Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2024
Hồi ký Nguyễn Hiến Lê 2
Những Năm Ở Đại Học
[1] Có lẽ toạ lạc tại số 19 đường
Bobillot (sau đổi tên thành đường Lê Thánh Tôn). (Goldfish)
[1] Ý
nói áo bà ba. Trong Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo:
“…cách ăn mặc của phụ nữ ở đây (tức Sài Gòn) cũng không được nhã: áo dài thì ngắn
quá, mầu thì lòe loẹt quá, ra đường thì nhiều cô chỉ mặc áo bà ba, không quen mắt
như tôi, thấy trơ trẽn lắm”. (Goldfish).
[1] Tôi
chỉ ghi lại vài nét chính, chế độ đời Chu phiền phức hơn nhiều. Coi
cuốn coi cuốn Wang dao ou la Voie royale (Tome I) của Léon
Vandermeersch (EFEO, Paris 1977).
[2] Nay
là đường Lý Tự Trọng. (Goldfish).
Đó là giới tiểu tư sản (bourgeois) đầu tiên ở Bắc và Trung do
văn minh tạo thành. Ở miền Nam, giới đó xuất hiện sớm hơn và đọc tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh chúng ta biết được đời sống của họ ra sao. Xét chung, họ là
những người hiền lành, thân Pháp, an phận, thỏa mãn, và vẫn trọng các nhà Nho,
cha chú họ. Có người chê phụ nữ trong giới đó có tật xấu là biếng nhác, chỉ ham
hướng thụ, đài các, thích danh vọng hão huyền. Tại hoàn cảnh xui nên như vậy.
Sau này, trong thời loạn lạc, tôi thấy nhiều phụ nữ vào hạng trung lưu có tinh
thần hi sinh cao, tháo vát, giỏi chịu cực khổ, lại giữ được truyền thống dân tộc
mình sau những cuộc thử thách lớn lao, ngốc đầu lên được phần lớn là nhờ họ. Phụ
nữ Tây phương không bằng họ được.
Thành lập các hội kín, gây các phong trào cách mạng, phất cờ
khởi nghĩa, nêu gương hi sinh cho quốc dân là họ. Viết báo, viết sách đả đảo thực
dân, cảnh tỉnh đồng bào, đưa ra các đề nghị để cái cách xã hội hầu tiến kịp thời
đại, là họ. Mài ngọn bút, luyện cho Việt ngữ thành lợi khí để truyền bá tư tưởng,
diễn đạt tình cảm, tạo được một nền văn xuôi gọn, sáng, mỗi ngày mỗi thêm phong
phú, tinh xác, là họ. Lập các nhà buôn, nhà máy để kiến thiết quốc gia, cũng là
họ; về phương diện này họ chưa thành công nhiều vì ít vốn, ít kinh nghiệm, khó
cạnh tranh với ngoại nhân, nhưng họ đã tin ở sự tiến bộ, tin ở sự phát triển
kinh tế. Làm những công việc xã hội để giúp người nghèo, bênh vực quyền lợi của
giới cần lao, hi sinh cho lí tướng bình đẳng, bác ái, tự do, cũng là họ.
Đúng vậy, Chữ Nôm của ta xuất hiện trễ lắm là vào đời Lí Cao
Tông thế kỉ XII[4]. Giá thời
đó vua chúa của ta biết bỏ chữ Hán mà dùng chữ Nôm làm quốc tự, trong vài thế kỉ,
cải thiện được nó, qui định lối viết, lối đọc cho toàn quốc, giản dị hoá nó, bắt
ai cũng phải học, thì nó thành một phương tiện truyền bá tư tưởng có hệ thống,
không đến nỗi luộm thuộm, mỗi thời đọc, viết một khác, mỗi miền đọc viết một
khác; thậm chí mỗi người đọc viết một khác nữa; mà văn hoá, văn thơ của ta nhờ
đó phát triển được kha khá, và bây giờ các học giả khỏi phải bù đầu phiên âm
tìm nghĩa một số khá nhiều chữ Nôm đời Lí, đời Lê; cãi nhau mấy chục năm nay mà
vẫn chưa đọc được hai chữ Nôm mỗi người đưa ra một thuyết,
chẳng thuyết nào thắng nổi thuyết nào.
Trước thế chiến thứ nhì, các tạp chí của ta tiến đều đều từ
hình thức đến nội dung: Nam Phong phong phú hơn Đông Dương tạp
chí; Tri Tân có tính cách chuyên ôn cố; Phong Hóa, Ngày Nay trái
lại có bộ mặt và xu hướng mới, muốn thực hiện một cuộc cải cách tiểu tư sản, đả
phá hủ tục, đại gia đình mà giải phóng cá nhân, đề cao tự do; Thanh Nghị (và Thanh
niên ở Nam) nghiêm trang hơn, phổ biến những tư tưởng dân chủ, kinh tế,
giáo dục... Lại có riêng một tạp chí cho phụ nữ, khá có giá trị, tờ Phụ nữ
Tân văn. Nhờ Hoàng Tích Chu (Hà Thành ngọ báo 1927) văn viết báo gọn hơn,
mạnh hơn, có giọng chiến đấu hơn, không còn những bài xã luận lôi thôi, nhạt nhẽo
nữa. Nhưng nổi tiếng nhất và ảnh hướng lớn nhất thì phải kể Phạm Quỳnh, Nguyễn
Văn Vĩnh, có công về dịch thuật, biên khảo; lớp sau có Phong Hóa: Khái
Hưng, Nhất Linh... sẽ xét ở dưới.
Trong khi đó thì ở Nam, Hồ Biểu Chánh viết toàn những tiểu
thuyết tả chân giới tư sản và nông dân, và có tính cách luân lí.
Vào khoảng 1937, xuất hiện những tiểu thuyết có giá trị về
nông dân của Trần Tiêu, Nam Cao, Bùi Hiển, Ngô Tất Tố... mà trong chương VII
tôi đã nói qua. Những tiểu thuyết đó xuất hiện sau những tiểu thuyết về giới
phong kiến, tiểu tư sản của nhóm Tự Lực là điều dễ hiểu: muốn viết về nông dân
thì phải sống ở nông thôn; mà từ thượng cổ tới nay, thành thị vẫn dẫn đầu, dắt
đường cho nông thôn; các tiểu thuyết gia tiểu tư sản ở thành thị viết về thành
thị để mở đường rồi, những thanh niên có tài ở nông thôn như Nam Cao, Tô Hoài,
Bùi Hiển mới noi theo mà tả phong tục nông thôn, tâm lí nông dân.
Thanh niên giữa hai thế chiến chịu ảnh hưởng phương Tây,
không ưa lối diễn tả đó, không chịu bó buộc, muốn phá tung luật thơ cổ, khuôn
khổ thơ cổ, bắt chước lối phô diễn của phương Tây, cho rằng chỉ có lối đó mới tả
được hết nỗi lòng của họ, phát triển được hết suy tư, ước vọng của họ. Do đó mà
có phong trào thơ mới mà Hoài Thanh đã phân tích trong cuốn Thi nhân Việt Nam (1941). Phong
trào đó là biến cố lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam từ trên một
thế kỉ nay. Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Kí chỉ đánh dấu sự thay đổi
chữ viết (bỏ chữ Nôm mà dùng chữ Quốc ngữ); thơ mới đánh dấu sự thay đổi lối
phô diển, tức cả cảm quan và mĩ quan nữa.
Tác giả dùng toàn những tiếng Việt mà dùng rất đắc thế: nước trong
veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí, sẽ đưa vèo, vắng teo. Ta lại
thấy tác giả ngồi tựa gối buông (có sách chép là ôm) cần trong chiếc thuyền bé
tẻo teo nữa. Thấy cả tính tình tác giả: kín đáo, ung dung, nhàn tản, đi câu mà
không cốt được cá, chỉ cốt ngắm cảnh, (một cảnh thật đẹp, không tiêu sơ, vì ở
quê ông, miền hạ du Bắc Việt, thu không tiêu sơ như ở Trung Hoa); có thể ông
đương mong khách tới chơi nữa (ngõ trúc quanh co khách vắng teo).
Các báo có tính cách khảo cứu, phổ thông kiến thức, giáo dục như: Thanh Nghị, Tri Tân, Khoa Học, dù khô khan cũng bán khá chạy; và những nhà xuất bản Hàn Thuyên, Mai Lĩnh, Tân Việt cho ra những cuốn phổ thông kiến thức về sử (lịch sử thế giới), triết Tây (Bergson của Nguyễn Chí Thiệp), triết Đông (Lão tử, Mặc tử của Ngô Tất Tố), về thực nghiệp (của Lê văn Siêu).
[1] Tết
năm Bính Dần nhằm ngày 13-2-1926. (Goldfish)
Đầu năm 1938, khi nhà tôi có mang được bảy tám tháng, vợ chồng
tôi không hiểu sao tin chắc sẽ sinh con trai và bàn tính với nhau đặt tên cho
nó là Nhật Đức. Nhật Đức có nghĩa là đức của mặt trời và còn một nghĩa nữa là
Nhật và Đức, hai dân tộc có tinh thần quật cường mạnh nhất thời đó.
Pháp rất tin rằng chiến lũy Maginot ở phía Bắc ngăn được Đức,
nên đưa quân lên đó, không ngờ chờ hoài không thấy gì cả; và thình lình tháng
5-1940, Đức không kể gì đến sự trung lập của Hòa Lan, Bỉ, đi vòng chiến lũy, ồ ạt
xâm lấn hai nước trên rồi tiến như vũ như bão vào đất Pháp, chọc thủng Sedan,
vượt sông Meuse. Liên quân Anh Pháp không cự nổi, rút lui.
Năm 1939, một lượng vàng giá khoảng 160 đồng, đầu năm 1945
giá trên 1.000 đồng; đồng bạc bị phá giá gấp 6 lần; đời sống rất khó khăn. Vậy
là từ năm 1930 tới năm 1945, trong 15, 16 năm, hết nạn kinh tế khủng hoảng, dân
mới dễ thở được độ 5 năm (1935-1939) thì lại bị nạn chiến tranh. Công việc kiến
thiết, khai hoang, phát triển công nghiệp, từ 1920 đến 1945 mới bắt đầu thực hiện
được trong khoảng 15 năm (từ 1920 đến 1930, từ 1935 đến 1939) đã hai lần bị
ngưng trệ, mỗi lần khoảng 5 năm.
[1] Nhưng
khi Nhật đầu hàng (1945) rồi, Pháp đòi lại hết.
[1] Tôi
không biết trước hay sau khi tản cư về làng Tân Thạnh, gia đình cô Liệp còn tản
cư vô làng Vĩnh Trạch, quận Núi Sập (nay là huyện Thoại Sơn), ở nhà một ông họ
Cao, cách chợ Long Xuyên khoảng 12 cây số. (Goldfish).
Lần lần, ủy ban kháng chiến cũng lập ủy ban hành chánh xã,
huyện, tỉnh ở thôn quê; và Nam bộ trở lại tình trạng non một thế kỉ trước, dưới
triều Nguyễn, khi quân Pháp mới chiếm xong lục tỉnh: Các làng xóm ban ngày thuộc
về “đàng tân”, ban đêm thuộc về “đàng cựu”; đàng tân bây giờ là các công chức
theo Pháp, đàng cựu là quân kháng chiến; và cũng như thời xưa, một số đàng tân
bây giờ ủng hộ ngầm đàng cựu.
Ông Hồ Chí Minh nói với Sainteny: “Tôi muốn nhiều hơn vậy...
nhưng tôi cũng hiểu rằng không thể trong một ngày mà có được tất cả”.
Rủi cho Việt Nam, nội các mới (thành lập ngày 24-6) gồm
3 thành phần: Cộng sản, Xã hội và Phong trào Cộng hòa nhân dân (M.R.P). Một
lãnh tụ của phong trào Cộng hòa nhân dân, Georges Bidault, làm thủ tướng, mà
Bidault rất có ác cảm với ông Hồ Chí Minh, suốt trong chiến tranh Việt Pháp,
lúc làm thủ tướng, lúc làm bộ trưởng ngoại vụ, nhất định không chịu thương thuyết
với ông Hồ Chí Minh, và những người Pháp hiểu dân tộc Việt Nam như Jean
Lacouture, P. Mus, Philippe Devillers cho rằng Bidault với D'Argenlieu là những
người chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc làm hỏng cuộc hòa giải Việt Pháp,
kéo dài cuộc chiến tai hại cho cả hai dân tộc, để rốt cuộc đưa tới sự thất bại
tủi nhục của Pháp ở Điện Biên Phủ sau này.
Ngày 20 tháng 11 xảy ra vụ Hải Phòng. Một chiếc thuyền Trung
Hoa chở khí giới, xăng nhớt vô hải cảng, bị một chiếc tàu tuần Pháp bắn; quân đội
Việt Nam can thiệp. Hai bên bắn qua bắn lại. Ủy ban hỗn hợp Pháp-Việt
bắt ngưng bắn để hai chính phủ thảo luận với nhau về vấn đề quan thuế, ngoại
thương. Tướng Valluy ương ngạnh không chịu, đòi quân đội Việt Nam phải
rút hết ra khỏi Hải Phòng, mình không chịu. Thế là một chiếc tuần dương hạm
Pháp bắn tưới vào một khu người Việt, cháy rụi hết các nhà 1á. “Ít nhất có sáu
ngàn người chết” (Paul Mus trong Việt Nam, sociologie d'une guerre).
Tin Pháp bị Việt tấn công gây xúc động lớn trong dư luận Pháp cũng như trong Quốc hội. Marius Moutet, bộ trưởng Hải ngoại, tuyên bố rằng ông sắp qua Đông Dương để rán lập lại những điều kiện của một chính sách hòa giải mà cả hai bên Pháp, Việt phải thi hành một cách chân thành.
[1] Thơ
của Đới Thúc Luân đời Đường. Chữ thứ tư trong câu trên, sách in là: tân.
(Goldfish).
Những người ở thị xã Long Xuyên đã hồi cư về gần đủ, lại thêm
có người ở nơi khác tản cư về đây, cho nên thị xã có vẻ phồn thịnh hơn trước. Một
vài cơ quan chưa xây cất lại, nhưng nhà thường dân thì đã sửa sang. Đường phố
đông đúc, nhất là ở bến tàu và chợ. Chưa có xe đò chạy Sài Gòn, vì đường chưa
được yên, nhưng có tàu thủy, mỗi tuần vài chuyến, chuyến nào cũng đông hành
khách và chở nhiều hàng hóa. Đặc biệt nhất là chợ có nhiều sạp vải, sạp nào
cũng đắt hàng vì trong sáu, bảy năm chiến tranh dân thiếu vải nhất. Sữa, đường
cũng nhiều. Mới chỉ có một tiệm thuốc Tây, nhưng thuốc Bắc thì có tới bốn năm
tiệm.
Mới đầu tôi có ý định làm thử nghề Đông y, bắt mạch ra toa
cho mấy người quen, làm vài tễ thuốc. Nhưng sau tôi thấy nghề đó khó sống nên
thôi.
Tôi học môn đó rất kĩ, mỗi bài dài chừng mươi, mười lăm trang
lớn (khổ 21x31) chữ in, tôi đọc vài lần rồi tóm tắt đại ý trong một tập vở
riêng. Mỗi bài thuộc về một đề tài, do một giáo sư giảng. Có giáo sư giảng về
hai ba đề tài. Họ đề là những nhân viên quan trọng trong hành chính hay xí nghiệp,
có nhiều kinh nghiệm. Mỗi ngày tôi bỏ ra một buổi để học, ba tháng thì hết
khoá. Mới đầu tôi làm được vài bài tập gởi qua cho họ chấm; sau thôi, vì có bài
muốn làm thì phải có tài liệu mà ở Long Xuyên tôi không thể kiếm được.
Tôi ghét bọn con nhà giàu, sang mà làm biếng; rất yêu những
thanh niên nghèo mà thông minh, siêng học. Tôi thường giúp đỡ hạng sau, hoặc
cho tiền, cho sách; nghỉ hè tôi lại nhà họ chơi, dắt họ đi chơi.
Bài giảng của tôi ngày nay chắc họ quên hết, nhưng những lời
khuyên như trên, có thể nhiều người còn nhớ. Dạy ba năm ở Thoại Ngọc Hầu, mà
non ba chục năm sau, bây giờ về Long Xuyên còn gặp được năm sáu trò cũ coi tôi
như cha, có trò thân mật như người trong nhà; điều đó làm cho tuổi già của tôi
được vui. Vợ sau của tôi dạy học ở Long Xuyên trên 35 năm, còn được nhiều cảm
tình của học trò cũ hơn tôi. Mấy năm trước, cứ tới sinh nhật của nhà tôi, họ họp
nhau chừng mươi người lại chúc thọ, đem thức ăn tới nấu nướng rồi già trẻ cùng
ăn với nhau. Có vài người - đều là cô giáo - còn thân mật tới nỗi, ngày giỗ của
bà nhạc tôi, cũng đến cúng như con cháu trong nhà vậy.
….Mây đùn mấy đám tự nhiên,
Chẳng nên thì vỡ bờ, sạt bến, cát dã tràng tơi tả tử tiếc
gì công.
Câu “Trúc nên thưa, dừa nên cao” thật đúng, nó vươn được lên
nền trời xanh mây trắng. Mọc chen chúc nhau như có lần tôi thấy ở Nha Trang thì
nó làm sao phô hết duyên dáng được
Nhưng khi viết sách, ta cần kiểm soát từng tài liệu, cân nhắc
từng ý tưởng, rồi bình luận, sau cùng sắp đặt lại những điều ta đã tìm kiếm, hiểu
biết để phô diễn cho rõ ràng. Trong khi làm những công việc ấy, ta nhận thấy có
nhiều chỗ tư tưởng của ta còn mập mờ, ta phải tra cứu để hiểu thêm, đọc thêm
nhiều sách nữa, do đó sự học của ta cao thêm một bực. Càng được nhiều sách thì
càng gặp những ý tưởng mâu thuẫn nhau, và ta lại phải xem xét đâu là phải, đâu
là trái và ta lại đào bới cho sâu thêm; nhờ vậy ta hiểu thấu triệt được vấn đề,
nhớ lâu hơn, có khi phát huy được những điều mới lạ.
Tập đó tôi viết dễ dàng và vui, chỉ trong ba tháng là xong.
Tôi áp dụng môn tổ chức vào việc học để cho đỡ phí sức, đỡ tốn thì giờ mà mau
có kết quả; tôi dẫn nhiều kinh nghiệm bản thân từ hồi tôi học ở trường Yên Phụ
và trường Bưởi. Trong phần I tôi đã nói tôi sớm có tinh thần phương pháp, ngay
từ hồi học lớp Sơ đẳng (cours élémentaire), tôi đã có lối học riêng của tôi: ở
trong lớp vừa chép bài vừa học thầm, vừa đi từ trường về nhà vừa nghĩ cách làm
một bài toán, tìm ý cho một bài luận, rồi về tới nhà là làm, học ngay bài trong
ngày, nhờ vậy tôi tốn rất ít thì giờ. Lên trung học, tôi có một sổ tay tóm tắt
những ý quan trọng trong mỗi bài sử, địa, vật lí, hoá, toán…, những điều tôi
cho rằng lúc nào cũng phải nhớ, như vậy khi học ôn để thi trong lớp hoặc thi ra
trường, tôi chỉ cần coi lại những sổ tay đó, ít khi phải coi lại trong sách.
Tôi mừng nhất là nó đã thay đổi hẳn cuộc đời của một thanh
niên hiếu học nhưng nhà nghèo, không cách nào tiến thân, sau thành một bác sĩ,
một nhà văn, trước 1975 đã ra được một hai tập thơ, hai cuốn dạy cách đề phòng
các bệnh của thiếu nhi và của học sinh. Trong tờ Bách Khoa số
20-4-75, thanh niên đó, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết: Kim chỉ nam đã mở
cho tôi chân trời mới, đọc xong, tôi thấy gần gũi với ông - (tức tôi) - kỳ lạ.
Có những điều tôi đã thoáng nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì
không được hướng dẫn nên không đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ thống hoá, đặt
ra những nguyên tắc giúp cho việc học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được nhiều kết
quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày những phương pháp thực hành, không
có những lý thuyết viễn vông, nhàm chán”.
Một số độc giả quá yêu tôi, bảo giá tôi đừng viết những cuốn
đó mà khảo cứu về những đề tài cao xa thì có lợi hơn. Phải, có thể có lợi cho
tôi hơn về kiến thức, nhưng chắc là ít lợi cho thanh niên. Không thấy ai viết
sách dạy phương pháp làm việc cho học sinh thì tôi phải viết. Và học sinh thấy
có ích nên cuốn nào cũng được tái bản nhiều lần. Trong 30 năm cầm bút, tôi bỏ
ra hơn một năm giúp đỡ học sinh như vậy, tôi nghĩ không
phải là phí thì giờ.
Tôi không từ chối, nhưng còn bận nhiều việc khác, nên năm
1956 tôi mới viết được cuốn II, 1957 mới ra nốt cuốn III. Hai cuốn này cao hơn
cuốn I nên chỉ in được một lần thôi.
Dù sang hèn, giàu nghèo, ai cũng có ưu tư, phiền muộn; chỉ hạng
đạt quan, triết nhân, quân tử mới “thản đãng đãng” (thản nhiên, vui vẻ) được
như Khổng Tử nói (Luận ngữ - Thuật nhi – 36). Nhưng làm sao để có thể thản
nhiên, vui vẻ thì Khổng Tử không chỉ cho ta biết. Dale Carnegie bỏ ra bảy năm
nghiên cứu hết các triết gia cổ kim đông tây, đọc hàng trăm tiểu sử, phỏng vấn
hàng trăm đồng bào của ông để viết cuốn Quẳng gánh lo đi.
Công trình mệt cho tôi nhất – mệt mà thú – hồi tản cư ở Long
Xuyên nhất là viết bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc gồm ba cuốn: I.
Từ thượng cổ đến đời Tuỳ; II. Đời Đường; III. Từ Ngũ đại đến hiện đại.
Văn học Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn đến văn học Việt Nam mà
các cụ quá khiêm tốn không chịu viết thì bọn xẩm như tôi đành phải mò kim vậy.
Kim phong thiết mã nhàn trung quá,
Lửa binh hai nước không diệt được sách
- Ở Long Xuyên, tôi gặp ông P. Hiếu, một người cũng thích
văn; ông giúp tôi xuất bản tác phẩm đầu tiên, lại cùng dịch với tôi hai cuốn của
Carnegie.
Tôi đã tính kĩ. Trong mấy năm tôi để gây một số vốn khoảng 200.000đ. Bỏ ra một ít để sửa sang nhà ở Sài Gòn, một số nữa làm vốn xuất bản; vẫn còn khoảng 70-80 ngàn đủ sống một năm mà khỏi phải làm gì. Ấy là chưa kể số tiền tác quyền nhà P. Văn Tươi sẽ trả.
[1] Trường
Trung học Thoại Ngọc Hầu được thành lập năm 1948 với tên là College de Long
Xuyên. Trong niên khoá đầu tiên, ban giản huấn gồm các ông: Lê Xuân Kính làm hiệu
trưởng và các thầy Từ Chấn Sâm, Đỗ Văn Hách, Phan Văn Tài, Nguyễn Thái
Hưng, Trương Văn Đức. Qua năm sau, 1949, Bộ Giáo Dục mới chánh thức bổ nhiệm
Ông Đặng Văn Kế làm hiệu trưởng. (Theo T.N.D., Nguồn gốc việc thành lập trường
Trung học Thoại ngọc Hầu, http://www.aihuuangiang.org/xuan08/truongthoaingochau.html).
(Goldfish).
Ở Sài Gòn, bác sĩ Thinh tự tử rồi, Hoạch lên thay, rồi Xuân,
rồi Hữu... nhưng Pháp có giao cho chút quyền hành nào đâu, họ chỉ đóng vai bù
nhìn; dù là bù nhìn thì cũng phải có chút tư cách, mà bọn họ lại thiếu tư cách
quá, quan thầy biểu sao nghe vậy, nên bị dân chúng khinh. Báo nào độc lập, có cảm
tình với kháng chiến thì bán chạy như tôm tươi, còn báo của chính quyền chỉ để
phát không cho các công sở. Điều đó đáng lẽ mở mắt cho họ chứ; nhưng họ lại cho
báo chí là tiếng nói bậy bạ của bọn “nói láo ăn tiền”, chứ dân chúng thì ghét cộng
chứ không ghét Pháp và chỉ muốn yên ổn làm ăn. Họ thật mù quáng không biết tinh
thần yêu nước của người Việt.
Ở Lạng Sơn, họ mắc thêm một lỗi nữa. Lúc đó quân mình còn ở
cách xa Lạng Sơn, nếu họ đóng quân ở đó, chuẩn bị để chống cự thì Lạng Sơn chưa
đến nỗi mất; nhưng họ hoảng quá, không kịp phá hủy 1.300 tấn khí giới, quân nhu
ở Lạng Sơn, đã vội rút lui nữa về Phủ Lạng Thương. Quân ta thắng được trận đó rất
lớn, thu được tất cả khí giới đó. Quân Pháp phải bỏ tất cả khu ở phía Bắc sông
Hồng Hà mà chỉ giữ được miền đồng bằng thôi.
Ba lần đó Pháp tuy thắng nhưng rất khó nhọc và hai lần suýt nguy; thế giới đều thấy lực lượng của mình đã ngang với Pháp rồi. Tướng Võ Nguyên Giáp rút kinh nghiệm, biết rằng chiến đấu ở đồng bằng, mình bất lợi vì phi cơ địch ở trên nã xuống, mình không có chỗ núp, mà rút lui tới chỗ yên ổn thì hơi xa, nên từ đó đổi chiến lược, đưa chiến tranh lên xứ Thái. Ba lần trước, De Lattre chỉ chống đỡ, tháng 11-1951 mới bắt đầu tấn công, đem quân lên chiếm Hòa Bình để chận con đường Bắc Việt tiếp tế cho Thanh Hóa. Chiếm thì dễ, nhưng giữ rất khó. Chỉ có hai đường tiếp tế Hòa Bình là con đường thuộc địa số 6 đã hư hỏng nhiều, và con sông Đà. Cả hai đường đó, khúc gần Hòa Bình đều có nhiều bụi rậm, hoặc bờ giốc âm u, rất dễ cho quân mình phục kích và Pháp lần nào cũng bị thiệt hại nặng, đến nỗi gọi đường thuộc địa số 6 là địa ngục, và gọi Hòa bình là “merdier” (đám phân hay cầu tiêu). Sau cùng Pháp phải bỏ Hòa Bình, rút về, thiệt hại nặng, gần bằng vụ Cao Bằng - Lạng Sơn.
[1] Chắc là ở riêng miền Bắc. Vì ở Nam cuối năm 1945 Leclerc đã có 35.000 quân rồi.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Tổ trưởng dân phố Khi gia đình tôi dọn đến ngõ 555 trên đường phố T.D.H. thì ở đây đã có tổ dân phố rồi và giữ trách nhiệm tổ trưởng tổ ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét