Thứ Hai, 30 tháng 6, 2025

Mùi bình minh

Mùi bình minh

“Một người đàn bà có thể mỉm cười khi nghĩ tới cảnh chồng đang hẹn hò với người yêu cũ, với lòng tin tuyệt đối dành cho cả chồng và người kia, là một người đàn bà hạnh phúc”. Giọng văn sắc sảo, già dặn của Phát Dương trong “Mùi bình minh” đã đan xen giữa quá khứ và hiện tại, thế giới bên ngoài và thế giới bên trong, từ đó lẩy ra những nghiền ngẫm, suy tư về tình yêu, thân phận và lẽ sống.
Chuyện có lẽ đã quên được. Giả sử như không quên được cũng phớt lờ được. Người ta coi kí ức như dòng sông đùng đục, múc lên lóng phèn xài thứ nước trong, cạn đáy vét cặn bỏ đi. Để rồi nhìn những hạt nâu cô đơn nằm tụ nhau dày đặc vẫn cô đơn, ngờ ngợ nhớ à nó là phù sa mình thầm ca ngợi.
Ừ thì không quên được, vẫn tiếc chứ, nhưng thời gian đã phủ bụi rồi. Ông Hiên cất giữ trong ngăn kéo tim, khóa kĩ, chẳng bao giờ nghĩ rằng mình sẽ mở ra. Huống chi là nhắc lại. Vậy mà người về. Người chẳng cần chìa dự phòng, giọng nói như câu thần chú, kí ức xộc ra khỏi ngăn tủ háo hức như con chó trung thành quấn chủ. Người già dễ rưng rưng. Ba mươi ba năm. Tình cũ.
Hồi nghe bà Ánh gọi về, vợ ông Hiên đã cất giọng nằng nặng: “Tui nói rồi, tình cũ không rủ cũng tới. Người ta bay tận từ Mỹ về, không ý đồ ai rảnh đâu tìm gặp cho bằng được”. Mấy chục năm vợ chồng đủ để ông biết, vợ nói chỉ để nói, cho đã cái miệng, bụng vẫn rì rào xanh cỏ như cánh đồng sau mưa mát rượi. Tính ông ngược lại, ngoài mặt hề hề mà trong dạ con hạn bà chằn cư trú mãi mãi. Ông không thích người ta nói này kia xéo xiên ngang ngửa. Ông ngán thay đổi nhịp sống đều đặn trôi, như con sông đã quen êm đềm chảy. Đừng cạn queo, đừng cuộn cuộn lũ. Đừng khuấy lên điên đảo sạt bờ trôi cây.
Ông Hiên chọn tránh mặt. Ông từ chối cuộc hẹn ở Bạc Liêu, trốn tuốt lên Sài Gòn chơi với cháu. Ông nghĩ làm vậy đủ để nản, người ta vốn ý nhị. Ông không ngờ ba mươi ba năm khiến người ta khác nhiều, hay ba mươi ba năm khiến người ta nung nấu quyết tâm dám làm những điều mà tuổi trẻ người ta không dám. Càng nguy hiểm. Than già giữ nhiệt còn mãnh liệt hơn củi phừng phừng cháy. Bà Ánh có mặt ở Sài Gòn, lần nữa gọi ông hẹn uống cà phê.
Có thật chỉ là uống cà phê? Biết bao nhiêu chuyện để nói. Tưởng tượng mỗi chuyện là một tờ giấy mỏng dính, cầm soi thấu mặt bên kia, xếp chồng lên giờ chắc thành hai ngọn núi. Hai ngọn núi giấy dễ cháy. Ông Hiên thở dài, xua đuổi hình ảnh cánh rừng cháy rụi chỉ bằng mồi thuốc quăng bậy. Và những tiếng xa gần, trong mù mịt khói ta chẳng còn thể nhận ra nhau. Lửa không biết có thiêu được người không, nếu cháy luôn vỏ bọc để lộ ra thằng Hiên trẻ non thì kì cục quá. Cái tuổi vồ vập chỉ biết yêu là yêu. Cuối cùng lấy người chẳng yêu. Qua chục năm, nhận ra để bên nhau người ta ngấm dần chữ thương nữa.
Chần chừ nhìn đồng hồ, kim gì mà chạy nhanh dữ. Nghĩ ngợi chút xíu mười lăm phút chạy qua cái vù. Mặt trời vẫn chưa lên. Bình minh của ông Hiên tính từ lúc ông thức dậy. Hôm nay trước cả mặt trời. Bình minh màu đen chảy dài, như thế giới đang nằm trong lọ mực. Ngoài kia thần thánh đang chấm bút vô ghi nên lịch sử. Cho ông hỏi ba mươi phút nữa ông đã quyết định đi hay không đi? Vùng vằng giữa hai quyết định. Muốn và sợ.
Sợ bà Ánh thì ít, sợ chính ông thì nhiều. Sợ vợ ông buồn nữa. Bà có thể rổn rảng, nhưng dễ mủi lòng, nhắc mấy chuyện xưa lần nào cũng khóc. Ông không còn muốn làm ai phiền hà, chỉ muốn trầm lặng đi đến dấu chấm câu cuối cùng của mình. Văn bản đời khép lại, như cuốn tiểu thuyết hiền lành chẳng làm ai day dứt. Có lẽ, ông đã trừ bà Ánh ra. Bà sẽ nhớ hoài ông, có khi vì chẳng được gặp một lần.
Thở dài lần nữa, ông Hiên đứng dậy, bước vô buồng lấy cái áo khoác vô. Xỏ thêm đôi giày. Nhè nhẹ thôi, con cháu mình còn đương ôm những giấc mộng đẹp mỏng như cánh gió. Nhon nhón chân để bà vợ ngủ thêm chút nữa. Ông khép cửa như người phủ quỳ* lên thời gian mạ vàng cho thinh lặng.
Ông không hay có đôi mắt cũng bâng quơ mở, nhìn vào bức tường chưa được ánh sáng rọi đến. Quay lưng về phía ông Hiên. Vợ ông quyết định sẽ làm như không hay biết.
Kì lạ quán cà phê mở sớm như vầy. Ánh nói quán người quen, năn nỉ nên chị chủ cho ngồi trước. Ánh cười, nụ cười bị thời gian xô lệch nhiều nhưng không làm héo nổi nét duyên, rằng chắc vía tốt bà chủ mới chịu cho mở hàng.
– Lần này em về thăm bà con họ hàng, sẵn thăm anh. Rồi em qua Mỹ định cư luôn. – Ánh nói như nói với cái quán, với những dãy ghế trống không còn lật úp trên bàn.
Quán chỉ có hai người. Nhân viên chưa tới, bà chủ loay hoay trong bếp tự tay pha nước. Không gian kì quặc, đèn mở như đang đêm mà không phải là đêm. Trời đằng xa, qua khung cửa kính hững hờ ánh sáng nhạt như ảo giác, là ngày mà chẳng đủ thành ngày. Kì quặc như cách ông Hiên và người tình cũ ngồi đây, giữa cái nơi chẳng tồn tại chút nào kỷ niệm, vẫn sống dậy từng đợt sóng như cái bàn đang đặt giữa biển khơi. Kì quặc cả sự bình thản của Ánh, một quyết định mà chưa bao giờ ông nghĩ bà có thể dứt khoát làm.
Thôi, Ánh đã quyết định, cũng tốt. Ông Hiên mở lời thăm hỏi gia đình bà mấy câu. Cả hai bên, đuề huề con cháu, coi như cũng đủ đầy hạnh phúc. Ông không nhắc nhiều về mấy chuyện xưa. Nhắc nhở chỉ làm người ta tiếc. Chạm nước chỉ khiến hồ dậy sóng. Hãy là vài cánh hoa rơi, mặt nước đương thu đẹp như gương soi, cành khô phản chiếu thành hai cành khô nhìn hoài cũng đẹp.
Ánh uống cà phê đen. Thói quen uống trà chẳng còn hay hôm nay muốn làm điều khác biệt? Những giọt cà phê từ phin pha nhểu xuống, như bình minh đen lan ra. Như nhuộm cả chiếc ly dần đen. Nhuộm bầu không khí. Nhuộm tươi vui ông Hiên giả bộ dựng lên. Càng tươi tắn trắng ngần càng dễ lem màu. Càng dễ sụp đổ. Ông muốn đưa tay nắm lấy tay bà Ánh. Đừng. Đó là ngòi nổ.
Ánh đẩy gói quà về phía ông Hiên, kèm phong bì mỏng.
– Mấy món đồ em đem từ Mỹ về, lặt vặt xà bông, thuốc cảm, kem đánh răng, anh nhận cho em vui. – Ánh nheo đôi mắt đã hằn nếp gấp, như đếm những giọt cà phê.
Ông Hiên đón ánh mắt bà qua thành ly cũng phản chiếu chính ông.
– Còn tiền này…
– Hồi xưa anh giúp em nhiều. Giờ em khá rồi, coi như trả nợ anh chút đỉnh. – Ánh cười.
Cười như cái lần ông Hiên không thắng kịp, chiếc xe đạp đưa cả hai tông vô gốc mù u. Ánh trầy một đường rướm máu, vẫn tỉnh bơ kêu coi như trả nợ lần trước em hù anh hết hồn té trầy đầu gối. Sao thời gian không làm nụ cười đó sờn đi? Như đã làm sờn mọi thứ, bao gồm mơ ước và hối tiếc?
Chầm chậm, ông Hiên lắc đầu.
– Quà thì anh nhận, tiền thì thôi em. Quý là quý tấm lòng.
Điều hai vợ chồng ông Hiên giống nhau nhất, là lòng tự trọng. Ông kiên quyết không nhận tiền nước ngoài. Việt kiều về, vợ chồng ông sẵn sàng bao hết, dù lòng cũng xót xa tiếc. Nhưng không thể để người ta trả được. Nếu bà Ánh bấy lâu ở Việt Nam, kiếm sống ở Việt Nam, thì ông nhận tiền. Còn đằng này bà theo con cháu mưu sinh đất khách, cực khổ chứ sung sướng hơn bao nhiêu, ông không nhận được. Đó là thành trì của ông, kiêu hãnh của ông.
Điều mà Ánh từng yêu da diết, bà cho là người đàn ông có chính kiến hấp dẫn một cách kì lạ.
Trời đang ửng dần lên như trứng gà sắp nở. Bình minh của mọi người đã dậy.
Người ta chẳng biết mình muốn gì cho đến khi chậm trễ. Bà Ánh từng nghĩ bà cũng là người như vậy. Nhưng không. Bà chỉ làm lơ mong muốn của mình. Bà phó thác cho những người bên cạnh lựa chọn. Họ sẽ là dòng chảy. Bà hóa thân chiếc xuồng nhẹ tênh. Nước đưa đi đâu thì đưa.
Một chiếc xuồng có thể tự ngược dòng không? Trong đêm tối đằng đẵng đến không gian cũng đổ ầm ào. Bóng người chụp lấy bà, mặc cho bà giãy giụa. Anh ta được cho phép làm chồng bà. Mẹ bà cho phép anh ta có quyền làm bà hạnh phúc, tức là thôi thon thót ngó nghiêng về phía những tiếng súng xa xăm. Thời chiến tranh xa cách, đàn bà ở lại héo hon có khi rụng niềm vui trước tuổi. Còn lại mớ lá úa, vật vờ sống kiếp cây khô.
Bà Ánh chưa bao giờ trách mẹ. Bà hiểu nỗi lòng người mẹ, càng hiểu thấu hơn khi sau này chính bà đẻ những đứa con của mình. Đôi khi, hạnh phúc mà mỗi người nhận định lệch nhau. Như vá một mảnh vải vào một cái áo rách. Cần khéo léo chỉ kim. Chẳng thể lành nguyên như cũ, nhưng ít ai nhận ra trật vuột khác miền tâm tưởng. Có điều, cái áo sẽ tiếp tục là cái áo. Được sống tiếp, chứ không phải lãng quên.
Thật dễ dàng khi chính ngày ông Hiên về, ông đem theo người vợ xứ khác. Ông và bà Ánh ngỡ ngàng nhìn nhau, đọc trong mắt nhau nghèn nghẹn, giấu nó đi, cùng cười cùng chào. Tiếc quá đám cưới chẳng đi dự được. Ông lấy cô gái trẻ nhà nuôi giấu bộ đội, khi hay tin ba ông báo bà Ánh đã chẳng còn sau một trận bom càn. Chà, tất cả thuận theo mong ước người lớn. Chống lại thì khó, thuận theo thì đỡ hơn nhiều. Mỗi người có một dòng sông riêng cần gìn giữ, đánh đổi cho nhau cũng được, nhưng sau đó, ta còn gì? Hiên có còn là Hiên không? Ánh vẹn nguyên là Ánh?
Bà Ánh chưa bao giờ dám hỏi, nếu khi đó cả hai mạnh mẽ dám thay đổi, ông Hiên sẽ thương đứa con riêng của bà như con ruột chớ? Ông Hiên cũng giấu nhẹm nỗi sợ, rằng nếu sống chung bà Ánh có thôi ghen tuông khi người yêu mình đã có vợ một lần? Họ nhắm mắt để trôi. Đứng dậy ngay từ hôm sau, giấu nhẹm mọi lời trách móc. Cả lời xin lỗi. Cả những nợ nần.
Ba mươi ba năm ru ngủ một chuyện tình. Như chuyện cổ tích,  chuyện tình là nàng công chúa trẻ trung vĩnh viễn, miễn là nàng còn ngủ. Đừng gọi nàng dậy, hỡi bất kì ai. Cả người trong cuộc. Nàng sẽ bị thời gian chiếm lấy và nhai nát. Hãy để nàng lim dim mắt, đóng băng khoảnh khắc he hé nụ. Sự gợi mở chẳng bao giờ chấm dứt. Ai đó hát rằng, tình đẹp là tình dang dở?
Bà Ánh đếm thời gian bằng những giọt cà phê. Lần này bà về, thật ra, để gặp ông Hiên lần cuối. Con cái bán hết đất đai bên này, bà cũng đành theo tụi nó, ở đây chẳng còn chi lưu luyến. Hàng xóm cũ đã đổi khác, mọi thứ mặc áo mới, người xa lâu về thành kẻ lạ ở quê mình. Yêu thương còn thì về gom nhặt gói ghém đem đi, làm hành lý cho chuyến du hành biền biệt.
Bà Ánh kín đáo ngắm người tình cũ qua ảnh hắt nơi kính cửa sổ. Ông ngấm đầy gió bụi, nhìn càng khiến người ta ray rứt. Đôi mắt buồn như tiếng mưa của những buổi chiều hiu quạnh kết tinh lại, qua ba mươi ba năm. Bả tự hỏi, không dám trả lời, nếu có bà bên cạnh liệu đôi mắt ấy có nhẹ nhàng hơn? Ai mà biết được. Càng sống lâu, người ta càng hiểu cuộc đời chẳng bao giờ thuận trôi như mình nghĩ. Cả khi mình da diết mong. Đến lúc thay đổi, thì nó thay đổi, thế thôi. Mình bằng lòng thuận theo nghĩa là biết cách đưa chiếc xuồng con, giờ chở đầy những người thương, tới bờ bến xa nhất có thể.
Mỗi ngày đều mong một cuộc gặp, rồi gạt bỏ chẳng dám thực hiện. Mỗi ngày tưởng tượng một ngàn lời nói, rồi lại cất đi khi con í ời gọi nhờ. Chẳng có thứ gì ngăn cách, ngoài nỗi sợ. Mình không nên làm phiền lòng những người thân thương, càng không nên quấy phá sự bình yên người khác. Nỗi buồn và tình yêu, như một thanh socola nhiều cacao, đắng mà chẳng nỡ dứt.
Giờ, ước nguyện đã thành. Bà Ánh nghĩ hôm nay là ngày bà cười nhiều nhất trong đời. Không phải ở số lượng. Bà biết mỗi nụ cười tượng trưng cho hàng vạn nụ cười dồn nén. Tươi tới mức cả không khí cũng tươi. Không gian quán bừng sáng, vì bà hay vì bình minh ló dạng? Chắc chắn vì bà. Đã nghe xa xăm tiếng sấm. Trời vẫn không có vẻ gì sẽ kìm hãm đi ánh sáng. Một cơn mưa bóng mây.
Mưa rớt như những giọt cà phê rớt. Bà Ánh mong chúng nhỏ chậm một chút, mà chẳng được. Lát nữa, bà sẽ phải rời đi khỏi đất nước này mãi mãi. Những điều cần mang theo đã mang theo. Thứ muốn trao, cũng phải theo đi. Bà biết tính ông Hiên, ông chẳng chịu nhận tiền cũng phải. Bà tôn trọng. Bà không nói, số tiền này, bà dành dụm từ hồi còn ở đây. Cái hồi lăn lộn chợ xa chở hàng về bán lẻ. Bà không nói, trong phong thư có tấm hình cũ hai người chụp chung, con mối ăn sao đứt một đường cách chia ở giữa. Ông không biết có khi sẽ tốt. Ông sẽ giữ được vẻ bình thản đó, gương mặt với chiếc cằm đang đẩy cao, vai rộng mở, hãnh diện nhìn người yêu cũ biết bao nhiêu năm xa cách.
Cơn mưa nặng hạt hơn. Tiếng mưa đập vào cửa kính rào rạo, như tiếng bàn chân đi trên thảm sỏi lòng. Bà Ánh nhấp một ngụm cà phê, nghe đắng tràn lên mắt. Bà nhìn thấy những hạt mưa cũng đắng. Từng hạt nặng như thủy tinh, tan vỡ vụn vụn, mang vị trầm tư ướp đầm khu phố.
Giá mà bà dám nắm tay ông Hiên, chỉ một lần thôi. Đừng. Có khi làm vậy, những kí ức lộng lẫy cũng chẳng còn nữa. Như một bức tranh quý bị đem ra phơi nắng trải mưa, bong tróc và tàn phế.
Bà chủ đã mở quầy pha chế. Bà xay sẵn cà phê cho cả ngày. Mùi cà phê chiếm lấy từng milimet không khí, thâm nhập vô sâu buồng phổi già nua của hai người khách hàng trầm lặng. Mùi cà phê ướp lấy từ bên ngoài, tan vào từ bên trong. Hai người thơm tới từng sợi tóc bạc.
Mùi thơm phủ ra khắp quán, khi vị đắng cà phê đã chuyển dần ngòn ngọt. Mùi thơm không có gì ngăn cản nổi, hoặc người ta nghĩ vậy, nó bay ra ngoài phủ lên cả cơn mưa. Lên cả bình mình đang hồng ngoài kia, như một thứ trái chín lạ lùng sao sực nức mùi cà phê. Cơn mưa thoảng mùi cà phê, hoài không chịu dứt, như nuối tiếc mùi thơm chính mình.
Bà Ánh đứng lên, chào từ biệt. Ông Hiên tiễn tới cửa. Chiếc xe taxi vừa tới kịp. Khi cửa sổ mở, mùi cà phê cũng chui vào.
Cả hai người là hai nguồn thơm. Cả hai đều biết, sau này, dù bất kì đâu, khi mùi cà phê nhen lên, đột nhiên họ lại bừng thơm và mỉm cười.
Bà Tâm vợ ông Hiên đã dậy trước cả khi ông rời đi. Mà nào phải dậy, đêm qua bà không ngủ. Có lẽ dự cảm đàn bà khiến bà đoán biết, bà cứ để vậy, làm như chưa hay.
Lẳng lặng nằm trong đêm, chầm chậm thở, bà Tâm tưởng mình là hòn đá nằm giữa dòng suối thời gian chảy ngược. Những kí ức lành lạnh, mờ mờ chảy về từ xa xăm. Dù có là lửa, khi thời gian qua, ta chỉ có thể tưởng tượng lại cái nóng chứ chẳng hề thấy nóng nguyên như thời điểm đóng đinh quá khứ. Sự bình thản của tuổi già, khi liều thuốc thời gian đã ngấm ướp con người hiền queo trong vòng tay vỗ về thần kì.
Thú thật với lòng, bà Tâm chưa hề yêu chồng. Thứ tình cảm bà dành cho ông là một kiểu tình cảm khác, vun vén và bồi đắp như thương, thứ tình cảm không thể so sánh với tình yêu giữa ông và người tình trước. Trong trí nhớ, ấn tượng của bà về chồng chỉ là một chàng lính trẻ nhìn lành lành, với đôi mắt lúc nào cũng ngậm nỗi buồn ầng ậng. Ba má bà muốn bà lấy chồng, ông Hiên tốt tính chưa vợ, thế là người lớn nghĩ rằng hợp lý để nên đôi. Bà cũng muốn làm ba má vui, khi bệnh của ba bà đang ngày một trở nặng. Ngày nào ba bà cũng thủ thỉ, chưa thấy con gái rượu lập gia đình ông không an tâm nhắm mắt.
Hơn cả vậy, bà Tâm nghĩ mình có thể phù hợp với ông Hiên để tạo ra một thứ thiêng liêng gọi là gia đình. Xót xa nhưng không thể phủ nhận, hôn nhân không hẳn cần phải có tình yêu. Ngược lại, chính tình yêu quá cháy nồng lại gây ra rạn vỡ. Những gia đình thời ông bà xưa có mấy ai yêu nhau, họ toàn được mai mối gửi gắm mà vẫn bên nhau trọn đời. Đó là minh chứng hay lối mòn? Không biết được. Chỉ biết hai người hợp tính, bà và chồng có thể an tâm ở cạnh nhau lâu dài.
Bà Tâm không yêu, nhưng ghen thì có. Ghen tị trước tình yêu của người khác, thứ mà bà có lẽ chưa trải qua. Toàn bộ tình yêu, nếu đúng như tên gọi của nó, bà dành hết cho ba má và con cái. Bà ước mình có thể yêu ai đó, như ông Hiên yêu bà Ánh, nghĩ mãi lại đành thôi. Bà thích nhấm nháp nỗi cô đơn của mình, suy cho cùng khi tường tận về nó, bà lại thấy nó ánh lên một màu bàng bạc đẹp lạ lùng.
Ghen thì ghen chứ bà không làm gì cả. Ghen kín đáo, đôi khi cố tình lộ ra mặt để có chuyện cãi nhau với chồng một chút, thật kì khôi. Bà ngưỡng mộ nhiều hơn. Ngưỡng mộ khoảng cách mà chồng và tình cũ xây nên, sự tôn trọng tuyệt đối dành cho gia đình riêng của hai bên. Í tai làm được điều đó. Bà nghĩ, tính xấu thì ai cũng có, con người chớ nào phải thánh nhân, nhưng biết kìm giữ mình đã là người tốt.
Và bà Tâm thương. Thương ông Hiên một mực lo cho vợ con, hết tuổi hưu vẫn ráng đi làm thêm để phụ tiền chăm mấy đứa cháu. Ông chưa bao giờ khiến bà phải phàn nàn trong chuyện săn sóc gia đình. Một bờ vai vững chắc, một người chồng chuẩn mực, một người cha tốt. Bà còn mong gì nữa?
Thương chồng đã đành, bà Tâm còn thương cả người lẽ ra phải gọi là tình địch. Có chuyện này bà giấu ông Hiên, đã vài lần bà gặp Ánh. Có khi do bà chủ động, có lúc là Ánh. Gặp nhau để Ánh được hỏi han về người yêu cũ, để bà được than thở về mấy chuyện vụn vặt. Hai người, có lúc cười nói vui vẻ cùng buông một câu, ôi cha ai mà không rành tính ổng dễ nghĩ cộc cằn – thân thiết như hai bà bạn già đã qua mấy chục năm gắn kết. Có khi lại chẳng nói gì, trầm ngâm ngồi bên nhau, im thinh ngắm nhau đang nhểu từng giọt buồn thơm thơm như phin cà phê đắng cả hai đều chọn uống. Âu đó là nhu cầu của con người, cần một ai đó để chia sẻ, một ai đó để thấu hiểu. Một người lạ có gắn kết đặc biệt, vừa xa cách vừa gần kề, không phải quá thích hợp sao?
Khi tiếng ông Hiên đã tan hoàn toàn trong không khí, nghĩa là ước chừng ông đang tới ngã tư, bà Tâm mới ngồi dậy vô bếp tự pha cho mình ly cà phê. Mùi cà phê thơm như một cái xoa đầu ấm nồng của má, thứ cà phê tự tay ông Hiên pha trộn cho bà. Hương thơm lan ra những ngón tay, quấn quít và tỏa ra như một vườn hoa thần thoại.
Thứ hương đó phủ lên mọi thứ, dường như khiến tất cả lấp lánh khi mặt trời dần ửng và ánh nắng hắt vô từ khung cửa sổ. Mùi thơm của một bình minh mới. Mùi thơm của một đời không hối tiếc. Mùi của tuổi già an tĩnh, có thể tự cười khi nhớ lại mọi ngô nghê mình từng trải qua. Mùi hạnh phúc.
Một người đàn bà có thể mỉm cười khi nghĩ tới cảnh chồng đang hẹn hò với người yêu cũ, với lòng tin tuyệt đối dành cho cả chồng và người kia, là một người đàn bà hạnh phúc. Thảng hoặc bà nghĩ, có khi bà sẽ đi thăm bà Ánh một chuyến. Rồi bà sẽ rủ Ánh đi du lịch. Chỉ hai người đàn bà thôi. Đi đâu đó, cao nguyên chẳng hạn, để thử coi mùi bình minh ở đó ra làm sao. Để biết giữa cuộc sống này, có những người tôn trọng và biết thương nhau mới quý giá nhường nào.
Chú thích:
* Quỳ: Vàng dát mỏng để mạ.
2/2/2023
Phát Dương
Theo https://vanvn.vn/

Phía khuất

Phía khuất

Trung tá công an Bùi Tuấn Minh, sinh năm 1984, quê quán Mỹ Đức, Hà Nội. Hiện công tác tại Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Anh đã xuất bản 4 tập sách, đến với thơ từ rất sớm nhưng lại đặc biệt tạo dấu ấn với văn xuôi. Dù mới chuyển qua viết truyện, tuy nhiên, một năm qua Bùi Tuấn Minh đã có cho mình những giải thưởng như: giải Nhì cuộc thi viết Quán Chiêu Văn; giải B trại sáng tác văn học nghệ thuật do Bộ Công an phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức viết về đề tài “Hình tượng người chiến sỹ cảnh sát nhân dân”; và mới nhất là giải A về đề tài “Hình tượng người chiến sỹ cảnh vệ CAND” với Truyện ngắn “Phía khuất”. Với lối viết đầy nội lực và giàu sự trải nghiệm, Phía khuất tuy viết về lực lượng công an nhân dân nhưng không hề khô khan, cốt truyện dày, chặt chẽ, lắt léo, biến tấu linh hoạt, gây được sự bất ngờ. Điều khiến tác phẩm để lại dấu ấn là văn phong tự nhiên cuốn hút, không sa vào lối tuyên truyền để mất đi nét đẹp của văn chương.
Trong bóng đêm nhập nhờ khen khét mùi rơm rạ, ánh điện từ máy tuốt lúa nhà hàng xóm bật sáng hắt xuyên qua khe cửa sổ. Thứ ánh sáng ấy hệt như vết dao cắt đôi bóng đêm đang mờ mịt trong căn buồng tĩnh lặng. Cảnh nhẹ nhàng đỡ Liên ngồi dậy trên chiếc giường yếu ớt gồng mình kêu lên ken két, anh cẩn thận cầm bát thuốc bắc vừa mới sắc đưa lên cho vợ uống, hơi thuốc bốc lên không che hết được khuôn mặt Liên tiều tụy, phờ phạc. Căn bệnh hen mãn tính hành hạ cô mấy năm nay đã biến Liên từ một người phụ nữ khỏe mạnh, xinh đẹp thành một người gầy gò, ốm yếu. Liên thều thào “Hay mình cứ để em chết đi cho đỡ khổ”. Cảnh vẫn in lặng. Anh thổi bát thuốc bớt nóng, rồi từ từ đưa lên miệng vợ, từng chút một cho đến khi cạn đáy. Xong xuôi lại nhẹ nhàng đỡ vợ nằm xuống. Nan giường vẫn rên rỉ kêu những âm thanh cũ như cơn đau của người đàn bà.
Hai vợ chồng Cảnh cưới nhau trước khi anh sang chiến trường K, khi trở về do đặc thù công tác, anh đi biền biệt. Nhưng sự vắng mặt thường xuyên của người trụ cột gia đình chẳng lấy gì bù đắp được. Thời chiến đã đành, đằng này hòa bình bao năm rồi mà Cảnh cứ đằng đẵng, mỗi lần đất nước có sự kiện lớn anh lại xa nhà trước đó cả tháng. Vợ đổ bệnh, Cảnh xin nghỉ phép dài ngày đưa vợ đến các bệnh viện lớn nhỏ, tốn kém nhiều không đỡ, căn bệnh mãn tính nên bác sĩ khuyên sống chung, dùng thuốc để duy trì sức khỏe. Tiền lương của anh chỉ đủ chi tiêu trong gia đình, cứ đi viện lại phải vay mượn. Mấy hôm nay Liên lại ngã bệnh, nằm liệt một chỗ để cơn hen ăn mòn sức lực.
Chờ vợ ngủ, Cảnh bước ra ngoài sân, lấy từ trong túi quần bao thuốc du lịch đỏ còn nguyên. Nghiện thuốc, nhưng từ khi Liên đổ bệnh, anh hút ít hẳn. Chậm rãi rút ra một điếu rồi đứng nơi khuất gió, lần này hút không hẳn vì thèm. Cảnh dự định đưa vợ vào miền Nam, thời tiết trong đó rất tốt cho những người bị bệnh như vợ anh. Vấn đề bây giờ là tiền, phải có tiền để lo toan nhà cửa, tiền thuốc thang trong khi nợ cũ chưa trả được. Rồi, hồi chiều anh lại mới nhận điện khẩn phải có mặt ở cơ quan gấp vào sáng mai, cấp trên không nói lý do. Đất nước đang trong giai đoạn mở cửa, người ta thay nhau đến hỏi thăm dải đất còn đầy bom đạn, vết thương nào cũng cần phải được chữa lành, cả vết thương con người, anh nghĩ. Tiếng guồng máy tuốt lúa nhà bên bắt đầu kêu lên phành phạch. Ở làng anh, ban ngày họ gặt để chất đống ấy, tối mát mới tuốt. Cảnh nghe tiếng hàng nghìn hạt lúa lao vun vút đập rồm rộp vào nia chắn, găm vào dòng suy nghĩ. Điếu thuốc trên tay cháy sát đầu lọc, Cảnh rít một hơi thuốc cuối dài đỏ rực như hòn than.
Sáng hôm sau, vừa bước đến cơ quan, Cảnh gặp ngay thủ trưởng Tính, ông vui vẻ bắt tay “Bây giờ tớ và cậu đến 600, ta vừa đi vừa nói”. Chiếc xe U-oát mùi khói xăng thơm lừng nổ giòn tan rẽ ra đường Trấn Vũ, gió hồ Trúc Bạch mát rười rượi thổi vào khuôn mặt đen sạm, gân guốc của hai người lính dày trận mạc.
Thủ trưởng Tính hơn Cảnh độ dăm tuổi, là lính chiến biên giới phía Bắc. Cảnh rất nể cấp trên của mình về sự điềm đạm, ngay thẳng trong lối sống, kiên quyết, trách nhiệm trong công việc, nhưng điều anh thấy đặc biệt thích thú đó là trình độ võ thuật thượng thừa của thủ trưởng Tính. Mọi người vẫn truyền tai nhau giai thoại một mình thủ trưởng hạ gục 4 tên trong một căn nhà giữa thị xã, bảo vệ an toàn đồng đội rút lui về tuyến sau ở trận phòng thủ Lạng Sơn. Cả hai đều là những người lính xuất sắc của lực lượng cảnh vệ được lựa chọn tăng cường cho hai vùng khói lửa. Người thủ trưởng nhìn Cảnh với khuôn mặt đăm chiêu “Đơn vị ta nhận nhiệm vụ đào tạo cấp tốc cho 15 cán bộ Campuchia về nghiệp vụ cảnh vệ, họ cần người gấp vì tình hình nội bộ bên đó rất phức tạp, bí thư thứ 2 mới bị ám sát hụt. Nhiệm vụ nhận từ chiều qua, thời gian gấp, giáo án, giáo trình dạy cho học viên người nước ngoài chưa soạn ngay được, nên lãnh đạo Bộ Tư lệnh thống nhất để cậu huấn luyện nội dung bắn súng trước”.
“Xong việc tớ lại trả phép cho về mà chăm vợ, cứ yên tâm ở trong này”, thủ trưởng Tính cười nói khi nhìn thấy nét băn khoăn trên khuôn mặt người lính cấp dưới.
Đến nơi, đã có những học viên Campuchia chờ sẵn, vừa nhìn thấy hai người bước vào, một giọng nói tiếng Khơme và tiếng Việt lẫn lộn reo lên “Blen sửa tò, ân nhân, ân nhân”. Một người đàn ông đậm người, có nước da trắng hơn những người còn lại tất tưởi đến trước mặt Cảnh “Tôi, Keosay đây, Blen sửa tò (ân nhân) không nhớ tôi à”. Như một người thân quen lâu năm gặp lại, anh ta vừa nói vừa tìm lấy tay của Cảnh mà nắm chặt. Cảnh nhìn kỹ người đàn ông, anh ngờ ngợ, ký ức về những ngày gian khổ tại Campuchia như gió thông thốc thổi vào trí nhớ.
Đó là những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, sau khi đẩy lùi quân Pôn Pốt ra khỏi các thành phố lớn, ta và địch hình thành thế da báo. Cảnh là lính bắn tỉa, thường được tăng cường cho các trận tiến công cấp tiểu đoàn trở lên. Nhiệm vụ của anh là xác định và tiêu diệt những tên chỉ huy hoặc những ổ hỏa lực mạnh. Lịch sử chiến tranh biên giới họ thường không nhắc đến vai trò của những người lính bắn tỉa như Cảnh, nhưng đối với những người trực tiếp tham gia đánh trận tại đất ấy, mỗi khi nghe có lính bắn tỉa hiệp đồng là bộ đội lại an tâm, tự tin thêm bội phần, những người lính bắn tỉa đã góp phần không nhỏ giải quyết trận đánh. Nhớ một lần quân ta tiến công vào TaLen, một vị trí trọng yếu về quân sự, trinh sát ta dường như chưa phán đoán được mùa mưa ở Campuchia phức tạp như thế nào. Nước ngập, sình lầy khắp nơi, xe tăng phối hợp không tiến lên nổi, tiến công theo đường lớn thì mìn cài chi chít. Hỏa điểm DK82 và đại liên của giặc cứ thoải mái mà khặc đạn vào đội hình quân ta đang tiến chậm chạp giữa sình lầy, lui không được, tiến chẳng xong, bộ đội hy sinh mỗi lúc một nhiều, nằm la liệt trên mặt ruộng. Cối, pháo của cấp trên tăng cường bắn vào đội hình địch vẫn không ăn thua, lần lượt hai chiếc xe tăng bị bắn cháy. Lúc này, bắn tỉa được tăng cường đến, khẩu DK82 rồi đại liên của địch im bặt, quân ta thừa thắng xông lên, quân Pôn Pốt tháo chạy lâu nhâu như chuột.
Nhưng đến trận đánh ở Tonlesap, Cảnh lạc đơn vị. Ở đất ấy, lạc nghĩa là cầm chắc cái chết, địch ở khắp nơi, không chết vì chiến đấu thì cũng chết vì đói, vì bệnh tật, nhất là sốt rét. Suốt mấy ngày trong rừng già, mệt mỏi và đói lả, thi thoảng có nhìn thấy mấy tốp Pôn Pốt anh biết mình đã đi sâu vào trong vùng địch, trên người khi ấy chỉ còn con dao, khẩu CKC và 2 viên đạn. Cuối mùa khô khắc nghiệt, những con suối, khe cạn khánh kiệt nguồn nước, trời loang lổ xám xịt dọa mưa nhưng chẳng có hạt nào rơi xuống. Họng khô rát anh phải tìm những đọt lồ ô, chặt từng khúc mà vắt nước cầm hơi, nhấm nháp được tí nước lại phải giấu đi tránh bị phát hiện. Cứ thế cái chết cứ rình rập cho đến ngày thứ năm, Cảnh nghe thấy tiếng Khơme xì xào cách chỗ anh không xa. Anh nhẹ nhàng, bí mật trườn đến mô đất có bụi cây um tùm trước mặt tiện quan sát. Cách đó tầm 50 mét, một người phụ nữ nằm trên mặt đất bị trói chặt tay sau lưng. Ba tên lính mặc quần áo Tô Châu đang lăm lăm dao và súng đứng cạnh. Một tên dùng báng súng giánh mạnh vào mặt người phụ nữ đang đau đớn, quằn quại dưới đất, máu mũi phun ròng ròng. Có một tên đầu trọc xốc người phụ nữ, kéo dựa vào gốc cây thốt nốt đã cụt thân ngay đó. Tên còn lại, có vẻ là chỉ huy nói mấy lời trong khi tên khác nắm tóc người phụ nữ tì vào gốc cây, tay còn lại cầm dao giơ lên, dường như bọn chúng đang chuẩn bị hành hình người phụ nữ chống đối. Cảnh nhớ lại lần hành quân qua một ngôi làng người Campuchia, mùi xác động vật lẫn xác người trương phềnh, thối rữa. Tàn nhẫn hơn những nạn nhân bị kéo tập trung đến một nơi rồi tất cả đều bị chặt đầu, không ai chết bằng đạn. Không đành để vậy, đơn vị lại mai táng những nạn nhân xấu số, khiêng những thi thể mất đầu, lòng ai cũng căm phẫn đến tột độ.
Đạn không đủ, bỏ mặc thì không đành. Thoáng chần chừ, Cảnh nhẹ nhàng đưa khẩu CKC lên phía trước, đầu ruồi nòng súng và thước ngắm nằm trên một đường thẳng, chỉ chờ xác định mục tiêu và bóp cò, bắn ở cự ly này đối với Cảnh việc này là việc dễ dàng. Ở phía còn lại, đợi tên chỉ huy vừa dứt lời, “Đoàng” tiếng súng nổ khi tên cầm dao xuống tay. Máu bắn tung tóe lên mặt người phụ nữ, hắn ta đổ sập xuống, tên chỉ huy liền quay súng lia một tràng đạn về phía sau thì tiếng súng thứ 2 làm hắn gục tại chỗ. Tên trọc đầu còn lại hoảng loạn, vội cầm ngay cái dao dí vào cổ người phụ nữ, xốc lên, hắn kéo cô ta làm bia đỡ đạn, hướng về phía bụi cây rồi gào to “Nờ nà” (kẻ nào). Từ bụi cây, Cảnh lao ra, khẩu súng giương ngang tầm mắt, ngón trỏ vẫn đặt trên cò. Anh phăng phăng tiến về phía trước, như một dũng sĩ, đôi mắt rực đỏ “Lớt tày làn” (giơ tay lên). Ở chiến trường này, người lính Việt nào cũng phải biết mấy câu ấy để kịp thời xử lý những tình huống trong chiến đấu. Hắn ta hoảng loạn khi nhận ra trên tay Cảnh là khẩu bắn tỉa, loại súng cũng được trang bị trong quân Pôn Pốt. Nhận ra cái chết cận kề, hắn kéo đầu người phụ nữ che lấy mình, bởi chỉ cần cơ thể lộ ra sẽ lĩnh trọn viên đạn từ khẩu súng kia. Lúc này, Cảnh mới nhận ra người phụ nữ là một cô gái còn trẻ, tay Cảnh hẩy khẩu súng, quát “Khueo” (cút). Bất ngờ có đường sống, tên kia dùng hết sức bình sinh đẩy cô gái về phía Cảnh rồi chạy thục mạng về phía sau. Cảnh lao đến cởi trói cho cô gái, rồi nắm tay chạy về phía cánh rừng, không quên cầm theo khẩu súng ngắn trên người tên chỉ huy nằm dưới đất.
Chạy được một quãng họ đã nghe tiếng súng vang lên phía sau, khu rừng ôm chầm lấy hai người bằng những cơn mưa đầu mùa bất ngờ ập xuống. Họ chạy mãi, chạy mãi khi thấy tương đối an toàn, Cảnh buông tay “Đi đi”, cô gái quỳ sụp xuống, giữ chặt lấy chân Cảnh khóc lóc, van xin. Cô ta nói bằng tiếng Khơme nên anh không hiểu, nhưng có vẻ cô ta muốn đi theo. Anh nghĩ, cho cô gái theo kiểu gì cả hai cũng chết nếu bị phát hiện, bỏ cô ta lại mà bị bắt anh cũng day dứt. Đôi mắt nhìn cô gái thương hại, anh lấy từ túi áo chiếc khăn mùi xoa màu xanh vợ anh thêu tặng trước khi vào chiến trường đưa cho cô gái khi thấy máu ở miệng cô vẫn đang chảy. Con người vẫn thường bán mình cho cảm giác, tình thế không cho phép nhưng Cảnh lại im lặng như một sự đồng ý. Anh quay lưng đi, cô gái cũng đứng dậy vội vã bước theo.
Họ tránh đường mòn, lối mở, nơi thoáng đãng bởi những chỗ ấy dễ bị phục kích. Dường như đã sống lâu trong rừng, cô gái dễ dàng tìm những loại củ, hạt có thể ăn mà những người lính như Cảnh lạ lẫm không biết, nhờ vậy mà họ cầm cự được cơn đói. Nhưng rừng già nơi này đâu chỉ có thế, những ngọn núi cao trùng trùng tưởng chừng không vượt qua được, những cây cổ thụ vài người ôm vun vút che khuất ánh sáng, rồi cả thú dữ. Mưa vẫn rầm rề khắp các cánh rừng, nước bắt đầu đổ về các con suối, vắt bâu như ruồi, máu chảy dòng dòng trên da thịt hai người. Họ, một nam một nữ, lặng lẽ lần mò trong rừng sâu như những con thú bị săn đuổi.
Đêm. Mưa ngớt, trăng lên vội, họ ngồi nghỉ cạnh một gốc cây lớn gần bờ suối, cô gái đến trước mặt Cảnh, cố giao tiếp với anh bằng cử chỉ, ánh mắt. Cô gái đặt vài viên đá nhỏ rồi nguệch ngoạc mấy đường kẻ xung quanh. Anh hiểu họ phải đi qua dãy núi phía trước sẽ đến nơi an toàn. Cả ngày chỉ lo tìm đường trở về với đồng đội và tránh quân Pôn Pốt, giờ Cảnh mới để ý đến cô gái dưới bóng trăng mờ, cô ta dễ nhìn, thậm chí khá xinh, đôi mắt sâu hun hút, lôi cuốn, mạnh mẽ của phụ nữ Khơme.
“Maly” thấy anh nhìn cô dò xét, cô gái liền chỉ tay vào mình để giới thiệu tên, rồi chờ đợi.
“Cảnh” anh lạnh lùng đáp, cô gái nhắc lại tên anh rồi che miệng cười để lộ nét duyên làm anh hơi bối rối.
Đột nhiên, Cảnh ra hiệu im lặng khi cô gái định nói tiếp điều gì đó, anh nhìn thấy phía trước không xa có ánh lửa đang di chuyển đến. Giật mình đứng dậy, phía sau cũng có khá nhiều ánh lửa “Hỏng rồi, lần này chắc khó thoát”, Cảnh nghĩ thầm. Quân Pôn Pốt có lẽ quyết tâm bắt sống anh hoặc cô gái kia rất quan trọng với chúng, ý nghĩ chợt thoáng qua trong đầu. Vội cầm khẩu súng, anh kéo cô gái chạy về phía bờ suối, được chục mét cô gái bị bước hụt chân, kéo theo anh, cả hai ngã xuống một bãi có đám dương sỉ dày. Thoáng bất ngờ, Cảnh nhận thấy hai người rơi xuống một chiếc hố nông. Dường như là hố chiến đấu cá nhân hướng hỏa lực về phía bên kia bờ suối, lâu ngày cỏ dại mọc tràn lan, dày đặc phía trên che kín miệng hố. Vừa định hình, Cảnh vừa kéo cô gái ngồi thụp xuống, lấy tay gạt đám dương sỉ che phía trên đầu. Lát sau, anh thấy ánh lửa và những bước chân đi qua ngay sát miệng hố, ước lượng khoảng tầm chục tên, khẩu súng ngắn đã lên nòng hướng lên phía trên, mắt anh căng ra, không chớp. Tiếng bọn chúng nói chuyện, quát tháo ngay chỗ hai người ngồi lúc nãy, có vẻ như bọn chúng đã thấy dưới chân mấy hòn đá nhỏ. Từ từ nhô đầu lên quan sát, anh thấy vài tên cầm đuốc đang tản ra soi các lùm cây xung quanh, rồi thụt xuống khi thấy một tên tiến đến phía mình. Cô gái một tay đang bịt miệng như không thở, một tay bấu vào vai Cảnh. Chưa bao giờ Cảnh và cô gái gần nhau đến thế, mùi thơm đàn bà nồng nồng, dễ chịu quện vào hơi thở anh. Tên lính đến trước cái hố rồi dừng lại, hắn lia lia bó đuốc, cúi người nhìn xuống lùm dương sỉ. Soi đi soi lại vài lần, hắn đặt ngọn đuốc xuống và kéo quần.
Phía dưới lớp cỏ mỏng, Cảnh bất ngờ khi cô gái nhanh chóng tự cởi chiếc áo đang mặc, đưa cho anh cầm hai góc áo, cô gái giữ hai góc còn lại, cô ra hiệu cho cả hai giơ căng tấm áo đen lên trên đầu. Cảnh không kịp phản ứng, anh làm theo một cách hoàn toàn phục tùng mà quên đi mình đang ở trong hoàn cảnh nguy hiểm. Da thịt đàn bà như một thứ ma lực vô hình, ngay sát tầm mắt anh là tấm thân trắng ngần cùng bộ ngực đầy đặn căng tràn thiếu nữ, cả hai nín thở… Tấm áo quả thật đã có tác dụng che ánh lửa soi xuống khiến tên lính không hề thấy gì phía dưới. Nhưng bây giờ cả hai đang hứng trọn thứ nước ô uế, khai rình. Đợi tên lính xả xong, cả đám quân Pôn Pốt kéo nhau di chuyển lục lọi về phía bờ suối…
Không gian yên tĩnh trở lại. Đêm chỉ còn ánh trăng bám mình rung rinh trên vạt cỏ, côn trùng cũng cảm nhận được sự yên bình. Rồi một tiếng, hai tiếng dế rả ríc, sau đó cả cánh rừng như một dàn giao hưởng ngân lên giai điệu của đêm. Chưa bao giờ Cảnh nghe một thứ thanh âm quyến rũ, mê hồn đến thế, anh chỉ muốn lặng đi ở trạng thái này. Chiếc áo đã được cô gái cuộn lại, nhưng không thể mặc nó, hai tai cô co lên che trước ngực, hơi thở Cảnh trở nên gấp gáp. Bỗng nhiên anh thấy lành lạnh, mắt mờ dần…Cô gái từ từ đứng dậy, lấy tay gạt đám cỏ định leo lên, cô muốn xuống suối rũ sạch thứ mùi hôi hám kia. Khi thấy khuôn mặt Cảnh đang tái dại dưới ánh trăng, hai hàm răng bắt đầu va vào nhau cầm cập, cô liền bỏ ý định ra suối. Cảnh bị sốt rét, người lạnh toát, đôi mắt nhắm nghiền, cơn sốt rét đến nhanh tới mức ngay sau đó anh bắt đầu rơi vào vô thức. Anh chỉ cảm nhận mơ hồ có ai đó đang cởi từng cúc áo trên người rồi cứ thế thiếp đi. Cảnh như lạc vào giấc mơ nhẹ bẫng, anh thấy mình đang bay trên những ngọn cây, trên những cánh rừng, bay qua dải Trường Sơn rồi trên những cánh đồng vàng óng, anh cứ thế bay, bay mãi… Ngôi làng của anh kia, khói bếp trắng mờ tỏa thơm lừng cơm gạo mới, anh thấy Liên đứng ngoài hiên nhà đang mỉm cười nhìn anh. Cảnh bế vợ trên đôi tay rắn rỏi đặt lên giường, anh nhẹ nhàng vén áo, áp tai vào bụng vợ nghe tiếng con gọi mình. Hai tay Liên xoa tóc chồng, từ lâu Cảnh thích cảm giác này, nó dễ chịu, yên bình và dễ ngủ. Một lúc, Cảnh bắt đầu dịch lên vùng ngực vợ, từng chiếc cúc áo mở ra, anh thấy mình như chú cá đang vẫy vùng, quẫy đạp trong vũng nước mát lành, ấm môi rồi anh lại thiếp đi…
Tiếng chim ríu ríu trên đám cỏ làm Cảnh thức giấc, anh chỉ đủ sức he hé đôi mắt. Người vẫn lạnh run, nhận ra cô gái tên Maly không còn dưới hố nữa, nhưng hai khẩu súng vẫn còn. “Chắc cô ta đã bỏ đi” anh nghĩ, ý nghĩ lan về đêm qua, đầu nặng trịch, anh không nhớ gì ngoài mùi da thịt vợ nơi quê nhà. Cảnh tự hỏi liệu cô gái kia có quay lại không hay lúc nữa anh bị một đám quân Pôn Pốt lôi lên găm vài viên đạn vào đầu. Anh không thể chết, nếu chết thì chết đêm qua rồi, nhưng không đi được, anh vẫn yếu run người. Bỗng đám cỏ bị gạt sang một bên làm Cảnh ngắt dòng suy nghĩ, là cô gái, chiếc áo đen đã được mặc trên người. “Đẹp quá”, Cảnh nhìn Maly cùng ý nghĩ như muốn tuột ra thành lời. Maly tụt xuống, tay cô cầm một thứ đựng nước như chiếc gáo đưa cho Cảnh uống, lại đưa vào miệng anh mấy quả chín nhai lờ lợ. “Cảm ơn”, anh gắng gượng nói, Maly tủm tỉm cười.
Rừng mưa rừng tạnh, rả rích quay cuồng, nghe tiếng suối chảy, nước đổ về ngày càng nhiều, mùa mưa năm nay với anh bắt đầu thật khủng khiếp. Họ cứ ở đó, chiếc hố chứa hai kẻ chạy trốn thần chết, thi thoảng Maly lại ngước lên quan sát phía trên. Đến gần trưa, Cảnh khỏe thêm một chút, anh quyết định đi tiếp, Maly phải tìm cho Cảnh cành cây để chống xuống đất mỗi bước đi, lúc sau thì Maly phải dìu anh. Ra đến bìa rừng thì họ kiệt sức, vừa dừng nghỉ, anh nằm vật ra bãi cỏ hổn hển, còn cô gái đi tìm kiếm, quan sát xung quanh. Nằm được một lúc, Cảnh nghe tiếng hét lên của Maly, anh cầm khẩu K54 chồm dậy theo bản năng mà quên mất cơ thể ốm yếu. Cảnh loạng choạng bước nhanh, chân lảo đảo chữ chi, anh lao qua bãi cỏ tranh cao ngang đầu người. Trước mặt Cảnh là con đường đất, cách đó tầm ba chục bước chân, anh thấy Maly đang giãy giụa, sõng soài dưới đất, cô đang bị hai tên Pôn Pốt cầm hai chân kéo lê trên đường. Maly bị chúng phát hiện khi ra đến đây, một đám quân Pôn Pốt khác đang lố nhố bên mấy chiếc xe quân sự cách đó không xa. Chẳng nghĩ ngợi, Cảnh rút súng bắn hết băng, hai tên đổ gục, chúng rên la thảm thiết. Ngay tức khắc Maly bật dậy chạy về phía anh đang ngã khụy xuống. Phía xa, đám lính lao đến, vừa đuổi vừa xả súng về phía hai người, Maly đỡ anh chạy về phía bãi cỏ, chưa kịp quay lưng thì Cảnh bị trúng đạn, cảm giác như một mũi giáo lạnh ngắt vừa đâm xuyên thấu xương, anh thấy mình như bị bầu trời hút lên trong đau đớn, ngã vật xuống. Ngay lúc đó, một loạt đạn cối nổ đinh tai, những loạt AK vang lên cùng tiếng hô “Xung phong”, còn Cảnh thì lịm hẳn.
“Mời anh uống nước”, Keosay vội bỏ chiếc cặp xuống, hai tay khúm núm đỡ lấy chén trà nóng. Khuôn mặt toát lên vẻ trí thức làm Cảnh nghĩ anh ta hợp với nghề phiên dịch hơn là cầm súng. Chiều nay sau khi lên lớp, Keosay có xin Cảnh lên phòng để ôn lại chuyện xưa, cơ chế thoáng nên việc gặp mặt cũng đơn giản. Dãy nhà ở cán bộ và dãy học viên quốc tế gần nhau, vừa xong bữa tối, đã thấy Keosay tới, trong phòng một ấm trà nóng vừa pha đang đợi khách.
“Thưa ân nhân”, Keosay rụt rè bắt đầu câu chuyện.
“Đừng gọi mình là ân nhân, đó là việc bình thường của thời chiến, cứ gọi tên là được rồi” Cảnh ngắt lời.
“Thầy nói thế sao được, ơn nghĩa của thầy chúng tôi biết bao giờ mới trả hết, xưng thế không được thầy ạ …”.
Cảnh chăm chú ngồi lắng nghe câu chuyện của người đàn ông Campuchia, anh ta từng sống ở miền Bắc, sau đó về nước cùng quân tình nguyện Việt Nam chống Pôn Pốt, giờ làm trong Bộ Nội vụ vương quốc Campuchia. Anh ta nói tiếng Việt sõi như người Việt, đợt này qua đây vừa tập huấn vừa phiên dịch cho lớp tập huấn này. Qua câu chuyện, Cảnh mới biết Maly là con gái của một hoàng thân. Keosay là anh họ của cô gái, mồ côi từ nhỏ và sống với gia đình cô. Trước ngày Phnôm Pênh được giải phóng, quân Pôn Pốt đã bắt cóc Maly, ép lấy một tên sĩ quan nhưng cô thà chết chứ không làm vợ hắn, lần chúng định giết cô thì Cảnh xuất hiện.
Viên đạn ngày đó không giết được Cảnh, sự việc vô tình diễn ra trong một cuộc tập kích của đơn vị bạn. Anh được đưa về hậu cứ cấp cứu, khi tỉnh dậy, anh đã thấy gia đình cô gái và một người đàn ông tên Keosay đứng ngoài cửa phòng bệnh. Nói là phòng cho sang, chứ đấy là khu trường học bỏ hoang, không cửa lối, cửa sổ toang hoác, chỗ Cảnh nằm là tấm phản gỗ được tận dụng cho thương binh nằm, nặng lắm mới được vào đây. Cô gái chẳng nói chẳng rằng đi nhanh đến chỗ Cảnh đang nằm, bật khóc rưng rức. Keosay cũng bước tới với thái độ vui mừng, liên tục nói “Blen sửa tò, cảm ơn ân nhân”. Sau đó, Cảnh được mặt trận chuyển về thành phố Hồ Chí Minh và điều trị ở đó gần một năm rồi ra Bắc.
Hôm sau, lớp huấn luyện ra thao trường để bắn đạn thật, từng chiếc bia được dựng lên ở các cự ly, Cảnh hướng dẫn họ từng tư thế bắn. Động tác và kỹ năng điêu luyện của anh nhanh, dứt khoát tất cả các viên đạn đều trúng mục tiêu. Đến nội dung huấn luyện súng dài, từng viên đạn cũng được anh găm vào bia một cách chính xác kể cả các cự ly xa. Khi học viên thực hành, Cảnh yêu cầu tháo ống ngắm quang học, lý do để luyện kỹ năng ngắm bằng mắt thường, kết quả không ai bắn trúng bia ở cách đó 50m. Đám học viên bắt đầu xì xào “Họ bảo bắn không ống ngắm quang học ở cự ly này không thể trúng mục tiêu” Keosay nói và cầm khẩu súng đã tháo ống ngắm, anh kiểm tra thước ngắm cơ học và ngắm vào bia, súng nổ, 3 viên rời nòng. Cả đám học viên chạy lên bia cách đó 100m mục sở thị, 3 lỗ thủng chen chúc nhau vào cái hồng tâm nhỏ bằng cái đáy chén, họ trầm trồ thán phục. Keosay nói điều gì đó với những người còn lại khiến họ lại vỗ tay, Cảnh hỏi anh ta bảo “Tôi nói đây chính là người đã cứu mạng em gái tôi bằng những phát bắn như thế”.
Cảnh trở về nhà vào cuối tuần, sức khoẻ Liên chưa đỡ hơn, giấc ngủ bị những cơn hen réo rắt dài thít chặt cơ thể hom hem, đôi mắt thâm quầng vì mất ngủ. Cảnh nói với gia đình về dự tính đưa vợ vào nam, cậu con trai mới bước vào cấp ba lặng lẽ ngồi vào bàn học, sụt sùi. Liên thào thào “Mình vào sinh ra tử một đời, giờ lại vất vả vì em, mình cứ buông tay cho nhẹ gánh, em có mệnh hệ nào cũng thấy thanh thản”. Cảnh lặng nhìn người vợ tảo tần, thương xót, anh nắm lấy tay Liên an ủi, rồi ra nhà ngoài nói chuyện với con trai. Trong buồng, người phụ nữ lặng lẽ khóc.
Keosay tìm đến nhà Cảnh trước ngày về nước, trên tay anh ta cầm túi xách để lộ mấy hộp sữa ngoại, anh ta nói mọi người đi tham quan thành phố, còn mình tìm về đây. Địa chỉ hỏi mấy cán bộ, mọi người chỉ biết xã, huyện, anh ta cứ thế mà dò theo. Cảnh ái ngại mời anh ta vào nhà, là một người làm ngoại giao Keosay tỏ ra là một người lịch thiệp, tế nhị trong giao tiếp và luôn tỏ thái độ tôn trọng, dạ thưa với người thầy ân nhân. Trong câu chuyện, Keosay nói đã báo cho em gái việc gặp được người lính cứu cô năm xưa và luôn nhắc đến việc sẽ gặp để trả ơn. Anh ta nói sẽ liên lạc ngay với Cảnh sau khi về nước. Trở vào nhà sau khi tiễn Keosay về, Cảnh thấy anh ta đã khéo léo đặt một cái phong bì to phía dưới mấy hộp sữa, anh giật mình vì trong đó là một tập tiền đôla Mỹ, một số tiền rất lớn tính theo giá trị tiền Việt.
Đêm hôm ấy, bóng tối nhọc nhằn bám vào kim đồng hồ lê lết tới ngày mai, Cảnh hết đứng rồi lại nằm, thức rồi lại ngủ. Càng về khuya, đêm trồng lên đêm, chỉ có hạt lửa đỏ lập loè trên miệng người đàn ông nơi góc sân. Mỗi lần rít vào điếu thuốc như đầu đạn lóe lên, ngón tay khét lẹt. Cảnh nghĩ về cái nghiệp gắn bó bao năm nay khiến anh cảnh giác với tất cả những viên kẹo. Sự quan tâm đường đột, những món quà từ trên trời rơi xuống, chỉ cần một sự nhẹ dạ có thể khiến cả quốc gia phải trả giá. Nhưng anh cũng rất yêu gia đình, đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn và người vợ theo anh bao năm đang héo hắt, lắt lay sống chung với bệnh tật, Cảnh ho liên tục, dưới chân đầy rẫy những tóp thuốc còn ấm.
Liên khó nhọc trở mình, tiếng thở rin rít thỉnh thoảng bị đứt gãy bởi tiếng ho khùng khục của chồng ngoài vườn. Cảnh chưa kể cho cô về người khách hôm nay, nhưng từ khi họ về, chồng cô lặng lẽ đăm chiêu, nghề của Cảnh là vậy nên Liên cũng không hỏi. Gần sáng Liên mới ngủ được, Cảnh không vào buồng, cũng không ngủ với con, nó bảo thức dậy bố đã không còn ở nhà.
Nhìn thấy Cảnh đầu giờ sáng đã đến tìm, thủ trưởng Tính ngạc nhiên “Tớ tưởng cậu đang nghỉ phép, hay nhiều ngày nghỉ quá định đến trả bớt phép à”, Cảnh nghiêm túc “Em cần báo cáo anh một việc”. Sau khi nghe Cảnh trình bày, khuôn mặt thủ trưởng Tính giãn ra, ông tẫm tắc, gật đầu, hai tay đặt lên vai người đồng đội “Đi sang đây với tớ”, nói rồi ông nắm tay Cảnh đến phòng đồng chí Tư lệnh. Khi hai người bước vào, trong đấy đã có đồng chí thứ trưởng và một người đàn ông mặc đồ vest lịch sự, vừa nhìn thấy họ, Tư lệnh liền cất lời “Thiêng thế, tôi đang định tìm các cậu, đây là ngài đại sứ Vương quốc Campuchia…”
Phnôm Pênh thay đổi nhiều sau 15 năm, dù vết đạn pháo vẫn còn lỗ chỗ trên hàng cây thốt nốt xanh tươi, sừng sững đứng dọc dài những con phố lớn. Đâu đâu cũng thấy những nụ cười tưởng chừng chẳng bao giờ tắt ở nơi vừa thoát nạn diệt chủng. Cảnh cùng vài đồng chí trong đơn vị biệt phái sang đây đã gần 1 tháng cùng nhiệm vụ phối hợp với đơn vị nước bạn bảo vệ một yếu nhân trong quãng thời gian vị này đi vận động tranh cử. Anh cũng chưa gặp lại Keosay từ hôm sang đây.
Hôm nay là buổi tiếp xúc cuối cùng diễn ra tại một khu chợ tiểu thương được người Pháp xây dựng, trông giống như chợ Bến Thành nhưng nhỏ hơn khá nhiều. Những lần trước, việc cảnh vệ được thực hiện cực kỳ chặt chẽ và an toàn, lần này cũng vậy. Cảnh đến trước cùng một nhóm an ninh kiểm tra địa điểm. Anh chú ý đến một ngôi nhà khóa cửa nhiều lớp có gác lửng, nhô lên ngay sát chợ, cửa sổ chớp hướng trực diện đến vị trí phát biểu. Anh đề nghị bạn kiểm tra nhưng họ bảo chủ ngôi nhà là một nhà sư và việc phá cửa là không nên.
Trong suốt quá trình diễn thuyết, Cảnh quan sát cẩn trọng mọi động tĩnh, nhưng để ý nhiều hơn đến cái gác lửng phía xa theo linh cảm nghề nghiệp. Tưởng như mọi thứ sẽ diễn ra bình thường, trong khoảnh khắc ánh mắt lướt qua, đột nhiên anh thấy nan chớp cửa sổ của ngôi nhà khóa đang bị rút vào để lộ khoảng đen thăm thẳm, có ánh sáng lóe lên như kính ống ngắm. Không chần chừ, chẳng cần ngắm, Cảnh rút khẩu súng ngắn hướng lên phía ô cửa bóp cò “Đoàng, đoàng”. Đạn găm vào ô cửa, vụn gỗ tung tóe làm lệch hướng bắn và ngầm tuyên bố vị trí của kẻ sát nhân đã bị lộ. Hai tiếng súng chát chúa phá tan buổi phát biểu, vị yếu nhân nhanh chóng được đưa xuống. Đám đông hỗn loạn, Cảnh nhanh chóng lao về phía ngôi nhà, vài người an ninh chạy theo. Trong khi họ tìm cách phá cửa, Cảnh chạy vòng ra dãy phố phía sau, anh thấy một người đàn ông chạy ra từ cửa sau của ngôi nhà, Cảnh đuổi theo. Những dãy nhà chen chúc và không thuộc địa hình làm Cảnh mất dấu khi đến đoạn ngõ cụt. Khi đang cố gắng xác định phương hướng Cảnh bỗng nghe tiếng súng phát ra từ ngôi nhà gần đó, anh áp sát. Vận động vào trong, Cảnh thấy Keosay đang chĩa khẩu súng còn ám khói vào người đàn ông trọc đầu nằm sõng xoài dưới đất. Tay còn lại của Keosay thõng xuống, máu chảy ròng ròng dường như đã bị thương. Vừa nhìn thấy Cảnh, Keosay lạnh lùng “Kẻ thầy cần tìm đấy”, nói rồi, Keosay ngồi thụp xuống dựa vào tường. Dường như Keosay không mặn mà, vui mừng khi thấy anh. Cảnh từ từ tiến đến, súng vẫn hướng về phía trước rồi ngồi xuống kiểm tra kẻ nằm dưới đất, hắn ta đã chết. Nhìn khuôn mặt của kẻ trọc đầu, anh ngờ ngợ, Cảnh giật mình định nói với Keosay khi chợt nhớ ra điều gì đó. Anh thấy khẩu súng trên tay Keosay đang hướng về phía mình, đôi mắt đỏ ngàu đằng đằng sát khí.
“Đoàng”, Cảnh ngã người ra phía sau, viên đạn găm vào cơ thể ngọt lịm, anh nghe thấy tiếng đứt gãy của mạch máu, vỡ vụn của lồng ngực. Bóng tối đóng sập cánh cửa ánh sáng, Cảnh thấy mình rơi vào khoảng không gian mênh mông tăm tối. Xa xa mấy vệt sáng lập lòe vút lên như những linh hồn rời xa nhân thế. Anh đợi chờ mong mỏi cảm giác được bay trên những ngọn núi, trên những cánh đồng như cái lần bị sốt rét ngày trước. Mùa này lúa đang mươn mướt non, đòng đòng chắc vẫn đượm thơm mùi từ hồi chân mạ. Tâm can bắt đầu giằng xé, cảm giác không gian, thời gian lẫn lộn một mớ hỗn độn. Lại thêm một lần đổ máu ở nơi đây, lần này thì không thể trở về. Anh nghe tiếng khóc của vợ con đau đớn và thê thiết, tiếng súng rền vang bầu trời như lời tiễn biệt của đồng đội văng vẳng bên tai… Khép mắt mãn nguyện chấp nhận cái kết của lý tưởng, lạ thay anh vẫn cảm nhận máu nóng đang trào ra, một bàn tay nhè nhẹ chạm vào thân xác và mùi hương thoang thoảng nồng nàn. Cảnh cố bừng tỉnh nhưng lại thấy mình rơi vào một bóng tối đen đặc khác.
Đồng đội kể, hai người đã chết hẳn khi họ đến, chỉ còn Cảnh thoi thóp. Những bác sĩ tốt nhất của hai nước được điều động để cứu bằng được anh, vết thương mới trồng lên vết thương cũ một cách kỳ lạ. Cảnh tỉnh lại ở một bệnh viện PhnômPênh sau thời gian dài mê man. Anh hỏi về Keosay, họ nói hắn là nội gián, hắn giết tên đầu trọc kia để bịt đầu mối và tự bắn vào tay mình nhằm qua mắt cơ quan an ninh. Nhưng một người bí ẩn khác bắn chết hắn ngay sau đó và họ vẫn đang điều tra. Khi chết, lưng vẫn dựa vào tường, viên đạn giữa trán, đôi mắt vẫn trợn tròn kinh hãi. Trước khi ra viện, bác sĩ có gửi lại Cảnh một thứ, đó là chiếc khăn tay dính vết máu bạc phếch, chiếc khăn thêu hình đôi chim bồ câu lồng hai chữ Cảnh Liên. Cảnh ngạc nhiên, họ nói chiếc khăn được lấy ra từ trong túi ngực của anh.
Một buổi xế chiều hai mươi năm sau, những cơn gió mát lành hiu hiu miệt mài kéo hoàng hôn xuống những làn sóng bạc lăn tăn phía xa, vỗ ì oạp vào bờ đá hồ Trúc Bạch. Mặt nước dưới chân hai người đàn ông lênh láng ánh vàng, đậm đà hoài niệm. Thẳm trong mắt sâu, tiếng vỗ về sóng nước gợi lại trong họ một miền ký ức thăng trầm nhưng vẻ vang.
“Vụ ấy cậu là có công lớn nhất đấy, thử hỏi nếu cậu không nhạy bén thì sự thể nguy hại thế nào, không thể lường hết được hậu quả”, một người nói.
“Dạ, cũng may nên anh em ta còn gặp lại nhau. Sau khi về nước em chuyển công tác theo nguyện vọng vào Nam, nhà em cũng được điều trị tại bệnh viện 30/4, sức khỏe đã tốt hơn rất nhiều, chúng em còn được phân nhà tập thể, cháu lớn giờ cũng thành đạt ở trong đấy”.
“Keosay, tên này quả là ranh ma, nhưng hắn ta không phải là kẻ đứng sau mọi việc, mà cậu cũng khó chết thật”, nói rồi ông Tính cười khà khà vỗ vai người đồng đội. Lúc sau, dường như nhớ lại chuyện gì, mắt ông sáng lên “À, thế lần ấy sang đó cậu có gặp lại cái cô Maly không, nghe bảo cô ta là con gái của lãnh đạo phe đối lập?”.
Mặt ông Tính đăm chiêu, nếp nhăn trên trán xô lại khi thấy người đồng đội cũ đang mỉm cười, đôi mắt hướng về phía mặt hồ đầy gió thu gợn sóng.
4/2/2023
Bùi Tuấn Minh
Theo https://vanvn.vn/

Ngôi sao vô danh

Ngôi sao vô danh

Từ đấy tới nay non ba chục năm trời. Các nhân viên trên đoàn tàu đêm nay không ai biết ga Mả Phu Tàu. Có thể vì họ không biết hết tên các ga xép. Thành thử tôi cứ chong mắt nhìn ra đêm trăng. Ngoài cửa sổ núi nọ hiện hình lên rồi từ từ khuất dạng, núi khác lại chồng tiếp vào, miên man, trùng điệp. Nhưng suốt đêm nhìn ra tôi vẫn thấy mãi một ngôi sao xanh treo trên một đỉnh núi nào đó cứ đang lặng lẽ trông với theo vệt sáng của đoàn tàu.
Những địa danh thoáng hiện, chưa kịp nhói lên đã vuột mất khỏi tầm trí nhớ, vụt đi như là bị gió thổi phù.
Trăng lên, tàu dừng ga Phúc Trạch chừng mươi phút rồi lại chuyển bánh. Không vội vã, đoàn tàu dấn sâu vào thế giới hoang vu chập chùng đồi gò khe lũng và mênh mông những trảng trống miền tây Quảng Bình. Thỉnh thoảng một vạt núi từ Trường Sơn ăn ra cắt ngang qua vùng cô tịch kéo dài của cỏ tranh và lau lách. Đường sắt xẻ vào núi, trườn giữa hai vách ta-luy đột ngột tối sầm rồi lại đột ngột băng ra giữa miền trăng sáng.
Đường dây Năm trăm kìa! –  Đằng cuối toa một người đàn bà kêu lên.
Tôi đã tưởng trên toa chỉ còn riêng mình đang thức. Nhịp tàu dập dềnh, tiếng bánh sắt lăn đều đều, và gió mát, ru người ta ngủ. Ngoài cửa sổ, trăng sáng, đêm dài, cảnh đường trường lươn lướt trôi qua như những cái chớp mắt. Những cột tín hiệu. Các nhà ga xép. Những đám cây cối. Một vạt rừng thưa. Những rặng đồi thâm thấp. Và đột ngột tiếng rền vang như sấm của một đoạn cầu ngắn ngủn. Đất đai quê hương trải dài trong quạnh quẽ.
Đã non ba chục năm rồi còn gì, ngày ấy với bây giờ, nhân tình thế thái đổi khác biết bao nhiêu, nhưng mà núi vẫn thế, rừng vẫn thế, suối sông cũng vẫn thế thôi. Vẫn một Quảng Bình hình thể độc đạo, đất hẹp trời cao, và vẫn trùng điệp Trường Sơn một dọc không cùng tận. Có lẽ ngoài tuyến tải điện Bắc Nam là một công trình còn quá mới, hai mươi năm hòa bình đã chỉ in được vào trong cảnh vật của miền non nước hoang sơ thưa vắng bóng người này có độc nhất một con đường xe lửa. Dường như tất thảy những bước tiến và những đổi thay của cả nước đều chỉ nườm nượp trẩy qua chứ không chịu dừng chân. Dường như ở nơi đây kể từ sau chiến tranh, thời gian tức là tiếng còi tàu, dường như kim đồng hồ chỉ chạy khi có tàu chạy ngang. Những chuyến tàu ra rồi những chuyến tàu vào bù trừ cho nhau như là ngày và đêm.
Ngày xưa, thời chúng tôi, lính đi Bê, anh nào may mắn thì cũng được rời Hà Nội bằng tàu hỏa. Song chỉ tới bắc Cầu Bùng là kịch đường, phải xuống. Từ Quỳnh Lưu, cuốc bộ, súng ống trang bị chất trên vai, xuyên Nghệ An, Hà Tĩnh, vòng tránh đèo Ngang, rồi hoặc một mạch đổ về Cự Nẫm hoặc là đi chéo đường về “thủ đô Troóc”. Từ đấy, mới thực sự bắt đầu đường giao liên 559, ngàn dặm vào Nam.
Tôi nhớ năm ấy, mùa đông, tiểu đoàn chúng tôi một hàng dọc vượt Khe Gương. Ở khúc lội của bộ binh, ngày xưa từng có một cây cầu. Thân cầu đã sập xuống khe từ những đời thuở nào, chỉ còn lại đó cái mố giữa đứng chơ vơ. Mặc dầu đã sạm đen và lở nát đi vì năm tháng song mố cầu vẫn giữ lại được vóc dáng xưa tuyệt đẹp nom tựa vòm cổng một tòa thành cổ từ dưới lòng khe sâu cao vút lên. Giữa lòng khe, thân cầu như một con tàu mắc cạn, đã rã nát ra. Những mảnh dầm cầu phủ nặng rêu nằm rải rác trên nền sỏi trắng dưới làn nước lạnh giá trong vắt. Tiểu đội trưởng bảo: “Không phải sập vì bom đâu mà do ngày xưa người ta tiêu thổ kháng Pháp”
Sang bên kia khe, đường hành quân men theo đường sắt. Thực ra thì chẳng còn tăm hơi đường sắt. Chẳng còn ray, chẳng còn tà-vẹt, cả đến một cục đá răm rải đường cũng chẳng còn. Thời gian, mưa nắng, cỏ cây đã biến tuyến hỏa xa Xuyên Việt thành một lối mòn vô danh trườn lượn lẩn khuất dưới những vách đồi. Đồi dốc chập chùng, mưa phùn lê thê. Tiểu đoàn rẽ vào Rú Voọc, rải quân ra chốt lại. Vì có thể sẽ dừng chân vài ngày trong vùng rừng hoang này nên các đơn vị được lệnh không tạm bợ tăng võng qua đêm mà phải đào hầm dựng lán đàng hoàng nơi ăn chốn ở đón xuân.
Mỗi tiểu đội một lán, nền âm, mái lá. Đầy đủ hầm chữ A, bếp Hoàng Cầm, sạp giường, giá súng, giá ba-lô, và cả bàn thờ nữa với cờ Tổ Quốc, ảnh Bác Hồ. “Ở thì tươm rồi đấy, chẳng kém doanh trại trường hạ sĩ quan một tị nào – tiểu đội trưởng bảo – Nhưng tết nhất sao đây hả, giao thừa mà nhá lương khô thì quá thể nực cười ”. Tiểu đội trưởng Tỏ của chúng tôi đã hai năm quân ngũ nên thạo đời, sắc bén như con dao pha. Thoáng cái anh đã biết ngay lũng rừng âm u nơi đơn vị đang hạ trại vốn dĩ là một khu khai thác gỗ. Như vậy thì phải có dân cư gần đâu đây. Một xóm sơn tràng, hoặc thậm chí một lâm trường nữa cũng nên. Tỏ mở miệng bao tải, và lính tráng moi ba lô, mỗi đứa bỏ một thứ vào đó góp vốn để Tỏ đi sắm tết. Kim, chỉ, đá lửa, pin Văn Điển, cao Sao Vàng, lưỡi dao lam, cặp ba lá. Và lương khô, thịt hộp, đường, sữa. Tôi được Tỏ kén đi chợ cùng.        Ban đầu hai đứa tôi đạp góc phương vị mà đi. Nhưng chỉ một chốc thì Tỏ lục lạo tìm ra được một vệt đường lâm nghiệp trốn sâu trong gai góc và lùm bụi. Lội rừng chừng hơn một giờ theo cái lối mòn kéo gỗ đã bị bỏ hóa ấy, chúng tôi bước ra một vùng rừng thưa và gặp lại đường xe lửa. Khác với đoạn ở Khe Gương, tại Rú Voọc này nền đường sắt mặc dù bọc trong lau lách nhưng còn khá rõ, nhô cao lên như một con đê dài lượn giữa sóng rừng nhấp nhô. Đang đắn đo chưa biết nên đi ngả nào thì chúng tôi chợt trông thấy ở đằng xa, trước khúc cua vòng của trục đường, có một túp lều mọc trong màn mưa bụi li ti lạnh giá. Rẽ lau, chúng tôi đi tới. Túp lều mà không phải là lều. Nó giống một cái bục có mái che của người gác ghi nhà ga. Cố nhiên là ọp ẹp, xiêu vẹo, mái có vẻ như bằng gỗ, ba bên vách cũng vậy, nhưng đều đã mục ruỗng, thủng nát. Vén manh chiếu rách che cửa lều, tôi thấy một ông lão ngồi co ro trên chiếc ghế đẩu. Một ông già đã  rất già. Lưng còng, trán nhăn như vỏ táo khô và có lẽ vì răng không còn nhiều nên phần dưới khuôn mặt sụp xuống. Ông vận một cái áo bông cổ lông nhưng mà lông đã trụi nhẵn, vải áo đắp đầy mảng vá bằng những mụn vải nhiều màu.
“Chào bọ  ạ !”, tôi lên tiếng.
“Gì ?”
“Rét thế này bọ ngồi làm gì ở đây thế ạ ?”
“Bây hỏi chi lạ ! – Ông cụ phều phào gắt –  Ta làm gì nơi đây đui sao mà không thấy ! Lính khu Ba tụi bây đứa mô cũng tài nói lẻo ”.
“Gần đây có cái thôn nào không cụ ơi ?” , Tỏ hỏi. Ông cụ ho khù khụ.
“Bây cần cái chi mà hỏi?”.
“Bọn con muốn trao đổi hàng hóa, cụ ạ. Hàng khô quân sự đổi lấy đồ ăn tươi. Cho bộ đội và nhân dân cùng ăn tết cụ ạ”.
Ông lão lọm cọm đứng dậy, gỡ ở vách ra một cái áo tơi lá, rồi bước ra khỏi lều. Ông diện một đôi giày lính đã hoác mõm, bê bết bùn.
“Đó ! –  Ông cụ chỉ tay về một khoảnh rừng xa – Thị trấn đó. Lâm trường bộ đó. Trường học đó. Vườn ươm cây đó, đó nọ, đó !”.
“Dạ, cụ nói sao ạ, thị trấn ư ?”
“Ngoài khu Ba bây mới có thị trấn hử ?” – Ông cụ nạt.
“Bây tới đó, qua vườn ươm, rồi qua suối, rẽ tay mặt. Đi tới. Rẽ tay mặt. Đi thẳng tới. Qua đồi. Đó, đồi đó nọ. Đội Bốn lâm trường bên đồi đó. Tới đó mà kiếm đồ ăn”.
Chúng tôi phải khó khăn lắm mới hiểu được những chỉ dẫn rắc rối của ông cụ. Tôi nghe  giọng ông cụ hình như không hẳn giọng Quảng Bình.
“Cụ cũng ở chỗ đội bốn đó ạ ?”, Tỏ hỏi.
“Bây hỏi chi lạ. Can cớ chi ta phải ở với bọn sơn tràng trong nớ”     “Nhưng cụ ngồi làm gì ở đây thế ?”.
“Ta gác ghi”
Tôi kinh ngạc, nhìn. Bây giờ tôi mới nhìn thấy trước ngực ông cụ có đeo một cái còi bằng đồng buộc vào một sợi dây gai choàng qua cổ. Và cụ cầm trong tay hai cây cờ nhỏ. Một lá màu vàng, một lá màu đỏ.
“Cái bọn sơn tràng đội Bốn trong nớ chúng nghèo cực, bây không hòng mua được gì nhiều của bọn chúng. Nhưng ngoài bọn nớ thì không thôn làng chi nữa nơi Rú nầy”
“Thế nhà cụ ở đâu ạ ?”
“Ở nhà ga chớ ở đâu !”
“Ga ư ? Đâu ạ  ?
Ông già nhướn cặp lông mày bạc phếch và mở to cặp mắt kèm nhèm nhìn sững vào mặt tôi như thể kinh ngạc vì sự ngớ ngẩn quá sức của tôi. Rồi chậm rãi ông quay người lại.
“Nhà ga đó !” – Ông chỉ cho tôi thấy một đám rừng chồi xanh tươi ở cuối khúc cua của nền đường sắt.
Ông nói: “Vào trong đội Bốn rồi, khi trở ra mời hai anh qua chơi, thăm nhà chúng ta. Ta cũng muốn mua vài món. Ta có tiền. Hai anh có vải hoa không?”
“Dạ không có ạ!”, Tôi đáp
“Xà phòng thơm Hoa Nhài?”
“Không ạ”
“Vậy gương soi, thứ của đàn bà con gái đó?”
“Không có ạ. Mà cụ cần thứ đó làm gì ạ?”
“Ta không cần. Nhưng ta muốn mua cho con Giang, cháu ta. Hừ. Vậy thì trong bị của hai anh có những món gì? Nói coi. Ta mua. Ta có tiền”
Tôi định trả lời, nhưng Tỏ xua tay. Anh chào ông cụ rồi vội kéo tôi đi.
“Ông lão hóa rồ rồi, không thấy à, đồ ngốc! – Tỏ mắng – Lão ấy thì có cái gì mà đổi chác. Mày khai hết các thứ ra không sợ lão rồ ấy hỏi xin cho bằng hết à ? ”
Nhưng mà chúng tôi vẫn đi theo sự chỉ dẫn của “lão rồ” để tới lâm trường bộ và thị trấn. Đấy là một đám rừng tái sinh mọc trên bãi bom B52. Trận bom đã từ khá lâu. Những thân cây đổ cháy dang dở đã đâm chồi non. Trong những đám cỏ rậm cao vút có thể thấy thấp thoáng di tích nhà cửa. Ù ù gió thổi. Bạt ngàn hố bom. Chồng đống gạch nát, ngói vụn, rầm gẫy. “Thị trấn đấy!” – Tỏ bảo. “Ông lão ấy thế mà cũng giỏi đùa nhỉ.” Vòng vo, quanh quéo, rẽ phải, rẽ trái, cuối cùng thì chúng tôi cũng đến được cái gọi là đội Bốn lâm trường. Vốn là cánh rừng nhưng cây cối đã bị bom xô đổ. Lối đi hụp lặn trong cỏ tranh. Cỏ tranh rẽ lào xào, răng rắc tiếng cành khô gãy. Cơ hồ không một bóng người. Đời sống chỉ còn chập chờn vương vất dưới đây đó rải rác những túp lều dụi dọ, nửa nhà nửa hầm, ngoi lên ngay bên nền cũ tang thương của những xác nhà.
Tỏ thở dài: “Ở đây chợ Tết tan sớm ghê. Hàng quán nghỉ cả rồi”
Từ các xó xỉnh bụi bờ hang hốc lũ trẻ lốc thốc chui ra. Đứa nào đứa nấy gầy vêu, ốm đói, xống áo tả tơi, da đen nhẻm, môi tím tái vì rét.
Các chú khu Ba! Các chú khu Ba “manh xờ lam đổi gà ri” tề, bay ơi! – Bọn nhãi reo lên, nhẩy cẫng, hò nhau chạy xán đến gần chúng tôi.
“Bố mẹ, anh chị các cháu đâu?” – Tôi hỏi.
“Ba đi dân công hỏa tuyến. Mạ về Cổn đổi muối!”
“Bọ mạ vô rú trồng bắp”
Đứa lớn nhất hỏi:
“Hai chú tha chi trong bao? Tiêu chuẩn đi Bê đổi lấy gà hỉ?”
“Ừ, – Tôi nói – Các chú cần chút thực phẩm tươi cải thiện. Nhà cháu có gì để đổi không?”
“Ôi thôi nào! – Tỏ làu bàu, mặt cau lại, rồi lại thở dài – Còn đổi chác cái gì nữa hở mày. Không thấy cảnh nơi này sao? Thôi thì có gì chia nấy. San đều mỗi nhà mỗi xíu mày ạ. Gọi là chút quà lính đi Bê biếu bà con ăn Tết”
Chúng tôi vác bao đi lần lượt mười căn nhà hầm của xóm sơn tràng. Bọn nhãi nhũng nhẵng theo sau rồng rắn như đám rước. Tới trước cửa mỗi hầm, Tỏ mở bao, bốc trong đó mỗi thứ mỗi ít bỏ vào mũ cối. Bọn trẻ xúm xít, giương mắt nhìn, thèm thuồng. Chúng tôi xuống hầm, cất tiếng chào. Mặc dù có bếp lửa giữa lòng nhà nhưng căn nhà hầm nào cũng tối âm âm, ẩm ướt, lạnh lẽo, trống rỗng. Nhà thì có ông lão, nhà thì bà lão. Tôi bỏ các thứ trong mũ lên góc chiếu. “Năm cũ chưa dứt nhưng chúng con bộ đội hành quân qua không dừng lâu được xin có chút quà gửi sớm tới gia đình lời và  chúc mừng năm mới ”. Có cụ chào hỏi lại và cám ơn. Có cụ chẳng nói gì, hấp háy cặp mắt đục lờ… Tôi và Tỏ trở về theo lối cũ. Im lặng bước đi. Trong lòng buồn bã. Trời buổi trưa đã tạnh mưa nhưng mà thêm phần lạnh lẽo. Núi rừng cằn cỗi, bao la, chập chùng. Biển lau xám xịt một màu. Tiếng động cơ phản lực rền rền lăn trên mây. Chúng tôi lên lại nền đường sắt, đi về phía túp lều gỗ của ông già “gác ghi”. Ông già đang đứng ngoài lều. Ðứng nghiêm, mặt trông về phía bắc, nơi đang rầm rầm tiếng máy bay quần lượn. Một tay ông cụ đưa ngang ra.
“Ông lão làm gì thế nhỉ?” – Tôi ngạc nhiên.
“Không thấy ông già trương cờ à? – Tỏ nói – Cờ vàng. Ðón tàu qua ga đấy. Tiếng máy bay nghe xa cũng na ná tiếng tàu hỏa đấy chứ”
Ông cụ không để tâm tới chúng tôi đang bước tới gần. Mắt cụ chăm chăm nhìn hút theo trục đường. Tay cụ cứ đưa ra mãi không biết mỏi. Lá cờ vàng vẫy trong gió rét. Tôi định lên tiếng chào thì bị Tỏ kéo kéo tay ra hiệu im lặng. Hai đứa lách cỏ lau đi vòng qua sau lưng ông cụ.
Đi xa khỏi túp lều rồi Tỏ mới bảo: “Tao sực nhớ là bọn mình quên không để lại thức gì làm quà cho ông lão. Nên phải tránh”. Suốt dọc đường hai đứa im lặng rảo bước. Về đến gần lán tiểu đội, Tỏ níu tôi dừng lại một lát bên bờ suối. Anh bảo: “Tao thật không đành lòng mày ạ. Nghĩ thương ông lão quá. Thôi bây giờ thế này nhé. Tao thì trung đội không cho đi nữa, chứ không thì tao đi ngay. Nên mày chịu khó một tí vậy. Về lán, mày nằm nghỉ một lát cho đỡ mệt rồi quay lại “trạm gác” đường tàu mang cho ông lão chút quà Tết. Tao sẽ chuẩn bị gói quà ấy. Những thứ ông ấy thích tao có cả đấy. Mảnh vải hoa may áo. Xà-phòng thơm. Các thứ bọn con gái chuộng: kim chỉ, cặp ba lá, cúc áo, có cả. Gương tròn tao không có nhưng thằng Ngữ bên A2 có, tao sẽ xin của nó cho cháu gái ông lão. Mày đi nhé? Ði rồi quay về ngay vẫn kịp đón giao thừa”
Tôi chỉ và vội bát cơm, chứ chẳng nằm nghỉ, khoác túi quà lên đường ngay. Nhưng tới nơi thì ông già “gác ghi” không còn trong túp lều. Chiều đã muộn rồi, lại càng thêm rét, lại lâm thâm mưa phùn. Tàn tích của con đê hỏa xa như thêm một nét ảm đạm nữa cho buổi chiều đông. Bốn bề mênh mông im lìm. Quả đồi này nhường bước cho quả đồi khác, cánh rừng này tiếp nối cánh rừng khác, kéo dài vô tận dưới vòm trời thâm ướt. Mệt mỏi tôi lê bước theo khúc cua vòng của nền đường lở nát đi về phía rừng chồi, nơi mà ông lão gọi là nhà ga. Tưởng cụ lú lẫn nói nhăng, vậy mà đúng là có vết tích một nhà ga ở bìa rừng. Lần đầu tiên ở phía nam Vinh tôi trông thấy lại những thanh ray và những tà-vẹt bằng sắt nằm cong queo, rỉ nát trong cỏ. Một khoảnh đất bằng với những phiến đá phẳng đã rạn vỡ nhưng vẫn mang dáng của một cái sân ke.
Một vệt đường lượn cong cong dẫn vào rừng chồi. Có vẻ như đây là dấu vết còn lại của một nhánh phụ tuyến đường sắt. Tôi rẽ vào rừng theo đường nhánh đó.
Ngôi nhà hiện ra đột ngột và huyền bí trong ánh chiều đẫm hơi mưa đang dần nhòa lụi dưới bóng rừng. Không phải nhà ngói, nhà gianh, không phải lều lán, không phải là nhà hầm. Mặc dù gần như hoàn toàn bị trùm lấp trong những tầng dây leo nặng trĩu, ngôi nhà vẫn rõ ràng là một toa tàu hỏa khiến tôi sững sờ. Những bánh xe ấn lút hai khúc ray xuống đất mùn. Khung xe trùm lấp dây leo. Những quả mướp lõng thõng trước những khuôn cửa sổ. Ðây là một toa tàu khách, cửa ở hai đầu toa. Bậc lên xuống đã mục nát được thay bằng tam cấp gỗ tự đóng lấy. Nhưng tay vịn bằng đồng thì vẫn còn.
Một cảm giác hơi rờn rợn ngăn tôi lại trước cửa toa. Khá lâu, tôi đứng sững, lặng im. Cho đến khi tôi nhận thấy có người đứng ngay đằng sau mình. Người đó bước tới bên tôi mà sự xao động gây ra không mạnh hơn một bóng ma. Tôi ngoắt người quay lại. Có thể nói lúc bấy giờ chỉ còn lại một thoáng ánh sáng cuối cùng trước khi rừng hoàn toàn sập tối, tuy nhiên chẳng những nhận ra bóng ma đó là một cô gái mà tôi còn kịp định hình được vóc dáng của cô, gương mặt của cô. Thoáng hiện đó sẽ còn in đậm mãi trong tâm trí tôi bởi vì từ sau đó tôi chỉ còn thấy được cô mờ mờ trong ánh lụi mờ của đốm lửa hương bài.
“Chào anh bộ đội, anh tìm ông nội em phải không?” – Cô gái lên tiếng, giọng Quảng Bình dịu ngọt, gần như là du dương vậy.
“Cô là Giang à ?”
Cô gái dạ thật khẽ.
“Ông em ngủ rồi anh à”.  Cô không nói mời anh lên toa mà nói mời anh lên nhà.
Sàn toa bằng gỗ vẫn còn chắc chắn vang lên thình thịch dưới bước chân. Trong toa thơm ngát khói hương bài tỏa từ bàn thờ. Bàn thờ khuất đâu đó trong lòng toa tối đen. Tôi và Giang ngồi xuống băng ghế gỗ. Ðây là loại toa khách hạng ba. Chỉ có hai băng ghế dài dọc theo hai bên thành.
Ông lão nằm ở băng ghế bên kia, thở khò khè và ho.
“Sao không làm sạp giường trải cho ông nằm?” – Tôi hỏi.
“Ông em thích vậy đó. Ðã quen như vậy. Bởi hàng chục năm rồi ông ngủ.
“Sao Giang không thắp đèn lên? – Tôi lại hỏi sau một lát lâu im lặng – Giôn-xơn nó tuyên bố tạm ngừng ném bom mấy ngày Tết. Từ chiều không thấy nó quần đảo nữa”.
“Dạ, em cũng nghe nói vậy. Nhưng ông nội em sợ ánh sáng về đêm lắm. Ðang ngủ say mà ai bật que diêm hay đánh máy lửa là ông vùng dậy la hoảng. Rồi ông chạy. Ông em đâu còn tỉnh trí, chắc anh cũng biết. Chắc anh đã gặp ông em ngoài đường tàu rồi” Tôi kể cho Giang nghe chuyện tôi và Tỏ gặp ông cụ. Và nguyên do tôi tìm tới đây.
“Vậy đó anh nờ, – Giang thở dài – Ông em sống mãi trong thời xưa, thời còn tàu hỏa Tây. Thời xưa đó ông em từ Huế ra đây làm ký ga. Nghe ông kể thì chỗ đây xưa là nhà ga, ga Kiểm Lâm, hay còn gọi ga Mả Phu Tàu. Tên chi mà dễ sợ anh hi”.
“Cái toa xe này là thế nào? Nó nằm đây từ bao giờ vậy?”
“Nó có ở đây từ trước khi có em. Mạ sinh em ở trên toa này đó anh. Mà em năm nay mười bảy tuổi. Ba mạ kể chuyện rằng cái toa xe này là của đoàn tàu Nam chuyến cuối cùng chạy qua đây. Tàu chở người tản cư từ Huế ra Vinh. Thiếu than, chạy chậm, mà Tây thì nổ súng Ðồng Hới rồi, nên đến ga này phải cắt bớt toa để vượt nhanh. Sau đó thì không còn tàu qua nữa. Khắp nơi hủy cầu, bóc đường rầy chống Tây. Ông bà với ba mạ em đẩy cái toa bị rớt lại này theo đường nhánh vào náu trong rừng. Không còn xe lửa nhưng chín năm kháng chiến ông bà ba mạ em vẫn ở lại ga. Tây bỏ bom ga, cả nhà dời vào sống trên toa từ đó”
“Sao thế nhỉ, sống làm gì trong chốn hoang vu này từng bấy năm trời”
“Bà nội em qua đời nằm lại đây. Ông em không thể rời xa mộ bà. Với lại ông bảo ông vốn chức việc hỏa xa nên phải suốt đời với nhà ga với đường tàu. Ông một lòng tin sẽ đến ngày đường hỏa xa sống lại. Hòa bình rồi, năm này qua năm khác, ông ngày một già vẫn sống lì tại đây, một li không rời, vẫn mỏi mắt đợi tàu qua ga. Ba mạ em vì vậy cũng ở bền lại Rú Voọc làm công nhân lâm trường. Mà coi vậy chứ Rú Voọc không phải thời nào cũng hoang vu. Những năm hòa bình nhờ có lâm trường, có xưởng cưa, xưởng rèn, có trạm kiểm lâm nên đông vui lắm. Dần dần có chợ búa, có thị trấn, với trường cấp một cấp hai. Ba mạ rồi cũng mời được ông ra ở nhà ngói ngoài thị trấn. Nhưng ông vừa ra ở được mấy bữa thì giặc Mỹ ném bom. Bao công phu khó nhọc xây dựng quê hương bị thiêu hết cả. Và bao nhiêu là người bị hại. Ba mạ em mất trong trận bom đầu tiên xuống thị trấn. Em đưa ông nội và hai em trai chạy về ở trong đội Bốn. Ở nhà hầm. Mùa đông năm ngoái, một đêm hai em của em dậy đốt lửa sưởi. Ánh lửa lọt ra ngoài. Tàu bay hắn bắn rốc-két trúng cửa hầm. Hai đứa chết cùng một khi. Em bị thương. Ông thì từ đó mất trí. Ông lại trở ra sống trên toa tàu này. Em ở cùng ông, làm lụng và trông nom ông. Ông chẳng biết ngày tháng, không biết Tết, không biết giao thừa là gì. Ngày ông ra gác ghi đón tàu. Ðêm về ngủ trên toa chứ không chịu ngủ hầm. Ông không sợ tàu bay, chỉ sợ ánh đèn”.
Tôi ngồi lặng bên Giang nghe cô nói chuyện. Cô nói không ngớt. Có thể hình dung được nỗi cô đơn đè nặng trái tim cô gái. Cô thì thầm ước ao đến một ngày nào đó tuyến đường sắt hồi sinh, tàu hỏa qua lại nơi này để cô được biết đoàn tàu hỏa nó như thế nào, được biết âm thanh của những hàng bánh sắt lăn trên đường ray, và nhất là được biết tiếng còi tàu. Tàu hỏa nó như thế nào, ngày xưa, khi còn tỉnh trí, ông nội vẫn thường tả cho các cháu của ông nghe. Nhưng chưa từng được tận mắt thấy thì sao mà có thể hình dung nổi.
Giang hy vọng: “Khi nào tàu hỏa sống lại, chạy ngang qua, rúc còi, ông nội em sẽ minh mẫn lại như  xưa”.
Rồi cô nói đùa, đùa mà chứa chan mơ mộng:  “Ông và em sẽ móc ngôi nhà của hai ông cháu vào đoàn tàu. Sẽ ngồi trong nhà mà đi chơi khắp đất nước”
Ðêm trừ tịch tối đen, nhưng đã tạnh mưa nên vòm trời có phần quang ra, sáng mờ, rải rác những vì sao. Chúng tôi chia tay ở bìa rừng, Giang trỏ một ngôi sao xanh biếc chênh chếch trên nền trời mạn bắc.
“Anh biết tên ngôi sao kia không anh?”
“Không. Ngôi ấy rõ đấy nhưng nó vô danh. Có lẽ vì để định hướng phương bắc người ta đã có Bắc Đẩu to và sáng hơn”.
“Ông em bảo là ngày xưa khi ngôi sao ấy hiện lên ở đầu núi thì ở đây đoàn tàu Bắc chuyến đêm sắp chạy lướt qua sân ga”
Tôi hẹn sáng mai, Mồng Một, sẽ cùng anh em trong tiểu đội đến chúc Tết gia đình. Chúng tôi sẽ xông đất ngôi nhà có bánh xe của ông cháu cô. “Bọn anh sẽ cùng em đẩy cho nó lăn bánh, Giang ạ”, tôi nói, nắm nhẹ bàn tay cô mềm mại.
Nhưng ba giờ sáng, cấp tốc lệnh hành quân. Và đường hành quân của tiểu đoàn rẽ sang tây, tách xa mãi mãi trục đường hỏa xa.
Từ đấy tới nay non ba chục năm trời. Các nhân viên trên đoàn tàu đêm nay không ai biết ga Mả Phu Tàu. Có thể vì họ không biết hết tên các ga xép. Thành thử tôi cứ chong mắt nhìn ra đêm trăng. Ngoài cửa sổ núi nọ hiện hình lên rồi từ từ khuất dạng, núi khác lại chồng tiếp vào, miên man, trùng điệp. Nhưng suốt đêm nhìn ra tôi vẫn thấy mãi một ngôi sao xanh treo trên một đỉnh núi nào đó cứ đang lặng lẽ trông với theo vệt sáng của đoàn tàu.
Những địa danh thoáng hiện, chưa kịp nhói lên đã vuột mất khỏi tầm trí nhớ, vụt đi như là bị gió thổi phù.
8/2/2023
Bảo Ninh
Theo https://vanvn.vn/

Ông già, sóc nâu và sấu sót

Ông già, sóc nâu và sấu sót

Nhiều lần ông toan cúi xuống nhặt một quả sấu, chùi vội vào vạt áo, đưa lên miệng. Nhưng ông đành kìm lại. Ông không muốn bị coi là lão già nhặt lá đá ống bơ…
Phòng làm việc của ông ở tầng hai một ngôi biệt thự được xây từ thời Pháp thuộc, phía trước là đường phố có hai hàng cây trồng từ lâu lắm, thời gian đã tích vào gốc cây những vết u nần.
Mặc dưới lòng đường xuôi ngược người xe, trên vòm cây vẫn có những chú chim giấu mình trong lá, chíu chít tươi vui. Và sóc. Những chú sóc chạy nhoăn nhoắt theo những dây điện giăng giăng nối tán cây với những mái phố rêu loang.
Thẳng cửa sổ phòng ông là một cây sấu có tổ sóc. Ông biết điều này là bởi hôm ấy, một chú sóc nâu liều lĩnh đu từ cành sấu sang cây đại ở sân cơ quan, rồi nhảy xuống bậu cửa sổ phòng ông, nơi ông đặt mấy chậu xương rồng nhỏ, thứ có thể chịu hạn cả tháng nếu ông đi công tác lâu ngày. Chú sóc ngó vào mấy chậu cảnh rồi tiến vào giương cặp mắt lồi đen láy ngắm lão già đeo hai mảnh thủy tinh dày đục trên mắt, cất giọng thăm dò: “Huýt hùy!”.
Sinh ra ở quê, chơi với chim chóc chó mèo gà vịt từ nhỏ nên ông có khả năng hiểu tiếng động vật. Đây là chú sóc chào ông: “Lão già!”.
Ông rời bàn viết, đứng lên, nghiêng đầu thích thú ngắm nghía. Vẻ tinh nghịch của chú sóc làm ông nghĩ ngợi.
“Huýt hùy huýt hùy? Lão già nghĩ gì?”
Nghĩ gì ư? Ta đang nghĩ về tuổi tác đời người… Mới ngày nào ta cũng trẻ trung như mi. Ta cũng được vô tư chạy nhảy như mi. Vậy mà, mi thấy đấy, ta già rồi, mặt mày nhăn nheo hết cả…
Chú sóc cất tiếng “Chít chì, chít chí! Biết rồi, mặt xấu!”.
A, mi chê xấu làm ta nhớ… một cây sấu. Một cây sấu cổ thụ trong khu vườn của ông già hàng xóm. Vườn nhà ông rộng, có nhiều loại cây. Cũng lắm chim. Nhưng sóc thì không. Người lớn quê ta thường hay bảo những đứa trẻ hơn một tuổi “làm mặt xấu đi”. Mặt sấu hay mặt xấu? Dân quê ta ngọng sờ với xờ. Nhưng có vẻ xấu cũng liên quan tới sấu. Vị chua sói của quả sấu xanh khiến bất cứ ai cắn vào đều nhăn mặt. Mặt nhăn thì xấu. Nhưng đứa trẻ giả vờ nhăn nhó làm mặt xấu thì lại đẹp.
Chú sóc ban đầu còn cảnh giác, đứng thế sẵn sàng bật lùi. Nhưng rồi thấy lão già có vẻ chơi được, chú vươn cổ ngó vào phòng, đảo mắt một vòng rồi buông tiếng “Hứt hứt hứt, chít chít chịt. Toàn sách là sách, chả ăn được”. Rồi chú nhảy sang cây đại, đu về vòm sấu. Trong tiết hanh hao chớm thu, thân hình chú rực lên như một đốm nắng nhảy nhót trên vòm lá xanh.
Ông đứng lặng, dõi theo cuộc tìm kiếm của chú sóc. Trước đó hai tháng, những ngày giữa hạ, ông cũng đứng như thế, ngắm những người hái sấu xanh. Ông nhớ cây sấu vườn nhà hàng xóm ngày xưa luôn được bán đứt ngọn cho người mua từ đầu năm. Tới tháng sáu, người mua dùng dây leo lên, dùng sào dài ngoặc từng chùm quả ném xuống, người dưới đất hứng bỏ vào sọt, mang đi. Những sọt sấu xanh ấy được bán ở chợ để người quê thả vào nồi nước luộc rau muống làm thức canh giải nhiệt. Xem ra việc hái sấu xanh đất thủ đô ngày nay cũng không khác quê ông ngày xưa là mấy. Cũng có một đội quân chuyên nghiệp dùng dây leo cây và sào dài ngoặc quả ném xuống, bỏ sọt. Sấu xanh được bán ở chợ vỉa hè, một số được dân phố mua ướp đông trong tủ lạnh dành cho món vịt om, một số được liệm đường chờ ngày tan thây trong ly nước sấu dầm.
Vòm sấu còn vài quả sót chín vàng như những vì sao lấp ló trên nền trời chiều muộn. Chúng đang lẳng lặng tụ mật, ươm hương. Nước miếng ông tứa ra.
Ngày xưa, mỗi năm vào dịp cuối thu, chú bé nhà quê luôn bị mẹ mắng vì tội mong bão. Lúa đã chín đỏ đồng, bão về như hất đổ nồi cơm. Nhưng bão cũng sẽ hái giúp chú bé những trái sấu sót còn treo tít cành cao. Trong tiếng gió rít gào, nhà nhà chặt cửa, chú bé len lén chui rào sang vườn hàng xóm. Những trái sấu chín rơi xuống thảm lá mục ướt đẫm, ánh lên thứ hào quang dâng hiến. Nhót một quả, ăn nhanh. Quả vỡ giòn vòm miệng. Vị ngọt chua thanh trộn nước mưa mát lành. Lòng chú bé bùng lên một niềm khoái thú vô bờ bến. A ha, ta đã được chén cả một ngày giông bão.
Chú sóc vẫn lộn xuống, nhoi lên như một chiếc thoi nâu giữa thảm lá xanh. Chú chuyền ra đầu cành nhưng không màng tới những quả sấu sót. Sóc ơi, hái sấu chín mà ăn. Mày không ăn, sấu rụng mất.
Nhà ở quê xa mấy chục cây số, ông được ưu tiên làm việc và nghỉ tại cơ quan. Nhiều đêm trong căn phòng này ông rơi vào tâm trạng mái buồn nghe sấu rụng như câu thơ của một bậc tiền bối.
Nhiều khi đi dạo, thấy những trái sấu chín lăn lăn trên hè như ca từ của tay nhạc sĩ tài hoa lãng tử trước vẻ thờ ơ của dân đô thị, ông tiếc ngẩn ngơ. Nhiều lần ông toan cúi xuống nhặt một quả, chùi vội vào vạt áo, đưa lên miệng. Nhưng ông đành kìm lại. Ông không muốn mình bị coi là lão già nhặt lá đá ống bơ…
Sau một hồi tìm kiếm, chú sóc quay trở lại nhìn ông, ánh mắt thất vọng, kêu lên hai tiếng “Huýt huýt. Tôi đói”.
Ông nghiêm mặt:
“Đói thì hái sấu chín mà ăn. Tao đang chết thèm mà mày lại chê”.
Chú sóc giương mắt nhìn ông. Ông cũng trân trân nhìn lại. Tao là người chỉ thích những thứ cay đắng mặn mòi, không ưa đồ ngọt. Trái cây tao cũng không háo, trừ sấu sót. Nhưng đã lâu lắm rồi tao không được hưởng thức quả thần sầu ấy nữa, mày hiểu không?
Chả biết chú sóc có hiểu không. Chú tỏ ra buồn bã rồi lủi thủi quay về.
Lòng dấy lên nỗi ân hận, ông ngồi vào máy tính gõ Google “Sóc ăn gì?” Kết quả: “Thức ăn chủ yếu của sóc là những loại hạt giàu protein, một số loại quả chín có vị ngọt bùi…” À, ra thế. Sấu ngọt chua thanh, sóc không màng là phải.
Hôm sau, khi đi ăn sáng, ông ghé hàng hoa quả mua một cân hồng xiêm không hạt, về phòng chọn quả chín tới, đặt lên đĩa, bỏ lên bậu cửa sổ. Hồng xiêm không thơm khi chưa bổ, thế mà chú sóc đã ngửi thấy, phóc sang. Chú nhảy một vũ điệu thăm dò, chiếc đuôi lúc phất cao như một bông lau chín rực dưới hoàng hôn, khi cuộn lại tròn cong như một vòng lửa tỏa, đôi tai tròn ngắn dựng căng, chiếc mũi nhỏ xinh hấp hỉnh.
“Tao dành cho mày đấy, ăn đi!”.
Chỉ đợi thế, phắt, chú sóc ôm nhanh quả hồng vào ngực, chạy bằng hai chân như một nghệ sĩ xiếc từ cửa sổ sang cành đại về cây sấu. Ông bất giác nở một nụ cười thơ trẻ.
Sáng sau ông lại chọn một quả hồng xiêm vừa chín, nhưng vừa mở cửa sổ ông đã sững người. Giữa chiếc đĩa là một quả sấu chín mọng, vàng hươm. Ngước mắt nhìn lên, ông thấy chú sóc đang chờ trên cành đại, đôi mắt tinh anh hấp háy. “Huýt huy huýt huy. Ăn đi, ăn đi”.
Không rửa, ông hấp tấp bỏ quả sấu vào miệng. Chầm chậm nhai. Cả một vừng ký ức ngọt lành ùa về, tan chảy, thẩm thấu vào từng tế bào của kẻ ưa hoài niệm. Khi cổ họng nổi cơn co rút điên cuồng muốn kéo tuột cái hạt sấu bọc lớp cùi trắng ngọt bền xuống dạ dày, ông vụt nhớ tới lời bà nội dặn năm xưa: “Không được nuốt hạt sấu. Nuốt vào nó mọc cây trong bụng đấy!”.
Ngày ấy chú bé nhớ ngay đến câu chuyện mới đọc. Bác thợ săn vào rừng mùa thu, gặp một chú hươu. Vì vội quá, không kịp lấy đạn, bác nhả ngay hạt hạnh nhân đang ăn trong miệng ra, nạp vào súng, bóp cò. Bị hạt hạnh nhân cắm vào trán, chú hươu co giò phóng đi. Mùa xuân, bác thợ săn lại vào rừng và sững sờ bắt gặp một chú hươu với cây hạnh nhân mọc trên đầu trổ những nhánh xanh tươi…
Sống quá nửa đời người, ông vẫn tin câu chuyện cổ tích đó. Vẫn tin sẽ có một cái cây mọc lên trong bụng nếu tham lam nuốt hạt sấu này. “Ăn quả, nhả hạt”, lời bà nội dặn văng vẳng. Ông nhả hạt sấu ra lòng bàn tay, loay hoay tìm chỗ vứt. Rồi tiện tay ông bỏ ngay lên đĩa.
Sớm sau chú sóc lại sang. Ông ngạc nhiên khi hạt sấu đã biến mất, thay vào đó là một quả sấu mới. A, ông reo lên với phát hiện mới mẻ: Sóc thích ăn hạt sấu. Vậy thì chú cứ hái quả mang đây, ta sẽ ăn cùi, nhường chú phần hạt.
Nhón lấy sấu, đặt lại hồng xiêm, ông nheo mắt cười: “Này sóc, chúng ta không nợ nần gì nhau nhé!”.
Trò chơi đổi quả dừng lại ở lần thứ ba. Chú sóc chỉ mót được đúng ba quả sấu sót mang đến cho ông và mang đi ba cái hạt. Còn ông, vẫn thưởng hồng cho sóc tới mùa đông.
Vào đông. Chợ hoa quả không có loại nào sóc thích.
Dễ đến cả tháng không thấy chú sóc sang. Ông buồn rầu nghĩ đến việc chú đã bỏ đi tìm nơi ở mới. Mỗi buổi chiều lạnh, đứng nhìn những quầng khói xe quẩn đặc nơi vòm lá, ông rùng mình nghĩ lại. Thức ăn không có, không khí thì độc hại thế kia, có lẽ chú sóc đã chết.
Nhưng vào một buổi sáng sương mù rét buốt, chú sóc lại sang, thân hình gầy nhom, bộ lông xơ xác. Chú cất tiếng kêu “Nhoọc nhoọc nhoọc” mà ông chưa kịp hiểu là gì. Ông vội lục tìm trong phòng. Chả có gì cho sóc.
Đêm ấy, sau cuộc bia hơi với bạn bè về khuya, ông giật mình thấy chú sóc nhảy vào xe rác trước cổng cơ quan tìm thức ăn thừa. Lòng ông dào lên vị chua xót. Sóc ơi, nếu mày ở rừng thì đâu đến nỗi.
Từ hôm đó, mỗi khi đi uống bia hơi ông hay gọi thêm một gói lạc rang húng lìu mang về. Nhưng chú sóc có vẻ ngảnh ngót với món hạt tẩm ướp hương vị này.
Lại gõ Google đọc kỹ ông mới biết sóc thích ăn ngô. Ông sang bãi giữa sông Hồng mua chục bắp, về tẽ ra từng hạt bỏ lên đĩa. Và bất ngờ khi thấy chú sóc vô cùng phấn khích dùng hai tay nhặt từng hạt ngô đút vào miệng hết hạt này đến hạt khác, hai má phồng lên. Chú chỉ ngậm hạt mang về tổ. Một ngày, hai ngày, ba ngày… bao nhiêu ngô tẽ đặt trên đĩa đều hết. Ông bắt đầu nghi hoặc: Chả nhẽ một con sóc lại ăn được nhiều thế sao?
Ông mua một chiếc ống nhòm hồng ngoại, rắp tâm theo dõi. Cả ban ngày lẫn ban đêm, hốc cây kín đáo ấy vẫn chỉ có mình chú sóc thí thó vào ra.
Một ngày nắng hửng, vừa mở cửa sổ ông vội gỡ mục kỉnh dụi mắt. Chú sóc cùng một đàn sóc nhỏ ba con lông óng mịn như nhung đang lích nhích bám víu nơi cành đại. Chú sóc, à không, phải gọi là cô sóc mới đúng, đang tập cho con bài học đầu tiên: chuyền cành.
Lũ sóc con còn nhát, đứa cưỡi trên lưng mẹ, đứa đu cổ, đứa bấu chân… Một cú lắc người cương quyết nhưng mềm mại, sóc mẹ đã gỡ được cả ba con ra. Rồi nó làm một loạt động tác nhào lộn, bám đu uyển chuyển và chính xác giữa những cành, miệng kêu lên những tiếng đầy yêu thương khích lệ. “Chuỵt chùy! Chuỵt chùy!”. “Sợ gì! Sợ gì!”.
Đàn sóc con ban đầu còn ẹp bụng, móng bấu cứng, đuôi dán bết vào cành cây, bò từng bước rón rén nhưng chúng dần mạnh bạo, đồng thanh “Chuỵt chùy! Chuỵt chùy!” và nâng người bật nhảy. Mỗi khi một con bị trượt chân rơi xuống, nhanh như một cánh chim cắt, sóc mẹ đã vút xuống cành dưới đưa tay ôm đón, đưa trở lại cành cao…
Những bài dạy con của sóc mẹ diễn ra buổi sáng mỗi ngày trước ô cửa sổ. Đu dây, đuổi bắt, trốn tìm… đến khi mệt lừ, sóc mẹ dẫn đàn con nhảy sang đĩa hạt ngô.
“Ăn đi, ăn đi! Hay ăn chóng lớn. Gì chứ ngô thì tao có thể nuôi nhà mày cả đời” – ông âu yếm nói với đàn sóc. Những chú sóc con sà vào đĩa hạt, láu táu ăn tại chỗ.
Rồi mấy ngày liền không thấy sóc mẹ dạy con thêm bài mới, ông nghĩ chắc hết bài rồi. Chừng đó bài học là đủ để cho sóc tồn tại giữa phố phường.
Nhưng đêm ấy, đọc sách mãi vẫn không ngủ được, nằm nghĩ miên man một hồi, bỗng nhớ tới bầy sóc, ông trở dậy cầm ống nhòm. Con đường vắng lặng. Những bụi mưa xuân bay tơi dưới ánh đèn đường vàng ấm.
Và kìa, mẹ con nhà sóc thoay thoáy tụt từ cây sấu xuống, vượt qua tường rào, vào sân cơ quan. Cái sân rộng, nhiều người muốn thuê để mở quán cà phê hoặc hàng ăn uống nhưng mọi người sợ ồn ào nên chỉ đồng ý cho một bác vốn là lái xe cũ của cơ quan bán đôn sứ, chậu hoa, cây cảnh.
Nghiêng ngó một hồi, sóc mẹ tìm tới một chậu cảnh đặt sát tường rào, bới đất tạo một hố nhỏ, cẩn thận nhả một hạt ngô vào, rồi lấp đất xóa dấu vết. Vừa làm sóc mẹ vừa kêu rủ rỉ với đàn con.
Rồi nó nhảy lên tường rào, đứng thẳng bằng hai chân, quay trước quay sau cảnh giới. Ba con sóc con, mỗi con được mẹ chỉ cho một chậu cây cảnh to bày sát tường rào mấy năm chưa bán được để các con giấu hạt. Công việc kết thúc, sóc mẹ kêu lên một tiếng “Tuýt”, đàn sóc vút về tổ.
Một sớm tháng hai, vừa xuống sân, ông sửng sốt thấy trên những chậu cây cảnh sát tường rào, những mầm ngô vừa nhú xanh mướt. Bác bán chậu cảnh ngạc nhiên khi thấy ông chỉ hơn chục chậu cây cảnh, đề nghị: “Bán cho tôi số chậu cây này”.
“Ông mang về quê à?”.
“Không, tôi mua và gửi bác chăm tại đây, nhưng không được nhổ bỏ mấy cây ngô dưới gốc này”. Bác bán chậu cảnh còn đang tròn mắt thì ông tiếp: “Một hàng ngô trổ cờ, đậu bắp trước sân cơ quan chẳng phải là một cảnh tượng đẹp lạ hay sao!”.
Ý nghĩ này làm ông xốn xang cả khi đã về phòng. Mở cửa sổ với tách trà nóng trên tay, ông lại thêm một lần kinh ngạc. Trên ba chậu cảnh nhỏ đặt trên bậu cửa sổ, ba mầm cây vừa đội đất nhô lên, hai lá mầm vươn căng vẫn còn vương vỏ hạt sấu. Ông thần người, nhớ tới cây sấu nhà hàng xóm ngày xưa, khi nó bị chặt đi vì già cỗi, chú bé láng giềng đã tiếc ngẩn ngơ. Tiếc, nhưng đến tận bây giờ chưa bao giờ ông có ý định tự tay trồng một cây sấu mới. Có một hạt mầm ngủ quên trong ông bỗng cựa mình. Mặt ông nóng bừng.
Ông mang ba cây sấu con về vườn quê. Khi hạ cây, vun đất, ông mỉm cười nghĩ tới một viễn cảnh. Vườn quê. Hai ông cháu. Cậu bé mười tuổi sau khi hưởng thức quả thần thánh trong mưa, hỏi ông nội:
“Ông ơi những cây sấu này ai trồng?”.
Ông già thành thật trả lời:
“Do sóc trồng cháu ạ!”.
12/2/2023
Đỗ Tiến Thụy
Theo https://vanvn.vn/

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...