Thứ Ba, 31 tháng 12, 2024

Mẹ quê - Truyện ngắn Lê Đức Quang

Mẹ quê - Truyện ngắn
Lê Đức Quang

Nhà có cái sân nhỏ. Trước sân là một cây xoài tỏa bóng mát. Dưới gốc xoài có một cái võng. Hằng ngày, sáng trưa chiều tối, lúc nào rảnh thím ba Mỹ ra cái võng nằm buồn bã một mình, đong đưa, đong đưa…
Thím ba Mỹ có hai người con, nhưng chẳng đứa nào ở với thím cả. Cô con gái đầu, có chồng nghèo ở làng bên, rồi ở hẳn luôn nhà chồng. Thỉnh thoảng dăm ba tháng, cô mua ít sữa, ít trái cây về thăm mẹ một lần. Con gái quê có chồng nghèo, như thế coi như hiếu thảo rồi. Còn cậu con trai, học xong rồi cưới vợ ở luôn thành phố, không thấy về thăm nhà. Một đời gồng gánh nuôi con khôn lớn, cuối cùng, thím ba Mỹ phải số một mình, cô đơn và hiu quạnh, chẳng ai chăm sóc cả. Giống như nuôi loài chim, đủ lông đủ cánh, bay đi!…
Vào mùa thu, cái hàng rào xung quanh vườn trống trước hở sau, thím ba Mỹ một mình lầm lũi, tay cầm cái rựa, tay kéo cành gai lo rào giậu lại. Mới làm vừa xong, mùa đông đến, cây dại trong vườn mọc lên um tùm. Thím ba Mỹ lại tiếp tục cầm rựa, cầm cuốc làm, chẳng ai giúp đỡ cả. Trước đây còn trẻ, trong vườn ngoài đồng, những công việc nặng nhọc của đàn ông thím một mình làm tất cả, không cho con làm việc gì nặng nhọc. Giờ đây già rồi, làm một chút là thở, làm một chút là mệt, sức khỏe không còn mạnh mẽ như ngày xưa nữa, khổ ghê!
Khổ nhất là cái nhà. Cái nhà của thím ba Mỹ lợp bằng tôn cũ kĩ từ đâu thời nào, qua nhiều người dùng, có nhiều lỗ đinh. Mùa hè thì nóng hừng hực, phải cầm cái võng ra gốc Xoài đung đưa cho mát. Mùa đông thì lạnh lẽo. Mưa to nằm trong nhà nghe lốp bốp như tiếng pháo nổ, dột tứ phía, phải lấy thau, lấy bạt che chắn khắp nơi. Mưa to quá, nhiều chỗ dột ẩm ướt, trong nhà chẳng có chỗ nào ngủ cho yên lành cả. Dạo này sức khỏe thím ba Mỹ kém hơn nhiều. Thím mong sao con trai về gặp mặt, xem thử vợ chồng nó mập hay ốm, sức khỏe như thế nào? Hơn nữa bắt nó leo lên mái nhà bít lại mấy lỗ đinh, cho nhà bớt dột. Già rồi, lại đàn bà nữa, mùa đông đến rồi, thím làm sao leo lên mái nhà cho được!…
Mấy người hàng xóm, ngày nay ai cũng làm ăn khấm khá lên. Họ có xe máy, ti vi, tủ lạnh… sài nước bằng mô-tơ, không phải xách nước bằng tay nữa. Riêng mỗi nhà thím ba Mỹ, vẫn còn sài cái cần vọt múc nước. Cái cần vọt được làm bằng cây thanh tre buột vào nhau, một cây tre nhỏ dài cột gàu thòng xuống giếng, một cây tre to để làm cần, bá vào gốc cây hoặc trụ vững chắc. Giống như cái thế cần câu, chỉ khác là được làm bằng thân tre làng. Cái cần vọt ở nhà thím ba Mỹ sắp hư rồi, lõng lẻo và lúc lắc, xách được gàu nước lên sài khổ sở lắm. Mấy người ở xóm thấy thím ba Mỹ đã sáu bảy chục tuổi rồi, sống cô đơn ai cũng thương tâm, nói: “ Để chúng tôi làm lại cái cần vọt, cho bà xách nước nhé?”. Thím ba Mỹ khăng khăng nói: “ Không! Không! Để thằng con tui nó về, làm một chốc là xong! Hôm bữa nó viết thư, nói sắp về rồi!…”. Thím nói hy vọng vậy thôi, chứ con nào có viết thư cho thím đâu. Ngày cũng như đêm, mỗi lần nghe tiếng xe nổ ngoài ngõ, thím ba Mỹ ở trong nhà chạy ra xem thử, có phải con trai mình về không? Thế nhưng bao nhiêu chiếc xe chạy ngang qua nhà, là bao nhiêu hụt hẫng, thím chẳng thấy con về. Thím mong ngóng, nhớ con quá!…
Đêm nào thím ba cũng lo lắng, không biết con mình sống trên thành phố như thế nào, sức khỏe có tốt không? Suốt cả tuần liền, thím ba luôn mất ngủ, toan tính về việc lên Sài Gòn thăm con. Thím mang gạo sang nhà bà hàng xóm có nghề tráng bánh, khéo tay tráng giúp ít chục bánh, hôm nào tới ngày mùa cắt lúa trả công lại cho người ta. Đã vậy, thím chuẩn bị nào là gà, nào là vịt, nào là khoai lang, trái cây mang theo làm quà cho con. Thím nghĩ thành phố đất ít người đông, mấy thức đặc sản nhà quê này chắc con mình vui lắm, giống như thuở nhỏ con chờ mẹ đi chợ về.
Từ ngày học xong rồi cưới vợ anh Quận chẳng sung sướng gì. Anh dân quê nghèo, vợ cũng nghèo, yêu nhau từ thời đại học rồi cưới nhau, cùng chí hướng lập nghiệp ở thành phố. Vợ chồng anh chị làm cho công ty tư nhân, công việc luôn bận rộn. Anh sáng đi làm, trưa cơm bụi, chiều đi làm, tối cắp sách vở đến trường học thêm tiếng Anh. Vợ sáng đi làm, trưa cơm bụi, chiều đi làm, tối học thêm tiếng Nhật. Vợ chồng gặp nhau thân mật chỉ sau 9h tối. Cuộc sống anh chị luôn tất bật và hối hả, lao theo công việc, luôn thiếu thời gian. Lúc bận rộn thì không sao, những lúc đêm về thư thả một chút, anh Quận nhớ mẹ lắm. Anh thường hay nghĩ: Mẹ già rồi, sống một mình một nhà, hiu quạnh, nửa đêm gió máy, ai lo!?…Nhưng nhiều khi nghĩ lại, anh thấy mẹ mình gàn thật. Lúc vợ chồng mới cưới nhau, anh có bàn: “ Hay là mẹ bán đất, bán nhà, lên thành phố ở với tụi con?…”. Mẹ anh không chịu, nói: “ Mẹ sống ở quê có bạn bè, chân lấm tay bùn, quen rồi! Mẹ không muốn bán đất, bán nhà, xa quê hương, mồ mả ông bà tổ tiên!…”.Mẹ anh nhất quyết không lên thành phố, anh thì không muốn về quê, mỗi thế hệ một quan điểm, chẳng biết tính làm sao? Về quê mà làm gì? Chẳng lẽ học xong bằng đại học kinh tế, quay về quê cuốc ruộng? Anh tính đợi lúc nào đó sẽ lựa lời, lựa lúc khuyên nhủ mẹ. Vừa rồi nhận được điện thoại của mẹ ở quê lên thăm, anh vui mừng lắm, nghĩ đây là cơ hội lo cho mẹ phần nào.
Thím ba Mỹ ngồi chồm hổm ngay góc bến xe, ôm khư khư mấy món quà quê, giống như sợ người ta lấy cắp. Thỉnh thoảng thím đứng lên, nhìn qua nhìn lại, trông ngóng con trai đến đón. Anh Quận đến bến xe, mẹ con lâu ngày gặp nhau, thôi là vui mừng lắm. Thím ba Mỹ cầm tay con, nắn nắn bóp bóp như ngày còn bé, lo lắng: “ Trời đất, sao con ốm nhom thế này, ở thành phố chắc con khổ lắm phải không?”. Anh Quận nhìn thấy mẹ mang nào là bánh tráng, gà vịt, khoai lang, mấy trái ổi… thôi thì đủ cả. Đã vậy, trong túi áo bà ba của mẹ còn nhét bị ớt xiêm to tướng, Đường xa, anh thấy mẹ mang đồ cồng kềnh, thương quá gắt: “ Ở thành phố, đâu có thiếu khoai lang, ổi, ớt xiêm…đâu, mẹ mang theo mấy thứ này làm chi cho khổ!?…”. Thím ba bảo: “ Mẹ nhớ hồi ở quê, mỗi lần ăn cơm, con thường chạy ra sau hè hái ớt xiêm. Mẹ sợ con thèm ót, nên…”. Tuy chưa ăn ớt của mẹ cầm lên, nhưng anh Quận thấy mắt mình ướt ướt, cay cay…
Anh Quận chở mẹ về nhà mình. Căn nhà chật chội đầu đuôi 20m vuông. Trong nhà còn chứa nhét nào là vi tính, nào là ti vi, tủ lạnh… Phòng khách của anh chị cũng là phòng ngủ. Ban ngày anh chị dùng một khoảng trống nhỏ giửa nhà để tiếp khách, ban đêm quét chỗ đó sạch sẽ, bỏ tấm nệm xuống ngủ. Sáng dậy anh chị cuốn nệm lên cất, để lại khoảng trống tiếp khách. Thím ba Mỹ vô nhà, hết đi xuống rồi lại đi lên, nhìn quanh căn nhà của con. Thím không hài lòng, la: “ Cái thằng này, bậy quá! Con mua nhà thì phải mua lớn lớn một chút, khỏi mất công đổi đi lại lại cho khổ sở. Căn nhà bé tẹo như thế này, sao mà ở cho được? Căn nhà này con mua bao nhiêu?”. Anh Quận thành thật: “ Dạ! Con thuê của người quen đó mẹ! Ở thành phố mua đất mua nhà đâu có dễ!…”. Thím ba Mỹ hỏi: “ Mỗi tháng bao nhiêu?”. Anh Quận nói: “ Một triệu”. Thím ba Mỹ kinh ngạc, trố mắt lên, quê mùa nói: “ Trời đất quỷ thần ơi, căn nhà bé tẹo như thế này mà những một triệu! Một triệu bằng ở quê làm mướn, cắt lúa nhổ mì khổ sở, ăn nhín nhịn thèm, chắc chiu những ba tháng chứ ít gì! Vậy mà cũng nói là bạn quen!…Thôi vợ chồng con về quê ở với mẹ, nhà cửa ruộng vường có sẵn, rộng rãi, có ít ăn ít, có nhiều ăn nhiều, sướng hơn!…”.
Ngày đầu tiên mới lên, vợ chồng anh Quận nghỉ việc, bàn tính với nhau đưa mẹ đi ăn hoặc đi đâu đó chơi. Nhưng thím ba Mỹ than mệt, không chịu đi đâu cả. Ở nhà, chân tay thím không chịu yên, cứ loay hoay dọn dẹp, hết lo chùi cái bàn, rồi lau cái ghế, còn lom khom chà cái tolet nữa chứ! Vợ chồng anh Quận can ngăn thế nào cũng không được. Suốt mấy ngày liền, thím ba Mỹ lên Sài Gòn nhưng chỉ ru rú trong nhà, không hề chịu ra khỏi cửa. Vợ chồng anh Quận hiếu thảo, thương mẹ, muốn đưa mẹ đi chơi nhưng có được đâu!
Chỉ có một lần duy nhất, thím ba Mỹ ngẫu hứng ra đầu đường phố đi dạo một mình. Lúc về nhà, thím cầm theo một xấp tờ rơi quảng cáo, có hình nghệ sĩ cải lương Minh Vương và Lệ Thủy. Vợ chồng anh Quận hỏi: “ Mẹ cầm mấy tờ quảng cáo rác rưởi này về làm chi?”. Thím ba Mỹ nói: “ Chơi!… Mẹ xem hình Minh Vương, Lệ Thủy nay có già đi chút nào không ấy mà!…”. Anh Quận nhớ lại hồi còn nhỏ xíu, có lần vào ban đêm, mẹ cầm tay anh dẫn đi xem cải lương. Sáng hôm sau, mẹ anh và mấy bà hàng xóm ngồi bên nhau vẫn còn thích thú, bàn tán cái giọng trong trẻo của cô đào chính mãi. Anh hỏi: “ Mẹ có thích xem cải lương không, tối vợ chồng con đưa mẹ đi?”. Mẹ anh bỉu môi, lè lưỡi: “ Thời buổi giờ, ai mà thèm coi ba cái thứ ấy!….”.
Một tuần sau, thím ba Mỹ về quê. Gần nhà thím ba là thím hai Kiên, hàng xóm với nhau, cũng thuộc diện một nách nuôi mấy đứa con khôn lớn. Ngày xưa lúc chiến tranh, các ông chồng tòng quân đi đánh trận, chết hết veo rồi, giờ đây hòa bình ở xóm bà góa nhiều lắm. Gia đình thím hai, con cái không học hành gì cả, làm thuê làm mướn quanh quẩn trong làng, nhưng được một cái nhà dột có con, điện hư có cháu, gia đình xum vầy và hạnh phúc. Vừa rồi hay tin thím ba Mỹ lên Sài Gòn thăm con về, thím hai Kiên sang chơi. Thím quan tâm:
– Bà lên thành phố vui không?
Thím ba Mỹ kênh kiệu nói:
– Vui lắm…
– Thế thằng con của bà, có dẫn bà đi ăn uống gì ngon không?
– Nó dẫn tui đi ăn hết nhà hàng này, đến nhà hàng nọ. Ăn toàn là hải sản thôi, ớn luôn!…
– Nó có dẫn bà đi chơi không?
– Ôi! Nói đến chuyện đi chơi, thì tui mới chợt nhớ!…
Vừa nói, thím ba Mỹ vừa lục trong lưng quần ra xấp tờ rơi quảng cáo, lấy làm chứng cứ, tưởng tượng, vẽ ra viễn cảnh cao sang khoe với thím hai:
– Thằng con nó dẫn tui đi xem cải lương! Lên thành phố, đi xem cải lương, sướng thiệt! Mình đi xem cải lương được ngồi trong cái nhà to lộng lẫy, có máy điều hòa, mát lạnh, ở quê mình gọi là cái rạp đó. Trước mặt mình người ta để cái bàn nhỏ dài, có bia nè, có nước ngọt nè, trái cây nè, đủ thú đồ ăn thúc uống để sẳn. Đang xem cải lương, mình thèm ăm món gì thì tự nhiên lấy ăn, không phải tốn tiền gì cả, sung sướng lắm. Chứ không phải như ở quê mình đâu, đi xem cải lương mưa gió ngồi bệch giữa trời, ồn ào, đi ra chen lấn, đi vào chen lấn, giẫm chân giẫm cẳng lên nhau, bắt mệt! lên thành phố xong, về quê mình, thấy bắt ngán!… Tui đi xem cải lương vở tuồng Lan và Điệp, có Minh Vương – Lệ Thủy hát, hay lắm! Tuy già rồi, nhưng Minh Vương- Lệ Thủy lên vọng cổ vẫn còn trong trẻo, thánh thót, rõ ràng và mạch lạc, giống như hồi hát ở quê mình hồi nào. Thằng con nài ép bắt tui đi ba đêm, ngồi xem mỏi cả lưng, bắt ớn luôn!…
Nói xong, sợ thím hai không tin, thím ba Mỹ còn lấy tay chỉ vào tờ rơi quảng cáo, nói tiếp:
– Nè, nè, bà tưởng tui nói láo sao, thằng con tui thừa tiền mua cho tui còn dư một vé nè, nè!…
Thím hai Kiên quê mùa, lại vốn là dân mê cải lương, chép miệng thèm thuồng:
– Số bà có phước có phần, nhờ con, sướng thiệt!!!
Nói xong, sau đó thím hai Kiên về nhà lo cơm nước. Thím ba Mỹ ngồi lại một mình, nhìn căn nhà vắng vẻ và trống hoắc, tự nhiên thấy buồn, thím cố không khóc nhưng không hiểu sao, nước mắt cứ chảy tràn!…
Nhà có cái sân nhỏ. Trước sân là một cây xoài tỏa bóng mát. Dưới gốc xoài có một cái võng. Hằng ngày, sáng trưa chiều tối, lúc nào rảnh thím ba Mỹ ra cái võng nằm buồn bã một mình, đong đưa, đong đưa…
8/10/2021
Lê Đức Quang
Theo https://vanvn.vn/

Tiếng chân nhẹ khẽ qua những yên ngủ hoang tàn

Tiếng chân nhẹ khẽ qua
những yên ngủ hoang tàn

Tây Ninh là vùng đất của nắng và gió. Tây Ninh là vùng biên viễn ở phía Tây Nam Tổ quốc. Những đặc điểm đó đã sản dinh ra một con người với những câu thơ mở ra như đất, như hoa cỏ, cây trái dưới chân và như nắng gió trên đầu. Những câu thơ thì thầm như chỉ vang lên trong con người ấy và chỉ để mình người đó nghe.
NHÀ THƠ PHẠM SỸ SÁU chọn và giới thiệu
BA VÀ CỔ TÍCH
Ra đồng từ lúc tờ mờ sương
ba mang về sự tích trong mỗi bữa cơm
con hải âu suốt cuộc đời chao mình trên sóng
mong chuộc tội bất hiếu với cha
Có cậu bé không nghe lời mẹ
mẹ đi rồi còn tìm lại được đâu
trên nấm mồ trồi lên cây lạ
trái vú sữa vì con mà ngọt lịm giữa trời
Tiếc của, con thằn lằn tặc lưỡi
sống trên đời mà thiếu nghĩa thiếu nhân
chết đi rồi vẫn còn ân hận
kiếp bò sát cho chừa thói tham
Con bỏ đũa, chống cằm
thương con dã tràng se cát cố tìm lại viên ngọc đánh rơi
bàn ăn cơm lạnh. Ba ơi… tội nghiệp!
ba giật mình chữa lại cổ tích: “Dã tràng kiếm ăn”
Bẵng đi mấy chục năm con chưa nghe ba kể
chiều nay trong tất bật mưu sinh
con muốn chạy về bên bữa cơm nhà mình
để nghe ba kể chuyện cổ tích như ngày đó, ba ơi!
CÀ PHÊ VỚI NÚI
Mặc kệ mưa phương nào không biết
góc cà phê Ngũ Hành Sơn vừa tầm ngắm
vàng ươm từng sợi nắng
ngọt lịm môi cười trong chút mặn mòi gió biển
Phật Thích Ca ẩn hiện trong mắt xa xôi
sách xưa tích cũ trôi về nguyên vẹn phía em ngồi
thoáng thấy Lão Tử đang đi vào núi
có gặp không, Khổng Tử từ vách đá bước ra?
Em không là con gái phú ông
chưa từng chứng kiến mười tám tên cướp xông vào cửa phủ
giọt cà phê thì thầm vừa đủ
những viên đá giòn khua gọi giấc xưa từ lâu lắm chưa về
Anh dắt lên chùa
trả lời em câu hỏi về vẻ mặt hun của Thập Bát La Hán
anh diễn mặt buồn, mình cũng từng trong số đó
nhưng còn mắc nợ trần gian
Nợ những lần cùng em góc quán
nợ những bước chân hoang dìu em khắp cùng suốt kiếp
anh giả vờ trả hoài không hết để thành thừa
cho em nợ ngược và trả mãi kiếp sau…
CHIỀU TRÊN ĐỒI VẮNG
Em tìm dấu trăng rơi trong hoang tàn đổ nát
trong cỏ dại nhờ nhờ nhập nhoạng
ánh trăng người đã bán
giờ vẫn còn nghiêng nghiêng
Em tìm dấu chân đôi tình nhân cũ
trong sẫm tối mịt mờ
bờ cát dài lẳng lặng
xóa dấu tình trăm năm
Pôsahnư công chúa thủy chung chờ chồng
trên đồi cao vọng tưởng
như hòn vọng phu ngóng trông bốn phía buồn chất ngất
nước mắt hoà biển xanh
Em và anh
rời đồi hoang trong vội vàng hấp tấp
Bà Nài chiều xuống thật nhanh
em tiếc mình không kịp đọc câu thơ cũ
Em ngoái nhìn
Lầu Ông Hoàng vẫn còn đây dù hoang phế
tháp Pôsahnư dịu dàng đoan thục cô quạnh dưới trăng nghiêng
em lọt thỏm trong bóng chiều ngơ ngác
nhưng mà có anh…
MỘT MÌNH TRƯỚC GÀNH ĐÁ ĐĨA
Có thể lắm
ấu thơ của trăm triệu năm trước
em và anh chơi nhà chòi dưới vòm trời cao vọi
sóng trắng mênh mang
mây cõng gió lang thang
và trăng
ánh trăng ghé vào xem
Em làm đĩa
mong vành trăng đừng vỡ
anh chất chồng lên cao… lên cao…
này 1 dĩa 2 đĩa 3 đĩa
vô vàn cột đĩa sâu thẳm trong lòng đại dương nhô lên khỏi mặt đất
sóng đùa từng đợt phụ giúp
mây gió hát ca hoà điệu trùng dương
cứ như chúng ta xây lâu đài bằng tất thảy yêu thương
cần mẫn như dã tràng se cát
Đột nhiên
anh đi theo ngọn gió hoang
trò chơi dở dang từ đó
Người đời không biết hoặc biết sai vì sao biển xanh lại mặn
nước mắt em đổ vào cho từng đợt sóng cuốn đi
Chúng ta đã trải qua bao kiếp bên nhau mải miết trò chơi cùng những chiếc đĩa xinh
từng cột đĩa kết dính
đại dương sóng dữ cũng không bao giờ chia cắt
duyên mình sánh không bằng chiếc đĩa phải không anh?
Đã bao lần đứng trước biển xanh
ngắm nhìn đá đĩa, ngơ ngác hỏi mây hỏi gió
hỏi anh còn mải rong chơi đâu đó
bao giờ về cùng em?
RÁNG CHIỀU BÊN CỔ THÁP
Nắng chiều đổ dài tháp xưa chạm đỉnh thiêng
bóng hai mái đầu sóng đôi in lên đền đài cổ
những viên gạch trùng tu hằn sáng tường rêu cũ
tiếng chân nhẹ khẽ qua những yên ngủ hoang tàn
Cánh hoa dầu rơi bâng quơ thềm cát
cơn gió qua vai tượng thần, qua cánh tay vũ nữ vai thon
điệu múa nghìn năm thức dậy với hoàng hôn
cội sứ trầm tư đong đưa những chùm hoa trắng
Ruộng lúa vàng từ ngàn xưa vẫn miệt mài mưa nắng
bảo bọc chở che quanh ngọn tháp u huyền
vết sẹo cây trường vẫn đó, nở hình trái tim
cỏ cây có biết hờn không một viên đạn lạc?
Em đến tháp lần này và bao nhiêu lần khác
hôm nay có người khách lạ hóa thành quen
hoa nắng nhắm vào tóc em
rơi đúng nụ hôn đầu tiên bất chợt…
DẮT EM VỀ VỚI MỸ SƠN
Sớm ngày mùa trong veo
anh dắt em về Mỹ Sơn thánh địa
đôi bàn chân bước nhẹ
anh ơi… em sợ
cái dịch chuyển nhỏ xíu cũng làm kinh động ngàn năm
Vua chúa đâu
cung tần mỹ nữ giai nhân đâu
quân hầu đâu
ai qua đây đã hóa thành ngọn gió
hóa thành đất, thành nước hay muôn thú cỏ cây?
Có ai đó thành mây bay?
về đây ngắm lại nơi mình từng thờ tự
bỗng chốc tiêu tan
Vua chúa mà chi
chức tước làm gì
rồi cũng như khói như mây
chỉ còn đây phế tích hoang tàn
Bàn chân bước nhẹ nhé anh
kẻo vỡ động viên gạch nào đấy thêm đau lòng em không chịu nổi
bước đi như hơi thở
không lời nào mà như nói nhiều lắm đấy
Anh dắt em về đây
bước chân nhẹ như thực như mơ
có khi nào qua bao năm hóa kiếp
nay anh dắt em về chiêm bái lại ngày xưa???
8/10/2021
Trần Nhã My
Theo https://vanvn.vn/

Giọt sương đêm chưng cất nỗi buồn

Giọt sương đêm chưng cất nỗi buồn

“Xanh// Nàng mọc lên từ ngực cỏ/ An nhiên xanh một ánh cười// Gương hồ xanh làn sóng tóc/ Thảo nguyên xanh gió bờ vai/ Dụ mùa về xanh môi mắt”. Màu xanh như sợi chỉ xanh xuyên suốt tứ thơ độc đáo, cũng như ngọn hải đăng lẳng lặng “thắp mắt sao khuya” cho “Giọt sương đêm chưng cất nỗi buồn” trong một tứ thơ 1-2-3 ám tượng khác của Vũ Trần Anh Thư.
Xanh  
Nàng mọc lên từ ngực cỏ
An nhiên xanh một ánh cười
Gương hồ xanh làn sóng tóc
Thảo nguyên xanh gió bờ vai
Dụ mùa về xanh môi mắt.
Facebook nhắc bình hoa ngày cũ
Thì vẫn thế mùa thu ơi
Có gì đâu mà nhắc nhớ
Hoa cúc vàng khi đến độ
Trăng khuyết – tròn tự xa xưa
Chỉ yêu thương chẳng biết đợi mùa…
Tranh của họa sĩ Nguyễn Quang Thiều
Hoa sữa tháng mười rưng rưng phím dương cầm
Chẳng thể ngừng đơm hương
Điệp khúc mùa thu ngân dài mái phố
Li ti xanh mùa đắm đuối
Những nồng nàn chẳng biết giấu vào đâu
Lỡ một ngày vì yêu ngộp thở?
Đợi hoàng hôn thắp lửa
Đêm chắt chiu tinh khiết
Vun thành hình giọt sương
Ban mai chiu chắt nắng
Gọi búp hồng lên hương
Ngày chắt chiu yêu thương…
Ngọn hải đăng trong giấc mơ anh
Em ngủ rồi đèn nhớ ai còn thức
Lẳng lặng hải đăng thắp mắt sao khuya
Giọt sương đêm chưng cất nỗi buồn
Trăng hạ huyền mênh mang quỳnh hương Hà Nội
Cập bến giấc mơ hải đăng anh.
9/10/2021
Vũ Trần Anh Thư
Theo https://vanvn.vn/

Tìm nhau từ nhịp chiêng ngân

Tìm nhau từ nhịp chiêng ngân

Đào An Duyên là thạc sĩ văn học, hiện sống và dạy học tại TP Pleiku, tỉnh Gia Lai; Hội viên Hội VHNT các Dân tộc thiểu số Việt Nam và Hội VHNT Gia Lai.
Nhà thơ Đào An Duyên đã xuất bản 2 tập thơ Ngày đã qua (NXB Hội Nhà văn 2016), Một ngày khác ta (NXB Hội Nhà văn 2018) và tập tản văn Dòng sông trôi qua tôi (NXB Quân đội nhân dân 2019); nhận Giải Khuyến khích Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2017 với tập thơ Ngày đã qua, Giải C của Hội VHNT các các Dân tộc thiểu số Việt Nam 2019 với tập tản văn Dòng sông trôi qua tôi.
“Thăm thẳm chiều/ Lặng phắc những pho tượng/ Mặt cười/ Mặt khóc/ Mặt trầm ngâm/ Không có gương mặt nào đắc thắng”. Tây Nguyên bí ẩn trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ Đào An Duyên, trở thành cái “phông” tâm thức văn hóa, cả khi viết về tình yêu lứa đôi: “Thành phố ở phía mặt trời/ Nhìn về phương nào cũng nắng/ Mình thương nhau như mùa hội/ Tìm nhau từ nhịp chiêng ngân”.
TÁI SINH
Thăm thẳm chiều
Lặng phắc những pho tượng
Mặt cười
Mặt khóc
Mặt trầm ngâm
Không có gương mặt nào đắc thắng
Bung biêng chiêng
Những âm thanh gửi người thế giới bên kia
Nhịp vang
Nhịp trầm
Không có nhịp nào ẩn ức
Chiều đi về phía đêm
Nước mắt tượng không biết dành cho cõi người hay cõi atâu*
Chỉ còn những linh hồn an nhiên
Chờ tái sinh vào những kiếp không toan tính…
Tôi ngước nhìn những pho tượng lặng im bên nhà mồ
Chiều thanh thản trôi vào đêm
Tái sinh tôi
Trôi vào kiếp người không toan tính.
* atâu: cõi ma (tiếng Jrai).
MẮT CHIỀU
Người đàn bà Jơrai ngồi dệt vải
Chiều trở đông
Cái rét chạm ngõ gõ cửa như người quen cũ
Bàn tay mải miết đưa thoi
Những sợi chỉ màu đan vào nhau
Đan vào cả chút nắng chiều sót lại
Người đàn bà nghĩ gì
Mà mắt hoang lộng trong chiều gió?
Bàn tay mải miết đưa thoi
Những sợi chỉ sắc đỏ, đen, chàm
Màu của đất
Của cây
Của rừng
Cả của khát khao bỏng cháy
Có lẽ chị dệt những đêm con gái đắm vòng xoang
Chông chênh chiêng ché
Cả những đêm vàng trăng da diết gọi bạn tình
Quá khứ trôi trong mắt chị
Những sợi chỉ màu ánh lên ước mơ
Một ngày không còn nỗi lo cơm áo
Một ngày hạnh phúc vẹn tròn
Không biết nữa…
Bàn tay vẫn mải miết đưa thoi
Những sợi chỉ sắc đỏ đen chàm hiện lên thành thổ cẩm
Màu của đất
Cây
Rừng
Dệt thẳm khoảng chiều hoang gió…
BÓNG NÚI
Trở về núi một ngày trái gió
Nghe chênh vênh cơn khát giấu đáy hồ
Bao nhiêu tuổi núi trơ mòn đỉnh đá
Bao nhiêu năm tháng đã theo nhau qua đây
Nếp nhà mình vẫn im lìm nép bên chân núi
Dưới bậc thang mòn dấu thời gian
Chân con lên xuống không đếm hết tuổi mình bóng từng thớ gỗ
Cha vẫn ngồi vót những nan tre và kể chuyện chiến trường
Con tựa vào núi tìm lại bình yên
Chuyện thành thị phố phường lòng người chật chội
Đàn cò mải miết bay theo mặt trời về núi
Núi ngủ dần trên bóng mình ngả vào đồng ruộng quê hương
Bình minh gọi sớm mai thức giấc
Núi mở gió thơm những thung sâu
Con nhẹ bước chân trên những bậc cầu thang nhà sàn
Bóng cha in vào bóng núi
Thấy mình vững chãi trở về nơi xanh thẳm tuổi mình…
ÁM ẢNH ĐÊM
Những ám ảnh vò xé đêm nguyệt cầm
Nỗi đau kim châm nhức từng tế bào trong suốt
Có tha thứ nào ngược về ngày em sao khuê
Mát lành anh cơn khát sa mạc bời bời gió cát
Ngàn năm vạn năm thạch sùng vẫn tắc lưỡi mẻ kho
Làm sao nỗi buồn ngày một ngày hai nguôi lòng que diêm vụt tắt
Những đốm lân tinh lập loè ma trơi
Thành ám ảnh nhá nhem hỗn độn
Chập chờn những cơn thức ngủ
Bầy chuột gặm nhấm bóng đêm đồng loã
Nhưng nhức tiếng mọt từng vụn gỗ rơi
Bao nhiêu thời gian để mục ruỗng những đêm đầy
Em chạm vào những bình minh
Hỗn loạn âm thanh vò xé đêm không rỗng theo tiếng mọt
Đêm ám ảnh buốt nhức kim châm nguyệt cầm
Tự trong suốt mình sao khuê vụn vỡ chân trời vừa sáng…
BÂY GIỜ MÙA RẤT EM RỒI
Anh có trở về thành phố
Bây giờ mùa rất em rồi
Có lời hẹn chờ cuối dốc
Ngoan hiền tựa một bờ môi
Thành phố ở phía mặt trời
Nhìn về phương nào cũng nắng
Mình thương nhau như mùa hội
Tìm nhau từ nhịp chiêng ngân
Vỉa hè một chỗ ngồi quen
Cà phê thơm vào ngày mới
Có bông hoa vừa nở vội
Vì mùa đã rất em rồi
Lời hẹn dừng phía lưng đồi
Chờ người ghé về thăm phố
Con dốc hiền, bờ môi ngoan
Bàn tay ấm cơn mưa nhỏ
Anh có trở về thành phố
Bây giờ mùa rất em rồi…
CHIỀU TRUNG DU
Chiều trung du
Lá cọ xoè như bàn tay ngoan
Nắm vào mặt trời tia nắng cuối ngày sắp ngủ
Chợt thấy mình xưa cũ
Phiến đá cong bờ ngõ thở vào nhau
Chiều trung du
Chỉ dám đặt thật nhẹ bàn chân
Sợ bước đi mình làm đau cây cỏ
Những cỏ cây cả nghìn năm tuổi
Vẫn xanh như nghìn năm trước đã xanh
Chiều trung du
Dịu lòng trước nụ cười lành
Nụ cười chắt ra từ đời đời nhân hậu
Mình quên những ồn ào phố thị
Ước làm chiếc quạt lá khô trên tay người
Chiều trung du
Chỉ cái với tay là chạm vào xa xưa
Ai đế vương ai hoàng hậu quý phi
Mình sống đời cây cỏ
Những cỏ cây cả nghìn năm tuổi
Biết vui buồn biêng biếc rút mình xanh…
LỜI CỦA LẶNG IM
Khi mùa xuân vừa chớm
Tôi lọt thỏm giữa bốn bề núi đồi
Phía bên kia là thành phố của những người đã khuất
Tôi nói với lặng im
Này tôi mệt nhoài chạy đua với thời gian
Một ngày tôi lạc mình giữa mình xa lạ
Giữa lao xao nói cười
Tôi rỗng những tệp không
Tuổi nào người ta sẽ lấp đầy những ý nghĩ mình
Tuổi nào ăm ắp như cánh đồng mùa lúa chín
Chỉ thấy mệt nhoài chưa chạm được giấc mơ
Phía bên kia. Thành phố của những người không trở về
Tôi nói với lặng im về những bông hoa vừa nở
Mùa xuân nảy một chồi non
Tôi khóc tôi giữa những tầng không lặng lẽ…
CÂU THƠ KHÔNG NGỦ
Câu thơ ứa ra từ đêm mất ngủ
Ngoài kia mênh mếnh gió
Co ro trong ý nghĩ buồn
Thăm thẳm phận người chằng đụp vá víu
Khó lòng rạch ròi đen trắng
Giữa tâm bão biết ơn người dìu ta vào vùng lặng
Biết ơn cả lòng mình đã tẻ nhạt với hư danh
Ngày hít thở dối gian giao đãi thị thành
Thèm lời thô tháp đất bờ lấm lem chân thật
Đừng ước thành phố trong mơ
Bởi trong mơ thành phố vẫn cưu mang những phận người hèn kém
Có ai thấy mình thừa ra giữa cuộc đời
Câu thơ ứa ra từ đêm mất ngủ
Câu thơ xót xa phận người cô độc
Câu thơ lăn về phía căm căm không phải do mùa đông
Câu thơ tỉnh giấc phía ngày mai không biết có mặt trời…
10/10/2021
Đào An Duyên
Theo https://vanvn.vn/

Chó Đen - Tản văn của Ngô Đình Hải

Chó Đen - Tản văn
của Ngô Đình Hải

Một câu chuyện rất xúc động về loài chó trung thành và khôn ngoan được nhà văn Ngô Đình Hải dựng lại mà theo tâm sự của ông: “Bạn tôi người Long Xuyên. Chuyện này lâu lắm rồi. Nó đeo đẳng bạn tôi suốt. Bạn nhờ tôi kể lại, xin được coi như lời tạ lỗi và hy vọng mình bớt day dứt phần nào. Nay nghe chuyện 15 con chó lớn nhỏ ở Cà Mau bị thiêu hủy giữa đại dịch Covid-19. Xót xa và đau quá…”
Nhà hắn nghèo. Nghèo như cái làng quê muôn đời của hắn. Nghèo là theo cái nghĩa tính toán, hơn thua của thị thành, chứ dễ gì có chuyện thiếu ăn. Dạo đó khác xa với bây giờ. Bèo bọt nhứt như nhà hắn, cũng năm bẩy công ruộng, vài ba công đất vườn. Nhà đông anh em, lọt sổ hắn không giống ai. Hoang đàng từ nhỏ. Ba cái chuyện ở đồng hắn rành sáu câu, nhưng chớ có rớ tay làm cái gì. Chỉ siêng cái khoản tụ tập, ta bà đầu trên xóm dưới. Chuyện hắn sáng đi học, chiều về lang thang, ăn nhờ ở đậu nhà tên bạn nào đó, năm bữa nửa tháng là chuyện thường.
Năm 16 tuổi, hắn nổi tiếng trượng nghĩa. Chơi với bạn là chơi hết mình. Chơi tới bến! Đánh lộn với trẻ con xóm khác, có hắn là chắc ăn. Chết thì chịu chứ chẳng bao giờ hắn bỏ bạn mà chạy…
Cũng năm đó, hắn đem về con Đen, là hắn gọi vậy. Đen là con chó ta bình thường, thứ chó mà ở đây người ta nuôi hà rầm, nuôi thành bầy. Không cần chăm sóc, dạy dỗ như chó kiểng ở thành phố. Nuôi như heo, như gà. Khi cần cũng làm thịt tuốt!…
Đen thay cho con đốm già bị bắt trộm mấy bữa trước. Lẽ ra, hắn phải nổi điên. Phải rủ mấy tên bạn xách cây đi kiếm thằng bắt chó, đặng nói chuyện phải quấy! Nhưng hắn nín thinh. Hắn không ưa con Đốm. Phần nó già, có ăn thịt chẳng ngon lành gì. Phần nó chỉ là con má, không phải chó. Đâu phải tự nhiên mà người ta kêu chó-má! Ở quê hắn, con má làm biếng, sủa cũng không ra cái dám ôn gì. Chỉ giỏi chuyện dọn vệ sinh cho mấy đứa nhỏ sau khi…đi đồng! Chó thì đói chịu, không bao giờ ăn thứ này…
Con Đen lớn lên, tướng bự con, ngon lành! Tánh in hệt như hắn. Chó chỗ khác mà léng phéng vô đất nhà là nó phang liền. Có đi bầy nó cũng phang! Đen là con chó thiệt sự. Chiều, hắn đi nhậu với đám bạn. Chỉ khi nào hắn cho đi theo mới đi. Không thì nó ở nhà, lo lùa mấy con gà về ổ, quay ra xà quần chung quanh nhà, kiếm chuột với rắn. Nó lẹ thấy sợ, chuột cở nào chụp cũng dính. Rắn thì miễn bàn, nó đâu có ngán. Con nào cắn nó không xong, kiếm đường lủi, nó dí tới hang, đào lên mà bắt! Vật chết tươi xong, nó tha về trước cửa, nằm phục đó chờ hắn về. Hắn về trể nó ngóng, nó chạy ra chạy vô như gà mắc đẻ. Chỉ cần nghe tiếng chân của hắn, xa mấy nó cũng ra. Gặp bữa hắn xỉn, nó chậm rãi đi trước, gầm gừ dẫn đường…
Bữa đó hắn tan học, lang thang trên chợ tới chiều mới về, không thấy Đen chạy ra mừng. Chưa kịp hỏi thì đứa em mếu máo:
“Con Đen ăn trúng thuốc…”
“Nó đâu?”
Đứa em lắc đầu, đưa tay chỉ. Trời chạng vạng, bóng con Đen trồi lên hụp xuống. Nó đang chạy càn, chạy cuống vì đau. Bụng nó nóng như bị đốt lửa, ruột gan đứt từng khúc. Hắn gào lên thiệt lớn, rồi cắm đầu lao về phía nó. Như có linh tính, con Đen cũng hộc tốc quay lại, chạy một đoạn, gục đầu xuống ruộng uống nước, rồi chạy tiếp. Trúng thứ này khát nước dữ lắm, nhưng càng uống càng mau chết. Đen thở hổn hển, nó đuối! Hắn tới nơi vừa kịp lúc con đen chạy hết nỗi, nó khuỵu chân xuống, rồi lết. Ngó dáo dác chung quanh, thấy bụi sả, hắn bứt một nắm, vò nát trong tay. Con Đen nằm bất động, miệng trào bọt lẫn máu. Hắn lật ngửa con chó, banh miệng, nhét nắm sả, rồi vạch quần đái luôn vô đó. Ông bà nói, hai thứ này làm thuốc giải độc được, không biết sao! Hắn ngồi xuống bên cạnh, ôm con Đen và chờ…
Trời tối dần, hắn vẫn ngồi yên đó, vẫn còn nghe con Đen thở từng hơi đứt đoạn. Hai cái bóng nhập lại làm một với đất, đen thui. Bất chợt, con Đen cựa mình, rồi ói. Ói tới mật xanh mật vàng! Vậy là nó sống, đúng là Trời cứu!
Hè năm đó hắn bỏ học. Đằng nào cũng đi lính. Không bên này thì bên kia. Chiến tranh mà! Đám bạn hắn thưa dần. Con Đen theo hắn như cái bóng. Ban ngày hắn làm rẩy, làm ruộng ở đâu, thì nó nằm gần đó. Ban đêm cắm câu, soi nhái, bù tọt, cũng có nó theo phụ…
Rồi lúc hắn xin thêm được con Vàng về nuôi. Đen trở thành chỉ huy. Nó dợt cho con Vàng đủ thứ, đúng với vai trò của mình. Tới ăn cũng vậy. Heo có phần heo, gà có phần gà. Cơm gạo mới, nấu bằng củi bằng rơm, hể sôi cơm là chắt nước. Không tính những thứ lượm lặt được sau bữa ăn của nhà. Phần nước cơm ít ỏi đó, chính là khẩu phần của con Đen trong ngày. Từ ngày có con Vàng, con Đen ăn trước, chỉ ăn có một nửa, nó tự nguyện nhường lại cho con chó nhỏ, dù không ai biểu.
Mùa nước nổi, nó dắt con Vàng ra bờ mương hay mé ruộng nằm rình. Nước săm sắp mình ướt nhẹp, nó vẫn chịu trận mà chờ. Không con lóc, con rô nào nhảy ruộng qua khỏi. Cá lớn, cá nhỏ gì nó cũng tha về trước mặt hắn, rồi đợi một cái xoa đầu, một cái vuốt lưng là đủ…
Mùa cắt lúa vừa xong, là mùa vịt chạy đồng. Có hàng ngàn con đi qua, đếm sao hết! Con Đen lại dắt con Vàng đi săn. Len lỏi giữa bầy vịt, trước sau gì cũng tách bầy được một, hai con, dí ra chỗ khác, rồi mới cắn cỗ tha về. Tay chăn vịt có biết cũng chịu. Chó cắn vịt biết đền ai!… Hắn có bữa cháo vịt nhậu với bạn bè.
Năm 18, hắn với hai tên bạn chí cốt đăng lính. Mỗi đứa lựa một binh chủng khác nhau. Thứ nào cũng có cửa tử, sao không lựa cho sướng!
Ngày chia tay, hơn chục đứa ngồi tính. Rượu đầy can. Tên thân nhứt lên tiếng:
– Làm… con chó đi!
Dĩ nhiên là cả đám đồng ý mạnh. Nhiều ánh mắt hướng về hắn. Hắn bắt đầu linh cảm thấy điều bất thường. Đúng là vậy. Thấy hắn ngơ ngác, tên bạn khác nói:
– Mấy đứa chưa tới tuổi ở lại đợt sau, không tính. Còn 3 đứa mình, đi lần này, biết có còn gặp lại. Mày biết đó, chó tụi tao thì quất láng rồi. Còn mỗi con Đen của mày! Mình không xử, vài bữa vắng mày, cũng có thằng khác xử! Đằng nào thì mày cũng đâu còn gặp lại nó, cứ coi như nó chết hồi trúng thuốc là xong…
Hắn ngồi tê cứng, bạn bè tình nghĩa bao nhiêu năm, từ hồi còn cởi truồng tắm mưa. Cũng đã qua bao nhiêu trận thịt chó với nhau. Hắn luôn là người xông xáo, nhiệt tình nhứt. Giờ có miệng mở không ra! Bữa nhậu này, coi như tiễn nhau đi…chết! Người không tiếc, tiếc gì nữa Trời! Con chó là con chó. Con chó sao thay được con người! Con chó có số phần của nó. Cũng như tụi hắn có số phần của mình. Đổi thay không đặng thì chấp nhận thôi!
Hắn đứng phắt dậy, đi một nước không nói tiếng nào. Mượn của bạn bè nhiều rồi. Giờ trả là đúng tội. Hắn có cái tự ái của riêng mình. Dầu hèn cũng thể, bể cũng phải nghe cành cạch mới phải đạo…
Thấy hắn, con Đen nhào ra mừng. Chừng ngó cái bao bố trong tay hắn, tự nhiên chưn cẳng nó quíu lại. Linh tính báo điều chẳng lành. Con Đen không chạy, nó nằm bẹp xuống, dụi đầu vào chân hắn, như chấp nhận cái số khốn nạn của mình. Đưa cặp mắt như khẩn cầu, như từ giã về phía hắn. Nó rên từng tiếng nhỏ, nước mắt ứa ra. Hắn rùng mình, không dám nhìn vào cặp mắt đó. Hắn vỗ vỗ đầu nó, lôi nó lại rồi ôm nó thật chặt. Hắn thấy thương nó thiệt tình…
Đầu hắn xáo trộn, lòng hắn lung lay. Sợ để lâu không dám làm điều định làm. Hắn tròng vội cái bao bố vô người con Đen, rồi xách ngược nó dậy. Con Đen chòi đạp mấy cái rồi nằm im. Hắn lấy dây chuối cột miệng bao lại, vác lên vai. Nó nặng hơn hắn tưởng! Nặng trĩu xuống đôi chân hắn như ai treo đá. Cứ thế hắn tuôn đồng, vừa đi vừa chạy. Con đường như dài ra vô tận. Hắn thấy hắn, thấy mấy tên bạn. Thấy cái tương lai mịt mù trong khói súng. Thấy cái miệng bao bố khổng lồ chụp lên đầu. Đã có lúc hắn chợt dừng lại, muốn mở cái miệng bao cho con Đen thoát ra ngoài. Không hiểu sao hắn lại không làm…
Cả đám vẫn ngồi chờ. Tên bạn ra đón:
– Mày đi chỗ khác đi, để tao…
Hắn nhìn vào mặt tên bạn, nhìn vào mấy cọng ria loáng thoáng trên miệng, mới ngày nào…Hắn khoát tay, đi thẳng ra mé bờ mương. Chuyện không thể không làm thì làm quách! Cần quái gì phải nhờ ai. Con Đen là một phần cuộc đời hắn. Nó đã qua như bao nhiêu thứ khác rồi cũng sẽ qua. Đời hắn, hắn còn không định được, thì ba cái lẻ tẻ này nhằm nhò gì.
Hắn thả cái bao bố xuống mương. Cái bao ướt nhẹp, khai nồng mùi nước đái của con Đen, ướt luôn cái lưng áo đẫm mồ hôi của hắn. Hắn cởi áo, nhảy theo, lấy hết người nhấn chìm cái bao! Như muốn nhận chìm chính cái tương lai mịt mờ của mình và đám bạn. Nhận chìm luôn cái phi lý của cuộc chiến, mà tụi hắn phải gánh chịu, như anh em nhà thằng Lẹ ở xóm trong. Mới đem xác thằng anh bấy nhầy đạn trên người, với mỗi cái quần tà lỏn đen tơi tả. Thì mấy ngày sau, xác thằng em trong bộ đồ lính treo lủng lẳng trước chợ, điếu Salem còn gắn trên cái miệng méo xệch để cảnh cáo. Cả hai đều là bạn hắn. Đã từng khóc với hắn khi mấy con dế đá bị gà ăn mất! Không biết có viên đạn nào của thằng Lẹ em trên mình anh nó không?…
Con Đen dẫy dụa trong cái bao đầy nước một chập, rồi nằm im. Coi như xong, không còn gì để thắc mắc hay suy nghĩ! Hắn đứng dậy, bỏ mặc mấy tên bạn làm tiếp phần còn lại…
Một bữa nhậu đầy ắp nỗi buồn. Đầy ắp những dằn vặt và nuối tiếc. Thiếu luôn tiếng cười giởn thanh thản ngày thường. Bữa đó hắn say, say không còn biết Trời biết Đất. Say vì uống rượu khan, không đụng tới miếng mồi nào. Say tới mức lủi đầu vô ôm bụi chuối ngủ, mà tưởng con Đen bên cạnh…
Mất mấy tháng ở quân trường. Thêm mấy tháng làm quen với cái sinh tử của đời lính, trên cái tiền đồn heo hút gần biên giới này. Hắn vẫn  luôn có những đêm dài không ngủ. Không phải ở những lần hành quân hay trực gác. Cũng không phải tiếng đạn hay tiếng reo hò, gào thét khi xung trận. Mà là tiếng chó sủa. Thứ tiếng đơn giản và dễ dàng nghe được bất cứ chỗ nào. Nhưng với hắn nó hoàn toàn xa lạ và vô hồn. Hắn thèm nghe tiếng sủa quen thuộc, thèm cái dụi đầu và tiếng rên ư ử của con Đen như nói chuyện, như an ủi với hắn.
Cái ám ảnh đeo đẳng kèm theo cái dày vò chuyện cũ cứ lớn dần. Tới mức hắn bỏ hết một ngày phép, để lùng sục trong làng gần đó, kiếm con chó đen khác, mang về nuôi trong đơn vị.
Dĩ nhiên là nó khác hẳn với con Đen lúc trước. Tiếng là chó của hắn nhưng cả đơn vị xúm vô nuôi. Con chó không phải vất vả lo toan miếng ăn như con Đen. Được cái ai cho ăn gì thì kệ, nhưng hắn đi đâu nó lò mò theo đó. Tối hắn ngủ, nó cũng vô nằm kế bên. Cái mùi hôi lông và tiếng thở khò khè của nó, làm tan biến những cơn ác mộng hình thành trong đầu hắn.
Tới lúc hắn với con chó khá gần gũi và thân thiết thì có chuyện. Từ sáng tới chiều nó bỏ ăn, chỉ nằm bẹp dưới đất. Món khoái khẩu là hộp thịt ba lát hắn khui cho, nó chỉ liếm láp chút xíu. Tới khuya thì nó bắt đầu tru. Tiếng tru trong đêm vắng, nghe thống thiết và thê lương kỳ quặc.
Đêm đó nhằm phiên gác của hắn. Nó không leo lên chòi với hắn, mà ở dưới tru lên từng chập. Không ai ngủ được. Tay thiếu uý trưởng đồn, nói với hắn:
– Đất động, chó tru! Điềm xấu lắm. Làm thịt liền đi đừng để…
Lịnh là lịnh. Hắn tròng dây vào cổ con chó mà bụng thắt lại. Sao số hắn cứ phải gặp mấy chuyện quái gở này.
Hắn dắt con chó ra sau đồn, nhưng thay vì quẹo vô nhà bếp, hắn lôi nó ra hàng rào kẽm gai. Trời gần sáng, phía xa ánh đèn, con đường đất phía lờ mờ như cái bờ ruộng, lúc hắn vác con Đen đi chết!
Nhưng lần này thì khác. Sẽ không một ai được đụng tới nó. Sẽ không có những gương mặt đỏ lừ cười cợt hả hê, những cái chép miệng thống khoái, sau cái chết của nó. Hắn chỉ có thể làm được bấy nhiêu. Và chắc chắn hắn sẽ làm…
Bên ngoài là bãi mìn giăng sẵn của đơn vị. Con chó đứng chựng lại. Nó đánh hơi được sự nguy hiểm. Nó bắt đầu lùi dần.
Hắn kéo hàng rào, lôi con chó lại, tháo sợi dây rồi vỗ lên đầu nó. Con chó chưa kịp hiểu chuyện gì, hắn co chân đá một cái thiệt mạnh. Con chó văng ra ngoài, chỉ kịp kêu lên thất thanh rồi cắm đầu chạy. Tiếng nổ lớn của mìn. Trước khi hắn kịp nhìn lại con chó, thì hàng loạt đạn tới tấp. Đạn xé qua đầu. Đồn bị tấn công. Có tiếng súng đáp trả phía bên trong. Hắn khom người, lúp xúp chạy vô, nhưng đã muộn. Người hắn bị hất tung lên bởi trái đạn pháo. Lạ lùng là cái chớp sáng cuối cùng chạy qua đầu hắn, lúc còn lơ lửng trên cao, lại là hình ảnh cái bao bố có con Đen bên trong, đang chìm xuống… Chìm xuống…
12/3/2017
Ngô Đình Hải
Theo https://vanvn.vn/

Ký sự miền Tây lục tỉnh

Ký sự miền Tây lục tỉnh Đầu năm Kỷ Hợi (2019) nhóm bạn cũ của chúng tôi tại Sài Gòn và vùng lân cận tổ chức chuyến đi VỀ MIỀN TÂY Nam bộ. Ri...