Những bài văn hay đạt giải trong cuộc thi
CHO TÔI XIN MỘT VÉ ĐI TUỔI THƠ -Nguyễn Nhật Ánh
(Giải ba: Phạm Đỗ Bảo Ngọc - 11A18)
Có những câu chuyện đọc rồi sẽ quên. Nhưng cũng không ít quyển
sách đã để lại ấn tượng khó phai, là tiền đề, mục đích, lí tưởng và là bệ phóng
hướng con người tới những chân trời tương lai tươi mới. “Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh là một quyển sách như vậy, tôi tin với bất
cứ ai từng đọc tác phẩm này đều không thể quên được thế giới mông lung và đầy
mơ mộng trong con mắt của cậu bé tám tuổi tinh nghịch. Nhưng thế giới ấy chẳng
hề xa hoa, bí ẩn hay mĩ miều như trong những câu chuyện cổ tích gắn liền với tuổi
thơ của mỗi đứa trẻ mà nó chính là góc khuất thầm kín trong tâm hồn, là những
ký ức chân thật nhất, là tấm gương rọi vào quá khứ phản chiếu lại biết bao kỷ niệm của một thời thơ ấu đã qua. Nguyễn Nhật Ánh đã tặng bạn đọc một tấm vé
trên chuyến tàu đặc biệt để mỗi người chúng ta có thể lật lại trang sách thời
gian nhuốm màu dĩ vãng này trở về dòng sông trong trẻo của tuổi thơ và gột rửa
hết những bụi bặm, những bế tắc, những phù phiếm ở thế giới người lớn. Xin đừng
vội nghĩ rằng đây chỉ là tác phẩm sáo rỗng, vô vị dành cho bọn trẻ con mà đánh
mất đi cơ hội tìm về chính bản thân mình, tìm về chính bản chất đơn thuần nhất
của cuộc sống, cũng như tác giả đã từng khẳng định “Tôi viết cuốn sách này
không dành cho trẻ em. Tôi viết cho những ai từng là trẻ em”
Xuyên suốt quyển sách là câu chuyển xoay quanh nhóm bạn bốn
người với những “ông cụ, bà cụ non” khoác trên mình hình hài trẻ thơ gồm: nhân
vật tôi (cu Mùi), con Tí sún, thằng Hải cò và Tủn- hoa khôi của xóm. Qua hành
trình khôn lớn của những “bé con” đó, tôi như được chứng kiến một thước phim
quay chậm lúc thì mờ ảo, nhiễu loạn nhưng có lúc hình ảnh về ngày tháng tuổi
thơ lại hiện lên rõ nét, sinh động ngỡ như mới chỉ ngày hôm qua. Những hồi ức ấy
nào có phải toàn mang ánh hào quang rực rỡ, nào có phải là bản hùng ca với đầy
chiến tích đáng tự hào mà với cu Mùi, nó đơn thuần chỉ là nỗi buồn không rõ nguồn
gốc về cuộc sống cũ kĩ theo vòng tuần hoàn tẻ nhạt “Vẫn ánh mặt trời ấy chiếu rọi
mỗi ngày. Vẫn bức màn đen đó buông xuống mỗi đêm. Trên mái nhà và trên các cành
lá sau vườn, gió vẫn than thở giọng của gió. Chim vẫn hót giọng của chim. Dế ri
ri giọng dế, gà quang quác giọng gà”. Và hơn hết sự nghịch ngợm, ngổ ngáo của cậu
nhóc lên tám còn thể hiện rất chân thật qua những năm mài đũng quần trên ghế
nhà trường với niềm vui thú đến lớp để tán gẫu, cãi cọ, cấu véo, ngủ gật hay chọn
vị trí tối tăm cho ít bị kêu lên bảng trả bài. Ngay ở chương đầu tiên của quyển
sách, chắc hẳn người đọc đã thoáng có chút giật mình, lắng đọng xen lẫn ngượng
ngùng khi bắt gặp chính hình bóng của mình trong thời áo trắng qua nhân vật trữ
tình. Dù bạn có dám thừa nhận hay không thì ở cái tuổi ham chơi, hiếu động ấy
thì việc học như một nghĩa vụ giam cầm ta trước bao nhiêu trò chơi hấp dẫn, trước
bao nhiêu khung trời mới mẻ và giờ ra chơi chính là thời gian thần tiên để chú
chim non sổ lồng tìm chút niềm vui ngắn ngủi. Mạch liên tưởng độc đáo đó như thể
là một chiếc chìa khóa vạn năng chạm tới mọi góc khuất riêng tư nhất trong miền
kí ức của tôi, kí ức về cô học sinh lớp ba luôn thơ thẩn, mơ mộng về những bài
toán chia dài ngoằng thành biết bao tòa cao ốc đồ sộ mà chính tôi là vị kiến
trúc sư đại tài thiết kế nên hay những dòng chữ gà bới đang múa lượn trong quyển
vở tập viết với tôi lại là món mì xoắn ốc mới mẻ, ngon lành dưới bàn tay khéo
léo của đầu bếp cừ khôi… Có lẽ tôi và rất nhiều “bạn nhỏ” khác cũng đã hoặc
đang đánh mất rất nhiều năm học tập quý giá, đánh mất rất nhiều kiến thức bổ
ích nhưng tôi sẽ chẳng chối bỏ tuổi thơ đó, chẳng chối bỏ lỗi lầm đó vì con người
không ai có thể luôn hoàn hảo, nếu ta không đủ can đảm nhìn nhận quá khứ, nhìn
nhận những thiếu sót của bản thân thì ta chỉ đang tự lừa dối chính mình bởi vỏ
bọc hoàn thiện giả tạo. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng đã nêu triết lý “Để sống tốt
hơn đôi khi chúng ta phải học làm trẻ con trước khi học làm người lớn”, thật vậy
qua những lời kể chân thật về tuổi thơ đã qua, tác giả đã nhẹ nhàng gởi gắm những
tư tưởng mang tính giáo dục sâu lắng, nhẹ nhàng gõ tiếng chuông vang vọng vào
tiềm thức con người giúp ta khai phá nên những chân lý mới lạ.
Văn phong của tác giả nửa như giễu cợt, bông đùa, nửa lại
mang hơi hướng triết lý sâu sắc truyền đạt tới đông đảo bạn đọc và đôi khi là
các bậc cha mẹ nói riêng. Chắc ta không thể quên lời than phiền của cu Mùi “Người
lớn thường cho phép mình làm tất cả những gì mình thích, kể cả những ý thích rất
vớ vẩn và cấm trẻ con làm tất cả những gì họ không thích, và sự cấm cản của họ
nhiều khi cũng vớ vẩn nốt”, đôi khi vì quá yêu thương con mà cha mẹ vô tình
thái quá sự phán xét và áp đặt trẻ bởi họ luôn muốn con mình nhận lấy mọi điều
tốt đẹp và tránh xa những cạm bẫy. Nhưng liệu có quá bất công khi chúng ta tước
đi quyền được vấp ngã của con trẻ và ép chúng vào khuôn mẫu hoàn hảo chỉ chứa
niềm vui và sự sung túc? Nghe có vẻ nghịch lý nhưng nó cũng giống như một món
ăn tuy ngon đến mấy nhưng ăn hoài sẽ thành chán ngán, tầm thương ví như bước đường
ta đi nếu quá bằng phẳng và trải đầy hoa hồng thì hạnh phúc cũng trở nên nhàm
chán, vô vị vì đời người chỉ được một lần sống, ta chỉ một lần được trải nghiệm
hết những hỉ, nộ, ái, ố, đau thương. Có đứa bé nào tập đi mà chưa từng vấp ngã,
đứa bé chưa từng nói ngọng sẽ không thể phát âm tròn vành, rõ chữ vậy nên qua
tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh còn muốn gởi thông điệp đến “những người lớn” hãy để
con cái được phát triển tự nhiên nhất, ta chỉ nên khuyên răn chứ đừng ngăn cấm
chúng khám phá thế giới dù biết trước đó là ngõ cụt bởi ta cũng đã từng được trải
nghiệm nên hãy để trẻ con vươn tới tương lai bằng chính đôi chân nhỏ bé của bản
thân.
Không chỉ vậy, trong “cho tôi một vé đi tuổi thơ” làm mỗi người
lớn phải thốt lên khâm phục trước sự sáng tạo, mộng mơ của bọn trẻ mà cũng
chính là của ta ngày xưa. Đó là mong ước muốn “đặt tên cho thế giới”,
dùng trí tưởng tượng biến cái gối thành búp bê, biến cái nón thành cuốn tập,
con chó thành bàn ủi, chiếc quạt máy thành cái tivi và thằng Mùi là Thầy hiệu
trưởng…Chúng không hề lố bịch, quậy phá mà bản chất của trò chơi “kì lạ” đó là
ước muốn thầm kín được thay đổi thế giới xung quanh trở nên mới mẻ, tinh khôi
như thể được sinh ra một lần nữa, để chúng khỏi chán ngắt với việc ăn, ngủ, đến
lớp và học bài. Nhưng có lẽ trong tác phẩm người đọc thích thú nhất vẫn là cái
tình cảm ngô nghê, hồn nhiên của cu Mùi với cô bạn Tủn mà thấp thoáng hiện lên
lời bộc bạch rất ngây thơ “Sau này tôi biết đó là cảm giác ghen tuông, tất
nhiên là ghen tuông theo kiểu trẻ con, còn lúc đó tôi chỉ cảm thấy khó chịu”.
Đó là tình yên con nít mà có lẽ là trong sáng, thiêng liêng hơn cả vì nó không
hề bị vẫn đục bởi vòng xoáy của tiền tài, danh lợi và không bị chi phối, bão
hòa cảm xúc khi người lớn cố lập trình, lên kế hoạch để ép thứ cảm xúc vô hình
vào khuôn khổ chặt chẽ.
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ- một tác phẩm mở ra thiên đường
trong trẻo, tràn ngập hoa nắng và tiếng cười giòn giã của trẻ thơ. Nguyễn Nhật
Ánh đã kết nối những trang hồi ức vô tình bị lãng quên hay thậm chí là đánh mất
giữa dòng đời xô bồ, tấp nập này. Ông đã mang bạn đọc từ khắp mọi nơi, mọi lứa
tuổi, mọi tầng lớp lên chung một chuyến tàu về lại sân ga tuổi thơ để từ đó bắt
đầu hành trình tìm lại chính mình, chính bản chất “nhân chi sơ tính bản thiện”.
Đọc tác phẩm mà mỗi hình ảnh, mỗi hành động, lời nói của bốn nhân vật đều để lại
trong tôi một sự khắc khoải, ám ảnh sâu sắc, ám ảnh về dòng chảy hờ hững của thời
gian đã mang đi mất của tôi rất nhiều thứ, mang đi mất những tháng ngày rong ruổi
dạo chơi khắp xóm, mang đi mất những người bạn thân thiết đã từng là tất cả với
tôi và hơn hết là mang đi mất chính hình bóng tuổi thơ thậm chí là biết bao
hoài bão cháy bỏng mà tôi đã từng khát khao thực hiện cũng bị lớp bụi thời gian
xóa mờ, vùi lấp.
MỘT LÍT NƯỚC MẮT - Kito Aya
Có những điều tưởng chừng giản dị trong cuộc sống con người,
tuy nhiên mấy ai lại quan tâm, để ý đến. Có những ước mơ mới nhìn qua cảm thấy
rất bình thường, nhưng có những người khao khát mãi cũng không với lấy được nó.
Vì vậy, chúng ta hãy luôn trân trọng những điều bình dị nhất ngay xung quanh
chúng ta và hãy làm những việc có thể làm khi ta còn sống. Cách nhìn cuộc sống
của tôi đã thay đổi như thế từ khi tôi đọc cuốn sách này, tôi càng thêm trân trọng
cuộc sống cũng như đồng cảm và yêu quý,nâng niu cuốn sách” bảo bối” của tôi, đấy
là cuốn sách:” Một lít nước mắt”.
Cuốn sách “một lít nước mắt” quả là
một câu chuyện cảm động, sâu lắng, dựa trên nhân vật có thật là cô bé Aya người
Nhật Bản mắc phải căn bênh nan y_ thoái hóa tiểu não khi mới vừa tròn mười lăm
tuổi nhưng có một nghị lực phi thường. Nhan đề cuốn sách thật giàu hình ảnh và
ý nghĩa nhưng phải chăng là một cách nói thậm xưng, nói quá. Không đâu, bởi khi
đọc xong cuốn sách này, tôi lại nghĩ, một lít nước mắt thì vẫn chưa đủ, vẫn còn
quá ít bởi lẽ câu chuyện này đã làm cảm động, rung cảm đến hàng triệu trái tim
người đọc, khiến hàng triệu giọt nước mắt rơi, muôn đời chưa ráo. Cuốn sách được
xuất bản dựa trên nhật kí của Aya với câu chuyện mười năm chống chọi với cái chết
thật phi thường và ở tuổi hai mười lăm, cái tuổi đẹp nhất đời người, cô đã gác
bút nghìn thu, gác mọi ước mơ, hoài niệm, hi vọng về một tươi lai tốt đẹp. Cô
gái xinh đẹp ấy đã ra đi vì cơn bạo bệnh khi tuổi đời còn quá ngắn ngủi_ hai
mươi lăm năm với những dự định cuộc sống còn nhiều dang dở. Và ước mơ lớn nhất
của cô ngay lúc này đó là:” Liệu con có thể kết hôn được không?”. Cô luôn khao
khát về tình yêu và hạnh phúc. Cô cần một hạnh phúc giống như bao người, thật sự
rất cần… Ước mơ chưa thể thực hiện mà đã ra đi, một ước mơ, một niềm khát khao
cháy bỏng làm nhức nhói tâm can người đọc.
“Con người ta ai cũng mang nặng những
ưu phiền
Hễ nhớ về quá khứ là nước mắt tuôn
rơi
Còn hiện thực quá phũ phàng và tàn
nhẫn
Mơ ước nhỏ nhoi không cách nào thực
hiện
Nghĩ đến tương lai lại sụt sùi nước
mắt”.
Cuốn sách này chỉ có thể tái hiện được
một phần nào đó nỗi đau của cô nhưng nó đã làm tôi xót xa khôn xiết. Khi bị bệnh,
cô ăn uống khó khăn, tay chân không thể cử động như những người bình thường,
tình yêu đến với cô rồi cũng xa cô khi biết cô bị bệnh, bạn bè ai cũng xa lánh
vì sợ bị làm phiền, khi cận kề cái chết, mặt cô trở nên xấu xí, biến dạng.
Nhưng nghị lực sống phi thường không để cô có thể gục ngã mà buộc cô phải tiếp
tục sống. Bởi trong tận cùng của sự phũ phàng, tuyệt vọng, cô vẫn còn có cha mẹ
yêu thương bằng cả tấm lòng, có cả Asou_một người bạn thân luôn bên cạnh cô, động
viên, an ủi, khóc cùng cô những lúc khó khăn nhất. Cũng chính tình yêu thương
đó đã tiếp thêm nghị lực để cô có thể tiếp tục sống thêm mười năm nữa.
Các bạn biết không, cách nhìn nhận
cuộc sống của Aya rất khác biệt. Bên cạnh nghị lực phi thường, cô còn có cảm nhận
khá sâu sắc về cuộc sống bên ngoài:” Mình muốn trở thành không khí”. Cô ấy ước
ao mình có cuộc sống nhẹ nhàng êm dịu như bao người và muốn cho mọi người biết
đến sự tồn tại của mình trên cuộc đời này. Có lẽ căn bệnh nghiệt ngã này đã khiến
cho cô có cái nhìn sâu sắc hơn với thế giới, với những gì đang diễn ra xung
quanh cô, tuy đơn sơ nhưng gần gũi, cần thiết trong cuộc sống hằng ngày. Và
chính lúc này đây, cô đã cảm nhận được tình cảm gia đình dành cho mình, thiêng
liêng và cao cả biết nhường nào.
“Ở nơi đó, có lẽ tôi sẽ không còn nước
mắt nữa”, ở thế giới hiện tại cô đã khóc thật nhiều nhưng tâm hồn vẫn luôn tiềm
tàng một sức sống mãnh liệt, cô ước mong thi đậu vào trường Đại học nổi tiếng ở
Nhật Bản. Nhưng có lẽ mong ước ấy mãi mãi không thể thực hiện được, cô giờ đã
đi đến một thế giới khác, một thế giới không còn nước mắt nữa. Trước khi chết,
cô đã có một ước nguyện:” con muốn mình được nằm giữa một rừng hoa, ba..mẹ..đừng
quên con nhé”. Đúng như vậy, vào cái ngày cô ra đi, tất cả mọi người biết được
câu chuyện nhật kí của cô, đều xúc động, thương tiếc đến chia buồn. Trên tay mỗi
người đều cầm một bó hoa tạo thành một rừng hoa xung quanh cô Aya đầy nghị lực
phi thường. Đóa hoa hướng dương mà cô đã viết trong những năm tháng cuối đời:”
Con biết cha mẹ luôn cầu mong một điều kì diệu sẽ đến với con. Nhưng nếu điều
kì diệu không xảy ra, mong cha mẹ cũng đừng đau buồn..” Và một câu nói mãi làm
nghẹn ngào tâm hồn người đọc:” Tại sao lại là con chứ?” Có ai đọc những dòng
chữ này mà không đau lòng? Phải chăng tất cả là do số phận như Nguyễn Du từng
nói:
“Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt thì người phải theo
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
Đây là một cuốn sách đáng để chúng
ta đọc và ngẫm nghĩ, tái hiện một câu chuyện thấm đẫm tính nhân văn và nghị lực
phi thường. Đọc “ Một lít nước mắt “ để ta thêm trân trọng từng giây, từng phút
trong cuộc đời này. Cuộc sống của tôi diễn ra vẫn bình thường như bao ngày, tôi
vẫn cảm nhận được ánh nắng mặt trời, cát, gió, không khí. Nhưng chỉ khác là từ
khi tôi đọc cuốn sách ấy, tôi càng thêm trân trọng những điều giản dị ấy mà trước
đây tôi chẳng để ý đến. Và tôi cảm ơn cuốn sách yêu dấu này đã giúp tôi nhận ra
và thêm trân trọng những khoảnh khắc đẹp trong cuộc đời khi còn có thể.
TÔI LÀ MỘT CON LỪA - Nguyễn Phương Mai
(Giải khuyến khích: Nguyễn Hoàng Phương Uyên - 11A18
“Phương Mai – Một con lừa”
Tại sao có thể nói một người phụ nữ lại là một con lừa? À
đâu, có ai nói thế đâu mà chính cô ấy tự nhận mình là như vậy đó chứ. Người phụ
nữ tự nhận mình là một con lừa thì chắc hẳn cô ta phải là một người dũng cảm và
thẳng thắn lắm. Hầu hết con người ta đều rất thích được khen, ngay cả tôi cũng
thế. Hiếm thấy ai mạnh miệng bảo rằng tôi thích được chê chứ chả thích được
khen đâu. Nói thế thôi chứ không hẳn là tất cả; điển hình là người phụ nữ mà
tôi đang đề cập đến đây.
Riêng cá nhân tôi thì tôi thấy con lừa cũng rất đáng yêu đấy
chứ! Hầu hết ai ai cũng bảo con lừa là ngu ngốc, là dốt đặc, là này này nọ kia
thế nhưng những điểm tốt của lừa lại ít tai biết đến. Trong các bộ phim hoặc
trên các bức tranh vẽ về các vị thần thì đa số họ toàn cưỡi lừa. Hay là trong
những câu chuyện ngụ ngôn thường được các ông bố bà mẹ kể cho các con nghe vào
những lúc trước khi đi ngủ thì “lừa” cũng là một nhân vật khá đặc sắc mà nổi bật
trong đó là những đức tính đáng quý của nó nhằm gửi gắm những bài học hay, bổ
ích cho đời. Thế nhưng mấy ai để ý đến mà hầu hết họ chỉ biết đến lừa vì sự ngốc
nghếch của nó mà thôi. Không nói đâu xa, bản thân tôi cũng thế. Vì thế khi nhìn
cuốn sách “TÔI LÀ MỘT CON LỪA” của tác giả Nguyễn Phương Mai đã tạo nên trong
tôi một dấu ấn đặc biệt và theo một cách tự nhiên nào đó nó đã thôi thúc sự tò
mò khám phá cũng như niềm hứng khởi trỗi dậy mạnh mẽ trong đó. Không chần chừ
thêm nữa, tôi lập tức đưa “nàng” về dinh và sẵn sàng khám phá “con lừa Phương
Mai” nổi bật như thế nào.
Ở những trang đầu tiên của tác phẩm tôi hoàn toàn bị sự thẳng
thắn trong ngòi bút của cô ấy chinh phục. Một nhân cách, một cá tính rất khác
người nhưng lại cực kì ấn tượng. Cô ấy tự tin khẳng định mình, tự nhận mình là
“một con lừa ưa nặng”; một con lừa sẵn sàng đâm đầu vào nước để được công nhận
là “một con lừa có cá tính”. Phải chăng, vì là “một con lừa có cá tính” thế nên
cô ấy có những suy nghĩ và những quyết định hết sức “ẩm sọ”. Càng đọc sâu càng
thấy, mức độ “ẩm sọ” của tác giả nổi trội biết nhường nào. Thế nhưng, cái “ẩm sọ”của
tác giả cũng chẳng phải là mang ý nghĩa điên khùng không đâu mà thực chất nó lại
mang đến cho cô những trải nghiệm, những chân lý hết sức tuyệt vời. Khơi nguồn
từ việc là một giảng viên đại học khoa Kinh tế, đại học Khoa học Ứng dụng
Amsterdam Hà Lan đột ngột xin bỏ việc để đi du lịch một năm. Cô ấy bắt đầu cuộc
hành trình “dài gấp hai lần rưỡi vòng xích đạo từ châu Phi đến châu Úc – châu Mỹ
và cuối cùng là châu Âu với một chiếc balo nặng mười một cân”. Cô xuất hiện
trong bộ dạng của “một con lừa hớn hở rất vô căn cứ: không nhà (nhà thuê chả chủ
rồi), không việc làm (xin nghỉ việc rồi còn đâu), không người yêu (có ai điên
đi yêu một con lừa đã ẩm sọ lại còn thất nghiệp và vô gia cư ??)”. Lên đường mà
không có gì bên mình ngoài chiếc balo nặng nề và to tướng. Nếu như nhìn về hướng
vật chất là thế nhưng nếu xét về mặt tinh thần thì tác giả lên đường với đầy đủ
tất cả những “hành trang về cảm xúc”. Nào là cảm giác “ngộp thở, lột xác, ngơ
ngác đôi khi thì lại phẫn uất hoặc hân hoan tột đỉnh”. Chỉ như thế thôi cũng đủ
mang lại cho Phương Mai một cuộc du kí đầy tuyệt vời và thi vị biết nhường nào.
Bằng ngòi bút dí dỏm đan xen cùng sự khéo léo và tính khách
quan của mình, tác giả mang đến cho bạn đọc những giây phút vui tươi, thú vị và
sự hào hứng ngỡ như đang cùng nhà văn tham gia vào cuộc hành trình đầy kì thú.
Điển hình là cuộc đu dây, à không đi xích đu cao nhất thế giới (Nevis – New
Zealand) của tác giả. Với một cảnh đẹp bao la, hùng vĩ với thung lung lớn cao
xa ngút ngàn; vách đá cao lớn, đồ sộ dựng đứng trên 160m; gió thì thổi lồng lộng
như gầm rú, ríu rít văng vẳng bên tay; sông dài mênh mông là thế nhưng với độ
cao đó thì nó chỉ như “một sợi chỉ mỏng manh” cắt ngang. Không kìm được long
trước sự hùng vĩ ấy tác giả đã phọt ra cả một tràng chữi thề. Giả sử lúc
đó tôi mà là tác giả, chắc hẳn cái cằm tôi đã nhanh chóng chảy xuống tận
đầu gối luôn rồi!!! Tuy nhiên nó chưa phải là điều đáng quan tâm. Điều đáng nói
và có vẻ thú vị hơn không nằm ở đó mà là việc tác giả buộc mình vào chiếc xích
đu mỏng manh bay qua bay lại cái thung lung này ấy. Khi chênh vênh trên bờ vực
cao ngút ngàn, cô như “vừa khóc vừa cười”. Chưa bao giờ cô lại thấy “ham sống sợ
chết” đến thế. “Miệng thở dốc không ngừng, chân tay co rúm, máu chảy rần rần,
miệng chữi rủa ầm ỉ, mắt ti hí nhìn xung quanh”. Rồi 1-2-3 vèo vèo …….veooooooo
một phát, “tiếng gào” của tác giả mất hút. “Tim bỗng ngừng đập”…..Rơi 60m tự do
khiến tác giả như “bay lên”; lướt qua những vách xa mờ; vượt lên trên không
trung” cùng bầu trời xanh trong rộng lớn. Để rồi từ chính cảm giác ấy tác giả
như được ban tặng cho đôi cánh thoải mái tư do bay lượn trên bầu trời bao la rộng
lớn. Cảm giác sợ sệt dần dần tan biến mà thay vào đó là tâm trạng vui tươi, sững
sờ, xen lẫn sung sướng, mọi lo âu phiền muộn cũng theo gió mà bay tất. Và rồi từ
lần trải nghiệm cảm giác mạnh này, Phương Mai đã rút ra được bài học cho bản
thân đó chính là cuộc sống này đáng quý biết nhường nào. Tuy nhiên, cuộc hành
trình của Mai vẫn còn tiếp tục và nó dẫn cô đến những vùng đất, những trải nghiệm
mới lạ mà đời người hiếm ai có dịp để mà thưởng thức. Cũng chính vì điều đó đã
tôi luyện trong cô them long can đảm, sự gan dạ và ngọn lửa tinh thần càng them
sang chói.
Chẳng sợ chi, cô liều mình nhảy thác Maletsunyane cao 190m hay gan góc “bơi” cùng cá mập trắng tại Nam Phi hay “liều mạng” tham gia wingsuit flying- tande sky diving – hang glinding (những trò chơi mạo hiểm trên không) để rồi khám phá ra được sức mạnh tiềm tàng của con người trong những lúc khó khăn nguy hiểm và “bàng hoàng nhận thấy sự kiêu căng ngạo mạn đến lố bịch của loài người về những đỉnh cao kỉ lục nhỏ nhặt – phù phiếm bởi lẽ cô biết được rằng đỉnh cao không bao giờ ngọt ngào.”
Chẳng sợ chi, cô liều mình nhảy thác Maletsunyane cao 190m hay gan góc “bơi” cùng cá mập trắng tại Nam Phi hay “liều mạng” tham gia wingsuit flying- tande sky diving – hang glinding (những trò chơi mạo hiểm trên không) để rồi khám phá ra được sức mạnh tiềm tàng của con người trong những lúc khó khăn nguy hiểm và “bàng hoàng nhận thấy sự kiêu căng ngạo mạn đến lố bịch của loài người về những đỉnh cao kỉ lục nhỏ nhặt – phù phiếm bởi lẽ cô biết được rằng đỉnh cao không bao giờ ngọt ngào.”
Nối tiếp cho sự “cá tính” của tác giả chính là thói quen kì dị
của cô khi du lịch qua những thành phố mới đều tò mò muốn ngó qua nghĩa địa.
Trái ngược với bạn bè cô, họ nào là khoe hình cưới, hình sinh nhật – tiệc tùng
hoặc lễ hội nọ kia nhưng riêng cô thì đa phần cô toàn khoe hình “mấy cái nấm mồ
mới đắp”. Trời ạ, một con người thật là ngộ lạ và thú vị làm sao! Tôi chưa bao
giờ nghe, chưa bao giờ thấy ai lại suốt ngày đi khoe hình nghĩa địa vì thực chất
nó chả mang lại tí niềm vui nào mà thay vào đó là toàn sự đau buồn, thương xót.
Chắc hẳn phải có một nguyên do nào đó mà tác giả mới làm như vậy. Có khi nào là
do cô ấy thích? Hay là do mức độ “ẩm sọ” của cô ấy ngày càng cao? À không
không, sai bét hết rồi. Tác giả làm vậy chả phải do thích gì hết đâu mà do nhận
thức cô ấy mách bảo rằng cuộc sống là một vòng tròn (khép kín); có sinh ắt phải
có diệt, có mở đầu ắt sẽ có kết thúc, có hủy diệt thì mới có hồi sinh. Cuộc đời
con người cũng vậy, có sinh ắt sẽ có tử bởi lẽ chúng là quy luật ngàn đời. Vì vậy
“để có được một cuộc sống thanh thản thì trước hết phải biết đối mặt với cái chết
thanh thản”.
Nhưng đó chưa phải đã hết…à mà nếu mà hết ở đấy thì chả còn
thú vị gì nữa. Cuộc phiêu lưu này tiếp nối cuộc phiêu lưu kia, những trả nghiệm
này nối đuôi những trải nghiệm khác để rồi đúc kết lại thành chuỗi những hồi ức,
những kỉ niệm tuyệt vời và đáng nhớ nhất. Tôi thực sự cảm thấy rất ganh tị với
tác giả về những hồi ức, những trải nghiệm li kì, đặc biệt ấy. Để rồi từ trong
sự tị nạnh đó phát sinh thêm một trạng thái khác mà bản thân tôi thường xuyên bị
“dính” phải đó chính là hoang tưởng. Nói nôm na hơn là trí tưởng tượng phong
phú hoặc là “siêu tưởng tượng” (tôi hay đùa là super tưởng tượng). Mà thôi nói
hoạch tẹt ra là hay mơ mộng viễn vông đi. Tôi đã từng ước rằng giá như đời là một
giấc mơ và tôi được thần thánh ban cho cả vạn điều ước thì hạnh phúc không còn
gì bằng. Thế nhưng đời không như là mơ nên tôi chỉ mãi đắm chìm vào những giấc
mơ viễn vông chỉ do bản thân tự nghĩ ra mà thôi.Ôi ôi, chắc tôi bị dở hơi thật
rồi!! Nhưng khi đọc tác phẩm của Phương Mai thì tôi phát hiện ra cô ấy cũng rất
thích mơ mộng. Mà đặc biệt, sự mơ mộng của cô ấy ấn tượng hơn của tôi nhiều. Cô
ấy ước cả “một ngày như trong mơ” với phép thuật của Harry Potter khi đọc thần
chú “Apparition” thì có thể đi xuyên không gian và thời gian, xuất hiện – biến
mất ở bất cứ đâu bạn muốn. Và rằng ước mơ của tác giả (nếu như cô có được phép
thuật đó) chính là “Buổi sáng: thức dậy cùng mùa đông; Bắt đầu ngày mới bằng chạy
đua cùng bình minh; Cả ngày thì làm tiên cá; Cuối ngày: đi chơi đêm ở Las Vegas
và cuối cùng là đêm xuống có thể ngả lưng trong khách sạn ngàn sao”. Than ôi ,
ước như vậy mới là ước chứ! Xem ra thì những điều ước của tôi chả có gì đặc biệt.
Thế nhưng những giấc mơ kia có được xem là viễn vông không? Có thể có nhưng
cũng có thể không. Nếu nhìn về một phía: ừ thì viễn vông thật. Nhưng nếu nhìn
nó một cách toàn diện, về nhiều khía cạnh khác thì chúng chả viễn vông tí nào
mà thực chất lại còn rất thực tế. Qua mỗi ước mơ tác giả lại rút ra được một
bài học mới cho mình; lại tích góp thêm được cho vốn kiến thức cũng như những
dòng kỉ niệm thêm vài điều quý báu và bổ ích. Còn về phần tôi thì những giấc mơ
ấy giúp tôi nhận ra rằng mơ mộng không phải là xấu nhưng điều quan trọng là phải
phân biệt được giữa ảo vọng và sự thật để rồi có thể biến chuyển những ảo vọng ấy
thành một cái gì đó thực tế vì thực chất chúng chỉ là những ước muốn của con
người mà thôi.
Nói tóm lại, trong xuyên suốt tác phẩm này, một cá tính, một
nhân cách con người thật độc đáo mà cũng thật đáng yêu đã được bộc lộ hết sức
rõ nét và mộc mạc thông qua những cuộc phiêu lưu, đan xen cùng sự trải nghiệm
hay những kí ức đẹp đẽ đong đầy trong hồi ức tác giả đã mang lại những dấu ấn
khó quên trong lòng bạn đọc. Phải chăng cũng chính vì điều đó đã khơi dậy nên
trong tôi ngọn lửa của sự đam mê và nhiệt huyết tuổi trẻ. Giờ đây tôi cũng chỉ
có mỗi một điều ước nho nhỏ chính là có thể tung cánh vút bay thật xa. Tôi cũng
muốn được phiêu lưu; được vùng vẫy thoải mái trong cái thế giới này mà không
quan tâm đến bao lời đàm tiếu, dị nghị. Rồi một ngày nào đó tôi cũng sẽ được
như thế; tôi cũng sẽ tìm ra được con đường của bản thân mình – con đường mà tôi
phải dốc hết sức để chinh phục. Có như thế thì cuộc sống này mới thật sự có ý
nghĩa ( không biết với ai nhưng ít nhất là có ý nghĩa với tôi – mà chỉ mình tôi
thôi là đủ rồi).
“Trước mỗi lần lên đường, tôi cố gắng trút bỏ mọi định kiến,
mọi hình dung. Tôi dốc cạn để đầu óc trống rỗng, không mong chờ, không phán
đoán. Tôi liều mạng để trái tim mình rộng mở, trần trụi. Và tôi lên đường như một
tờ giấy trắng, với niềm khát khao được phủ kín, được lấp đầy, được đổi thay.”
(Trích : Nguyễn Phương Mai )
HẠT GIỐNG TÂM HỒN
(Giải khuyến khích: Phan Thị Thảo Nguyên - 11A16)
Mỗi người trong chúng ta ai cũng có ước mơ cho dù là
nhỏ bé hay vĩ đại thì những ước mơ ấy đều đáng quý, đáng trân trọng bởi đó là
trụ cột tinh thần, là sức mạnh vô hình tạo động lực cho chúng ta vươn lên để đạt
đến điều ta mong muốn, hướng đến ngày mai đầy hy vọng. Song đã bao giờ chúng ta
tự hỏi chúng ta đang mong chờ, khao khát những điều tuyệt vời, điều ta
chưa có mà vô tình quên đi những điều giản đơn xung quanh? Tôi cũng như những
người khác đã và đang ước mơ tha thiết những điều tôi chưa đạt được. Khi còn
bé, tôi say sưa với cuốn truyện cổ tích và ước gì một ngày nào đó mình sẽ được
biến thành một nàng công chúa xinh đẹp, một cô tiên với bao phép lạ kỳ hay có
được lâu đài đầy ắp bánh kẹo. Lớp Năm, tôi bắt đầu tìm đọc về những học sinh đạt
giải trong các kì thi quốc gia và ước mơ mình được như họ. Lớn hơn, nói chính
xác là lúc tôi bắt đầu đọc sách “Hạt giống tâm hồn” về chuyên đề “Từ những điều
bình dị”, tôi bỗng nhận ra rằng: tại sao tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ làm gì đó để
ba mẹ tôi vui sau cả ngày làm việc mệt mỏi, tại sao ý nghĩ làm cách nào để chị
em tôi không còn cãi nhau vì những điều vụn vặt chưa từng xuất hiện trong suy
nghĩ của tôi? Cuốn sách ấy như thước phim quay chậm khiến tôi để tâm hơn những
điều đơn giản, được trải nghiệm cảm xúc với từng mẩu truyện nhỏ về những con
người bình dị, tinh thần vượt lên, niềm tin chiến thắng…
Cách nhìn nhận hạnh phúc từ những điều quen thuộc là
điều mà tôi nhận được từ cuốn sách này. Người ta thường nói hạnh phúc ở xa xôi
lắm, hạnh phúc là khi ta có được mọi thứ tốt nhất song qua những câu chuyện sau
trong “Hạt giống tâm hồn”, ta sẽ có cách nhìn khác. Nếu người thợ làm thuê
trong mẩu chuyện “Cây giữ phiền muộn” đặt một chậu cây nhỏ trước nhà để mỗi khi
đi làm về, anh ta sẽ chạm vào nhánh cây như lời nhắc nhở: sự phiền muộn, bực tức
trong công việc không thuộc về mái ấm của anh và anh sẽ trở nên vui vẻ, dành những
lời yêu thương, hành động ân cần cho vợ con anh thì cậu bé trong “Lời nói và vết
đinh” lại luôn nóng nảy và cư xử cộc cằn với mọi người. Một hôm, cha của cậu bé
ấy đã đưa cho cậu túi đinh và bảo khi nóng giận hãy đóng đinh vào hàng rào gỗ
và suy nghĩ về việc mình làm.
Ngày đầu tiên, số đinh mà cậu ta đóng rất nhiều nhưng dần dần cậu ta ít đóng đinh vào rào ít đi cho đến ngày không cần dùng đến chiếc đinh nào, cậu ta thấy mình đã thay đổi, không còn nóng nảy chạy đi khoe với cha. Người cha tiếp tục bảo rằng mỗi ngày cậu giữ được bình tĩnh hãy nhổ một chiếc đinh ra. Nhiều ngày trôi qua, khi cậu bé vui vẻ nói rằng đinh đã được gỡ hết, lúc này người cha mới chỉ vào hàng rào: “Hàng rào sẽ chẳng còn nguyên vẹn như xưa nữa. Những điều con thốt ra trong lúc giận dữ sẽ để lại trong lòng người khác những vết thương”. Ta thấy đấy: lời nói tuy “chẳng mất tiền mua”, rất đỗi bình thường nhưng “lời nói thiện ý sưởi ấm cả ba tháng mùa đông” còn lời nói cáu gắt lại khiến mọi người tổn thương.
Ngày đầu tiên, số đinh mà cậu ta đóng rất nhiều nhưng dần dần cậu ta ít đóng đinh vào rào ít đi cho đến ngày không cần dùng đến chiếc đinh nào, cậu ta thấy mình đã thay đổi, không còn nóng nảy chạy đi khoe với cha. Người cha tiếp tục bảo rằng mỗi ngày cậu giữ được bình tĩnh hãy nhổ một chiếc đinh ra. Nhiều ngày trôi qua, khi cậu bé vui vẻ nói rằng đinh đã được gỡ hết, lúc này người cha mới chỉ vào hàng rào: “Hàng rào sẽ chẳng còn nguyên vẹn như xưa nữa. Những điều con thốt ra trong lúc giận dữ sẽ để lại trong lòng người khác những vết thương”. Ta thấy đấy: lời nói tuy “chẳng mất tiền mua”, rất đỗi bình thường nhưng “lời nói thiện ý sưởi ấm cả ba tháng mùa đông” còn lời nói cáu gắt lại khiến mọi người tổn thương.
Nếu lời nói đem mọi người đến gần nhau thì tình yêu
thương sẽ khiến quan hệ giữa người và người trở nên đẹp hơn, gắn gó hơn. Cuộc sống
hiện đại đầy những lo toan đã khiến một người cha cáu gắt với đứa con trai nhỏ
khi nó cứ đi theo ông và hỏi: “Bố ơi, một giờ làm việc bố kiếm được bao nhiêu
tiền?”. Để con trai không làm phiền ông nghỉ ngơi, ông bực dọc trả lời là mười
ngàn yên nhưng đứa con trai vẫn không buông ông và hỏi xin năm ngàn. Đến lúc
này, sự nóng giận lên đến cực điểm, ông quay lại nạt nó: “A, thì ra hỏi bố đi
làm được bao nhiêu tiền là vì vậy phải không? Đi ra chỗ khác chơi. Bố đang mệt!”.
Đứa con sợ hãi nhìn cha rồi im lặng ra sau nhà. Sau khi tắm rửa, cơm nước và đã
bình tâm, người cha nhớ lại hành động của mình khi chiều và thấy tội nghiệp
con. Ông đến bên giường con, đưa nó năm ngàn và hỏi nó định mua gì. Đứa con liền
cảm ơn bố và mò mẫm dưới gối, lấy ra một số tiền lẻ và hớn hở reo lên: “Thế là
con đủ mười ngàn rồi! Bố bán cho con một giờ làm việc của bố đi. Con muốn bố
chơi với con mà lúc nào bố cũng bận làm việc”. Người cha bàng hoàng, không biết
trả lời như thế nào trước câu nói ấy. Ông sững sờ là vì không biết từ bao giờ
ông lao vào công việc mà quên mất thời gian yêu thương con mình hay vì không nhận
ra những gì thật sự ý nghĩa mà con trai mong đợi ở ông? Khi ta mang đến cho một
người nào đó cũng chính là mang lại hạnh phúc cho bản thân. Vậy thử hỏi tại sao
ta không kiềm chế cái tôi, sự nóng giận của bản thân và dành thời gian yêu
thương những người xung quanh ta để họ cảm thấy hạnh phúc từ những lời nói,
hành động ân cần, tình yêu thương thực sự - điều kỳ diệu mà ta luôn xem là bình
thường, quen thuộc?
Hạnh phúc đó không cần phải đem ra cân đo, đong đếm,
là điều mà bao người mong muốn mà chỉ cần ta biết cách thay đổi cách nhìn theo
một chiều hướng tốt hơn là ta đang giữ hạnh phúc trong tay. “Bài học từ người
thầy dạy võ” sẽ cho ta thấy điều ấy. Câu chuyện bắt đầu từ việc một cậu bé mười
tuổi quyết định học judo cho dù cánh tay trái của cậu bị mất trong tai nạn xe
hơi. Thật lạ khi cậu có cố gắng bao nhiêu thì sau ba tháng tập luyện, thầy chỉ
dạy cho cậu một thế võ duy nhất. Cuối cùng không còn kiên nhẫn, cậu đã hỏi thầy
lí do song người thầy chỉ trả lời: “Đây là thế võ duy nhất thầy dạy con, cũng
chính là thế võ duy nhất con cần phải học”. Tuy chưa hiểu nhưng cậu vẫn tin thầy
và tiếp tục học. Nhiều tháng sau, võ sư dẫn cậu đến tham dự một cuộc thi judo,
cậu đã thực sự bất ngờ khi lần lượt hạ gục các đối thủ và giành chiến thắng.
Trên đường về, cậu lấy hết can đảm hỏi thầy lí do gì khiến điều ấy xảy ra. Lúc
này, người thầy ôn tồn bảo rằng cách duy nhất để đối phương phá thế võ mà hằng
ngày cậu luyện tập là nắm vào tay trái của cậu, trong khi cậu không hề có tay
trái. Đôi khi, điểm yếu của ai đó nhưng nhìn trên phương diện khác sẽ trở thành
điểm mạnh, lợi thế của họ. Song vấn đề đặt ra là liệu con người ta có đủ lạc
quan, dũng khí để đối diện với khó khăn, biến đau thương thành hạnh phúc hay
không?
Hạnh phúc không phải tùy vào người khác, tùy vào số phận
mà tùy vào chính bản lĩnh, bản thân của ta. Cho dù thế nào thì hạnh phúc tuyệt
vời nhất vẫn là bắt nguồn từ cách nhìn thiện cảm, suy nghĩ lạc quan của ta với
những việc, những người ta gặp. Nếu ta chưa biết cách yêu thương những người
thân quen, để tâm đến những điều mắt thấy tai nghe mỗi ngày thì nên học cách
làm điều ấy bởi không có sự quan tâm, tình yêu thương với những người thân -
tình cảm được cho là nguồn cội cho những tình cảm khác thì ta còn yêu thương gì
được nữa? Khi con người ta hạnh phúc thì họ sẽ có đủ niềm tin và nghị lực đương
đầu với mọi thử thách, khó khăn trong cuộc đời. Tình yêu thương giữa người với
người, những hạnh phúc chân thành mà họ đem đến cho nhau tựa như cơn gió tuy nhẹ
nhàng nhưng đủ sức đẩy chiếc thuyền ra biển lớn, là điểm tựa tinh thần không thể
thiếu khi ta yếu lòng, gục ngã.
Mỗi khi gấp cuốn sách “Hạt giống tâm hồn” lại, lòng
tôi như vẫn còn bao dư ba về các số phận, những con người với hoàn cảnh khác
nhau, những lời khuyên, câu ngạn ngữ vô giá… “Hạt giống tâm hồn” như thước phim
quay chậm khiến tôi có cơ hội nhìn lại bản thân, hoàn thiện bản thân hơn. Nó
khiến tôi nhìn lại cuộc sống trên nhiều phương diện. Tôi như trưởng thành hơn,
ít cáu gắt với ba mẹ khi bị mắng hay giận dỗi lúc không vừa ý việc gì bởi tôi
biết cuộc đời là hữu hạn mà tình yêu gia đình dành cho tôi là vô hạn, tôi biết
đứng lên sau thất bại bởi tôi biết rằng tôi sẽ không thể thành công vào mai sau
nếu chỉ nghĩ đến thất bại hôm nay… “Hạt giống tâm hồn” như chính cái tên của
nó, gieo vào lòng người đọc những hạt giống và rồi để họ tự nhận thức, cảm nhận
và tự gieo trồng theo cách của họ. Tôi mong sẽ ngày càng nhiều người tìm đọc đến
“Hạt giống tâm hồn” như tôi và gieo trồng những hạnh phúc giản đơn trong tâm hồn
mình!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét