”, độc giả rất thích.
Cuốn Đắc nhân tâm bán rất chạy, từ 1951 đến 1975, in đi in lại tới 15-16 lần, tổng cộng số bán được trên 50.000 bản[13]. Có người mua trước sau ba bốn bản hoặc vì mất, hoặc để tặng bạn.
50.000 bản ở nước mình là nhiều thật, nhưng không thấm vào đâu với Âu, Mĩ. Ở Pháp, nhà Hachette lần đầu in 200.000 bản dịch, nhan đề là Comment se faire des amis; còn ở Mĩ thì không biết tới mấy triệu bản. Hiện nay (7-1980) ở chợ sách cũ, đường Cá Hấp (Bùi Quang Chiêu cũ) - Sài Gòn có người chịu mua một bản với giá 40 đồng ngân hàng (20.000đ cũ). Năm 1975 giá chỉ có 2 đồng ngân hàng.
Qui tắc đắc nhân tâm gồm trong câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”[14] mà tất cả các triết gia thời thượng cổ từ Thích Ca, Khổng Tử, Ki Tô… đều đã dạy nhân loại, nhưng trình bày như Dale Carnegie thì hơi có tính cách vị lợi, và tôi nghĩ trong đời cũng có một đôi khi chúng ta cũng cần phải tỏ thái độ một cách cương quyết chứ không thể lúc nào cũng giữ nụ cười trên môi được. Cho nên tôi thích cuốn How to stop worrying mà chúng tôi dịch là Quẳng gánh lo đi hơn.
Đúng như Đoàn Như Khuê nói:
… Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
Coi lại cùng trong bể thảm[15] thôi.

Dù sang hèn, giàu nghèo, ai cũng có ưu tư, phiền muộn; chỉ hạng đạt quan, triết nhân, quân tử mới “thản đãng đãng” (thản nhiên, vui vẻ) được như Khổng Tử nói (Luận ngữ - Thuật nhi – 36). Nhưng làm sao để có thể thản nhiên, vui vẻ thì Khổng Tử không chỉ cho ta biết. Dale Carnegie bỏ ra bảy năm nghiên cứu hết các triết gia cổ kim đông tây, đọc hàng trăm tiểu sử, phỏng vấn hàng trăm đồng bào của ông để viết cuốn Quẳng gánh lo đi.
Tôi bắt đầu đau bao tử từ khi phi cơ Pháp bắn liên thanh xuống miền Tân Thạnh (1946), năm sau qua Long Xuyên, để quên tình cảnh nước và nhà tôi phải trốn vào trong sách vở, nhưng đọc và viết suốt ngày thì bệnh bao tử lại nặng thêm, mà bác sĩ không biết, cứ cho là gan yếu, uống thuốc Tây, thuốc Bắc, thuốc Nam đều không hết.
Rồi khi đọc cuốn Quẳng gánh lo đi, tôi thấy hết ưu tư, nhẹ hẳn người đi. Suốt thời gian dịch và trong năm sáu tháng sau nữa, tôi có cảm giác “đãng đãng” đó. Vì vậy mà tôi rất mang ơn tác giả, viết một bài Tựa tôi tự lấy làm đắc ý để giới thiệu với độc giả, và cuối bài, đề:
“Long Xuyên, một ngày đẹp trong 365 ngày đẹp năm 1951”
Nhiều độc giả đồng ý với tôi là cuốn đó hay hơn Đắc nhân tâm, và ngay từ chương đầu đã trút được một phần nỗi lo rồi, cho nên chép nhan đề chương đó “Đắc nhất nhật quá nhất nhật” để trước mặt, trên bàn viết.
Mới đây, một độc giả, bác sĩ, bảo từ hồi đi học, đọc xong chương đó, thì đổi chữ kí, không kí tên thật nữa mà kí là “Today” (Hôm nay). Tôi còn giữ một bản có chữ kí đó của ông ta.
Quẳng gánh lo đi trước sau chỉ bán được độ ba chục ngàn bản, nhưng tôi chắc nó đã đem lại niềm vui cho ít nhất là của trăm ngàn người. Nó ra rất đúng lúc chiến tranh gây biết bao nỗi lo lắng cho biết bao gia đình!
Cũng trong năm 1951, tôi dịch thêm cuốn tiếng Anh nữa: Give yourself a chance (The Seven steps to success) của Gordon Byron. Nhan đề tiếng Việt của tôi: Bảy bước đến thành công.
Cuốn này nhà P. Văn Tươi cũng cho vào loại “Học làm người”, ích lợi cho thanh niên, gọn, sáng, dễ theo, nhưng không có gì đặc biệt. Có lẽ vì nhan đề hấp dẫn nên cũng được tái bản nhiều lần, tuy thua xa hai cuốn trên 
Ngoài ra tôi viết xong nhưng chưa sửa mấy cuốn này 
+ Nghệ thuật nói trước công chúng: tài liệu đa số lấy trong cuốn Public Speaking của Dale Carnegie mà tôi cho là tác phẩm thực tiễn nhất trong loại. Phần phụ lục có vài bài diễn văn rất hấp dẫn. Sách bán rất chạy, tới nay vẫn còn người tìm mua.
+ Thế hệ ngày mai: tôi tổng hợp các phương pháp tân giáo dục của phương Tây để tìm ra một đường lối mới trong việc dạy trẻ. Bài Tựa rất cảm động (cuối chương XI, tôi trích dẫn một đoạn). Tác phẩm được tái bản nhiều lần. Thiên Giang đọc xong, trở nên thân với tôi. Nhờ cuốn Kim chỉ nam của học sinh và cuốn đó mà giới hiệu trưởng, giáo sư tư thục để ý tới tôi.
+ Hiệu năng: bí quyết của thành công: trong loại Doanh nghiệp của nhà P. Văn Tươi.
+ Bí mật dầu lửa: dịch cuốn Le Secret de l’or noir của Robert Gaillard, kể vụ tìm ra mỏ dầu lửa đầu tiên ở Mĩ. Truyện có tính cách mạo hiểm, cho trẻ em đọc. Trên 15 năm sau, cuốn đó mới xuất bản[16].
VIẾT VỀ VĂN HỌC TRUNG QUỐC

Công trình mệt cho tôi nhất – mệt mà thú – hồi tản cư ở Long Xuyên nhất là viết bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc gồm ba cuốn: I. Từ thượng cổ đến đời Tuỳ; II. Đời Đường; III. Từ Ngũ đại đến hiện đại.
Viết bộ đó chủ ý của tôi cũng là để tự học. Trong bài Tựa - mà tôi lấy làm đắc ý - tôi nói hồi ở trường Bưởi tôi đã tò mò muốn biết về văn học Trung Quốc. Nền cổ học Trung Quốc như có sức gì huyền bí thu hút tôi, một thanh niên theo Tây học. Mỗi lần nghe đúng tên như Văn tâm điêu long, Chiêu Minh văn tuyển, Tiền Xích Bích phú, Qui khứ lai từ… dù chẳng hiểu nghĩa, tôi cũng thấy trong lòng vang lên một điệu trầm trầm, như nhớ nhung cái gì. Phải chăng đó là tiếng vang những giọng ngâm nga của tổ tiên tôi còn văng vẳng trong lòng tôi?
Muốn tìm hiểu văn học Trung Quốc mà sách báo Việt chỉ làm cho tôi thất vọng. Cuốn Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính sơ lược quá; còn đọc những bài dịch Cổ văn, thơ Đường đăng lác đác trên tạp chí Nam Phong và một số báo khác thì không khác gì coi mấy bông sói, bông hồng, bông ngâu, bông móng rồng mà mấy chị bán hoa ở phố Hàng Đường (Hà Nội) gói trong chiếc lá chuối, chứa trong cái thúng để bán cho các bà nội trợ mua về cúng rằm, làm sao biết được vườn làng Ngọc Hà, làng Yên Phụ ra sao.
Tôi chỉ còn cách học chữ Hán để đọc sách của người Trung Hoa viết. Khi đã có một số vốn độ 3.000 chữ, đủ để mò trong các tự điển Trung Quốc, tôi kiếm mua mấy bộ Cổ văn, Đường thi, Văn học sử, Bạch thoại văn học sử, Trung Quốc văn học tư trào sử lược… như tôi đã nói (chương XIII), rồi mò mẫm lần. Thật khó nhọc vô cùng! Đọc một bài trong Cổ văn quan chỉ dài độ hai mươi hàng, tôi thường mất cả buổi mà chỉ hiểu lờ mờ. Bộ ấy chú thích rõ ràng, và có dịch cổ văn ra bạch thoại; nhưng cổ văn và bạch thoại của tôi đều ở mức sơ đẳng, phải dùng cổ văn để đoán bạch thoại và ngược lại dùng bạch thoại để đoán cổ văn.
Còn những cuốn Văn học sử thì tuyệt nhiên không có chú thích, nhiều chỗ tôi phải viết thư hỏi bác tôi, nhưng không dám hỏi nhiều vì mất công bác viết thư trả lời. Đành đọc nhiều sách, nhiều lần rồi vỡ nghĩa dần.
Học tới đâu tôi tóm tắt, ghi tới đấy, so sánh các sách, sắp đặt rồi chép trong những tập vở 100 trang. Sau cùng dịch một số bài văn thơ, viết thành chương. Nội công việc dịch và viết này cũng mất chín, mười tháng. Các bài cổ văn thì tôi dịch lấy, thơ tôi dịch được một số, bác tôi dịch cho một số lớn. Bài thơ nào không đề tên người dịch là của tôi, đề “Vô danh dịch” là của bác tôi. Hai bác cháu đều chú trọng nhất tới đức “tín”, nghĩa là dịch sao cho đúng, cho sát, không dám sửa lời, thêm ý. Chúng tôi biết nhiều bài người trước đã dịch rồi mà hay, nhưng vì ở Long Xuyên thiếu sách, tôi không thể kiếm được, nên không dẫn vô.

Tôi viết như vậy cốt để học, chứ không nghĩ đến việc in. Viết xong, thấy có thể giúp cho các bạn hiếu học có một khái niệm về văn học Trung Quốc nên mới sửa lại rồi cho xuất bản. Sự nhận định của tôi chắc không sai nhiều vì tôi đã tham khảo kĩ, bằng những phương tiện tôi có; bố cục có mạch lạc và sáng sủa; nhưng tôi nhận rằng còn những lỗi dịch sai, nhất là phiên âm sai, mặc dầu vậy tôi cũng cứ cho ra mắt độc giả. Sở dĩ “tôi cả gan như vậy là vì tin lòng quảng đại của các vị cựu học, không nỡ trách kẻ hậu tiến học thức nông cạn mà sẵn lòng hạ cố chỉ bảo cho những chỗ sai lầm, hầu giúp bọn tân học chúng tôi hiểu thêm cái cổ học của các cụ, tức là cái nền tảng văn hóa dân tộc Việt Nam chúng ta” (trích trong bài Tựa). 

Văn học Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn đến văn học Việt Nam mà các cụ quá khiêm tốn không chịu viết thì bọn xẩm như tôi đành phải mò kim vậy.
Viết xong tôi chép lại, khoảng 750 trang, mất ba tháng nữa (vì có nhiều chữ Hán và bài nào cũng có phần phiên âm).
Ngày 20 tháng mạnh đông năm Quý Tị (26-XI-1953), mọi công việc hoàn thành, tôi thấy khoan khoái. Tôi thảo bài Tựa, cuối bài ghi cảnh trăng khuya trong vườn hoa ở phòng viết trông ra:
“Trăng mới ló dạng. Cảnh vật đang tối tăm, bí mật bỗng hoá ra êm đềm nên thơ. Nhành liễu là đà lấp lánh bên dòng nước. Giò huệ rung rinh toả hương dưới bóng dừa. Đêm nay tôi muốn thả hồn tìm thi nhân cùng danh sĩ Trung Hoa thời trước.
“Hỡi hương hồn chư vị ấy! Tôi mang ơn chư vị rất nhiều, gần bằng mang ơn văn nhân nước tôi; vì từ hồi mới sanh, tôi đã được nghe lời ngâm Chinh phụ, Thuý Kiều xen lẫn với lời bình văn thơ của chư vị và ngay trong văn học nước tôi cũng thường thấy ẩn hiện nỗi của lòng chư vị. Tâm hồn tôi ngày nay một phần cũng do chư vị đào luyện nên.
“Viết cuốn này tôi muốn có cơ hội gần chư vị thêm một chút. Tác phẩm của chư vị quá nhiều, tôi không đọc hết, nên ngoài cái lỗi giới thiệu vụng về, tất còn mang thêm cái tội vô tình xuyên tạc. Xin chư vị lượng thứ”.
Mới có 27 năm mà cảnh tôi tả trong đoạn đó nay đã thay đổi hẳn: dòng kinh đã lấp, gốc liễu đã không còn, nhưng thêm được hai cây hoàng lan, chiều tối hương thơm ngào ngạt cả một xóm.
Bác tôi mừng tôi hoàn thành tác phẩm, cho tôi hai bài thất ngôn tứ tuyệt:
Hồng tử môn tiền đấu diễm hương,
Mãn bàn thi sử phí bình chương.

Kim phong thiết mã nhàn trung quá,
Nhất hạp thanh sơn tự chủ trương.
Nễ tự biên chi ngã duyệt chi
Nhất gia lạc sự tại tương tri.
Hà tu cánh hướng đông tây vấn,
Kế vãng khai lai cánh thuộc thuỳ?
Dịch nghĩa:
(1)
Trước cửa, các hoa đỏ, tía tranh nhau phô hương sắc,
Trên bàn đầy thi sử, khó khọc phê bình.
Gặp lúc nhàn trong thời buổi binh đao,
Có chủ trương lưu lại một hộp sách trong núi xanh (lưu tác phẩm cho đời sau)
(2)
Cháu cứ viết đi, bác duyệt cho,
Cái vui trong gia đình ở chỗ bác cháu hiểu nhau.
Cần chi phải hỏi người bên đông bên tây,
Việc kế vãng khai lai còn tuỳ thuộc vào ai nữa.
Bác tôi còn cho tôi hai câu đối
Cổ sắc cổ hương văn tự cổ
Tân tâm tân bút thế phương tân
Nhất môn văn hiến kham trưng sử
Lưỡng quốc binh phần bất diệt thư
Dịch nghĩa:
(1)
Sắc cổ, hương cổ, văn thời cổ
Lòng mới, bút mới, đời vừa mới
 (2)
Một nhà văn hiến có thể ghi vào sử

Lửa binh hai nước không diệt được sách
Bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, ông P. Văn Tươi nhận là có giá trị nhưng không chịu xuất bản vì in rất tốn (phải sắp chữ Hán) mà khó bán. Năm 1955 tôi lại phải bỏ vốn ra in, 1956 mới xong[17]. Chỉ in 1.500 bản, tốn 75.000đ (mỗi cuốn 25.000đ). Giá vàng hồi đó vào khoảng 4.000đ - 5.000đ một lượng. Bán một năm được khoảng 500-600 bộ, đủ vốn; số còn lại bán bảy tám năm sau mới hết. Vậy, làm cái nghề viết văn cũng cần có vốn kha khá thì mới giữ được chí hướng, làm được những việc mình thích, mà chẳng phải tuỳ thuộc ai. Nếu tôi không có xuất bản lấy thì 10-15 năm sau chưa chắc đã có nhà chịu in cho, lòng ham viết tất phải nguội dần mà sẽ không viết thêm được cuốn nào về cổ học Trung Hoa nữa.
In xong tôi mang về Long Xuyên ngay để bác Ba tôi coi. Tôi buồn rằng cha mẹ tôi và bác Hai tôi không còn. Tôi đã không phụ công của ba người thân đó. Trang đầu sách tôi đề:
KÍNH DÂNG
Hương hồn Thân mẫu tôi,
Người đã cho tôi học thêm chữ Hán
ở giữa thời tàn tạ của Nho học.
Bộ đó năm 1964 nhà Khai Trí tái bản; in 2.000 bản, được viện Đại học Huế khuyên sinh viên đọc; nhưng năm 1974 bán vẫn chưa hết. Lần tái bản này tôi chỉ sửa được một phần lỗi trên bản flan (bản để đổ chì) thôi, vì sắp chữ lại thì tốn công lắm.
DO HOÀN CẢNH MÀ TÔI TỪ BIỆT LONG XUYÊN ĐỂ CHUYỂN LÀM NGHỀ VIẾT VĂN
Vậy trong năm năm (1949-1953) làm việc tích cực, nhất là ba năm sau cùng, tôi đã xuất bản được chín cuốn: Tổ chức công việc theo khoa học, Kim chỉ nam của học sinh, Tổ chức gia đình, Luyện văn, Để hiểu văn phạm, Đắc nhân tâm, Quẳng gánh lo đi, Bảy bước đến thành công, và Huấn luyện tình cảm dịch từ 1941 - lại có sẵn một bộ 3 cuốn Đại cương văn học sử Trung Quốc; và 4 tác phẩm nữa: Nghệ thuật nói…, Thế hệ ngày mai, Hiệu năng, Bí mật dầu lửa.
Tác quyền được khoảng trên100.000đ, cộng với số lương giáo sư, số tiền dạy tư tại nhà, tiêu pha rồi (tôi sống rất giản dị, chỉ tốn tiền học hàm thụ và mua sách), đưa cho nhà tôi một số tiền để sang một căn nhà nhỏ trong một hẻm khu Hãng Sáo (Tân Định) mà mẹ con khỏi phải ở chung với bạn và các em nữa, cuối năm 1953 còn dư non 200.000đ. Nhớ lại hồi mới qua Long Xuyên trong túi chỉ có 200đ.
Đáng kể nhất là tôi có chút danh trên văn đàn và được một số độc giả khá đông tin cậy. Tôi đã thành cây viết chính của nhà P. Văn Tươi.
Được vậy một phần là nhờ nhà tôi đã can đảm một mình làm việc nuôi con, dạy con nữa; một phần là nhờ thân mẫu cô Nguyễn Thị Liệp. Bà cụ theo nếp cổ, nghiêm khắc, ít nói, nhưng tin tôi cho tôi ở nhờ, có chỗ yên ổn để học, dạy học, viết sách, mà sở dĩ tin tôi cũng là do biết bác tôi và thấy tôi biết chữ Nho. Tôi ở Long Xuyên không bao lâu thì cụ qui tiên, và cô Liệp cũng tiếp tục cho tôi ở. Tôi xin góp tiền chợ, cô không nhận. Thấm thoát mà tôi ở nhà cô tới non bảy năm. Trong đời dễ gì gặp được người bạn như vậy, nếu không phải là duyên trời.
Ngày nay nghĩ lại, tôi thấy số phận tôi một phần do tôi quyết định, nhưng phần lớn thì do may rủi, do những cái ngẫu nhiên xảy tới, không sao ngờ được, nhất là do thời cuộc.
Ông cha tôi không ai viết sách, làm nghề viết văn; song thân tôi, mẹ tôi và các bác tôi cũng không có ý định cho tôi thành nhà văn; chính tôi tới năm 1951, hồi bốn chục tuổi, mặc đã chính thức bước vào làng văn mà vẫn chưa có ý sống bằng nghề cầm bút. Còn số tử vi của tôi, nhiều người đã coi, không ai biết được là số của một nhà văn. Bác Ba tôi chỉ đoán được số tốt, giàu và sang; và tôi thấy một người số tử vi giống số tôi đến tám phần mười, mà làm thầu khoán, giàu lớn. Một ông bạn già bảo số tôi nổi danh vì được cách “tứ linh hội phi liêm, thanh danh viễn chấn”, nhưng trong nghề nào cũng có người nổi danh, mà cứ theo các chính tinh ở mạng và chiếu mạng của tôi, thì tôi làm một kĩ thuật gia hoặc một nhà kinh doanh mới hợp, vì mạng tôi có Vũ khúc với Sát, Phá, Liêm, Tham; thân tôi ở cung Thiên di có Thiên phủ, Lộc tồn. Mạng, thân đều không có Khôi, Việt (văn tinh); còn Xương khúc, Hoá khoa (cũng là văn tinh) thì đều ở cung thê, bàng chiếu về cung thân.
Chỉ những bạn nào đã biết tôi là nhà văn rồi, coi tử vi cho tôi mới giảng rằng chính nhờ cách Xương khúc, Hoá khoa chiếu cung thân đó mà ngoài bốn mươi tuổi, tôi đổi nghề thành một nhà văn có danh. Như vậy là giảng một cách hơi ép, chứ không phải là đoán số. Cho nên tôi không tin hẳn môn số; nhiều lắm nó chỉ đúng được sáu phần mười thôi; sự di truyền của tổ tiên, giáo dục trong gia đình, hoàn cảnh và thời cuộc mới có ảnh hưởng lớn tới đời sống con người.
Về di truyền thì ông nội, ông ngoại tôi đều có tiếng là hay chữ, bà nội tôi lại ở trong một thế tộc mười đời khoa hoạn. Tới thế hệ cha tôi thì có hai bác Cả và Ba của tôi học giỏi. Tới thế hệ của tôi thì hai anh Tân Phương, Việt Châu và tôi đều có khiếu về văn.
Về giáo dục thì trong gia đình tôi, đời nào cũng trọng sự học, cũng cha (có khi cả mẹ nữa như bà nội tôi, rồi nhà tôi) dạy cho con, mẹ tôi tuy không dạy tôi nhưng lại cho tôi học thêm chữ Nho với bác Hai tôi.
Do hai nguyên nhân mới kể, tôi thích đọc sách, thích văn học, mặc dầu học nghề công chánh.
Rồi thì hoàn cảnh và thời cuộc đưa đẩy tôi vào nghề cầm bút:
- Đầu năm 1935, không có kinh tế khủng hoảng, ở trường Công chánh ra tôi được bổ nhiệm ngay thì tất tôi không có thì giờ học thêm chữ Hán.
- Đầu năm 1935 tôi mới được bổ mà bổ ngay vào Nam, ở gần bác tôi; mười năm sau (1946) tôi lại tản cư về Tân Thạnh; khi tôi qua Long Xuyên rồi thì hai năm sau bác tôi cũng tản cư qua đấy; nhớ vậy tôi có dịp học thêm với bác tôi. Mà chữ Hán rất có ích cho nhà văn.

- Ở Long Xuyên, tôi gặp ông P. Hiếu, một người cũng thích văn; ông giúp tôi xuất bản tác phẩm đầu tiên, lại cùng dịch với tôi hai cuốn của Carnegie.
- Nhờ dạy học ở trường Thoại Ngọc Hầu tôi mới có ý viết vài cuốn cho học sinh.
- Tôi viết những cuốn đầu đó đúng lúc nhà xuất bản P. Văn Tươi cho ra loại sách “Học làm người” tiếng Pháp gọi là Culture humaine, tiếng Anh gọi là Self improvement. Thực ra ông Tươi không phải là người mở đường. Trong thế chiến, tôi nhớ đâu vào khoảng 1943, nhà Hàn Thuyên ở Hà Nội đã cho ra vài cuốn về kinh doanh, về luân lí thực nghiệp. Trước hay sau đó, một người soạn (hay dịch) một cuốn về tinh thần khoa học được giải thưởng Alexandre de Rhodes; nhóm Tự Lực cũng xuất bản cuốn Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo và dịch ít đoạn trong cuốn Le chemin du bonheur của V. Pauchet; được thanh niên chú ý.
Lúc đó người ta đã thấy phải cải tạo tinh thần của thanh niên để thích ứng với thời mới, và lớp thanh niên được cải tạo đó sẽ là lớp người mở đầu cho giai đoạn phát triển kinh tế sắp tới. Ý đó “phảng phất trong không khí” từ đầu thế chiến. Ông Tươi cho tôi hay hồi đó ông viết một cuốn rồi xuất bản nhưng bán không chạy.
Năm 1949-50 ông tụ tập được một số cây viết cùng chủ trương, như Thiên Giang, Nguyễn Duy Cần, mở nhà xuất bản, mới đầu chuyên ra loại Học làm người và loại đó hợp với nhu cầu của thời đại nên ông thành công rất mau, chỉ trong một năm, nhà xuất bản ông nổi tiếng, được sự tin cậy của rất nhiều độc giả.
Nhờ vậy, tác phẩm nào của tôi lúc đó gởi cho ông cũng được ông hoan nghênh liền.
- Một điều may nữa là cũng vào lúc đó - năm 1951 hay 1952 - Việt ngữ được dùng làm chuyển ngữ ở tiểu học rồi trung học, từ nhà giáo đến học sinh đều cần sách Việt; mà số học sinh tăng gấp ba gấp bốn năm 1948, số độc giả cũng tăng theo tuy chậm hơn, nên sách của tôi rất dễ bán.
- Nhưng cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 mới làm thay đổi hẳn cuộc đời của tôi. Khi quân đội Pháp đổ bộ lên Sài Gòn, muốn tái chiếm nước mình, tôi đã quyết tâm bỏ luôn nghề công chánh, không trở lại làm việc nữa nếu Pháp vẫn làm chủ nước mình. Một phần vì vậy tôi mới học nghề Đông y, học chưa rành thì phải qua Long Xuyên rồi dạy học chờ thời, vừa dạy học vừa học thêm vừa viết sách. Không có cuộc cách mạng đó, tôi vẫn làm sở Công chánh thì viết không thể nhiều được.
Đầu năm 1953 tôi thấy nghề viết sách giúp tôi sống được, tôi chuẩn bị để chuyển nghề. Vừa đúng lúc này việc dạy học không còn hứng thú nữa vì đa số nam sinh chán nản không muốn học. Tình hình hồi đó khá nguy cho Pháp. Từ 1952, họ đã ra lệnh bắt tất cả thanh nhiên Việt Nam từ 18 tuổi phải nhập ngũ, người nào học hết năm thứ tư cao đẳng tiểu học, thi bằng Cao tiểu đậu hay rớt thì cũng phải học một khoá quân sự ở Thủ Đức trong sáu tháng (?) rồi ra làm chuẩn uý[18]. Như vậy thì gắng học để thi làm gì? Đằng nào thì cũng sẽ thành bia đỡ đạn cả. Chính phụ huynh học sinh lo lắng, không muốn thúc con học, chỉ tìm cách chạy chọt để con được miễn dịch thôi.
Tôi khuyên học sinh đừng thối chí. Không ai biết chắc được tương lai ra sao. Có thể sắp có sự thay đổi. Dù không thay đổi ngay thì có bằng Cao tiểu[19] vẫn hơn: nhập ngũ có thể được chuyển qua một ngành chuyên môn, không phải ra mặt trận; rồi khi giải ngũ có bằng cấp đó, muốn tiếp tục học nữa cũng dễ. Tuy khuyên chứ tôi cũng biết không trò nào nghe tôi.
 
Lớp học vẫn còn kỷ luật, nhưng không khí rất buồn, tinh thần học sinh xuống rất thấp, đa số đãng trí không nghe lời giảng, làm bài qua loa cho xong. Dạy học mà không có hứng, không thấy có kết quả thì thà làm nghề khác còn hơn, để lương tâm khỏi bứt rứt.
Giữa niên học tôi làm đơn gởi lên ông Thơ xin thôi dạy từ cuối niên khoá đó, không kí lại giao kèo cho niên khoá sau. Ông giữ lời đã hứa với tôi, nên không bác đơn, nhưng cứ ngâm đó.
Đơn gởi rồi, tôi chuẩn bị ngay.

Tôi đã tính kĩ. Trong mấy năm tôi để gây một số vốn khoảng 200.000đ. Bỏ ra một ít để sửa sang nhà ở Sài Gòn, một số nữa làm vốn xuất bản; vẫn còn khoảng 70-80 ngàn đủ sống một năm mà khỏi phải làm gì. Ấy là chưa kể số tiền tác quyền nhà P. Văn Tươi sẽ trả.
Tôi lại có sẵn non chục tác phẩm, kể cả một số bản thảo viết trước 1945: Đế Thiên Đế Thích (du ký), Nam Du tạp ức (dịch của Hồ Thích), và bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc viết sắp xong.
Tôi lại có gần đủ tài liệu để viết ba bốn cuốn nữa như Tự học để thành công, Nghề viết văn, Bí quyết thi đậu, Đông Kinh nghĩa thục…
Như vậy là có đủ việc làm, đủ tác phẩm để xuất bản trong vài ba năm. Hễ qua được hai năm đầu rồi thì cứ theo đà đó mà tiếp tục được ít nhất cũng năm, mười năm.
Tôi dự định tự xuất bản lấy; công việc không tốn thì giờ bao nhiêu: chỉ được đưa cho một nhà in, họ lo việc kiểm duyệt rồi in cho mình, mình chỉ sửa bản vỗ (morasse) lần cuối cùng; in xong họ chở lại nhà rồi tôi đem giao cho bốn năm nhà phát hành ở Sài Gòn như Nam Cường, nhà Yiễm Yiễm, nhà Á Châu… với vài tiệm sách lớn, thu ngay được một số tiền mặt gần bằng nửa vốn in; khi các nhà đó bán gần hết, sẽ lấy thêm. Như vậy mỗi tháng mất độ bốn năm ngày, còn nhiều thì giờ để viết. Mà số lợi trung bình gấp ba – có khi gấp bốn nếu sách bán chạy – số tác quyền trong trường hợp bán cho một nhà xuất bản.
Tôi tính mỗi năm chỉ viết ba cuốn - mỗi cuốn độ hai trăm trang, bán được độ 2.000, 3.000 bản thôi - mà xuất bản lấy thì cũng bằng có chín, mười cuốn bán cho nhà xuất bản.
Không dạy học nữa mà cũng không mua tác phẩm của ai để kinh doanh, chỉ viết rồi đưa in, bán ở nhà như vậy, tôi có thể viết mỗi năm được số đó và sống ung dung với cây viết. Tính kĩ rồi tôi vững bụng tin chắc sẽ thành công, cho nên như trên tôi đã nói, dù biết rằng theo số tử vi, tôi sắp bước vào một đại hạn rất xấu, tôi cũng quyết tâm đổi nghề: nhân năng thắng số; mà cũng có thể là số sai.
Mùa hè năm đó, ông Thơ thấy tôi không trở lại dạy trường Thoại Ngọc Hầu, đành phải cho tôi thôi, nhưng ông vẫn cố níu trở lại. Ông bảo: “cho vui, bạn bè ở đây có được bao người”.
- Nhà văn làm nghề xuất bản thì nhất định thất bại. Anh không nhớ Balzac phải bán nhà in, nợ như chúa chổm rồi viết đêm viết ngày đến khi chết vẫn trả chưa hết nợ đó sao?
Tôi đáp:
- Tôi làm sao dám ví với Balzac. Ông ta là một nghệ sĩ, tôi chẳng có chút máu nghệ sĩ nào trong người cả. Ông ta là một thiên tài và tự cho rằng một thiên tài thì đáng sống cuộc đời lộng lẫy của bọn công tước, bá tước, tóm lại là ông ham cái chữ de, Honoré de Balzac, nên mới mắc nợ, phải viết như mọi để trả nợ. Tôi không cần nhiều anh ơi, miễn kiếm được một số tiền đủ sống, chẳng hạn bằng số  lương giáo sư hay kĩ sư là mãn nguyện rồi; mà tôi đã tính cẩn thận, có thể kiếm được một số như vậy, nếu chịu làm việc gấp hai một giáo sư, kĩ sư. Tuy mệt nhưng được tự do, chẳng phải tuỳ thuộc ai, chẳng phải đi đúng giờ, về đúng giờ.
Sáng ngày tựu trường năm đó, ngồi bàn viết, trông ra ngoài đường, thấy học sinh dắt nhau, ríu rít đi ngang tôi cũng buồn buồn, nhớ bạn, nhớ trò, nhớ cảnh trường. Mới dạy có ba năm mà tôi cũng đã quyến luyến với nghề rồi, trách chi nhà tôo, cô Liệp sau ba mươi bảy năm dạy học, về hưu chẳng buồn rầu, tuần nào cũng tới trường cũ một lần cho đỡ nhớ.
Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng bài 20 bảo: “Người quân tử có ba điều vui. Trong ba điều ấy không có điều làm vua thiên hạ, mà có điều: được bọn anh tài trong thiên hạ để dạy dỗ” (Quân tử hữu tam lạc, nhi vương thiên hạ bất dự tồn yên (…): đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi…).
Tôi nghiệm thấy ở nước ta, người nào là con cháu nhà Nho chân chính, con cháu giai cấp sĩ phu, cũng có vài nét chung dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái. Yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và có khiếu dạy học nữa. Tôi được dăm ba ông bạn trong giới ấy mà ông Đông Hồ là một. Ông với tôi thân nhau, quí nhau một phần vì vậy.
Dạy học mà được một số trò thông minh, hiếu học, lại có thì giờ viết sách nữa thì thật là một điều vui. Hai năm đầu tôi được hưởng cái vui đó, mà bây giờ tôi còn giữ được nhiều kỉ niệm đẹp về thời đó. Đầu năm 1974, trong một buổi tiệc tất niên âm lịch của Hội cựu học sinh Thoại Ngọc Hầu tổ chức ở sân trường, tôi được gặp lại vài bạn giáo sư cũ và nhiều học trò cũ đã thành bác sĩ, dược sĩ, hiệu trưởng…; được thấy tình niềm nở, thân mật, kính mến của họ đối với tôi, tôi càng thấy lời Mạnh Tử là đúng. Giá tôi không viết sách thì chưa chắc năm 1953 tôi đã bỏ trường Thoại Ngọc Hầu vì mặc dầu không khí năm đó kém trước, nhưng học trò vẫn còn tình nghĩa với thầy. Làm nghề viết văn, tôi may mắn được một số độc giả thanh niên coi tôi như thầy, gọi tôi bằng thầy, tuy không học với tôi một giờ nào. Điều đó an ủi tôi rất nhiều và chung qui tôi vẫn là một nhà giáo cho tới ngày nay.
Trong mấy tháng cuối, tôi rán chép cho xong bộ Văn học sử Trung Quốc rồi thu xếp để lên Sài Gòn. Tôi chỉ đem theo bản thảo và một cái rương sách cần dùng, còn thì để lại cả. Tôi không đi chào ai, ngoài hai bác tôi. Bác tôi có vẻ buồn, nhưng tôi thưa rằng chỉ ít tháng tôi sẽ về thăm. Gặp ai tôi cũng nói lên Sài Gòn tính việc làm ăn, chứ không vĩnh biệt Long Xuyên. Tôi đưa cô Liệp mười lượng vàng nhờ giữ giùm, trong thâm tâm tôi là một cách trả ơn cô và để cô dưỡng già.
 
Khoảng cuối tháng 11-1953 tôi rời Long Xuyên. Tình hình chiến sự ở Bắc Việt lúc đó bất lợi cho Pháp, ai cũng biết sắp có sự thay đổi.

[1] Trường Trung học Thoại Ngọc Hầu được thành lập năm 1948 với tên là College de Long Xuyên. Trong niên khoá đầu tiên, ban giản huấn gồm các ông: Lê Xuân Kính làm hiệu trưởng và các thầy Từ Chấn Sâm, Đỗ Văn Hách, Phan Văn Tài, Nguyễn Thái Hưng, Trương Văn Đức. Qua năm sau, 1949, Bộ Giáo Dục mới chánh thức bổ nhiệm Ông Đặng Văn Kế làm hiệu trưởng. (Theo T.N.D., Nguồn gốc việc thành lập trường Trung học Thoại ngọc Hầu, http://www.aihuuangiang.org/xuan08/truongthoaingochau.html). (Goldfish).
[2] Nguyên văn chữ Hán trong cuốn Cổ văn Trung Quốc của tôi (Tao đàn -1966).
[3] Hãn (hàn) mặc: bút mực.
[4] Khối (ổi) lỗi: người bằng gỗ, ý nói loài người là đồ chơi, búp bê của hoá công.
[5] Hạo nhiên: mênh mông, tôi đoán là vũ trụ.
[6] Cầm tôn: đàn và chén rượu.
[7] Bát hoang lục vũ: cả trong vũ trụ.
[8] Ý muốn nói: dù lớn nhỏ cũng do khí thiêng của trời đất un đúc, nuôi nấng.
[9] Cũng đọc là lô. Cừ lư: lò cừ.
[10] Chương là bàn tay, bả là nắm.
[11] Trong ĐVVCT ghi là: “(khoảng 8.000 đồng? Vàng lúc đó 3.400 đồng 1 lượng)”. Goldfish.
[12] Tiếng Anh là computer: máy điện toán, máy vi tính. (Goldfish)
[13] Gần đây (1985, 1992) hai, ba nhà xuất bản cùng in, mỗi lần có hơn vài chục ngàn bản (BT).
[14] Lời của Khổng Tử; có người dịch là: Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. (Goldfish)
[15] Trong ĐVVCT in là: biển khổ. (Goldfish).
[16] Tức năm 1968, Tuổi Hoa xuất bản. (Goldfish).
[17] Trong danh mục sách trong cuốn Mười câu chuyện văn chương thì bộ ĐCVHTQ do nhà Nguyễn Hiến Lê xuất bản năm 1955. Do đó ta có thể suy ra rằng năm 1955 đã in xong cuốn đầu hoặc cuốn đầu và cuốn thứ hai, năm 1956 thì in xong cuốn thứ ba hoặc cuốn thứ hai và cuốn thứ ba. (Goldfish).
[18] Có tài liệu cho rằng trong 5 khoá đầu từ 1951-1954, sinh viên tốt nghiệp quân trường Thủ Đức được mang cấp bực thiếu uý; từ khoá thứ 6 trở đi thì sinh viên tốt nghiệp chỉ mang cấp bực chuẩn ý. (Goldfish).
[19] Có lẽ vào thời đó, bằng Cao đẳng Tiểu học đã đổi tên thành bằng Trung học đệ nhất cấp, và lớp Đệ tứ niên đã đổi tên thành lớp Đệ Tứ (nay là lớp 9). (Goldfish).
Chương XIX
Pháp Sa Lầy Và Thua Ở Bắc Việt
TẠI SAO PHÁP THUA?

Những người Pháp sáng suốt như Leclerc, Sainteny, Lacouture, Devillers, Paul Mus... đều muốn điều đình vì biết chiến tranh sẽ kéo dài, càng kéo dài càng bất lợi cho Pháp. Việt Nam có đủ ba điều kiện để thắng: địa lợi, nhơn hòa và thiên thời.
Về địa lợi, chúng ta chiến đấu ở trên đất chúng ta, biết rõ sông núi từng miền, quen với khí hậu. Pháp trái lại, phải đem quân viễn chinh qua, rất tốn kém mà không quen với sông núi, khí hậu. Nước ta rất nhiều rừng, khi địch tấn công ta mạnh quá, ta chống cự không lại rồi thì rút lui ngay vào rừng, bụi; địch không dám đuổi theo.
Ta lại có thể tản vào trong đám dân thường, làm bộ cuốc đất hay nhổ cỏ, hoặc núp trong hầm hố, và được dân chúng che chở cho. Bộ đội khéo được huấn luyện, tới đâu cũng nhã nhặn, lễ phép, vui vẻ, giúp đỡ dân, cho nên rất được lòng dân, sống với dân như cá trong nước.
Vả lại toàn dân đều coi thực dân Pháp là kẻ thù, đều muốn đuổi chúng đi, gần như gia đình nào cũng có người theo bộ đội hoặc giúp kháng chiến, và coi chính phủ kháng chiến là chính phủ của dân, mặc dầu những người lãnh đạo là cộng sản. Ông Hồ Chí Minh đã giải tán đảng Cộng sản, hô hào toàn dân đoàn kết và toàn dân đã đoàn kết thật, ít nhất là cho tới năm 1950. Cũng có một số rất ít vì lẽ này hay lẽ khác bất mãn với chính phủ, nhưng hạng đó không dám sống ở chiến khu mà phải về những miền bị địch chiếm. Ngay trong những miền này, số dân có cảm tình với kháng chiến cũng rất động, có nơi đến chín phần mười. Như vậy địch bất kì ở đâu cũng phải sống với kẻ thù, lo lắng, bất an; nhất cử nhất động của họ đều bị theo dõi và báo cho kháng chiến biết. Kháng chiến được điều kiện nhân hòa đó, nên lực lượng mỗi ngày một tăng: mới đâu chỉ có một số du kích, cuối cùng có tới vài ba trăm ngàn quân kể cả chính qui và du kích, với những sư đoàn đầy đủ võ khí nặng. Quân đội Pháp không thể tăng hoài cho kịp ta được vì ngân sách thiếu, dân chúng họ cũng muốn chống tăng thuế, chỉ muốn sống yên ổn thôi, không muốn chiến tranh. Họ không muốn cho con họ chết trong rừng bụi Đông Dương để bảo vệ quyền lợi của giới tư bản.
Như vậy càng kéo dài chiến tranh thì quân ta càng mạnh lên mà địch càng suy, tất phải tới một lúc địch không chịu nổi phải xin hòa đàm.
Điều lợi thứ ba cho ta là thiên thời. Sau thế chiến thứ nhì là thời giải thực (décolonisation), thời tàn của chế độ thực dân lối cũ. Các dân tộc thuộc địa khắp thế giới đều muốn đuổi thực dân đi, và cường quốc thứ nhất là Mĩ không muốn cho Pháp chiếm lại Việt Nam; vì vậy năm 1945 Mĩ có cảm tình với Việt Minh. Còn Nga thì không hề lên tiếng ủng hộ Hồ Chí Minh, không hiểu tại sao. Anh, cường quốc thứ ba, nhờ có thủ tướng Attlee sáng suốt, đã tự ý trả lại độc lập cho các thuộc địa cũ. Pháp yếu mà tham, ngu muội cố bám lấy các thuộc địa nên hùng hùng hổ hổ đem quân viễn chinh qua tính tái chiếm nước mình, rốt cuộc đã mất Việt Nam, sau lại mất Algérie và phải bấm bụng trả lại độc lập cho tất cả các thuộc địa khác mà vẫn bị thế giới ghét.
Nhất là từ cuối năm 1949, cộng sản Trung Hoa đánh bại Quốc Dân đảng, chiếm toàn thể lục địa, Tưởng Giới Thạch phải cuốn gói qua Đài Loan; rồi tháng Giêng năm 1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhìn nhận Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, thì sức kháng chiến của mình tăng lên rất mau, nhờ sự giúp đỡ của Trung Hoa: quân đội của mình có thể “trốn” qua Trung Hoa được, họ huấn luyện cho, viện trợ lương thực, khí giới cho.
Năm 1953, chiến tranh Triều Tiên kết liễu rồi, sự viện trợ đó càng tăng cường, và theo Bernard Fall thì từ đó, Paris hoặc Washington còn hi vọng hão huyền, chứ ở Sài Gòn và Hà Nội, bọn thực dân đã hết ảo tưởng, chỉ cố vơ vét cho thật nhiều để cuốn gói về “mẫu quốc”.
Một nguyên nhân nữa mà tôi cho là nguyên nhân chính: chiến tranh của ta có chính nghĩa, toàn dân vì chính nghĩa mà chiến đấu; quân đội của Pháp, trừ một số thanh niên Pháp và một số lính lê dương là chiến đấu hăng, hầu hết tinh thần rất kém, nhất là bọn “partisan”, bọn lính đánh thuê Việt mà họ tuyển. Sau khi Bảo Đại về nước, Pháp buộc Bảo Đại phải thành lập một đạo quân Việt Nam, Bảo Đại phải kí sắc lệnh bắt thanh niên nhập ngũ, sắc lệnh đó khiến dân càng ghét Bảo Đại và Pháp. Chương trên tôi đã nói ảnh hưởng biện pháp ấy tới học sinh ra sao.
Louis Saurel trong cuốn La Guerre d’Indochine (Editions Rouff – Paris – 1966) dẫn mấy hàng này trong một số Paris Match:
“Khi sắp có trận Điện Biên Phủ, tướng Navarre (Tổng tư lệnh Pháp ở Đông Dương) kêu 120.000 thanh niên Việt Nam nhập ngũ, thì chỉ có 7.000 trình diện, trong số đó có 5.000 sở dĩ trình diện vì biết chắc sẽ được miễn dịch, thải về”.
Có nhiều người tự hủy hoại thân thể thành tàn phế để khỏi bị bắt lính. Kẻ có tiền thì đút lót, chạy chọt. Vậy là kêu 120.000 chỉ được có 2.000.
Đúng như lời ông Hồ Chí Minh nói với kí giả Mĩ Davis Schoenbrun từ 11-9-1946, trước khi xảy ra chiến tranh ở Bắc:
“Nếu có chiến tranh thì sẽ là một cuộc chiến đấu giữa con cọp và con voi. Nếu cọp ngưng thì bị ngà voi đâm thủng bụng liền. Nhưng nếu cọp không ngừng thì voi lần lần sẽ mất máu và kiệt sức”.
LỰC LƯỢNG VÀ TÍNH THẦN QUÂN ĐỘI PHÁP
Tháng Giêng 1947 khi chiến tranh mới phát, Leclerc tính phải có 500.000 quân mới thắng nổi. Không biết hồi đó ông ta đoán quân đội du kích Việt có được bao nhiêu. Theo các nhà quân sự Mĩ năm 1960, thì muốn chặn được du kích phải có một số quân gấp 10 số quân du kích. Muốn thắng được thì số quân phải gấp 20. Ở Mã Lai, Anh dùng 350.000 quân mà mất 12 năm mới diệt được 8.000 Mã cộng. Như vậy không phải là gấp 20 mà gấp 40.
Quân Pháp hồi đó chỉ có 13.000 người[1]. Leclerc đòi tăng lên 500.000, các bộ trưởng Pháp hoảng hồn, lắc đầu. Từ đó tới 1954, có tất cả 19 lần cải tổ nội các, nội các nào cũng không chịu thương thuyết với chính phủ kháng chiến của ta, mặc dầu những người Pháp sáng suốt bảo chỉ chính phủ đó mới được toàn dân ủng hộ. Pháp không đủ sức tăng quân số lên, dân chúng thấy chiến tranh sa lầy sinh chán nản. Các thượng tướng hàng Tổng tư lệnh, Tư lệnh đa số bất tài, thay đổi không biết mấy lần; tướng nào cũng tin chiến lược của mình mới đúng, mà chẳng chiến lược nào có kết quả, nhiều lắm chỉ gỡ nguy được một thời gian. Còn hạng thấp hơn, thiếu tướng, tá, đại úy thì theo Lucien Bodard trong La guerre d’Indochine (3 cuốn) chỉ phè phỡn, ham tiền, gái, huy chương. Bất đắc dĩ phải dùng quân đội Việt. Pháp tung tiền ra mua chuộc các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và đảng Bình Xuyên; nhưng hễ không thỏa mãn được yêu sách của họ, thì họ bỏ vô bưng, mang theo khí giới.
Sài Gòn, Hà Nội thành những kinh đô ăn chơi, áp phe mà áp phe lớn nhất là buôn đồng quan. Từ trên xuống dưới ai cũng đua nhau xin được mua đồng quan theo hối suất chính phủ (1 đồng bạc Đông Dương ăn 17 quan), xin giấy phép xuất nhập cảng. Được một giấy phép xuất nhập cảng rồi, người ta chỉ nhập cảng lấy lệ một số đồ xấu giá rẻ còn dư đồng quan thì gởi các ngân hàng bên Pháp, vì buôn bán gì cũng không lợi bằng mua bán đồng quan. Tóm lại bao nhiêu thanh niên Pháp chết, toàn dân Pháp phải đóng thuế để nuôi mập một bọn thực dân con buôn và một số tay sai Việt Nam của chúng.
CHIẾN SỰ Ở NAM, BẮC
Mặt trận ở Nam (từ Đèo Cả trở vào) không có gì quan trọng, tình hình cho tới 1954 đại khái cũng như hồi 1946. Chỉ khác mỗi ngày du kích tăng lên nhiều hơn, các đường giao thông, nhất là đường Sài Gòn - Miền Tây bất ổn hơn. Nhiều đoàn xe dài hai ba chục chiếc của quân đội cũng bị phục kích, mà hễ bị phục kích thì tổn thất lần nào cũng nặng. Có chỗ bị phục kích hoài - 4, 5 lần - mà không cách nào tránh được, đồn bót bên đường không có chút công dụng gì cả. Về sau Pháp phải cho quân đội đi dò mìn mỗi buổi sáng rồi mới cho xe đò qua, vì vậy có nhiều chuyến xe từ Hậu Giang lên phải đậu lại ở Mĩ Thuận, sáng hôm sau mới tới Sài Gòn. Xe đò muốn chạy thì phải đóng thuế cho Việt Minh. Miền quê nào bị quân Pháp thường bố thì dân chúng một phần rời vào trong xa, một phần ra các thành thị. Dân số các châu thành tăng lên rất mau, càng dễ cho Việt Minh len lỏi vào; đồng quê bỏ hoang, kinh tế càng mau suy sụp. Những vụ xử tử Việt gian ở làng xóm cũng tăng lên. Tình thế mỗi ngày mỗi tệ.

Ở Sài Gòn, bác sĩ Thinh tự tử rồi, Hoạch lên thay, rồi Xuân, rồi Hữu... nhưng Pháp có giao cho chút quyền hành nào đâu, họ chỉ đóng vai bù nhìn; dù là bù nhìn thì cũng phải có chút tư cách, mà bọn họ lại thiếu tư cách quá, quan thầy biểu sao nghe vậy, nên bị dân chúng khinh. Báo nào độc lập, có cảm tình với kháng chiến thì bán chạy như tôm tươi, còn báo của chính quyền chỉ để phát không cho các công sở. Điều đó đáng lẽ mở mắt cho họ chứ; nhưng họ lại cho báo chí là tiếng nói bậy bạ của bọn “nói láo ăn tiền”, chứ dân chúng thì ghét cộng chứ không ghét Pháp và chỉ muốn yên ổn làm ăn. Họ thật mù quáng không biết tinh thần yêu nước của người Việt.
Khi chiến tranh nổ ở Bắc, D’Argenlieu bị gọi về Pháp, Bollaert qua thay nhưng chỉ có nhiệm vụ tìm hiểu tình hình rồi báo cáo về Pháp thôi. Không hề ở Việt Nam, ông ta làm sao hiểu tình hình được. Người phụ tá của ông là Pignon, Torel với bọn thực dân nói gì thì ông biết vậy. Vả lại chính phủ Pháp cũng không có ý muốn thương thuyết, nên chẳng có gì thay đổi cả.
Ở Bắc, chính phủ kháng chiến rút lên miền Thái Nguyên, Bắc Cạn để bảo toàn lực lượng, tổ chức, huấn luyện du kích, nắm chắc dân tâm và hô hào toàn dân bất hợp tác với Pháp. Giai đoạn đầu là giai đoạn du kích, phải mua và chế tạo những khí giới nhẹ; những khí giới nặng như chiến xa, đại bác đều cất giấu hoặc hủy bỏ.
Tháng 10-1947, Hồ Chủ tịch ở Bắc Cạn, chung quanh chỉ có vài ngàn quân không đủ khí giới, nhưng trong khu Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc Cạn có nhiều kho khí giới và nhiều quân đội. Tướng Valluy biết được tin đó, đem một lực lượng rất mạnh, gồm 15.000 quân với nhiều xe thiết giáp, phi cơ phóng pháo, săn giặc, bất thần đánh vào Bắc Cạn để bắt sống Hồ Chủ tịch, nhưng ông Hồ thoát kịp. Chuyến đó Pháp không đạt được mục đích mà tổn thất nặng vì khi rút lui, bị phục kích.
Trong chiến dịch đó, quân Pháp chiếm được con đường thuộc địa số 4 từ Cao Bằng tới Lạng Sơn, chủ ý để bao vây quân Việt ở phía Bắc, không cho trốn qua Trung Hoa. Đại tá Beauffre chiếm Cao Bằng một cách quá dễ dàng, không tốn một viên đạn, không gặp một lính Việt, một người dân Việt; chỉ thấy những chiếc cầu bị phá, những khúc đường bị đào và những xóm làng đương cháy. Vài ngày sau quân đội của ông ta mới bị phục kích. Và từ đó, con đường số 4 bị phục kích liền liền thành một ung nhọt rỉ máu hoài, làm tiêu mòn lực lượng của Pháp. Pháp phải dùng mấy ngàn lính bảo vệ con đường, mỗi tháng tiêu hàng tỉ quan, mà các nghĩa địa ở Cao Bằng và Lạng Sơn thì mỗi ngày một thêm những cây thánh giá quét vôi trắng.
Ai cũng biết đó là một thất sách nhưng các tướng Pháp tự ái, không chịu rút lui, bỏ con đường đó, sợ mất mặt. “Đoàn viễn chinh Pháp mà chịu thua quân đội da vàng ư?”.
Họ cố bám lấy đường đó hai năm. Cuối năm 1949, quân đội cộng sản Trung Hoa tiến tới biên giới Bắc Việt, và năm sau quân đội Việt được Trung Hoa huấn luyện, viện trợ khí giới nặng, đủ sức để tấn công Pháp rồi, Carpentier mới cho phép rút khỏi Cao Bằng.
Họ rút lui chậm quá, ngày đầu chỉ được 13 cây số vì đường bị phá hủy nhiều, họ phải sửa lại cho từng đoàn căm nhông, chiến xa, đại bác... qua. Tướng Võ Nguyên Giáp kịp thời huy động 15.000 quân đánh họ tơi bời ở Thất Khê và khi tàn quân của họ tới Lạng Sơn, coi lại thì thiệt mất 7.000 người.

Ở Lạng Sơn, họ mắc thêm một lỗi nữa. Lúc đó quân mình còn ở cách xa Lạng Sơn, nếu họ đóng quân ở đó, chuẩn bị để chống cự thì Lạng Sơn chưa đến nỗi mất; nhưng họ hoảng quá, không kịp phá hủy 1.300 tấn khí giới, quân nhu ở Lạng Sơn, đã vội rút lui nữa về Phủ Lạng Thương. Quân ta thắng được trận đó rất lớn, thu được tất cả khí giới đó. Quân Pháp phải bỏ tất cả khu ở phía Bắc sông Hồng Hà mà chỉ giữ được miền đồng bằng thôi.
Thừa thế, tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục đại tấn công, lần này tính dùng năm sư đoàn (304, 308, 312, 316, 320) để tiến về Hà Nội.
Chiến thắng đó làm cho tinh thần mình phấn khởi bao nhiêu thì tinh thần Pháp suy sụp bấy nhiêu. Dân chúng Pháp bất mãn về chính phủ. Quân linh Pháp gởi qua tăng viện ở Việt Nam phải đi ban đêm, xuống tàu ban đêm. Quan tài chở về Pháp cũng phải lén lút đưa lên bờ trong các nhà máy ở các bến tàu, đã có những vụ phá hoại để ngăn chận “cái chiến tranh dơ dáy” đó.
Ở Việt Nam cũng có sự thay đổi. Cho tới cuối năm 1949, còn là “Mặt trận quốc gia”, nhưng khi Trung Cộng đã giúp mình thì họ đòi chính phủ kháng chiến phải có thái độ, đường lối dứt khoát. Theo Jean Lacouture và Phillipe Devillers trong La fìn d’une guerre (Editions du Seuil - 1960) thì Mao Trạch Đông buộc ông Hồ Chí Minh phải lập lại đảng Cộng Sản Việt Nam đã giải tán năm 1946, và đảng Cộng sản phải ra mặt nắm địa vị lãnh đạo. Do đó mà chính phủ kháng chiến lập ra đảng Lao Động và năm 1950-51 có nhiều vụ thanh trừng. Lần lần chính phủ Cộng hoà Dân chủ Việt Nam thành chính phủ Cộng hòa Nhân dân; kế đó ta bắt đầu có cuộc cải cách ruộng đất theo kiểu Trung Cộng. Đó là một lầm lẫn lớn của chính phủ kháng chiến, hậu quả rất tai hại tới nay chưa hết, tôi sẽ xét ở sau 
Một số người ái quốc theo kháng chiến, thấy cuộc thanh trừng đó, rời bưng trở về thành.
GIẢI PHÁP BẢO ĐẠI
Đầu năm 1946, khi lập xong chính phủ Liên hiệp Quốc gia rồi (chủ tịch là Hồ Chí Minh, phó chủ tịch là Nguyễn Hải Thần; Huỳnh Thúc Kháng bộ trưởng Nội vụ, Nguyễn Tường Tam bộ trưởng Ngoại giao...), Hồ Chủ tịch phái công dân Vĩnh Thụy (Bảo Đại) cầm đầu một phái đoàn qua Trùng Khánh. Bảo Đại được Tưởng Giới Thạch tiếp đãi, mời lên Nam Kinh vì chính phủ Trung Hoa đương dọn về Nam Kinh. Chính phủ Liên hiệp Quốc gia bảo ông cứ ở Trung Hoa đừng về vội. Ông ở lại Trung Hoa nhưng không lên Nam Kinh mà qua Hương Cảng. 
Năm 1947, chính phủ Pháp theo chính sách của Bidault trong Phong trào Cộng hòa Nhân dân (M.R.P.) nhất định không thương thuyết với ông Hồ Chí Minh mà muốn dùng lá bài Bảo Đại, phái người qua tiếp xúc với Bảo Đại ở Hương Cảng. Các đảng phái ở Nam: Cao Đài, Hòa Hảo, Việt Nam Quốc Dân đảng v.v.. tức thì phái đại biểu tới tấp qua Hương Cảng thúc Bảo Đại về và bày mưu kế với Bảo Đại. Dĩ nhiên Bảo Đại cũng đòi hỏi như Hồ Chí Minh: sát nhập Nam Bộ và miền cao nguyên vào Việt Nam, có chính phủ riêng, quân đội riêng, tự trị về ngoại giao, bỏ hết các kiểm soát của Liên bang Đông Dương... Pháp biết nếu không chấp nhận thì giải pháp Bảo Đại không thành, nên sau hai lần tiếp xúc ở vịnh Hạ Long giữa Bảo Đại và Bollaert (12-47), rồi giữa Bollaert và Nguyễn Văn Xuân thủ tướng Nam Kì quốc, đại diện cho Bảo Đại, Pháp đành nhượng bộ (6-48) nhưng mãi đến 8-3-49, Bảo Đại mới kí một hiệp ước với tổng thống Pháp Vincent Auriol, rồi về nước.
Tuy nhiên Bảo Đại không ở Sài Gòn mà lên thẳng Đà Lạt, lập “triều đình” ở đó, để tỏ vẻ bất mãn về nền độc lập bánh vẽ mà Pháp trao trả ông, và đến 7-1953, tình hình Đông Dương nguy khốn, chính phủ Laniel mới chịu thi hành đúng đắn hiệp ước 8-3-49. Lúc đó đã quá trễ.
Bảo Đại khôn lanh nhưng nhu nhược, chỉ ham tiền, ham gái và săn bắn, bị dân chúng khinh bỉ. Bọn tay sai của ông, trừ một hai người như Nguyễn Hữu Trí trong đảng Đại Việt mà ông ta nghi kị vì có tư cách, còn thì “chủ nào tớ nấy” cả. Uy tín của Hồ Chí Minh vẫn lớn và giải pháp Bảo Đại hoàn toàn thất bại.
DE LATTRE DE TASSIGNY VÀ VÕ NGUYÊN GIÁP
Vụ Pháp đại bại trên đường Cao Bằng - Lạng Sơn làm cho dân chúng Pháp xúc động và một phần quân đội viễn chinh (nhất là quân Algérie) mất tinh thần. Chinh phủ Pleven phải đưa tướng De Lattre de Tassigny qua. De Lattre là một tướng giỏi, can đảm, cương quyết, quyết định mau, đòi được toàn quyền ở Đông Dương, vừa làm Cao ủy vừa làm Tổng tư lệnh, và xin thêm nhiều quân, nhiều võ khí, nhưng chính phủ chỉ cung cấp được một phần nhỏ thôi.
Ngày 17-12-50 ông ta qua, không ở Sài Gòn mà ở Hà Nội. Rất hách dịch. Mới qua, đuổi ngay một số tướng tá về Pháp, không cho vợ con quân nhân, công chức Pháp về nước để khỏi làm dao động tinh thần quân đội. Người Pháp gọi ông ta là “Le roi Jean” (Quốc vương Jean).
Ông ta vừa kịp chỉnh đốn lại quân đội, tiêm tinh thần chiến đấu vào đoàn quân viễn chinh thì tướng Võ Nguyên Giáp tấn công ở Vĩnh Yên ngày 13-1-51, cách Hà Nội độ 40 cây số với một lực lượng mạnh. Lần này là lần đầu bên mình dàn quân để chiến đấu ở đồng bằng với một biển người. Mới đầu quân mình thắng. De Lattre phải dùng rất nhiều phi cơ chở quân lính lên tiếp sức và thả bom napalm (mủ cao su trộn với dầu xăng) để chặn biển người đó. Quân mình lần đầu thấy bom napalm hoảng hốt, hỏi nhau có phải là bom nguyên tử không.
Trận đó mình thất bại nặng: 6.000 chết, 500 tù binh (theo Louis Saurel - sách đã dẫn). Tướng Võ Nguyên Giáp nhận là lầm lẫn.
Nhưng cuối tháng 3-1951, tướng Giáp tấn công nữa ở Đông Triều (Mao Khê, phía tây bắc Hải Phòng). Quân Pháp lại lâm nguy, De Lattre lại phải dùng nhiều phi cơ và napalm mới cứu được. Quân mình phải rút lui vào rừng, nhưng không thiệt hại nặng như lần trước.
Lần thứ ba, mình tấn công thình lình ở Phủ Lí và Ninh Bình, mới đầu cũng đánh bại được quân Pháp ở Ninh Bình. De Lattre vội vàng đem quân xuống cứu; quân mình rút lui về bờ bên kia sông Đáy, trốn vào các hang núi vôi ở miền đó.

Ba lần đó Pháp tuy thắng nhưng rất khó nhọc và hai lần suýt nguy; thế giới đều thấy lực lượng của mình đã ngang với Pháp rồi. Tướng Võ Nguyên Giáp rút kinh nghiệm, biết rằng chiến đấu ở đồng bằng, mình bất lợi vì phi cơ địch ở trên nã xuống, mình không có chỗ núp, mà rút lui tới chỗ yên ổn thì hơi xa, nên từ đó đổi chiến lược, đưa chiến tranh lên xứ Thái. Ba lần trước, De Lattre chỉ chống đỡ, tháng 11-1951 mới bắt đầu tấn công, đem quân lên chiếm Hòa Bình để chận con đường Bắc Việt tiếp tế cho Thanh Hóa. Chiếm thì dễ, nhưng giữ rất khó. Chỉ có hai đường tiếp tế Hòa Bình là con đường thuộc địa số 6 đã hư hỏng nhiều, và con sông Đà. Cả hai đường đó, khúc gần Hòa Bình đều có nhiều bụi rậm, hoặc bờ giốc âm u, rất dễ cho quân mình phục kích và Pháp lần nào cũng bị thiệt hại nặng, đến nỗi gọi đường thuộc địa số 6 là địa ngục, và gọi Hòa bình là “merdier” (đám phân hay cầu tiêu). Sau cùng Pháp phải bỏ Hòa Bình, rút về, thiệt hại nặng, gần bằng vụ Cao Bằng - Lạng Sơn.
Lần đó một đại đội quân của chính phủ Bảo Đại đào ngũ, trốn qua phía kháng chiến, mở đầu cho nhiều vụ đào ngũ sau này.
De Lattre thất bại, lại đau nặng vì bệnh ung thư, về Pháp ít lâu thì chết. Ông ta còn mắc một lỗi nữa là xây một vòng đai đồn bót bao vây miền đồng bằng Bắc Việt, đã tốn tiền, lại cầm chân một số binh lính để giữ đồn, mà chẳng được ích gì. Quân mình vẫn len lỏi vào miền đồng bằng như trước.
NAVARRE VÀ TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ
Tướng Navarre qua thay De Lattre. Tài kém xa De Lattre, uy tín cũng kém mà lại tự phụ, không chịu nghe ý kiến ai, cho chỉ chiến lược của mình mới đúng.
Khoảng cuối năm 1952, quân mình chiếm được Nghĩa Lộ ở ngang Tuyên Quang, giữa khoảng từ Nhị Hà tới sông Đà. Pháp muốn phục thù, đem 30.000 đánh vào phía sau quân mình ở Phủ Đoan gần Tuyên Quang, không gặp quân kháng chiến, chỉ phát giác và phá hủy được ít kho súng đạn rồi rút về, thiệt hại độ một đại đội. Thất bại nữa.
Thất bại thứ ba ở miền Trung, phía ngoài Huế, bên con đường Quốc lộ số 1, từ Vân Trình tới Quảng Trị, nơi mà quân Pháp gọi là “con đường sầu thảm” vì bị phục kích rất thường. Pháp dùng cả thủy quân, lục quân với rất nhiều phi cơ yểm trợ, tính bao vây, diệt trọn quân kháng chiến, nhưng quân mình trốn thoát được; Pháp lục soát từng nhà một ở làng Phủ An, tìm được một ít khí giới, bắt được một số tù binh, rồi vội vàng rút lui.
Sau cùng là trận Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ là một lòng chảo dài 17 cây số, rộng 9 cây số, giữa có con sông Nam Youn[2], chung quanh là rừng núi, nằm ở phía dưới Lai Châu, gần biên giới. Tháng 11-1953, Navarre dùng phi cơ thả quân xuống chiếm lòng chảo đó để chặn đường quân mình qua Lào, rồi rút quân ở Lai Châu về đó, xây cất đồn binh, sân bay. Từ tổng tư lệnh Navarre tới tư lệnh miền Bắc Cogny và tướng chỉ huy Điện Biên Phủ là De Castries đều tin rằng quân kháng chiến không sao hạ Điện Biên Phủ được, vì không đủ đại bác, không đủ người để chở khí giới quân nhu tới nơi xa xôi đó; và nếu chở được đại bác thì cũng bị hủy diệt vì phi cơ Pháp ở trên bắn xuống, đại bác Pháp ở lòng chảo bắn lên. Họ không thể ngờ được rằng tướng Võ Nguyên Giáp cho làm cả trăm cây số đường rừng, sửa sang 200 cây số đường nữa, đưa được năm sư đoàn và rất nhiều đại bác tới Điện Biên Phủ mà chỉ nhờ sức của cả trăm ngàn người đi dân công với cả ngàn chiếc xe đạp Peugeot cũ để thồ mỗi chiếc 200 ki lô trong rừng. Pháp về sau biết vậy mà không sao chặn được vì phi cơ bay trên cao không thấy, còn đem quân vào rừng để đánh thì không dám.
Đại bác tới, mình đào hang trong núi để giấu, hễ bắn xong vài phát lại kéo thụt vào trong hang rồi lấy lá cây phủ miệng hang, Pháp không dò ra được, mà có được thì máy bay cũng không có cách nào bắn phá được. Vậy là chung quanh Điện Biên Phủ có vô số họng đại bác từ trên cao nã xuống sân bay, đồn trại của địch, mà địch không có cách nào chống đỡ.
Trận Điện Biên Phủ bắt đầu từ 13-3-1954. Khi các căn cứ ở phía Bắc: Gabrielle, Béatric, Anne Marie bị đại bác của ta san phẳng thì Điện Biên Phủ rung rinh rồi. Tới phiên hai sân bay bị phá hủy nữa, sự tiếp tế chỉ còn trông vào máy bay thả dù xuống - việc này rất mạo hiểm mà kết quả không được bao vì máy bay không dám xuống thấp, một nửa số tiếp tế rớt vào khu vực của ta - lúc đó quân đội Pháp như cua ở trong giỏ, sinh mạng đếm từng ngày. Pháp cầu viện Mĩ, xin Mĩ dùng bom nguyên tử, Mĩ không chịu, xin Mĩ ồ ạt đem quân lính và phi cơ sang, Mĩ cũng không chịu. Mà rốt cuộc ngày 7-5-1954, trong khi sáu nước: Pháp, Nga, Trung Hoa, Mĩ, Anh, Việt, đương họp ở Genève để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thì Điện Biên Phủ thất thủ, tướng De Castrie phải đầu hàng.
Theo Saurel, Pháp thiệt hại 16.000 người trong số đó 1.500 người chết, 4.000 bị bắt làm tù binh. Chắc cuốn La guerre d’Indochine của Saurel đã in lộn. Con số 10.000 tù binh Jules Roy đưa ra trong cuốn Điện Biên Phủ (René Julliard - 1963) có phần đúng hơn.
Việt Nam, theo sự phỏng đoán của bộ tham mưu Pháp, thiệt hại gần gấp đôi: từ 25.000 đến 30.000 người, trong số đó có từ 10.000 đến 12.000 người hi sinh.
Một tờ báo ngoại quốc bảo sau trận Waterloo chưa bao giờ Pháp thua một trận lớn như vậy. Khắp thế giới đều phục sự anh dũng của người Việt.
De Gaulle, D’Argenlieu, Bidault có bị lương tâm cắn rứt không nhỉ? Biết bao thanh niên bỏ mạng ở Việt Nam vì họ. Nhưng thời đại dân chủ này, có một ông lớn nào chịu một trách nhiệm gì đâu? Giá như Nhật Bản thời trước thì đã có dăm ba vụ hara kiri (tự mổ bụng) rồi.
SÁCH TÔI DÙNG ĐỂ VIẾT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT - PHÁP
Sách ngoại quốc (Anh, Pháp) viết về chiến tranh Việt Pháp rất nhiều, tôi đọc được trên một chục cuốn. Dưới đây là những cuốn chính, tôi dùng làm tài liệu:
Philippe Devillers - Histoire du Viet Nam de 1940 à 1952 (Ed. du Seuil - 1951)
Paul Mus - Sociologie d'une guerre (Ed. du Seuil - 1952)
Jean Lacouture et Philippe Devillers… - La fin d'une guerre… (Ed. du Seuil - 1960)
Jean Lacouture - Ho Chi Minh (Ed. du Seuil – 1965). Les deux Viet Nam (Payot -1967)
Bernard Fall - Guerres d’Indochine France 1946- 1954; Amérique 1957 (Ed. J’ai lu - 1965)
Bốn tác giả trên đều là học giả hiểu dân tộc Việt Nam, không hiếu chiến.
Jules Roy - La bataille de Dien Bien Phu (Julliard - 1963). Tác giả rất ghét Navarre.
Lucien Bodard - La guerre d'Indochine (3 cuốn) (Gallimard - 1963)
Hai nhà trên là kí giả.
Louis Saurel – La guerre d’Indochine (Ed. Rouff - 1966)
Cuốn này cho ta một tổng quan sơ lược nhưng rõ ràng, khá đầy đủ… Có vài lỗi nhỏ.

[1] Chắc là ở riêng miền Bắc. Vì ở Nam cuối năm 1945 Leclerc đã có 35.000 quân rồi.
[2] Tức Nặm Rốm. (Goldfish)
Nguyễn Hiến Lê
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tổ trưởng dân phố Khi gia đình tôi dọn đến ngõ 555 trên đường phố T.D.H. thì ở đây đã có tổ dân phố rồi và giữ trách nhiệm tổ trưởng tổ ...