Cảm thức lưu lạc trong sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn
phê bình sinh thái
Cảm thức lưu lạc là một nét đặc trưng của văn hóa Nam
Bộ trên một không gian sông nước. Ngày nay, khi mà tình trạng ô nhiễm môi trường,
nguy cơ sinh thái ảnh hưởng đến toàn cầu một cách mạnh mẽ, cảm thức ấy cũng nhuốm
màu sắc của thời đại khủng hoảng sinh thái. Bài viết của chúng tôi muốn từ tư
tưởng cốt lõi đó để “đọc” truyện ngắn, tiểu thuyết Nguyễn Ngọc Tư. Từ góc nhìn
này, nhà văn đã đặt ra một cách trực diện những vấn đề môi trường và số phận của
con người trong thời đại khủng hoảng môi sinh. Đồng thời tác giả cũng đề xuất
cách lắng nghe tiếng nói từ tự nhiên để tìm cho ra câu trả lời cho những khủng
hoảng của con người thời hiện đại và đề xuất một thái độ sống gần gũi tự nhiên
để được chia sẻ và thanh thản.
Trong xã hội hiện đại, cùng với tốc độ đô thị hóa và sự ỷ lại
vào khoa học kỹ thuật, con người đang ngày càng khai thác tự nhiên quá mức, khiến
cho tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Thiên nhiên trả thù con người không phải chỉ bằng
các thảm họa, thiên tai, các bệnh hiểm nghèo… mà đáng sợ hơn, trả thù bằng sự
biến mất của chính nó. Phê bình sinh thái (ecocritisim) nổi lên khi vấn đề biến
đổi khí hậu, sự xuống cấp về môi trường trở thành vấn đề sống còn của nhân loại,
văn học quan tâm đến sự sống cho nên khúc ngoặt của nó xét đến cùng lại liên
quan đến bản thể của văn học. Trong các định nghĩa về phê bình sinh thái, định
nghĩa của Glotfelty được xem là ngắn gọn và dễ hiểu hơn cả:
Nói đơn giản, phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa
văn học và môi trường tự nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn
ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxit mang lại ý thức của phương
thức sản xuất và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến
phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered approach) để nghiên
cứu văn học (G. Chellry, 1996: xviii)
Phê bình sinh thái với tư cách là một khuynh hướng phê bình
văn học mới, ra đời trong bối cảnh giới học thuật phản ứng trước nguy cơ môi
sinh bị hủy hoại do chính con người, với mục đích thông qua văn học để thẩm định
lại toàn bộ văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán tư tưởng, chính sách, mô hình
xã hội… đã ảnh hưởng như thế nào đến thái độ đối với tự nhiên, khiến cho môi
trường lâm vào tình trạng suy thoái như hiện nay.
Về tự nhiên, có thể thấy Nam bộ là vùng đất có sông ngòi chằng
chịt, với rất nhiều kênh, rạch, xẻo, ao hồ và đồng ruộng mênh mông… Người Nam bộ
sinh hoạt đi lại chủ yếu bằng ghe, xuồng do vậy cuộc sống của họ mang đậm dấu ấn
sông nước, điều đó dĩ nhiên được ánh xạ vào văn chương. Mặt khác, vùng đất Nam
Bộ lại là nơi lưu dấu của những lưu dân từ miền Trung vào, người Hoa kiều hay
cư dân từ Biển Hồ lưu lạc qua nên sẵn trong tâm thức, mặc cảm lưu lạc đã hằn
in. Cảm thức lưu lạc là một cảm giác về tình trạng nhân sinh, khi con người bị
đứt lìa ra khỏi không gian quen thuộc, đẩy vào môi trường xa lạ khiến họ trở
nên lạc lõng, bơ vơ, mất mát. Cảm thức lưu lạc trở thành nét đặc trưng của văn
học Nam Bộ. Không gian Nam bộ trong Hương rừng Cà Mau (Sơn Nam) là những
địa danh ấn tượng về sự hoang dã, những bức tranh hùng vĩ, thơ mộng cùng vẻ đẹp
của chủ nghĩa anh hùng, con người sử thi với khát vọng chinh phục thiên nhiên dữ
dằn khắc nghiệt hoang sơ, kì bí, lạ lùng, thâm u của rừng trầm, sông sâu, của
thú rừng hoang dã trong buổi đầu khai khẩn phương Nam. Trong Đất rừng
Phương Nam, ta bắt gặp những hình ảnh đặc trưng của miền Tây Nam bộ, thể hiện
ngay từ các tên chương của tác phẩm như: Đi câu rắn, Đi lấy mật, Rừng cháy, Phường
săn cá sấu, Qua Stróc miên, Sân chim… Đoàn Giỏi chọn một cậu bé thành phố lưu lạc
về miền sông nước làm nhân vật chính, lấy con mắt chiêm ngưỡng, lạ lùng, tò mò
của người thành phố để nhìn vẻ đẹp sông nước mênh mông, giàu có. Tấm ván
phóng dao (Mạc Can) kể về một gánh xiếc lưu lạc qua nhiều vùng đất để mưu
sinh với những ám ảnh hiện sinh khiến cho cảm thức thương hồ lưu lạc đã vừa pha
vào đó một tinh thần hậu hiện đại.
Mảnh đất Nam Bộ dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu. Là hạ
nguồn của Mê Kông đổ ra biển, vùng đất này dễ bị tổn thương từ hai phía: những
tác động cả từ thượng du và cả từ phía biển. Do vậy hạn hán xâm ngập mặn, triều
cường, lở đất, lũ lụt… là những vấn đề môi trường thường trực. Văn xuôi Nam Bộ
có những động hướng mới trước áp lực của sự thay đổi sinh thái “Trong bối cảnh
hiện nay, vùng đất này đang từng ngày đối mặt với nguy cơ xâm nhập mặn, triều
cường, sạt lở đất, đô thị hóa nông thôn… Đó là những vấn đề bức thiết kéo nhà
văn vào cuộc” (Bùi Thanh Truyền, 2018: 51). Cảm thức lưu lạc trong văn Nguyễn
Ngọc Tư cũng nhuốm màu sắc của thời đại khủng hoảng sinh thái, của xu hướng
toàn cầu hóa và của nền kinh tế thị trường. Bài viết của chúng tôi thông qua 1)
kiểu nhân vật lưu lạc trong 2) hành trình phản lãng mạn với những ảo tưởng
không gian sinh thái Nam Bộ để 3) thức nhận về tình trạng khủng hoảng môi trường
mà Nguyễn Ngọc Tư đã rung lên hồi chuông cảnh tỉnh “Đồng cỏ bạn đang dạo chơi một
ngày kia sẽ biến mất. Dòng sông bạn đang tắm một ngày kia sẽ biến mất. Tiếng
chim hót ban mai một ngày kia sẽ biến mất” (Nguyễn Ngọc Tư 2010: 160).
Kiểu nhân vật lưu lạc trong sáng tác Nguyễn Ngọc Tư
Có thể khái quát nhân vật lưu lạc trong sáng tác Nguyễn Ngọc
Tư thành hai kiểu: 1) Lưu lạc vì mưu sinh, (tức là vì công việc, do môi trường
kiếm ăn trên sông nước, đồng bãi); 2) là vì một niềm đau, lưu lạc như là hình
thức tự lưu đầy. Tuy nhiên, kiểu tự sự của Nguyễn Ngọc Tư vừa có sức hút của
truyền thống với cốt truyện chính bao giờ cũng có vẻ giật gân lại vừa rất hiện
đại, cốt truyện luôn bị chìm đi bởi những yếu tố ngoài cốt truyện, bằng cách đó
tác giả làm cho truyện chồng lên nhiều tầng ý nghĩa mà soi chiếu ở góc độ nào
cũng bóc tách ra được các vấn đề. Và đôi khi do sự chìm lấp của cốt truyện, những
vấn đề đặt ra ngoài cốt truyện ấy hiện lên thật sắc nét. Do vậy, sự phân chia
thành hai kiểu nhân vật lưu lạc như vậy chỉ mang tính tương đối.
Chúng tôi tạm thống kê kiểu nhân vật lưu lạc trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư như sau (chúng tôi giới hạn ở tiểu thuyết và truyện ngắn):
STT |
Tên tác phẩm |
|
Nhân vật |
Cốt truyện |
1 |
Sông |
|
Ân, Bối, Xu, chị Ánh |
Phượt bằng đủ các phương tiện (xe máy, |
2 |
Khói trời lộng lẫy |
|
Di (tên nhân vật còn có nghĩa là đi) |
Di vốn là con rơi của một gia đình chỉ |
3 |
Gió lẻ |
|
Em, gã, hắn |
Xe tải Landu đưa các nhân vật đi |
4 |
Cái nhìn khắc khoải |
|
Ông lão |
Chăn vịt trên khắp cánh đồng |
5 |
Cánh đồng bất tận |
|
Út Vũ, Nương, Điền, Sương |
Người mẹ ngoại tình, Sương phát hiện, |
6 |
Dòng nhớ |
|
dì |
Sau khi đứa con chết đuối, cuộc hôn |
7 |
Nhớ sông |
|
Giang, Thủy, bố |
Buôn bán trên ghe |
8 |
Duyên phận so le |
|
Bỏ nhà theo người tình sinh con, bị |
|
9 |
Thềm nắng sau lưng |
|
Bằng |
Phiêu du trên những chiếc thuyền dù |
10 |
Nước như nước mắt |
|
Sáo |
Vào mùa nước nổi, gia đình Sáo sống |
11 |
Thương quá rau răm |
|
Văn |
Văn là một bác sĩ được cử đến Mút |
12 |
Cải ơi |
|
Ông Sáu |
Bán vé số để đi tìm người con riêng của |
13 |
Biển người mênh mông |
|
Ông Sáu |
Bán vé số dạo để tìm người vợ bỏ đi do |
14 |
Sầu trên đỉnh Puvân |
|
Vĩnh |
Khách du lịch sinh thái lên đỉnh núi |
15 |
Thổ Sầu |
|
Dậu |
Du lịch sinh thái ở một vùng Thổ Sầu |
16 |
Của ngày đã mất |
|
Tôi, Em |
Hai thầy trò đi điền dã ghi chép câu |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét