Thứ Ba, 18 tháng 6, 2024

Vài lời ngỏ với bạn trẻ

Vài lời ngỏ với bạn trẻ

Đôi lời giới thiệu
Trong cuốn Đời viết văn của tôi (ĐVVCT), chương VIII: Tôi tự nhận định tác phẩm của tôi, tiết Tiểu phẩm) [1], cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết:
“Tiểu phẩm là những bài văn ngắn từ mươi trang trở xuống viết về bất kì vấn đề gì (tự sự, nghị luận, phê bình…) và có tính cách độc lập nghĩa là không trích từ một tác phẩm dài ra.
Trong loại tiểu phẩm tôi có thể kể nhiều bài mà tôi đã gom lại trong 2 cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa, Mười câu chuyện văn chương đã xuất bản, và trong hai tập Để tôi đọc lại, Mười tám câu chuyện thời sự chưa in thành sách.
Dưới đây tôi giới thiệu một số bài tôi đắc ý vì có tính cách nghệ thuật ít nhiều, lý luận vững, và nhất vì cảm xúc chân thành, dạt dào, ghi được tâm tư, những nỗi vui buồn, phẩn uất của tôi. Nói như Hàn Dũ thì đây là những “Bất bình tắc minh” của tôi, “bất bình” hiểu theo nghĩa rộng là không có sự quân bình, là xúc động mạnh.
Trên các báo định kỳ tôi đã gởi đăng một số bài có tính cách bút chiến, như những bài về tư thục, về chuyển ngữ ở đại học (đã giới thiệu ở trên) hoặc những bài:
- Vấn đề kiểm duyệt (Bách Khoa – 1969)
- Nhà cầm quyền và dư luận (Bách Khoa – 1966), bài này bị kiểm duyệt bỏ nhiều quá, mất gần hết ý nghĩa.
- Vấn đề thông cảm lẫn nhau giữa chính quyền và nhân dân (1961), bị kiểm duyệt bỏ trọn.
- Thân phận người dân các nước chậm tiến (1966), Bách Khoa không đăng vì sợ “bị trù”.
Những bài trên tôi gom lại trong tập: Mười tám câu chuyện thời sự”. (Trang 238-239).
Trong ĐVVCT (trong Hồi kí cũng vậy), ta không thấy cụ đề cập đến cuốn sách nào có nhan đề là Vài lời ngỏ với bạn trẻ, mà chỉ thấy cụ nói đến bài báo có nhan đề Vài lời ngỏ cùng bạn trẻ đăng trên tờ Phù Đổng Thiên vương:
“Đặc biệt nhất là tờ báo cho thanh niên Phù Đổng Thiên Vương. Chủ nhiệm là kịch sĩ Kim Cương cùng với chồng, do Vũ Hạnh dắt lại yêu cầu tôi cộng tác. Tôi đáp không có thì giờ vì chương trình làm việc của tôi còn nhiều. Họ nói mãi, nễ lời tôi hứa chỉ viết giúp cho một bài duy nhất đăng trong số đầu thôi và ít bữa sau tôi giao cho họ bài Vài lời ngỏ cùng bạn trẻ, đăng trong số 30.1.75. Báo chưa ra hay vừa mới ra thì Vũ Hạnh bị bắt giam trở lại; vì lẽ đó ba tháng sau chưa ra được số nhì; rồi Sài Gòn giải phóng và báo đình bản luôn.
Về sau tôi mới biết Kim Cương là một cán bộ nằm vùng như Vũ Hạnh. Vậy là tôi vô tình hợp tác với hai tờ báo Cộng sản ở thành: tờ Tin Văn và tờ Phù Đổng Thiên Vương”. (Trang 198).
Nếu như trong phần Phụ lục cuốn ĐVVCT, ta thấy cụ Nguyễn Hiến Lê xếp tập bản thảo Mười tám câu chuyện thời sự vào chương II: Tác phẩm chưa xuất bản (trang 347), thì trong bài Nguyễn Hiến Lê với sự nghiệp học thuật Việt Nam, tác giả Nguyễn Q. Thắng lại xếp tuyển tập Vài lời ngỏ với bạn trẻ vào tiết: Các tác phẩm mới in gần đây[2], còn tập bản thảo Mười tám câu chuyện thời sự thì ông Thắng không nhắc hề đến. Trong bài Lời Nhà Xuất bản trong tuyển tập Vài lời ngỏ với bạn trẻ này, Nhà Xuất bản Văn học cũng chẳng nói gì đến tập bản thảo Mười tám câu chuyện thời sự cả. Tuy nhiên, ta sẽ thấy được mối liên hệ giữa hai tập đó qua bài Tựa của cụ Nguyễn Hiến Lê được in tuyển tập Vài lời ngỏ với bạn trẻ mà chúng ta đang đọc đây. Cụ viết:
“Năm 1974, tôi lựa thêm mười tám bài có tính cách thời sự cho vào tập này, định khi nhà Trí Đăng xuất bản cuốn Mười câu chuyện văn chương rồi thì cho xuất bản tiếp; nhưng nhà Trí Đăng bận nhiều việc mà thời cuộc chuyển mau quá, cho nên cuốn trên mới phát hành được mấy ngày thì Sài Gòn được Giải phóng, và tập này không còn lí do để ra mắt độc giả nữa”.
Và trong tuyển tập Vài lời ngỏ với bạn trẻ, trong số 12 bài báo (xem mục lục), ta thấy có tên 5 bài được cụ Nguyễn Hiến Lê nói đến trong đoạn trích cuốn ĐVVCT ở trên: Dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở bậc Đại học, Vấn đề tư thục, Vấn đề kiểm duyệt, Vấn đề thông cảm lẫn nhau giữa chính quyền và nhân dân, Thân phận người dân các nước chậm tiến.
Như vậy, ta có thể tạm cho rằng, trong số 18 bài trong tập bản thảo Mười tám câu chuyện thời sự, Nhà Xuất bản Văn học chỉ chọn 12 bài, rồi lấy nhan đề một bài trong số đó, bài Vài lời ngỏ với bạn trẻ[3], làm nhan đề cho tuyển tập, và bài Tựa của tuyển tập này chính là bài Tựa mà cụ Nguyễn Hiến Lê viết cho tập bản thảo Mười tám câu chuyện thời sự.
Tôi nói “tạm cho rằng” là vì trong số 12 bài được chọn có một bài của ký giả Lê Phương Chi phỏng vấn cụ Nguyễn Hiến Lê, tức bài thứ năm: Phỏng vấn về thời cuộc của báo Hoài Bão. Tôi không hiểu tại sao tuyển tập Vài lời ngỏ với bạn trẻ chỉ đề tên tác giả là Nguyễn Hiến Lê mà bài của Lê Phương Chi không được tách riêng ra? Phải chăng tập bản thảo Mười tám câu chuyện thời sự gồm 18 bài của cụ Nguyễn Hiến Lê, 1 bài của Lê Phương Chi chép trong phần phụ lục và Nhà Xuất bản Văn hoá đã loại bỏ 7 bài của cụ Nguyễn Hiến Lê - chứ không phải loại bỏ 6 bài - rồi sắp bài của Lê Phương Chi chung với bài của cụ Nguyễn Hiến Lê theo thứ tự thời gian như lời cụ Nguyễn Hiến Lê nói trong bài Tựa: “Vì tính cách thời sự, tôi sắp các bài theo thời gian chứ không theo đề tài”? Hay là trong tập bản thảo Mười tám câu chuyện thời sự gồm 17 bài của cụ Nguyễn Hiến Lê, 1 bài của Lê Phương Chi và cụ đã sắp 18 bài đó theo thứ tự thời gian rồi, còn Nhà Xuất bản thì chỉ làm một việc đơn giản là gạt bỏ 6 bài của cụ Nguyễn Hiến Lê mà thôi?
Trong 11 bài của cụ Nguyễn Hiến Lê chỉ có 9 bài được đăng báo (Bách Khoa: 6 bài, Mai: 1 bài, Tân Văn: 1 bài, Phù Đổng thiên vương: 1 bài), 2 bài còn lại báo không đăng (Bách Khoa: 1 bài, Mai: 1 bài).
Còn những bài mà Nhà xuất bản Văn hoá gạt bỏ là những bài nào? Trong các bài mà cụ Nguyễn Hiến Lê nói rõ là cho vào tập Mười tám câu chuyện thời sự có một bài không được in trong truyển tập Vài lời ngỏ với bạn trẻ này, đó là bài Nhà cầm quyền và dư luận. Một, hai hoặc ba bài nữa trong loạt bài có nhan đề Nguy cơ xuất não cũng bị gạt bỏ. Trong một chú thích trong bài Một nền giáo dục phục vụ, cụ Nguyễn Hiến Lê viết: “Bốn hàng này tôi mới thêm sau khi chúng tôi viết bài Nguy cơ xuất não coi trong tập này”. Hai chữ “tập này” có nghĩa là trong tập bản thảo Mười tám câu chuyện thời sự, nhưng trong tuyển tập Vài lời ngỏ với bạn trẻ, ta không thấy bài nào trong loạt bài Nguy cơ xuất não cả.
Về loạt bài Nguy cơ xuất não, cụ Nguyễn Hiến Lê viết trong ĐVVCT như sau:
“Nguy cơ xuất não (đăng trên ba số Bách Khoa năm 1972) bàn về biện pháp để khuyến khích các sinh viên du học ngoại quốc về giúp nước, khỏi thiệt cho quốc gia một số nhân tài. Loạt bài này cũng được độc giả hoan nghênh, nhưng chính quyền lúc ấy không cho đó là vấn đề quan trọng, không muốn mà cũng không có khả năng thu dụng hạng thanh niên đó”. (trang 192).
Loạt bài Nguy cơ xuất não và loạt bài Cải tổ nền giáo dục Việt Nam là hai loạt bài mà cụ Nguyễn Hiến Lê cho là “quan trọng nhất”. Loạt bài Cải tổ nền giáo dục Việt Nam gồm năm bài, cụ Nguyễn Hiến Lê chỉ chọn một, tức bài Vấn đề tư thục cho vào tập bản thảo Mười câu chuyện thời sự; còn trong loạt bài Nguy cơ xuất não cụ Nguyễn Hiến Lê chọn mấy bài? Dù cụ chọn cả ba bài và Nhà xuất bản Văn hoá xoá cả ba, cộng với bài Nhà cầm quyền và dư luận nữa là bốn thì vẫn còn hai hoặc ba bài nữa cũng bị Nhà xuất bản loại ra, mà hai hai ba bài đó là bài nào, thật khó mà biết được!
Cũng xin nói thêm là trong tuyển tập Vài lời ngỏ với bạn trẻ này, chỉ có mỗi một bài là lời cụ Nguyễn Hiến Lê “ngỏ với bạn trẻ”, còn những bài khác tuy cũng có vài chỗ cụ “ngỏ với bạn trẻ”, nhưng phần lớn là “ngỏ với nhà chính quyền” mà thái độ của cụ đối với chính quyền được cụ tỏ rõ trong bài Bọn cầm bút chúng ta làm được những gì lúc này? đăng trên Bách Khoa ngày 1.12.67 và được cụ chép lại trong ĐVVCT:
“Tôi nghĩ rằng cái thú nhất của người cầm bút là được độc lập và cái vinh dự lớn nhất của họ là giúp được chút ít gì cho quốc dân. Muốn giữ được độc lập và giúp được quốc dân thì nên ở ngoài chính quyền, đứng ở cương vị đối lập với chính quyền. Đối lập không nhất định là chỉ trích, lại càng không có nghĩa đả đảo. Đối lập là một cách kiểm soát, hợp tác hữu hiệu nhất và nghiêm chỉnh nhất. Ta không lệ thuộc vào chính quyền thì mới dám nói thẳng với chính quyền và chính quyền mới chú ý lời nói của ta. Alain và Maurois đều từ chối những chức trọng quyền cao để được là người tự do, được làm một công dân “giám thị các ông lớn”. (Trang 197).
Goldfish
Tháng 4 năm 2010
Chú thích:
[1] Tôi dùng bản của Nxb Văn hoá Thông tin, năm 2006.
[2] In trong Tuyển tập Nguyễn Hiến Lê, Tập I: Triết học, Nxb Văn học 2006, trang 9.
[3] Trong ĐVVCT ghi là Vài lời ngỏ cùng bạn trẻ.
Lời Nhà Xuất Bản
Nguyễn Hiến Lê là một nhà nghiên cứu – biên khảo – dịch thuật cần mẫn; đồng thời cũng là một cây bút quen thuộc với bạn đọc miền Nam hồi đất nước chưa thống nhất. Những công trình và những bài báo của ông thường được công chúng hoan nghênh, tiếp tục trao đổi, bất chấp sự kiểm duyệt của chế độ cũ.
Sự hoan nghênh và tiếp tục trao đổi ấy không hẳn vì mọi điều ông nói ra đểu đúng và hay cả, mà trước hết, là vì người ta thấy ông nói thẳng, nói thật với tất cả tấm lòng chân thành của một trí thức yêu nước, có tinh thần dân tộc chân chính, sâu sắc. Tấm lòng này của ông được đặc biệt thể hiện rõ khi ông nhắc nhở, kêu gọi các bạn trẻ cần tôn trọng đạo nghĩa, uống nước nhớ nguồn, cần ra sức học tập, trau dồi năng lực toàn diện để góp phần xây dựng đất nước phồn vinh trên cơ sở tự lập tự cường.
Các kiến giải của học giả Nguyễn Hiến Lê và những số liệu, những sự việc… kèm theo, là những kiến giải, số kiệu, sự việc… của vài ba chục năm về trước. Đối với hôm nay, thì đã có nhiều kiến giải đã được thực hiện bình thường, có những kiến giải cũng cần được tìm hiểu cân nhắc thêm; còn về số liệu và sự việc, thì hẳn là đã cũ, nhưng vẫn còn giá trị so sánh, tham khảo nhất định.
Trân trọng công phu và tấm lòng của một học giả, Nhà Xuất bản Văn học xuất bản tập Vài lời ngỏ với bạn trẻ này và xin lưu ý đôi điều cùng bạn đọc.
Nhà Xuất Bản Văn học
TỰA
Từ năm 1959 chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu rung rinh.
Người ta thấy nó bất lực; thôn quê mất an ninh, nông dân bỏ ruộng tản cư ra thành thị; kinh tế thục lùi, đời sống đắt đỏ gấp hai năm 1954, đồng bạc sụt giá, nhiều người thất nghiệp; công chức hống hách và tham nhũng, vì nạn bè phái, sở nào cũng đầy nhân viên mà già nửa ngồi không, ngay trong học đường và trường thi cũng thiếu kỷ luật: đó là dấu hiệu chắc chắn nhất của sự sụp đổ.
Người ta oán nhất chính sách độc tài, phong kiến, gia đình trị, bầu bán bịp bơm, và áp bức đạo Phật của mấy anh em nhà Ngô. Chỉ nhờ Mĩ che chở mà Ngô Đình Diệm sống được tới ngày đảo chánh 1.11.63.
Những chính quyền lên thay Diệm còn bất lực, thối nát hơn Diệm nữa, và suốt 11-12 năm sau, nội bộ miền Nam thật là hỗn loạn. Các giáo phái và cơ quan ngôn luận đều lên tiếng đả kích mỗi ngày một mạnh nhưng chính quyền vẫn làm thinh hoặc đàn áp, không cải thiện một chút gì cả.
Khi rời Long Xuyên lên Sài Gòn tôi đã có chủ trương rõ rệt: Chỉ hoạt động về văn hóa, không làm chính trị, và muốn giữ tư cách độc lập, không vô một đảng phái, một hội đoàn nào. Nhưng từ 1960, thấy nhiều cái chướng tai gai mắt trong xã hội, tôi không thể làm thinh, và phải lên tiếng trên các tạp chí Bách Khoa, Mai, Tin Văn… Trước sau trên mười năm liên tục, được khoảng bốn năm chục bài, dài thì bốn năm chục trang, ngắn thì ba bốn trang, trung bình 8-10 trang, góp ý kiến với quốc dân và nhà cầm quyền về nhiều vấn đề từ giáo dục, văn hóa tới kinh tế, xã hội, chính trị… Ba bài bị bỏ, không đăng được, một bài được đăng nhưng bị cắt nhiều tới nỗi mất cả ý nghĩa (coi mục lục).
Một số bài đã được lựa cho vào hai tập: Mấy vấn đề xây dựng văn hóa (Tao Đàn – 1967), Những vấn đề của thời đại (Mặt Đất – 1974). Năm 1974, tôi lựa thêm mười tám bài có tính cách thời sự cho vào tập này, định khi nhà Trí Đăng xuất bản cuốn Mười câu chuyện văn chương rồi thì cho xuất bản tiếp; nhưng nhà Trí Đăng bận nhiều việc mà thời cuộc chuyển mau quá, cho nên cuốn trên mới phát hành được mấy ngày thì Sài Gòn được Giải phóng, và tập này không còn lí do để ra mắt độc giả nữa.
Vì tính cách thời sự, tôi sắp xếp các bài theo thời gian chứ không theo đề tài. Tuy một số bài tôi sửa đổi, thêm bớt vài chữ, vài câu cho rõ thêm hoặc đỡ rườm, hết thảy đều không quan trọng
Sài Gòn, một ngày mùa Đông năm Đinh Tị (1977)
Nguyễn Hiến Lê
- 1 -
Dùng Tiếng Việt Làm Chuyển Ngữ Ở Bậc Đại Học
Các sinh viên và phụ huynh cuối năm vừa rồi đều mong trong phiên nhóm cuối năm vùa rồi, Quốc hội[1] sẽ giải quyết cho xong vấn đề dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở bậc Đại học; mà rồi đều thất vọng đến nỗi đọc xong những bài tường thuật trên báo chí về vấn đề đó, người ta chỉ lắc đầu thở dài chứ không phản ứng gì sôi nổi như năm ngoái. Thế là bao nhiêu lời kêu gọi thiết tha của sinh viên, của phụ huynh trên mặt báo, rồi mấy lần diễn thuyết của những người nhiệt tâm với vấn đề trong hai năm chẳng tới đâu cả: vấn đề nằm ỳ ra đấy, nguyên vẹn như mấy năm trước.
Khi đọc xong bài tường thuật nhan đề là Viện Đại học chưa đề nghị dùng tiếng Việt ở bậc Đại học đăng trên báo Tự do ngày 2.12.160, tôi liệng tờ báo xuống, nghĩ thầm:
“Việc đời 100 lần có 90 lần không như ý mình. Thôi thì các sinh viên đành đợi ít năm nữa vậy, đành xoay sở cách nào để nghe nổi lời giảng của giáo sư thì xoay sở; làm cách nào để học thuộc lòng những bài giảng đó rồi trả bài cho giáo sư thì làm, chứ còn nói năng gì nữa. Người ta đã nói nhiều rồi, đã viện đủ các lí lẽ rồi, đã kiêu ca và năn nỉ, mà viện Đại học chưa chịu dùng tiếng Việt thì đành vậy chứ biết làm sao?”.
Thế là tôi dẹp vấn đề đó qua một bên, không lưu tâm tới nữa. Thú thật là lúc đó tôi bận việc nhà, lại đau vặt luôn mấy tuần nên không muốn suy nghĩ, viết lách gì cả.
Nhưng gần đây một số phụ huynh học sinh quen cũng có, không quen cũng có, trách tôi sao đã theo dõi vấn đề từ mấy năm nay mà lần này không lên tiếng; dù chẳng nghe được kết quả gì đi nữa thì cũng cứ lên tiếng giúp các ông dân biểu biết cảm tưởng của một số người đã bầu các ông ấy lên thay mặt mình bàn việc nước, nhất là cái việc trong trường hợp này lại là việc rất quan trọng tới văn hóa và tương lại dân tộc.
Vì vậy tôi miễn cưỡng viết bài này. Tôi đã có lần nói: Nhắc tới viện Đại học là điều bất đắc dĩ cho tôi.
Tôi vẫn biết tại các nước như Pháp, Anh, Mĩ… nhà cầm quyền chỉ có bổn phận phải tôn trọng dư luận quần chúng chứ không nhất thiết phải luôn luôn làm theo ý muốn của quần chúng. Vì có những vấn đề thuộc phạm vi chuyên môn, đại đa số quần chúng không sao hiểu rõ, phải tin ở các nhà chức trách để họ giải quyết lấy.
Nhưng vấn đề dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở bậc Đại học có phải là một vấn đề chuyên môn tới mức sinh viên và vài phụ huynh học sinh không thể hiểu nổi không? Chúng tôi tin rằng không. Nếu Viện Đại học Sài Gòn tin là có thì cũng được đi – Viện có quyền tin sao thì tin, chúng tôi không dám cãi – nhưng vấn đề đặt ra rồi, đại đa số quần chúng đã yêu cầu Viện giải quyết thì giải quyết ra sao, xin Viện cho biết đi để chúng tôi hướng dẫn sự học của con em chúng tôi chứ!
Viện không dùng tiếng Việt ở Đại học mà dùng tiếng Pháp, tiếng Anh hay tiếng nào đó thì cũng được đi, nhưng phải có sự lên tiếng giữa hai bậc trung học và Đại học để cho học sinh đậu tú tài rồi có đủ sức về sinh ngữ mà theo học ở bậc trên và Viện cũng phải cho biết giải pháp dùng ngoại ngữ ấy phải duy trì ít nhất là bao nhiêu năm nữa, vì những lí do nào?
Còn như nếu Viện nhận rằng dùng tiếng Việt ở bậc Đại học là hợp lí thì xin Viện cũng cho biết trong mấy năm nay đã chuẩn bị được những gì và trong bao lâu những thì có thể thực hiện được. Chúng tôi tin tưởng những điều chúng tôi đòi hỏi không có tính cách bí mật gì, cũng không có tính cách chuyên môn gì mà bảo rằng không thể tuyên bố ra được, hoặc có tuyên bố thì quốc dân cũng không hiểu nổi…  
Giải quyết ra sao thì giải quyết phắt đi, cứ kéo dài như ngày nay thì quốc dân chỉ hoang mang thôi. Vì đã bao năm nay người ta chưa tiến được một bước nào, cơ hồ như thụt lùi nữa.
Năm 1958 bộ Quốc gia Giáo dục tuyên bố trong cuốn Chương trình Trung học:
“Sẽ tiến tới việc dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở bậc Đại học nhưng việc này phải chuẩn bị ngay từ bây giờ bằng:
- Việc đào tạo giáo sư Đại học.
- Việc thống nhất danh từ.
- Việc biên soạn và dịch thuật các sách.
Mặc dù chuyển ngữ ở Đại học là tiếng Việt, sinh viên cũng phải thạo một sinh ngữ và biết qua một sinh ngữ khác”.
Đọc những hàng đó ai mà không mừng, tin rằng công việc đã chuẩn bị ngay từ năm đó và chỉ khoảng 1960, trễ lắm là 1961 tiếng Việt đã có thể bắt đầu dùng làm chuyển ngữ ở những năm đầu của Đại học rồi.
Năm 1959, sau phiên nhóm của Quốc hội ngày 22.12, người ta ghi trong biên bản:
“Tiếng Việt dạy ở Đại học đang được lưu ý, nhưng sinh viên phải có một chứng chỉ sinh ngữ” (Theo báo Tự Do ngày 24.12.59).
Rồi tới năm nay, theo bài tường thuật của báo Tự Do ngày 26.12.60 thì:
“Trả lời điểm dùng tiếng Việt ở bậc Đại học thì đã được Bộ chấp nhận nhưng còn phải có sự đề nghị của ông Viện trưởng và sự ưng thuận của Hội đồng giáo sư, sau đó Bộ sẽ đưa ra Hội đồng Nội các để chờ sự chấp thuận”[2].
Đó là ý kiến của Bộ, và có lẽ đây là ý kiến của Viện: “Ông Trần Tấn Thông nhân danh giáo sư Đại học cho rằng việc dùng Việt ngữ ở Đại học là đúng nhưng mong đừng làm hại tới trí thức của thanh niên. Chưa thể dùng cho năm 1961-1962 được vì còn phiền phức trong việc thống nhất danh từ khoa học có lối 20.000 chữ không thể đem sinh viên ra thí nghiệm, hơn nữa dù sao sinh viên cũng phải giỏi một sinh ngữ”. 
Thực tình chúng tôi không hiểu nổi sự làm việc của Bộ nữa. Năm 1958 bảo “phải chuẩn bị từ ngay bây giờ”, rồi hai năm sau lại bảo: “đã chấp nhận nhưng còn đợi có sự đề nghị của ông Viện trưởng và sự ưng thuận của Hội đồng giáo sư”. Thế thì năm 1958 chưa có sự đề nghị của Viện trưởng và sự ưng thuận của Hội đồng giáo sư mà Bộ đã “chuẩn bị” rồi à? Hai năm rưỡi nay Bộ đã chuẩn bị được những gì rồi? Và nếu bây giờ ông Viện trưởng không chịu đề nghị, hoặc nếu ông chịu đề nghị mà Hội đồng giáo sư không chịu ưng thuận thì Bộ chuẩn bị để làm gì kìa?
Chúng tôi có cảm tưởng rằng Bộ, Viện trưởng và Hội đồng giáo sư chẳng những chưa thoả thuận với nhau về nguyên tắc mà ngay đến quyền hành và trách nhiệm cũng chưa xác định một cách rõ rệt. Chúng tôi hiểu rằng Viện có qui chế riêng, Bộ không có quyền xen vô, nhưng như vậy thì phải có sự thoả thuận của Viện rồi hãy tuyên bố, chưa có thì đừng tuyên bố. Lời tuyên bố năm nay của Bộ có khác gì trút hết trách nhiệm cho Viện không? Có khác gì bảo: “Năm 1958, Bộ chúng tôi yêu cầu chuẩn bị ngay, nếu tới nay chưa chuẩn bị thì tại Viện đấy”? Tình trạng đó kéo dài mấy năm rồi, như vậy thì vấn đề chuyển ngữ ở Đại học có hi vọng giải quyết một ngày gần đây được?
Chúng tôi thú thật chẳng biết chút gì về thủ tục hành chánh, nhưng chúng tôi nghĩ rằng vấn đề có thể giải quyết một cách giảng dị hơn, chẳng hạn Quốc hội đề nghị rồi Tổng thống quyết định, sau cùng Bộ hoặc Viện thi hành; còn Hội đồng giáo sư ưng thuận hay không là chuyện không cần phải bàn tới vì một khi Tổng thống đã chấp thuận, Bộ hoặc Viện đã đem thi hành thì giáo sư không có lí gì không theo; nói cho cùng ra, nếu có một vài vị không chịu thì Viện sẽ tìm giáo sư khác thay thế chứ có gì đâu? Quốc hội có thể hỏi ý kiến của Viện rồi ra một hạn là mấy năm nữa phải thực hiện cho xong vấn đề chuyển ngữ ở những năm đầu mọi ngành Đại học, và mấy năm sau thì sẽ giải quyết được toàn diện ở bậc Đại học. Quốc hội mà phát biểu đúng nguyện vọng của quốc dân thì không nên nhận một lời hứa mơ hồ như mấy năm nay: “sẽ tiến tới”, “đang được lưu ý”, “sau một thời gian”…
Đó là những điểm mà bọn phụ huynh chúng tôi thắc mắc, mong Bộ hoặc Viện giảng giải cho.
Từ trước tới nay, Viện chưa có một lời tuyên bố nào chánh thức cả. Chúng tôi nhớ chỉ có mỗi một lần giáo sư Phạm Biểu Tâm[3] đại diện ông Viện trưởng, trong một buổi nói chuyện của linh mục Bửu Dưỡng về vấn đề chuyển ngữ ở bậc Đại học (tháng 9/1960) trả lời diễn giả và tuyên bố với thính giả rằng: “Việc dùng Việt ngữ tuy nói nghe rất dễ, nhưng thực tế vô cùng khó khăn”; và lần nhóm Quốc hội vừa rồi, ông Trần Tấn Thông nhân danh giáo sư Đại học tuyên bố mà báo Tự Do đã tóm tắt ở trên.
Chúng ta có thể tạm cho rằng ý kiến hai vị đó là ý kiến của ông Viện trưởng và của đa số giáo sư trong Viện.
Tóm tắt lại thì hai vị đó đều nhận rằng sự dùng tiếng Việt ở Đại học là hợp lí, nhưng còn ngại:
1. Làm tổn thương đến trình độ trí thức văn hóa, khoa học của sinh viên (lời ông Trần Tấn Thông) 
2. Công việc thống nhất danh từ rất khó khăn (lời cả hai ông).
3. Phải đem sinh viên ra thí nghiệm (lời ông Trần Tấn Thông).
Nếu quả thực Viện chỉ ngại có ba điều đó thì chúng tôi tưởng vấn đề không phải là nan giải.
Điểm thứ nhất: Làm tổn thương đến trình độ trí thức văn hóa, khoa học của sinh viên.
Chúng ta có thể làm hại cho trình độ trí thức của sinh viên trong hai trường hợp:
a. Giáo sư chỉ giảng bằng tiếng Việt mà sinh viên chỉ học bài đó không đủ sức tham khảo thêm những sách ngoại ngữ. Xin thưa rằng phụ huynh chúng tôi tuyệt nhiên không muốn như vậy. Chúng tôi vẫn nhận rằng sinh viên lên tới Đại học phải đọc thông một ngoại ngữ và phải tham khảo những sách ngoại quốc. Chúng tôi chỉ mong rằng giáo sư giảng bằng tiếng Việt cho sinh viên dễ hiểu và hiểu rồi thì dễ diễn ra được, khỏi bị cái nạn nghe giáo sư giảng mà như vịt nghe sấm và khi đọc bài thì phải học thuộc lòng từng chữ như ngày nay. Điểm đó chúng tôi đã bàn nhiều rồi xin miễn nhắc lại. Chúng tôi còn nghĩ rằng sinh viên nghe bài giảng mà dễ hiểu và một khi hiểu là có thể diễn ra dễ dàng thì mới có thì giờ tham khảo sách ngoại ngữ và như vậy mới có lợi cho trí thức của sinh viên; chính tình trạng hiện nay (nghe giảng không hiểu, phải học thuộc lòng) mới là cái hại cho trí thức sinh viên).
b. Chỉ dùng giáo sư Việt mà giáo sư Việt chưa đào tạo đủ, giá trị kém giáo sư ngoại quốc. Chúng tôi nhận rằng hiện nay có tình trạng thiếu giáo sư, nhưng chính vì vậy mà chúng ta phải chuẩn bị gấp và trong khi chờ đợi, môn nào giáo sư Việt đảm đương được thì cứ dạy bằng tiếng Việt, đỡ mệt cho sinh viên chừng nào hay chừng nấy. Chúng tôi chỉ mong sự thay đổi từ từ nhưng phải có sự thay đổi. Chắc trong hai năm nay Bộ và Viện đã chuẩn bị rồi và có thể cho biết thời hạn bao lâu thì chuẩn bị xong.
Điểm thứ nhì: Công việc thống nhất danh từ khoa học rất khó khăn.
Ông Trần Tấn Thông đưa ra con số 200.000 tiếng phải thống nhất (nên thêm: phải thống nhất hoặc dịch thì mới thật đúng vì đa số danh từ chưa dịch, chỉ có một số ít là có người dịch rồi, bây giờ cần thống nhất). Con số 200.000 đó làm cho nhiều người ngạc nhiên nhưng chúng tôi cho rằng đúng. Tuy nhiên, ta cần phân biệt như Linh mục Bửu Dưỡng[4], hai thứ danh từ: “chuyển tiếp và chuyên môn. Mà những danh từ chuyên môn chẳng hạn về sử, địa, khoa học… chiếm đa số thì có thể giữ nguyên văn danh từ ngoại ngữ để giúp sinh viên tra cứu sách vở và dễ dàng tiếp xúc với ngoại quốc”, hoặc nếu có cần dịch thì chỉ định một lối dịch âm nào hợp lí, nửa năm là có thể dịch xong hàng trăm nghìn tiếng rồi.
Vả lại tính ra thì tới 200.000 tiếng nhưng thử hỏi nền Đại học của ta hiện nay chưa đủ ngành như nền Đại học Pháp, Anh đã dùng gì tới hết 200.000 tiếng đó? Mà có dùng tới hết chăng nữa thì cũng có thể chia ra từng chặng mà dịch, mỗi năm dịch một số tiếng cần để dạy năm đó đã, như vậy sáu bảy năm lần lần sẽ hết; mà mỗi năm công việc sẽ không quá nhiều, chia cho hàng chục giáo sư, mỗi vị lãnh một phần thì có gì mà trong hai năm nay không xong, đủ một mớ, đủ để bắt đầu dạy tại các năm thứ nhất hay dự bị của mọi ngành?
Ông Phạm Biểu Tâm chỉ tuyên bố là “Vô cùng khó khăn”. Trong báo Mai ngày 10.10.1960 chúng tôi đã yêu cầu ông cho biết lí do khó khăn để quốc dân có thể so sánh quan niệm của ông với quan niệm của Linh mục Bửu Dưỡng, nhưng bài báo có lẽ chưa tới ông nên ông vẫn chưa có ý kiến.
Chúng tôi nhận rằng công việc không phải dễ dàng (chứ không nói vô cùng khó khăn) nhưng có vậy thì quốc dân mới trông cậy vào các ông, những nhà trí thức tối cao trong nước, mà càng khó khăn lại càng phải chia ra mà làm gấp. Ông Thông nói một năm nay có một Hội đồng giáo sư Đại học hàng tuần hợp nhau để nghiên cứu vấn đề. Tại sao chỉ mới nghiên cứu từ một năm nay thôi? Thế thì năm 1958, sau khi Bộ tuyên bố “phải chuẩn bị ngay từ bây giờ”, cái công việc chuẩn bị đó giao cho cơ quan nào, chắc không phải giao cho Viện rồi?
Nhưng dù chỉ mới nghiên cứu từ một năm nay thì sau bốn năm chục lần hội họp, các học giả của Viện chắc cũng đã đặt xong qui tắc, phác xong chương trình, phân phối xong công việc và có thể cho quốc dân biết đến năm nào thì bắt đầu thực hành ở các năm dự bị hoặc thứ nhất mọi ngành được chứ? Có lẽ nào mới có thể hứa một cách mơ hồ phải đợi một thời gian nữa?
Làm cho tôi suy nghĩ nhiều nhất là điểm thứ ba: Không muốn thí nghiệm trên lưng sinh viên.
Thí nghiệm cái gì đây? Vẫn chương trình đó, vẫn phương pháp đó, vẫn giáo sư đó, chỉ khác trước dạy bằng ngoại ngữ, bây giờ dạy bằng Việt ngữ mà ông Trần Tấn Thông bảo là thí nghiệm Việt ngữ chứ còn thí nghiệm cái gì nữa? Mới đọc bài tường thuật, tôi tự hỏi như vậy.
Hôm nay đọc bài ông Thông trả lời ông Nguyễn Thành Minh (báo Tự Do ngày 22.1.61), tôi không còn thắc mắc gì nữa: đúng là ông ngại sự thí nghiệm những danh từ khoa học rồi. Giữa Quốc hội ông tuyên bố:
“Vì vấn đề chuyên môn là vấn đề tối quan trọng, chúng tôi không thể áp dụng trước khi có một sự thống nhất danh từ khoa học và chúng tôi không muốn thí nghiệm trên lưng của sinh viên (Biên bản Quốc hội số 30/65).
Rõ rằng là tinh thần thận trọng của các học giả. Nhưng chúng tôi tự hỏi có thận trọng quá không 
Sự thí nghiệm danh từ khoa học có phải là việc mới mẻ đáng cho các vị ấy lo lắng tới cái mức đó không? Mười mấy năm trước đây, khi chúng ta hô hào bỏ chương trình Pháp ở bậc Trung học mà dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ, chúng ta có lo lắng như vậy không, hay là chúng ta mạnh bạo thí nghiệm và kết quả là nền Trung học Việt Nam đã có thành tích, học sinh không phải vì dùng những danh từ khoa học mà chúng ta đặt ra mà dốt về khoa học, mà mụ người đi, không biết phán đoán, hoặc nói chuyện về khoa học thì không ai hiểu ai. Tôi vẫn biết rằng “bậc Đại học không phải là bậc Trung học nối dài”, nhưng đó lại là chuyện khác. Ở đây ông Thông chỉ ngại về cái hại đem thí nghiệm vội vàng những danh từ khoa học khi chưa được thống nhất. Viện Đại học Sài Gòn là Viện lớn nhất trong nước, cứ đặt, dịch các danh từ khoa học mà dùng đi thì rồi nó sẽ thống nhất cũng như xưa kia các trường Trung học công lập cứ dùng những danh từ của Hoàng Xuân Hãn[5] và ngày nay những danh từ đó thành thống nhất chứ có gì đâu?
Tất nhiên một số danh từ có thể đặt sai, dịch sai; nhưng khi thấy sai mà danh từ chưa được phổ thông lắm thì ta sửa lại ngay, nhược bằng quá phổ thông rồi thì chẳng cần sửa cũng được, vì vô hại. Danh từ nước nào cũng vậy. Chẳng hạn tiếng kinh tế mà người Trung Hoa dùng để dịch chữ économie politique[6], đâu có đúng nghĩa, khi thấy nó sai thì nó đã quen dùng rồi mà không cần phải đổi nữa. Còn danh từ Kĩ hà học để dịch chữ Géométrie ngày nay ta thấy sai mà vì nó chưa thông dụng, nên đổi là Hình học, và các giáo sư và học sinh đều bỏ Kĩ hà học mà dùng Hình học. Ngay như danh từ Hàn thử biểu đã thông dụng mà nay ta vẫn cứ đổi là Nhiệt kế cho đúng hơn và chúng ta cũng đã bỏ tiếng trên mà dùng tiếng dưới một cách rất dễ dàng. Tôi thấy như vậy chẳng có hại gì lớn cho sự đào tạo thanh niên cả. Vì ta nên nhớ rằng sinh viên Đại học không như trẻ ở Tiểu học hay Trung học, hoang mang về danh từ không thống nhất; họ hiểu được cách cấu tạo hay dịch danh từ và khi hiểu rồi thì dễ nhớ. Mà học là cần học cái tinh thần nghiên cứu, phán đoán, còn danh từ chỉ là mặc ước với nhau, không phải là quan trọng nhất.
Tất nhiên tránh được thì vẫn hơn, thận trọng thì vẫn quí, nhưng chúng tôi tưởng bước đầu không sao tránh hết được ít nhiều sự bất tiện. Vì dù Viện Đại học có bỏ ra mười năm hai hai mươi năm để dịch cho thật đúng 200.000 danh từ khoa học thì thể nào cũng có một số tiếng khi dùng rồi mới thấy phải sửa đổi lại; và dù sao thì người ta cũng vẫn phải đem những tiếng đó ra “thí nghiệm trên lưng của sinh viên”, vì nội một việc đem ra dạy tức là đem ra thí nghiệm rồi.
Suy cho kĩ thì trước kia, ngay việc dùng tiếng Việt ở Trung học đã là một sự thí nghiệm; ngày nay nội cái việc dùng tiếng Việt ở Trung học mà dùng tiếng ngoại quốc ở Đại học cũng là một thí nghiệm nữa. Trong sự giáo dục, bất kì một sự thay đổi gì hơi quan trọng cũng là một “thí nghiệm trên lưng học sinh”. Mà ngay việc đời cũng vậy: từ quân chủ đổi ra dân chủ, từ kinh tế chỉ huy đổi kinh tế tự do rồi trở về kinh tế chỉ huy, từ sự dùng cái cày tay đổi ra dùng cái cày máy… đều là những sự “thí nghiệm trên lưng” con người cả. Không có sự thí nghiệm thì làm sao có sự thay đổi, làm sao có tiến bộ. Không có thí nghiệm thì chúng ta tất còn ăn lông ở lỗ như tổ tiên thời thượng cổ. Và nếu trong sự giáo dục không có thí nghiệm thì ngày nay chúng ta vẫn còn dùng chương trình Pháp của thời Pháp thuộc. Vậy thì tại sao lại sợ thí như vậy kìa?
Mà nói cho cùng, trong khi chưa kịp thống nhất, nếu có một số tiếng mỗi giáo sư dịch một khác thì ta cứ ghi cả lại và thêm tên quốc tế, có hơi rắc rối cho sinh viên thật, nhưng cũng chẳng có hại gì lớn. Việt ngữ ngày nay chưa được thống nhất, cái rương ở Nam, người Bắc gọi là cái hòm, trái na ở Bắc, người Nam gọi là trái mãng cầu ta… nhưng không phải vì vậy mà ta không dạy tiếng Việt cho trẻ.
Tóm lại phụ huynh chúng tôi chỉ yêu cầu Bộ và Viện có một đường lối dứt khoát: dùng tiếng Việt hay không dùng tiếng Việt. Nếu dùng thì mấy năm nữa có thể bắt đầu dạy ở các năm thứ nhất các ngành Đại học – chúng tôi không đòi hỏi một sự thay đổi toàn diện ngay một lúc; mà nếu không dùng thì sửa đổi lại chương trình Trung học ra sao để con em chúng tôi có thể nói, nghe thông được một ngoại ngữ khi học hết bậc Trung học. Chúng tôi chỉ cần biết rõ điều đó để hướng dẫn sự học của con em vì nếu bảy năm nữa mà vấn đề chuyển ngữ vẫn nằm ý ra như ngày nay thì chúng tôi sẽ tìm cách cho con em vào những trường Trung học Pháp để khi lên Đại học chúng khỏi bỡ ngỡ.
Một ông dân biểu, ông Trương Thiều, thắc mắc “Không hiểu Bộ Quốc gia Giáo dục có hướng dẫn học sinh hướng theo văn hóa Pháp không”. Theo một vị dân biểu thì “Bộ không có ý hướng thanh niên theo chương trình văn hóa Pháp, việc chọn sinh ngữ Anh, Pháp tự do là một bằng chứng”.
Vâng quả thực đó là một bằng chứng, song tôi tự hỏi không biết người ta cho con em học tiếng Anh làm gì mà khi mà hiện nay ở Đại học hầu hết các môn chỉ dạy bằng tiếng Pháp?
Lời yêu cầu của ông Hoàng Văn Nam, dùng cả tiếng Pháp và Anh ở Đại học khoa học (báo Tự Do ngày 21.1.61) không phải là vô lí: có vậy thì những học sinh lựa Anh ngữ làm sinh ngữ thứ nhất mới không bị thiệt thòi. Bộ Quốc gia Giáo dục và Viện Đại học có nghĩ đến điều đó chưa? Lẽ nào lại thất sách như vậy, mở thêm một Đại học dạy bằng một ngoại ngữ khác ở Sài Gòn này?
Chúng tôi ngờ rằng vấn đề chuyển ngữ này có liên quan mật thiết tới những vấn đề nào khác chăng, nên mới hoá ra rắc rối đến nỗi các học giả của chúng ta giải quyết mấy năm nay vẫn chưa ổn như vậy?
Sài Gòn ngày 23.1.1961
(Bách Khoa ngày 15.2.1961)
(Vấn đề chuyển ngữ ở Đại học được đặt ra từ năm 1959, tám năm sau, năm 1967 mới tạm giải quyết xong.
Trước sau tôi lên tiếng cả thảy 5 lần:
1. Một loạt hai bài đăng trên Bách Khoa số 15.1.1960 và 1.2.1960.
2. Một bài đăng trên Mai số 10.10.1960.
3. Một bài đăng trên Bách Khoa số 15.2.1961, tức bài chép lại đây.
4. Một bài đăng trên Bách Khoa số 1.7.1961.
5. Và một bài đăng trên Tin Văn số 30.11.1966 (bài này sau in trong cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa – Tao Đàn – 1967).
Những bài đó càng về sau giọng càng gay gắt, sinh viên Đại học rất hoan nghênh[7], đã có lần muốn gom thành một tập với những bài của linh mục Bửu Dưỡng và của vài người khác, nhưng sau vì một áp lực nào đó phải bỏ dự định ấy.
Có tin đồn trường Y khoa sau đó – trường có một loại giáo sư quyết chia làm hai phía tranh giành nhau ảnh hưởng: phe giáo sư già do Pháp đào tạo và phe giáo sư trẻ ở Mĩ mới về; họ đều không muốn dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ. Nhưng tôi đoán nguyên nhân chính có lẽ là tại hạng giáo sư già vừa dở tiếng Việt, vừa ngại soạn bài bằng tiếng Việt, ngại giảng bằng tiếng Việt sẽ thua một số giáo sư trẻ hơn họ, địa vị thấp hơn họ, cho nên cố ngăn cản, trì hoãn được năm nào hay năm ấy.

[1] Đây là Quốc hội Sài Gòn trước năm 15 (BT).
[2] Chúng tôi chép nguyên văn. Đúng ra thì theo biên bản Quốc hội, ông Trần Văn Thông tuyên bố rằng:
“Việc dạy bằng Việt ngữ là điều dĩ nhiên”.
“Trước khi chuyển ngữ, chúng ta phải thống nhất danh từ khoa học…, danh từ khoa học có ít nhất là 20.000 tiếng”.
“Chúng tôi không thể thực hiện sự chuyển ngữ bằng tiếng Việt hoàn toàn cho niên khoá 1961-1962 mà sau một thời gian nữa”.
“Chúng tôi không muốn thí nghiệm trên lưng của học sinh”.
[3] Phạm Biểu Tâm (1913-1999) Thạc sĩ, giáo sư y khoa, nguyên quán tỉnh Thừa Thiên, tốt nghiệp y khoa Hà Nội, Thạc sĩ y khoa Pháp. Có thời gian ông giữ chức Khoa trưởng Đại học y khoa Sài Gòn. Ông là một trong những người muốn duy trì việc dạy học ngoại ngữ tại Đại học.
Năm 1999, ông mất tại Hoa Kì, thọ 86 tuổi. (BT).
[4] Bửu Dưỡng (1907-1977?): tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Dưỡng, bút hiệu Thiên Phong, linh mục Thiên chúa giáo, giáo sư triết học, sinh tại Huế ngày 13-7-1907, nhiều năm cư ngụ tại Sài Gòn.
Ông là tác giả nhiều sách triết học và từng giữ chức chủ tịch Hội bảo tồn cố đô Huế, Hội Quảng tri Huế.
Ông là một trong những người muốn dùng tiếng Việt ở Đại học. (BT).
[Theo bài Bửu Dưỡng (http://sachxua.net/forum/index.php?topic=2192.0) thì vị linh mục này sinh ngày 19-3-1907 tại Huế và mất ngày 1-1-1987 tại Thủ Đức. (Goldfish)]
[5] Hoàng Xuân Hãn (1908-1996): giáo sư khoa học, học giả, sinh năm 1908 tại Hà Tĩnh, du học ở Pháp từ năm 1928.
Tốt nghiệp trường Polytechnique, Paris, trường Cầu cống, Thạc sĩ toán, kĩ sư nguyên tử Pháp. Về nước dạy trường Bưởi, trường Đại học Hà Nội. Năm 1945 giữ chức Bộ trưởng Giáo dục – Mĩ thuật trong chính phủ Trần Trọng Kim.
Ông là tác giả nhiều sách trong đó có bộ Danh từ khoa học (1942) và Chương trình Trung học Việt Nam dạy và học bằng tiếng Việt.
[6] Kinh tế là do thành ngữ “Kinh bang tế thế” nghĩa là trị nước giúp đời – Chính ra là do Nhật dịch, Trung Hoa theo Nhật (chú thích khi chép lại).
[7] Trong Đời viết văn của tôi (ĐVVCT), cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết thêm: Nhất là loạt bài đăng trên Bách Khoa (1961), Tin Văn (1966) đả kích kịch liệt Bộ Giáo dục và Viện Đại học Sài Gòn không chịu dùng Việt ngữ làm chuyển ngữ ở Đại học. Những bài đó viết vào hồi tựu trường liên tiếp trong mấy năm làm cho một số giáo sư Đại học ghét tôi nhưng không thể trả lời tôi được; trái lại sinh viên rất thích và một số doạ sẽ gom các bài đó lại chung với các bài của các nhà khác cùng chủ trương in thành một tập riêng để phổ biến. Sau này (trong số Bách Khoa 426 ngày 20.4.75) bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhắc lại vụ đó, viết: “Còn nhớ bọn sinh viên chúng tôi vận động chuyển ngữ tại trường Y Khoa, ông (Nguyễn Hiến Lê) đã hỗ trợ bằng những bài báo nẩy lửa. Lúc đó giọng ông không còn cái giọng nghiêm túc, hiền lành, bình đạm thường ngày nữa mà sôi nổi, gay gắt, phẫn nộ, đầy kích động; giá có ai giật giấy bút của ông đi, tôi chắc ông sẽ lấy dao “viết lên đá” như Trần Dần đã nói”. Đúng vậy, trong đời viết văn, chưa bao giờ ngọn bút của tôi sắc bén như vậy”. (Trang 12-13).
Có lẽ văn hào Voltaire đã ảnh hưởng ít nhiều đến cụ Nguyễn Hiến Lê, một người cũng “mài ngọn bút cho bén để chiến đầu”, như lời cụ viết về “ông vua không ngôi” này vào năm 1959 (đăng trên Giáo dục phổ thông số 39, 40 – sau cho vào cuốn Gương chiến đấu), tức là chỉ trước bài đầu tiên cụ viết về vấn đề chuyển ngữ ở Đại học không đầy một năm. (Goldfish).
- 2 -
Tìm Một Giải Pháp Cho Ngành Xuất Bản Việt Nam
(Trước năm 1954, ngành xuất bản ở miền Nam tiến chậm nhưng đều đều. Sau Hiệp định Genève, một phần vì sự di cư trên 800.000 đồng bào miền Bắc, của nhiều cây bút Bắc, một phần vì tiếng Việt được dùng làm chuyển ngữ ở Trung học – từ năm 1952? – ngành đó phát triển mạnh mẻ, nhưng chỉ được 4-5 năm rồi bắt đầu suy.
Năm 1961, sau khi đọc cuốn L’Édition française au pied du mur của Paul Angoulvent – Presses Universitaires de France – 1960), tôi viết một bài dài 50 trang viết tay, đăng làm năm kỳ trên tờ Bách khoa từ số 100 ngày 1.3.61 đến số 104 ngày 1.5.61, trong đó tôi so sánh hai ngành xuất bản ở Pháp và ở Việt Nam[1].
Hai ngành đó lớn nhỏ khác nhau xa – của mình chỉ bằng 1/30, 1/40 của họ - nhưng cũng có những triệu chứng lâm nguy như nhau, cũng có những nhược điểm như nhau:
1. Sản xuất hỗn độn, thiếu một chương trình, các nhà xuất bản tư dẫm chân lên nhau, cạnh tranh với nhau, mà các cơ quan văn hóa công, bán công cũng chen lấn nhau nữa;
2. Một cách thức phát hành hỗn độn hơn nữa, từ lối chở sách đi phân phối cho các nhà bán sách, tới cách tổ chức bán sách… (từ bài I đến bài III).
Sau cùng tôi đưa ra một giải pháp, một kế hoạch cải cách, vạch trách nhiệm của các nhà sáng tác, các nhà xuất bản, các nhà phát hành, nhất là trách nhiệm của chính phủ (bài IV và V) trong việc khuyến khích sự đọc sách, giúp đỡ tư nhân trong những công việc văn hóa quan trọng mà tư nhân không đủ sức thực hiện, sửa đổi lề lối kiểm duyệt cực vô lí, không có đường lối gì cả.
Dưới tôi chép lại Đoạn kết gồm khoảng 4 trang viết tay của loạt bài đó). 
Chúng ta đã so sánh hai ngành xuất bản Pháp và Việt từ giai đoạn sáng tác tới giai đoạn bán lẻ. Chúng ta đã thấy hai ngành tuy lớn nhỏ khác nhau xa nhưng cùng lâm vào ngõ bí như nhau – tình hình của ta còn bi quan hơn tình hình của Pháp nhiều – cũng có những cái tệ như nhau mà cái tệ lớn nhất là sự hỗn độn do sự tự do cạnh tranh thiếu một chương trình hợp lý, dựa trên nhu cầu và lợi ích của nhân dân.
Như chúng tôi đã nói, có chính sách kinh tế của Việt Nam hơi giống của Pháp và sự bảo trợ văn hóa của chính phủ Việt Nam cũng như của chính phủ Pháp. Không có đường lối nhất định, nên tình trạng xuất bản của hai xứ cách xa nhau mới giống nhau đến bảy tám phần mười như vậy.
Chúng tôi đã xét kỹ những đề nghị của tác giả L’Édition française au pied du mur để cải thiện tình hình ở Pháp; chúng tôi đã rút những kinh nghiệm ở Pháp, Anh, Đức để rán tìm một giải pháp thích hợp với tình trạng nước nhà.
Tóm tắt lại thì giải pháp đó gồm những điểm chính dưới đây:
- Về phương diện sáng tác, các nhà cầm bút nên hiểu rằng không phải tác phẩm nào viết xong cũng đáng cho ra mắt độc giả ngay, nhất là trong lúc tình hình xuất bản khó khăn như lúc này; chỉ những tác phẩm nào chắc chắn bán được trên ngàn cuốn thì mới thu lại đủ vốn in thôi; vậy nếu có tác phẩm bán chậm mà muốn cho ra ngay thì nên quay ronéo, phí tổn sẽ nhẹ hơn.
- Về phương diện xuất bản, những nhà nào mà quyền lợi không tương phản nhau quá, nên hợp tác nhau lại để khỏi tản mác như ngày nay, gom lại còn độ mươi nhà thôi mà rút đi được nhiều phí tổn.
Các nhà xuất bản lại nên lập chương trình hoạt động để khỏi chen lấn nhau, thoả thuận với nhau về vấn đề giá cả và huê hồng, bỏ sự chở sách đi bán khắp nơi, mà chỉ cạnh tranh nhau ở điểm nghiên cứu thị trường cho kỹ, lựa tác phẩm cho cẩn thận, trình bày tác phẩm cho đẹp, in sao cho đỡ tốn 
- Về phương diện phát hành chúng tôi mong Nghiệp đoàn sẽ thành lập một hai cơ quan trung ương phát hành, được hết thảy các nhà xuất bản gia nhập để sự phát hành được phổ biến mà đỡ tốn, để có thể buộc các nhà sách đứng đắn phải chứa đủ các mặt sách và có chỗ riêng trưng bày những tác phẩm mới ra; có như vậy mới được hưởng số huê hồng nhất định của nhà bán sách chuyên nghiệp.
- Về phương diện hoạt động văn hóa của chính phủ, chúng tôi nghĩ chính quyền nên giải quyết gấp những điều dưới đây:
Sách giáo khoa ở tiểu học và trung học, những cuốn nào khó thì Sở Tu thư nên soạn lấy, còn thì để các nhà xuất bản đảm nhiệm dưới sự hướng dẫn của Sở và với điều kiện là phải bán theo giá mà Sở sẽ định. Giá đó sẽ thấp, huê hồng để cho nhà bán sách sẽ không trên 20%; như vậy sự cạnh tranh về giá cả giữa các nhà bán sách sẽ giải quyết được tức thì, giá trị của sách sẽ tăng, giá bán sẽ giảm mà chỉ trong một thời gian là vài năm, vấn đề sách giáo khoa sẽ giải quyết xong; chứ nếu Sở Tu thư làm lấy hết thì e mười năm cũng chưa hoàn thành.
Bỏ hết những trợ cấp lặt vặt đi mà gom hết khả năng để thành lập một cơ quan văn hóa thôi, hầu có thể thực hiện một chương trình văn hóa lớn: soạn những bộ Tự điển Việt Nam, Tự điển Bách khoa, Ngữ pháp Việt Nam, Sử ký, Địa lý… giải quyết vấn đề chuyển ngữ ở bậc Đại học, soạn những sách phổ thông cho quần chúng và dịch những danh tác thế giới. Sự thành lập cơ quan văn hóa đó kịp với chủ trương của người lãnh đạo quốc gia trong cuộc cải tổ cơ chế quốc gia sắp tới.
Chính phủ chỉ xuất bản lấy những bộ nào rất có giá trị mà tư nhân không thể xuất bản được; nếu có thể giao cho tư nhân thì nên giao.
Lập những quỹ tín dụng để cho các nhà xuất bản muốn vay tiền dài hạn – với sự đảm bảo nào đó – mỗi khi họ muốn thực hiện một công việc khá lớn có giá trị và có tính cách ích lợi.
Khuyến khích sự gởi sách báo qua Cao Miên, Pháp, Thái… bán cho kiều bào.
Những đề nghị đó chúng tôi châm chước kế hoạch của Paul Angoulvent và sửa đổi cho hợp với tình trạng nước nhà. Nó không có gì là viễn vông, rất có thể thực hiện được nếu từ chính quyền tới tư nhân, từ các nhà soạn sách tới các nhà xuất bản, phát hành, bán sách đều nghĩ rằng sách không phải là một món hàng như mọi món hàng khác, rằng nó liên quan mật thiết tới sự thịnh suy của quốc gia. Nghĩ rồi lại phải hành động đúng ý nghĩ của mình nữa, chứ không phải chỉ tuyên bố suông.
Bất kỳ trong công việc gì, vấn đề người vẫn quan trọng hơn hết; phương pháp, chương trình, luật lệ… có tốt mà con người hỏng thì cũng hoá xấu. Cho nên sự thịnh suy của ngành xuất bản tuỳ thuộc sự tự giác của các nhà xuất bản, từ nhà văn tới nhà bán sách.
Nếu những nhà đó không biết tự giác lúc này thì sớm muộn gì quốc dân cũng bắt họ phải tự giác.
Ông Paul Angoulvent trong đoạn kết viết:
“Chưa tới mười năm nữa đâu, là những đề nghị của chúng tôi trong cuốn sách này sẽ hoá ra rụt rè; và chỉ nội hai chục năm nữa là nó hoá lỗi thời. Muốn nhận thấy điều đó chỉ cần nhìn đám thanh niên đương lên – thanh niên của Pháp, thanh niên của thế giới.
“Khắp nơi lời kêu gọi như nhau: trước hết là sống đã đành rồi, nhưng đồng thời cũng học nữa. Từ trẻ em cho tới những người chất phác (…) ai cũng mong được hiểu biết, coi sự hiểu biết là cái chìa khoá thần diệu mở cho ta một thế giới đẹp hơn. Và nhà cầm quyền nào cũng biết rõ rằng không thể trì hoãn lâu sự thoả mãn cái thị dục nồng nhiệt đó.
“Có thể tin được mảy may rằng sự giáo dục quốc dân đã bắt đầu phát triển về bề sâu, mà những người sản xuất và bán sách vẫn chỉ nghĩ tới sự làm giàu không? Tuyệt nhiên không (…) Họ sẽ có những trách nhiệm này (…) Càng ngày người ta càng đòi hỏi ở họ nhiều thêm (…), đòi hỏi họ thực hiện được cái lợi ích công cộng với một sự trả công vừa phải.
“Chúng ta đã tới cái khúc quẹo của lịch sử mà chúng ta hoặc là phải tự cải cách mình, hoặc là đành lòng rút lui đi. Vì các nhà chuyên nghiệp (…) chỉ có thể độc lập được – (ông muốn tránh tiếng tồn tại chăng?) – nếu quốc dân xét rằng họ đáng được độc lập”.
Lời tiên đoán đó làm cho chúng ta sợ. Lời đó đúng ở Pháp một thì đúng ở ta hai, ba. Bạn có thấy cao trào ham học của thanh niên Việt Nam sau già nửa thế kỉ bị nén xuống, lúc này tràn dâng lên vì số học sinh tăng lên ghê gớm. Tôi vẫn biết rằng một số lớn phóng túng mà ở đây tôi không xét trách nhiệm về ai. Nhưng thế nào một ngày kia – không tới mười năm nữa đâu như ông Paul Angoulvent đã tiên đoán – một ngày kia bệnh đó sẽ qua khỏi và tất cả sẽ hăng hái tìm học, sẽ đòi hỏi những sách đứng đắn, bổ ích mà giá tiền vừa phải.  Lúc đó họ sẽ luận công hay tội của ta đây? Muốn đón trước thời đại hay lùi lại sau, muốn sao cũng được, nhưng phải quyết định, dự bị ngay từ bây giờ đi; vì có muốn rút lui thì cũng phải dự bị sao cho có trật tự!
Sài Gòn ngày 10.2.1961
Chú thích:
[1] Năm 1961 cũng là năm cụ Nguyễn Hiến Lê bắt đầu “hi sinh việc xuất bản để có thì giờ viết”. Cụ bảo: “Vào khoảng 1961, khi đã mua được ngôi nhà và khoảnh vườn nhỏ ở đường Kỳ Đồng, tôi hạn chế cả công việc xuất bản để hết thì giờ vào việc trứ tác, thành thử có nhiều cuốn độc giả đòi hỏi mà tôi không in lại. Mấy năm sau nhà xuất bản Khai Trí, rồi nhà xuất bản Thanh Tân thấy vậy, xin tôi để cho họ tái bản. Tôi bằng lòng liền, để cho nhà Khai Trí trên 10 cuốn, nhà Thanh Tân trên 20 cuốn, vài nhà khác mỗi nhà dăm ba cuốn. Ngay một số tác phẩm mới viết xong tôi cũng không muốn tự xuất bản nữa và bán bản quyền cho các nhà Lá Bối, Cảo Thơm, Tao Đàn, Ca Dao, Trí Đăng…”. (ĐVVCT - trang 141) (Goldfish).
- 3 -
Vấn Đề Thông Cảm Lẫn Nhau Giữa Chính Quyền Và Nhân Dân
Ngày 15.10.61, đoàn sinh viên Công giáo Sài Gòn đã tổ chức tại Câu lạc bộ sinh viên Phục Hưng một cuộc nói chuyện về vấn đề “Trách nhiệm người sinh viên trong xã hội hiện tại”. Hai vị Linh mục Kim (Paul Seitz) và Trần Văn Thiện lên diễn đàn, đại ý khuyên sinh viên phải có tinh thần trách nhiệm, phải nghĩ tới cái “bien commun”; và để chứng tỏ rằng tinh thần trách nhiệm hiện nay không được phổ biến lắm, rằng ít người ý thức được thế nào là cái “bien commun”, thành thử công việc chống chiến tranh du kích chưa có hiệu quả được như ý, hai vị đã dẫn ra vài trường hợp thiếu tinh thần trách nhiệm và phục vụ trong giới quân nhân và công chức.
Một thính giả - ông Trương Công Cừu[1] – ngờ rằng hai vị Linh mục có ý phê bình chính quyền, và đứng lên khuyên thanh niên có phê bình thì phải có tinh thần thông cảm và xây dựng.
Mới đọc qua bài tường thuật, tôi thấy ý kiến của thính giả đó rất đúng. Sự phê bình chính phủ phải có đủ hai điều kiện: thông cảm và xây dựng thì mới sáng suốt, khỏi có thiên kiến, mới có ích cho chính quyền và nhân dân. Quy tắc là như vậy.
Tuy nhiên khi áp dụng, chúng tôi thấy có điểm cần phải bàn thêm. Thế nào là có tinh thần xây dựng, thông cảm, thế nào là không?
Trong trường hợp dân chúng thấy một lỗi lầm hay một sơ sót của một vài nhân viên chính quyền, thẳng thắn vạch ra, tìm nguyên nhân ở đâu rồi đề nghị một biện pháp hữu lý ít hay nhiều để cải thiện tình trạng thì sự phê bình là có tính cách xây dựng rồi.
Nhưng nếu thấy lỗi lầm hay sơ sót mà chỉ vạch ra thôi, không tìm nguyên nhân, không đưa ra biện pháp, thì là có tính cách xây dựng hay không?
Chắc vị thính giả đó cho là không, nên trong buổi họp đó ông mới thốt ra lời chúng tôi đã dẫn ở trên, thâm ý là để trách hai vị Linh mục.
Theo chúng tôi nghĩ thì trường hợp thứ nhì cũng vẫn có tính cách xây dựng.
Vì có khi chỉ cần vạch ra một tình trạng là tự nhiên người ta kiếm ra được nguyên nhân và biện pháp. Chẳng hạn khi Linh mục Kim phàn nàn rằng “Người ta đã phát giác biết bao vụ tham nhũng của các công chức, cán bộ chính quyền. Chính tôi cũng bị tống tiền cách đó. Chúng tôi xin giấu tên người công chức ty thuế vụ nọ ở địa phận tôi, là người công giáo nữa. Họ đến đề nghị, nếu tôi đưa cho họ một số tiền bao nhiêu đó thì họ sẽ giảm thuế cho tôi về một việc gì đó…” thì Linh mục chẳng cần tìm nguyên nhân cùng biện pháp mà chính quyền và quốc dân cũng hiểu được nguyên nhân ở đâu và biện pháp ở đâu rồi.
Lại như khi Linh mục Thiện kể cho ta nghe câu chuyện tiếp đón một nhân vật cao cấp nọ, vì thiếu tổ chức, mà có vài trẻ em đứng đợi giữa lộ từ 7 giờ đến 10 giờ, say nắng mà bất tỉnh, thì Linh mục cũng chẳng cần đưa biện pháp mà chúng ta cũng hiểu biện pháp ở đâu. Như vậy thì những lời chỉ trích của hai vị Linh mục, theo thiển kiến của tôi, vẫn là có tính cách xây dựng.
Huống hồ ta còn nên hiểu thêm điều này nữa: có những trường hợp dân chúng không có đủ trí thức về kỹ thuật để tìm ra nguyên nhân cùng biện pháp. Chẳng hạn nếu bây giờ có cái nạn các đồ ngoại hoá cần thiết tăng giá vùn vụt, nhân dân ai cũng thấy là hại, nhưng mấy ai đã đủ trí thức về kinh tế, về ngoại thương, cách thức viện trợ… để tìm ra được nguyên nhân cùng biện pháp? Nếu nhân dân phàn nàn mà trách họ rằng không đưa biện pháp tức là không có tinh thần xây dựng thì có khác gì bịt miệng họ không?
Vậy thì theo tôi, không thể dựa vào tiêu chuẩn đó – có đưa nguyên nhân cùng biện pháp hay không – để định được lời chỉ trích nào là có tính cách xây dựng hay không. Chỉ cần có sự thông cảm thôi, hễ chỉ trích mà có tinh thần thông cảm là luôn luôn có tính cách xây dựng, dù không đưa ra nguyên nhân cùng biện pháp cũng không sao. Chính quyền sẽ tự tìm lấy nguyên nhân và biện pháp. Nhân dân chỉ có bổn phận đưa ra những nguyện vọng của mình thôi, và làm tròn được bổn phận đó tức thị là đã giúp chính quyền được một phần rồi.
Nhưng thế nào là có tinh thần thông cảm? Ai cũng hiểu rằng đặt mình vào địa vị của người để tìm hiểu người là thông cảm với người. Nhân dân đối với chính quyền cũng vậy; phải tìm hiểu những nỗi khó khăn của chính quyền mà đừng nhất nhất việc nhỏ nhặt gì cũng trách cứ chính quyền, đừng đòi hỏi những điều mà chính quyền chưa thể thực hiện ngay được; như vậy là có tinh thần thông cảm.
Còn về cái giọng phê bình của người dân thì chính quyền cũng nên hiểu tâm lý của dân. Đã đành giọng càng bình tĩnh, càng lễ độ thì lời phê bình càng có giá trị, càng dễ sáng suốt. Tuy nhiên có những trường hợp bất bình quá thì không ai dễ gì nén được nỗi chua chát; lại có khi giọng có chua chát thì mới thấm tai người nghe. Trong trường hợp đó, chính quyền cũng không nên chỉ xét giọng nói mà trách nhân dân là không thông cảm với chính quyền.
Chúng tôi xin lấy thí dụ về Linh mục Thiện. Sau khi kể chuyện mấy em bé phải đứng đợi giữa lộ từ 7 đến 10 giờ, say nắng té xỉu, Linh mục nói:
“Ai chịu trách nhiệm về công chuyện đó? Tưởng một lần thôi, ai ngờ lần nào cũng vậy. Làm đến công chức to lớn mà không dám can thiệp gì, làm chức đó làm gì?
“Cũng chẳng riêng gì chính quyền. Một lần phải[2] rước một đấng Giám mục cũng vậy. Hẹn một giờ chiều song vì phải ghé dọc đường, đến sáu giờ mới đến… Làm cho cả mấy họ đạo lên ruột…”.
Rõ rằng là giọng phẫn uất. Có thể rằng Linh mục Thiện đã không thông cảm, nhưng chính mấy lần những người tổ chức các cuộc tiếp rước đã không thông cảm với những người “phải” đi tiếp rước (tiếng phải là của Linh mục), thì Linh mục tất phải có giọng đó. “Bất đắc kỳ bình tắc minh”, ai mà nỡ trách Linh mục?
Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng: khi phê bình, không nhất định phải đưa những nguyên nhân cùng biện pháp cho vấn đề mới là có tính cách xây dựng, chỉ cần thông cảm nỗi khó khăn của chính quyền thôi; còn như giọng phê bình nếu nhã nhặn, bình tĩnh được thì càng quý, nếu không thì cũng chưa nhất định là thiếu tinh thần thông cảm.
Nhưng vấn đề không phải chỉ có bấy nhiêu thôi. Chúng tôi muốn xét rộng thêm nữa. Nhân dân cần thông cảm với chính quyền thì chính quyền cũng nên thông cảm với nhân dân.
Tôi nhớ mười mấy năm trước, một lần lại thăm một tỉnh nọ, tôi được nghe nhiều người phàn nàn rằng một ông trưởng ty nọ rất liêm khiết mà sao lại trọng dụng một người phụ tá vào hàng mọt dân. Tôi nghĩ tình cố tri lại cho ông trưởng ty nọ hay những tiếng đồn ấy để ông tìm ra sự thực rồi thay đổi thái độ, vừa giúp được dân, vừa khỏi mang tiếng cho ông. Tôi nói:
- Tôi mới tới đây vài ngày mà đã nghe dân đồn rằng nhân viên X của anh ăn hối lộ. Ai cũng trọng anh là thanh liêm, không ai nghi ngờ anh bênh vực cho ông ta đâu, chắc là tại anh không rõ sự thực đấy thôi. Tiếng đồn đó đã đến tai anh chưa?
- Đến tai tôi từ lâu rồi. Nhưng người ta phải đưa chứng cớ ra thì tôi mới trừng trị ông ta được.
- Anh nói như vậy cũng phải. Nhưng anh cũng nên xét tình cảnh của dân chúng. Trong một tỉnh nhỏ như tỉnh này, nhân viên đó của anh tất nhiên là quen hết thảy những người có học thức và có uy quyền ở đây, không khi nào dám ăn hối lộ của những người đó. Chỉ có bọn con buôn và bọn dân đen là bị vắt sữa thôi. Bọn con buôn thì không bị thiệt gì cả, họ chịu “câu khoản” càng cao thì họ lại đập vào người mua càng nặng. Chung quy chỉ có dân đen là khốn đốn. Mà chúng ta thử đặt vào địa vị của một nông dân, một người buôn gánh bán bưng, chúng ta có dám đưa chứng cớ ra để tố cáo một nhân viên giao thiệp rộng, khá có quyền thế như vậy không? Dù chứng cứ có rõ ràng đi nữa, chắc gì đã thắng? Mà nếu thắng thì cùng lắm là họ phải đổi đi chỗ khác mà mình cũng phải bán xới chứ ở lại làm sao được. Vì họ đi thì còn tay sai, bạn bè họ ở lại, sẽ tìm cách trả thù giùm cho chứ? Tôi tưởng khi nghe thấy nhiều người đồn quá thì anh có thể tin rằng lời đồn có phần nào đúng và một là anh khuyên nhủ nhân viên của anh, hai là anh cho kẻ điều tra ngầm, chứ đợi dân chúng đưa chứng cớ ra mới hành động thì không bao giờ anh có cơ hội giúp dân chúng được đâu. Phải cảm thông tình cảnh của họ mới được.
Ông bạn tôi cau mày, nhìn thẳng vào mắt tôi, hỏi gặng:
- Anh nói khuyên nhủ? Nghĩa là cảnh cáo chứ gì? Hắn là nhân viên đắc lực nhất của tôi, mà không có chứng cớ anh bảo tôi phải cảnh cáo? Vô lý! Còn như điều tra? (Ông nói câu này bằng tiếng Pháp, mà tới bây giờ tôi còn nhớ rõ, nhớ từng lời một và nhớ cả cái giọng rất mỉa mai nữa) Vous voulez que je joue le rôle de Don Quichotte?
Tôi mỉm cười rồi thôi không bàn tới việc đó nữa.
Mới tháng trước, đọc mục Nói hay đừng trên báo Tự Do, tôi thấy một người dân ở một tỉnh nọ nêu lên trường hợp về sự lạm hành của vài nhân viên chính quyền địa phương, để góp ý kiến về vấn đề an ninh nông thôn. Đọc bài đó tôi thấy những sự kiện nêu ra rất có thể tin được, lời lẽ lại ôn tồn mà tinh thần xây dựng rất cao. Tôi mừng rằng đồng bào đã có những người lưu tâm đến việc nước, đến cái “bien commun” mà nhận cái việc không công là làm tai mắt cho chính quyền.
Nhưng sáu bữa sau, tôi ngạc nhiên làm sao khi thấy trên mục Nói hay đừng của nhật báo đó hai bức thư của hai nhà cầm quyền địa phương, một bức yêu cầu tác giả bài báo đưa những chứng cứ rõ ràng ra, một bức lại mời tác giả tới văn phòng của nhà cầm quyền để “góp thêm ý kiến”.
Lời lẽ hai bức thư cực kỳ nhã nhặn, nhưng tôi chắc rằng người dân nào đó tất cụt hứng, không còn dám góp ý kiến về việc nước nữa. Trường hợp này cũng tương tự như trường hợp tôi mới kể ở trên.
Và tôi khen thái độ của toàn soạn Tự Do. Toà soạn trả lời hai nhà cầm quyền nọ, đại ý rằng nhà báo chỉ có bổn phận “chuyển đạt tiếng nói của dân” lên chính quyền, khi xét rằng những tiếng nói đó có lý, có căn cứ một phần nào, chứ “không phải là cơ quan thanh tra, cũng không phải là một tổ chức chỉ điểm”, và xin phép hai nhà cầm quyền cho nhà báo giữ bí mật nghề nghiệp.
Không rõ vụ đó kết thúc ra sao.
Tuần trước, nhân gặp một ông bạn trong chính quyền, địa vị cũng khá cao, tôi đem vấn đề đó ra bàn. Tôi hỏi:
- Chính quyền nào mà sáng suốt thì dù dân chủ hay quân chủ cũng cho dân quyền góp ý kiến, tỏ thắc mắc. Đó là chính sách của “Ngô Tổng thống” cho nên mới có một cơ quan chuyên thu thập dân ý để đạt lên Tổng thống. Tôi tin rằng người dân nào trong tình trạng khẩn cấp này cũng sẵn sàng góp ý với chính quyền, hơn nữa, còn cho đó là một bổn phận của mình; nhưng bắt người ta phải đưa chứng cớ, phải vạch mặt chỉ tên ra như vậy, thì ai dám, hở anh? Nếu anh không ở trong chính quyền, chỉ là một thầy giáo làng hay một nông dân thì anh có dám không?
Ông bạn tôi đáp liền:
- Anh bảo chúng tôi phải tự đặt và địa vị của dân chúng, nhưng dân chúng cũng phải tự đặt vào địa vị chúng tôi chứ? Nếu ai cũng tố cáo, cũng chỉ trích mà không cần đưa chứng cớ thì có nhân viên nào mà không bị tố cáo, loạn mất rồi còn gì? Anh đừng nên quên rằng có những kẻ chuyên khuấy phá, manh tâm chia rẻ chính quyền với nhân dân.
- Anh nói cũng có lý. Nhưng xin anh nghe tôi kể hai trường hợp có thiệt.
Rồi tôi kể trường hợp nhân viên của ông trưởng ty trên kia với trường hợp đăng trên báo Tự Do; xong rồi tôi hỏi:
- Gặp những trường hợp đó anh hành động ra sao?
- Bắt phải đưa chứng cớ!
Tôi nói lảng qua chuyện khác. Tôi đã có kinh nghiệm rồi. Có những người rất ít thắc mắc, hễ đã tin điều gì là đúng thì tin chắc nó, không bàn luận gì với họ được.
Đa số, có thể nói 99%, dân chúng nước ta chỉ cần sự yên ổn và rất sợ chính quyền. Chỉ khi nào uất ức lắm người ta mới lên tiếng. Khi nghe được một lời phàn nàn nào của dân thì mười lần tới chín lần, nhà cầm quyền có thể chưa cần điều tra cũng biết ngay lời đó có lý phần nào không hay chỉ là hoàn toàn vu cáo. Nếu thấy có lý thì cho điều tra, mà tìm ra sự thực, nếu thấy không có lý thì bỏ đi, hoặc cho điều tra để tìm ra kẻ nào đã loan tin thất thiệt, rồi cảnh cáo họ, cảnh cáo không chừa thì trừng trị. Chỉ có vậy dân mới dám góp ý kiến với chính quyền, chứ nếu bắt nhất thiết sự kiện nào cũng phải đưa chứng cớ thì chúng tôi e dân chúng sẽ phải ngậm miệng mất. Không có biện pháp nào hoàn toàn cả. Lợi ở đây thì hại ở kia. Nhưng trước khi đòi dân chúng phải thông cảm với chính quyền – như ông Cừu đã tuyên bố - thì chính quyền nên tỏ đại lượng mà thông cảm với dân chúng trước đi đã. Đó là cái lẽ cư xử của người trên.
Chúng ta may mắn được sinh vào thời mà những phương tiện thông tin cực kỳ phát triển, vừa tiện lợi, vừa phổ biến, được sinh vào một nước mà quyền tự do phát biểu ý kiến được tôn trọng, đâu đâu cũng có những thùng thư dân ý; vậy mà người dân vẫn có cái cảm giác là thấp cổ bé miệng, đắn đo biết bao nhiêu rồi mới dám e dè thổ lộ một chút xíu nỗi khổ tâm của mình, thậm chí những vị có đức, có uy tín như hai vị Linh mục Kim và Thiện mà chỉ mới vạch vài lỗi lầm của một số người có trách nhiệm đã bị trách là thiếu thông cảm, thiếu xây dựng, thì xin độc giả thử tưởng tượng nỗi lòng của người dân thời xưa mới là tối tăm bi đát, đến đâu! Tạp chí Quê hương số 28 – tháng 10.1961 – trong mục Quan điểm có câu: “Cưỡng chế là yếu tố căn bản trong mọi chế độ chính trị”. Đúng như vậy?
Sài Gòn ngày 8.11.61
(Bài này đưa cho báo Mai, nhưng ông Hoàng Minh Tynh
không đăng, vì ngại làm lớn chuyện mà hai Linh mục
Kim và Thiện bị bề trên hay chính quyền trách móc)[3]
Chú thích:
[1] Ông Trương Công Cừu nguyên Bộ trưởng Bộ Đặc trách Văn hoá thời đó ở miền Nam (BT).
[2] Chính chúng tôi cho in nghiêng.
[3] Trong ĐVVCT – trang 239, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo bài này “bị kiểm duyệt bỏ trọn”. (Goldfish).
- 4 -
Vấn Đề Tư Thục
(Bài này là bài cuối trong loạt năm bài nhan đề là Phải mạnh bạo cải tổ nền giáo dục Việt Nam đăng trên Bách Khoa từ 1.5.62 đến 1.7.62[1]. Trong số đó, tôi phần tích:
1. Chương trình Trung học 1958 và những cải cách năm 1961 của Bộ Quốc gia Giáo dục (số 1.5.62).
2. Rồi xét đề nghị của ông Nguyễn Được, đưa đề nghị của tôi mà nguyên tắc là phải dân chủ và thực tế (số 15.5.62).
3. Để áp dụng vào bậc Tiểu học và Trung học (số 1.6.62).
4. Áp dụng vào bậc Đại học (số 15.6.62).
5. Bài cuối xét vấn đề tư thục (số 1.7.62) mà tôi trích lại dưới đây).
Muốn cải tổ nền giáo dục của chúng ta lúc này mà không xét vấn đề tư thục thì thật là thiếu sót. Nghĩ vậy chúng tôi viết thêm bài này:
Từ năm 1950 đến năm 1953, một ông bạn tôi dạy Việt văn và Pháp văn tại một trường nọ ở miền Hậu Giang[2]. Học sinh ở một tỉnh nhỏ thời đó xét chung rất dễ thương, tình thầy trò thật mặn mà. Ông ta chỉ bất mãn một điều là có một số - năm sáu trò mỗi lớp mà mỗi lớp hồi đó chỉ có ba bốn chục trò – sức học kém quá, mặc dầu gắng sức cũng không theo nổi chương trình. Ông khuyên phụ huynh các em đó nên cho chúng ở lại, các vị đó không chịu; ông giảng giải cho các em, các em cũng không dám cãi nhưng cũng không nghe; rồi ông đề nghị với ông hiệu trưởng cho các em ấy ở lại, ông hiệu trưởng gạt đi vì sợ mất lòng phụ huynh học sinh. Bực mình ông xin thôi, nghĩ rằng không thể vì một số tiền năm sáu trăm ngàn đồng mỗi tháng mà làm một việc trái với quy tắc sư phạm, trái với lương tâm được. Đơn gởi ba lần mới được chấp nhận.
Rồi ông lên Sài Gòn mưu sinh. Nhưng mới lên Sài Gòn, chưa chắc đã kiếm tiền được ngay, ông tìm chỗ tạm dạy tư trong một hai năm, dạy ít thôi để có thì giờ tính việc khác. Có người sẵn lòng nhường hai chục giờ Việt văn ở những lớp đệ tứ, đệ ngũ. Khi hỏi số học sinh và cái “huấn phong” ở các tư thục Sài Gòn này thì ông ngại quá, bảo tôi: “Anh tính mỗi lớp 70 trò là ít, mà dạy học thì phải giảng cho thật “hấp dẫn” từ đầu giờ tới cuối giờ. Ở Lục tỉnh đâu có vậy! Như thế thì phải hò hét 25 giờ mỗi tuần – mỗi kép hát dù là vai chánh, tổng cộng lại phải ê a khoảng một giờ mỗi đêm thôi vì còn những vai khác nữa – rồi cứ hai tuần phải chấm khoảng 400 bài luận. Tôi tự xét không kham nổi, đành rút lui lập tức. Thà chịu bóp bụng chứ không thể bán phổi như thế được”.
Đó là tình trạng dạy tư cách đây chín mười năm.
Mới đây các bạn giáo sư của tôi lại bảo: thời 1953 đó dạy tư như vậy còn là sướng như tiên, bây giờ mới thực là cực như mọi. Là vì hồi đó dạy Việt văn đệ tứ có thể lãnh được 100 đồng một giờ, lớp học nhiều lắm là 70, 80 trò, mà học sinh thời đó không đến nỗi kém lắm, lại tương đối có kỷ luật. Bây giờ học sinh đông hơn: 120, 150, 170 không chừng, bảy tám phần mười không theo nổi chương trình, một số ngỗ nghịch, mà tiền thù lao chỉ có 80, 90 đồng một giờ, có nơi chỉ 50 đồng, có nơi lại chỉ 30 đồng, nghĩa là giảm đi từ 30 đến 70% trong khi giá sinh hoạt tăng từ 1953 đến nay ít nhất là 50%. Dạy học như vậy quả thực là làm mọi. Tôi nghe nói có những ông 50 tuổi mà phải dạy trên 40 giờ một tuần, dạy ba bốn trường, trường ở tỉnh này, trường ở tỉnh khác, thành thử 5 giờ sáng đã phải ra bến xe, vậy mà trong túi không khi nào có trên 100 đồng, đến nỗi một bọn lưu manh nọ uy hiếp ông ta ở giữa đường, moi ví ông thấy có 30 đồng, phải thốt lên một câu tục tỉu: “Đ.m., giáo sư gì mà nghèo như vậy!”.
Nói cho đúng, chỉ một số giáo sư nghèo như vậy thôi. Đa số kiếm được 4-5 ngàn đồng một tháng, tạm đủ ăn; một số nữa trung bình một vạn một tháng, sống phong lưu nhưng bấp bênh vì hễ đau luôn một hai tháng là nguy; và một số ít hốt bạc rất nhiều, ba bốn vạn một tháng hoặc hơn nữa. Nhưng xét kỹ thì hết thảy đáng thương; họ phải bán phổi và bán cả lương tâm đi, họ phải làm từ đầu giờ đến cuối giờ, có ngày đến tám giờ và cả năm họ chỉ nghĩ được mươi bữa vào dịp Tết và nửa tháng vào dịp hè; họ phải chiều học sinh và làm ngơ trước những lỗi của học sinh. Học sinh không học bài, họ không dám rầy; họ không có thì giờ để sửa bài, biết như vậy là “đếm giờ ăn tiền” đấy, là không phải cái đạo ông thầy, nên một số chỉ mong sớm thoát ly được nghề và nếu có phương tiện nào khác để mưu sinh, chẳng hạn nuôi gà, làm vườn, bán sách… thì họ sẽ đoạn tuyệt với tư thục liền.
Tình trạng đó do đâu? Tại sao một nghề mà dân tộc nào, thời nào cũng coi là cao quý lại đến nỗi như vậy? Tại tư thục của ta hiện nay tự do quá, mà ngành tư thục thành một ngành bán buôn.
Mới đầu, tức vào khoảng 1950 gì đó, những người đứng ra mở tư thục chắc có ít nhiều lương tâm. Nhưng rồi học sinh tăng lên mau quá, họ kiếm tiền dễ quá, lương tâm của họ mờ đi một chút. Hễ kiếm ăn được thì tất có nhiều người nhảy ra cạnh tranh. 
Bị cạnh tranh gắt quá, các ông hiệu trưởng có chút lương tâm một là phải rút lui, nhường cho kẻ kia tha hồ múa gậy, hai là nén cái lương tâm thêm một chút nữa để có thể tồn tại. Gần đây một số nhà mô phạm danh tiếng, muốn cứu vãn tình thế, hùn vốn hùn công với nhau mở một tư thục đứng đắn, định làm kiểu mẫu, nhưng chỉ vài tháng sau phải đóng cửa. Không thể nào chống nỗi những phép thần của một số tư thục khác được, chẳng hạn “phép” dùng một lũ học sinh “cao bồi” cho vào phá các trường đứng đắn, phép dùng nữ sinh kiều diễm để “hấp dẫn” nam sinh, nhất là phép hạ học phí. Như trên tôi đã nói, trong khi mức sinh hoạt tăng lên ít nhất là 50% thì học phí lại rút từ 30% đến 70%. Tôi nghe nói có lớp đệ thất hiện nay chỉ thu học phí chỉ có 90 hay 70 đồng một tháng. Tới cái nỗi giáo dục cũng đem bán xon như tiểu thuyết kiếm hiệp thì người nào có chút lương tâm đâu còn dám bỏ vốn ra mở trường nữa? Thành thử tình trạng tư thục mấy năm nay cứ mỗi ngày mỗi bi đát thêm.
Truy nguyên lên nữa thì lỗi còn ở phụ huynh học sinh. Nghề mở tư thục là một nghề buôn bán, không có người mua sao có người bán? Người mua thời này phần đông chỉ ham rẻ, cho nên mới có những người chuyên làm tồi hơn một chút để bán rẻ hơn một chút mà câu khách hàng. Nhưng xét kỹ thì phụ huynh học sinh chỉ chịu trách nhiệm một phần nhỏ thôi. Trước hết đa số ít học, không kiểm soát được sự học của con em; họ thấy tư thục được phép mở là tin cậy ở chính quyền, ở nhà trường, yên tâm gởi con em lại. Một số ít có học, thấy sự thối nát của tư thục, nhưng may mắn con em được vào trường công thì lên tiếng làm gì cho mệt; cũng có người lên tiếng, nhưng luôn mấy năm trên mặt báo nào cũng có lời kêu ca, mà vấn đề vẫn không hề nhúc nhích, riết rồi phải chán; trách nhiệm là trách nhiệm chung, đâu phải của riêng ai.
Lại truy nguyên lên nữa, ta thấy Bộ Quốc gia Giáo dục cũng có chỗ đáng chê vì không kiểm soát chặt chẽ các trường tư. Tôi biết Bộ ở vào một hoàn cảnh cực khó khăn. Số học sinh trong mười năm nay tăng lên mau quá – có lẽ gấp mười chứ không kém – ngân sách lại ít, nhân viên cũng ít, nội việc mở trường tiểu học cho mọi trẻ em có thể được hưởng một nền giáo dục căn bản cũng đã làm không xuể, rồi còn trung học, đại học nữa, bất kỳ cấp nào cũng thiếu trường, thiếu giáo sư, làm sao xoay sở cho kịp? Mới năm ngoái năm kia gì đây mà nhiều trường trung học công lập hoặc bán công còn phải tạm dùng một số giáo sư chỉ có tú tài I[3] thì làm sao Bộ có thể cung cấp những giáo sư đủ điều kiện văn bằng cho các tư thục được? Đã không cung cấp được thì còn trách người ta vào đâu được?
Vậy thì chính hoàn cảnh gây nên tình trạng hỗn độn hiện nay, mà từ Bộ tới phụ huynh học sinh, tới các tư thục đều chịu trách nhiệm một phần nào thôi.
Nhưng chỉ đổ lỗi cho hoàn cảnh thì dễ quá. Chúng ta phải tìm một giải pháp nào để cải thiện hiện trạng chứ.
Ông Bộ trưởng Nguyễn Quang Trình chắc đã nghĩ vậy, nên đầu năm nay đã ra một thông cáo “trân trọng yêu cầu quí vị Hiệu trưởng tư thục đặc biệt lưu tâm đến vấn đề tuyển dụng giáo chức mới và điều chỉnh tình trạng giáo chức cũ (cần hội đủ điều kiện tuổi và văn bằng). Kể từ niên khoá 1961-63, những giáo sư nào không có giấy phép dạy học sẽ coi như hành nghề không hợp pháp”. Ở đoạn đầu thông cáo đó ông còn khuyên các vị hiệu trưởng phải chú trọng đến hành vi chính trị và tác phong đạo đức của giáo chức nữa.
Tôi nhớ đâu như hai năm trước Bộ đã ra một thông cáo đại ý như vậy, nhưng rồi không áp dụng, nghĩa là gần như không kiểm soát gì cả mà những giáo chức không đủ điều kiện vẫn tiếp tục dạy như thường. Không biết lần này Bộ nhờ tinh thần hăng hái của ông tân Bộ trưởng có thâu được kết quả nào không. Trong khi chờ, chúng ta cũng nên góp ý kiến với ông.
Như trên tôi đã nói, gây ra cái nông nỗi này, không phải chỉ tại giáo sư (tôi thu hẹp vào bậc Trung học vì cái tệ lớn nhất là ở bậc này, chứ không phải ở bậc Tiểu học) và các hiệu trưởng, mà còn tại quy chế tư thục và tại hoàn cảnh. Vậy muốn cải thiện tình trạng thì phải nhận định hoàn cảnh và bám thẳng vào quy chế tư thục.
Ông Hiếu Châu đã nhận định gần thấu đáo khi ông đề nghị (trong bài Trở lại vấn đề tư thục – Tự Do 24.2.62): “…chính quyền cũng như nhân dân phải đặt ra vấn đề lọc đãi, kiểm soát, không riêng đối với giáo sư mà còn đối với cả hiệu trưởng và học sinh nữa: giáo sư dù có đầy đủ khả năng và kinh nghiệm nhưng nếu vẫn còn những “lớp cá hộp”, vẫn còn “phong trào học nhảy”, “học tủ”, vẫn còn chế độ cai thầu qua sự trung gian của những “giám học” côn đồ chuyên nghĩ đến phép cạnh tranh bất chính để triệt hạ đồng nghiệp, để bóc lột giáo sư và học sinh nhằm vét lợi cho các hiệu trưởng và cho chính họ thì vấn đề tư thục vẫn còn nguyên vẹn là một kinh doanh đầu cơ trục lợi”.
Quả thực như vậy: một thông cáo “trân trọng yêu cầu quý vị Hiệu trưởng tư thục” lưu tâm đến vấn đề tuyển dụng giáo chức và dặn kỹ rằng giáo chức nào không có giấy phép sẽ coi như hành nghề không hợp pháp, một thông cáo như vậy dù áp dụng triệt để, vẫn chưa giải quyết hết vấn đề.
Mà làm sao áp dụng cho triệt để được? Nếu áp dụng triệt để thì có lẽ phải loại đi già nửa giáo sư tư thục hiện nay. Kể ra trong nước không phải không có người để thay, nhưng những người này muốn dạy tư thì đã dạy từ lâu rồi. Ông Hiếu Châu thấy vậy nên đã đề nghị những giải pháp tạm thời dưới đây:
1. Cho phép giáo sư trường công ra dạy trường các tư thục không hạn chế số giờ, miễn sao việc đó không phương hại đến công việc giảng dạy của họ ở nhà trường.
2. Cho phép sinh viên đại học Sư phạm từ năm thứ hai trở đi được dạy các lớp đệ thất, đệ lục của các tư thục.
3. Mở các lớp tu nghiệp và các kỳ thi khảo hạch để điều chỉnh tình trạng hành nghề của những giáo sư có khả năng, có kinh nghiệm, có đạo đức đã lâu năm trong nghề nhưng không đủ điều kiện bằng cấp.
Giải pháp thứ nhất không nên theo. Nếu không hạn chế số giờ ở trường tư (hiện nay mặc dù có hạn chế mà hình như cũng đã có tình trạng như vậy rồi), mà lại dạy những lớp 120, 150 trò thì làm sao khỏi hại tới việc giảng dạy ở trường công và luôn cả trường tư nữa? Tôi nghĩ trái lại, chẳng những nên hạn chế số giờ dạy của giáo sư trường công mà cả giáo sư trường tư nữa. Tôi cho rằng mỗi tuần dạy 24 giờ là vừa; trong tình trạng thiếu thầy hiện nay số giờ đó có thể tăng lên 30, nhưng nhất định không được quá.
Giải pháp thứ hai có thể theo được, nhưng cũng chẳng bù vào số giáo sư được bao nhiêu vì những sinh viên Đại học Sư phạm học cũng đã mệt rồi, ít người còn đủ sức dạy tư thêm nhiều giờ nữa. Tôi còn nghĩ rằng cho họ dạy tư tại các trường cá hộp thiếu kỷ luật như ngày nay, một là họ sẽ nhiễm cái thói đếm giờ ăn tiền, bán rẻ lương tâm đi, hai là họ chán ngán về tương lai nghề nghiệp của họ. Vậy giải pháp tưởng là hiệu nghiệm mà thực ra ích lợi rất ít.
Giải pháp thư ba rất hợp lý, nhưng cũng cần phải bàn thêm. Bộ phải mở lớp tu nghiệp ở mỗi tỉnh, giáo sư đâu để dạy những lớp đó? Chẳng lẽ lại dùng giáo sư trung học để tu nghiệp cho giáo sư trung học. Ít nhất là phải dùng giáo sư Đại học hoặc hiệu trưởng Trung học. Giáo sư Đại học thì bận việc quá, còn hiệu trưởng trung học thì nhiều ông chỉ có tú tài mà dạy học chẳng hơn gì ai. Lại thêm có một số giáo sư tư thục vốn là nhà văn nổi danh dạy học đã lâu năm mà không có văn bằng, những vị đó có ai chịu tu nghiệp không? Mà ai dám nhận cái việc dạy những nhà văn nổi danh đó? Tôi chắc họ sẽ bỏ nghề mà như vậy hại cho ngành tư thục. Tôi nghĩ riêng về số giáo sư danh tiếng đó có thể đặt cách cấp giấy phép cho họ. Có thể rằng về lý thuyết sư phạm họ không thạo, nhưng họ có kinh nghiệm, lại có uy tín, mà trong sự dạy học, kinh nghiệm và uy tín rất quan trọng, có lẽ quan trọng nhất nữa. Chắc gì mấy chục bài lý thuyết sư phạm đủ làm cho người ta thành nhà mô phạm?
Hình như Bộ mấy năm trước cũng đã nghĩ được giải pháp tới mỗi đề nghị đó mà không hiểu vì lẽ gì lại bỏ.
Nhưng dù có dùng tất cả những giải pháp kể trên thì theo sự phỏng đoán của tôi vẫn còn thiếu giáo sư, chắc đến già nửa như tôi đã nói, thiếu nhiều nhất ở tỉnh, quận[4]. Riêng ở các tỉnh Hậu Giang, tôi chắc chắn sẽ có non 9 phần 10 giáo sư không đủ điều kiện hành nghề, nhất là lúc này quân đội cần dùng những người có tú tài.
Vậy nếu Bộ giữ đúng quy tắc thì hầu hết số tư thục ở các tỉnh, quận phải đóng cửa vì tuyển giáo sư không ra mà Bộ cũng không có cách nào cung cấp giáo sư cho các trường đó được, ngay trong các trường công còn cung cấp chưa đủ kia mà. Và ta sẽ thấy nhiều quận không còn trường trung học nữa, phụ huynh học sinh những nới đó phải cho con em nghỉ học khi chúng 11, 12 tuổi, vì không đủ tiền cho ra tỉnh học. Tất nhiên dân chúng sẽ kêu nài và Bộ trả lời cách nào?
Nếu trái lại, Bô sẽ không giữ đúng quy tắc, sẽ nhắm mắt làm lơ, chỉ kiểm soát lấy lệ vài trường hợp ở những châu thành lớn thì thông cáo của Bộ sẽ vô giá trị và tình trạng vẫn chẳng thay đổi gì cả.
Tôi không rõ trước khi ra một thông cáo như vậy, Bộ có nghiên cứu kỹ hiện trạng hay không. Theo tôi thì ít nhất Bộ phải làm những việc này: tính xem trong nước có bao nhiêu học sinh, cần bao nhiêu giáo sư, khi cho thi hành thông cáo đó sẽ còn lại bao nhiêu giáo sư đủ điều kiện văn bằng, thiếu bao nhiêu giáo sư, kiếm đâu cho ra những giáo sư để bù vào, nếu chắc chắn kiếm được tạm đủ thì hãy ra thông cáo, nếu không thì hoãn lại một vài năm, và trong khi chờ đợi, một mặt cấp tốc đào tạo số giáo sư cần thiết, một mặt chỉ cải thiện từng bước nhỏ giọt thôi, nghĩa là chỉ cấm hành nghề những người thực là thiếu khả năng và tư cách, còn những người khác dù không đủ điều kiện, vẫn tạm thời cho phép được dạy.
Chúng ta lại nên nhớ điều này nữa: giáo sư đủ niên kỷ và văn bằng chưa nhất định là đủ tư cách. Tôi nghe nói một giáo sư trung học đệ nhị cấp[5] ở một trường công danh tiếng ở Sài Gòn tuyên bố với với học sinh rằng: “Tôi còn phải dạy thêm trường tư nữa mà ở trường tư dạy lôi thôi như dạy trường công thì ai người ta mướn”. Tôi lại được đọc trên một tờ báo rằng một ông hiệu trưởng trường công nọ bảo học sinh: “Các trò năm nay đỗ nhiều là nhờ thầy vận động cho đấy”. Rồi năm ngoái năm kia gì đấy, một học sinh trường Quốc gia Sư phạm phàn nàn trên mặt báo rằng giáo sư của họ đã thiên vị trong một kỳ thi, cho cháu mình đỗ cao mặc dầu nó học kém. Như vậy có thể gọi là đủ tư cách không? Bộ đã nhận thấy chỗ đó nên nhắc các ông hiệu trưởng cần có tác phong đạo đức. Vậy chắc Bộ sẽ kiểm soát tác phong cùng “hành vi chính trị” của giáo sư nữa và sau những sự lựa lọc đó, số giáo sư càng thiếu nhiều hơn nữa.
Mới rồi Bộ ra thông cáo mở ở Sài Gòn những lớp tối dạy các thanh niên hiện có tú tài từ 20 tuổi trở lên. Học hết hai năm, mỗi tối hai giờ, nếu thi đậu thì họ sẽ được cấp một chứng chỉ, được phép dạy ban trung học đệ nhất cấp ở các trường tư hoặc công. Sáng kiến đó hay, kết quả còn tuỳ cách tuyển lựa và cách đào tạo ra sao. Nhưng tôi nghĩ phải bảo đảm việc làm cho những thanh niên đó sau khi mãn khoá, nghĩa là phải dành chỗ dạy cho họ ít nhất là tại các trường bán công, phải giới thiệu họ với những trường tư, và sau ba bốn năm dạy học, họ phải được quyền thi vào chính ngạch, được lựa vào dạy các trường công thì họ mới thấy có tương lai và mới ham học. 
Chúng tôi cứ tạm đặt giả thuyết rằng tất cả những khó khăn kể trên, Bộ sẽ giải quyết được hết, nghĩa là các trường sẽ đủ giáo sư, giáo sư nào cũng đủ điều kiện niên kỷ, văn bằng, lại có tác phong đạo đức, có hành vi chính trị đứng đắn.
Như vậy tình trạng tư thục có cải thiện được một chút, chỉ một chút thôi, vì chỉ mới là trị ngọn. Cần nhất là phải thay đổi quy chế tư thục. Quy chế hiện hành, tôi thú thực là không được biết rõ lắm; chỉ nghe nói mấy năm trước Bộ điều tra cũng rất kỹ lưỡng, kỹ lưỡng tới nỗi có trường đã dạy học hai ba năm mà vẫn chưa được cấp giấy phép. Điều đó rất quý – việc gì làm kỹ mà chẳng quý? – nhưng tôi được biết một giáo sư đã dạy các lớp đệ tứ, đệ nhị một trường công trong tám chín năm, được hiệu trưởng và học sinh rất trọng, có hồi lại lên thay hiệu trưởng non một năm, có hồi lại làm hiệu trưởng một trường bán công trong một năm nữa mà khi xin mở một lớp luyện thi trung học đệ nhất cấp thì nghe đâu như một năm sau vẫn chưa được giấy phép, thành thử ông ta chán nản, hết muốn mở trường mà cũng không hăng hái dạy học nữa. Tôi vẫn biết Bộ có những lý do chính đáng mà Bộ không cần phải tuyên bố nhưng tự hỏi, nếu thấy không thể cho được thì sao không từ chối phắt đi, bắt người ta trông chờ làm chi?
Mà cứ nhìn chung quanh, tôi thấy Bộ cơ hồ như theo một chính sách “tự do, dân chủ”, cho các trường tư tha hồ cạnh tranh nhau, vì học phí không có gì nhất định cả, rút xuống bao nhiêu cũng được cả, số học sinh mỗi lớp cũng không hạn chế, tăng lên bao nhiêu cũng được.
Chính sách đó tất nhiên cũng có lợi, học phí nhờ vậy mà rẻ đi, giáo sư nhờ vậy mà phải gắng sức “tranh thủ” học sinh; nhưng cái gì quá mà chẳng có hại, và cái hại đã làm tốn bao nhiêu giấy mực trên báo chí rồi đấy.
Học phí rút xuống nhiều quá thì tiền thù lao giáo sư cũng phải rút theo, và giáo sư muốn đủ sống phải dạy thêm nhiều giờ, hiệu trưởng muốn giữ được lời, phải mở những lớp thật rộng, chứa được 150, 170 học sinh. Luật xã hội lo đến sức khoẻ của công nhân, có luật nào lo đến sức khoẻ của giáo sư và học sinh không?
Trường muốn “tranh thủ khách hàng” thì tất nhiên phải tìm cách thoả mãn thị dục của khách hàng; mà hạng khách hàng đầu xanh đó thì 10 em có tới 8, 9 em ngại sự gắng sức, chỉ thích đùa nghịch, được thoả mãn hai con mắt và hai lỗ tai; cho nên một số hiệu trưởng phải dùng nữ sinh để “câu” nam sinh mà giáo sư phải thuộc nhiều truyện phim giật gân, phải hát chèo, hát xẩm, hát cô đầu cho “mùi”, v.v… cũng để câu học sinh, cả nam lẫn nữ, nhất là nữ. Tất nhiên đó chỉ là một số chiên ghẻ thôi, không khi nào tôi nghĩ rằng cả các giáo sư tư thục đều như vậy. Vì trong giới giáo sư tư thục hiện nay thật là có đủ hạng người. Có những kẻ thiếu tư cách thì cũng cũng có những người đáng kính: một số không chịu trở lại làm việc với Pháp mà dạy học để sinh nhai, một số nữa là văn nhân, học giả muốn khỏi tủi với cây bút phải dạy thêm để nuôi gia đình… Cứ xét chung thì đa số không xấu, không tốt, sở dĩ phải đếm giờ ăn tiền, làm trái với lương tâm chỉ vì hoàn cảnh xã hội và gia đình, thứ nhất là sự cạnh tranh của các trường tư.
Chúng tôi vẫn biết rằng tự do, dân chủ là những quy tắc rất quý, rằng ở các nước văn minh, việc mở tư thục vẫn được coi là một nghề tự do, chứ không phải theo một nghề buôn bán, nhưng khi tự do mà đưa đến những kết quả như trên thì không thể gọi là đẹp được mà cần phải xét lại.
Theo thiển kiến thì muốn cải thiện hiện trạng, phải trị từ cái gốc, đặt lại cả vấn đề, thay đổi hẳn cơ chế tư thục, chặn đứng hẳn sự tự do vô tổ chức đó. Vấn đề lớn lao quá, ảnh hưởng sâu xa tới tương lai của dân tộc, một mình Bộ không giải quyết nổi, phải có sự hợp tác của toàn dân, mà muốn có sự hợp tác đó thì Bộ phải tiếp xúc với nhân dân, giảng giải cho nhân dân thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề.
Ông Bộ trưởng hiện thời là chủ tịch một hội rất đông, tức Tổng hội giáo giới Việt Nam (nghe nói gồm hàng vạn hàng ức hội viên đấy); Tổng hội đó lại có cơ quan ngôn luận, tạp chí Luận đàm, đã ra tới số mười mấy, thì ông có dư phương tiện để đặt vấn đề với nhân dân, trao đổi ý kiến với mọi người.
Khi thu thập đủ tài liệu rồi, Bộ nên mở một hội nghị giáo dục gồm:
- Các vị hiệu trưởng ở khắp nơi.
- Các vị đại diện giáo sư tư thục ở khắp nơi.
- Các vị đại diện phụ huynh học sinh ở khắp nơi.
- Một số nhà báo.
- Một số nhân viên các bộ.
Để cùng nhau:
- Nhận định, mổ xẻ tình trạng bi đát hiện tại của tư thục.
- Tìm một giải pháp toàn diện, thực tiễn cho vấn đề.
Giải pháp đó sẽ là quy chế tư thục. Quy chế đó phải nhắm vào những mục tiêu dưới đây trong một thời gian bốn hay năm năm:
- Mỗi lớp học sinh không được quá năm chục.
- Học sinh phải đủ sức theo chương trình thì mới thu nhận, mới đầu không thể căn cứ vào học bạ của các tư thục hiện thời mà phải khảo sát trình độ học sinh.
- Giáo sư phải có đủ điều kiện như thông báo của Bộ đã định.
- Giáo sư chỉ được dạy nhiều lắm 30 chục giờ thôi.
- Kỷ luật phải nhiều.
- Diệt nạn cạnh tranh bất chính giữa các tư thục.
- Định học phí ra sao để trường và giáo sư đủ sống.
- Ở cùng một nơi, học phí phải như nhau, từ tỉnh này qua tỉnh khác học phí có thể khác nhau một chút thôi, tuỳ mức sinh hoạt ở mỗi nơi.
- Rút giấy phép của những trường không đứng đắn.
- Trường phải đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của bộ: kiểm soát hiệu trưởng, kiểm soát giáo sư, nhất là kiểm soát sự học của học sinh (công việc này có hiệu quả nhất).
Bộ cần có sự hợp tác của nhân dân (tức của phụ huynh học sinh) thì sự kiểm soát mới hữu hiệu vì Bộ khó có đủ nhân viên được; vậy phải khuyến khích sự thành lập các hội đó, giúp những hội đó mở trường tư.
Một số người cho rằng cứ đào tạo nhiều giáo sư rồi tự nhiên sẽ có sự đào thải, chớ không nên kiểm soát giáo sư tư thục vì ngành tư thục là ngành tự do, ngay ở nước nhà thời Pháp thuộc, người ta cũng chỉ kiểm soát hiệu trưởng và chương trình thôi, chứ không kiểm soát lối dạy của giáo sư.
Đào tạo nhiều giáo sư tất nhiên là việc phải làm gấp rồi, nhưng dù ngân sách dồi dào thì cũng mất từ tám tới mười năm mới có được hai ba ngàn giáo sư cần thiết. Vì phải lựa chọn chứ không phải ai có tú tài cũng nhận được. Mà khi đào tạo xong thì cũng phải kiểm soát nữa, không thể bảo rằng hễ ở trường ra là có đủ tư cách dạy.
Và tình trạng nước ta khác nước người. Ở Pháp chẳng hạn, dư người đủ tư cách làm giáo sư tư thục, nên họ không kiểm soát cách dạy cũng không hại. Còn như ở nước ta, thời Pháp thuộc, trường tư không quá tệ như hồi này, người Pháp không cần kiểm soát chặt chẽ. Cũng có thể họ theo chính sách sống chết mặc bây, chỉ dò xét xem giáo sư tư thục có làm cách mạng hay không, còn thì để cho họ tự do. Chúng ta ngày nay không thể bắt chước họ được, phải kiểm soát khả năng và công việc của giáo sư (có bắt trả bài không, có ra bài làm, có chấm bài không, lớp học có kỷ luật không…), miễn sự kiểm soát phải có tinh thần xây dựng nhằm mục đích duy nhất là tìm cái lợi cho học sinh.

- Tư thục phải đóng cửa ít nhất một tháng trong vụ hè cho giáo sư và học sinh được nghỉ ngơi. Tháng đó giáo sư được ăn lương. Tết vừa rồi một giáo sư tư thục lại thăm tôi, phàn nàn rằng làm bất cứ làm nghề gì Tết cũng được nghỉ ăn lương, duy có giáo sư tư thục là hễ miệng nghỉ giảng thì cũng nghỉ ăn lương. Tại sao không áp dụng những luật xã hội vào giáo sư tư thục? Làm lao công ăn lương ngày còn được hưởng phụ cấp cho vợ con, mà tại sao giáo sư tư thục lại không được hưởng? Bắt họ có đủ điều kiện mới được hành nghề thì cũng phải cho họ hưởng những quyền lợi tối thiểu của một lao công chứ.
Đại khái mục tiêu chúng ta phải đạt được như vậy. Tôi trình bày với độc giả chỉ là nêu vấn đề, và cắm những cái mốc thôi. Mốc có cắm sai thì sẽ có những nhà chuyên môn cắm lại.
Dân chủ không phải là để cho dân muốn làm gì thì làm mà là tiếp xúc với mọi giới trong nhân dân, tìm hiểu thắc mắc, nguyện vọng của nhân dân, trình bày những khó khăn và khả năng của chính quyền, để cùng nhân dân vạch một chương trình hoạt động có lợi cho nhân dân mà chính quyền có thể thực hiện được.
Chúng tôi chỉ đưa mục tiêu ra thôi, không đưa giải pháp vì vấn đề lớn lao quá, không một cá nhân, một cơ quan nào có thể tìm nổi một giải pháp. Vì vậy mà chúng tôi đã đề nghị đặt vấn đề với nhân dân để cần sự góp sức của toàn dân.
Chắc có vị cho rằng những mục tiêu chúng tôi mới trình bày bó buộc trường tư quá, thiếu tự do. Vâng, nhưng hiện nay chế độ tự do đã gây một tình trạng quá bi đát thì phải mạnh bạo cải tổ lại, phải mổ và nặn mủ đi, chứ không nên xoa bóp ở ngoài nữa. Tới bán than còn phải theo giá chính thức, bán trụ sinh mà còn phải có bằng cấp, theo toa bác sĩ, đâu có hoàn toàn tự do.
Vả lại tôi tin rằng nhiều ông hiệu trưởng cũng mong phong trào cạnh tranh bớt đi để có thể sống được mà phụng sự quốc dân một cách tốt hơn. Rồi khi nào tình trạng cải thiện rồi thì qui chế lại nới rộng ra, miễn là luôn luôn chỉ nhắm cái lợi của học sinh.
Vậy nhược điểm “thiếu tự do” đó không đáng cho ta quan tâm tới. Nhược điểm dưới đây mới cần xét kỹ: muốn đạt những mục tiêu đã vạch, học phí tất phải tăng lên khá nhiều mà đa số nhân dân sẽ gánh không nổi 
Tôi tính sơ sơ một lớp đệ thất ở Sài Gòn (trong một trường có khoảng 20 lớp) phải chi tiêu những khoản này:
- 5.000 đồng trả giáo sư.
- 1.000 đồng phí tổn về lớp học và bàn ghế…
- 2.000 đồng góp phí tổn về văn phòng và trả công hiệu trưởng, giám học…
Cộng là 8.000 đồng. Phải thêm ít nhất 1.000 nữa để trả giáo sư và các nhân viên của trường trong vụ hè, và để lập tủ sách, chi tiêu về những công vụ khác, như thể dục, chiếu bóng, mua dĩa hát…
Số học sinh tối đa mỗi lớp là 50 thì ta nên tính chỉ thâu được học phí của 40 thôi vì có lúc ít học sinh hơn, lại có những học sinh nghèo được miễn học phí. Vậy số chi là 9.000 đồng chia có 40 học sinh, học phí sẽ khoảng 220 đồng. Ở tỉnh đời sống rẻ hơn, phí tổn nhẹ hơn thì học phí có thể định là 200 đồng.
So với các trường tư thục Pháp ở đây thì học phí còn là nhẹ lắm (những lớp 6è, 5è của họ, học phí tới 400, 500 đồng) mà so với học phí tại các tư thục của ta hồi 8, 9 năm trước thì không cao gì, hồi đó học sinh đệ thất cũng phải trả 170 đồng mà giá sinh hoạt chỉ bằng 60, 70% giá sinh hoạt ngày nay; nhưng hiện nay vì có nhiều trường dạy ẩu để giảm học phí xuống còn 120 đồng, có nơi 70 đồng, cho nên nhiều phụ huynh học sinh sẽ chê là cao quá, và một số sẽ không trả nổi[6].
Vì điểm khó khăn đó nên Bộ mới cần có sự hợp tác của toàn dân để tìm một biện pháp hầu đạt được những mục tiêu đã vạch, hoặc thay đổi mục tiêu nếu chưa thể nào thực hiện được. Bô phải làm sao giảng cho quốc dân hiểu rằng thà đừng cho con đi học còn hơn là cho học tại những tư thục dạy ẩu, rằng muốn cho người ta khỏi dạy ẩu thì học phí ít nhất phải như vậy, rằng chính phụ huynh phải để ý đến sự học của con em bằng cách thành lập những Hội phụ huynh để kiểm soát các trường tư, rằng toàn dân phải đóng góp vào việc giáo dục thanh niên, kẻ góp công người góp của (chẳng hạn học sinh trường công mà gia đình khá giả cũng nên đóng học phí để chính quyền có tiền phụ cấp cho các tư thục…) rằng tương lai của con em không thể giao phó cho hạng đầu cơ được, rằng chính quyền sẽ tận lực giải quyết vấn đề, sẽ phái nhân viên lại giúp các tư thục và khi nào có phương tiện, sẽ lần lần đổi các tư thục thành bán công hết, nhưng phải có sự hợp tác của nhân dân thì mới có kết quả vì hiện nay Bộ không đủ nhân viên, không đủ ngân sách. Tôi nghe nói ngay như ở Nhật Bản, phụ huynh trong mỗi xóm, mỗi khu nhiều khi phải lo lắng sự học của con em tại các lớp mẫu giáo. Trưởng nhóm hay trưởng khu khi tới mùa tựu trường đi nhắc nhở các gia đình cho con em đi học, và các phụ huynh góp sức nhận tổ chức lớp mẫu giáo, tìm chỗ làm lớp học, mướn cô giáo, định học phí… Họ vui vẻ làm, vì biết nếu họ không làm lấy để chính quyền lo hết thì họ phải đóng thuế nặng hơn, rốt cuộc đâu cũng vào đấy. Công việc gì khác thì còn có thể hoàn toàn trông vào chính phủ được, chứ công việc giáo dục con em mình thì nhất định mình phải góp sức vào.
Bộ có thể nhờ báo chí, nhờ Bộ Văn hoá, nhờ Tổng hội giáo giới và các Hội phụ huynh học sinh giảng giải cho dân chúng hiểu mục đích và chương trình hoạt động của Bộ. Phải vạch rộng cho dân thấy những tệ hại của nền giáo dục tư thục hiện nay, những kết quả bi thảm của nó, thấy trách nhiệm làm cha mẹ và hiểu ít điều căn bản về sự dạy dỗ con em.
Chúng tôi chắc rằng khi dân thấy sự quan trọng của vấn đề thì sẽ chịu đóng góp thêm; khi “huấn phong” đã được cải thiện ở đa số tư thục rồi thì sẽ có nhiều người đứng đắn muốn dạy học, và có thể có đủ giáo sư, nếu Bộ chú trọng đến khả năng và tư cách hơn bằng cấp.
Bao giờ quốc dân mới được coi phim, nghe một vở kịch, đọc một tiểu thuyết ghi hiện trạng của ngành tư thục hiện nay, diễn tả nỗi khổ tâm của những trẻ đứng đắn muốn học mà không tìm được những lớp đứng đắn; của những giáo sư có lương tâm mà đành phải đếm giờ ăn tiền, của những ông hiệu trưởng có lý tưởng mà bị bọn đầu cơ đè bẹp và của những phụ huynh đóng tiền cho con em học mà không ngờ là để chúng tán gái?
Bộ Quốc gia Giáo dục, Bộ Văn hoá sao không đặt những giải thưởng đặc biệt khuyến khích sự sáng tác những kịch, những phim về đầu đề đó? Những tác phẩm đó mà được phổ biến trong nhân dân, nhân dân mà được trông thấy sự sa đoạ trong ngành tư thục, tất sẽ cười ra nước mắt và suy nghĩ lung lắm. Mà suy nghĩ là bước đầu của hành động rồi đấy.
(Bách Khoa số 1.7.62)
Chú thích:
[1] Tức 5 số từ 128 đến 132. (Goldfish).
[2] “Ông bạn” đó chính là tác giả. Theo ĐVVCT, cụ Nguyễn Hiến Lê dạy trường Trung học Thoại Ngọc Hầu từ tháng 11 năm 1950 đến hết niên khoá 1952-1953, cụ“dạy Pháp văn, Việt văn, Đức dục, sau thêm cả Hán văn nữa ở nhiều lớp từ năm thứ Tư xuống tới năm thứ Nhì (bây giờ tương đương với 9, lớp 7”. (Goldfish).
[3] Tôi nhớ khoảng đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, có nhiều giáo sư chỉ có bằng Trung học đệ nhất cấp, học một khoá sư phạm ba năm (được xem tương đương với trình độ tú tài I) là ra dạy các lớp đệ thất, đệ lục. (Goldfish).
[4] Quận: hồi đó không phân biệt quận và huyện như ngày nay. (Goldfish).
[5] Trung học đệ nhị cấp: tương đương với cấp Trung học phổ thông bay giờ (BT).
[6] Nếu mới đầu ta hãy tạm đạt được mục tiêu này thôi: mỗi lớp 60 học sinh thì học phí giảm được là 9.000: 50 = 180 đồng, một trò ở lớp đệ thất. Nhưng nhất định không nên quá số đó.
- 5 -
Phỏng Vấn Về Thời Cuộc Của Báo Hoài Bão
(Người phỏng vấn: ký giả Lê Phương Chi trong toà soạn Hoài Bão).
(Hoài Bão là tờ báo của Hội Ái hữu cựu sinh viên Quốc gia Hành chánh, Sài Gòn)
Hỏi: Thực trạng chính trị miền Nam hiện nay thật phúc tạp: tranh chấp chính trị, dằng co giữa Chính quyền Dân và Quân sự, Tôn giáo nhập cuộc (bàn thờ Phật xuống đường, tăng ni tuyệt thực, Giáo dân biểu dương lực lượng…); và văn hoá (sáng tác nghèo nàn, tác phẩm đồi truỵ, đời sống văn nghệ sĩ đa số túng quẫn, ngành xuất bản khốn đốn, chế độ kiểm duyệt khắc khe, chính sách văn hoá vá víu v.v…). Có người cho rằng tại dân tộc ta chưa được huấn luyện về chính trị, anh có nghĩ vậy không?
Anh Nguyễn Hiến Lê cười:
- Những dân tộc Ấn Độ có được huấn luyện về chính trị không, mà sao W.W. Rostow, một nhà kinh tế và xã hội học Mỹ phải nhận rằng chính trị của họ ổn định và dân chủ hơn nhiều nước khác? Á, Phi và cả Âu nữa?
Tôi lặng thinh một chặp rồi nói:  
- Có người lại cho chúng ta trong hai chục năm nay không có một nhà lãnh đạo có tài, có đức, chỉ có toàn những những bọn “phù thuỷ tập sự về chính trị” do kiếm xôi thịt cho mình và bè đảng của mình…
Anh Nguyễn Hiến Lê ngắt lời tôi:
- Lời đó đúng. Không phải thời nào, dân tộc nào cũng có những người vừa có tài vừa có đức như Nehru; nhưng hạng người có tài có đức vừa vừa thôi thì tôi chắc nước ta không thiếu. Có điều là trong tình trạng bán thuộc địa (hiện tại) của chúng ta, hạng người đó không làm gì được. Anh thử nghĩ: Pháp thời trước và Mỹ thời nay có thể tin cậy mà ủng hộ những người như vậy không, những người liêm khiết có tinh thần quốc gia tương đối cao, tinh thần dân chủ sáng suốt, tinh thần bền bỉ hi sinh cho dân tộc? Vì những người đó mà cầm quyền thì tất họ không để cho ngoại nhân xen vào nội bộ của mình, giật dây mình mà tất phải đặt điều kiện minh bạch trong sự hợp tác, cả trong chương trình viện trợ nữa. Huống hồ những người đó thế nào cũng có một chính sách xã hội – xã hội chứ không phải Mác xít đâu nhé – mà thực dân Pháp, nhất là chính phủ Mỹ nghe tới danh từ “xã hội” cũng đủ ngán rồi. Không khi nào họ chịu ủng hộ một chính sách xã hội hơi tiến bộ mà dân chúng các nước chậm tiến như nước ta, từ Á tới Phi, đều đòi hỏi gấp chính sách đó.
Đến đây anh Nguyễn Hiến Lê nhìn thẳng vào mắt tôi mà cơ hồ không phải nói với tôi:
… Tóm lại, hễ còn người ngoại quốc xen vào nội bộ của chúng ta, hễ chúng ta còn tuỳ thuộc mọi phương diện thì chúng ta không thể nào có một chính phủ tốt được… Anh thử đặt vào địa vị người Mỹ: anh bỏ ra mỗi tháng hai tỉ Mỹ kim, đồng bào anh mỗi tháng phải hi sinh vài trăm mạng trên một dải đất nào đó thì ít nhất anh có đòi quyền quyết định về binh bị, ngoại giao, kinh tế, cả về nội trị trên dải đất đó không, và dân chúng trên dải đất đó có còn được chút quyền hành gì không? Tất nhiên anh cũng muốn trên dải đất đó có một chính phủ tương đối trong sạch, được lòng dân ít nhiều; nhưng điều anh muốn trước hết là chính phủ đó dễ bảo đã; nếu họ không dễ bảo thì anh phải tìm cách lật họ chứ, phải không?
Tôi cười rồi hỏi tiếp:
- Anh nghĩ thế nào về những vụ bàn thờ Phật xuống đường, Giáo dân biểu dương lực lượng?
- Việc Phật giáo vừa rồi đòi hỏi có một chính quyền dân sự là hợp lòng dân. Tôi chắc không một dân tộc nào thích có một chính quyền quân sự, vì có nhiều quyền quá thì dễ hoá ra độc tài, kiêu nhũng. Nhất là thấy chính quyền quân sự trong ba năm nay không được quyết định trong chiến tranh này – leo thang hay không là do Mỹ - cũng không có tiếng nói nào trong cuộc tiếp xúc với đối phương; rồi lại thấy xã hội quá xáo trộn vì sự hiện diện của quân đội Mỹ, cho nên Phật giáo đòi phải có một cuộc bầu cử để thành lập một chính quyền dân sự. Theo tôi sự đòi hỏi đó chính đáng. Tiếc rằng, Phật giáo quá tự tín mà lại chia rẽ, chưa gây được cảm tình của các giáo phái khác, chưa củng cố được nội bộ, lại mắc thêm nhiều nhược điểm nữa, nên thất bại. Người ta chỉ hiểu sức mạnh của đồng tiền mà không hiểu rằng sự khinh rẻ đồng tiền cũng là một sức mạnh. Họ thất bại nặng nề, có thất bại rồi mới thành công, và có những sự thất bại đáng quý hơn nhiều sự thành công…
Ít nhất cũng nhờ sự đòi hỏi của họ mà ta mới có cuộc bầu cử vừa rồi. Cuộc bầu cử này chưa làm vừa lòng được nhiều người mà nhiệm vụ của Quốc hội lại hạn chế ở việc Lập hiến. Ngay đến Quốc hội sau cũng chưa chắc làm được khi mà người Mỹ vẫn còn nắm quyền hành ở đây; nhưng dù sao có Quốc hội vẫn còn hơn là tám chục ông bà cố vấn chỉ định như trước đây.
Anh Nguyễn Hiến Lê xem lại câu hỏi rồi nói tiếp:
Về văn hoá, thực trạng không được tốt đẹp cũng do nguyên nhân trên: chúng ta không được hoàn toàn độc lập, không có chủ quyền, cái gì cũng tuỳ thuộc ngoại nhân. Tại sao mà các trường dạy Anh văn và các trường dạy chương trình Pháp phồn thịnh như vậy? Tại sao ở bậc Đại học chưa hoàn thành việc chuyển ngữ, rồi thêm một trường Y khoa dạy bằng tiếng Mỹ nữa? Tại sao sự kiểm duyệt mỗi ngày một khắc khe? Một chính quyền tốt không bao giờ sợ sự chỉ trích của dân, anh đồng ý chứ? Tại sao chính sách văn hoá lại vá víu? Tại sở Tu thư chỉ soạn những cuốn Vệ sinh lớp 5, toán lớp 4[1], trong khi học sinh thiếu những bộ tự điển Việt ngữ tạm đầy đủ? Tại nhân viên kém khả năng hay tại kẻ viện trợ chẳng hiểu gì về nhu cầu văn hoá Việt Nam? Phân tích kỹ, cuối cùng chúng ta sẽ thấy chỉ có một nguyên nhân kể trên: không có chủ quyền thì không thể có một chính phủ tốt, không có chính phủ tốt thì chính sách văn hoá không thể tốt được.
Nhưng trong khu vực văn hoá còn một số cây viết không ở trong chính quyền và có tâm huyết nên vẫn có được ít sáng tác tốt, thơ, tiểu thuyết, ít công trình khảo cứu đứng đắn.
Tình trạng hiện nay do chiến tranh mà ra. Hễ còn chiến tranh thì người Mỹ còn phải nắm hết quyền hành ở đây và chính phủ không làm gì được. Vậy:
1. Phải chấm dứt chiến tranh càng mau càng tốt;
2. Lại phải tranh đấu đòi lại quyền quyết định mọi việc về mình;
3. Sau cùng phải có một cuộc cách mạng xã hội để phá bỏ hết những cái cũ thối tha mà xây dựng lại.

Phải tịch thu tài sản của bọn phản quốc đã làm giàu từ xương máu đồng bào từ 1945 đến nay. Phải thay đổi guồng máy hành chính thốt nát kinh khủng. Có ai tưởng tượng được không? Một phòng có mười bàn mà chỉ có ba bàn có nhân viên ngồi, một nhân viên đọc báo, một nhân viên học tiếng Anh, nghĩa là mười người chỉ có một người làm việc. Báo Quyết tiến hay Chính luận mới mỉa mai một công sở nọ là trường nữ công vì nữ nhân viên nào cũng ngồi đan áo.
Anh thử tưởng tượng gởi thư từ đường này đến đường khác ở Sài Gòn mà mất 7 ngày, điện tín từ Long Xuyên xuống Bạc Liêu mất 4 ngày!
Sở Văn hoá mỗi năm ra được mấy số Văn hoá nguyệt san? Và có ai tính thử xem để ra mấy số đó, ngân quỹ tốn mất bao nhiêu, mấy trăn ngàn đồng để nuôi bao nhiêu nhân viên?
Từ cấp Đại uý trở lên, ông nào cũng có xe hơi và lính hầu lái xe. Còn dinh một Bộ trưởng ít nhất cũng có 3 hoặc 4 người gác. Tổng thống Israel, Ben Gourion hồi tại chức, trong nhà không có lính, chỉ có một chị ở, tối chị về nhà mình, ông phải pha cà phê lấy để tiếp khách rồi rửa ly lấy. Nhưng Israël là nước có chủ quyền.
Còn nạn hối lộ thì khỏi nói. Thiếu tướng Kỳ cũng chịu thua rồi, nên mới dẹp pháp trường cát đi. Sống thời chiến này, chúng ta cũng rút được một số kinh nghiệm là đừng vội tin lời tuyên bố nào cả, chỉ tin mỗi một luật này thôi: không có chủ quyền thì không thể có chính phủ tốt.
Bây giờ tôi xin trở lại những vấn đề tôi đã nêu lên khi nãy:
1. Chấm dứt chiến tranh. Bourguiba bảo chiến tranh này là chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc, họ gườm nhau ở Thái Bình Dương này, khi nào họ thấy ngán nhau thì chiến tranh mới hết được. Dân tộc chúng ta ở trong một thế bí. Thế giới cũng chẳng giúp gì được mình cả vì họ gần như bất chấp thế giới; vả lại thế giới cũng chính là họ, có nước nào không đứng về phe này hay phe khác?
2. Tranh đấu để đòi lại quyền tự quyết. Còn chiến tranh thì sự tranh đấu này chẳng có kết quả gì nhiều. Phật giáo đã tranh đấu và thất bại.
3. Còn chiến tranh thì không làm cách mạng xã hội được vì người ta sẽ đàn áp thẳng tay. Khoa học tiếng bộ thì sự đàn áp của chính quyền càng tiến bộ. Chính quyền nước nào cũng vậy, có cả ngàn phương tiện vô cùng hữu hiệu để đàn áp, cá nhân thành con số không. Cho nên thời này không còn anh hùng cá nhân nữa, anh hùng cá nhân tất phải chết; đại chúng phải tổ chức, kết hợp nhau lại hơn hồi xưa. Khoa tâm lý quần chúng phát triển vì vậy, chiến cuộc bất bạo động phát triển vì vậy, mà khoa tuyên truyền phát triển song song cũng vì vậy; không có chính quyền nào không “vider la foule”; dân chúng Pháp không muốn có chiến tranh ở Việt Nam, ở Algérie, mà chính quyền vẫn bắt họ phải đổ máu vì hai cuộc chiến tranh đó.
Như vậy giới trí thức khó làm gì được lúc này trong ba việc tôi nêu trên. Chỉ có thể dự bị tiếp xúc với đồng bào, gây ảnh hưởng, truyền bá những tư tưởng tiến bộ trong mọi giới và giúp đỡ mọi người rồi sẽ có một lúc toàn dân giác ngộ và đoàn kết. Tôi nghĩ giá có một đảng hay một giáo phái nào thuyết phục đảng viên hay tín đồ giúp được những việc nhỏ nhặt cho dân – chẳng hạn hốt những đống rác ở đường phố Sài Gòn này đi – anh có thấy Sài Gòn lúc này như một con vật khổng lồ đương thối rã không? – Trừ được bọn cao bồi, dạy dỗ trẻ em trong giới lao động để chúng khỏi lêu lỗng… làm những công việc như Donilo Dolci làm ở đảo Sicile thì trong năm mười năm phong trào đó lan tràn khắp xứ mà đảng đó, hay giáo phái đó tự nhiên được quốc dân đưa vào Quốc hội hoặc giao cho quyền hành lãnh đạo, chẳng phải tranh giành với ai hết. Không có công lao với quốc dân thì đừng hòng lãnh đạo dân.
Riêng bọn cầm bút chúng ta có thể làm được gì theo ý anh?
- Tranh đấu cho Việt ngữ được dùng trong các phân khoa Đại học, cho các loại sách báo, phim, tuồng đồi truỵ bị cấm, truyền bá những kiến thức mới trong dân chúng – dân mà thiếu học thì khó giác ngộ, dễ bị tuyên truyền lừa bịp – nhất là tranh đấu cho tự do ngôn luận.
Chỉ tranh đấu cho những cái nhỏ mọn đó thôi mà mười năm nay chúng ta vẫn chưa được một thắng lợi nào cả: Việt ngữ vẫn bị khinh, ở bậc Đại học vẫn dạy bằng ngoại ngữ, sách giáo khoa Đại học vẫn chưa có, sở kiểm duyệt mỗi ngày một gắt gao. Còn tranh đấu mười năm, hai mươi năm nữa.
Philippe Semmelweiss, một y sĩ Hung Gia Lợi chiến đấu hơn mười năm để đòi nhà cầm quyền bắt các y sĩ khử độc bàn tay trước khi đỡ đẻ - một việc rất hợp lý và dễ dàng – mà rốt cuộc ông thất bại đến nỗi buồn rầu quá hoá điên rồi tự tử. Còn Florence Nichtingale phải chiến đấu ba mươi năm, nhà cầm quyền Anh mới chịu tổ chức lại các nhà thương trong quân đội. Trừ được cái xấu không phải là dễ. Nếu ba mươi năm mà thành công được cũng là may rồi. Phải kẻ trước người sau tiếp tục hoài mới được.
- Với hiện trạng đất nước ta, nên đặt tin tưởng vào lứa tuổi nào, thành phần nào trong xã hội?
- Thanh niên bao giờ cũng hăng hái, nhiều lý tưởng hơn người già. Đặc biệt trong các nước chậm tiến, luôn luôn các sinh viên đóng vai trò quan trọng trong việc cải tiến xã hội. Đọc lịch sử Trung Hoa trong tiền bán thế kỷ này, thấy trong các cuộc vận động Ngũ Tứ, Ngũ táp, sinh viên bao giờ cũng đi tiên phong. Rồi gần đây, thanh niên Ai Cập, Đại Hàn, Tunisie… đều hoạt động mạnh trong công việc cứu quốc. Chính phủ nào cũng đàn áp họ nhưng quốc dân bao giờ cũng ghi công họ.
Nhưng muốn làm được nhiệm vụ, thanh niên phải tranh đấu cho quốc gia và dân tộc, không để cho người mua chuột. Tất nhiên họ có thể đứng vào hàng ngũ này hay hàng ngũ khác nhưng luôn luôn phải để quyền lợi của dân trên hết.
Họ không nên coi sự hoạt động chính trị là chính, chỉ nên can thiệp khi quốc dân bị đàn áp, khi quốc gia lâm nguy hay bị nhục; như vậy cuộc vận động của họ xuất phát từ lòng công phẫn sẽ có một ý nghĩa cao cả và tất thanh công vì được sự hưởng ứng của toàn dân; còn những chuyện lặt vặt về chính trị họ nên để mặc cho các giáo phái, đảng phái, mà chỉ nhận định, phê bình một cách nhã nhặn và công tâm thôi.
Tôi muốn họ nghiêm trang một chút. Thời nay, dù muốn hay không, ai cũng mang một phần trách nhiệm về tương lai của dân tộc, mà quá vui vẻ trẻ trung tới nỗi truỵ lạc, chửi đổng theo kiểu một số môn đệ của Sartre[2], lúc nào cũng làm bộ nôn mửa thì người ta thấy chướng lắm. Xã hội thối nát, phải. Nhưng chúng ta bất lực không làm gì thì cũng đáng tự trách.
Tôi tiếc rằng sau ngày 1.11.1963, thanh niên Việt Nam hăng say chỉ muốn phục vụ tổ quốc mà các nhà cầm quyền không biết lợi dụng cao trào đó. Rồi gần đây, nghe nói một thanh niên, sinh viên bị mua chuộc, hàng ngũ chia rẽ, suy nhiều. Những kẻ vì tư lợi mà chia rẽ thanh niên, làm cho họ thối nát là những kẻ có tội với quốc dân, giết tương lai của dân tộc. Chỉ nội một việc Mustapha Kémal biết tôn trọng thanh niên, lập ra tuần lễ thanh niên, khuyến khích họ lưu tâm tới việc nước, chỉ nội việc đó cũng đủ cho người ta khen ông rồi.
Còn thành phần nào trong xã hội đáng tin, thì tôi nghĩ, nhất định chúng ta không thể trông cậy được một chút gì ở bọn người đã lãnh những nhiệm vụ quan trọng trong chánh quyền từ năm 1945, bọn người mà chủ nào cũng thờ được.
Các chánh đảng của chúng ta chỉ có danh mà không có thực, nội bộ nát bét, một số người bị mua chuộc, không được quốc dân tin cậy. Các giáo phái còn có chút uy tín nhưng họ phải bỏ thói chống đối nhau đi, bỏ tư lợi đi, chỉ lo cho dân thôi thì mới hòng nên việc được. Và tuyệt đối không nhận một sự trợ cấp, một ân huệ nào hết.
Tại các nước tân tiến, tôn giáo và chính trị là hai khu vực riêng biệt, nhưng ở những nước Á châu mới thoát khỏi ách thực dân như nước ta, có lẽ trong giai đoạn này, tôn giáo phải đứng ra để đoàn kết và hướng dẫn nhân dân, vì các đảng chính trị chưa gây được uy tín.
- Anh có tin tưởng xã hội Việt Nam sẽ tốt đẹp hơn không?
Anh có hình dung tương lai sẽ đưa chúng ta đi đến đâu không?
- Anh muốn nói tương lai gần hay tương lai xa? Gần thì trong năm nay hay sang năm, chắc mỗi ngày càng bi đát hơn. Hơi xa xa khoảng năm mười năm nữa thì không ai đoán được, vì mọi việc tuỳ chiến tranh này mà chỉ có Mỹ và Trung Quốc là quyết định về chiến tranh này thôi.
Nhưng nếu xa hơn nữa, khoảng ba chục năm nữa chẳng hạn thì tôi có thể tin rằng tương lai Việt Nam sẽ đẹp. Vào cuối thế kỷ này, Đông và Tây phải giải quyết xong sự xung đột của họ: một là họ khôn mà lại chung sống hoà bình chỉ còn tranh chấp nhau trên khu vực kinh tế, văn hoá; hai là họ dại mà tận diệt nhau bằng bom hạch tâm.
Lúc đó, cuối thế kỷ này, Việt Nam sẽ có một địa vị khả quan ở Đông Nam Á. Trong cuốn Một niềm tin (đoạn kết phần II) tôi đã trình bày lý do rồi: dân tộc ta có nhiều đức tín tốt, có đủ điều kiện để trở thành một quốc gia tân tiến, phồn thịnh. Ai Cập có một thần thoại rất đẹp: chim phượng hoàng sống 500 năm thì tự thiêu thành tro rồi từ trong tro đó tái sinh, đẹp đẽ hơn trước, và lần này thì bất tử. Tôi tin rằng dân tộc ta sẽ tái sinh sau chiến tranh này.  
Tôi nghĩ rằng chúng ta chẳng cần ganh đua với Âu Mỹ, vì nước mình nhỏ lại tiến sau họ quá xa, chỉ cần sao cho dân chúng đủ ăn, được săn sóc khi đau ốm, được học hành hết bậc trung học, có một nghề, nhất là khỏi tuỳ thuộc nước ngoài về những cái lặt vặt mà được tự chủ, không cần nhiều thứ xa hoa, không cần phim cao bồi, khiêu dâm, nhưng cần có sách để đọc, có nhạc vui để nghe, không có người giàu quá, kẻ nghèo quá, cứ như Thuỵ Điển, Na Uy mà lại hơn là như Mỹ; các tôn giáo hoà hảo với nhau, nhà cầm quyền có tư cách, xứng đáng; tình trong gia đình, học đường, xã hội không nhạt nhẽo như ngày nay.
- Thái độ của anh với sự có mặt của người ngoại quốc đang chi phối mọi sinh hoạt quốc gia Việt Nam hiện nay? Nếu anh không chấp nhận sự có mặt của họ, anh đề nghị những biện pháp gì để giải quyết?
- Anh cứ mở lịch sử ra thì biết. Dân tộc Việt Nam rất quý những người ngoại quốc đến khai hoá thực tình chúng ta như Nhân Diên, Tích Quang…; chúng ta cũng vui vẻ tiếp đón những thương nhân hoặc nhà truyền giáo của họ, nhưng mỗi khi họ xen vào nội bộ của chúng ta thì dân chúng thù oán họ, thù oán cả kẻ mượn thế lực họ, để lập lại trật tự trong nước. Tôi xin hỏi anh: anh có chê Gia Long không? Có khinh Lê Chiêu Thống không? Có sùng bái Quang Trung không? Tâm lý đó hình như các nước phương Tây vẫn chưa hiểu ta. Bao nhiêu chính sách thực dân từ trước tới nay đều thất bại chỉ tại người ta không thực sự tôn trọng chủ quyền của dân bản xứ.
Mỹ đã giúp chúng ta nhiều lắm. Nhưng quân đội của họ cũng làm cho xã hội chúng ta xáo trộn quá lắm. Nhất là họ nắm hết quyến quân sự, ngoại giao, kinh tế, thành thử chúng ta có cảm tưởng rằng chiến tranh này là chiến tranh của họ với Trung Quốc chứ không phải của chúng ta.
Chúng ta không thể mời họ về nước ngay lúc này được. Cái gì cũng lệ thuộc họ từ cây đinh tới giọt xăng, cả hột gạo nữa. Đành rằng họ đi thì không thiếu gì các cường quốc sẽ tự nguyện vào thay họ; nhưng cường quốc nào thì cũng như nhau, không có lợi cho họ thì họ tới đây làm gì? Dân tộc Anh, dân tộc Pháp… có thể tốt, nhưng chính phủ Anh, chính phủ Pháp… hay bất kỳ chính phủ nào cũng không thể tốt với một dân tộc nhược tiểu ở dưới quyền hay dưới sự ảnh hưởng của mình được.
Không còn chế độ thực dân kiểu tiền chiến nữa. Nhưng vẫn còn tinh thần thực dân, tinh thần bắt buộc các nước nhược tiểu về phe mình, để phe mình mạnh lên mà chống phe đối thủ. Bi kịch của nhân loại thời nay là sự tranh chấp giữa Đông và Tây, và các nước nhược tiểu tuy bề ngoài độc lập mà sự thực là lệ thuộc, không muốn lệ thuộc, họ cũng không cho, họ bắt mình phải là quân tốt trong ván cờ của họ.
Đã không thể mời họ về lúc này được thì chỉ còn có thể tỏ rằng họ không được lòng dân ở đây như họ tưởng đâu: tại một tỉnh nọ ở Hậu Giang, nghe tin quân đội Mỹ sẽ tới nhiều, chỉ trừ có một số người có khách sạn, có bar, và một số gái điếm là thích, còn dân chúng thì lo ngay ngáy, vật giá sẽ tăng, con cháu sẽ hư hỏng, xã hội sẽ tan vỡ và bọn quỉ càng lộng hành.
Các ông ấy hiểu như vậy thì nên liệu cách rút ra khỏi châu thành sơm sớm, tổ chức sống riêng biệt ở những khu nào đó, bớt tiếp xúc với dân chúng Việt Nam đi, nhất là họ phải lo giải quyết chiến tranh này cho mau mau đi. Nhất định là lúc này họ chưa đánh Trung Quốc đâu, mà cũng không nghĩ chuyện đổ bộ lên miền Bắc vì muốn vậy họ phải dùng tới cả triệu quân, tốn cả chục tỉ Mỹ kim mỗi tháng, mà có dù chiếm được Hà Nội, Hải Phòng, chiếm được hết các châu thành miền Bắc, lập được một chính phủ bù nhìn thì cũng chẳng diệt được Cộng sản, Việt cộng sẽ đánh du kích 10 năm hoặc lâu hơn nữa, vì còn cả cái khối 700 triệu dân ở sau lưng họ. Hiểu như vậy tổng thống Johnson tuyên bố hoài rằng không muốn lật đổ chính phủ Hồ Chí Minh.
Đáng buồn rằng là dân tộc chúng ta chẳng được biết chút gì về cuộc trả giá đó.
Tháng 9/1966
Lê Phương Chi ghi lại[3]
Chú thích:
[1] Chắc cụ Nguyễn Hiến Lê muốn nói lớp năm, lớp tư (nay là lớp 1, lớp 2)? (Goldfish).
[2] Sartre (1901-1977) tên đầy đầy đủ là Team Paul Sarte, giáo sư, văn sĩ, triết gia Pháp. Ông là cha đẻ triết thuyết hiện hữu (sinh) chủ trương tự do vì xã hội con người đang hiện hữu là “buồn nôn” cả. (BT).
[3] Lê Phương Chi còn có bài phỏng vấn cụ Nguyễn Hiến Lê vào năm 1980: bài “Tâm tình học giả Nguyễn Hiến Lê” (xem Nguyễn Hiến Lê – Con người và tác phẩm, Nhiều tác giả, Nxb Trẻ, năm 2003). (Goldfish).
- 6 -
Thân Phận Người Dân Các Nước Chậm Tiến
Ông Đoàn Thêm (nhà văn) trên tạp chí Bách Khoa số 231, ngày 15.8.66 có nhắc lại một chuyện cũ:
“Ngày 28.9.1946, Alessandri, một thiếu tướng Pháp hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh:
- Chủ tịch có tin rằng dân tộc Việt Nam đã trưởng thành để có thể độc lập được không?
Ông Hồ Chí Minh đáp:
- Một học sinh theo học một thầy trong 80 năm, giả thử trò không tiến bộ thì lỗi thầy hay lỗi trò?”.
Một thiếu tướng như Alessandri nếu không thông minh chắc cũng không đến nỗi dốt nát, họ có học qua bậc đại học, từng trải nhiều, quan sát nhiều nước trên thế giới mà sao có thể thốt ra những lời như vậy sao? Ông ta có thể không biết chút gì về lịch sử dân tộc Việt Nam, không biết rằng từ đời Đinh, nước ta đã độc lập, rồi trải qua các triều Lê, Lý, Trần, Lê, dân tộc ta đã mấy lần anh dũng chống với Trung Hoa để bảo vệ nền độc lập, nhưng có lẽ nào ông ta không nhớ rằng khi Pháp đem quân xâm chiến nước ta, cách đây một thế kỷ thì nước ta đương là một nước độc lập? Một dân tộc đã độc lập mà sau tám chục năm “khai hoá” không còn đủ tư cách để độc lập nữa thì thứ “khai hoá” đó là cái thứ gì? Ông ta tắc họng là phải. Bị cái lợi ám nhãn thì người ta không thể sáng suốt được. Mà bọn thực dân nào thì cũng bị cái lợi ám nhãn hết.
Nếu ông ta đừng hỏi như vậy, mà hỏi: “Các ông có tin rằng trong thời đại này, các ông có đủ bản lãnh để giữ vững được nền độc lập thực sự không?” thì có lẽ ta lúng túng.
Chế độ thực dân cũ, sau thế chiến vừa rồi, đã bị các dân tộc “thuộc địa” đập tan tành, và bọn thực dân Pháp, Hoà Lan, Bồ Đào Nha… đều đã phải nhục nhã cuốn gói về “mẫu quốc” của họ rồi. Nhưng khắp thế giới lại nẩy nở một chế độ thực dân mới, rất khéo trá hình cho nên rất nguy hiểm. Xưa họ chiếm đất, chiếm quyền để bắt lính và khai thác tài nguyên, tiêu thụ khí giới, sản phẩm nay họ dùng chính sách ngược lại, viện trợ giúp khí giới và sản phẩm để bắt các dân tộc nhược tiểu phải đứng về phe họ, tuỳ thuộc họ về kinh tế, và một khi nắm được kinh tế thì họ nắm luôn chính quyền, mà đất đai tuy còn đấy cũng như mất.
Trong số bốn năm chục quốc gia Á, Phi đã giành được độc lập, hiện nay có mấy quốc gia là còn tương đối giữ được chủ quyền? Ba hay bốn? Ấn Độ, Miến Điện, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ rồi nước nào nữa?
Ta phải khen Mustapha Kémal là vô cùng sáng suốt, khi ông tuyên bố rằng “Muốn mất độc lập thì không gì mau bằng nhận viện trợ của người” và mặc dầu các cường quốc châu Âu ve vãn, tự nguyện giúp đỡ tiền bạc, khí giới, máy móc, mà ông từ chối hết. Hùng tâm tự cường như ông, trong lịch sử nhân loại, có lẽ chưa có người thứ hai. Nhưng thời ông – sau thế chiến thứ nhất – hoàn cảnh còn tương đối dễ, ngày nay thế giới chia làm hai phe tranh giành nhau kịch liệt về ảnh hưởng, phe nào cũng lôi kéo đàn em để dùng làm “gà chọi” thì không hiểu những người kế vị ông có còn theo đúng được chính sách của ông nữa không? Có tài đức, có danh vọng như De Gaule mà phải mất hai chục năm, lúc này mới bắt đầu lần lần trừ bớt được ảnh hưởng của Mỹ, thì việc đó đâu phải là việc dễ!
Tôi nghĩ tới tình cảnh các nước Hàn, Triệu, Yên, Lỗ… ở thời Chiến Quốc. Tôi nghĩ tới chính sách hợp tung và liên hoành của Tô Tần và Trương Nghi. Hợp tung đã chẳng cứu được các nước đó mà liên hoành cũng chỉ làm cho họ bị tiêu diệt một cách mau chóng và tàn nhẫn. Những lời kêu thương, hốt hoảng bi thảm của thái tử Yên sao mà ai oán thế!
Gần đây một số các quốc gia chậm tiến Đông Nam Á họp nhau để tìm cách giải quyết chiến tranh Việt Nam này. Làm sao họ có thể giải quyết được vì nước nào cũng bị bó chân bó tay cả, cũng tuỳ thuộc người cả, cũng không đứng vào phe này thì đứng vào phe khác. Dù khắp các nước nhược tiểu trên thế giới có đồng lòng không đứng vào phe này hay phe khác, thà sống nghèo khổ chứ không nhận một chút viện trợ của bất kỳ phía nào, thì cũng vẫn không giải quyết được vì người ta không cho mình được như vậy, sẽ uy hiếp đe doạ, sẽ chĩa súng vào họng bắt mình phải theo người ta. Mà làm sao có một sự đồng tâm được? Lịch sử nhân loại chưa bao giờ có một sự đồng tâm như vậy. Ngay trong mỗi nước cũng có sự chia rẽ rồi thì làm sao có được sự đồng tâm từ Á sang Phi, sang Mỹ?
Đó là cái thân phận bi đát của các nước nhược tiểu hiện nay.
Từ nay tới cuối thế kỷ, chưa chắc đã chấm dứt được cái tình trạng này, chưa chắc nhân loại đã diệt được chế độ thực dân kiểu mới này!
Chúng ta đủ tư cách để độc lập, nhưng người ta không muốn cho chúng ta độc lập, và chúng ta không đủ sức để bảo vệ nền độc lập của chúng ta. Chúng ta vừa đập xong xiềng xích cũ thì lại phải đưa đầu vào cái tròng mới.
Một nỗi đau lòng tủi nhục nữa của dân các nước nhược tiểu chậm tiến là người ta bảo chúng ta không đủ tư cách hưởng tự do, dân chủ. Chẳng những bọn thực dân nghĩ như vậy, ngay bọn cần quyền, tuy chẳng nói thẳng ra, chứ cũng nghĩ như vậy, hành động như vậy.
Kể ra thì cũng có phần nào đúng: chúng ta có được học hành gì đâu, khi mới giành độc lập thì tám, chín chục phần trăm không biết đọc biết viết, có hiểu gì về dân chủ, hiến pháp, tự do. Trong truyện Ả Q của Lỗ Tấn, dân thôn Vị trang gọi đảng Tự do là đảng “Dầu cậy” vì tiếng Trung Hoa “tự do” và “thị du” (tức dầu cậy, dầu một thứ cây có nhựa để phết quạt giấy hồi xưa) đọc như nhau và họ lầm chữ nọ với chữ kia. Đó là một lối mỉa mai cay độc của Lỗ Tấn; nhưng sự thực phải nhận rằng ngay dân chúng nước ta hiện nay sau hai chục năm độc lập vẫn chưa biết dùng quyền tự do dân chủ của mình.
Không cần dẫn chứng nhiều, cứ xét các cuộc bầu cử từ trước tới nay thì đủ biết. Người dân có quyền đi bầu hay không đi bầu để phản kháng một chính thể, nhưng dưới trào Ngô, có bao nhiêu người không muốn đi bầu mà vẫn phải đi bầu! Thậm chí có người không dám bỏ những phiếu không hợp lệ nữa, sợ chúng biết mà làm khó dễ. Mười người đi bầu thì chín người bỏ cho con gà, con ong, cái cày hay bó đuốc, chỉ vì con gà là dấu hiệu cho một người ở trong nghề với mình, con ong là dấu hiệu của một người trong phái nữ với mình, cái cày là dấu hiệu của một người mặt mũi coi cũng bảnh bao, bó đuốc là dấu hiệu của một người có quyền thế trong miền. Có khi chẳng cần chọn lựa gì cả, lấy đại một dấu hiệu một tên nào đó bỏ vào thùng phiếu cho xong chuyện.
Nhưng lỗi đó tại ai? Tại nhà cầm quyền (tôi xét chung các nước chậm tiến chứ không riêng gì nước ta). Họ có cả ngàn cách để doạ dẫm, đàn áp, ảnh hưởng tới lá phiếu của dân, đổi trắng thay đen, thậm chí tạo cả ra những phiếu ma nữa, mà phiếu ma nhiều hơn phiếu thật. Và để che mắt thiên hạ - họ tưởng vậy – họ cũng rầm rộ sai cán bộ dùng đài phát thanh, dùng loa, dùng báo chí giải thích cho dân cách bỏ phiếu, nhắc nhở họ phải lựa chọn người có tài có đức, nhưng một mặt họ vẫn cho tai sai đi gí súng vào lương dân bắt phải rút tên khỏi sổ ứng củ viên ra; hoặc nếu là cử tri, thì phải bỏ cho tên này, tên khác, nếu không thì “bỏ mẹ cái đời”.
Họ cũng tạo ra hiến pháp, và hiến pháp nào cũng có vẻ dân chủ đáo để, tiến bộ ra phết, cũng tách hẳn ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, cũng đảm bảo đủ những tự do căn bản cho dân chúng: tự do tín ngưỡng, tự do hội họp, tự do cá nhân… nhưng luôn luôn họ không quên thêm một vài điều khoản để hạn chế tất cả những tự do đó lại, để quyền tư pháp và lập pháp lệ thuộc quyền hành pháp. “Dân chưa đủ tư cách để hưởng tự do, dân chủ mà!”
Thành thử dưới thời thực dân, người ta chỉ mong đuổi được thực dân đi để hưởng tự do và dân chủ; sau khi dân đổ máu để đuổi được thực dân rồi thì lại bị đàn áp hơn thời thực dân nữa. Thực dân khôn ngoan còn cho dân nói nhiều, thực dân đi rồi, người ta khép mỏ dân lại thật chặt. Cứ so sánh chế độ kiểm duyệt thờ Ngô với chế độ kiểm duyệt thời Pháp; cứ so sánh quyền hành của các ông thẩm phán dưới thời Ngô với dưới thời Pháp thì đủ thấy.
Tuyệt nhiên người ta không dung túng đối lập. Người ta tạo ra một thứ dân chủ không có đối lập, một thứ tự do câm miệng; vì người ta cho rằng dân chưa đủ trưởng thành, và chỉ riêng người ta mới trưởng thành.
Vì người ta đã trưởng thành, nên người ta được hưởng mọi quyền tự do. Tự do thủ tiêu thằng dân nào không chịu theo mình, tự do sửa đổi hiến pháp, tự do sửa đổi những phiếu bầu cử, tiền tệ, tự do buôn quan bán chức, tự do làm chợ đen, tự do cho nhập cảng các phim đồi truỵ để đầu độc dân, tự do mở sòng bạc, tự do buôn bán thuốc phiện trong khi cấm dân hút thuốc phiện, tự do tăng thuế, có khi tự do thu thế non nữa như một ông tướng nào đó ở Trung Hoa thu thuế trước cả chục năm – có người nói năm chục năm – của dân, tự do chiếm đất công chia nhau cất nhà, tự do bất chấp pháp luật – vì pháp luật do người ta tạo ra mà – và tự do ăn hối lộ.
Tôi không ám chỉ riêng nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến của chúng ta đâu. Nước Trung Hoa năm ngàn năm văn hiến thì cũng vậy.
Đọc lại tạp bút của Lỗ Tấn, của Lâm Ngữ Đường viết cách đây ba bốn chục năm, tôi có cảm tưởng như đọc thời sự trên báo hàng ngày ở Sài Gòn mới ra hôm qua. Tôi xin giới thiệu với bạn đọc những bài Cái mặt và nền pháp trị, Dân tộc có ngón tay dính, Cảm tưởng lúc ăn bánh nếp của Lâm Ngữ Đường, và một đoạn trong bài Nói về cái mặt của Lổ Tấn, mà bạn tôi, ông Giản Chi đã dịch và đăng trên tạp chí Văn số 33. Thật là thú vị.
Tôi xin trích ít câu:
“Hạm đội của hải quân thì cứ dùng mà chở thuốc phiện. Ông Trưởng Ty cấm thuốc phiện thì cứ đích thân xin mua thuốc phiện”.
“Anh phu xe ăn cắp một túi tiền, bị người ta tóm được thì “bẽ mặt” mà người “thượng lưu” vét một mẻ ngọc vàng châu báu, lại hình như không thấy gì là “bẽ mặt”, họ lại còn cái “xuất dương quan sát” làm phương thuốc hay để “đổi cái mặt” nữa kia”.
Chuyện một nước non nửa thế kỷ trước sao mà lại ứng vào chuyện nhiều nước non nửa thế kỷ sau thì có vui không chứ! Chỉ có danh thì thay đổi: “Xuất dương quan sát” đã thành “đại sứ lưu động”.
Rồi cái dân tộc “có ngón tay dính” “hễ cứ tiền bạc tới tay là thế nào cũng có một phần dính lại, mười đồng qua tay một đồng dính lại”. Cái dân tộc mà các quan lớn miệng lưỡi lúc nào cũng “dính nhằng cả lại” vì bị cho “xơi bánh nếp” có phải là hình ảnh rất trung thực của dân tộc Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai… lúc này không?
Có điều các ông lớn Trung Hoa sớm “tự do” “trưởng thành” theo lối đó, nên mặc dầu được Mỹ viện trợ hết lòng mà rồi cũng phải bay qua Đài Loan hết ráo. Họ may mắn có được một đảo Đài Loan do hạm đội Thứ bảy của Mỹ che chở, còn các nước khác có được một đảo như vậy không? Nước mình thì khỏi lo: Có cả quần đảo Côn Lôn đó!
Nhưng tôi lại nghĩ đến dân tộc Ấn Độ. Ở châu Á này, gọi là chậm tiến thì có lẽ không dân tộc nào bằng dân tộc đó: chia rẽ thế giới về tập cấp (caste), có báo nói nội trong hai tập cấp tiện dân (intouchable) của họ cũng gồm cả trăm tập cấp; chia rẽ về tôn giáo, chia rẽ về ngôn ngữ, độc lập trên hai mươi năm rồi mà tiếng Hindi vẫn chưa được dùng làm ngôn ngữ chính thức, ngôn ngữ chính thức vẫn là tiếng Anh; rồi còn mấy trăm triệu dân mù chữ, mấy trăm triệu dân thờ bò, thấy bò ăn lúa thì chỉ xá xá, mời Ngài đi, chứ không dám đuổi, còn biết bao hủ tục khác nữa; thế mà các chính khách Âu Mỹ khen Ấn Độ là một nước rất tấn bộ, tự do dân chủ vào bực nhất châu Á, hơn cả nhiều nước Tây Âu, như Y Pha Nho, Bồ Đào Nha, chứ không khen là một nước có nhà lãnh đạo “hùng”; vì vậy sự chậm tiến của một quốc gia là do sự chậm tiến của dân chúng hay là do sự chậm tiến của kẻ cầm quyền nước đó? Một dân tộc nào không đủ tư cách hưởng tự do dân chủ không hay là chỉ có những kẻ cầm quyền không đủ tư cách dạy dân?[1] Vậy muốn cho quốc gia mau tiến thì cần những nhà cầm quyền như Nehru hay những nhà cầm quyền như những ông tướng Trung Hoa có cái “mặt” phình to như cái mẹt và những ngón tay “dính” như keo, lấy lẽ rằng dân chúng chưa trưởng thành, chưa đủ tư cách hưởng tự do, dân chủ thực sự, chỉ mượn cái chiêu bài tự do dân chủ bánh vẽ để gạt gẫm họ, giẫm lên thây dân chúng mà leo lên thang chính trị, rồi giữ riêng cho mình cái quyền tự do đàn áp, tự do chính trị, vơ vét cho đến khi cái mặt dày quá rồi thì tự do làm đại sứ lưu động – tôi lầm: tự do “xuất dương quan sát” chứ - để đổi cái mặt như Lỗ Tấn nói.
Có kẻ bảo người Mỹ ngu. Không, họ không ngu. Ngu mà sao bắt Liên Xô[2] phải gỡ hết hoả tiễn ở Cuba, mà hất chân được Anh ở Ả Rập, thắng được Trung Quốc ở Mã Lai? Tôi cho rằng họ là dân tộc sản xuất những phim cao bồi Texas cho nên vẫn khoái hạng người hùng kiểu Hitler, Mussolini, mà chính họ, họ không hay.
Tôi nhớ dăm sáu năm trước, một nhà báo Mỹ khen Ngô Đình Diệm là người bé nhỏ nhất mà “hùng” nhất châu Á, ngày nay lại có một số chính khách Mỹ mong Việt Nam có một nhà lãnh đạo “hùng” nữa. Tất nhiên họ không ưa hạng người hùng kiểu De Gaule, chỉ khoái bọn người hùng chịu phục tùng họ. Và nhiều chính khách Việt Nam hình như cũng khoái làm người hùng made in USA; nhưng dân tộc Việt Nam thì ngán các ông hùng lắm, các ông ấy càng hùng thì càng chết dân. Ấy thà cứ như Nehru, chỉ có một tấm lòng thành chứ không cần hùng với dân với nước mà lại phước cho dân. Khốn nỗi, hạng người như Nehru, khắp thế giới được mấy người; còn hạng người hùng như các ông tướng Tàu thì mỗi nước nhược tiểu, chậm tiến như nước ta có được mấy ngàn hay mấy vạn?
Long Xuyên ngày 11.9.1966

Chú thích:
[1] Chắc sách in thiếu chữ “Có” ở đầu câu? (Goldfish).
[2] Chắc trong nguyên tác viết là Nga sô? (Goldfish). 
- 7 -
Một Nền Giáo Dục Phục Vụ
Tháng chín năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, viên kĩ sư Nhật Giám đốc sở Thuỷ lợi Nam Việt mời một số anh em chúng tôi lại để bàn giao công việc. Tôi còn nhớ lời cuối cùng của ông ta:
“Nước Việt Nam các ông thế nào cũng được độc lập, còn nước Nhật chúng tôi không hy vọng gì ngóc lên được nữa. Tôi chúc các ông may mắn”.
Trong khi nói một tay ông bấu mạnh vào bụng, mồ hôi nhễ nhại, vẻ mặt đau đớn. Tôi có cảm tưởng ông đứt từng khút ruột. Lúc đó tôi cũng tin rằng Nhật đã hết thời, may mắn lắm là còn giữ được cái tên trên bản đồ thế giới. Ba bốn năm sau tôi được đọc một sách Pháp (lâu quá tôi quên mất tên tác giả và nhan đề) ghi lại lời một tướng Đức, đồ đệ trung kiên của Hitler khi Bá Linh bị Đồng minh chiếm đóng. Đại ý ông ta dặn đồng chí không nên thất vọng, có thể khai thác những mâu thuẫn giữa đồng minh mà giành lại địa vị trên bàn cờ Quốc tế, một địa vị mà dân tộc Nhật Nhĩ Man được hưởng. Lời đó làm cho tôi suy nghĩ lung.
Ngày nay tôi thấy rằng nhận định của viên tướng Đức này đúng hơn nhận định của viên kĩ sư Nhật kia. Chiến tranh kết liễu mới hơn hai chục năm mà Đức và Nhật giành lại được địa vị họ, ít nhất là về mặt kinh tế. Kinh tế của Đức thịnh vượng hơn cả kinh tế của Anh; đồng mack của Tây Đức có giá trị hơn đồng bảng Anh, đồng quan của Pháp, mà mức sống của họ cao nhất Tây Âu. Nhật còn thịnh vượng hơn nữa: khắp thế giới ngay cả Mĩ, đều mua máy chụp hình, đồng hồ, máy thâu thanh của họ, xe Honda, xe Suzuki, các loại máy của nhà National tràn ngập thị trường Việt Nam, kĩ nghệ đóng tàu của họ đứng bậc nhất thế giới, và kĩ thuật điện tử của họ cũng vượt cả Đức, Mĩ. Hễ mạnh về kinh tế thì mạnh về chính trị mà hễ tấn bộ về kĩ nghệ thì cũng dễ tấn bộ về vũ khí. Không một dân tộc nào dám coi thường hai dân tộc bại trận đó, họ đã vượt được nhiều dân tộc thắng họ hai mươi mấy năm trước. Mĩ đã vuốt ve Nhật; rồi đây cả Mĩ lẫn Nga cũng phải vuốt ve Tây Đức nữa.
Bây giờ nhìn lại tình cảnh nước mình. Năm 1945 anh em chúng tôi đều tin lời viên kĩ sư Nhật: Đồng minh đã thắng trận, tất sẽ trả độc lập cho Việt Nam và chỉ năm mười năm sau dân tộc mình sẽ thịnh vượng, canh nông và kĩ nghệ sẽ phát triển, mức sống của dân sẽ cao, trình độ văn hoá của đại chúng sẽ tiến… Chúng tôi quá ngây thơ. Chính sách thực dân cũ chưa chết: Pháp được sự ủng hộ của Anh, Mĩ đổ bộ lên miền Nam để mong tái chiếm nước mình. Phải đổ máu tám chín năm mới đuổi đi được. Khi đuổi được họ thì nước bị chia đôi; chính sách thực dân cũ cáo chung nhưng lại thay bằng chính sách thực dân mới tai hại cũng không kém. Phải hoàn toàn lệ thuộc về kinh tế, chúng ta lần lần mất chủ quyền về chính trị. Non sông còn đó nhưng vận mạng ba chục triệu dân ở cả trong tay người.
Thế là ông cha ta mất một cơ hội canh tân ở thế kỉ trước; qua thế kỉ này chúng ta lại mất hai cơ hội nữa: 1945 vì thực dân cũ, và 1954 vì thực dân mới. Canh nông đã chẳng tiến bộ mà còn thụt lùi, kĩ nghệ không phát triển, vì chỉ chuyên vô hộp và lắp máy chứ có sản xuất được gì đâu, mà cơ quan hành chánh thì thối nát bất lực gấp mười hồi tiền chiến, xã hội tan rã, sa đoạ kinh khủng, chưa hề thấy trong lịch sử dân tộc. Sau hai mươi năm giành lại được độc lập, Việt Nam đã thành một sân banh như ông Nguyễn Văn Trung đã chua xót nhận xét trong tập Nhận định IV.
Nhưng ít nhất trong hai chục năm đó chúng ta cũng đã rút ra được một kinh nghiệm: đừng trông mong gì ở ngoài cả, phải giành lại cho được quyền tự quyết, phải thắt bụng lại, nai lưng ra làm việc, sản xuất cho mạnh mà chi tiêu bớt đi, từ chối mọi viện trợ về các món xa xỉ vì nhận là tự đầu độc đấy, đầu độc tới cả thế hệ con cháu mình nữa. Tóm lại chúng ta phải tự cứu lấy ta.
Trong một nước kém phát triển như nước mình, nhất là sau khi một phần tư thế kỉ chịu tai hoạ chiến tranh, sinh lộ độc nhất là phát triển mạnh về kinh tế. Kinh tế có tấn bộ thì mới có những tấn bộ khác về xã hội, chính trị, văn hoá. Điều đó chúng tôi đã trình bày với độc giả trong cuốn Một niềm tin.
 
Mà muốn cho kinh tế phát triển thì phải đào tạo một lớp thanh niên có một vốn kĩ thuật đủ dùng, có phương pháp làm việc, có tinh thần phục vụ trước hết rồi mới nói tới chuyện hưởng thụ. Tương lai dân tộc một phần lớn tuỳ thuộc hạng thanh niên đó và học đường phải nhằm mục đích đào tạo họ.
Về sự cần thiết đào tạo gấp các kĩ thuật gia, rút bớt các trường phổ thông mà mở thêm nhiều trường chuyên nghiệp, trong mười năm nay biết bao cuộc hội thảo, biết bao bài báo bàn đi bài lại rồi.
Người ta đã trách nền giáo dục hiện thời mỗi năm đào tạo cả trăm ngàn thanh niên may mắn lắm là cạo giấy được chứ không làm việc gì khác, mà lại khinh những nghề tay chân.
Người ta đưa ra những thống kê cho biết số học sinh trường kĩ thuật bằng 3 – 4% số học sinh phổ thông. Số sinh viên Y khoa, Nha khoa, Dược khoa, Kiến trúc, Công chính, Điện… gom cả lại không bằng số sinh viên Luật khoa mà số sinh viên này còn kém xa số sinh viên Văn khoa (5.500 Luật/ 7.200 Văn ở Đại học Sài Gòn niên khoá 1965-66).
Người ta đã đề nghị mở thêm một trường kĩ thuật trung cấp cho mỗi tỉnh, tạo thêm các ngành chuyên nghiệp ở Đại học, tăng cường thêm giáo sư, đào tạo thêm, miễn quân dịch cho họ, sửa đổi chế độ Đại học v.v…
Những điều đó ai cũng nhận là đúng, chắc chính quyền cũng vậy, nhưng chỉ bỏ ra được 2,5%[1] lợi tức còm của quốc gia thì dẫu có thánh cũng chẳng làm được gì. Cho nên chúng ta khỏi phải bàn làm chi cho mất công. Chúng tôi chỉ xin bàn dưới đây về điểm thứ nhì: tinh thần phục vụ của thanh niên, đặc biệt của hạng ưu tú nhất, tức sinh viên tốt nghiệp Đại học và Cao đẳng.
Theo báo Chính luận ngày 27.7.67 thì trong cuộc hội thảo về Mục tiêu quốc gia ở Đà Lạt vừa rồi, giáo sư Nguyễn Cao Hách bảo:
“Nếu mỗi sinh viên học thuốc với mục đích tốt nghiệp thì đi chửa bệnh cho bọn nhà giàu, nếu học luật với mục đích đi biện hộ cho bọn có tiền, nếu học Dược để xin độc quyền khai thác bằng sáng chế của ngoại quốc (…) thì có thể coi nền Giáo dục VN đã chết và cả quốc gia này cũng đã chết rồi”.
Ông còn cho ta hay rằng mỗi năm chính quyền tiêu hai triệu cho một sinh viên Y khoa rồi ông kêu gọi sinh viên phục vụ người nghèo chứ đừng dùng văn bằng đại học để khai thác xã hội.
Đó là lời của giáo sư. Đây là lời tự thú của sinh viên: “Đại học Dược khoa hiện tại chỉ đào tạo những địa vị dược sĩ, những chủ hiệu thuốc tây hay rõ ràng hơn, những tấm bằng có thể cho thuê để mở nhà thuốc” (Nội san sinh viên số 4, ngày 1.6.67). Ai cũng biết rằng những tấm bằng đó hiện nay giá từ 30.000 đồng đến 50.000 đồng mỗi tháng tuỳ miền; mà lương giảng viên hay giảng sư chỉ được từ 12.000 đến 15.000 đồng.
Nói tới Dược khoa thì ai cũng nghĩ ngay tới Y khoa. Tôi biết có một số vị bác sĩ già và trẻ nữa có lương tâm mà lại tiết kiệm tiền bạc cho bệnh nhân, nhưng tôi cũng biết mười mấy năm nay mới phát sinh một lối chữa bệnh rất lạ lùng, chẳng hạn như có ông bác sĩ coi mạch qua loa rồi bất kì bệnh nhân mắc chứng gì cũng cho chích hai mũi thuốc, chẳng biết thuốc gì. Bệnh nhân nào cũng nằm cho ông chích hai mũi, chứ không ba cũng không một.
Lại có ông quay sẵn ronéo một xấp toa: bệnh nhân tới, bị bệnh bao tử chẳng hạn, thì ông ta rút ngay ra một cái toa kê độ mười lăm thứ thuốc trị bao tử, cả thuốc uống lẫn thuốc chích, rồi đánh dấu chữ X lên tên sáu thứ, bảo bệnh nhân lại tiệm thuốc mua. Chính tôi đã được một ông lão nhà nghèo rớt, qua hai con sông lớn ra tỉnh đi bác sĩ, rồi lại thăm tôi đưa cho tôi coi một cái toa như vậy. Không có một hàng chữ chỉ dẫn cách uống thuốc ra sao. Người ta chỉ dặn miệng. Tôi nghĩ bụng: đúng là phương pháp hợp lí hoá của Taylor đây: chuẩn bị, nhất loạt hoá mẫu mực, tiết kiệm cử động và thời giờ, dự trữ v.v… đủ cả.
Lần đó là lần đầu tiên ông lão gần bảy mươi tuổi đó đi bác sĩ, mà cũng là lần cuối cùng, vì không có tiền đi lần nữa. Ít lâu sau ông chết. Tội nghiệp cho dân quê! Đã nhiều lần tôi đề nghị với vài bác sĩ quen viết một tập mỏng nhan đề là “Đi bác sĩ nên biết” hoặc “Dùng thuốc Tây nên biết” để giúp những người dân ít học, chất phác biết mà nhận định rồi đề phòng, nhưng vị nào cũng chỉ làm thinh chắc các ông ấy nghĩ thầm: “Hắn muốn mình đóng vai Don Quichotte đây”.
Đúng lắm, phải có nhiều cán bộ đủ mọi ngành mọi cấp (Do Thái có cả chục cán bộ canh nông cho mỗi làng nên trong 15 năm họ đã biến đổi 65% sa mạc khô cháy Neguev thành ruộng mơn mởn được) và mỗi cán bộ phải có tinh thần phục vụ dân chúng thì nước Việt Nam mình mới tồn tại được. Đào tạo cán bộ không phải là khó, nhưng làm sao tiêm cho họ được tinh thần phục vụ đây? Đã có vị Viện trưởng Đại học nào nghĩ tới điều đó chưa nhỉ?
Tôi chẳng có chút kinh nghiệm gì về cái tổ chức Đại học cả, những ý kiến dưới đây của tôi tất là thô thiển nên phải xin lỗi trước các vị Viện trưởng và Khoa trưởng.
Ý nghĩ của tôi là đừng đua đòi các ông Tây, ông Mĩ nữa. Các ông ấy đã có một chế độ Đại học cả mấy trăm năm rồi, các ông ấy giàu quá rồi, mình như vầy làm sao theo cho kịp, thôi thì mình cứ tuỳ nhu cầu hiện tại của dân mà đào tạo thanh niên.
Quốc dân cần gì? Cần có nhiều cán bộ được việc nhất, nhất là hạng cán bộ nông thôn. Vậy ta cứ lập những trường Cán bộ hay trường Phục vụ, trường Cứu quốc… gì gì cũng được, miễn là đừng dùng những tên cũ: Trung học, Đại học, Cao đẳng. Sẽ có những trường Cán bộ I, cấp II, cấp III hoặc Phục vụ I, II, III…
Tôi không lập dị đâu. Cụ Khổng ngày xưa bảo danh có chính thì ngôn mới thuận, nếu gọi Trung học, Đại học, thì người ta chỉ nghĩ tới chuyện học để lên cấp trung, cấp đại, rồi ra kiếm tiền cho được “đại”, để thành đại quý, đại phú, đại sư, đại sứ… chứ không nghĩ tới chuyện phục vụ, cứu quốc. Và chuyện đổi danh thì vẫn là chuyện vẫn thường thấy trong mấy chục năm nay: đại diện xã (để thay xã trưởng), bộ trưởng (để thay thượng thư) rồi uỷ viên (để thay bộ trưởng) v.v…
Mà những sự đổi danh đó nhiều khi chỉ là đổi nhãn (tôi chẳng thấy một ông uỷ viên khác một ông bộ trưởng ở chỗ nào). Còn sự đổi danh tôi đề nghị ở đây không phải là chuyện hình thức mà còn rất hợp với nội dung. Những trường Cán bộ hay Phục vụ gì đó sẽ có một chương trình khác: bỏ hết những cái gì không có lợi ích thiết thực, những cái phù phiếm đi (sau này khi nào chúng ta tấn bộ kha khá rồi sẽ nghĩ tới cái phù phiếm vì tôi nhận rằng những cái phù phiếm cũng có ích nếu hợp thời); sẽ có một lối dạy khác: chẳng hạn ba tháng lí thuyết thì vài tháng thực tập trong xưởng, ở đồng ruộng hoặc trong công sở, trong các công cuộc xã hội, như vậy cho học sinh quen làm việc tiếp với nhân dân và giúp đỡ nhân dân. Có thể bãi bỏ các kì thi lên lớp, ra trường, căn cứ vào cái điểm về lí thuyết, nhất là về thực tập mà cho lên lớp, như vậy tất nhiên là bãi bỏ luôn được cả bằng cấp.
Hết cấp II chẳng hạn, hoặc ngay ở đầu cấp III (tôi không nói rằng tương đương với Trung học đệ nhị cấp của ta hiện nay vì khác nhau hẳn, không thể so sánh được) người ta sẽ lựa một số học sinh thông minh, có năng khiếu riêng, có óc suy xét tìm tòi, có sáng kiến, để đào tạo trong những lớp riêng, sau này thành những học giả, những nhà nghiên cứu, những nghệ sĩ... chứ cứ như bây giờ, thanh niên chẳng có óc tìm tòi cũng vào Đại học, mà giáo sư chẳng có thành tích tìm tòi cũng mời vào Đại học để đọc “cua” cho sinh viên chép thì Đại học đó chỉ đào tạo những con người vênh vênh tự đắc về bằng cấp rồi đòi được hưởng thụ nhiều chứ làm sao khác được.
Ở trường Cán bộ ra, bất kỳ là cấp nào, thanh niên cũng phải phục vụ quốc gia trong một thời gian là ba hoặc năm năm. Riêng ở trường Cán bộ Y khoa cấp III ra, họ phải phục vụ mười năm vì sự đào tạo họ tốn kém cho quốc dân quá mà cũng vì dân nghèo cần sự phục vụ cho họ. Về môn Dược, tôi nghĩ chỉ cần đào tạo một số ít người có thực tài sau này chuyên nghiên cứu về dược. Còn việc bán thuốc, không xứng với sở học các vị ấy, có thể miễn cho họ được. Chúng ta cứ quá theo Pháp, chứ Mĩ đâu phải ở Đại học ra mới bán thuốc được mà dân Mĩ còn khoẻ mạnh hơn dân Pháp nữa.
Bạn sẽ hỏi tôi:
- Như vậy bằng cấp của mình không tương đương với bằng cấp Âu Mĩ?
- Thưa, dĩ nhiên rồi. Mà cần gì phải tương đương? Mình đào tạo thanh niên cho mình, theo nhu cầu hiện thời của nước mình mà. Tôi cần ăn gạo lứt Rạch Giá để có sinh tố B1, B2 thì tôi mua gạo lứt, cần gì phải hỏi xem ông hàng xóm ăn gạo gì, gạo Mỹ hay Thái Lan?
- Thế rồi có cho sinh viên đi du học hoặc tu nghiệp ngoại quốc không?
- Sao lại không? Còn cho đi du học nhiều nữa chứ. Chúng ta còn cần trong thế giới tự do, có một nước nào hào phóng dám nhận cả ngàn học sinh của ta nữa chứ. Họ vừa học vừa làm, để thêm kiến thức, kinh nghiệm, chứ không cần bằng cấp. Các nước đàn anh đó cứ cho họ vào những lớp, những xưởng, những trại ruộng nào đó, tuỳ theo sự hiểu biết của họ. Họ có thể làm bàng thính viên, làm thợ, làm gì cũng được miễn học thêm được thì thôi, chứ không cần bằng cấp.
Như vậy là đồng thời giải quyết luôn vấn đề trường Tây, trường Ta, trường Việt, trường Mĩ. Chương trình của chúng tôi như vậy, nhắm mục đích như vậy, ông Tây, ông Mĩ, ông Nhật, ông Đức hay ông nào khác muốn giúp đỡ và có thể giúp đỡ được thì chúng tôi cũng niềm nở đón tiếp và thành thực mang ơn; còn như theo chương trình của các ông thì chúng tôi cũng muốn lắm, nhưng nghèo, chưa theo được, xin hẹn một thời khác.
Cũng giải quyết luôn được vấn đề quay cóp, hành hung giám khảo, cả vấn đề tự trị Đại học, quy chế Đại học nữa…, vì chúng ta không có Đại học, chỉ có những trường đào tạo cán bộ phục vụ quốc dân và một số các nhà bác học có thực tài. Ai có khả năng thì mới được mời dạy, và trong khi dạy vẫn phải phục vụ, vẫn phải nghiên cứu, vẫn phải học thêm.
Sau cùng còn chận được nguy cơ xuất não nữa, vì hạng cán bộ của mình đi tu nghiệp ở ngoại quốc đó, các nước đàn anh chẳng thèm dùng đâu, dụ dỗ họ làm ở lại làm gì cho phí công[2].
 
Giải pháp đó tôi nhận là đơn giản quá; nhưng muốn diệt cái tinh thần hưởng thụ mà giáo sư Cao Văn Hách đã lên tiếng cảnh cáo ở Đà Lạt, tôi nghĩ phải theo cái hướng đó, chứ không thể chạy theo các ông Tây, ông Mĩ được; các ông ấy bỏ xa chúng ta quá rồi, mình phải kiếm con “đường tắt” như các nhà xã hội và kinh tế học phương Tây thường nói.
Bạn lại hỏi tôi rằng:
- Bắt thanh niên phục vụ khi các đàn anh họ, từ các ông lớn tới các ông bé, từ các ông chính khách tới các ông làm áp phe phè phỡn, hưởng thụ thì…
- Dạ, về điểm đó tôi xin chịu. Bí. Vì nó kẹt, kẹt quá cỡ. Cái gì cũng kẹt… Tôi xin nhận cái tội bàn suông. Chỉ tại cái ông chủ nhiệm Bách Khoa cứ thúc tôi hoài đấy thôi.
(Bách Khoa số 15.9.1967)
Chú thích:
[1] Ở Nhật con số đó là 5,2%.
[2] Bốn hàng này mới thêm sau khi chúng tôi viết bài Nguy cơ xuất não coi trong tập này.
- 8 -
Tình Hình Xuất Bản Từ Tết Mậu Thân (1968) Đến Nay
Mãi lo trăm chuyện: vật giá cứ hiên ngang leo thang mà đồng bạc cứ âm thầm xuống giá, lo làm so đủ tiêu cho tới cuối tháng; hết lo thiếu sữa, thiếu gạo, bây giờ lại lo thiếu đường; lo tin tức con cháu ngoài mặt trận, lo bị giật xách tay ở giữa đường, lo điều chỉnh tờ khai gia đình, vân vân.  Vì tinh thần lúc nào cũng căng thẳng, chỉ mưu tính cuộc sống hàng ngày cũng đủ mệt, và lần lần chúng ta muốn quên cơn ác mộng Tết Mậu thân năm ngoái.
Trong hoàn cảnh đó, ngành xuất bản ngưng trệ hẳn. Những cuốn nào in xong trước Tết, như cuốn Nước non Bình Định của thi sĩ Quách Tấn, không lẽ chất trong kho, phải đem ra phát hành trong vài tiệm sách lớn ở Sài Gòn, chứ không gởi đi xa. Ngay ở Sài Gòn, tôi đã kiếm ba lần, mỗi lần cách nhau một tuần, mới mua được.
 
Có một số nhà sách ở miền Trung tiêu tan sự nghiệp, nhà phát hành, nhà báo, nhà xuất bản cũng chịu thiệt lây, ai đâu mà dám gởi thêm nữa. Vả lại có gởi thì chẳng những không có phương tiện – ngay quân nhân và công chức kia còn phải chờ cả tuần cả tháng mới có phi cơ để về nhiệm sở - mà nhà sách cũng không muốn nhận: nhà thì lo xây dựng lại, nhà thì lo tản cư, tình hình đã êm đâu. Cũng may, hình như không có nhà văn, nhà thơ nào thiệt mạng trong biến cố.
Nhưng từ tháng sáu, tháng bảy trở đi, tình hình xuất bản lại phục hồi; tại Sài Gòn sách bắt đầu bán được kha khá, có lẽ vì mấy tháng thiếu sách, người ta đã nhớ, có lẽ vì biện pháp giới nghiêm, tối không thể đi coi hát, nhảy nhót, tán gẫu ở phòng trà, người ta đành phải kiếm sách coi cho đỡ buồn.
Tới gần cuối năm 1968, ngành xuất bản phồn thịnh lại như cũ, còn hơn cũ nữa.
Các nhà xuất bản cũ: Khai Trí, Giao Điểm, Lá Bối, An Tiêm… hoạt động trở lại. Nhà Lá Bối dám bỏ trên triệu bạc in bộ Chiến tranh và Hoà bình của Tolstoi[1]. Các nhà xuất bản thành lập năm 1967 như Trình Bày, Ca Dao, Hoàng Đông Phương hoạt động rất hăng, nhất là nhà Trình Bày. Lại thêm một số nhà mới thành lập: Mặc Lâm, Cơ quan xuất bản Phạm Quang Khai… gần như tháng nào cũng cho ra một cuốn. Ngành xuất bản như cây sậy trong thơ ngụ ngôn La Fontaine, sau cơn dông tố, lại ngóc lên. Còn đất, còn nước – tức độc giả - thì loài cỏ đó không ngại sấm sét, phong ba, sống hoài, mỗi ngày một lan rộng.
Từ khi Tin Sách của hội Việt Bút đình bản (1967), chúng tôi không được biết số sách mỗi loại xuất bản trong mỗi năm là bao nhiêu. Thư viện tập san số 4 năm 1969 có lập một bảng liệt kê “những sách có giá trị đã xuất bản hoặc tái bản cuối năm 1967 và trong năm 1968” gồm khoảng 350 cuốn. Nếu kể cả những sách “không có giá trị” thì con số phải cao hơn nhiều. Hỏi thăm vài nhà xuất bản quen, và coi mục giới thiệu sách trên các tạp chí, tuần báo, tôi rất phỏng chừng rằng từ giữa năm 1968 tới nay, mỗi tháng trung bình, chúng ta cũng có được sáu chục cuốn, không kể sách giáo khoa và truyện trẻ em, so với những năm 1964, 1965 (mỗi năm khoảng 500 cuốn), có phần tăng lên kha khá.
Về xu hướng chúng ta cũng thấy có vài điểm đáng phấn khởi hoặc đáng để ý.
Loại sáng tác (thơ, tiểu thuyết) không có xu hướng mới – một xu hướng mới không thể mỗi năm mỗi xuất hiện được – nhưng cũng có một truyện rất đặc biệt của Nguyễn Mạnh Côn: Giấc mơ của đá, một truyện triết lý nên thơ mà hơi có vẻ khoa học. Loại truyện ướt át, giật gân giảm nhiều.
Loại biên khảo không có công trình nào lớn: luật học, sử học, kinh tế học, nguồn gốc loài người, vấn đề nông dân thời Pháp thuộc, lại có cả một cuốn về khí hậu học Việt Nam (cuốn đầu tiên trong môn đó của Đỗ Đình Cương, in tốn kém lắm vì rất nhiều bản đồ, hình thống kê, mà thuộc loại khoa học, rất khó bán. Loại địa phương chí đã được một thi sĩ nổi danh, Quách Tấn, góp sức; nghe nói sau cuốn về Bình Định, ông sẽ xuất bản một cuốn về Khánh Hoà, cũng dày như cuốn trên. Loại phổ thông kiến thức tuy còn lâu mới được hoan nghênh như ở Âu Mĩ (ở Pháp có bệnh “encyclopédite” - bệnh đọc sách bách khoa) nhưng đã chiếm được một số độc giả già, và một số tiểu thuyết gia như Phan Du cũng đã bắt đầu viết vài cuốn về loại đó.
Ba điểm dưới đây đáng chú ý nhất:
1. Từ 1967 đến nay vài ba nhà xuất bản đua nhau in lại tác phẩm tiền chiến. Mới đầu là cuốn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân rồi tới cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân, cuốn này bán rất chạy, chỉ trong mấy tháng đã in thêm. Kế tiếp là một loạt tác phẩm của Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Phan Kế Bính… Nên kể thêm bộ Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức. Một nhà tính in lại bộ Quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của nhưng rồi bỏ vì phí tổn nặng quá.
Xét chung, các tiểu thuyết tiền chiến bán không mạnh: người già đọc lại không thấy say mê như hồi ba chục năm trước; còn người trẻ thì phần lớn do tò mò mà đọc chứ không ham: thời nào có văn học thời nấy, và càng lùi xa nhìn lại thì thấy những tác phẩm “vượt thời gian” quả thật là hiếm. Lâm Ngữ Đường bảo từ cuộc vận động Ngũ tứ (4.5.1919) tới năm 1960, Trung Hoa chỉ được hai nhà thơ và ba bốn nhà viết truyện ngắn, tuỳ bút là thực có tài. Chúng ta cũng không nên hi vọng gì nhiều hơn cho văn học Việt Nam.
2. Số sách dịch tăng lên rất nhiều, tuy không gây nổi một phong trào, nhưng đã được quốc dân coi trọng, và sau quốc dân tới chính quyền, nghe nói Bộ Văn hoá đã lập một uỷ ban dịch sách cổ và kim, đã được mấy chục nhà sẵn sàng hợp tác, nhưng vẫn chưa có ngân sách.
Chúng ta không chuyên dịch sách Mỹ, sách Pháp nữa, mà đã dịch sách Nhật, Đức, Nga (nghe nói có nhà xuất bản sắp in Anna Karenin, Anh em nhà Karamazov, và sắp có một bản dịch rút ngắn Chiến tranh và Hoà bình)… Đặc biệt nhà Ca Dao, trừ tập thơ của ông Giám Đốc, còn toàn là sách dịch, dịch sách Đức (Herman Hesse), Ấn Độ (Khrisnamurti), nhất là truyện của các dân tộc da đen. Độc giả bắt đầu làm quen với Freud, Fromm, Lecomte du Nouy… kiến thức sẽ mở rộng hơn.
3. Điểm đáng mừng nhất là sau khi xô bồ tiếp thu một vài khía cạnh của văn minh phương Tây, khía cạnh vật chất và nổi loạn, độc giả cơ hồ đã bắt đầu chán ngán. Một mặt người ta bắt đầu trở về tinh thần Đông phương: hai ba nhà giành nhau dịch Khrisnamurti, Hesse (người Đức nhưng có tinh thần Đông phương), hai bộ Kinh Dịch nối tiếp nhau ra đời: một bộ của Bộ Quốc gia Giáo dục, một bộ của cụ Phan Bội Châu (nhà Khai Trí xuất bản), bộ sau này, mười mấy năm trước tôi đã đề nghị một cơ quan chính quyền in nhưng người ta gạt bỏ; rồi thêm những công trình biên khảo về nếp sống cổ Việt Nam, tế lễ, phong tục, tôn giáo… của Đỗ Bằng Đoàn, nhất là Toan Ánh cũng được hoan nghênh hơn hồi trước nhiều, chỉ trong hai năm, đã thấy xuất hiện năm sáu cuốn dày độ 400 - 500 trang. – Mặt khác, người ta bắt đầu tìm hiểu các dân tộc nhược tiểu cùng cảnh ngộ của mình: Ấn Độ, châu Phi, Do Thái, Ả Rập… Cơ hồ như người viết không được đả động tới chính sách thực dân ở nước mình nên vạch cái nạn thực dân ở Trung Đông, Cận Đông, Phi Châu để vơi bớt nỗi lòng; còn độc giả đọc lịch sử các dân tộc anh em đó, nhận được hình ảnh của dân tộc mình, nghe tác giả mạt sát dã tâm của thực dân Anh, Pháp chẳng hạn, cũng thấy khoan khoái trong bụng.
Sau cùng tôi nhắc qua về loại Sách hồng. Đầu năm 1967, trong bài Tình hình xuất bản 1966 (Tin Sách – tháng 6 năm 1967), tôi viết: “Vài nhà xuất bản đã định ra loại sách đó để góp công vào sự giáo dục thiếu nhi. Hình như trước hết là nhà xuất bản Đông Phương cho ra được ít tập – mỗi tập 32 trang, 10$ - tiếp theo là một vài nhà khác cũng lèo tèo được ít tập, hiện nay thêm nhà Khai Trí ra một loạt trên 10 tập, và nghe nói đã có sẵn bản thảo của 80 – 90 tập nữa. Nhiều nhà văn tên tuổi đã hợp tác như Phan Du, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tất Điều… nhưng hỏi thăm thì sách chỉ in có 5.000, bán chậm. Loại đó bán giá đó mà in số đó thì tình hình đáng gọi là chán nản. Trẻ vẫn thích những truyện có đầy hình lem luốc, với vài lời chú giải lăng nhăng. Tôi đã đưa hai chục tập Sách hồng cho một đứa cháu mười tuổi, mới đầu nó cũng không thích bằng những truyện hình, nhưng đọc hết mươi, mười lăm tập rồi, nó thấy quen và mỗi ngày nó đòi có một tập để đọc. Có ngày nó ngốn 2 tập, 3 tập. Tôi nghĩ bản tính con người dù trẻ dù già đều làm biếng, ít chịu vận động trí óc, nên trong sự giáo dục, không nghĩ đến cái vui thích của trẻ thì thì hỏng. Nói đến giáo dục thì thế nào cũng có chút ép buộc cho vào khuôn, và món ăn tinh thần nào cũng phải có một thời gian rồi mới hợp với “khẩu vị” của chúng được. Cần có những nhà xuất bản tiếp tục cho ra đều đều loại Sách hồng đó, mà cũng cần có những bậc, thầy học ép trẻ đọc những sách đó mới được. Sau một thời gian chúng sẽ quen, miễn là phải có đều đều cho chúng đọc.
Trở lên trên là hoạt động của tư nhân. Tóm lại tôi lạc quan và tôi vẫn giữ ý kiến của tôi trong bài “tình hình xuất bản trong năm 1966”: “…trong tất cả các ngành sản xuất của nước nhà, từ canh nông tới tiểu công nghệ, kỹ nghệ, chỉ có ngành xuất bản là (…) phát triển mạnh nhất, chịu hy sinh nhiều nhất”.
Trong khi đó hoạt động của chính quyền về văn hoá mỗi ngày một sút. Văn hoá nguyệt san âm thầm đình bản. Bộ Quốc gia Giáo dục in được vài bộ sách dịch: Luận ngữ, Kinh dịch, Kinh thi, bộ này công phu nhất. Nhưng dự định của chính quyền thì đáng kể lắm: uỷ ban Điển chế văn tự thành lập từ hai năm nay, vẫn chưa điển chế một tiết (mot) nào; rồi uỷ ban dịch sách kim cổ mới thành lập đây cũng chưa làm được gì. Nên vài năm nữa, sau khi hoà bình vãn hồi, thì mới làm sao? Nhưng đó là việc của chính quyền sau này, chính quyền hiện thời chưa cần nghĩ tới. Đúng như quy tắc của cổ nhân: Đắc nhất nhật, quá nhất nhật – Hơi đâu mà lo xa.
Muốn hiểu được sự hy sinh của ngành xuất bản mấy năm nay, chúng ta cần biết điều kiện làm việc của các nhà cầm bút và các nhà xuất bản.
Năm 1967, Quốc hội lập hiến đã đặt nguyên tắc tự do ngôn luận, rồi Thiếu tướng Kỳ cũng hứa sẽ nới tay, chỉ kiểm duyệt về tin tức chiến tranh và kinh tế thôi; đầu năm nay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đồng ý với các văn nghệ sĩ nên bãi bỏ kiểm duyệt. Nhưng chính sách kiểm duyệt sách đã chẳng bãi bỏ mà còn có phần gắt gao hơn trước, hơn cả thời Ngô Đình Diệm và thời Pháp thuộc. Vài nhà xuất bản đã bị cấm in mấy cuốn, và vụ nhà văn V. Ph. mới rồi làm cho giới cầm bút xôn xao. Chưa thấy Bộ Văn hoá và các uỷ ban văn hoá Thượng viện, Hạ viện lên tiếng. Tôi không thấy có lý do gì để bỏ kiểm duyệt báo mà không bỏ kiểm duyệt sách. Tôi mong rằng vấn đề đó sẽ được giải quyết trong một ngày gần đây để chúng ta có thể tranh đấu về văn hoá: chế độ Tự do nếu có sức mạnh nào thì là ở chính sách Tự do, tự do mà không hỗn độn; có tự do thì dân mới tin, mới hăng hái, biết nhận trách nhiệm, giữ được tư cách.
Điểm khó khăn thứ nhì, là công việc in đã rất tốn kém (gấp ba gấp bốn năm 1963) lại rất trở ngại vì thiếu thợ. Đa số “thợ” sắp chữ là những em 15-16 tuổi, mới học tới lớp nhất; nguy nhất là thiếu thợ chạy máy, vì hạng thợ này không thể đào tạo trong nửa tháng một tháng như thợ sắp chữ được, cho nên có cuốn đương in phải ngừng lại cả tháng. Cũng không có người chuyên sửa ấn cảo nữa, nhiều khi ông giám đốc nhà in phải sửa lấy; ngay đến người sai vặt cũng thiếu, nhiều nhà in không thể gởi ấn cảo cho tác giả coi lại được, thành thử cuốn nào cũng rất nhiều lỗi. Có lẽ chỉ còn một vài nhà, lớn như Kim Lai, nhỏ như nhà Cảo Thơm, là giữ được nghệ thuật in thời trước. Cuốn Truyện con người của Phan Du, nhà Cảo Thơm trình bày vừa giản dị vừa nhã đáng gọi là hiếm thấy thời này về phương diện ấn loát.  
Giá vốn tăng lên gấp ba mà giá bán thường chỉ hơn gấp hai giá 1963 – một tuyển tập 200 trang giá trung bình là 120 đ – nên nhà xuất bản và cả tác giả phải chịu thiệt nhiều.
Điểm khó khăn thứ ba là việc phát hành mỗi ngày mỗi thu hẹp lại. Gần như chỉ còn mỗi nhà Sống Mới là đáng mang tên nhà phát hành, nhưng nghe nói lúc này kho cũng ngập sách rồi, hoạt động có giảm.  Còn những nhà khác thì đợi độc giả hỏi mua mới lấy của nhà xuất bản năm mười cuốn về bán. Nhiều khi độc giả hỏi mua họ cũng chẳng buồn lấy về bán nữa. Ông V. Ph. kể chuyện một lần ông gởi lầm 20 cuốn ông mới in cho một nhà sách nọ ở Trung. Chỉ một hai hôm, bán hết mà nhà sách không lấy thêm; hỏi tại sao, người ta đáp: Bán đồ Mỹ có lời hơn và mau hơn.
Theo lẽ thì sách đi tìm độc giả, độc giả ít khi tìm sách. Ở nước mình, lúc này trái lại, độc giả phải đi tìm sách, có khi đòi hỏi ba bốn lần mà cũng không có. Không tháng nào tôi không nhận được thư độc giả ở Trung hỏi tôi tại sao không thấy bán những cuốn này cuốn nọ. Một số nhà xuất bản đứng đắn do các nhà văn chủ trương đã nghĩ đến chuyện liên hiệp nhau để lo việc phát hành, nhưng việc gì thì cũng phải đợi tiếng súng im rồi mới có thể tính được. Hết chiến tranh nếu kinh tế không khủng hoảng mà giáo dục phát triển mạnh thì ngành xuất bản tất sẽ phát đạt gấp hai bây giờ. Lúc đó sự phát hành sẽ phải tổ chức đàng hoàng, cần phải rút kinh nghiệm của các nước tiên tiến.
Nước mình đã có ai đi du học hoặc tu nghiệp Âu Mỹ nghiên cứu về vấn đề đó chưa?
Hiện nay tình hình sản xuất tuy khả quan mà sức tiêu thụ sách có phần bi đát. Mấy tháng nay nhà xuất bản nào cũng kêu rằng số sách bán được sút hẳn đi, chỉ bằng nửa hay hai phần ba hồi cuối năm ngoái; mà báo ra định kỳ và tạp chí cũng vậy. Những báo đã lâu năm: Bách Khoa, Văn… gắng gượng để cố duy trì được tháng nào hay tháng nấy, còn những tờ khác thì ra được một số nghỉ vài số.
Nguyên do ở đâu? Tại đời sống đắt đỏ, đồng tiền khó kiếm, mãi lực của độc giả kém? Đa số độc giả thuộc gia đình quân nhân, công chức, sinh viên. Mười nhà thì chín nhà lương không đủ tiêu, mấy tháng nay ngong ngóng tăng lương, lương chưa tăng thì vật giá đã tăng lên quá mức lương sẽ tăng. Như vậy, lo ăn chưa xong, tiền đâu mua sách, mua báo.
Có người đưa ra nguyên nhân này nữa: sản xuất quá dư (mấy năm nay, nhà báo, nhà xuất bản mỗi ngày mỗi mọc thêm), nên có sự khủng hoảng về ngành xuất bản. Các nhà kinh tế học thời trước bảo sản xuất quá tự do, không có kế hoạch thì cứ khoảng mười năm lại có một cuộc khủng hoảng kinh tế, chẳng hạn, năm 1918, thế chiến thứ nhất chấm dứt, 11, 12 năm sau (1929, 1930), có cuộc khủng hoảng kinh tế mà hiện nay người ta còn nhớ. Sau thế chiến thứ nhì, nhờ các cường quốc có kế hoạch sản xuất, lại biết hợp tác nhau (Liên hiệp quốc có cơ quan giúp đỡ các nước gặp khó khăn về tài chánh: chẳng hạn giúp Anh, giúp Pháp những lúc đồng bảng, đồng quan bị phá giá) nên nhân loại tránh được các cuộc đại khủng hoảng kinh tế. Ở nước ta, ngành xuất bản cũng như các ngành khác, không có kế hoạch, sản xuất ồ ạt, cho nên năm 1958-59, đã bị một lần khủng hoảng (tính ra là hết một chu kỳ mười năm: 1948-1958); tới nay lại được mười năm nữa (1959-1969), phải chịu một cuộc khủng hoảng nữa.
Phải đợi từ nay tới cuối năm mới biết thuyết đó có đúng không. Nếu sau khi lương quân nhân, công chức tăng lên rồi, số sách báo tiêu thụ cũng tăng lên theo thì chúng ta có thể yên tâm; nếu không thì ngành xuất bản sẽ phải ngưng trệ trong vài ba năm như lần trước: số sách xuất bản sẽ giảm đi, số bản thảo trong tủ mỗi nhà cầm bút sẽ chất cao thêm, mà bọn Hoa kiều Chợ Lớn lại có dịp làm giàu nhờ sách bán xon. Và lúc đó chúng ta sẽ rút được một bài học chắc chắn cho tương lai.
Sài gòn ngày 15.8.1969[2]
Chú thích:
[1] Nguyễn Hiến Lê dịch. (Goldfish).
[2] Bài này đăng trên báo Tân Văn số 16. (Goldfish).
- 9 -
Vấn Đề Kiểm Duyệt
Dù là dưới chế độ quân chủ hay dân chủ, bất kỳ ở đâu và thời nào cũng có một lằn ranh rõ rệt giữa hai giới: giới cai trị người và giới bị người cai trị.
Xưa giới cai trị cho là cha mẹ dân, cho dân cái gì thì dân được cái nấy, dân chẳng có chút quyền gì mà chỉ có bổn phận, nếu chẳng may gặp cảnh “hà chính mãnh ư hổ” thì chỉ còn cách trốn vào rừng cày ruộng lấy mà ăn, đào giếng lấy mà uống, hoặc nổi loạn. Nhà cầm quyền ngồi vòi vọi ở trên, dân quỳ mọp ở dưới, phân cách nhau thành hai từng.
Nay giới cầm quyền do dân bầu ra, dân có quyền đòi hỏi và tranh đấu, sự phân cách theo chiều dọc giảm đi nhiều, nhưng lại có sự phân cách theo chiều ngang: chính quyền và nhân dân thành hai giới đối địch nhau. Sự mâu thuẫn có từ trong bản thể: một bên là cai trị, một bên là bị trị. Đương nhiên ở bên bị cai trị mà bước qua lằn ranh, sang bên cai trị thì tự nhiên và đột nhiên người ta thành một con người khác. Léon Blum đã nói rất đúng: “Khi người ta thành một nhà cầm quyền thì sự nhận định của người ta thay đổi hẳn”.
Ông X.X trong “Bài học Moutet” (Đuốc Nhà Nam ngày 19.6.69) đã nhắc lại chuyện Marius Moutet qua quan sát tình hình Việt Nam cuối năm 1946 để chứng minh điều đó. Moutet là một lãnh tụ của đảng Xã hội Pháp. Vậy mà khi làm bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, thì chỉ có cái tác phong bộ trưởng chứ không còn cái tác phong xã hội, cũng chủ trương như tên thực dân khát máu D’Argenlieu: diệt kháng chiến Việt Nam. Rồi ông X.X[1] kết luận:
“Té ra Marius Moutet cũng nói ra những lời không khác gì mấy ông thực dân khác. Một là ông bị họ (tức bọn thực dân) đầu độc. Hai là ông đã đổi lập trường. Ba là vì địa vị trong chính quyền đã bắt buộc ông phải từ bỏ cái lập trường xã hội. Nhưng nghĩ lại thì cũng không nên trách ông. Vì chẳng những đảng Xã hội, mà ngay đảng Cộng sản Pháp đã từng tham chánh mà vẫn không ngăn cản được chính sách dùng sức mạnh ở Việt Nam”.
Vâng, không nên trách Moutet. Nhà cầm quyền nước nào cũng vậy.
Khi Ngô Đình Diệm lên cầm quyền, tôi đã mừng rằng chính phủ thực dân không còn, chiến tranh cũng đã ngưng, thì cái việc kiểm duyệt nếu chưa bỏ hẳn được, chắc cũng không còn khắt khe như trước.
Nhưng ngược hẳn lại: người ta đã chẳng cởi ra mà mỗi ngày một thắt chặt hơn. Cái thời mà họ Ngô rung rinh cũng chính là bộ thông tin thắt thêm một vòng rất gắt: giấy phép kiểm duyệt chỉ có giá trị trong ba tháng, quá hạn phải xin triển hạn.
Sau cuộc “cách mạng” 1.11.1963, bộ Thông tin bị dân chúng đập phá sơ sơ để cảnh cáo, tôi lại hí hửng tưởng đã “cách mạng” rồi thì tất sẽ “cách” luôn cái việc kiểm duyệt, nhưng tôi cũng lại thất vọng: người ta chỉ “cách cái mạng” của ba anh em nhà họ Ngô thôi, còn chính sách kiểm duyệt cởi được mấy tháng rồi thắt lại như cũ; vậy họ Ngô không đáng sống nhưng đường lối của họ Ngô vẫn đáng theo. Cho nên một nhà báo Pháp đã bảo: “Chính sách cách mạng là chính sách Diệm mà không có Diệm” (C’est du diemisme sans Diệm).  
Trong mười mấy năm nay, trải bốn năm triều, tôi hân hạnh được quen bốn năm ông lãnh những trách nhiệm quan trong ở bộ Thông tin. Khi chưa nắm quyền các vị đó đều đã viết lách ít nhiều và vị nào cũng có tư tưởng tự do, chống chế độ kiểm duyệt; nhưng có quyền trong tay rồi, chỉ trừ mỗi một vị, còn bao nhiêu đều cứ “tuồng cũ diễn lại”. Một vị khi “ở ngoài” đã tính dịch truyện Bất phân thắng bại của Steinbeck mà khi “vô” rồi, lại “bác” truyện ngắn Một cuộc ráp cũng của Steinbeck, nội dung so với Bất phân thắng bại còn ôn hoà hơn nhiều.
Và tôi rút được những kinh nghiệm này
- Các thời đó cơ quan kiểm duyệt đối với nhà báo, nhà văn nhiều khi có vẻ như các thầy cảnh sát đối với bọn trộm cướp, một đằng cố rình, một đằng cố tìm cách lẩn. Một vị giám đốc nào đó đã chẳng có lần tự hào mà tuyên bố rằng lật tẩy được các mánh khoé tránh đòn kiểm duyệt của các nhà báo đấy ư?
- Tình hình càng đen tối, chính quyền càng lung lay thì càng gắt gao trong việc kiểm duyệt.
- Một người dù thành tâm thiện chí tới mấy, khi cầm quyền rồi cũng tự nhiên thay đổi hẳn lập trường; ta đừng ngây thơ mà nhắc tới chủ trương cùng lời hứa của họ trước kia, họ chỉ thêm bực mình mà còn thắt chặt hơn nữa chứ chẳng mở cho đâu.
- Một người cầm bút muốn khỏi tự phản bội mình, thì đừng nên bước vào chính quyền, vì vô rồi, chỉ hôm trước hôm sau mặt của mình thay đổi hẳn, chính mình cũng không nhận ra mình được nữa
Dĩ nhiên, tôi nói đó là nói chung, bao giờ cũng có biệt lệ, nhưng biệt lệ bao giờ cũng hiếm.
Từ khi “Đệ nhị Cộng hoà” thành lập, rồi Tân hiến pháp được công bố, tôi lại có chút hy vọng. Thế nào chẳng có thay đổi, không nhiều thì ít? Hai viện Thượng và Hạ đều có Uỷ ban văn hoá, vấn đề kiểm duyệt tất phải đem ra bàn. Và tôi kiên nhẫn đợi.
Lần này, không đến nỗi thất vọng hẳn. Ít nhất cũng đã bãi bỏ sự kiểm duyệt báo hằng ngày. Trên báo thỉnh thoảng còn những đoạn bỏ trắng, làm cho tôi hơi thắc mắc ở điểm, sao nhà báo không tự kiểm duyệt trước khi sắp chữ, để đổ chì, lên khuôn rồi mới đục. Nhưng dù sao, như vậy cũng là chính quyền và nhân dân đã hiểu nhau, biết hợp tác với nhau, một bên khỏi phải đóng vai cố rình, một bên phải khỏi tìm cách tránh né. Những tờ báo nào không biết tự kiểm duyệt mà có bị ngưng và đưa ra toà thì đã có công lý. Và nếu áp dụng đúng luật lệ thì rồi đây, nhà báo nào thắng kiện sẽ được chính phủ bồi thường. Thực là công bằng. Trách nhiệm cuối cùng về bộ Tư pháp chứ không về bộ Thông tin nữa. Có tự do ngôn luận tới mức nào, sẽ tuỳ thuộc các vị thẩm phán.
Nhưng về sách thì tới nay vẫn chưa có gì thay đổi cả.
Gần Tết năm ngoái, trong một cuộc tiếp tân văn hoá tại dinh Độc lập, một số nhà văn ngỏ ý xin bãi bỏ kiểm duyệt, Tổng thống tuy không hứa bao giờ sẽ bãi bỏ, nhưng chấp nhận nguyên tắc.
Nắm lấy cơ hội, khoảng hai mươi ngày sau, ngày 5.3.69, một trăm nhà văn ở Sài Gòn cùng ký một kiến nghị yêu cầu chính phủ bãi bỏ kiểm duyệt ngành xuất bản. Chưa bao giờ các nhà văn đoàn kết với nhau như vậy, quyết định và hành động mau lẹ như vậy. Đó là hạn chế ở số 100, chứ nếu muốn có 200, 300 chữ ký thì cũng dễ. Vì từ mấy chục năm nay nhà văn nào mà chẳng mỏi mắt trông chờ cái ngày bỏ kiểm duyệt.
Kiến nghị gởi đi tới nay đã sáu tháng, không thấy hồi âm mà lại gây nên một vụ sôi nổi, vụ nhà văn V.P[2] bị lột chức Chánh sự vụ, vì dám ký tên trong kiến nghị. Ở nước ta thời này, không việc gì quyết định mau được, ai cũng hiểu vậy nên sáu tháng chưa phải là lâu mà tám tháng thì cũng chưa trễ. Nhưng tôi nghe nói hình như Quốc hội đã đem vấn đề đó ra hỏi Bộ Thông tin, Bộ có trình cả bộ hồ sơ thu thập những câu nói bóng gió, mỉa mai nào đó để Quốc hội thấy không thể bãi bỏ kiểm duyệt được và Quốc hội đã “thông qua”.
Nếu lời ông bạn tôi nói đó mà đúng thì Quốc hội đã dễ bị thuyết phục quá. Bảo rằng vì có những người viết như vậy như vậy nên phải kiểm duyệt, vì sao không nghĩ rằng vì còn kiểm duyệt nên những người đó phải viết như vậy như vậy? Đâu là nhân, đâu là quả? Ai mà dám chắc? Tôi tin rằng chế độ kiểm duyệt khắc khe là nhân mà lối viết như vậy là quả. Bằng cớ là từ khi bãi bỏ sự kiểm duyệt báo hằng ngày, những giọng như trên nhiều tờ đã bớt đi nhiều lắm, mặc dầu ngôn luận vẫn bị còn giới hạn.
Vả lại đã bãi bỏ sự kiểm duyệt báo thì tại sao lại không bãi bỏ sự kiểm duyệt sách? Sách phổ biến mạnh và mau hơn báo ư? Sách nguy hại hơn báo ư? Cơ hồ như trái lại mới phải chứ? Hay là nhà văn không đủ tư cách hưởng tự do ngôn luận bằng ký giả? Nhà văn hãy còn ấu trĩ không tự lãnh trách nhiệm về tư tưởng của mình được, vẫn còn cần sự chỉ bảo của chính quyền? Lý do đó tôi không sao hiểu nổi.
Một ông bạn tôi bảo có lẽ tại nếu bãi bỏ thì tốn công cho sở kiểm duyệt: khi nạp bản, sở phải đọc gấp, mà sách nhiều hơn báo. Lý do này lại càng không vững. Chúng ta hiện nay có năm sáu chục tờ báo hàng ngày, cứ kể như mỗi tờ nhân viên kiểm duyệt chỉ cần đọc ba trang thôi, mà ba trang báo ít nhất cũng bằng hai chục trang sách; vậy là mỗi ngày phải đọc từ 1.000 đến 1.200 trang sách, tức 5, 6 cuốn sách trung bình (200 trang). Mà số sách xuất bản mỗi năm nhiều lắm là ngàn cuốn, đại đa số chỉ cần coi nhan đề hoặc tên tác giả, là có thể cho giấy phép được rồi, chẳng cần phải đọc. Đọc làm quái gì những sách giáo khoa, những truyện trinh thám; mà những sách biên khảo mang tên Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục… chẳng hạn thì tin chắc được rồi; những bản dịch tác phẩm của Sartre, Camus, Tolstoi, Maugham, Khrisnamurti, Goethe vân vân… cũng đọc làm chi cho mất công. Vậy mỗi ngày chỉ phải đọc một hay hai cuốn, đâu có nhiều hơn báo được. Lại thêm những sách tái bản nữa, tôi chắc chẳng nhân viên kiểm duyệt nào mà đọc lại nếu tác giả không sửa chữa thêm bớt, vậy mà cũng mất công đánh máy rồi ký để cấp giấy phép.
Sau cùng, có nhiều tới mấy đi nữa thì tuyển thêm người và phân công chứ sao lại làm một việc ngược với hiến pháp như vậy?
Không, suy nghĩ kỷ tôi vẫn thấy không có lý do gì để duy trì chế độ kiểm duyệt sách, nhất là chế độ của họ Ngô để lại.
Tôi không hiểu tại sao ông cựu bộ trưởng Tôn Thất Thiện đã bãi bỏ sự kiểm duyệt báo chí mà không liếc mắt ngó qua mẫu giấy phép xuất bản sách. Y hệt thời Ngô Đình Diệm, chỉ khác cái tên “Sở kiểm duyệt” đổi làm “Sở phối hợp Nghệ thuật”. Còn thì vẫn:
1. Giấy phép này chỉ có giá trị trong ba tháng.
2. Trong sách xuất bản, ở những nơi có chữ hay đoạn văn bị xoá, không được để khoảng trắng, hoặc in những vạch đen, dán giấy đè lên trên.
Thời thực dân Pháp, không có hai điều đó. Đó là sáng kiến của nhà Ngô, đúng hơn là của Trần Chánh Thành, bộ trưởng Thông tin của nhà Ngô.
Chánh sách của nhà cầm quyền hoặc đường lối kiểm duyệt thay đổi trong ba tháng sao? Từ hai năm nay vì thiếu thợ, một cuốn sách 200 trang, in thường phải sáu tháng mới xong, thành thử mười cuốn thì sáu, bảy cuốn phải xin triển hạn.
Rồi cái việc cấm để khoảng trắng không hiểu có lợi gì cho chính quyền không? Để cho người đọc sách khỏi đoán được ý tác giả trong những chỗ bỏ trắng đó ư? Có phép thần nào mà đoán được nếu nhân viên kiểm duyệt đã cắt một cách kỹ lưỡng? Hay là để độc giả không thấy dấu vết kiểm duyệt, mà tưởng rằng đã có sự “phối hợp” rất chặt chẽ về đường lối, về tinh thần giữa chính quyền và nhà văn?
Như vậy để làm gì kia chứ? Để gạt dân ư? Gạt được không?
Trước sau gì thì chế độ kiểm duyệt xuất bản cũng phải bãi bỏ. Quốc hội này không can thiệp thì sẽ có Quốc hội sau. Càng bãi bỏ sớm càng có lợi cho chính quyền.
Vì chính quyền lúc này đã chuẩn bị gấp để tranh đầu về chính trị, tranh thủ nhân tâm với đối phương. Mà ai cũng biết rằng điểm nhân dân ngán nhất ở đối phương là chính sách bóp nghẹt tự do. Nay bãi bỏ kiểm duyệt, cho dân quen hưởng tự do – một thứ tự do không tới mức phóng túng – thì nhân dân càng sát cánh với chính quyền chứ gì đâu? Cho nhà văn tập nhận lấy trách nhiệm thì họ càng phải thận trọng chứ có sao đâu? Có người nào không hiểu thì cứ thành thực ôn tồn giảng giải cho họ, một hai lần mà không sửa thì đã có bộ Tư Pháp, có toà án đấy. Chính quyền luôn luôn ở trong cái thế mạnh mà còn ngại nỗi gì?
Cần định rõ tiêu chuẩn kiểm duyệt sau khi nạp bản: cấm về những điều nào, về mỗi điều, đưa ra một ít thí dụ cụ thể cho nhà văn nhận định được rõ ràng, chứ chỉ đưa ra những quy tắc tổng quát thì mơ hồ quá, chẳng những nhà văn không biết đâu mà tránh, và sẽ ngờ chính quyền là bủa lối quá rộng, mà ngay các nhân viên kiểm duyệt cũng không biết đâu mà làm việc, cứ xoá bỏ lung tung, gây ra những trường hợp quái đản như tờ Hoà Bình đã nêu trong số 21.7.69:
Câu: “loài người ơi, đừng nhìn nhau với vẻ mặt hận thù”, bôi bỏ hai chữ “hận thù”.
Câu: “lửa bập bùng nung chí tự do”, bôi bỏ bốn chữ “nung chí tự do”.
Câu: “mong ước sao cho nhân loại hoà bình”, bôi bỏ hai chữ “hoà bình”.
Tới cái nông nỗi chỉ ước mong sinh được một đứa con da vàng mà người ta cũng bắt bôi bỏ hai chữ “da vàng” đi nữa.
Một ông bạn tôi có ý gom góp một số bài báo, chương sách của các bạn văn xa gần bị ti kiểm duyệt bác từ 1954 đến nay để có dịp làm thành một tập “Văn chương quốc cấm trong thời độc lập”. Sẽ là một tập tài liệu quí chẳng những về lịch sử kiểm duyệt mà còn về lịch sử chính trị ở nước mình nữa. Người đời sau đọc chắc ngờ rằng chính mình sống ở thời đại Tần Thuỷ Hoàng.
Nếu định rõ tiêu chuẩn rồi mà trong hội đồng kiểm duyệt (sau khi nạp bản) lại có đại diện của giới nhà văn, nhà xuất bản và độc giả cùng xét với chính quyền mỗi khi muốn cấm phát hành một cuốn nào, những đại diện đó không do chính quyền đề cử và cứ vài năm lại thay đổi – tôi tưởng nhà văn nào cũng sẽ hài lòng mà hợp tác với chính quyền một cách thành thực – hợp tác không nhất định là không chống đối; nếu cần thì vẫn chống đối nhưng luôn luôn thành thực và có tinh thần xây dựng.
Dù là việc nhà, việc hãng, việc sở hay việc nước, hễ người trên đứng đắn, thành tâm, tìm hiểu cấp dưới thì luôn luôn có tinh thần hợp tác với nhau được việc. Cái bổn phận mà cũng là vinh dự của người chỉ huy tỏ thiện chí trước.
Tóm lại là phải thay đổi hẳn tinh thần, đừng rình rập để bắt lỗi rồi cấm, rồi phạt như thực dân Pháp thời trước nữa mà đối thoại với nhau, giảng giải với nhau, thì nhẹ việc cho chính quyền rất nhiều, đỡ việc cho nhà xuất bản, mà lại tránh được những vụ chấn động như nhà văn V.P, tờ báo Hoà Bình đã nêu lên mấy tháng trước.
Nhưng kiểm duyệt không phải chỉ nhắm mục đích phục vụ một chính sách có tính giai đoạn, mà cần phải phục vụ nhân dân nữa; tránh cái hại cho dân. Cấm lưu hành những sách khiêu dâm, mà cũng nên cấm luôn cả những sách của một bọn không có lương tâm viết bậy bạ để kiếm tiền. Mấy năm gần đây báo chí đã vạch cái nạn sách giáo khoa và sách dịch đầy những lỗi không thể tha thứ được. Những sách đó in ra đã tốn ngoại tệ (mua giấy và mực) mà chính quyền bán ra lại phí tiền cho những người lỡ mua phải. Rồi đây, hoà bình trở lại, từ chính quyền đến nhân dân đều phải hết sức tiết kiệm để kiến thiết, những loại sách đó nhất định phải cấm. Muốn cấm mà khỏi phải mang tiếng độc tài, người viết và người xuất bản không thể phàn nàn được thì trong hội đồng kiểm duyệt phải có đại diện của giới nhà văn, xuất bản và giới độc giả như trên tôi đã đề nghị. Dĩ nhiên những đại diện đó phải là người có uy tín do mỗi giới đề cử. Tôi tin rằng một hội đồng kiểm duyệt như vậy xuất hiện thì bao nhiêu loại sách nhảm nhí lỡ viết in rồi cũng phải xé bỏ, không dám đưa kiểm duyệt nữa, cũng như ánh sáng tới đâu thì bóng tối tan biến tới đó.
Sài Gòn ngày 5.7.1969
Chú thích:
[1] XX: một bút hiệu khác của nhà văn Thiếu Sơn (1908-1978). (BT).
[2] V.P hay V.Ph (xem bài trước) là nhà văn Võ Phiến. Theo cụ Nguyễn Hiến Lê, nhà văn này “nhờ thượng cấp của ông – ông là nhân viên Nha Thông tin – muốn trừng phạt ông mà ông có dịp đi đây đi đó khắp trong nước, viết được tập Đất nước quê hương” (ĐVVCT - trang 245). (Goldfish)
- 10 -
Sau Mười Tám Năm Tiếp Xúc Với Người Mỹ Và Vài Suy Tư Về Phong Trào Về Nguồn
De Gaule, nhất là tên thầy tu khát máu D’Argenlieu, là kẻ thù của dân tộc Việt Nam. Dân tộc họ mới nhờ đồng minh mà ngóc đầu lên khỏi gót sắt của Đức thì họ lại cho quân đội viễn chinh núp sau lưng quân đội Anh, đổ bộ lên Nam Bộ mà giày xéo non sông chúng ta. Họ cũng có tội với dân tộc Pháp nữa: vì họ mà chín năm sau, Pháp phải nuốt cái nhục Điện Biên Phủ, để Mỹ hất cẳng ra khỏi bán đảo Đông Dương, mà ảnh hưởng của Pháp tại đây tiêu tan gần hết.
Tháng 5/1956, ngày tên lính cuối cùng của Pháp xuống tàu ở bến Nhà Rồng, báo chí Sài Gòn chỉ đăng vắn tắt có mấy hàng mà đại đa số độc giả cũng không buồn đọc. Sau non một thế kỷ “khai hoá” như họ nói, trong ba mươi mấy triệu dân Việt Nam, có được bao nhiêu người nhớ tiếc họ, tiễn đưa họ? Ngay những công chức được họ ưu đãi rất mực, mà lúc đó cũng quay mặt đi, hướng về Mỹ.
Tôi nhớ một chiều thu năm đó, một ông bạn tôi, nhân viên quan trọng trong một bộ nọ, bảo tôi:
- Chúng mình phải ủng hộ ông Diệm chứ không còn giải pháp nào khác. Ông là người của Mỹ, Mỹ đưa ông ta về, mà Mỹ thay Pháp ở đây. Dù sao, tôi nghĩ Mỹ cũng còn hơn Pháp. Trong một thế kỷ nay, Mỹ không có tai tiếng gì ở Đông Á: xâu xé Trung Hoa, xâm chiếm Đông Dương, Miến Điện là Anh, Pháp, Đức, Nhật chứ không phải Mỹ. Mỹ lại có truyền thống dân chủ. Mỹ lại giàu và mạnh nhất thế giới, chắc “dễ chịu” hơn Pháp. Họ đã bỏ ra bao nhiêu triệu Mỹ kim giúp việc định cư 800.000 đồng bào Bắc Việt di cư.

Có thể nói đa số dân thành thị hồi đó, có ít nhiều cảm tình với người Mỹ, như ông bạn tôi. Thật ra, thiện cảm giảm nhiều so với năm 1945, vì trong chiến tranh Pháp-Việt càng về sau, Mỹ càng lộ vẻ ủng hộ Pháp, nhưng cả những người hận Mỹ ở điểm đó cũng chưa hẳn có ác cảm, mà có thái độ chờ xem, tò mò muốn tìm hiểu người Mỹ, văn hoá Mỹ.
Rất nhiều người hăng hái học tiếng Anh, đọc những tác phẩm Mỹ dịch ra tiếng Việt: khảo luận về nền dân chủ Mỹ, văn học Mỹ, lịch sử Mỹ, tiểu sử các danh nhân Mỹ: Lincohn, Roosevelt, Franklin, Thomas Paine, Jefferson…, tiểu thuyết của Hemingway, Steinbeck, Cadwell…
Trước sau độ dăm chục bản, dịch kém, in xấu, nhưng không sai, đọc cũng được mà rẻ. Phong trào đó tương đối thịnh được độ bốn năm năm, rồi thì suy, một phần vì số người biết tiếng Anh, đọc được trong nguyên tác tăng lên, một phần vì có lẽ chẳng có gì đáng dịch nữa.
Nhưng muốn hiểu được một nền văn minh thì phải khảo sát xã hội do văn minh đó tạo nên, phải nhìn thấy lối sống, cách xử sự, suy nghĩ của đại chúng, cách họ kiếm tiền, tiêu khiển, bầu cử Tổng thống, dạy dỗ con cái… Chứ chỉ đọc những tác phẩm văn học, triết học, nghệ thuật… của họ chưa đủ.
Và do tiếp xúc với người Mỹ, chúng ta được biết thêm một khía cạnh sinh động của văn minh Mỹ ngay trên đất nước chúng ta. Từ năm 1960, 61, loại phim cao bồi, nhạc jazz, các tạp chí khiêu dâm Playboy ồ ạt xâm nhập Sài Gòn, nhất là từ khi lính Mỹ qua, mới đầu không đầy trăm ngàn, lần lần tăng lên tới nửa triệu. Lính Mỹ qua, dân tộc ta mới tiếp xúc thẳng với người Mỹ, mới thấy rõ được cái mặt trái của văn minh đó. Ngay từ năm 1966, trong một cuộc phỏng vấn, tôi đã nói với nhà văn Nguyễn Ngu Í: “…Tôi chỉ xét về phương diện xã hội thì người Mỹ ở đây càng lâu càng có ảnh hưởng xấu. Có trải qua thời này mới hiểu thấu được các bậc tiền nhân như Yên Đỗ”. Khi in cuốn Sống và viết (của Nguyễn Ngu Í – Ngèi Xanh – 1960) đoạn đó bị kiểm duyệt.
Hồi đó tôi đã thấy vậy, nhưng không ngờ ảnh hưởng của Mỹ ghê gớm như ngày nay.
Họ tiêu xài hai tỉ Mỹ kim, hi sinh năm chục ngàn thanh niên, trút hàng chục triệu tấn bom, làm non triệu người người mình bị giết, hàng vạn hàng ức mẫu vườn, ruộng, hàng ngàn làn mạc bị tàn phá, gây biết bao cảnh tang tóc, mấy trăm ngàn phế binh, cô nhi, quả phụ, mà rốt cuộc, non mười năm rồi, vẫn không giải quyết nổi chiến tranh này. Cùng quá, họ phải dựng lên vụ tàu Maddox để có cớ dội bom xuống miền Bắc, nhưng tưởng lần này nhất định sẽ thành công, nhưng sáu tháng sau, họ phải đơn phương xuống thang, nghĩa là tự thú thất bại, mà tìm cách thương thuyết. Thương thuyết mấy năm không xong, bây giờ một mặt họ lo vuốt ve Trung Quốc – mới mấy năm trước là kẻ thù số 1 của họ - hi vọng tìm một giải pháp cho Đông Dương; một mặt họ cấp tốc Việt hoá chiến tranh, để rút lui. Họ, hai trăm triệu người, một dân tộc hùng cường nhất thế giới, trút cả gánh nặng bảo vệ “tiền đồn của thế giới tự do” như họ nói, bảo vệ “tân biên cương của họ” như họ chủ trương, lên vai mười bảy triệu dân Việt Nam, mà lại tính cắt hết viện trợ kinh tế nữa, như vậy có khác gì họ chạy làng, đáng trống bỏ dùi không? Lương tâm của họ đâu nhỉ?
Lính của họ xả súng vào trẻ em, liệng đá vào xe qua đường mà cười hố hố, cán người rồi dông, mua quịt, dâm loạn, nghiện bạch phiến, ăn cắp đồ để bán chợ đen… Có hơn gì lính Lữ Hán không?
Họ tự do ở đâu mà bắn chết mấy sinh viên phản chiến trong một đại học nọ của họ?
Họ bình đẳng ở đâu mà hai chục triệu công dân da đen của họ bị kỳ thị tới nỗi phải nổi loạn, muốn lập một tiểu bang da đen tự trị, có kẻ còn muốn trở về Phi châu?
Họ dân chủ ở đâu, mà từ Nam Mỹ tới Á châu, nơi nào họ cũng triệt để ủng hộ những “người hùng” độc tài, chỉ hùng ở điểm đàn áp dân chúng bằng những khí giới hoá học rất tiến bộ của họ? Và ở nước họ nữa, dân có làm chủ không hay bọn tài phiệt làm chủ? Trong mấy chục năm nay, có Tổng thống Mỹ nào không nuốt lời hứa với dân không? Trường hợp điển hình là cựu Tổng thống Johnson bị bác sĩ Spock mạt sát là mới cầm quyền đã leo thang chiến tranh, trái với lời tuyên bố trong khi ứng cử. Bác sĩ Spock do đó mà bị nhốt khám.
Họ nhân đạo ở đâu khi chỉ trọng tuổi trẻ còn người già thì cho là hạng bỏ đi, khiến Simone de Beauvoir trong cuốn La vieillesse và cả Pearl Buck trong cuốn The two worls đều phải chê cả Âu lẫn Mỹ là dã man đối với người già?
Ai cũng phải nhận khoa học của họ tiến bộ nhất thế giới, kỹ thuật của họ đã đưa họ lên được mặt trăng, nhưng kỹ thuật chưa phải là văn minh, còn phải xét xem người ta dùng kỹ thuật để cải thiện xã hội cùng lối sống ra sao rồi mới quyết định là có văn minh hay không. Xã hội Mỹ xét chung, về vài phương diện, tiến bộ hơn xã hội phương Đông nhiều: lợi tức trung bình của của mỗi đầu người gấp trăm lợi tức của chúng ta, họ ăn uống no đủ hơn, và có nhiều tiện nghi hơn (xe hơi, tủ lạnh, máy điều hoà không khí, máy thu hình…), ít bệnh tật hơn, sống lâu hơn, thanh niên đi học nhiều hơn, lâu hơn… Đó là mặt phải của tiến bộ kỹ thuật. Nhưng cũng phải kể thêm mặt trái nữa. Chưa có thể gọi là văn minh được khi những sách báo khiêu dâm bán đầy đường; khi ngay trong thành phố New York có những khu mà đêm tối người lạ lỡ lạc vô thì ớn xương sống ví cái nạn gangster[1], khi mà bọn tài phiệt muốn ám sát ai cũng được, từ tổng thống trở xuống; khi mà việc bài trừ bạch phiến làm xao động cả lưỡng viện; khi mà chính quyền chỉ dùng võ lực, khí giới hoá học và tiền bạc để thao túng các nước nhỏ, chỉ viện trợ những đồ thặng dư, làm cho bọn tay sai đã giàu lại giàu thêm, dân chúng bản xứ đã nghèo lại nghèo thêm, và tới đâu là gây cái nạn truỵ lạc, tham nhũng, độc tài, gây chia rẽ, câm thù, chiến tranh, tàn phá tới đó. Mỹ, Nga, Anh, Pháp… tất cả các nước văn minh đều như vậy hết, toàn là thứ rợ Mông Cổ tân thời.
Nhà kinh tế học Pháp Fourastié rất lạc quan, tin rằng sự tiến bộ kỹ thuật sẽ lần lần vào giữa hay cuối thế kỷ sau, giúp nhân loại trừ được những cái tệ đó. Chắc không? Bản tính con người trong non hai trăm năm nay, từ khi có cách mạng kỹ thuật đã thay đổi được nhiều không, để cho ta tin rằng trong một trăm năm nữa sẽ thay đổi hẳn được? Hay là trừ được cái tệ này lại phát sinh cái tệ khác? Mà giả sử có trừ được thì không phải chỉ nhờ kỹ thuật – kỹ thuật và khoa học chỉ là một dụng cụ - còn phải nhờ một triết lý, một nhân sinh quan thấm nhuần mọi giới người, nhất là giới chỉ huy, một nhân sinh quan nhân bản, bao dung, hợp tác, chứ không phải thứ nhân sinh quan “cạnh tranh, chém giết nhau để sinh tồn” như của người phương Tây.
Nhân sinh quan đó là nhân sinh quan cố hữu của phương Đông, của Thích Ca, của Khổng Tử, Lão Tử, của Kitô (Kitô cũng sinh ở phương Đông). Cho nên chúng ta không lấy làm lạ rằng từ sau thế chiến, một số học giả phương Tây trở lại nghiên cứu văn minh phương Đông; và ở nước ta những tai hoạ - nhất là về xã hội – do người Mỹ gieo rắc càng tăng lên thì cái xu hướng “trở về nguồn” càng mạnh lên trong một số trí thức, cơ hồ hợp với tâm trạng của đa số dân chúng.
Tôi nhớ năm 1965 hay 1966, khi một số người bắt đầu chỉ trích chính sách của Mỹ ở Việt Nam, một ký giả có tiếng tăm trên một tờ báo nọ mắng họ là cái gì cũng nhờ cậy Mỹ, từ súng đạn, xăng nhớt, tới bơ, sữa… mà lại vong ân, chửi Mỹ. Lời đó không khác gì lời một tên bồi Tây năm 1945, khi Pháp bị Nhật lật, bị người Việt hành hung – sơ sơ thôi – bảo: “Cơm của Tây còn dính trong kẻ răng mà đã vội phản Tây”. Nhưng ngày nay, có tờ nhật báo nào là không mạt sát Mỹ, nhiều khi thậm tệ nữa, mà chẳng thấy ai lên tiếng bênh vực Mỹ cả. Tại Mỹ hay tại ta?
Mấy năm trước, tác phẩm của Khrisnamurti được hai ba nhà xuất bản tranh nhau dịch, hiện nay ba nhà đua nhau in sách về thiền là vì vậy. Sách của Toan Ánh trước thế chiến và mươi năm đầu sau thế chiến ít người đọc, lúc đó in liên tiếp và bán khá chạy là vì vậy. Ngay đến bộ Giáo dục cũng lập thêm những chứng chỉ Văn minh Việt Nam, mời ông Lê Văn Siêu, Toan Ánh… đảm nhiệm, cũng vì vậy. Cũng vì vậy mà giáo sư Kim Định xuất bản được trên mười cuốn về triết Đông, về Khổng học, được nhiều sinh viên tin tưởng. Sự phản ứng đó rất tự nhiên; trong lịch sử nhân loại, mỗi biến chuyển lớn lao bất kỳ về triết học, văn học, kỹ thuật, tổ chức xã hội… luôn luôn đều gây phản ứng, mà phản ứng thường là quá khích. Cho nên chúng ta nếu khó chấp nhận được thì cũng thành thực, nghiêm trang, chứ không đem văn hoá ra làm trò hề như nhóm họ Lạc dưới sự bảo trợ của ông Mai Thọ Truyền.
Tôi chưa thấy một người có Tây học nào, nhất là theo Kitô giáo, mà say mê Khổng học, hơn cả môn đệ chính thống của Khổng nữa, như giáo sư Kim Định. Trong non ngàn năm lịch sử Khổng giáo ở Việt Nam, đã có ai đào sâu tứ thư, ngũ kinh, đưa ra những ý kiến rất táo bạo và mới mẻ như ông? Cách ông giải thích một số huyền thoại của Trung Hoa, một số tư tưởng của Khổng học, không thể thuyết phục mọi người được, như chính ông cũng nhận rằng chỉ là những giả thuyết, vì vậy thì chúng ta cũng chỉ nên coi là những giả thuyết, không nên coi ông là một nhà khảo cứu – ông đã từ chối danh hiệu này – mà cũng không nên gọi ông là một nhà phù thuỷ tập sự. Chúng ta vẫn thường thấy những người đem “một ánh sáng mới” chiếu vào những học thuyết cũ, điều đó có gì lạ đâu? Có người còn đem học thuyết Karl Marx, học thuyết Freud giọi vào thơ Hồ Xuân Hương, đã có sao đâu? Chẳng ai hưởng ứng thì họ cũng phải cụt hứng. Mà biết đâu những lối nhìn mới mẻ đó mười phần chẳng đúng được một?
Và nếu có vị nào say mê cổ học tới nỗi cho rằng khoa học ngày nay không phát kiến được cái gì mới hơn cổ nhân thì cái lỗi của họ cũng chỉ như lỗi của những người tin rằng khoa học sẽ giải thích được mọi bí mật, giải quyết được mọi việc. Phe nào mà chẳng có người cực đoan?
Trong lịch sử nhân loại, phe cựu không bao giờ thắng được phe tân, nhiều lắm là ngăn cản được một thời gian ngắn. Nhưng sự phản ứng của phe cựu không phải là hoàn toàn vô ích, nếu chúng ta biết sáng suốt nhận định. Ít nhất nó cũng giúp ta đừng nhắm mắt tiến càn mà vấp té; tiến mà đừng đoạn tuyệt với dĩ vãng, vì tương lai luôn luôn tuỳ thuộc hiện tại, hiện tại lại tuỳ thuộc dĩ vãng, không bao giờ có sự gián đoạn cả. Riêng ở ta lúc này, phong trào “về nguồn” chẳng những có cái lợi giúp cho thanh niên biết được nếp sống, tư tưởng, xã hội của tổ tiên – những điều mà ở Trung học người ta không dạy – tin tưởng ở sinh lực của nòi giống hơn, có tinh thần tự cường hơn, bất vọng ngoại hơn.
Huống hồ, phong trào đó, theo tôi xét, không có hại gì cả. Những người chủ trương “về nguồn”, không có ai kém sáng suốt tới nỗi mạt sát khoa học và kỹ thuật, chúng như con con dao sắc, vật vô tri; họ mạt sát là mạt sát những kẻ dùng con dao sắc đó để gây tai hoạ cho Việt Nam và nhân loại. Họ vẫn quý cái bề mặt của văn minh cơ giới, nhưng không phải vì vậy mà mà không thấy bề trái của nó. Và tôi cũng chưa thấy một thanh niên nào đọc những tác phẩm “về nguồn” mà sinh ra khinh miệt kỹ thuật, không tin ở khoa học nữa. Không nên bi đát hoá vấn đề làm gì. Cần bình tĩnh, sáng suốt mà nhận định.
Về phong trào “về nguồn”, tôi có hai nhận định dưới đây.
Trước hết là danh từ đó không biết xuất phát từ thời nào, dùng không được đúng, gây sự hiểu lầm nên mới bị phản đối. Chúng ta không ai muốn lội ngược dòng mà trở về nguồn cả, vì ai cũng biết rằng việc đó không thể được. Từ văn minh nông nghiệp chúng ta đương chuyển qua văn minh cơ giới, thì không thể nào trở lùi về văn minh nông nghiệp được. Ngay những nhà nông ở trong Đồng Tháp Mười bây giờ cũng muốn cơ giới hoá canh nông, dùng máy cày, phân hoá học, máy đuôi tôm, máy bơm… Không một người Việt nào không muốn quốc gia phát triển kỹ nghệ cho mau. Những người có nhiệt tâm chỉ muốn thoát ly được cái ảnh hưởng tai hại của ngoại nhân, rồi tổ chức xã hội lại ra sao, khéo sử dụng khoa học và kỹ thuật ra sao để tránh được càng nhiều càng tốt những lỗi lầm của phương Tây, lỗi lầm đó theo tôi ở điểm hoặc tự do quá mức đến thác loạn như khối tư bản, hoặc chỉ huy quá mức như khối xã hội, và ở điểm này chung cho cả hai khối: quá tôn trọng vũ lực, gây những cuộc chém giết, căm thù, thiếu nhân từ, bao dung.
Vậy, danh từ “về nguồn” có lẽ nên đổi chẳng hạn là “ôn cố” thì có phần đúng hơn, và bớt bị phản đối.
Đó là nhận định thứ nhất. Nhận định thứ nhì là các vị chủ trương “về nguồn” từ trước tới nay đề cao những nét đẹp cố hữu của chúng ta, mà chưa đặt vấn đề có thể dung hoà cũ mới được không, dung hoà cách nào, những cái gì cũ nên giữ, làm sao giữ được.
Số người nghi ngờ phong trào về nguồn, có lẽ không ít, nhưng tôi chỉ mới thấy có vài người đưa ý kiến trên báo, và bài khiến tôi chú ý tới nhất của một vị tôi quên tên, hình như đăng trên tờ Dân chủ mới, cách đây vài tháng. Bài đó chẳng có y gì mới mẻ, đại ý là đã theo mới thì phải theo cho tới cùng, mới mau kịp người được, chứ nếu lưng chừng, dung hoà thì chẳng nên cái gì cả, mà thời này không tiến tức là lùi.
Lời đó khiến tôi nhớ lại một cuộc tranh luận sôi nổi ở Trung Hoa khoảng bốn chục năm trước.
Hồi đó Trung Hoa chia làm hai phe mà họ gọi là phe “bình cũ rượu mới” và phe “bình mới rượu mới”. Họ tranh luận cả năm trời, trên không biết bao nhiêu tờ báo, trong mấy ngàn bài xã thuyết. Một nhà xuất bản lựa những bài xuất sắc nhất, in thành một cuốn dày cả ngàn trang, mà tôi đọc trên ba chục năm trước, quên mất nhan đề rồi. Thú thật hồi đó đọc xong tôi chỉ thêm hoang mang, vì phe nào cũng có lý cả, nhưng cũng thấy rằng phe mới, tức phe Âu hoá triệt để mạnh thế hơn. Dĩ nhiên những cuộc tranh luận như vậy chẳng giải quyết được gì, phe nào cũng giữ ý kiến của mình, không bình tâm xét ý kiến đối phương, chỉ tìm cách đả nhau thôi; mà người đọc thì cũng vậy, chỉ chú ý tới những bài hợp với ý mình, đọc chỉ để tìm những lý lẽ khiến cho những ý của mình đã có sẵn được thêm vững. Còn những người không có sẵn chủ trương thì càng đọc càng hoang mang, một số ngả theo phe này, một số ngả theo phe kia, và rốt cuộc lịch sử vẫn trôi theo dòng của nó.
Ngày nay nhớ lại, tôi thấy cuộc tranh luận đó vô nghĩa. Nó sai ngay từ cách đặt vấn đề. Hình ảnh “bình cũ rượu mới” và “bình mới rượu mới” đẹp quá, tài tình quá, khiến cho họ lạc lối hết. Lý luận thì nên ít dùng hình ảnh, hình ảnh càng quyến rũ thì lại càng phải đề phòng.
Rượu không ảnh hưởng chút gì đến cái bình, trái lại nền văn minh cơ giới ảnh hưởng rất lớn, làm thay đổi nếp sống, luân lý của xã hội nông nghiệp, vậy thì làm sao so sánh với nhau được? Mà cơ giới có thể tạo nên một xã hội mới, một văn minh mới chứ đâu có như thứ rượu mới chứa trong một cái bình mới? Vả lại một xã hội mấy ngàn năm văn hiến, không thể nhất đán thay đổi hoàn toàn, như ta thay một cái bình cũ. Cứ từ hình ảnh quyến rũ đó mà tranh biện nhau về lý thuyết thì làm sao tìm ra được ánh sáng?
Tôi xin đặt lại vấn đề như sau: Chúng muốn gì?
Cuối thế kỷ trước và đầu thế kỷ này các nhà ái quốc Trung Hoa và Việt Nam trong phái duy tân đều hăm hở Âu hoá về khoa học, cơ giới cho mau bằng họ, hơn họ để đập lại họ (như Nhật) mà rửa cái nhục cho dân tộc, cho giống da vàng. Các cụ không tự hỏi khi Âu hoá rồi xã hội sẽ ra sao, không có một ý niệm hoặc chủ trương gì rõ rệt về việc đó cả, cơ hồ cho việc đó không gấp, cứ Âu hoá đi rồi sẽ hay; hoặc tin rằng ngoài sự cơ giới hoá ra, xã hội cũng vẫn như thời đó, vẫn là xã hội nông nghiệp theo Nho giáo, không thay đổi bao nhiêu. Chỉ có Khang Hữu Vi trong cuốn Đại Đồng là nghĩ xa, nhưng thuyết của Khang chỉ là một không tưởng, muốn xây dựng một thế giới lý tưởng cho nhân loại vài trăm năm sau, chứ không xét tới tương lai gần của Trung Hoa (coi Đại cương triết học Trung Quốc của nhà Cảo Thơm – cuốn hạ, trang 695).
Ngày nay chúng ta biết rõ phương Tây hơn các cụ, bình tĩnh hơn các cụ, không hăm hở diệt tụi “bạch quỷ” nữa, nên chúng ta tự hỏi: “Chúng ta muốn gì? Muốn xã hội Việt Nam sau này ra sao? Địa vị của Việt Nam trên thế giới ra sao?”.
Đúng hay sai tôi cũng trình bày ý kiến của tôi. Từ năm 1965, trong cuốn Một niềm tin, chương IV, tôi đã nghĩ mình “Đừng nên đua đòi Âu Mĩ… nên rút kinh nghiệm của họ chứ không nên theo đúng con đường của họ…”, rồi trong tập Con đường hoà bình (Lá Bối – 1971) tôi đã trình bày rõ hơn:  
“Cái tai hại của chúng ta là có mặc cảm tự ti, tủi rằng cái gì cũng kém người, rồi mù quáng bắt chước người, chỉ mong theo gót được người, không dám có một ý muốn riêng của mình, một quan điểm của mình, một đường lối của mình…”.
“Đã đến lúc chúng ta phải tư tưởng lại”.
“Dân tộc ta muốn gì? Có muốn đuổi kịp các nước tư bản như Mĩ, Pháp, Đức không? Dù cho đuổi kịp được – bao lâu nữa? – thì cái xã hội Âu Mĩ sản xuất để tiêu thụ, tiêu thụ để sản xuất có đáng làm mẫu cho chúng ta không? ”.
“Chúng ta có muốn xây dựng một xã hội hoàn toàn bình đẳng, không giai cấp, không có tư hữu không? Nhưng một xã hội như vậy chỉ là ảo tưởng như trên tôi đã nói, và chính Nga theo chế độ Cộng sản đã chẳng tiến lại gần xã hội đó, mà cứ lùi xa mãi là khác.
Phải nhận cái thực trạng của mình, cái hoàn cảnh của thời đại, của thế giới. Dù ta có thông minh, anh dũng, kiên nhẫn bao nhiêu, thì với số dân đó, trên dãi đất này, chúng ta có cố gắng tới đâu cũng không thể trở thành một trong bốn năm đại cường được. Dù có cái ý tranh bá đồ vương thì cũng không được. Chúng ta chỉ mong sao cởi được cái ách của ngoại quốc, mình làm chủ mình, có thể nhờ cậy người một chút chứ không chịu lệ thuộc ai, và kiến thiết quốc gia để cải thiện đời sống vật chất cho dân, nâng cao tinh thần của dân, đừng có ai giàu quá, nghèo quá, tự do tín ngưỡng, tư tưởng, mà không loạn, không làm hại người khác”. (trang 28-30).
Đó, chủ trương của tôi khiêm tốn như vậy: không tranh bá đồ vương với ai, chỉ lo hạnh phúc cho toàn dân, ai cũng đủ ăn, được học hành, tạo được một xã hội ổn định, có trật tự, tương đối công bằng, tự do, trọng phẩm cách và cá tính con người.

Chúng ta không ham được là một cường quốc có nguyên tử lực, có hoả tiễn lên cung trăng, có nhiều thị trường lớn khắp năm châu, có nhiều xe hơi nhất thế giới, có lợi tức trung bình (tính theo đầu người) cao nhất thế giới, có những xưởng đóng tàu, những nhà máy điện tử lớn nhất thế giới v.v… Chúng ta có những vinh dự khác: đào tạo được nhiều công dân, nhiều bậc cha mẹ, nhiều thanh niên tinh thần lành mạnh, sáng suốt, tự cường, tự lập, biết lãnh trách nhiệm, lễ độ, vui sống, hoà hảo với nhau, trọng người cũng như trọng mình. Tôi cho như vậy mới là văn minh – có những bom khinh khí 5 triệu tấn thuốc nổ, lên được cung trăng, chưa hẳn đã là văn minh – mà khoa học, kỹ thuật chỉ khi nào giúp ta đào tạo được hạng người như vậy thì mới là được khéo sử dụng.
Nhắm mục tiêu đó, không khi nào quên nó, thì ta có thể điều khiển cơ giới hoá để nó ít làm hại cho ta, mà ta tránh được nhiều lỗi lầm của phương Tây.
Nói như vậy có vẻ như lý thuyết quá. Tôi xin đưa vài ví dụ cụ thể.
Tôi thú thực chưa được biết chút gì về xã hội Suède, Norvège, nhất là Finlande[2]. Nhưng một sinh viên du học ở Pháp có dịp đi thăm Finlande cho tôi hay xứ đó nhỏ hơn nước ta nhiều, dân số hiện nay chỉ vào khoảng sáu triệu, tài nguyên không phong phú, trong thế chiến vừa rồi bị kẹp giữa Đức và Nga, có lúc phải theo Nga, có lúc phải theo Đức, rốt cuộc hết chiến tranh vẫn giữ được độc lập, hiện nay tuy hoà hảo với Nga nhưng không theo Cộng sản mà cũng không bị Nga chèn ép, xã hội rất có tổ chức, tinh thần gia đình và dân tộc rất đẹp, không có người nghèo, ngoài đường chỉ toàn xe đạp, xe hơi, cả xe máy dầu cũng rất ít, dân chúng hồng hào, khoẻ mạnh, lễ độ và vui sống. Họ cũng có cơ giới hoá, dĩ nhiên là không thể bằng Đức, Pháp được, nhưng chắc chắn là hơn Việt Nam nhiều, mà không lệ thuộc viện trợ của một nước nào, giữ được tinh thần dân tộc[3].
Trường hợp Nam Tư dưới sự lãnh đạo của Tito tôi không cần phải nhắc lại vì độc giả đều biết. Tuy đứng về phía Cộng, mà họ không lệ thuộc Nga, vẫn giao thiệp với phe tư bản, không “cóp” hẳn một mẫu văn minh nào cả, mà được cả Nga lẫn Mĩ đều nể.
Trường hợp của Trung Quốc hiện nay cũng đáng cho ta suy nghĩ. Tờ Dân chủ mới trong những số 14 đến 20.10.71, dịch bài của Robert Guillian (trong tờ Le Monde nổi tiếng là đứng đắn, khách quan) nhan đề là Trung Hoa sau cuộc cách mạng văn hoá.

Guillan đã thăm Trung Hoa ba lần: năm 1937, năm 1955 và năm 1971. Lần sau cùng ông thấy bộ mặt của Thượng Hải thay đổi hẳn: Thành phố sáu triệu dân đó, có nhiều xe buýt tối tân chạy suốt ngày đêm, và rất nhiều xe đạp, nhưng không có xe hơi, trừ ít xe taxi; không có cả quảng cáo, gần như không có quán nhậu. “Cái sốt vì tiền không có ở đây” như năm 1937. “Cũng biến luôn cái sốt về tình dục”, khác hẳn Hương Cảng.
Mới đầu Guillan tưởng Trung Quốc đã thụt lùi, sau xét kỹ lại thì thấy đó là đường lối mới của họ: họ cơ giới hoá xứ sở nhưng “chú trọng tới vấn đề quân bình”, không muốn để đô thị nuốt chửng nông thôn mà muốn “đô thị hoá càng ít càng tốt”, tránh cái nạn ồn ào, kẹt xe, không khí đầy những chất độc ở đô thị, những cảnh tượng “giật gân” ở đô thị. Tóm lại, ông bảo: “Trên tiến trình kỹ nghệ hoá, Trung Hoa giữ một khoảng cách vừa đủ để tránh đi con đường của Tây phương”. Mà như vậy không phải làm họ không kỹ nghệ hoá mạnh mẽ: chứng cứ là “cây cầu lớn ở Nam Kinh bắt qua sông Dương Tử, những nhà máy thép ở Vũ Hán”, và những thành công về khí giới hạch tâm của họ.
Guillan công tâm nhận rằng “toàn thể dân chúng Trung Hoa đã phải ngoan ngoãn tuân lệnh chính phủ và về điểm này, về lâu về dài, Trung Hoa dễ có thể bị công kích: sự tự do cuối cùng bao giờ cũng thắng”.
Tôi dẫn những thí dụ đó không phải là có chủ trương noi gương Nam Tư hay Trung Quốc, mà để chỉ chứng minh rằng chúng ta có thể cơ giới hoá mà không nhất định phải theo đúng vết xe của Âu Mỹ, hoặc của Nga.
Khi ta có một đường lối riêng, một kế hoạch riêng thì dĩ nhiên về một số hoạt động nào đó, chúng ta tiến chậm hơn họ: chẳng hạn, rất ít dùng xe hơi như Phần Lan, Trung Quốc thì kỹ nghệ sản xuất xe hơi và những kỹ nghệ liên hệ không thể phát triển mạnh được; nhưng không phát triển về mặt đó, chúng ta có thể phát triển mặt khác. Ta có thể tin rằng một ngày kia Trung Quốc là nước sản xuất nhiều xe máy hoặc máy cày, máy bơm, rẻ nhất, tiện nhất thế giới. Cái gì có lợi thì cũng có hại, vấn đề là lựa chọn những kiến thiết, cải cách nào hợp dân tộc, thời đại và mục đích của mình.
Bảo hễ Âu hoá thì phải triệt để, nếu không thì phải thủ cựu triệt để, không thể lưng chừng được, là lý luận theo nguyên tắc triệt tam (principe du tiers exclu). Việc đời không như vậy: hễ không đen thì trắng, không cộng sản thì tư bản, không tự do thì độc tài. Những người nhiệt tâm thường cực đoan, chê thái độ trung dung là nhu nhược, nhưng trung dung mới là sáng suốt, hưởng cái lợi có thể là ít hơn, nhưng tránh được cái hại. Trung dung thì thường tiến không được mau, nhưng tiến mau quá thì vấp váp, thất bại, có thể gây nhiều bất mãn, rồi phải đàn áp, thanh trừng. Hễ thoát được cái ách ngoại nhân rồi thì ta cứ thận trọng, ung dung mà tiến, trong vài chục năm, xã hội được như Phần Lan chẳng hạn cũng là tốt rồi. Dĩ nhiên, muốn vậy thì phải đừng để cho ngoại nhân xen vào việc của chúng ta, phá chúng ta. Cái đó tuỳ thuộc một phần tình hình thế giới, nhưng một phần cũng tuỳ thuộc nơi ta. Và tôi tin rằng thời này các nước lớn không dễ gì hiếp các nước nhỏ như trước nữa: gương Phần Lan và Nam Tư đấy.

… Brieux trong cuốn La Chine du Nationalisme au Communisme (…1953) bảo hiện nay các nước nhược tiểu không thể theo một đường ở giữa (voie moyenne) nghĩa là hoặc phải theo chế độ cộng sản, hoặc phải theo chế độ phương Tây thì mới phát triển được. Xét hiện tình đệ tam thế giới thì lời đó có phần đúng. Nhưng nếu chúng ta có thể hoàn toàn thoát ly được ảnh hưởng của hai khối kia thì không có lý gì ta không thể tiến theo một đường lối riêng, không giống họ. (…)
Nửa tháng trước, Thượng viện Mỹ, Quốc hội Mỹ muốn cắt hết viện trợ cho ta (Sài Gòn). Tôi thấy nhiều người tỏ vẻ không lo lắng mà cơ hồ còn hơi vui nữa. Đó là một điều khích lệ. Chúng ta đã thấy cái hại của chính sách viện trợ Mỹ, bao nhiêu kẻ đã bán linh hồn vì Mỹ kim, sự đô hộ bằng Mỹ kim còn ghê hơn sự đô hộ bằng vũ lực.
Những người đó nói: Họ cứ rút hết quân đội, cả cố vấn họ đi, cứ cắt hết viện trợ đi. Chúng ta chỉ yêu cầu họ bồi thường chiến tranh cho ta: trên mười lăm năm chúng ta đã đổ bao nhiêu xương máu để bảo vệ “cái tân biên cương của họ” thì họ phải kiến thiết lại cho ta, nuôi thương phế binh, cô nhi, quả phụ cho ta.
Họ tiếp xúc với ta mấy lần đủ quá rồi, tới lúc nên vĩnh biệt nhau thôi. Không thèm nhận một chút viện trợ nào của họ, và bất kỳ một thực dân nào khác. Cái rủi sẽ thành cái may. Đây là cơ hôi duy nhất để ta tự lập, tự túc, tự cường. Sẽ xáo trộn trong ít tháng, rồi toàn dân sẽ buộc bụng, bất quá như hồi tản cư kháng Pháp là cùng. Lúc đó chúng ta mới thực sự có một chính quyền của chúng ta. Không lệ thuộc người; hết đô la là hết bọn gia nô, hết bọn tham nhũng. Trong cảnh cực khổ, chúng ta sẽ đoàn kết với nhau được, giải quyết mọi vấn đề trong tình hoà hảo với nhau được.
Nhà cầm quyền sẽ sống với dân, chia sẻ gian lao với dân. Những người đã làm giàu trong chiến tranh sẽ tặng quốc gia 60% tài sản (như Anh khi thế chiến chấm dứt), cựu du học sinh còn làm việc ở nước ngoài sẽ gởi một số lương về; và những người có trương mục ở Ngân hàng ngoại quốc sẽ rút ngoại tệ để gởi về. Trong tai nạn chung, mọi người mới biết nắm tay nhau để kiến thiết quốc gia.
Và lúc đó chúng ta mới xét lại giá trị cổ cùng giá trị mới, tìm một đường lối riêng cho Việt Nam.
Trong những giá trị cổ, có những giá trị căn bản, chung cho nhân loại như nhân, trí, dũng (hay bi, trí, dũng), hễ còn loài người thì còn được tôn trọng.
Lại cũng có những giá trị tuy cũng phổ biến, nhưng nhiều dân tộc khác không coi trọng như phương Đông chúng ta, vì vậy gần như có thể gọi là của riêng chúng ta, như tinh thần bao dung, không kỳ thị, không căm thù, hoà nhi bất đồng, tinh thần trung dung, tránh sự cực đoan, tinh thần nhân bản, trọng sinh mạng, hạnh phúc của con người hơn ý thức hệ - “đạo không bao giờ xa người”.
Rồi những đức như lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhất là tín, mà chỉ có Khổng giáo là đặc biệt coi trọng. Có bao nhiêu chính khách phương Tây biết giữ sự thành tín ngay với quốc dân, chứ đừng nói với ngoại quốc nữa? Chúng ta đừng nhiễm cái thói gian xảo quỷ quyệt của họ.
Vấn đề tu thân rồi mới trị quốc nữa, ngoài Khổng Tử ra có ai nói tới không, hoặc nói mà nhấn mạnh không? Khắp thế giới có một nước nào đào tạo các chính khách, các nhà hành chánh theo quy tắc đó không? Chúng ta sẽ thay đổi chương trình của trường Quốc gia hành chánh, chú trọng vào sự rèn luyện tinh thần của sinh viên.
Hiếu cũng là một đức Khổng giáo luôn luôn nhắc tới. Quan niệm về hiếu đã thay đổi, không còn hẹp hòi như xưa nữa, nhưng tôi không muốn thấy cha mẹ già phải xa con cháu mà vô ở những viện dưỡng lão hay viện tế bần, dù cho những viện đó đầy đủ tiện nghi. Có phụ cấp cho vợ con thì sao không có phụ cấp cho cha mẹ già? Người già mà không có lợi tức thì tại sao không trích trong quỹ an ninh xã hội một số tiền để giao cho người con nào lãnh nhiệm vụ phụng dưỡng cha mẹ?
Chế độ gia đình – tứ đại, ngũ đại đồng đường – không thể tái lập được nữa, mà cái đạo tam tòng cũng phải bỏ; những cái đó chỉ hợp với xã hội nông nghiệp, ngày nay muốn duy trì cũng không được.
Chế độ tôn ti hồi xưa cũng quá khắc khe, nhiều khi làm mất phẩm giá con người, nhưng hễ còn xã hội thì luôn luôn còn kẻ trên người dưới. Bình đẳng tới cái mức như phụ nữ Mỹ ở Chicago biểu tình phản chiến mà chửi Nixon trước khách sạn Hilton là “con heo phát xít”, “con heo kỳ thị chủng tộc” (Tin Hoa Thịnh Đốn ngày 10.11.71) thì tôi cũng không ưa. Có thể mắng ông ta khát máu, giết bốn sinh viên phản chiến ở đại học Kent chứ gọi ông ta là con heo thì tệ quá.
Học sinh có thể thể phản đối thầy nếu thầy thiếu tư cách, nhưng đánh đập thầy, giết thầy thì là loạn, chứ không phải bình đẳng, tự do. Truyền thống trọng thầy như cha là một truyền thống đẹp. Và muốn giữ được truyền thống đó thì ông thầy phải có tư cách (chương trình đào tạo các giáo chức cần phải sửa lại, cả cách tuyển lựa cũng phải xét lại) và phải được xã hội tôn trọng.
Ngày xưa sĩ đứng hàng đầu, thương đứng hạng chót, ngày nay giá trị đã đảo ngược, giáo chức nghèo hơn hết, mà thương nhân làm giàu mau hơn học thức và đạo đức, không thể gọi là văn minh được. Không nên quá ưu đãi hạng sĩ, không nên ức thương, nhưng cũng không nên để cho kẻ sĩ đói[4] mà bọn thương nhân kiếm tiền dễ dàng quá, phung phí quá, tiêu tốn triệu bạc trong một đám cưới 

Tinh thần dân chủ của phương Đông chúng ta đời Xuân Thu đã rất cao: “ý dân là ý trời”. Ngày nay chính sách tiến bộ nhất là lệ trưng cầu dân ý, mà chúng ta chỉ mới thấy thực hiện một cách đứng đắn ở Pháp dưới thời De Gaule, còn ở Mỹ thì tuy nêu cao là chính quyền của dân, do dân, vì dân, mà sự thực là của tư bản, do tư bản, vì tư bản. Nước ta đã cóp hiến pháp của họ: kẻ nào không phải là triệu phú ức phú hoặc không được bọn tài phiệt ủng hộ thì làm sao có đủ tiền ra ứng cử dân biểu, và khi bọn đó trúng cử rồi làm sao khỏi thành gia nô, hoặc tên buôn lậu? Phải sửa đổi lại hiến pháp sao cho chỉ người nào đã có thành tích giúp dân mới đại diện cho dân. Tổ chức làng xã của mình trước thời Pháp thuộc, cần phải nghiên cứu lại và có lẽ còn có thể áp dụng trong thời đại này.
Về kinh tế, theo chế độ tự do không được mà chỉ huy quá cũng không được, có lẽ nên theo một chính sách trung dung, mà người Pháp gọi là économique concertée: chính quyền và các nhà kinh doanh, các đại diện của dân bàn tính với nhau để cùng định một kế hoạch.
Quan niệm nhàn của cổ nhân không hợp thời nữa, nó ngăn cản sự tiến bộ. Thực ra đạo Khổng không bao giờ khuyến khích sống nhàn cả - đó là tư tưởng của Lão Trang – mà chỉ một số nhà Nho phải làm việc tối tăm mặt mũi, đâu có sống nhàn được. Nhưng thái độ dang tay mắm miệng để làm giàu của phương Tây, sản xuất cho nhiều để tiêu thụ rồi phải tiêu thụ một cách phung phí để sản xuất, mà thợ thuyền mới có công ăn việc làm, áo chưa rách, chưa cũ đã liệng đi, đồ dùng hư thì không sửa, mua thứ mới, có xe kiểu 1971 thì không dùng kiểu 1970 nữa, thái độ đó tuy làm cho sự sản xuất, kỹ nghệ mau tiến nhưng cũng dễ làm hư con người, sinh ra quý trọng đồng tiền, ganh đua về vật chất. Trong giai đoạn kiến thiết, chúng ta phải tiết dục, sống khắc khổ, nhưng cả khi kinh tế đã thịnh vượng rồi, chúng ta càng nên có một lối sống riêng, không đua đòi Âu Mỹ làm gì.
Có nhiều phong tục tuy đẹp nhưng chỉ thích hợp với xã hội nông nghiệp, ngày nay cũng phải bỏ hoặc giảm đi, sửa đổi đi. Sự cúng giỗ tổ tiên trong nhiều gia đình ở thành thị đã giản dị hơn xưa nhiều, vì con cháu mỗi người làm ăn ở một nơi xa, mà ai cũng bận mưu sinh. Và có ai thương nhớ da diết cái Tết hồi xưa như Vũ Bằng, các hội hè đình đám mùa xuân như Toan Ánh thì cũng không thể nào vãn hồi những tục lệ đó, không thể bỏ cả tháng chạp để chuẩn bị cái Tết và cả tháng giêng để vui xuân được nữa!
Tuyển lựa một số giá trị cũ để duy trì, nhưng đồng thời cũng phải biết tôn trọng một giá trị mới: đức tin ở sự tiến bộ, tinh thần học hỏi làm việc tích cực và có phương pháp, óc phán đoán sáng suốt và khách quan, nhìn xa hiểu rộng, đức công tâm, đoàn kết, không thì không thể tiến được, mà càng mau lụi bại. Chúng ta đã có hai tấm gương tầy liếp rồi đấy.
Vào khoảng 1935-1940 Tưởng Giới Thạch và Trần Lạp Phu (lý thuyết gia của Quốc Dân Đảng Trung Hoa), rồi vào khoảng 1958 Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu (lý thuyết gia của nhà Ngô) cũng đề cao, hô hào những giá trị cũ của Khổng học, nhưng bọn trên chỉ 14 năm sau nhục nhã cuốn gói qua Đài Loan, bọn dưới chỉ năm năm sau phải mất mạng vì họ phong kiến quá, coi những giá trị cũ như bùa hộ mạng mà không thực tâm cải tạo xã hội cho dân tộc tiến bộ, lại còn đàn áp, thủ tiêu những người tiến bộ cho xã hội tương lai dân tộc và công bằng xã hội nữa.
Tôi không dám có tham vọng lập một chương trình kiến thiết quốc gia, cải tạo xã hội, chỉ nhân có phong trào “về nguồn” xét lại một số giá trị cũ và mới, và gợi ý về ít điểm như trên thôi.
Tôi xin tóm lại: chúng ta cần biết mình muốn gì và phải có can đảm sống khác người, suy tư lại hết từ chính trị, kinh tế, tới giáo dục, phong tục, nhân sinh quan…
Nếu chúng ta vạch một con đường đại khái theo qui tắc trên, tự tạo một xã hội cho ta mà chẳng cần một chút viện trợ nào của ngoại nhân, thì chỉ trong mười năm thế giới sẽ ngưỡng mộ dân tộc ta hơn là dân tộc Do Thái và các nước Á, Phi, Nam Mỹ sẽ lấy ta làm gương. Và các vinh quang của chúng ta ở đó, chứ không phải ở chỗ làm một tiểu cường hạng ba hay hạng bốn ở Á Đông, hạng hai mươi hay hăm mốt ở thế giới.

Tôi nói mười năm thì sẽ được thế giới ngưỡng mộ. Trong mười năm đó chỉ mới gây được nền tảng cho xã hội mới thôi. Muốn thành một nếp sống thì cần vài thế hệ. Cứ xét từ nếp sống cũ của các cụ thời xưa, tới nếp sống mới của thanh niên ngày nay, cũng mất trên nửa thế kỷ, vậy con đường mới, tiến mau lắm cũng phải ba mươi năm. Làm sao cho các chính quyền nối tiếp nhau trong thời gian đó vẫn giữ một đường hướng, mà tránh được cái tệ độc tài. Đó là điểm cần lưu tâm tới nhất.
Chắc nhiều vị sẽ cho tôi là không tưởng. Nhưng tôi đã quá ghê tởm bọn thực dân, hết Tàu, Tây, Nhật, tới Mỹ, cho nên tôi muốn gột một lần cho hết cái óc nô lệ, mổ một lần cho hết cái nhọt thực dân mà xây dựng lại hết cho các thế hệ sau này.
Sài Gòn 1.12.1971
Chú thích:
[1] Theo tin trên báo 23-469, Mĩ có đảng Mafia gồm 5.000 đảng viên và 24 chi nhánh chuyên cướp phá giết chóc.
[2] Tức các nước: Thuỵ Điển, Na Uy, Phần Lan (BT).
[3] Miến Điện hiện nay muốn khỏi bị lệ thuộc Mĩ, Trung Quốc hay Nga cũng can đảm sống khắc khổ: ngay tại thủ đô cũng rất ít xe hơi, không có xe máy dầu mà toàn xe ô tô buýt. Buôn bán không tấp nập, về thương mại đã quốc doanh hoá, nhưng nạn chợ đen rất hiếm, mà không có những kẻ làm giàu trên xương máu người khác.
[4] Thiên điều tra của Tuyết Sinh về Giáo sư Tư thục (trên Dân chủ mới tháng 11.71) đưa ra ánh sáng tình cảnh tủi nhục không tưởng nổi của đa số nhà giáo chỉ ở VN mới thấy được.
VÀI LỜI NGỎ VỚI BẠN TRẺ
Khi ông bà chủ nghiệm tờ Phù Đổng Thiên Vương lại xin tôi ngỏ ít lời với các bạn trẻ trong số ra mắt của tạp chí, tôi đã cố thoái thác: mấy năm nay vì sức suy nên tôi tự hứa không viết báo nữa; lời của một người già như tôi chắc các bạn không muốn nghe, nhất là viết một bài báo Xuân cho tuổi thanh xuân thì giọng phải vui, mà tôi biết nói gì cho vui trong tình trạng cực kì xáo trộn của quốc gia trong lúc này được? Nhưng bà và cả ông bạn Vũ Hạnh nữa nhất định không cho tôi từ chối, bảo: “thì xin ghi chép vài ý nghĩ về chiến tranh, bất kì là ý nghĩa gì miễn có tiếng nói của ông”. Thế là tôi đành phải viết.

Nếu kể từ khi quân đội Nhật vượt biên giới Hoa nam, tiến đánh Lạng Sơn cuối năm 1940 thì tới nay dân tộc ta bị nạn chiến tranh trên một phần ba thế kỉ rồi. Không dân tộc nào trên thế giới bị cái hoạ vừa lớn vừa dài như vậy. Trên ba chục năm đó, gần như năm nào vào những ngày cuối năm như lúc này tôi cũng ôn lại những biến cố lớn trong năm, ước ao một tương lai sáng sủa hơn cho năm sau, và rút một số kinh nghiệm do chiến tranh đem lại, đa số thật chua chát. Những kinh nghiệm lặt vặt về mọi phương diện (chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức, văn nghệ…) đó cũng hơi nhiều và tôi cũng đã lác đác trình bày trong nhiều bài báo và một số tác phẩm của tôi trong khoảng mười lăm năm gần đây. Hôm nay tôi chỉ xin thưa với các bạn về ba kinh nghiệm đáng gọi là khích lệ.
Mới từ năm 1945 các ý thức hệ bắt đầu xâm nhập mạnh tâm hồn một phần dân tộc ta.
Có lẽ nhờ mình có sẵn những tinh thần của họ Khổng nên các ý thức hệ phương Tây không gây được sự tan rã của gia đình – ít nhất là trong những gia đình nông dân và trung lưu ở miền Nam này. Gia đình nào của chúng ta có người theo bên này hay bên kia; nhưng tôi thấy rất ít gia đình cha con hoặc anh em xung đột nhau vì chính kiến. Mấy chục năm nay tôi mới nghe nói một trường hợp ở Bạc Liêu gần đây em xách súng doạ bắn chị vì chị ủng hộ một phong trào mà em chống; nhưng quân vô loại đó bị mọi người coi là thú vật chứ không phải là người.
Trái lại tôi thấy nhan nhản trường hợp những gia đình tuy cha con, anh em khác chính kiến nhau mà vẫn quí mến nhau, cưu mang nhau, hễ gặp mặt thì gạt bỏ chánh kiến đi, chỉ nghĩ tới tình ruột thịt, và trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều trường hợp như vậy đã khiến tôi rơi lệ. Có những ông già bà cả nhịn ăn nhịn uống để tiếp tế áo quần, thực phẩm cho con cháu; có những con cháu vượt mọi nỗi hiểm nguy tới tánh mạng đã lẻn về thăm cha mẹ, ông bà trong một đêm. Người ở bên nay, người ở bên kia, súng bắn qua bắn lại mà tình gia đình vẫn nguyên vẹn. Các bạn còn trẻ, không được mục kích những cảnh đó, nhưng cứ thử hỏi những vị lớn tuổi trong nhà, sẽ được nghe nhiều chuyện rất cảm động và thấy lời tôi nói không ngoa.
Tình đoàn kết trong gia đình là sức mạnh của dân tộc chúng ta. Cổ nhân bảo gia đình là nền tảng của quốc gia, lời đó thật đúng.

Điểm thứ nhì tôi muốn gợi cho các bạn suy nghĩ là sự hi sinh vô biên của các ông già bà cả thời này.
Ôn lại lịch sử nhân loại chúng ta thấy hễ thời loạn lạc thì phong hoá suy đồi. Như thời đại Socrates (thế kỉ IV tr.C.n ở Hi Lạp), thời đại Auguste (thế kỉ đầu C.n ở La Mã), kẻ giàu thì truỵ lạc, kẻ nghèo thì trộm cướp, phụ nữ say mê tự do, tha hồ li dị, phá thai, gian dâm mà một số triết gia thì nguỵ biện. Thời Chiến Quốc ở Trung Hoa cũng đại khái như vậy, mà bọn Trúc Lâm thất hiền Lục triều thì nổi tiếng cực kì phóng túng, say sưa tối ngày, hồi đó chưa có bạch phiến, nếu có thì chắc họ cũng “phi” như một số hippi ngày nay. Ở nước ta thời cuối Hậu Lê có một môn đồ cửa Khổng sân Trình mà bán đứng thầy “để vinh thân phì gia” (ngày nay chúng ta cũng có một trường hợp tương tự), còn nạn tham nhũng mua quan bán tước thì chắc lớn lắm nên mới có những “sính đồ (tức tú tài) ba quan”.

Vậy chúng ta không nên ngạc nhiên rằng Sài Gòn hiện nay có những “bụi đời”, thanh niên xì ke, nhiều trộm cướp, đĩ điếm, nhiều buổi “nhạc sở thú”… Trái lại tôi rất phấn khởi mà cũng rất cảm động khi thấy những ông lão sáu bảy chục tuổi lưng khòm, mắt mờ, lụm cụm làm mọi công việc từ dạy học đến việc bán gạo, bán khoai, lượm đồ phế thải trong các đóng rác mà chỉ lại gần thôi tôi cũng đã nhức đầu, buồn nôn, như vậy để tiếp tế cho con cháu ngoài mặt trận, để giúp đỡ cho công dân goá bụa, để nuôi con cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ, có khi cho chúng tiền phi xì ke nữa. Lại có những cụ lọm khọm xách giỏ thức ăn chầu chực ngày này qua ngày khác để thăm con cháu trong khám.
Chiến tranh còn thì các cụ còn phải cực khổ đến hơi thở cuối cùng. “Trẻ cậy cha, già cậy con”; ngày nay các cụ đã không cậy được con mà vẫn phải nuôi con, cả những con làm quân nhân hay công chức vì đa số không đủ sống. Khắp thế giới không có dân tộc nào cực khổ như dân tộc ta, hi sinh nhiều cho con cháu như các cụ già của chúng ta. Điều đó các bạn cứ nhìn chung quanh, có khi ngay trong gia đình các bạn nữa thì sẽ thấy.
Còn những bà vợ nữa chứ. Tôi không nói những bà goá chồng, ngay nhiều bà có chồng hiện làm quân nhân hay công chức cũng lam lũ mà đảm đang vô cùng. Tôi biết một số lớn học trò của tôi dạy học mà phải làm thêm một nghề khác như may vá, nấu cháo nấu xôi bán để kiếm ít tiền giúp chồng cũng công chức, nuôi con ăn học. Họ làm việc suốt ngày, tới khuya mà vẫn thiếu thồn, ăn rau ăn ốc hay tép, quanh năm không được hưởng một lạc thú nào cả, ngoài cái vui thấy con khoẻ mạnh, học hành tấn tới. Nếu con họ hư hỏng thì tôi không hiểu làm sao họ sẽ chịu nổi.
Hạng người đó cũng nhan nhản trong xã hội chúng ta, nhưng chỉ ở trong giới bình dân hoặc trung lưu, nhiều nhất là ở các tỉnh nhỏ. Trên kia tôi đã nói gia đình là nền tảng của quốc gia, tôi có thể nói thêm phụ nữ bình dân trung lưu là nền tảng của gia đình, là nguồn hi vọng của dân tộc. Dân tộc ta sau chiến tranh này mà thịnh lên, hùng cường lên chính là nhờ họ. Rồi đây, mươi năm nữa, các bạn lớn lên sẽ nhận thấy lời của tôi đúng.
Sau cùng, điều thứ ba tôi muốn kể với các bạn là khi toàn dân cùng nghèo thì người ta càng thương yêu nhau, càng đoàn kết. Chỉ trong một xã hội kẻ giàu người nghèo cách biệt xa nhau quá thì mới có sự sung đột nhau. Luôn luôn thời nào cũng vậy, quyền lợi là nguyên nhân của sự chia rẽ.
Tôi nhớ những năm tháng kháng Pháp, chúng tôi bỏ hết đồ đạc lại Sài Gòn, chỉ xách một va li quần áo để đi tản cư, trong túi còn ít trăm đồng. Mà hầu hết các người ở thành thị tản cư tình cảnh cũng như chúng tôi, không hơn gì. Ai có được ít tư trang vàng bạc, nếu không bị giặc Pháp, giặc Miên cướp giật thì tiêu dần cũng hết. Rốt cuộc người nào cũng chỉ còn hai bộ quần áo với hai tay không. Phải kiếm cách sinh nhai, đổ mồ hôi ra lấy chén cơm. Cơm ăn với muối hoặc vài con ốc, con cá, lá rau, thèm thịt và thèm đường. Cà phê là gạo rang. Những năm đó chúng tôi thiếu thốn hơn những người nghèo ngày nay nhiều, nhưng không thấy khổ. Trái lại ăn ngon, ngủ ngon, khỏi phải uống thuốc tiêu thực và an thần như ngày nay, và có thể nói là khoẻ mạnh vui vẻ nữa.
Quí nhất là tình đồng bào. Tản cư tới đâu cũng được tiếp đón niềm nở, cho mượn giường mượn chiếu, mượn chén mượn đũa, mượn gạo mượn muối, mà thường những phòng tốt nhất, những món ăn ngon nhất, được chủ nhà nhường cho. Không còn ai nghĩ tới giai cấp nữa. Ông đốc cùng với chú lao công nằm chung nhau, tâm sự với nhau, kể hết tin tức bộ đội rồi tới cả chuyện tiếu lâm cho nhau nghe.
Vậy nghèo không nhất định là khổ, và một xã hội nghèo nhưng quân bình nghĩa là không có kẻ giàu quá, không có những đám cưới trên cả trăm triệu nhưng cũng có những kẻ phải lượm đồ phế thải ở đống rác để kiếm tiền mua gạo nấu cháo, một xã hội như vậy theo tôi còn đẹp hơn một xã hội tham nhũng, kẻ mạnh bóc lột kẻ yếu.
Khắp thế giới đang bị một cuộc khủng hoảng kinh tế mà có người đoán sẽ không kém cuộc khủng hoảng 1930, vậy khi hoà bình trở lại, chúng ta cũng không mong gì được nhiều ở sự viện trợ của các cường quốc mà có được sự viện trợ thì cũng phải chịu vô số sự nhục nhã đau khổ như chúng ta đã thấy trong mấy chục năm nay. Chúng ta phải chuẩn bị sống một đời sống giản dị, và mong làm sao cho các nhà cầm quyền của ta sau này trong sạch, đủ sáng suốt và nghị lực để san bằng những bất công quá tàn nhẫn đi, theo tôi đó là con đường duy nhất để tạo sự an ổn cho xã hội và hạnh phúc cho quốc dân.
Muốn vậy chúng ta phải bỏ tinh thần vựa vào ngoại nhân, đừng để ngoại nhân xen vào nội bộ của chúng ta. Trên ba chục năm nay, bao nhiêu đau khổ của dân tộc đề do ngoại nhân gây ra cả. Ngoại nhân dù mạnh tới mấy cũng không thể giải quyết những vấn đề của chúng ta được.
Nhờ tinh thần gia đình, nhờ tinh thần hi sinh của ông già bà cả và tinh thần tháo vát tận tuỵ của phụ nữa, nhờ tinh thần đoàn kết của toàn dân trong cảnh nghèo chung, tôi tin rằng chúng ta sẽ giải quyết được mọi vấn đề khi mà bọn thực dân không còn xen vào việc riêng của chúng ta, chia rẽ chúng ta nữa.
Đầu năm tôi không có một chuyện vui xuân để tặng các bạn, chỉ xin gởi các bạn một NIỀM TIN đó mà thôi. Mà niềm tin nào cũng là một niềm vui. Xin chúc các bạn TIN và VUI.
Sài Gòn 15.12.1974
Phù Đổng Thiên Vương số 1 – 30.1.75
Tết Ất Mão

Khi tôi viết bài này ai cũng biết rằng chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng tôi không ngờ lại chấm dứt mau như vậy. Như có một linh cảm mơ hồ tự tiềm thức gì chăng, sao mà lời khuyên thanh niên hợp với thời mới thế (ghi thêm 1977).
Nguyễn Hiến Lê
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tết – Đọc thơ trào phúng của Tú Xương Lẽ thường xưa nay, cứ mỗi lần Tết Nguyên đán đến, với người Việt là một không khí rộn ràng đầy tính ...