Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2024
Hồi ký Nguyễn Hiến Lê 3
PHẦN IV - Chương XX
[1] Nhà này, sau khi cụ NHL tản cư
về Long Xuyên, thì bị tên lính thuỷ chiếm, rồi tên lính thuỷ này “sang” lại cho
cô chủ trường Aurore. (Goldfish).
Năm 1962, Mỹ và Diệm thực hiện chương trình ấp Chiến lược, họ
tính lập trên 11.000 ấp để gom 80% dân chúng vào trong những khu họ chỉ định,
chung quanh có hàng rào dây kẽm gai. Nông dân phải bỏ ruộng nương, dời nhà cửa
vào những ấp đó để họ dễ kiểm soát mà không tiếp tế, che chở cho quân giải
phóng được nữa. Mỹ đốt phá, rắc thuốc khai quang những làng, xóm mà nông dân đã
phải rời bỏ. Vào ấp chiến lược rồi, nông dân được chia ruộng cho làm, nhưng tối
phải về ấp. Họ được phát súng để tự vệ. Nhưng dân càng ghét Mỹ, Diệm và trong
nhiều ấp, Việt cộng vẫn len lỏi vào được.
Tổng thống Kennedy không thể dùng Diệm được nữa, phái Đại sứ
Cabot Lodge qua thay Nolting và 13 giờ ngày 1-11-63, quân đội do Dương văn
Minh, Trần văn Đôn, Tôn Thất Đính cầm đầu, bao vây dinh Độc lập. Sáng hôm sau,
quân lính xông vào thì Diệm và Nhu đã do một đường hầm trốn thoát, nhưng rồi
quân lính tìm được họ trong một giáo đường ở Chợ lớn, bắt họ nhốt vào xe thiết
giáp, đưa về Tổng hành dinh. Giữa đường họ bị giết.
Lòng thi sĩ oán mụ Nhu thâm thật. Hai bài đó là những bài Đường
luật hay nhất về vụ đảo chánh 1-11-63. Xét chung thì bài dưới hay hơn bài trên,
nhưng bài trên có hai câu tôi rất thú:
Mấy tháng đầu, mức sống không xuống thấp lắm nhờ có hàng hóa
nhập cảng các công ty Pháp, các nhà buôn Trung Hoa, Việt Nam để lại. Từ giữa
năm 1955, hết những dự trữ đó rồi, lại thiếu ngoại tệ để nhập cảng những hàng để
tiêu thụ - phải lo mua máy móc trước hết - cho nên toàn dân phải sống khắc khổ.
Cũng trong năm 1956 chính phủ còn bị một sự phản kháng nghiêm
trọng của dân chúng vì việc cải cách điền địa. Chính phủ muốn tiến mau đến xã hội
chủ nghĩa mà không hiểu hoàn cảnh nước mình, tâm lý nông dân - hoặc hiểu nhưng
bất chấp - cho nên áp dụng đúng đường lối và kỹ thuật của Mao Trạch Đông.
Chính phủ sửa sai: những người nào bị xử oan thì được trả lại
tự do, phục hồi quyền công dân... Tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tài sản của
các chùa, giáo đường được trả lại; bỏ cái lệ giam bắt người một cách độc
đoán...
Nhà cầm quyền Bắc Việt lúc đó đương kẹt về vụ Quỳnh Lưu. nên
bảy tháng sau mới cho “trăm hoa đua nở”. Một nhóm giáo sư và trí thức trong hai
tạp chí Nhân văn và Giai phẩm mùa xuân liền viết bài tấn công tác phong công thức
trong văn nghệ. Tờ Đất Mới của sinh viên hùa theo, chống đường lối chỉ
huy trong đại học. Ngay tờ Nhân Dân nhật báo, cơ quan của Đảng, cũng đăng
một loạt bài về nguyên tắc chuyên chính và vai trò của đảng chính trị trong một
chế độ dân chủ nhân dân (démocratie populaire).
Ông chỉ viết có vậy mà bị treo giò mười lăm năm: bản thảo Tự
điển chuyện Kiều bị gìm trên mười năm, sau nhờ Phạm văn Đồng can thiệp, nó mới
được in và phát hành năm 1975. Học trò cũ của ông không ai dám lại thăm ông.
Ông buồn rầu viết một tập Hồi ký kể những hoạt động chính trị và văn hóa của
mình tử hồi hai mươi lăm tuổi để tỏ nỗi lòng ân hận đã lỡ nhúng bút vào vụ Trăm
hoa đua nở và để phân trần rằng trước sau ông vẫn trung thành. Tập đó không in,
chỉ đưa cho bạn thân đọc. Nhưng từ khi Việt-Hoa xung đột nhau, Mao bị chỉ
trích, ông đã thành con người khác.
[3] Năm 1980 Trung Hoa thấy chính sách đó sai, đổi khẩu hiệu
là “Hồng thì nhất định phải chuyên”, dù là đảng viên mà không có khả năng kỹ
thuật thì cũng không dùng. Nhưng họ thực hiện nổi chính sách mới đó không, lại
là một chuyện.
Theo W.G. Burchett trong sách đã dẫn thì Dương văn Minh tuyên
bố muốn trung lập hóa miền Nam như De Gaulle đề nghị. Mỹ chống giải pháp đó, kiếm
một “người hùng” - tướng Nguyễn Khánh - để thay Minh. Cuộc đảo chánh thứ nhì xảy
ra không tốn một viên đạn. Dương văn Minh và các tướng Đôn, Đính, Kim đều bị
Khánh bắt - sau Minh được thả. (Nguyễn Ngọc Thơ đã từ chức từ trước rồi).
Mỗi tên lính Mỹ tiêu mỗi tháng không biết mấy trăm đô la ở Việt
Nam; nửa triệu lính Mỹ mỗi năm đổ cả tỉ đô la vào nước mình; kinh tế phồn thịnh
lên một cách giả tạo và trong xã hội xuất hiện một giới biếng nhác, sa đọa mà lại
có nhiều tiền, cả quyền thế nữa. Một số thanh niên hóa điếm đàng, hút sách.
Khoảng 1970 hay 1971, một anh bạn khác dụ tôi ra ứng cử Tổng
thống vì anh ta cho rằng tôi có tiếng tăm trong nước, liêm chính mà lại không bị
một vết nào: không hợp tác với Pháp, với Diệm, với Thiệu, không thân với Mỹ.
Tôi mỉm cười đáp: “Chịu thôi, không đủ sức khỏe và mánh khóe” và nghĩ bụng: “Cứ
làm một thư sinh độc lập thì còn được một số độc giả mến, chứ ra làm chính trị
thì chẳng được việc gì mà còn bị thiên hạ khinh”.
“Thực dân nào, bất kỳ đông hay tây, cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi
của họ trước hết; còn có lợi cho họ thì họ giúp, hết lợi thì họ bỏ và đàn áp.
Do Thái bị Anh bỏ rồi Nga bỏ; Ai Cập bị Mỹ bỏ, rồi Nga bỏ (...)”
Đúng là Mỹ chạy làng. Họ vội vã rút hết quân về, và khi không
còn một lính Mỹ nào ở Việt Nam nữa thì Bắc, Nam lại choảng nhau. Chủ trương Việt
Nam hóa chiến tranh của Nixon đã được thực hiện.
thêm các em học ở nhiều trường khác nhau. Phải giảng lại bài
cho mỗi em, chỉ cách làm bài rồi sửa cho mỗi em, bắt các em học bài rồi trả bài
nữa, mà không có tới ba em bài làm và bài học giống nhau. Cho nên trong ba giờ
liên tiếp, tôi không được nghỉ một phút. Nhà tôi dạy quen, mà mùa hè, buổi chiều
dạy xong cũng thấy uể oải. Nhưng được nhiều cái vui: dạy có kết quả, học sinh
và cha mẹ học sinh đều quí; và tiền thù lao cũng khá hậu, bằng ba lần một giáo
sư trung học.
Năm 1957, cháu Nhật Đức đậu Tú tài Pháp, ban toán, hạng bình
thứ được bộ Giáo dục cho một nửa học bổng qua Paris học để thì vào trường Cao học
Thương mại Paris (Hautes Études Commerciales de Paris). Không hiểu vì lẽ gì, bộ
Nội vụ ngâm đơn du học của nó rất lâu, khi nó tới Pháp thì tựu trường đã được
tháng rưỡi rồi, nó đành phải học ở Toulouse. Toán, Vật lí, nó học được nhưng
không giỏi, chỉ xuất sắc về Pháp văn. Ở Sài Gòn cũng như ở Pháp, nó thường vào
hạng hai ba người đầu lớp về môn luận Pháp văn. Trong mấy năm đầu tôi chỉ gởi
cho nó vừa đủ tiền để tiêu, muốn tập cho nó tiết kiệm; mãi khi nó lên Paris, học
có phần tiến bộ, tôi mới gởi cho nó dư một chút. Nuôi con, tôi không để cho nó
thiếu thốn, tạo cho nó hoàn cảnh tốt nhất để học, nhưng bắt nó phải gắng sức,
quen chịu cực một chút để rèn nghị lực.
Hai cây hoàng lan đó nay đã chết một, cây còn lại cũng cằn cỗi,
tôi trồng một cây con của nó để sau này thay nó.
Nạn nhân mãn, nạn đói đó, tôi đã nhiều lần nêu lên trên tạp
chí Bách Khoa và trong cuốn Những vấn đề của thời đại từ
1973, 1974, nhưng rất ít người lưu tâm tới, cứ tin chắc rằng hết chiến tranh
người ta sẽ khai phá những khu đất bỏ hoang và có thể nuôi được vài trăm triệu
người (!), có gì mà lo. Người la không biết rằng không phải đất nào hiện nay
còn bỏ hoang cũng có thể trồng trọt được dễ dàng. Sự thực, tất cả những đất nào
có thể trồng trọt được trong hoàn cảnh kinh tế hiện tại đều đã trồng trọt hết rồi.
Còn những đất chưa trồng trọt nay muốn khai phá thì tốn kém vô cùng. Không thể
cứ chia lô: phát cho dân nghèo, giúp họ một số vốn nhỏ hoặc cho mỗi người mươi
ki lô gạo mỗi tháng trong sáu tháng hay một năm rồi ít năm sau sẽ thấy cánh đồng
mơn mởn tươi tốt. Phải có những nhà chuyên môn nghiên cứu xem đất hợp với loại
cây nào, có thể đưa nước vào được không; phải đắp những đường nối với lộ chính,
phải đào kinh để khai thông. phải trừ phèn, trừ muối, phải có thuốc trừ sâu, có
cách trừ chuột, phải có phân bón... Một nhà chuyên môn Âu tính sơ sơ, phải tốn
cho thế giới mỗi héc-ta trung bình là 5.000 quan năm 1970 (hay 1965?), không biết
bằng mấy chục ngàn bạc ngân hàng Việt Nam năm 1980. Khi lôi dẫn con số đó ra.
có người bảo với số tiền đó thì có thể trồng lúa được trên sườn núi Himalaya.
Tôi không biết sườn núi Himalaya ra sao, nhưng tôi biết rằng muốn biến đổi khu
rừng nước mặn Cà Mau, cánh đồng nước phèn Tháp Mười thành ruộng lúa không phải
là việc dễ; bắt tay vào việc ngay bây giờ, tới đầu thế kỷ XXI chưa chắc đã
thành công, mà lúc đó thì dân số của ta tăng lên đến 80-90 triệu rồi, sự sản xuất
của hai khu vực đó nuôi được bao nhiêu triệu dân, đủ bù vào số tăng dân số
không?
Đất đai không đủ nuôi người thì phải giảm miệng ăn đi nghĩa
là phải hạn chế sinh đẻ. Ở các nước phát triển mạnh, mặc dầu dư ăn, nhưng vẫn
thiếu chỗ ở, người dân đã biết tự hạn chế sinh đẻ: mỗi cặp vợ chồng trung bình
chỉ có từ hai đến ba con; ở nước ta, rất nhiều gia đình có năm sáu con, có khi
mười, mười hai con, trung bình là bốn con.
Qua thời đại kỹ nghệ, kỹ thuật tiến bộ, nhiều nơi sản xuất đủ
thực phẩm rồi, nghề nông không còn lợi nữa, nông nhân hóa dư ở thôn quê, hoạt động
của số dư đó chuyển qua nhị đẳng; đâu đâu cũng có những cuộc di cư ra thành thị
kiếm ăn, số người trong các hoạt động sơ đẳng giảm đi, từ 90% xuống còn 40, 30,
20% tổng số người hoạt động, mà số công nhân trong hoạt động nhị đẳng tăng từ
5% lên tới 20, 30, 40% tổng số người hoạt động trong nước; đồng thời số người
hoạt động tam đẳng cũng tăng lên theo. Thành thị đã hóa lớn, chiếm 30-40% dân
trong nước.
Ở miền Nam nước ta, trong hai chiến tranh Việt-Pháp, Việt-Mỹ,
các thành phố lớn như Sài gòn, Mỹ tho, Cần thơ cũng phát triển mạnh nhưng không
phải vì Kỹ nghệ phát triển, vì số công nhân tăng lên mà vì nông dân chạy loạn,
phải bỏ vườn ruộng, ra thành sống cho qua ngày, một số ít thành thợ thuyền, còn
đa số sống về dịch vụ, về hoạt động tam đẳng.
Đã từ lâu rồi, chúng ta thấy những ly, chén đĩa, khăn lau miệng
bằng giấy dùng một lần rồi liệng đi. Trước 1975 tôi đã thấy vài thiếu nữ dạo đường
Lê Lợi với những bộ áo bằng giấy không biết của Mỹ hay nước nào chế tạo. Những
cây viết bi chúng ta dùng bây giờ, hết mực rồi liệng đi. Đã có những cái bật lửa
hết “ga” thì liệng đi. Ở Mỹ, từ cả chục năm trước người ta dùng những ống
chích, kim chích một lần rồi liệng đi, khỏi phải nấu lại để khử trùng.
Cũng may, chúng ta chỉ chịu ảnh hưởng đó của Mỹ trong mươi
năm rồi Mỹ rút lui; bây giờ phải tập sống khắc khổ trở lại như ông cha bảy tám
chục năm trước, hồi đầu thế kỷ. Và cái hại có khi thành cái may: nhờ nhà nào
cũng dư rất nhiều quần áo nên hiện nay dân chúng Sài gòn, lục tỉnh nữa, chưa đến
nỗi rách rưới lắm; và cũng nhờ có nhiều đồ đạc nên lúc này bán lần đi (người ta
gọi là “bán món” - tức bán từng món một) để sống, cũng đỡ đói được ít năm. Thôi
thì mượn câu này của Lưu Cơ đời Minh, tác giả bài Tư Mã Quý chủ luận bốc để tự
an ủi vậy: “Tích nhật chi sở hữu, kim nhật vô chi, bất vi bất túc” (Trước
kia có mà nay không, không phải là không đủ) để tự an ủi vậy.
Hiện nay hết thảy các nước tiến bộ ở Mỹ, Âu, cả Nhật nữa đều
dùng máy điện tử trong việc hành chánh và trong kỹ nghệ, thương mãi. Sinh viên
đại học cũng dùng rồi. Ở nước ta năm 1979 đã thấy bán lậu những máy tính nhỏ,
những đồng hồ điện tử.
Biết bao nhiêu người vì lẽ này hay lẽ khác không chịu chấp nhận
thực tế, đêm ngày chỉ mơ tưởng một cuộc thay đổi để trở lại đời sống cũ, xã hội
cũ. Họ theo dõi kỹ thời cuộc, đi đây đi đó để ngóng tin tức, đọc báo, bắt các
đài thông tin ngoại quốc, chỉ rình những tin hợp với ước vọng của họ, gạt bỏ những
tin khác, có khi lại giải thích tin tức một cách rất vô lý, theo ước vọng của họ,
bất chấp sự thực, bất chấp lô-gíc. Chẳng hạn được tin Việt Nam sẽ “xuất khẩu”
15.000 công nhân qua Đông Âu, họ hoan hỉ, bảo: “Đúng rồi. Chính thể này sắp sụp
đổ rồi. Chúng lo di tản trước, những đảng viên trung kiên, ‘gạo cội’ nhất, rồi
tới phút chót, chúng sẽ chuồn cho dễ; chứ đâu phải là xuất khẩu công nhân; tụi
Đông Âu đâu có cần công nhân của một nước lạc hậu như mình”.
Chính phủ Ngô Đình Diệm và chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ba lần
mời tôi làm giám khảo trong một cuộc thi văn chương toàn quốc, tôi từ chối hết.
Một lần tôi hơi ân hận khi người đến mời tôi, một học giả lớn tuổi hơn tôi, khá
có tiếng tăm, rầu rầu nét mặt, bảo tôi: “Ông không nhận lời cho là một điều buồn
cho uỷ ban tổ chức giải thưởng, mà cũng là một điều buồn cho chính tôi nữa”.
Không, tôi không khinh người. Tôi chỉ quí thì giờ và sức khoẻ
của tôi, thế thôi. Và một vài nhà văn cũng nhận rằng tôi có lý mà không dự các
cuộc hội họp có tính cách văn hóa vì những buổi đó chỉ để gặp mặt nhau chẳng giải
quyết được gì, mất thì giờ lắm.
Tôi như mọi người, hồi trẻ hơi mắc tật khoa trương khi tập viết
– những bài tuỳ bút, tiểu luận theo lối cổ văn Trung Quốc -; những bài đó hầu hết
tôi chỉ giữ làm kỉ niệm chứ không cho in.
Bài đó được đăng ngay trong số 4 (Tạp chí ra mỗi tháng 2 kỳ).
Tiếp theo, tôi cũng gởi cho họ ba bài nữa cũng về văn học, bài Tiếng Việt
ngày nay, Vấn đề dịch văn, Phép dịch thơ, cũng được toà soạn cho đăng
ngay trên các số 5, 6, 7, 8. Từ đó, lâu lâu tôi gởi thêm một bài về Nho giáo, về
danh nhân hay về văn học…, toàn là do bà Thảo hay ông Ngư làm trung gian, chứ
tôi vẫn chưa lại toà soạn. Hợp tác với báo nào tôi vẫn giữ tư cách một độc giả
góp bài chứ không dự gì vào đường lối, công việc của toà soạn. Tôi không nhớ mấy
tháng sau, có dịp đi qua số 160 đường Phan Đình Phùng[8] mới
ghé toà soạn Bách Khoa cách nhà tôi khoảng một cây số gặp ông Hoàng
Minh Tuynh và vài anh em nữa. Tôi cũng không nhớ bao lâu sau tôi mới gặp ông Phạm
Ngọc Thảo[9],
một người thấp nhỏ, rất hoạt động, hoạt bát, có tư tưởng tiến bộ, viết một số
bài về quân sự, ý kiến xác đáng, tỏ ra có kinh nghiệm và biết suy nghĩ. Hai ông
Tuynh và Thảo có vẻ quí tôi cả. Từ đó tôi hợp tác đều đều cho tới khi đình bản,
tháng 5 năm 1975.
Tư tưởng của những cây viết chính có khi trái ngược nhau. Vũ
Hạnh thiên Cộng, sau theo Cộng; Võ Phiến chống Cộng; Đoàn Thêm và Phan Văn Tạo
không ưa Cộng cũng không đả, “không thích Mĩ” nhưng cũng không nói ra; tôi, có
lẽ cả Ngu Í và Lê Ngộ Châu nữa, có cảm tình với kháng chiến, nhưng khác hai ông
ấy. Càng về sau, từ 1965 trở đi Mĩ đổ nửa triệu quân vào miền Nam tôi càng đả mạnh
Mĩ và chính quyền Thiệu bù nhìn của Mĩ.
Tờ báo có chủ trương đăng tất cả các sáng kiến cá nhân
dù đúng hay sai, miễn là thành thực, có tinh thần xây dựng về bất cứ vấn đề gì:
từ chính trị, quân sự, tới kinh tế xã hội, văn học, khoa học… mà “không giới hạn
ở lập trường chính trị nào, phe nhóm nào”. Dĩ nhiên, bị kiểm duyệt cắt – nhất
là trong bảy tám năm cuối – nên không một cây viết nào có thể trình bày hết ý
mình được, mặc dầu vậy Bách Khoa vẫn được độc giả cho là “dám nói”.
Sau ngày giải phóng 1975, nhiều học giả Bắc nhận là một tờ báo “nghiêm chỉnh”,
tuy chống đối cả Cộng sản lẫn Tư bản, nhưng có lập trường đứng đắn, lí luận vững,
ngôn ngữ đàng hoàng; và hiện nay các số báo Bách Khoa cũ càng ngày
càng có giá trị: một bộ cũ rách, từ đầu đến cuối, thiếu độ mười số, bán được gần
5.000đ (năm 1983), (đủ bộ mà tốt: 10.000đ)[10].
Lại thêm Bách Khoa không có một chủ trương mới mẻ,
mạnh mẻ cải cách cả về tư tưởng lẫn sự trình bày như tờ Phong Hoá, Ngày
Nay, trước sau vẫn giữ lập trường ôn hoà, đứng giữa, không theo Cộng, không
theo Mĩ, như vậy làm sao gây nổi một phong trào mà ảnh hưởng lớn tới quốc dân
được như nhóm Tự Lực?
Sau hoặc tự ý tôi, hoặc do toà soạn nhờ viết, do độc giả gợi
ý, tôi mở rộng tầm hoạt động, viết về những vấn đề không có trong chương trình
trứ tác của tôi; nhờ sự thúc đẩy, khuyến khích đó tôi phải đọc nhiều hơn, viết
nhiều hơn, chú ý tới thời cuộc, tình hình trong nước và thế giới hơn. Tôi không
tự giam trong “Tháp ngà”; mặc dầu một tuần hay nửa tháng mới ra khỏi nhà, cả
năm không đi dự một cuộc họp nào cả, nhưng tôi luôn luôn theo dõi tất cả những
biến chuyển trong nước và trên thế giới và kịp thời góp ý kiến với quốc dân.
Nhất là loạt bài đăng trên Bách Khoa (1961), Tin
Văn (1966) đả kích kịch liệt Bộ Giáo dục và Viện Đại học Sài Gòn không chịu
dùng Việt ngữ làm chuyển ngữ ở Đại học. Những bài đó viết vào hồi tựu trường
liên tiếp trong mấy năm làm cho một số giáo sư Đại học ghét tôi nhưng không thể
trả lời tôi được, vì lí luận của tôi vững; trái lại sinh viên rất thích và một
số doạ sẽ gom các bài đó lại chung với các bài của các nhà khác cùng chủ trương
in thành một tập riêng để phổ biến. Sau này (trong số Bách Khoa 426
ngày 20.4.75) bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhắc lại vụ đó, viết: “Còn nhớ bọn sinh viên
chúng tôi vận động chuyển ngữ Việt tại trường Y Khoa, ông (Nguyễn Hiến Lê) đã hỗ
trợ bằng những bài báo nẩy lửa. Lúc đó giọng ông không còn cái giọng nghiêm
túc, hiền lành, bình đạm thường ngày nữa mà sôi nổi, gay gắt, phẩn nộ, đầy kích
động; giá có ai giật giấy bút của ông đi, tôi chắc ông sẽ lấy dao “viết lên đá”
như ai đó đã nói”[11]. Đúng
vậy, trong đời viết văn, chưa bao giờ ngọn bút của tôi sắc bén như vậy.
Vì tôi công tác đều đều với Bách Khoa, từ đầu đến cuối,
lại viết nhiều về nhiều vấn đề, nên độc giả có người cho tôi là cây viết cốt
cán của tạp chí, tưởng tôi là một nhân viên quan trọng trong toà soạn nên có
bài muốn gởi đăng thì gởi cho tôi nhờ tôi giới thiệu với ông chủ nhiệm Lê Ngộ
Châu. Tôi đọc rất kỉ bài họ viết rồi cũng đưa ý kiến với ông Châu, nhưng cũng
cho họ biết sự quyết định đăng hay không ở cả ông Châu. Ông Châu làm việc rất
siêng, đọc hết mọi bài nhận được, đăng hay không ông đều báo cho tác giả biết.
Ông nhận rằng ông đã bỏ lầm một số bài rất khá. Tôi mến ông vì ông có tinh thần
trách nhiệm, làm việc đàng hoàng, biết cương quyết giữ vững chủ trương cả khi
báo suy, biết xét người, xét văn và có tình với người cộng tác: ai gặp nạn gì
thì ông lại nhà thăm, tìm mọi cách giúp đỡ.
Cây viết, một nửa là của Bách Khoa, một nửa là của công
giáo. Báo chỉ bán được ngàn số trở lại, ra được hai năm rưỡi, 41 số, thì đình bản.
Bài đó có tiếng vang ngang với bài Bọn cầm bút chúng ta
làm được những gì lúc này đăng trên Bách Khoa ngày 1.12.67. Giọng
bài này khác hẳn: “vừa buồn vừa tủi rằng tất cả những cái tôi viết ra đều là bá
láp hết, chẳng có một tác dụng gì cả, rằng tôi gần như vô dụng” trong khi toàn
dân đau khổ vì nạn chiến tranh và vì chính quyền bất lực, thối nát. Lời tự
trách đó làm động lòng nhiều nhà văn có tâm huyết và tôi nghe nói có vài ba người
muốn trả lời tôi, nhưng sau chỉ có mỗi ông Đoàn Thêm là lên tiếng trong số Bách
Khoa ngày 1.1.68, trách thái độ của tôi là vô lí, mình cầm bút chứ có phải
là chính trị gia đâu, cứ làm hết nhiệm vụ của mình thì thôi, mà những điều mình
viết sao lại không có tác dụng ít nhiều trong tâm hồn độc giả.
Ngoài ba tờ báo kể trên, tôi còn gởi ít bài về văn học, điển
sách cho tạp chí Văn và Tân Văn (ông Trần Phong Giao làm chủ
bút), và vài ba tạp chí khác, vì họ khẩn khoản xin bài.
Tại thiếu người có tài vượt hẳn số đông chăng? Hay tại tình
hình xã hội không có gì kích thích hạng người có tài? Từ năm 1921 đến đầu thế
chiến thứ nhì, xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội nông nghiệp qua chế độ tư bản,
và văn nghệ làm chất xúc tác cho những chuyển biến đó; còn từ Thế chiến tới
1975, xã hội miền Nam chỉ lẩn quẩn trong chế độ tư bản, chưa tới giai đoạn kĩ
thuật phát triển mạnh, vì thế mà văn nghệ không thay đổi được mạnh chăng? Tại
miền Bắc, tuy biến chuyển mạnh nhưng cũng không có nhóm nào đủ uy tín để lãnh đạo.
Mà ở Nga, Trung Quốc thì cũng vậy, vì ở các xã hội đó, một cá nhân hay một nhóm
không sao vượt hẳn lên được.
“Một anh bạn tôi viết tiểu thuyết, mới đây phàn nàn rằng thời này tiểu thuyết gia nào may mắn lắm cũng chỉ nổi danh được trong dăm năm rồi thì chìm, không ai được như Nhất Linh hoặc Khái Hưng giữ tiếng tăm và địa vị được tới khi chết, mà kĩ thuật của họ đâu phải kém Nhất Linh và Khái Hưng.
[1] Ta
nên hiểu gồm cả những sách viết hoặc dịch chung với một người khác. (Goldfish).
- Hương và sắc, giọng nửa biền nửa tản, lời bóng bẫy có
chỗ du dương, đại ý là trọng hương hơn sắc. Đó chính là bản tính của tôi: bất
kì ở đâu, vườn dù hẹp tôi cũng trồng những cây cao có hương thơm như hoàng lan,
ngọc lan chứ không trồng các loài chỉ có sắc mà không hương, lại mất công săn
sóc.[21]
Bố cục bài này tự nhiên mà lạ. Mới đầu tôi nói về miền Tây
Nam Việt, rồi thu lại, nói về miền Hồng Ngự - Cao Lãnh (tôi gọi là miền Hồng
Cao); sau thu lại nữa, nói riêng về Cao Lãnh, quê hương của Nguyễn Quang Diêu;
lại thu nữa, nói về đời Nguyễn Quang Diêu và ông Nguyễn Văn Hầu tác giả cuốn
sách; đây là tâm điểm của bài tựa. Từ tâm điểm tôi toả ngược ra nói về các nhà
cách mạng ở miền khác; rồi nói tới các học giả các miền khác có tân học và cựu
học như Nguyễn Văn Hầu, và tự hỏi tại sao Viện Khảo cổ không biết nhờ họ giúp sức
cho mau kết quả. Rồi tôi lại toả rộng ra nữa, nói về tất cả các công việc văn
hoá khác: Khảo cứu địa lí, soạn Tự điển v.v…; sao chính quyền không nhờ toàn
dân giúp sức mà cứ ôm lấy hết về mình. Và cuối cùng tôi kết: “… khi toàn dân thấy
có thể giúp chính quyền trong mọi phạm vi, có trách nhiệm hợp tác với chính quyền
trong mọi hoạt động, thì lúc đó mới có sự đoàn kết thực sự và công việc xây dựng
quốc gia mới tiến triển mau được”.
Năm 1964 tôi viết thư hỏi thẳng tác giả ở Mĩ. Ông hồi âm liền
từ Thuỵ Sĩ, nơi ông đang du lịch, vui vẻ cho phép tôi dịch, và cho biết nguyên
bản tiếng Anh không còn, nhưng có bản Hoa dịch nhan đề là Sinh hoạt đích
nghệ thuật. May sao ông Giản Chi có bản này (do Việt Duệ dịch – nhà Thế giới
Văn hoá xuất bản – 1940) và cho tôi mượn. Bản đó đầy đủ, chép hết những cổ văn,
cổ thi Trung Hoa mà Lâm Ngữ Đường dẫn trong tác phẩm và nhiều khi chép thêm bản
dịch những bài đó của Lâm nữa. Thế là tôi có được hai bản của Hoa và Pháp. Tôi
so sánh rồi khởi công dịch liền, cuối năm 1964 xong. Trong khi dịch, luôn ba
hay bốn tháng, tôi thấy vui gần như hồi trước dịch cuốn Quẳng gánh lo đi,
vì nhân sinh quan nhà tản của Lâm – mà chính là của Trung Hoa – vì tinh thần
nghệ sĩ và hài hước của ông, vì giọng tự nhiên, thân mật, đôi khi như cười cợt,
đùa bỡn nữa, không khác một cuộc đàm thoại chung quanh một bình rượu hay một ấm
trà giữa những người bạn đồng điệu.
Tôi khởi công dịch Chiến tranh và Hoà bình liền, dịch
rất kĩ, giới thiệu tác giả và tác phẩm cũng kĩ, non một năm rưỡi thì xong. Xoay
được đủ vốn, nhà Lá Bối cho in ngay, đầu năm 1969 ra được cuốn đầu khoảng 750
trang, rồi ba tháng sau ra nốt ba cuốn nữa, do hai nhà in sắp chữ. In 3.000
(hay 5.000?) bản, vốn khá nặng (mấy triệu đồng thời đó), nhờ báo chí giới thiệu
và khen, nhờ Lá Bối có sẵn một số độc giả đông, nhờ quảng cáo trên màn ảnh Sài
Gòn, nên sách bán chạy, ba năm sau tái bản, nhưng vừa in xong đủ bộ gởi tạm
trong kho trường Thanh niên phụng sự xã hội thì quân đội Giải phóng vào[25].
Cuốn đó tôi dịch xong từ 1961, đưa cho nhà Khai Trí, họ không
nhận, tôi cất đi, đợi cơ hội khác. Năm 1962, ông Paulus Hiếu, tôi quen từ hồi ở
Long Xuyên, lúc này đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu, làm bộ trưởng Công dân vụ.
Ông từ trước vẫn thích văn chương, đã giúp đỡ vài nhà thơ như Vũ Hoàng Chương,
Hư Chu, và đã bỏ vốn xuất bản cho tôi cuốn Tổ chức công việc theo khoa học.
Ông mời một số nhà văn có tên tuổi lại bộ, yêu cầu họ dịch cho một số tác phẩm
có giá trị cho thanh niên đọc. Tôi không tới dự buổi họp, nhưng vì tình cũ, tôi
hứa giúp; nhân có bản thảo Kiếp người, tôi đưa ông, ông cho in liền, cuối
1962 hay đầu 1963 phát hành, giá rẽ mà không ai mua, gần như chỉ để phát không.
Nay ôn lại những năm từ 1961 đến 1974, mua được căn nhà ở đường Kì Đồng rồi, tôi rút công việc xuất bản tới mức tối thiểu, để toàn lực vào việc viết văn. Được vài tờ báo và vài ba nhà xuất bản yêu cầu hợp tác, nhờ vậy mà tôi viết được khá nhiều, trong nhiều lãnh vực, khiến có người phải ngạc nhiên rằng về vấn đề gì tôi cũng bàn được với một tinh thần nghiêm túc, bằng một bút pháp giản dị, sáng sủa. Năm 1975, trên một bài báo, Võ Phiến khen tôi: “Ông Nguyễn có cái tài của một nhà giáo là trình bày ý kiến thật rành mạch, khiến những vấn đề rắc rối, tối tăm nhất cũng hoá ra giản dị, minh bạch”.
[2] Đoạn
trích này có vài khác biệt nhỏ, so với bài viết của BS Đỗ Hồng Ngọc đăng lại
trong cuốn Nguyễn Hiến Lê – Con người và tác phẩm, Nxb Trẻ, năm 2003.
(Goldfish).
[16] Lúc
đó cụ Phương Sơn ở Cái Sơn (Long Xuyên) hành nghề Đông y. (Goldfish).
Trước hết tôi phải kể ba bạn thân: Đông Hồ, Hư Chu, Giản Chi.
Đông Hồ, Giản Chi lớn hơn tôi, mười năm tuổi, người sáu tuổi, Hư Chu nhỏ hơn
tôi mười tuổi. Đông Hồ là người Nam (sinh trưởng ở Hà Tiên) nhưng từ gia phong
đến giáo dục, bút pháp đều giống nhà Nho đất Bắc, còn Hư Chu và Giản Chi đều là
người Bắc. Cả ba bạn đó đều biết chữ Hán, đều giữ được ít nhiều phong cách nhà
Nho. Bốn anh em tôi giao du với nhau, tình “đạm nhực thuỷ” tuy thắm thiết mà
không vồn vã, ồn ào.
Ông cho tôi là tri kỉ của ông khi tôi bảo ông có truyền thống
nhà Nho, chỉ thích dạy học (lúc đó ông dạy ở Văn khoa Sài Gòn), truyền lòng yêu
tiếng Việt cho những thánh niên tuấn tú; tôi cũng nhận ông là tri kỉ của tôi
khi ông nghe tin đồn người ta mời dạy đại học Văn khoa Sài Gòn, vội vàng sáng sớm
từ trong Gia Định lại đường Kì Đồng để khuyên tôi đừng nhận vì mất thì giờ lắm,
“thì giờ của bác quí hơn của tôi nhiều”.
Bẵng đi ba tuần mải vẽ hoa mai, ông quên bài thơ dở dang đó.
Ngày 24 tháng giêng (8.3.64), ông nhận được thư của tôi cho hay cành mai ông
cho tôi đã tàn vào một ngày đầu năm rồi lại đăm nụ, nở nữa, thành “nhị độ mai”,
ông mừng làm tiếp sáu câu về nhị độ mai.
Ông giúp tôi rất nhiều trong năm đầu tôi lập nhà xuất bản,
cùng tôi đi giao sách, thu tiền; các hiệu sách ở Sài Gòn thời 1954-1955 đều để
ý đến chúng tôi, hễ thấy chiếc xe máy dầu sơn đen hiệu Peugeot do Hư Chu lái
thì thế nào cũng thấy tôi ở phía sau. Ông cùng tôi sửa bản vỗ cuốn đầu bộ Đại
cương văn học Trung Quốc, mệt và bực mình vô cùng. Chúng tôi không có kinh nghiệm,
giao trọn cho một nhà báo, họ sắp chữ Hán sai be bét, chúng tôi gần như phải sắp
lại hết cho họ.
Về sau nhắc lại thời đó ông ân hận rằng đã phí bỏ tuổi xuân.
Nhờ cuộc di cư đó mà tôi được gặp ông. Hồi đó tôi đã được đọc
tập Cô độc gồm một số truyện ngắn của Lỗ Tấn, ông tuyển rồi dịch, nhà
Á châu xuất bản ở Hà Nội năm 1954. Biết cái vốn Hán tự của ông, nhất là Bạch
thoại, hơn tôi nhiều, tôi đề nghị với ông cùng viết bộ Đại cương triết học
Trung Quốc, ông nhận lời, và chúng tôi hợp tác với nhau về cổ học Trung Quốc
cho tới sau ngày giải phóng như trên tôi đã nói.
Vũ trụ thầy Trang một cánh diều.
Tôi biết danh Quách Tấn (bút hiệu là Trường Xuyên) từ lâu,
nhưng quen ông chỉ trên mười năm nay. Vào khoảng đầu năm 1968, đọc cuốn Nước
non Bình Định của ông, tôi viết một bài đăng trên tờ Tân Văn (1968)
khen là tác phẩm có giá trị nhất trong loại Địa phương chí vì tài liệu
đã dồi dào mà văn lại hay. Tôi khuyến khích ông viết một cuốn nữa về Nha Trang
nơi ông đương ở. Ông nghe lời viết cuốn Xứ Trầm hương, cuốn này tôi thích
hơn cuốn trên và giới thiệu trên tờ Tân Văn năm 1970: ông tả nhiều cảnh
lạ ở Khánh Hoà, nhất là cảnh núi mà tôi chắc không ai tả hơn ông được.
Thơ ông về già tự nhiên hơn nhưng vẫn giữ những nét chính thời 40 năm trước. Nhiều người trách thơ ông đẻo gọt và dùng nhiều điển quá. Ông bảo: “Thú thật là tôi làm thơ không đến nỗi “khổ công phu” như Giả Đảo (…). Nhiều khi làm rất nhanh. Song sự thai nghén của thơ có phần lâu. Ngoài bài Đêm thu nghe quạ kêu, tôi còn nhiều bài khác mà cảm xúc và tình thơ nằm trong tâm hồn tôi trên dưới 10-15 năm như bài Ấp ủ… trong Mộng Ngân sơn.
Dưới đây tôi ghi vắn tắt những điều tôi thấy về chế độ cộng sản
ở miền Nam. Tôi không chép nhật kí, mà ký tính tôi mấy năm nay suy; tôi lại chỉ
sống ở Sài gòn, giao du ít, nên nhận xét của tôi chắc chắn là thiếu sót, có thể
sai nữa, sai nhiều nhất là năm, tháng. Tôỉ sẽ rán giữ tinh thần khách quan và
trung thực.
Thế giới còn những nước nhược tiểu có nhiều tài nguyên thì
còn bọn thực dân, họ chỉ thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào cũng vậy. Khi họ
khai thác hết trên mặt đất, trong lòng đất thì họ khai thác biển, dưới biển. Họ
còn sống lâu. Tuy nhiên, cũng phải nhận rằng sự bóc lột trong một nước tân tiến
thời này đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ
giảm đi lần lần.
20- Xã hội bao giờ cũng có kẻ tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch
nói lúc thì âm (xấu) thắng lúc thì dương (tốt) thắng; mà việc đời khi giải quyết
xong thì lại sinh ra việc khác liền, sau quẻ Ký tế (đã xong) tiếp ngay đến quẻ
Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì để lại các thế hệ
sau.
21- Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là tự do, độc lập,
làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được,
phong lưu một chút chứ đừng giàu. Nhưng hồi 50 tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ,
cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối
thịnh vượng.
Số 157 đồng bào được cứu thoát khỏi địa ngục trần gian Kokra đang được định cư tại trại Songkla để đợi ngày đi nước khác. Sào huyệt Kokra đã được ông Schweitzer ghi vào hồ sơ để chuyển về Liên Hiệp Quốc.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Nguồn gốc các loài 4
Nguồn gốc các loài 4 CHƯƠNG XI Phân bố địa lý Tình trạng phân bổ hiện tại không thể là do sự khác nhau về điều kiện vật lý - Tầm quan trọng ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét