Thứ Năm, 31 tháng 8, 2017

Những vụ án văn học thế hệ 1932 - Phần 1

Những vụ án văn học thế hệ 1932 - Phần 1
Trên đây, tôi tạm phát về sinh hoạt phê bình dưới hình thức phe phái, trong khoảng từ 1932 đến 1939 hay 1940. Có lẽ chưa có thời nào sinh hoạt văn học có vẻ hào hứng, động đạt cho bằng trong khoảng thời gian này.
Để tóm tắt, chúng ta có thể ghi nhận sinh hoạt phê bình văn học, hồi đầu thế hệ 1932 như là những vụ án văn học.
1 - Vụ án báo chí:
Chưa bao giờ báo chí Việt Nam bút chiến với nhau dữ dội như ta thấy ở chương ba ở trên đây. Các cuộc bút chiến này, trọng tâm có lẽ là sự cạnh tranh nghề nghiệp, tranh dành độc giả, nhưng cũng gián tiếp đặt ra được nhiều vấn đề, làm sáng tỏ nhiều lập trường văn nghệ, sửa chữa được nhiều lộn xộn trong nghề viết văn. Các báo chia thành hẳn bốn khối như tôi đã trình bày ở trên: khối A của các nhà mệnh danh là Cựu học với các tờ báo ra đời từ 1932 hay trước năm 1932 mà còn hoạt động cho tới năm 1934; khối B của nhóm Tự Lực Văn Đoàn với Phong Hóa và Ngày Nay; khối C của các báo ra đời từ 1934 trở đi, đối lập, phản kháng lại Tự Lực Văn Đoàn; khối D của nhóm mác-xít với các ông Hải Triều, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng… 
2 - Vụ án cũ và mới:
Mặc dầu được Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí cố gắng đứng ra giàn hòa trong một thời gian khá lâu, phe mới cũ cũng bất đắc dĩ phải cụng nhau. Cuộc đụng độ bắt đầu khai mào vào khoảng từ 1931 trở đi. Phan Khôi, từ khoảng 1931 trở đi, đã lái Phụ Nữ tân văn, đi vào con đường canh tân. Nhiều cây bút, mà đặc biệt là cây bút Phan Khôi, bắt đầu tấn công nền cựu học, tấn công Nho giáo, kết án chế độ đại gia đình, công kích kịch liệt chế độ Tam Cương. An Nam tạp chí của Tản Đà nhảy vào chiến trường. Hai nhà nho, nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu và nhà nho Phan Khôi, giao tranh ác liệt trong một thời gian khá lâu. Sau này, năm 1932, xem ra Đông Thanh tạp chí và Văn Học tạp chí, như có vẻ đứng về phe Tản Đà, để phản đối những kết án của Phan Khôi đối với nền đạo đức Đông phương, nếu không bằng các bài bút chiến trực tiếp thì cũng bằng các bài trình bày cái hay cái đẹp của đạo đức Đông phương.
Nhưng từ khi Phong Hoá ra đời, thì một mặt trận đã giàn ra, đẩy mạnh chiến dịch mà Phan Khôi chỉ mới khai mào. Cuộc tranh luận mới cũ được Phong Hoá đặt lên làm tôn chỉ cho cơ quan ngôn luận, và là mệnh lệnh mà mọi nhà văn thuộc văn phái Tự Lực phải tuân theo. Chẳng những người ta dùng nghị luận để kết án đạo đức cũ mà còn dùng tranh khôi hài, thơ trào phúng, kịch hí lộng, tiểu thuyết tranh đấu để đánh thẳng vào nền cựu học, với ý chí quyết liệt là hạ bệ được nền cựu học.
3 - Vụ án Phan Khôi - Trần Trọng Kim
Phan Khôi phê bình Nho giáo
Đầu năm 1930, Trần Trọng Kim cho xuất bản cuốn I của Bộ Nho Giáo của ông, trình bày khá cặn kẽ về thân thế, sự nghiệp và học thuyết Khổng Tử cùng trường phái nho giáo.
Phan Khôi đã đọc Nho giáo của Trần Trọng Kim rất kỹ lưỡng và trên Phụ Nữ tân văn số 54, ngày 29-5-1930, sau khi ca ngợi công lao của Trần Trọng Kim, đã công kích ông này lầm lẫn Khổng Học với Tống Nho.
Sau bài đả kích trên, không còn đợi Trần Trọng Kim trả lời, Phan Khôi viết một thôi một hồi về nho giáo, khi xa khi gần, vẫn có vẻ công kích tác giả Trần Trọng Kim như ta thấy trong những bài như: Cuốn sách nho giáo gợi ý cho chúng tôi, nó bảo rằng: người Việt Nam phải viết chữ quốc ngữ cho đúng (P.N.T.V. số 56, 12-6-1930), Người mở đường cho luận lý học Á Đông, Khổng Tử và cái thuyết "chính sách" của Ngài (P.N.T.V. số 57, 19-6-1930). Thuyết chánh danh đính chính lại cái tên xưng hô của người Việt Nam (P.N.T.V. số 58, 28-6-1930 và số 59, 3-7-1930).
Trần Trọng Kim trả lời Phan Khôi
Trần Trọng Kim đã theo dõi công việc làm của Phan Khôi và để tâm suy nghĩ về những lời lẽ công kích của ông. Chính vì vậy mà Trần Trọng Kim đã lên tiếng trả lời Phan Khôi nơi bài "Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo" (P.N.T.V. số 60, 10-7-1930). Trong bài này, Trần Trọng Kim có chịu là Phan Khôi có lý ở nhiều điểm, nhưng không trả lời đúng vào cái điểm mà Phan Khôi đã công kích ông.
Phan Khôi viết bài cảnh cáo các nhà học phiệt
Có lẽ vì vậy mà trên Phụ Nữ tân văn số 62, 24-7-1930, trong bài "Cảnh cáo các nhà học phiệt ", cho dù mục đích là để tấn công Phạm Quỳnh, Phan Khôi cũng vẫn trách khéo cả Trần Trọng Kim như là cố ý lẩn tránh vấn đề.
Phan Khôi mời Trần Trọng Kim đến chơi nhà Mr Logique
Và sau đấy, trên Phụ Nữ tân văn số 63, 31-7-1930, nơi bài "Mời Trần Trọng Kim tiên sinh đến nhà Mr Logique chơi, tại đó, chúng ta sẽ nói truyện". Phan Khôi vạch rõ những điểm mà Trần Trọng Kim đã né tránh không chịu trực tiếp trả lời, đồng thời Phan Khôi cũng chê trách Khổng Tử và Mạnh Tử là thiếu óc luận lý.
Trần Trọng Kim mời Phan Khôi trở về nhà học ta mà nói truyện
Lần này, thì Trần Trọng Kim không còn giữ yên lặng nữa. Trên ba số báo, Trần Trọng Kim đã lên tiếng trả lời Phan Khôi: bài "Mời Phan Khôi tiên sinh trở về nhà học của ta mà nói truyện" (đăng lên liên tiếp hai số báo, số 71, 25-9-1930, và số 72, 2-10-1930) với bài "Khổng giáo với khoa học", số 74, 16-10-1930). Trần Trọng Kim đã tỏ ra phục thiện, chịu lỗi là đã sơ ý mà trở thành bông lông không trả lời đúng vào các điểm mà Phan Khôi công kích ông. Nhưng rồi Trần Trọng Kim cũng minh xác với Phan Khôi nhiều điểm, nhất là điểm Phan Khôi trách triết gia đông phương thiếu óc suy luận khoa học.
Vấn đề Phan Khôi nêu ra năm 1930, và đến năm 1932, khi cho tái bản Nho giáo, Trần Trọng Kim đã cho sửa chữa, thì Ngô Tất Tố lại khơi lại để công kích Trần Trọng Kim năm 1940.
Cuộc tranh luận này cho ta thấy hai nhà học giả họ Phan và họ Trần đã có thái độ trí thức rất đáng phục. Chính thái độ trí thức ấy đã giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề triết học bấy lâu bị thiên hạ hiểu rất mu mơ. 
4 - Vụ án Tản Ðà - Phan Khôi
Phan Khôi công kích "Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên"
Nhân đọc cuốn tiểu thuyết "Cay đắng mùi đời" của nhà văn Hồ Biểu Chánh, Phan Khôi đã viết một bài đại luận về cái cười thường khi rất bỉ ổi, tàn nhẫn của người Việt Nam mình. Bài đó ông đề nó là "Cái cười của con rồng cháu tiên" (P.N.T.V. số 84, 28-5-1931). Phan Khôi đã vạch ra cái khéo léo, tài tình của ngòi bút tả chân Hồ Biểu Chánh trong việc vẽ ra cái cười man rợ, khả ố, đê tiện của cái nòi giống tự xưng là "Con rồng cháu tiên".
"Bộ "Cay đắng mùi đời" hẳn đã có nhiều người nói đến và thấy trong đó tả những gì, khi tôi đọc chắc tôi cũng thấy như người ta. Một bộ tiểu thuyết vẽ ra nhân tình thế thái. Nhất là sự khốn nạn của kẻ nghèo, thật là có ý vị thâm trầm lắm. Vậy mà những điều đó tôi để ra ngoài hết, khi tôi đọc nó tôi chỉ có một cái cảm tưởng về cái cười trong truyện mà thôi. Hẳn tác giả "Cay đắng mùi đời" là ông Hồ Biểu Chánh cũng phải nực cười mà cho tôi là tọc mạch". (P.N.T.V. số 84, 28-5-1931). Trong rất nhiều thí dụ về trường hợp lố bịch của cái cười Việt Nam mình, Phan Khôi đã đưa ra một so sánh:
"Có một phần đông người Pháp ở đây ta hằng ngày thấy họ cũng có thể chiêm nghiệm được một dân tộc Pháp. Ví dụ như gặp khi trời mưa, đường trơn, có người nào đó bất kỳ đi vô ý mà trợt té, bấy giờ có năm ba người Pháp đứng đó họ có cười hay không? Tôi, và nhiều người như tôi nữa dám chắc rằng họ chẳng những không cười mà còn chạy lại để đỡ người bị té ấy lên nữa. Còn như Con Rồng cháu Tiên ta, ai không biết chớ tôi, tôi cầm chắc rằng trước khi chạy lại đỡ, họ phải cười một chặp cho no nê đã". (P.N.T.V. số 84, 28-5-1931).
Phan Khôi công kích Tống Nho
Sau khi, với giọng bông đùa, Phan Khôi đã dám đưa ra mà công kích cái cười khả ố, bần tiện của cả một cái nòi giống tự xưng là Con rồng Cháu tiên, thì, đến ngày 13-8-1931, trên Phụ Nữ tân văn số 95, ông lại cay nghiệt chửi tùm lum cái phong tục man rợ mà người ta xưng tụng là thủ tiết trong xã hội Trung Hoa và Việt Nam.
Theo Phan Khôi, cái luật bắt người đàn bà góa chồng, ở vậy, thủ tiết thờ chồng là một luật rất man rợ, thoái hóa, người Trung Hoa đã bỏ nó từ lâu rồi mà người Việt Nam mình cứ giữ nó khư khư để đàn áp người đàn bà. Dù Phan Khôi muốn đổ cái lỗi ấy cho Tống nho, chứ thực tình Khổng nho chẳng có dạy "cái điều xằng bậy" ấy… Mà ngay đến Tống nho hồi đầu bên Trung Hoa cũng chẳng ai coi cái luật thủ tiết là quan trọng. Phan Khôi kể:
"Các nho gia nhà Tống trước Trình Hy đối với phụ nữ có ý rất khoan thứ, nghĩa là không bắt buộc họ phải thủ tiết, chịu thiệt thòi cả đời như Phạm Trọng Yêm (sanh năm 989) có lập ra cái nghĩa trung trang, trong tờ khoán ước có trích ra một phần ruộng để giúp đàn bà cải giá, còn đàn ông tái thú lại không giúp. Ông có con trai là Phạm Thuận Hựu chết non để lại một người vợ góa, sau đó, học trò ông là Vương Đào góa vợ, ông bèn đem người dâu của mình mà gả cho, vả lại mẹ ông Phạm Trọng Yêm trước kia cũng cải giá cho một người họ Chu. Ông theo mẹ về ở với cha ghẻ, đổi họ tên là Chu Thuyết đến sau đỗ đạt rồi ông mới lại theo họ Phạm. Phạm Trọng Yêm là một bậc danh hiền buổi Tống sơ, một nhân vật lớn trong lịch sử mà cũng không hề cho sự cải giá là phi lệ, không hề bắt đàn bà góa thủ tiết; cho đến mẹ ông cải giá, ông cũng chẳng hề lấy làm sỉ nhục gì. " (P.N.T.V. số 95, 13-8-1391).
Chính vì vậy, mà Phan Khôi xem ra có thù với Tống Nho, nên hễ có dịp là ông đả kích bọn họ. Lần này chẳng hiểu là lần thứ mấy. Chẳng thế mà ngay ở đoạn đầu số báo này (P.N.T.V. số 95, 13-8-1391) ông phải nhắc đến việc ông đã từng hô hào chống Tống Nho ở số 89 Phụ Nữ tân văn:
"Trong bài "Lại nói về tam cang với ngũ luân" ở Phụ Nữ tân văn số 89, tôi có nói rằng: "Trong cái vòng luân lý đạo đức tôi muốn lấy Khổng Mạnh làm thầy, mà đồng thời tôi cũng muốn phế truất Hán Nho và Tống Nho". Tôi nói thế không phải nói bậy đâu. Hán nho như cái thuyết tam cang của họ mà tôi đã bác đi trong mấy bài trước đó, đáng phế truất là đường nào. Tống Nho lại còn nhiều điều không hiệp với Khổng Mạnh mà làm hại cho ta hơn nữa tức như cái luật cấm cải giá là bất công, vô đạo, cướp mất quyền lợi của đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hóa, ta nên phế trừ đi là phải."
Thế rồi, trong phần kết của bài Tống nho này, ông hô hào chị em phụ nữ hãy nên "phế trừ" cái tục "trái tính trời" ấy đi:
"Tôi lấy làm lạ, cái kêu bằng cái "tiết đó" không phải tánh trời sanh thì sao lại đem nó để càng lên trên cái do tính trời sanh? Tôi thì cứ giữ mực quê quê thiệt thiệt, căn cứ ở câu: "Thực sắc thiên tánh" của Mạnh Tử mà nói rằng: Hễ đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác, đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác. Còn như cặp vợ chồng nào có cái ái tình đặc biệt, một người chết đi một người đành ở vậy, cái thì tùy ý họ, xã hội không ép buộc gì. Đến như nói cái thứ hai của tánh trời, gặp lúc đáng bỏ phải bỏ, thì, đã cấm đàn bà cải giá xin cũng cấm đàn ông tái thú luôn.
"Trong phụ nữ ta có nhiều người chồng chết, ở trong cảnh ngộ rất đáng thương, buồn rầu đủ mọi trăm thứ, vậy mà nói đến truyện cải giá, sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có người bóp bụng cắn răng cũng giữ được trót đời; nhưng có người khôn ba năm dại một giờ, thì ra mang cái xấu lại còn hơn cải giá. Lại thường thấy bà goá nào có máu mặt thì bọn điêu thoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để mong đoạt lấy gia tài. Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật cấm cải giá mà ra; vậy thì nó chỉ làm hại cho phong hóa thì có chớ có bổ ích gì đâu? Bởi vậy ta nên phế trừ cái luật ấy đi; từ rày về sau, trong óc chúng ta, cả đàn bà và đàn ông Việt Nam đừng có cái quan niệm ấy nữa" (P.N.T.V. số 95,13-8-1931).
Tản Đà khai chiến với Phan Khôi
Hai bài của Phan Khôi viết ra, một bài vào tháng 5, một bài vào tháng 8 năm 1931, sẽ phải tiếp nhận những nhát búa nặng nề của Tản Đà bắt đầu từ tháng giêng năm 1932. Thực vậy, trên An Nam tạp chí, bắt đầu từ số 26, 23-1-1932, Tản Đà bắt đầu khai chiến dữ dội.
Nơi đây, ta không còn thấy Tản Đà nhà thơ lãng mạn, đôn hậu, mơ màng nữa, mà ta thấy ông khi thì là một quan tòa, khi thì là một đao phủ nữa. Chính vì vậy, mà ta thấy ngay ở phần mở bài thứ nhất trong loạt bài được chọn bằng một tiêu đề rất đặc biệt "Một cái tai nạn lưu hành ở Nam Kỳ: Phan Khôi", Tản Đà mở đầu cuộc chiến của ông như thế này:
"Cứ những lời của ông Khôi viết ở trong tờ Tân Văn có nhiều những tính chất tầm bậy. (như bài "Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên); mà hại cho phụ nữ về phần nhiều (như lời bài kích Tống Nho về câu "ngạ tử sự thậm tiểu, thất tiết sự thậm đại"). Sự hại đó, không phải là ông Khôi có định chí làm hại ; chỉ là ông quá dụng sức về nhẽ "ăn cây nào rào cây ấy" viết bài cho Tân Văn phụ nữ thời chiều theo tâm chí của phần nhiều phụ nữ đó mà thôi. Phần nhiều phụ nữ tân thời nay muốn tự do, muốn giải phóng, ông Khôi phun giải phóng, phun tự do. Đối với các độc giả có được lòng thời tờ Tân Văn mới phát đạt; tờ Tân Văn có phát đạt thời giá mua bán bài mới cao. Tờ Tân Văn được lòng độc giả vì ai, thời giá bài người ấy tất phải đắt. Huống chi chủ nhân là Mme Nguyễn Đức Nhuận tức cũng lại là một vị độc giả phụ nữ tân thời. Ngoài chiều ý người mua báo, trong chiều ý người mua bài, ông Phan Khôi mới hết sức viết những lời tầm bậy. Lời tầm bậy đã in lên báo, thời chiều ai mà tức thị hại ai. Đó là do tâm tình mà những lời viết báo của ông Khôi thành ra làm hại cho phụ nữ lưu vậy" (An Nam tạp chí số 26, 23-1-1932).
Theo Tản Đà, việc bài trừ, "giết bỏ" Phan Khôi, chẳng phải là điều thích làm thì làm mà là một bổn phận của "anh em sĩ phu trong phái tân học":
"Thuộc về phần riêng của từng người, thời nghĩ như ông tú Khôi cùng tôi, có thể cũng kể là hạng sĩ phu về bên Hán học trong nước ta ở cái thời kỳ hiện tại; nếu ông Khôi mà có làm điều không phải với công chúng, tôi cùng các người khác trong Hán học đều không được tự bảo mình là vô can. Cho nên muốn bài trừ những lỗi tầm bậy của ông Khôi, tức là tôi không có tự vì một phần riêng, mà vì cả các anh em sĩ phu trong phái Hán học.
Nay xin hãy có lời báo cáo để Phụ Nữ tân văn và các bạn phụ nữ trong Nam cùng biết trước, công việc bài trừ còn nhiều, cần phải tra xét tường bạch, và cũng không phải việc cấp bách; xin ai nấy ung dung chờ coi". (An Nam tạp chí số 26, 23-1-1932).
Sau khi đã hứa như vậy ở số 26, ra ngày 23-1-1932, Tản Đà đã giữ lời hứa. Ông viết một thôi ba bản cáo trạng rất gay gắt để buộc tội Phan Khôi trước tòa án công luận: bản cáo trạng thứ nhất đăng trên An Nam tạp chí số 29, 20-2-1932, buộc tội Phan Khôi đã xúc phạm đến cả tổ tiên trong bài "Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên", hai bản cáo trạng sau, cũng đăng trên tạp chí trên, ở các số 34, ngày 26-4-1932 và số 37, ngày 16-4-1932) (1).
Ông tự lập lấy tòa án: "Nay tôi xin, trước mặt quốc dân, đỡ lời công chúng, quyền làm sự thẩm án thuộc về tòa sơ cấp, mong ai nấy cùng nghe" (An Nam tạp chí số 29, 20-2-1932).
Tản Đà dựa vào lai lịch bốn chữ "Con Rồng Cháu Tiên" là bốn chữ cực cao, cực quí chỉ cả tổ tiên của một dân tộc và chỉ cả quốc dân có một lịch sử oai hùng để mà kết án. Phan Khôi nhục mạ chẳng riêng gì người ta đời nay, mà còn nhục mạ cả nòi giống tổ tiên ta xưa kia nữa. Ông tuyên án Phan Khôi đáng xử trảm; nhưng để Phan Khôi được quyền minh oan, nên Tản Đà tạm cho ông được hưởng bản án "trảm giam hậu".
Nhưng đấy chỉ mới là một tội. Phan Khôi còn nhiều tội khác mà Tản Đà tiếp tục đưa ra tòa, đặc biệt là cái tội làm đồi trụy phong hóa, Tản Đà mở đầu bản xử án thứ hai:
"Trong Phụ Nữ tân văn số 95, ra ngày 13 Aout 1931, ông Phan Khôi có viết bài "Tống Nho với phụ nữ" viết đại ý ở dưới đề mục rằng:
"Cái luật cấm cải giá là bất công, vô đạo, cướp mất quyền lợi đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hóa nên phế trừ đi là phải".
"Xin cứ những lời tầm bậy trong bài ấy, chỉ trích và thuyết minh ra, để phụ nữ trong Nam và chư vị độc giả cùng nghe , rồi sẽ kết tội án Phan Khôi ở cuối" (An Nam tạp chí số 34, 26-4-1932).
Tản Đà cho rằng việc thủ tiết của người đàn bà là một phong tục cao cả có từ đời Khổng Tử chứ đâu phải chỉ mới có từ đời Tống:
"Cứ vậy ngẫm ra, tự thấy rằng một đạo trinh tiết của đàn bà Á đông, thực do thượng cổ truyền lại, gốc ở một chữ trong kinh Dịch nẩy mầm ra, đời đời nối tiếp vun bồi, gây thành cái phong hóa tuyệt thanh quý trong nhân loại. Nay Phan Khôi dám cho những sự đó là đàn bà chịu sự thiệt thòi, mà lại quy cái ảnh hưởng trực tiếp là chịu của Tống nho. Thực là loạn ngôn hoặc chúng vậy" (An Nam tạp chí số 34, 26-4-1932).
Tản Đà kết án Phan Khôi là đồi trụy phong hóa và ví Phan Khôi với bọn hạ lưu đã dám nói ra những lời xàm xỡ, Tản Đà viết:
"Gian thay! ông Phan Khôi, ác thay! ông Phan Khôi, tiểu nhân thay! ông Phan Khôi.
"Cứ mấy lời luận lý của ông Khôi, nếu không hết sức bài trừ, mà để cho ông được hành những cái gian, cái ác, cái tiểu nhân, thời nay ông đã viết ra bài này, thời mai ông chắc viết ra bài khác, ngấm ngầm truyền bá vào trong tâm lý một số người trong xã hội, xui khiến cho gái bỏ trinh tiết, giai bỏ trung hiếu; phàm những cái tốt đẹp trong đạo làm người, như nhân, từ, tín, hậu, lễ, nghĩa, liêm, sĩ đều bị những lời luận lý vô đạo ấy làm cho đến mất hết giá trị. Nếu lo cho quá, thời một phần nhân đạo chẳng sẽ do đó mà dần dần lấn lún đến trở ra cầm thú cẩu chệ sao? Nguy thật thay!
"Cùng hai câu thực ý của ông Khôi.
"Ông Khôi nói:
"Hễ đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác; đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác".
"Xưa nay, đàn ông chết vợ mà họ lấy vợ khác, đàn bà chết chồng mà lấy chồng khác, vẫn là sự thường trong thế tục; có cần chi đến những nhà học vấn phải ra công luận lý mà khuyên bảo cho chúng ru?
"Đàn ông góa vợ mà ở yên không lấy vợ khác nữa, hạng người ấy gọi là nghĩa phu, từ xưa đến nay thật ít thấy trong sử sách. Đàn bà góa chồng mà ở yên không đi lấy chồng khác nữa (người còn trẻ tuổi) hạng người ấy gọi là tiết phụ, so với nghĩa phu thực có số nhiều hơn. Song tóm tự nghìn xưa, nếu có thể cộng được toàn số đàn bà góa chồng còn trẻ tuổi mà tính xem, chưa dễ nghìn ai mong có một. Vậy thời những người tiết phụ kia sinh ở nhân gian thế, dẫu chưa hẳn như phụng hoàng, kỳ lân trong phi cầm cẩu thú, thời cũng là hòn ngọc ở núi đá hạt châu nơi bể chai. Đời đời vua chúa ơn ban "Tiết hạnh khả phong". Cũng vì là vật quí của đời, đời nên biết quý vậy.
"Tục thuần hậu mỗi ngày càng kém xưa, giá trinh tiết mỗi ngày càng hiếm có; vật quí của đời lại đến lúc đời không biết quí, phong dao lý ngữ, nhiều câu nghe thấy đã thương tâm:
"Lẳng lơ chết cũng ra ma
Chính chuyên chết cũng khiêng ra đầy đồng"
- "Ông chết thì thiệt thân ông,
"Bà tôi sắp sửa lấy chồng nay mai"
- "Bà chết thì thiệt thân bà,
"Ông tôi sắp sửa lấy ba nàng hầu"
"Ba câu ca dao đó, ngẫm như một câu dẫn ở trước nhất, thực là do phong hóa suy đồi tự ở mồm những kẻ hạ lưu xướng ra. Hai câu dẫn thứ hai thứ ba ở sau, hoặc giả còn là có ai đó, vì cái bụng thương cho đời, mới thoát ra những lời chua xót. Tôi tuy chưa dám định nghĩa; song tóm lại chỉ đều là những câu ca dao mà không phải là lời luận lý. Lập thành thế, luận thành lý, thời mới thấy như hai câu của ông Khôi là thứ tư.
- "Đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác.
"Đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác"
"Hai chữ "thì" đó, ngẫm ra cho kỹ không có tình nghĩa, chút tơ vương; chính cũng như trong xóm Bình Khang thường có câu "Cuốn chiếu nhân tình sạch" vậy! Hai câu đó trước lúc chưa đem đăng báo, ông Khôi hoặc có cùng ngồi đàm luận với hai vị chủ nhân và chủ nhiệm tờ báo Phụ Nữ tân văn mà đem ra cùng đọc, thì không biết cái cảm tưởng của những người nghe kia như sao?
"Nghĩ cho phong hóa đến lúc đã suy đồi, chẳng ai có sức nào giữ được. Song thuộc hành vi riêng của cá nhân, ai có muốn sao cứ tự, thực cũng chưa mấy ai nhẫn tâm dụng lực mong tồi hoại cho cái nền hủ cựu đó chóng đổ đi làm chi. Có chăng, thời là ông Tú Phan Khôi vậy". (An Nam tạp chí số 37, 16-4-1932).
Sau khi đã buộc tội Phan Khôi như trên, Tản Đà long trọng tuyên bản án Phan Khôi như các bạn đọc sau đây:
"Hợp hai bài "Bài trừ" An Nam tạp chí số 34 và 37 đây, thời Phan Khôi viết bài "Tống Nho với Phụ n " đăng trong Phụ Nữ tân văn số 95 ra ngày 13 Aout 1931 tức là kẻ có tội với danh giáo:
– Vu hãm tiên hiền.
– Loạn ngôn hoặc chúng.
– Bại hoại phong hóa.
"Nay, chiếu theo hình luật Á Đông từ đời vua Thuấn mới đặt, có minh văn trong kinh thư rằng: "Phốc tác giáo hình". Nghĩa là: "Cái roi, dùng làm hình phạt thuộc về sự giáo huấn". Cứ Phan Khôi phạm về tội danh giáo, vậy nên dùng roi để chừng.
"Chiếu theo các trường dạy nho ta kia xưa, phàm học trò học dốt, đọc không thuộc, hoặc có tội vô lễ thời bắt phải nằm sấp xuống đất, đánh ba roi. Cứ Phan Khôi can phạm ba điều như đã yết trên đây so với những tội học dốt, đọc không thuộc và vô lễ thực lớn hơn gấp trăm. Vậy nên đánh đòn ba trăm roi.
"Chiếu theo pháp lý Á đông, làm tội người đem ra ở chợ, để cùng có công chúng dự biết. Cứ Phan Khôi phạm về tội danh giáo nên đánh đòn ở trước sân Văn miếu, để trên có các vị Tiên Thánh, Tiên Hiền cùng giám lãm, dưới có các sĩ phu trong phái Hán học cũng được dự biết.
"Cứ các nhẽ đã sơ thẩm như trên, xin nghĩ kết Phan Khôi phải chịu ba trăm roi đòn, chia đánh ở ba nơi:
- Đánh ở trước sân Văn Miếu Thăng Long là nơi gốc văn vật của sự học nho của nước ta từ triều nhà Lý.
– Đánh ở Huế, là nơi thủ phủ xứ Trung kỳ.
– Ở Quảng Nam, là nơi chốn của tội nhân sinh trưởng học tập.
"Ngoài cái tội án Phan Khôi đã nghĩ kết, chiếu theo thường luật có bắt tội oa chủ; vậy những tiền phí giải Phan Khôi từ Nam ra Bắc, cho lại về đến Huế, về đến Quảng Nam do Ban Trị Sự của Phụ Nữ tân văn phải trích tiền quỹ của báo ấy cung nạp.
"Giở lên các điều án nghị theo như lệ nghị kết về bài Phan Khôi viết: "Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên"; riêng bản án này, trên có Tòa Thượng Thẩm riêng xét về danh giáo là toàn thể sĩ phu phái Hán học trong nước sẽ cùng phúc thẩm, dưới có tội nhân và oa chủ, ai có muốn thân oan, cứ được hết lời thân oan". (An Nam tạp chí số 37, 16-4-1932)
Nguyễn Tiến Lãng đả kích Phan Khôi
Chính trong lúc Tản Đà hăng hái buộc tội như vậy, hình như Phan Khôi vẫn yên lặng không lên tiếng mà chỉ có bạn bè của Phan Khôi lên tiếng một cách gián tiếp. Ấy là theo sự ghi nhận của Nguyễn Tiến Lãng trong bài "Nguyễn Tiến Lãng và Phan Khôi" (An Nam tạp chí số 38, 23-4-1932).
Thực vậy, Nguyễn Tiến Lãng lên tiếng công kích Phan Khôi trong hai bài đăng trong báo Trung Bắc, viết bằng tiếng Pháp, đề là Autour d’une Polémique.
Vì bị Nguyễn Tiến Lãng công kích, Phan Khôi lên tiếng trong bài "Cái học vào lỗ tai ra lỗ miệng" đăng trên Đông Tây số 160, ngày 6-4-32, trong đó Phan Khôi chê Nguyễn Tiến Lãng là dốt, dùng sai tiếng Pháp, không hiểu nghĩa chữ Polémique là gì cả.
Nguyễn Tiến Lãng viết bài kể tội Phan Khôi gửi cho báo Đông Tây, nhưng vì báo Đông Tây không đăng, cho nên Nguyễn Tiến Lãng gửi đăng trên An Nam tạp chí số 38, 23-4-1932, trả lời ít điểm mà Nguyễn Tiến Lãng cho rằng Phan Khôi đã xuyên tạc ông. Đây lời Nguyễn Tiến Lãng:
"Nay tôi giả nhời cho Khôi rõ:
"1) – Phan Khôi hỏi: "Ông Lãng có thử đọc qua những bài ấy của tôi không? …Theo nhời ông Lãng, đủ biết rằng trong khi viết bài ấy, ông Lãng không có dưới mắt ông tập báo kia có bài của tôi, nhưng trước kia, thì ông có đọc cả, nên bây giờ mới nhớ mà nhắc lại cho ".
"Phải, tôi chép nguyên văn đó "nhời văn" ông Phan Khôi hỏi tôi. Nhời văn của Phan Khôi là người chê văn quốc ngữ của tôi "còn chưa xuôi". Nhưng thôi…Nói làm chi. Tôi chỉ đáp câu hỏi kia; vậy tôi đáp.
"Chính phải thế Phan Khôi nghe! Mà tôi không có Phụ Nữ tân văn để giữ luôn ở trong nhà, và không gối văn Phan Khôi ở dưới giường để xem đi xem lại luôn luôn, sự ấy Phan Khôi lấy làm lạ du ? Xã hội thì hiểu rồi, hiểu cho tôi rằng tôi còn có việc khác và văn khác để xem chớ sao? "
"2) – Các câu hỏi của Phan Khôi có ý bắt buộc tôi phải đọc lại văn (!) của Phan Khôi rồi viết thêm cho báo Đông Tây mấy cột báo, mà về văn (!) ấy, tôi không đáp; bởi vì ông Tản Đà đã có cái chương trình bài trừ cái nạn văn (!) và tư tưởng (!) Phan Khôi, mà chương trình ấy đã đang thực hành trong An Nam tạp chí rồi. Việc đời còn nhiều, các bực sĩ phu trong xã hội nên chia nhau mỗi người làm một việc. Huống chi "bài trừ Phan Khôi" tôi cần gì phải làm nữa, vì đã có ông Tản Đà.
"3) – Câu kết của Phan Khôi: "Ai không biết đến đầu đến đuôi hết, thấy bài Nguyễn Tiến Lãng nói như vậy rồi tin đi, ắt phải cho Phan Khôi là người bậy bạ. Hoặc giả ông Nguyễn Tiến Lãng dụng tâm như thế chăng? Ông Nguyễn Tiến Lãng nên hối ngộ liền. Đừng còn nhỏ tuổi mà lập tâm bất chánh như vậy về sau sẽ hỏng!"
"Nguyễn Tiến Lãng  tôi đáp: "Phan Khôi bậy bạ hay không bậy bạ, xã hội đã thừa rõ, cho nên Lãng này không cần phải nói thêm ; nếu chỉ vì một nhời nói của Lãng mà xã hội từ trước vẫn nhầm vì Khôi, đến nay mới biết Khôi là người thế nào, thì Khôi dù uất bởi ngòi bút này mà đã phải lớn tiếng nhưng Nguyễn Tiến Lãng  cũng rất vui lòng vì đã làm được một việc ích. Ông Phan Khôi nên hối ngộ liền! Tuy đã già đời, nhung cũng còn thì giờ cải tà quy chánh, một đời chưa đến nỗi hỏng tất cả!
"Đối với tôi nói thế là đủ; sau này mặc cho Khôi lớn tiếng xin để xã hội nghe cáo trạng của thi sĩ Tản Đà mà cùng cười với tôi". (An Nam tạp chí số 38).
Như các bạn thấy ở đây, giọng điệu của Nguyễn Tiến Lãng đối với Phan Khôi quả thực gay gắt, phũ phàng.
Vân Bằng đả kích Phan Khôi
Sau Nguyễn Tiến Lãng, đến lượt Vân Bằng lên tiếng chửi Phan Khôi (An Nam tạp chí số 39, 30-4-1932) trong bài " Tôi thất vọng về Phan Khôi".
Trước hết Vân Bằng tố cáo Phan Khôi như là người hiếu chiến, gây gỗ với mọi người, lập dị muốn làm khác người ta:
"Thật vậy, Ông Phan đã có phen khai cuộc "bút chiến" - cái này mới thật là "bút chiến" chứ – cùng ông Trần Trọng Kim về sách Nho giáo. "Đình chiến" được ít lâu ông lại khởi "thế công", khai một cuộc "bút chiến" khác – cái này cũng thật là cuộc "bút chiến" nữa chứ – cùng ông Lê Dư về vấn đề quốc học.
"Ông đã có phen hô hào cảnh cáo những nhà "học phiệt" (xin mở tự vị Khang Hi) làm cho quốc dân đã được hưởng cái thú đọc bài trả lời "mát mẻ" của ông Phạm Quỳnh.
"Ông đã có phen đem cái tài hùng biện ra trước Tòa án dư luận làm trạng sư cãi "thí" để "thân oan" cho "bà vua Võ Hậu, đã chọn cung nhân bằng đàn ông, để mua vui trong lúc vạn cơ chi hạ" (theo lời ông).
"Ông đã có phen thuyết lý về cái môn "Lô dích" (logique) là môn ông rất sở trường, và ông cũng đã đem cái thuyết "xưng hô" ra dạy đời nữa.
"Vừa đây, ông lại ra công "sáng chế" ra một lối thơ  tân thời, tự do đặc biệt" không cần niêm luật, tự ý vắn dài làm cho nhiều người "Hoài cổ" phải ngậm ngùi thương tiếc "Tám vế"Luật Đường!!! Có lẽ vì sự phát minh lối thơ mới này mà phải mai một đi chăng?
"Đó, cái công trình vĩ đại của ông Phan Khôi đối với quốc văn là như thế. Cho nên văn tài ông được nhiều người bái phục, như lời Ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng: "bạn Phan Khôi" của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi là "Léon Daudet" của Việt Nam. Sau khi đã vô tình đề cao tán dương Phan Khôi như vậy, Vân Bằng trách Phan Khôi là thô lỗ, bỏ cả phong thái nhà nho để dùng những ngôn ngữ tục tằn khi trả lời ông Nguyễn Tiến Lãng:
"Vậy mà trái đất xoay mình đâu chừng hai mươi vòng, nghĩa là kể từ ngày tôi đọc bài của ông Phan Khôi đăng trên báo Đông Tây số 160 (6-4-32) đến nay chừng ba tuần lễ, thì bỗng đã làm cho tôi thất vọng! Tôi hay vậy, dạo trước đừng coi báo Đông Tây là hơn mà cũng đừng mừng chi về tài ông Phan Khôi là hơn!
"Xin độc giả chịu khó giở tờ Đông Tây số 160 ra ngày 6-4-32 mà đọc lại bài của ông Phan Khôi nơi cột năm ở trang nhất thì liền thấy sự thất vọng của tôi là có căn cứ. Sự thất vọng của tôi về ông Phan Khôi là do ở cái cái cách "xưng hô" bất lịch sự của ông đối với ông Nguyễn Tiến Lãng, cái cách xưng hô đó đã tỏ ra rằng ông Phan Khôi không nhớ cái lễ độ cả độc giả và quên mất cái thuyết "vô bất kính" của làng nho!
"Vậy, tôi cứ theo như cái "sự ngay thật người luận biện phải giữ" mà kể cái cách xưng hô của ông Phan trên tờ Đông Tây số 160 như sau này: bắt đầu ông viết "ông Nguyễn Tiến Lãng", sau đến "Lãng ta" sau đến "Va"! sau đến "Tiến Lãng" sau lại "Ông Nguyễn Tiến Lãng", Nguyễn Tiến Lãng, và Lãng trống trơn vân vân…
"Không những riêng cách xưng hô bất lịch đó, ông lại còn mở cuốn "tự vị riêng" mà dùng những tiếng "Xỏ lá, ba que" (xin lỗi độc giả tôi cũng không hiểu nghĩa rõ) trên bài luận thuyết "tràng giang đại hải" của ông (Đông Tây số 160 cột 5 trang 1) như vậy thật là thiếu cái vẻ lễ độ  với công chúng nữa".
Để ra ngoài những lời nặng tiếng nhẹ mà người ta tặng cho nhau trong lúc tranh luận nóng nảy, ta nhận thấy cuộc bút chiến này cũng đã đặt ra những vấn đề xã hội rất đáng chú ý. Cuộc tranh luận này còn cho ta thấy Phan Khôi mới lắm. Chẳng những Tản Đà không chịu được cái mới của ông mà cả đến Nguyễn Tiến Lãng một tiến sĩ Pháp cũng chẳng ưa cái mới mẻ của Phan Khôi.
Nhân vụ rắc rối đối với Tản Đà này, ta nhận thấy Phan Khôi là người có tư tưởng rất mới. Ông muốn xã hội Việt Nam phải đổi mới. Mà theo ông muốn tiến tới phải đánh đổ mọi thứ mặc cảm tự tôn, ỷ lại vào những là bốn ngàn năm văn hiến, những là Con Rồng Cháu Tiên. Ngoài ra ông còn đi trước cả các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn trong chiến dịch hạ bệ Nho giáo, chống chế độ đại gia đình, chống tục cản trở đàn bà goá cải giá.
5 - Vụ án Quốc Học
Lê Dư đặt vấn đề Quốc Học
Quốc học là gì? Thực chất của nó ra sao? Đó là một vấn đề được đặt ra vào khoảng đầu năm 1930. Nhưng hình như hồi đầu người ta không có đặt vấn đề nội dung cho từ ngữ này. Cái người đầu tiên đã dùng tiếng này nhiều có lẽ là Sở Cuồng Lê Dư: ông lập ra một tủ sách lấy tên là "Quốc học tùng san". Tất cả các sách do ông biên soạn đều đề là "Sở Cuồng Văn Khố Quốc học tùng san". Rất tiếc là lúc viết về vấn đề này tôi không có trong tay tất cả các tài liệu liên quan đến vụ này mà không biết tìm đâu cho ra. Các thư viện mà tôi biết đều không có.
Năm 1930, Lê Dư cho xuất bản tập nghiên cứu đầu tiên của ông trong bộ Quốc học tùng san, đề là "Bạch Vân Am thi văn tập" với lời ghi chú "giật sử và văn thơ sấm ký của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm".
Rất tiếc là hiện giờ tôi không có tập này trong tay. Nhưng tôi nghe rằng trong Bạch Vân Am thi văn tập, Lê Dư đã đề cao Nguyễn Bỉnh Khiêm như là người có công nhất trong việc xây dựng nền quốc học.
Trịnh Đình Rư bác lý thuyết về Quốc Học của Lê Dư
Trịnh Đình Rư phê bình Bạch Vân Am thi văn tập của Lê Dư. Bài phê bình này, tiếc rằng tôi cũng chưa được đọc, chỉ biết, theo Phan Khôi, trong bài "Luận về quốc học" (P.N.T.V. số 94, 6-8-1931) thì Trịnh Đình Rư không đồng ý với Lê Dư, không công nhận nước ta đã có cái gì gọi là quốc học trong bài Luận về quốc học, Phan Khôi có trích lại hai đoạn văn Lê Dư đã trích của Trịnh Đình Rư: "Nước ta từ xưa đến nay chưa từng thấy có cụ nào dựng ra được một học thuyết gì to tát riêng, xét đến lịch sử những nhà học giả Đông Tây mà nghĩ lại đến quốc học nhà, ta tương tự lấy làm thẹn" (trích theo Luận về quốc học, P.N.T.V. số 94, 6-8-1931) và của Phạm Quỳnh: "Nói đến học thuật chơn chánh thì cổ lai nước ta có gì; không dám nói bậc tiền nhân, nhưng thật không có người nào vậy. Tương truyền lý học thâm thúy có cụ Chu An và cụ Trạng Trình nhưng các cụ phát minh được những điều gì, trứ thuật được những sách gì có ích?"
Cứ theo Phan Khôi thì vì Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh đã có ý kiến như vậy về quốc học cho nên Lê Dư đã viết bài "Câu chuyện đọc thơ của ông Trạng" trong đó ông Lê Dư lên án đích danh Trịnh Đình Rư và ám chỉ ông Phạm Quỳnh bằng việc trích văn của ông này như Phan Khôi tố cáo mà không gọi tên đích danh Phạm Quỳnh. Trong bài đó Lê Dư kết án Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh rất gắt gao mà ông gọi là vô ơn và nhục mạ tổ tiên. Phan Khôi có trích mấy dòng sau đây của Lê Dư: "Ôi! các ông chưa xét cho kỹ, mà dám to gan dạn miệng bội bạc tiền nhân như vậy ! Sao các ông vụ nhục nền văn hóa nước nhà như vậy?" (Trích theo Phan Khôi trong bài Luận về quốc học).
Phạm Quỳnh bày tỏ lập trường ủng hộ Trịnh Đình Rư
Nếu bài phê bình của Trịnh Đình Rư chúng ta không được đọc toàn vẹn vì chưa biết nó được đăng ở báo nào, chứ bài của Phạm Quỳnh thì chúng ta có thể đọc được đầy đủ. Thực ra Phạm Quỳnh không có ý bàn về quốc học mà chỉ bàn đá đến vấn đề mà thôi. Phan Khôi kết án Phạm Quỳnh là học phiệt, nghĩa là kiêu ngạo, khinh người, không chịu trả lời khi có người công kích. Phạm Quỳnh trả lời Phan Khôi qua bài "Trả lời bài Cảnh cáo các nhà học phiệt của Phan Khôi tiên sinh" (P.N.T.V. số 67, 28-8-1930). Trong bài này, sau khi đã minh xác và thân oan cho thái độ của mình, Phạm Quỳnh, trong phần kết luận, có bày tỏ nỗi lòng của ông đối với nền học vấn của ta từ xưa đến nay. Phạm Quỳnh phàn nàn rằng tất cả cái học của ta từ xưa đến nay đều là cái học thuê viết mướn chưa có gì đáng giá cả. Thế rồi ông hô hào người trong nước cố gắng gây lấy một nền quốc học mai ngày bằng việc thành lập hội "chấn hưng quốc học": "Nói đến học thuật chơn chánh thì cổ lai nước ta đã có gì? Không dám bội bạc tiền nhân, nhưng thật không có người nào vậy. Tương truyền lý học thâm thúy có cụ Chu văn An, cụ Trạng Trình. Nhưng các cụ phát minh được những điều gì, trứ thuật được những sách gì có giá trị?  Nào đâu là những phái Vương học, phái Thiền tôn như ở Nhật bản, cũng học chữ Tàu mà khám phá được nhiều điều người Tàu không nghĩ tới? Nước mình tịnh không có gì cả. Đó chẳng qua là bởi cái tinh thần học vấn của mình nó bạc nhược quá. Lại bởi cái mô phỏng của người mình nữa, xưa kia phỏng chép người Tàu, ngày nay bắt chước người Tây…
"Ấy cái hiểm tượng của học giới ta ở đó, ở cái tính nô lệ của người mình đó, chớ không phải là lỗi tại người này hay người nọ…
"Phải nên cùng nhau hiệp lực, cố gây dựng cho nước nhà một nền "quốc học" đích đáng, không Tây mà không Nho, có cái tính cách đặc biệt, tiêu biểu được cho cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Cái ý tưởng đó ngày nay Phan tiên sanh mới đề xướng, mà về phần tôi chủ trương đã lâu lắm rồi.
"Vậy ngày nay chúng ta có nên cổ động lập một hội "Chấn hưng quốc học", học tập những người có chí học vấn trong Nam ngoài Bắc, mỗi năm hội nghị một lần để bàn các kế hoạch nên thi hành cho nước nhà có một nền quốc học xứng đáng không?
"Thiết tưởng thế còn hơn là cãi vã nhau vô ích. Phan tiên sanh nghĩ sao? (Phụ Nữ tân văn, số 67, 23-8-1930).
Phan Khôi công kích Phạm Quỳnh
Vì Phạm Quỳnh đã hỏi " Phan tiên sanh nghĩ sao? ", nên Phan Khôi đã trả lời Phạm Quỳnh trên Phụ Nữ tân văn, số 70, 18-9-1930, qua bài "Về các ý kiến lập hội chấn hưng quốc học của ông Phạm Quỳnh".
Trong bài này, sau khi thương xác với Phạm Quỳnh nhiều vấn đề, Phan Khôi tỏ ý không tán thành việc thành lập cái hội gọi là hội "Chấn hưng quốc học". Theo Phan Khôi chúng ta đã có quốc học bao giờ đâu mà nói đến mất hay đến suy vi khiến phải chấn hưng. Phan Khôi viết:
"Cái ý kiến của tiên sanh muốn lập một hội kêu bằng "Chấn hưng quốc học" đó, theo tôi, tôi tưởng ta chưa làm được, mà cái hội ấy hình như cũng không cần có nữa. Nhơn rốt bài của tiên sinh, có lời hạ vấn đến tôi, tôi phải trực trần ý kiến, xin chớ ai thấy mà trách tôi: Làm không làm, lo phá đám!
"Trước hết xin gạn hỏi cái tên hội mà tiên sanh phỏng định ra đó. Phàm cái gì từ trước đã có sẵn rồi mà sau suy bại đi, mình muốn làm cho nó hồi phục lại cái quang cảnh cũ, vậy mới nói là chấn hưng được. Cái này nền "quốc học" của nước ta tiên sinh đã nhận rằng từ xưa chưa có, mà tôi cũng từng nhận như vậy, thì sao gọi được là "chấn hưng"?
Ấy ngay từ hồi này, như các bạn thấy, chẳng phải chỉ có Trịnh Đình Rư hay Phạm Quỳnh chối ta không có quốc học mà cả Phan Khôi nữa. Phan Khôi còn chối mạnh hơn cả hai ông Rư và ông Quỳnh. Vậy mà trong bài "Câu chuyện đọc thơ của ông Trạng" Lê Dư chỉ đả kích có Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh mà không nói gì đến Phan Khôi. Chính sự yên lặng đó của Lê Dư đã được Phan Khôi nhắc tới trong bài Luận về quốc học của ông khi ông viết:
"Còn tôi ai khảo mà xưng "Lạy ông tôi ở bụi này", cái không những là dại mà là dởm. Nhưng vì nếu tôi có thú khai tôi ra đây thì cái ý nghĩa bài này mới càng đích xác hơn vậy.
"Cái giọng phủ nhận như ông Trịnh Đình Rư và ông Phạm Quỳnh đó, thưa thiệt, tôi cũng có thốt ra nhiều lần rồi…
Một lần sau mới đây, lời càng thống thiết hơn, là trong bài "Hán học ở bên Tây" đăng ở báo Đông Tây cách vài tháng trước. Trong bài ấy đến nỗi tôi muốn nói rằng nước ta từ xưa đến nay không có cái gì đáng gọi là cái học nữa kia. Những cái luận điệu của tôi đó tưởng ít nữa ông Lê Dư cũng có thấy qua, song ông chừa tôi ra, là vì ông cùng tôi có tình anh em riêng, với tôi, ông càng không muốn rắc rối hơn với ông Phạm nữa.
Ông Lê có lòng tốt đối với tôi như vậy tôi nỡ nào đi phụ cái lòng ấy của ông? Song tôi nghĩ, cái chân lý giữa cõi học nó bắt phải để riêng cái tình anh em trong một nhà. Bởi vậy, trong việc này, tôi phải để mình về bên hai ông Phạm và Trịnh kia, viết bài này cùng ông Lê thương xác lại vấn đề ấy". (Phụ Nữ tân văn số 94, 6-8-1931).
Cuộc chiến bùng ra gay gắt từ đấy. Nhưng trước khi đi vào việc trình bầy tiếp cuộc tranh luận này, chúng ta cần tìm xem quan điểm Lê Dư từ đấy trở về trước đối với vấn đề quốc học như thế nào.
Tôi không được đọc Bạch Vân Am thi văn tập là tập I trong bộ Quốc học tùng san của Lê Dư in năm 1930, nhưng tôi được đọc Vị Xuyên thi văn tập là tập II của bộ Quốc học tùng san, in năm 1931. Nơi đầu tập sách này có hai bài giới thiệu ngắn một của nhà xuất bản Nam Ký thư quán là nhà xuất bản đứng ra in tất cả sách vở của Lê Dư, một của Sở Cuồng Văn Khố. Theo chỗ tôi phỏng đoán thì hai bài giới thiệu này cũng đã in ở đầu sách "Bạch Vân Am thi văn tập" rồi nay lại được giới thiệu lại ở Vị Xuyên thi văn tập. Bài giới thiệu của Nam Ký thư quán mang tựa đề là "Lời bá cáo của nhà xuất bản bộ Quốc học tùng thư". Vậy lời bá cáo này mở đầu bằng những đòn sau đây:
"Quốc hồn ở đâu? ở tại tư tưởng, tư tưởng phát ra làm văn chương, văn chương của các nhà học giả nước ta, từ xưa đến nay chính là quốc hồn ở đấy nên quốc học cũng ở đấy.
"Ông Sở Cuồng là một nhà đốc chí hiếu học, cố sức vun bồi nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của nước ta, ngót mười năm nay ở trường Bác Cổ, lưu lý sưu tập những tài liệu thuộc về quốc văn, quốc sử biên tập thành bộ "Quốc học tùng san" kể hơn một trăm tập nào là lịch sử, nào là văn chương, tài liệu như núi như non, từ tảo như hoa như gấm, đủ chứng minh kho văn học của ta phong phú như vậy, các bậc tiền bối ta, có công với nền quốc học như vậy" (Lời bá cáo của nhà xuất bản bộ Quốc học tùng san, trong Vị Xuyên thi văn tập 1931). Đến chính Sở Cuồng cũng có mấy lời giới thiệu Quốc học tùng san của ông, cũng in ở đầu cuốn Vị Xuyên thi văn tập như thế này: "Bản Văn Khố muốn lấy sức mọn vun bồi cái cơ sở nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của nước ta, ra công sưu tập văn chương và lịch sử của các nhà học giả xưa biên thành bộ "Quốc học tùng san" này, phương pháp theo lối khảo cổ, cốt thu thập được nhiều tài liệu cho tiện về sau này, các nhà văn học muốn khảo cứu về vấn đề gì đều sẵn đủ cả, cho nên cái nội dung có khác với các quyển giáo khoa và các quyển thi văn tinh tuyển khác, xin độc giả lượng xét cho". Bài giới thiệu này ký là "Sở Cuồng Văn Khố".
Cứ những bài giới thiệu trên đây thì ta thấy quan điểm của Lê Dư chưa được minh bạch rạch ròi cho lắm. Nếu quan điểm đó không chỉ cho quốc học là văn học thì ít ra quốc học hầu như là văn học. Thứ nhất ta thấy những sách trong bộ quốc học của Lê Dư gồm toàn sách văn chương: nơi bìa tập sách Vị Xuyên thi văn tập, tác giả liệt kê "Sách bộ Quốc học" của ông chỉ gồm toàn sách văn chương như : Văn đàn bảo giám, Bạch Vân An thi văn tập, Bằng quân thi văn tập, Ôn Như Hầu thi văn tập, Vị Xuyên thi văn tập, Việt văn dẫn giảng…Thứ hai là ta thấy Lê Dư hứa sẽ viết một bộ Việt Nam văn học sử với dụng ý minh chứng nền quốc học Việt Nam rất phong phú. Thứ ba ta thấy lời giới thiệu của Nam Ký thư quán cũng hiểu quốc học là văn học như trong câu: Quốc hồn ở đâu? Ở tại tư tưởng, tư tưởng phát ra làm văn chương, văn chương của các nhà học giả nước ta từ xưa đến nay chính là quốc hồn ở đấy, nên quốc học cũng ở đấy". Thứ bốn ta thấy chính Lê Dư trong "Mấy lời giới thiệu" cũng nói đến việc xây cơ sở nền quốc học bằng việc sưu tầm văn chương:
"Bản văn khố muốn lấy sức mọn vun bồi cái cơ sở nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của các nhà học giả xưa, biến thành bộ quốc học tùng san này".
Phan Khôi đã chẳng hiểu quốc học như Lê Dư, vì thế ông mới viết bài luận về quốc học.
Phan Khôi luận về Quốc Học
Trước hết Phan Khôi nói đến việc dùng danh từ quốc học trong văn giới Việt Nam cũng như văn giới Trung Hoa mới là từ mấy năm trở lại đây mà thôi.
Phan Khôi định nghĩa chữ Quốc học rất rành rẽ. Ông viết:
"Quốc học là một danh từ mà cũ và mới có nghĩa khác nhau. Hồi trước ta nói "quốc học" tức là cái trường học cho cả nước; như trường Quốc học ở Huế là lấy nghĩa ấy: Còn chữ "Quốc học" ngày nay thường dùng là chỉ về cái học riêng của một nước, có vẻ đặc biệt, có chỗ khác với nước ngoài. Vậy khi nói "quốc học" cũng gần giống như "quốc phục" là y phục riêng của một nước. Nói "Quốc kỳ" là hiệu kỳ riêng của một nước.
"Chữ quốc học trong bài này chuyên nói về nghĩa mới là nghĩa sau đó (Luận về Quốc học).
Như vậy, theo Phan Khôi, Quốc học là nền học thuật, tức nền tư tưởng, nền triết học riêng của một nước đã thực sự ảnh hưởng, chi phối đời sống của dân tộc nước ấy khiến cho dân tộc ấy thành khác biệt những dân tộc trên thế giới.
Dựa theo giới thuyết như trên về quốc học, Phan Khôi đồng tình với Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh mà quả quyết nước ta chưa có quốc học. Phan Khôi cho rằng đây là một vấn đề học vấn, vấn đề chân lý; có thì nói có, không thì nói không, chứ đừng vì tình cảm, vì tự ái dân tộc không đúng chỗ mà phải nhận là có cái ta chưa có:
"Ông Lê nói có, ông lại hứa rồi đây ông sẽ đem chứng cớ ra. Song, truyện ấy để lát nữa sẽ nói, đây tôi xin tỏ ra cái cớ tại sao mà chúng tôi phải hô hào lên cho người ta biết rằng nước ta không có quốc học.
Sự học tức là sự trí thức, nó chuyên khuynh hướng về lý trí mà không nên xen vào một chút tình cảm. Đức Khổng cũng dạy rằng cái học của người đời xưa là vị kỷ và bắt đầu từ thành ý nghĩa là không dối mình. Khi nói về cái học của một người đã vậy thì khi nói về cái học của một nước cũng vậy. Nếu nước ta quả không có quốc học thì dầu nó là một sự nhục cho mình đi nữa cũng phải chịu, không nên vì tình cảm mà nói có, cho thành ra dối mình. Dối mình là một cái hại lớn lắm, cho người cũng như cho nước. Bởi vì, nếu không mà nói có, ai nấy tin rằng có, sẽ sanh ra lòng tự phụ, mà tự phụ một cách hư ngụy, rồi không lo tu tấn nữa, nhơn đó cõi học trong nước lại càng tối tăm thêm. Do lẽ ấy trước khi muốn người nước mình bắt đầu từ ngày nay lập nên một nền học thuật chúng tôi phải khai thiệt ra cho ai nấy biết cái tình hình trong cõi học nước ta từ trước ra thế nào ; thấy không có thì chúng tôi phải nói không có, đó là chỗ trung hậu thành khẩn của chúng tôi, cũng như một nhà kia ông cha nghèo, thì phải khai thiệt là nghèo, không có một cục đất nào thì phải khai thiệt là không có một cục đất; hầu cho con cháu mà lo làm ăn vậy.
"Đó, nếu ai đã tin bụng tôi, hoặc chúng tôi, thì sẽ không trách sự phủ nhận ấy là bội bạc, là vụ nhục nữa ; bây giờ đây, cái vấn đề chỉ còn là sự "có" với "không" mà thôi. Như ai nói "có" thì phải đem chứng cớ ra". (Luận về quốc học).
Sau khi minh định quan niệm và thái độ thẳng thắn như vậy, Phan Khôi duyệt qua một ít các nhà học giả xưa mà Lê Dư thường nâng lên như là các ông tổ của nền quốc học Việt Nam thì chỉ thấy họ là những nhà văn học chứ không ai kiến tạo được một hệ thống tư tưởng riêng biệt cho xứ sở này.
Phạm Quỳnh luận về Quốc Học
Đồng ý và tiếp theo Phan Khôi, Phạm Quỳnh viết một bài đại luận "Bàn về quốc học", đăng liên tiếp trên hai số báo Phụ Nữ tân văn số 104 (15-10-1931) và số 105 (22-10-1931).
Nơi bài số 104 (15-10-1931) Phạm Quỳnh thử ngược dòng lịch sử duyệt qua một vòng xem có thể tìm đâu ra được vết tích quốc học không thì Phạm Quỳnh đã phải thất vọng hoàn toàn.
Theo Phạm Quỳnh, anh hùng ta có, liệt nữ ta có, danh sĩ, cao tăng ta cũng có, nhưng trong "cõi học nước ta, cổ kim chưa có người nào có tài sáng khởi, phát minh ra những tư tưởng mới, thiết lập ra những học thuyết mới, đủ có cái vẻ độc lập một "nhà" đối với các "nhà" khác như bách gia chư tử bên Tàu ngày xưa" (Bàn về quốc học, P.N.T.V. số 104). Cái học của ta, Phạm Quỳnh thấy toàn thị là cái học mướn mà học mướn ấy cũng chưa học cho đến nơi đến chốn… Tổ tiên ta chỉ chú trọng đến cử nghiệp cho nên rút cục sau hàng ngàn năm các cụ học hành mà con cháu ngày nay nhìn về các cụ chẳng tìm thấy gì gọi được là học thuật tư tưởng đứng đắn cả. Về việc định nghĩa quốc học là gì, ý tưởng Phạm Quỳnh giống ý tưởng Phan Khôi, duy có điều Phạm Quỳnh nói sau nên có chiều khúc chiếc gẫy gọn hơn. Ông nói: "Quốc học là gồm những phong trào về tư tưởng học thuật trong một nước, có đặc sắc khác với nước khác, và có kết tinh thành ra những sự nghiệp có trước tác lưu truyền trong nước ấy và ảnh hưởng đến các học giả trong nước ấy" (Bàn về quốc học, P.N.T.V. số 104).
Cứ theo định nghĩa ấy Phạm Quỳnh đã đồng ý với Phan Khôi mà bảo rằng nước ta chưa có quốc học. Rồi từ đó ông đi tìm nguyên nhân đã xui khiến nên tình trạng buồn tủi kia. Phạm Quỳnh cắt nghĩa sự thiếu vắng kia bằng ba lý do vừa địa lý, vừa lịch sử, vừa chính trị. Về địa lý, nước ta quá bé nhỏ cho nên hầu như bị Trung Hoa nuốt chửng nên bị mất hẳn độc lập về tinh thần.
Về lịch sử, nước ta càng bị nước Tàu đè nén hơn nữa. Ngoài 10 thế kỷ nô lệ, Việt Nam trong suốt thời độc lập vẫn phải đối phó gay go cơ cực với Tàu. Ấy là chưa nói đến việc ta coi các học thuyết truyền từ Tàu sang đều là tôn giáo cả cho nên không khi nào dám bàn cãi.
Thuộc về chính trị, thì nước ta xưa kia bị cái nạn quân chủ chuyên chế. Nhà vua đã đặt ra một lối học rất gò bó để làm tiêu chuẩn tuyển chọn người tài thành ra bao nhiêu sáng kiến tư nhân bị tiêu diệt dần đi.
Sau khi đã nhìn về dĩ vãng mà nhận định vấn đề như vậy, Phạm Quỳnh đã hướng về tương lai mà đặt vấn đề: làm sao để xây dựng được một nền quốc học? Nếu đã tố cáo cái học nô lệ theo Tàu xưa kia thế nào, thì Phạm Quỳnh lại chống cái học hòa đồng theo Tây như vậy. Cả phần thứ hai của bài bàn về quốc học, tức bài số 105 (P.N.T.V. số 105, 22-10-1931), Phạm Quỳnh dành cho việc phân tích nghiên cứu vấn đề để tìm một lối thoát cho tương lai đang lúc Tây phương chi phối chúng ta nặng nề chẳng kém gì Tàu đồng hóa các cụ ta xưa kia. Phạm Quỳnh muốn đề ra một triết lý văn hóa, nó sẽ là linh hồn, là cơ sở cho nền quốc học tương lai. Triết lý đó là triết lý dung hòa. Ông viết: "Muốn cho gây được thành một cái quốc học riêng của mình, thì phải dùng phương pháp phê bình khảo cứu của khoa học mà phân tích những học thuyết cùng nghĩa lý cũ của Á đông ta rồi đem ra nghiền ngẫm, suy nghĩ, đối chiếu với những điều chân lý cùng những sự phát minh của khoa học thái tây. Kết quả của sự phân tích cùng tổng hợp đó, tức là tài liệu để gây ra quốc học sau này vậy" (P.N.T.V. số 105).
Lê Dư trả lời cả Phạm Quỳnh lẫn Phan Khôi
Sau loạt bài của Phan Khôi đến của Phạm Quỳnh, đến lượt Lê Dư lên tiếng. Không như những lần khác, lần này quan điểm của Lê Dư được trình bầy khá minh bạch. Người ta có thể không đồng ý với ông nhưng biết rõ ông muốn gì chứ không như trước đây. Có lẽ những lời công kích ông trước đây, đã khiến cho Lê Dư suy nghĩ và cô đúc lại để đặt ra một lý thuyết cho chữ quốc học mà trước kia có lẽ ông chưa có ý kiến rõ rệt.
Lê Dư cũng tự nhận thấy rằng sự không rõ rệt đó đã xui khiến nên những cuộc tranh luận mà ông cho là vô ích cho nên ông viết bài "Vấn đề quốc học" ghi rõ định nghĩa và nội dung quốc học (P.N.T.V. số 107, Nov 1931).
Lê Dư đã định nghĩa quốc học: "Quốc học là học vấn, kỹ thuật của một nước: học vấn kỹ thuật ấy là cái cố hữu của mình hay là cái mình học của người nhưng đã thay đổi nhiều lắm, nay trở thành cái cố hữu của mình mà người ta không ai có" (P.N.T.V. số 107).
Sau khi định nghĩa, Lê Dư mô tả nội dung của quốc học : " Quốc học là đối với các học vấn ngoại lai như: Hán học, Phật học, mà nói có chỗ đặc biệt mà từ xưa đến nay đã có học phái, có ảnh hưởng đến nhân quần xã hội ta; người ngoại quốc bàn đến cái học ấy, phải cho là cái học đặc biệt của người nước Nam, không giống nước nào hết" (Bàn về quốc học).
Rồi Lê Dư kể lễ các yếu tố làm nên quan niệm quốc học theo ông hiểu:
"Đã là quốc học thì nội dung phải bao hàm cả quốc văn, quốc sử, quốc túy ở trong.
"Quốc văn – lấy nhất ban quốc văn học làm chủ như các học thuyết, lý thuyết những sách vở của tiền nhân đã trứ thuật để lại và những quốc ca, quốc ngữ (chữ nôm và chữ quốc ngữ) đặc biệt của ta.
"Quốc sử – lấy nhất ban chính trị sử làm chủ như cách tổ chức, cách hành động về chính trị và những pháp luật, chế độ, phong tục, tập quán, kỹ thuật đặc biệt của ta.
"Quốc túy – lấy nhất thiết trường sở mỹ điểm thuộc về vật chất, về tinh thần của dân tộc tính cố hữu mà do cái tình hình địa lý và nguyên nhân lịch sử đã dưỡng thành trong mấy mươi thế kỷ nay.
"Ba cái ấy, tôi đã nhận thấy là quốc học của ta và là chủ nghĩa của tôi chủ trương đó (P.N.T.V. số 107).
Sau đó Lê Dư bảo đó chẳng phải ý kiến lập dị riêng của ông mà là chủ trương của cả cái dân tộc cực văn minh là dân tộc Nhật Bản. Và chỉ ai dốt nát không biết như vậy mới dám phủ nhận nền quốc học phong phú của ta. Ta đọc thấy những dòng đại khái như sau đây của Lê Dư ám chỉ về những người bảo ta chưa có quốc học: "Ôi! sao các ông không xét đến sự thật và tình hình học vấn nước nhà xưa nay, mà đã vội mạt sát tiền nhân như vậy?
"Ôi! không căn cứ theo sách vở, thì dễ nói bậy bạ, cho nên tôi thường có một câu cách ngôn rằng: không biết pháp luật thì dễ nói ngang, không xem sách vở thì sẽ nói càn"  (P.N.T.V. số 107)
Lời lẽ của Lê Dư như các bạn thấy trên đây quả là kết án bọn các ông Phạm Quỳnh, Trịnh Đình Rư, Phan Khôi là dốt nát.
Nguyễn Trọng Thuật giàn hoà
Sau bài công kích của Lê Dư, Nguyễn Trọng Thuật đứng ra hòa giải qua bài "Điều đình cái án quốc học". Đây nguyên là một bài diễn thuyết ông đọc tại Hội Trí Tri Hải Dương ngày 26-11-1931, rồi sau lại đăng tải trên Nam Phong tạp chí số 167 ra tháng 12 năm 1931.
Nói là hoà giải, là điều đình, nhưng thực ra Nguyễn Trọng Thuật đứng hẳn về phe Lê Dư, công kích phe Phan Khôi, có điều là Nguyễn Trọng Thuật công kích bằng lời lẽ phải chăng mà thôi.
Nguyễn Trọng Thuật mở bài diễn thuyết của ông bằng việc ghi nhận nội dung và lý do vụ án mà ông gọi là "vụ án quốc học".
"Hiện nay trong nước ta đang có một cuộc tranh luận về vấn đề quốc học, là cái học riêng của một nước. Nó khác với nghĩa quốc học cũ nghĩa là cái nhà trường học của cả nước như xưa. "Khởi xướng ra hai chữ quốc học về nghĩa mới ở ta đây là ông Lê Dư; cãi lại rằng nước ta không có cái học đáng gọi là quốc học là ông Phan Khôi. Hai bên tranh luận ở báo Đông Tây Hà nội, thành ra một cái học án cho học giả trong nước đang bàn xét".
Nguyễn Trọng Thuật có trách Lê Dư, nhưng điều ông trách Lê Dư là điều rất nhẹ. Theo ông, cái lỗi của Lê Dư, nếu có, chỉ là Lê Dư "sơ ý một chút" mà thôi.
Nguyễn Trọng Thuật viết:
"Nay xét đến nguyên nhân cuộc tranh luận này, thì chỉ ông Lê Dư sơ ý một chút để nên chuyện mà thôi. Nguyên ông làm trong trường Bác Cổ Hànội đã lâu năm, khảo cứu sưu tập được nhiều những tập văn thi nôm của nước ta, nay ông muốn đem in dần ra làm một bộ sách tùng thư thuần về bản quốc. Ông lấy việc làm như thế là nó thuộc vào một phần trong khoa quốc học như của Nhật Bản đó. Ông bèn đặt tên cho bộ sách ấy là "Quốc học tùng san". Cuốn in mở đầu là "Bạch Vân Am thi tập", trên đầu bìa có bốn chữ tên bộ sách như thế…"
Ngoài ra, cũng theo Nguyễn Trọng Thuật, cái sơ ý của Lê Dư là ở chỗ dùng một từ ngữ với một nội dung mới mà không minh định trước cho độc giả biết cái nội dung mới mẻ ấy.
"Đại phàm mới phát minh ra một danh từ về chủ nghĩa gì hay là mới thâu thái nó ở đâu mà đem xướng lên cho xã hội thì phải giải thích cho rõ cái tính cách của nó ra trước. Bởi vì ngày nay thường một danh từ mà nghĩa mới nghĩa cũ, nghĩa rộng nghĩa hẹp nhiều lắm, thế mà ông Lê không giải thích cho cái tên quốc học mà ông mới dùng ấy một câu nào cả. Lại quyển "Bạch Vân Am thi văn tập" ông Lê giữ tính cách biên tập và tồn cổ, cho nên ông không có bình luận gì vào đấy một câu nào. Nghĩa là chỉ để cho học giả được đủ nhiều tài liệu để nghiên cứu mà thôi. Nhưng ông cũng không dặn cho người ta biết thế. Ở cái đời khoa học thực nghiệm này, trông ngoài bìa sách thấy hai chữ "quốc học" mới mẻ to tát, mở cuốn sách thấy một ít lời sấm, thì ai cũng phải ngờ. Ấy vì thế nghị giả nhận sai nghĩa chữ quốc học đi mà thành lầm".
Nguyễn Trọng Thuật cho rằng chính bởi thiếu minh định nội dung từ ngữ như vậy mà làm cho Phan Khôi hiểu lầm. Ông phân tích và bàn giải về sự lầm lẫn của Phan Khôi một đàng vì không hiểu biết nội dung từ ngữ quốc học theo nghĩa của Nhật bản, một đàng vì thiếu sự tìm tòi và đối chiếu các tài liệu cũ của ta với nhau vì so sánh chúng với các nước khác. Đó là ý nghĩa của đoạn văn sau đây:
"Nay xét ra nghị giả lầm vì hai cớ này: một là không biết đến cái nghĩa quốc học đan thuần của Nhật Bản, nhận thấy ở Trung quốc đâu đầu đời Dân quốc, có một phái nào đó xướng lên lấy sách bách gia chư tử làm quốc học để đối với Tây học đang tràn vào. Quả như lời nghị giả thì nghĩa quốc học ấy là ngoan cố khoa đại đấy, quả thế thì lầm. Hai là nghị giả không đem thời đại học thuật của nước nhà mà so sánh với xa gần, và đồng thời không chịu lượng xét cho học giới ta xưa bị những trở lực gì mà dù có ít nhiều điều biệt kiến cũng phải tiêu trầm, rồi không chịu khó bới móc trong chỗ giấy rách mà nhặt nhạnh lại, nhất diện cứ câu chấp ở đống sách bề bộn của Tàu mà kết án cho cổ nhân mình, kết luận rằng: "Nước ta không có cái học gọi là quốc học". Xét ra thì ý nghị giả muốn nói về cái học chung của thế giới kia, mà gọi lầm là quốc học đấy, chứ quốc học thì nước nào mà chả có.
"Song le dù đối với cái học chung của thế giới đi nữa, so với cụ Khổng, cụ Phật cùng Đông châu chư tử thì cổ nhân ta không những không có mà lại còn là học đồ, nhưng so với bạn học cùng cái thời đại học thuật với nhau, nghĩa là so với các học giả Hán, Tống, Minh Thanh, mà đời kêu là đại nho thì cổ nhân ta đời nào cũng có như thế đấy, chỉ vì số nhiều không biết trọng mà để trầm mai đi, thì còn lấy đâu mà thành lập lưu hành được. Chứ nếu đều được thành lập lưu hành đến nay cả thì đã chả có cái cảnh tượng học thuật khủng hoảng như bây giờ…"
Đoạn văn trích trên đây cho ta thấy Nguyễn Trọng Thuật chủ trương rằng tổ tiên ta có thua kém thì chỉ thua kém cụ Khổng, cụ Phật thôi, chứ có thua kém gì bách gia chư tử của Tàu và các học giả của Nhật.
Để minh chứng cho lập trường trên, Nguyễn Trọng Thuật phân biệt cái học ra làm quốc học và thế giới công học rồi lần lượt định nghĩa, mô tả thế nào là quốc học và thế giới công học: "Cho được hiểu rõ hai điều lầm của nghị giả trên này, tôi xin bàn giải, so sánh và chứng dẫn luôn làm một bài khảo cứu như sau này, các ngài tự suy xét phán đoán lấy, chứ tôi không muốn theo cách biện luận tỉa tách từng lời, cãi vặt từng câu nữa".
"Dưới đây trước tôi phân giải cho hai cái học ở trong học giới các nước ngày nay là quốc học với thế giới công học khác nhau thế nào. Rồi tiến lên xem học thuật Việt Nam đối với hai cái học ấy; về quốc học thì lấy nghĩa của Nhật Bản rồi xem Việt Nam sẽ có những gì, về thế giới công học thì trước xét ở Trung quốc, ở Nhật Bản về đồng thời xem thế nào, rồi xét đến Việt Nam xem thế nào.
"Hai cái học trong học thuật thế giới:
"Học thuật các nước thế giới đến ngày nay là hoàn bị và tinh tế, song lấy quốc tính mà phân ra thì có hai loại là quốc học và thế giới công học. Quốc học là cái học riêng chỉ một mình nước ấy có. Thế giới công học là cái học chung của các nước học lẫn của nhau.
"Coi đó thì biết quốc học tức là cái học bất dịch, chỉ một nước ấy có, chỉ người nước ấy cần phải học, hoặc là chỉ người nước ấy mới có thể học thâm thấu được, còn nước khác không có, người nước khác không cần phải học, hoặc là có học cũng không thâm thấu được. Đến như thế giới công học thì là cái học chung, là cái học biến dịch, nghĩa là tùy thời mà đổi mới tùy thời mà khứ thủ không nhất định được.
"Ví như một người, quốc học là phần bản thể; thế giới công học là phần bồi dưỡng. Bản thể thì cần phải nuôi cho lớn khôn khỏe đẹp ra mà không bỏ và thay chỗ nào được, nếu bỏ hay là thay chỗ nào thì là bất cụ, quá thì chết. Còn bồi dưỡng thì nếu nhà có thì chớ, bằng có mà thiếu, hoặc có mà xấu, hoặc không có đi nữa thì cứ lấy ở ngoài…
"Xem thế thì về thế giới công học, thiếu đâu cứ cầu ở ngoài, đã hủ rồi thì cứ cải lại, hoặc khử cả đi, hoặc phát kiến thêm ra được để đóng góp với đời càng tốt. Đến như quốc học thì phải có sẵn cả rồi, là cũ kỹ tích lũy chứ không phải là mới. Hoặc có nhãng bỏ thì nay đem ra, có tản mát thì nay thu tập lại, chứ không phải đi chuốc ở đâu đem vào được".
Như vậy, theo Nguyễn Trọng Thuật, cũng như theo Lê Dư, quốc học gồm có "quốc sử, quốc văn, quốc thần, địa dư chí, cổ điển, ca dao và văn thi. "Quốc sử thì gồm có" sử ký, liệt truyện, gia phả và bi ký"; Quốc văn tức là "ngôn ngữ văn tự", tức cũng là "cái gốc của cõi học một nước", quốc thần thì gồm "những vị thần từ Hùng Vương trở xuống nào quốc tổ, nào vĩ nhân cùng những vị có công đức", địa dư chí thì biên chép các nơi danh thắng trong nước; cổ điển tức là "chính trị của lịch triều"; chế độ của xã hội, phong tục của dân gian; ngạn ngữ phong dao là "cái kho tự điển văn luật, vừa là một pho kinh, điển của cả một dân tộc kinh nghiệm hoặc sở đắc về luân lý, về phép hành vi, về mỹ cảm", văn thi là "kho tàng văn học thơ của các văn nhân thi sĩ".
Sau khi đã phân tích và mô tả quốc học và thế giới công học là thế nào rồi, Nguyễn Trọng Thuật dựa vào các quan niệm đó mà duyệt lại lịch sử của Việt Nam, của Trung Hoa, của Nhật để minh chứng, ở mọi địa hạt, ta không có thua kém gì Trung Hoa hay Nhật Bản, có chăng ta chỉ thua kém là không có một "cụ Khổng", một "cụ Phật" mà thôi.
Cuối cùng Nguyễn Trọng Thuật, căn cứ vào lịch sử để trình bày một cách cụ thể nền quốc học và nền thế giới công học như là đã có cơ sở liên tục qua suốt cả lịch sử Việt Nam. Cái học của Việt nam dưới con mắt của Nguyễn Trọng Thuật quả cũng đã có trường phái đàng hoàng. Ông viết:
"Tóm lại học thuật Việt Nam trong một thời đại, cả Nho học Phật học đều có ba cái tính chất khác nhau là hợp sáng, biệt sáng và toàn mô phỏng." Ba tính chất ấy có những học phái này: "Về Nho học, tính chất hợp sáng có Hán nho đích Việt Nam học phái, tính chất biệt sáng có Chu An thực hành học phái, Hoa Việt Nho học phái, Quế đường học phái hay là Lê Nguyễn nho học phái, tính chất toàn mô phỏng có Tống nho học phái".
Như vậy, chẳng những ta không thua kém Tàu hay Nhật mà cũng không đến nỗi hổ thẹn nếu so sánh với các nước trong thiên hạ. Nguyễn Trọng Thuật diễn tả ý tưởng đó ở đoạn sau:
"Bởi vậy tôi đã ví quốc học là bản chất, ví những cái học cũ ở Á Đông là nhà trường Đông phương học; mà những cái sở đắc cũ là những cái bằng tốt nghiệp trước vậy. Bây giờ bạn học cũ đã đều lên trường cao đẳng mới, ta dù chậm chạp cũng đã tìm thấy cổng trường, nhưng trước khi thụ giáo, ta phải tự sát hạch lại cái bằng tốt nghiệp cũ của ta là phải lắm. Cái bằng tốt nghiệp cũ của ta, về món quốc học, những tài liệu về bản chất, so với bạn học cũ dẫu chẳng được toàn ưu điểm gì, nhưng cũng ưu liệt tương bán. Về món công học dù bị nội giới ngoại giới cùng số nhiều ham mê về cử nghiệp khiến cho có sở đắc mà không được lưu hành, có lưu hành mà được một số ít người hoặc được một thời kỳ ngắn ngủi ; song những tinh thần chủ nghĩa như là điều hòa siêu việt với thực tế, thực hành minh đạo hóa dân, tự tín, tự giác về quốc âm thổ sản như trên ấy, thực đã biết đem cái học công hữu của thế giới biến hóa ra làm cái học độc hữu của một nước rồi đó".
Qua sự phân tích bài "Điều đình cái án quốc học" như trên đây, các bạn đã nhận thấy Nguyễn Trọng Thuật, tuy nói là không bênh bên nào, mà kỳ thực thì đã bênh Lê Dư và kết án Phan Khôi. Có điều là lời lẽ Nguyễn Trọng Thuật nó thanh lịch, kín đáo, nhẹ nhàng.
Phải chăng vì vậy mà Phan Khôi không chấp nhận sự hòa giải của Nguyễn Trọng Thuật qua bài "Bất điều đình" của ông đăng ở báo Đông Tây số 133. Tiếc rằng bài "Bất điều đình" của Phan Khôi tôi chưa được đọc cho nên không biết Phan Khôi đã trả lời Nguyễn Trọng Thuật những gì: hiện giờ tôi chưa làm sao tìm ra được tờ Đông Tây nào.
Phan Khôi chống sự giàn hòa của Nguyễn Trọng Thuật
Nhưng cứ đọc bài Siêu Việt công kích Phan Khôi vì Phan Khôi không chấp nhận sự điều đình của Nguyễn Trọng Thuật thì cũng biết qua được thái độ của Phan Khôi đối với Nguyễn Trọng Thuật. Để phản đối cái việc Phan Khôi không chịu nhận sự hòa giải của Nguyễn Trọng Thuật, Siêu Việt đã trích những lời Phan Khôi buộc tội những ai muốn điều đình đều là hạng người hèn nhát:
"Người ta mà ưa làm kẻ điều đình là chỉ vì có ý sợ khó, có ý chiều đời, có ý thích làm lớn, bằng không có ý đó thì bản thân cái thuyết điều đình chẳng đứng một mình được vì nó vừa đen vừa trắng hay là không đen không trắng, dễ nói quá, mà chẳng có nghĩa gì" (theo bài "Đọc bài Bất điều đình của ông Phan Khôi" trong báo Đông Tây số 133, An Nam tạp chí số 43, 1-6-1932).
Sau khi đã trích câu văn của Phan Khôi, Siêu Việt lấy nó để mà đả kích Phan Khôi là ngụy biện thiếu tư cách của một học giả tự xưng là trọng luân lý: "Ông Phan Khôi thường tự nhận là một nhà học giả, song đọc đoạn văn trên vừa rút ở bài của ông, tôi không thể coi là cách lý luận của học giả được; gọi là cái luận điệu của trạng sư thì đúng hơn. Cái bản thân của sự điều đình thế nào? Nó có hại và vô giá trị không, ông Phan hãy cùng tôi nghiên cứu" (Siêu Việt, An Nam tạp chí, số 43).
Phản đối việc Phan Khôi không chịu điều đình, Siêu Việt đã định nghĩa thế nào là điều đình theo nghĩa triết học. Ông viết: "Điều đình hay là tổng hợp cũng vậy, có khi thì là cái chung cục của một cuộc biến, mà có khi lại là cái mầm của một cuộc biến khác. Một lý thuyết dù hay dù dở, bao giờ cũng có một phái tán thành, hết sức duy trì lấy nó. Đồng thời lại có một phái khác phản đối lại. Bởi đó, sự xung đột của hai lý thuyết mà rút lại thì là sự điều đình vậy. Hết cuộc biến thiên này lại kế tiếp một cuộc khác, nhân loại tiến hóa không biết tới đâu mới là cùng" (An Nam tạp chí số 43).
Sau khi đã tranh luận với Phan Khôi về ý nghĩa của chữ điều đình, Siêu Việt lại thương xác với Phan Khôi về thái độ cực đoan của Phan Khôi. Cũng nhờ Siêu Việt mà ta biết Phan Khôi có chủ trương cực đoan. Siêu Việt trích lời Phan Khôi: "Đại phàm sự học nhờ ở sự cực đoan mà mới có tiến bộ. Nói về triết học, ai có khuynh hướng về duy vật thì cứ duy vật đi. Mỗi bên đều cứ theo chỗ mình tin tưởng dựa vào luận lý học và phát huy nghĩa lý cho tới cùng như vậy nền triết học mới càng ngày càng chói sáng thêm. Học giả bên Tây sở dĩ tấn tới mau lắm là nhờ đi theo con đường đó. Con đường đó là gì? Chẳng phải là sự quan ma tư ích cho nhau của hai cái thái cực duy tâm và duy vật là gì?" (Siêu Việt An Nam tạp chí số 43).
Trích lời Phan Khôi rồi, Siêu Việt lại bàn giải về vấn đề cực đoan như là một phương tiện trên đường khám phá chân lý. Như chỗ tôi hiện biết, thì hình như cuộc tranh luận đã ngừng lại ở đấy. Vấn đề tuy chưa ngả ngũ hẳn ra đàng nào, vụ án quốc học cũng khai mào cho việc đặt ra rất nhiều vấn đề văn hóa xã hội và hối thúc học giả đi vào con đường tìm kiếm, giải quyết: Văn học nhờ vậy mà tiến bộ rất nhiều.
6 - Vụ án thơ cũ thơ mới
Phạm Quỳnh chê thơ Đông Phương
Chẳng phải đột ngột, bất thần mà có cuộc cách mạng về thơ. Cuộc cách mạng ấy, thực ra, đã âm ỉ chuẩn bị từ lâu. Năm 1917, trên Nam Phong tạp chí, số 5, nơi bài "Bàn về thơ nôm", Phạm Quỳnh nhân đọc cuốn Cổ xúy nguyên âm của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến đã tỏ thái độ về thơ cũ mà ông coi luật lệ thực không có khác luật hình: "Người nào thuộc luật thì bằng trắc tất không lộn, vẫn tất áp, luật tất niêm, điệu tất xứng, đối tất chỉnh, sánh những khóe thôi sao, giỏi những cảnh xuất sáo mà gây nên những bức thanh âm tuyệt điệu; người nào không thuộc luật thì phạm phải những tội ghê gớm, đọc đến mà rùng mình: nào là tội thất luật, tội thất niêm, tội khổ độc, tội cưỡng áp, tội trùng ý, trùng chữ, điệp điệu". (Bàn về thơ nôm, Nam Phong số 5, Nov, 1917). Sau khi đã nêu lên những lề luật chật hẹp như vậy, Phạm Quỳnh chê tâm lý của cái thứ thơ ấy là thứ tâm lý đã bị sửa chữa thành ra giả tạo: "Người ta thường nói thơ là cái tiếng kêu tự nhiên của con tâm. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại cái tiếng kêu ấy cho nó hay hơn, trúng vần, trúng điệu hơn, nhưng cũng nhân đó mà làm mất cái giọng thiên nhiên đi vậy (Bàn về thơ nôm, Nam Phong số 5).
Sau đó, Phạm Quỳnh giới thiệu hai bài thơ, bài "Qua đèo ngang" của bà Huyện Thanh Quan, và bài "Soir en montagne" của Léonce Depont và trình bày cho độc giả nhận thấy thơ Tây tình tứ, dồi dào, siêu việt bao nhiêu, thì thơ ta giả tạo, tiểu xảo, gò bó bấy nhiêu. Và ngay từ hồi này Phạm Quỳnh hình như cũng mong có một sự đổi mới bằng sự bắt chước Pháp trong khi ông viết:
"Bọn ta ngày nay thực là đứng giữa nơi giao giới của hai cái tinh thần ấy, hai cái gặp nhau ở ta, nếu ta khéo ra thì có thể điều hòa được cái hay của hai đằng mà không mắc phải những khuyết điểm. Ta cứ nên giữ lấy cái lối tranh cảnh của ta nhưng ta nên rộng cái khuôn nó ra một tí mà bắt chước lấy cái vẻ thiên thú của người" (Bàn về văn nôm, Nam Phong số 5).
Phan Khôi chê thơ cũ trên Đông Pháp
Nếu năm 1917 đối với thi ca cũ, Phạm Quỳnh mới chỉ dám trách nó là quá ư nghiêm ngặt nhưng vẫn nhận nó là tuyệt xảo thì năm 1928 trên Đông Pháp thời báo, Phan Khôi đã dám táo bạo chê luật lệ thơ cũ của ta là trói buộc, tù hãm đã vậy mà lại còn thô tục nữa: "Song từ ngày đem thất ngôn luật vào khoa cử rồi thì thể ấy trở nên bó buộc quá mà mất cả sanh thú... Ấy chỉ là luật riêng dạy về lối làm thi trong việc khoa cử mà thôi, nào có phải cái phép tắc chánh truyền của nghề thi như vậy? nhưng mà ngày nay người ta cũng tuân theo, không biết cởi mình ra khỏi tróiThấy có một vài cuốn sách quốc ngữ tự xưng dạy phép làm thi mà cũng dạy theo lối thi khoa cử ấy, thì thật là tục quáThi quý cho nhã; mà đã tục thì còn dạy ai?" (Chương dân thi thoại, tr 46).
Nguyễn Văn Vĩnh và bài thơ con se sầu và con kiến
Cũng năm 1928 này, lần đầu tiên ta thấy xuất hiện trên Trung Bắc Tân văn, bài thơ đầu tiên không niêm, không luật, không hạn chữ, hạn câu: bài thơ dịch của Nguyễn văn Vĩnh La Cigale et la Fourmi:
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối.
Trịnh Đình Rư công kích thơ Đường
Năm 1929, Trịnh Đình Rư viết một loạt bài về vấn đề thi ca trong mục "Văn thơ với nữ giới" đăng trên Phụ Nữ Tân Văn mà ta có thể kể ra làm thí dụ tiêu biểu các số sau đây: số 18 (25-8-1929), số 19 (5-9-1929), số 26 (24-10-1929), số 29 (21-11-1929), số 31 (5-12-1929), số 33 (19-12-1929), số 62 (20-2-1930).
Trước hết ông trình bày cho ta thấy thi ca của ta từ xưa cho đến nay không phải dừng bến bỏ neo ở mãi một chỗ mà vẫn biến hóa từ đời này qua đời khác, từ chỗ nô lệ hoàn toàn đi đến chỗ vay mượn chế biến cho tới hình thức sáng tạo độc lập đặc thù.
Thực vậy, nơi số 13 ngày 25 Juillet 1929 Trịnh Đình Rư viết: "Văn chương theo từng thời vận mà biến đổi. Từ triều Lê trở về trước nhân dân ăn ở dưới quyền quân chủ, dân trí hãy còn thuần ngạc cho nên thơ văn về những thời kỳ ấy toàn là những giọng chất phác cả...Từ cuối đời Lê cho tới triều Nguyễn gần đây dân trí hơi mở mang dần, văn chương có điều lịch sự hơn trước, song cái tư tưởng về xã hội chưa có cho nên các nhà làm văn phần nhiều là chỉ tả cái chí khí, cái tâm sự cùng cái hứng thú của mình...
"Cách mười năm về trước đây, sự học nước ta đã thay cũ đổi mới, các nhà học giả đua nhau chuộng về văn quốc âm, song buổi đó là buổi quốc văn mới phôi phai, lại chưa chịu đủ cái sức trào lưu ở ngoài thúc giục, cho nên những tập văn thơ xuất bản về hồi ấy, toàn thấy những bài phi tình thì sầu, phi sầu thì phiếm, ngày nay thức giả cho là vô vị mà hồi đó ai cũng ưa chuộng ngâm nga?
"Văn chương là hồn nước. Hồn nước tỉnh dần thì văn cũng phải đổi mới...
"Ta thử xem ngay ông Nguyễn Khắc Hiếu. Năm xưa xuất bản những tập "Khối tình con" "Còn chơi" kể có biết bao nhiêu là văn thơ gọt nặn tỉ mỉ.
"Thế mà đến hồi năm kia ra chủ trương tạp chí An Nam cho đến sau vào viết bài ở Đông Pháp thời báo, thì thơ văn của ông thấy đã đổi hẳn ra giọng khẳng khái và hùng hồn không?" (Phụ Nữ Tân Văn số 13).
Trịnh Đình Rư cũng tố cáo sự chuyển hướng mãnh liệt nơi chính bản thân ông: "Kẻ viết bài này nhân cũng xin thú thực rằng: hồi năm 1919 đã có xuất bản một tập văn thơ nhưng sau tự xét thấy thiệt là vô vị nên sau đó những thơ văn làm ra có thể tiếp tục in thêm được vô số tập nữa, lại tự xét cũng không thấy ích gì cho xã hội, vậy đã quả quyết mà đem các bản thảo phó cho thần lửa thu hết." (Phụ Nữ Tân Văn số 13).
Sang đến số 19 (5-9-1929), nơi bài "Vì đâu mà chuộng thơ sầu cảm?", Trịnh Đình Rư nhìn nhận rằng hầu hết thi ca của ta lúc bấy giờ đều là thứ thơ sầu cảm rỗng tuếch, vô vị chứ đâu có được thứ sầu cảm to tát, sâu xa.
Sự sầu cảm vô vị và rỗng tuếch của thi ca Việt Nam, theo Trịnh Đình Rư, có lẽ vì nó bị gò bó bởi luật thơ Đường quá ư chật hẹp.
Có lẽ chính bởi vậy mà bài khảo luận sau đó, đăng Phụ Nữ Tân Văn số 26, 24-10-1929, Trịnh Đình Rư đã kịch liệt chống đối bài bác thơ Đường.
Trong bài này, Trịnh Đình Rư đả kích thơ Đường luật khá gắt gao: "Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy.
"Chính những nhà văn sĩ, nữ sĩ ở Trung Hoa gần đây, họ cũng ít chuộng thơ Đường luật này nữa, vì họ cho là một lối thơ bó buộc, làm cho người ta khó tả được hết cái cảm hứng. Cho nên họ có làm thơ, thì hoặc dùng lối "trường thiên" không có hạn vần, hạn câu, hoặc dùng các lối từ khúc không cần phải đối ghép tỉ mỉ. Ấy là lối thơ của họ mà ngày nay họ cũng đã tự cải cách rồi đó. Ta còn cứ thần phục lối thơ Đường, nô lệ thơ Đường mãi sao?".
Trịnh Đình Rư, tuy đả kích thơ Đường mạnh mẽ là thế, nhưng chưa có đề nghị một lối thơ mới nào cả mà chỉ mới dám đề nghị lấy thơ "lục bát", "song thất lục bát" thay thế mà thôi :
"Ngày nay ta nên biết rằng, hai lối thơ đó mới thiệt là thơ nước nhà, nó không có bó buộc người ta hạn câu, phải nặn chữ như là lối thơ Đường luật. Nề nếp của nhà, văn chương của nhà, tiếng nói của nhà, mà ta theo đòi luyện tập thì còn gì dễ hơn và hay hơn?" (Trịnh Đình Rư, "Có nên chuộng thơ Đường luật hay không?" Phụ Nữ Tân Văn số 26, 26-10-1929).
Ngoài ra Trịnh Đình Rư còn viết thêm ba bài ca ngợi những thể thơ hoàn toàn Việt Nam. Số 29 (21-11-1929 cực tán lối thơ lục bát: "Viết một bài thơ lục bát, chữ đã không cần phải đối, vần lại không phải đeo nhiều, vui bút kéo đến trăm câu, muốn gọn viết một bài vắn, cái thú hạ bút tự do toàn ở tác giả cả. Vả lại thơ lục bát còn có một cái thú nữa, là một bài thơ nếu có lời lẽ khá, có ý tưởng hay, thì người đọc dễ biết và dễ cảm".
Đến số 31 (5-12-1929) ông ca ngợi thơ song thất lục bát. Theo Trịnh Đình Rư, song thất lục bát chẳng những hay hơn thơ Đường mà còn hay hơn cả lục bát vì nó tự do, nó uyển chuyển hơn.
Sang số 33 (19-12-1929) ông đề cập đến một lối Ca mới mà ông cho là cũng thuần tuý Việt Nam và rất tự do: "Nay tôi lại xin nói đến một lối ca mới này, là một lối ca do điệu thơ lục bát mà thêm đặt ra thành từng câu. Lối ca này hiện ở ngoài Bắc đang thịnh hành lắm, thường đi chơi khắp kẻ chợ nhà quê, đến đâu cũng nghe có người hát điệu ca này; giọng hát thì nhiều người cho là giọng "sa mạc" còn điệu văn thì nhiều người cho là điệu ca "anh khóa"!
"Bởi sao gọi là điệu ca "anh khóa" bởi vì họ cho rằng khởi đầu từ bài "Tiễn chưn anh khóa" của ông Trần Tuấn Khải đặt in ở quyển "Duyên nợ phù sanh" xuất bản năm xưa" (Phụ Nữ Tân Văn số 33).
Cuối cùng đến số 42 (20-2-1930), nơi bài "Văn thơ nên trọng về ý tưởng", Trịnh Đình Rư lại đả kích thơ cũ vì gò bó về niêm luật mà ý tưởng phải bị hy sinh: "Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy". (Phụ Nữ Tân Văn số 42).
Cái ý tưởng này, Trịnh Đình Rư nhắc đi nhắc lại luôn qua tất cả năm sáu bài ta đã kể trên đây.
Phan Khôi kịch liệt đả kích thơ cũ và đề nghị cải cách: Làm bài thơ Tình Già
Nhưng phải đợi mãi đến ngày 18 tháng 3 năm 1932, Phụ Nữ Tân Văn, số 122, mới cho nổ trái bom nguyên tử vào thành trì thơ cũ làm cho nó hầu bị sụp đổ tan tành. Phan Khôi là người chỉ huy cuộc tấn công này. Thật vậy, trên Phụ Nữ Tân Văn số 122, ra ngày 18 tháng 3 năm 1932, Phan Khôi đã viết bài "Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ". Trong bài này, trước khi "trình chánh" một lối thơ mới của ông, Phan Khôi đã chĩa súng bắn tới tấp vào thành trì thơ cũ. Từ xưa ông vẫn làm thơ, mà rồi bẵng đi ông chẳng sáng tác được bài thơ nào nữa. Ông gặp ông Phạm Quỳnh, ông này khuyên ông nên làm thơ như cũ vì Phạm Quỳnh cho rằng đấy là nghề của Phan Khôi. Học giả họ Phan suy nghĩ và lấy lời ông Phạm Quỳnh làm phải và đã cố gắng làm theo ông Phạm Quỳnh nhưng chẳng đi đến kết quả nào cả. Phan Khôi đã bộc lộ tâm sự buồn chán, bất lực của ông mặc dầu trước đấy trong làng thơ ông cũng là tay đáo để, đã không làm thơ thì thôi chứ đã làm là phải hay cả. Ông viết: "Ông Phạm bảo tôi nên lấy lại thái độ ngâm thơ hồi trước. Trong đó tỏ ra rằng bấy lâu tôi đã bỏ mất hay là đã đổi cái thái độ ấy đi, nghĩa là bấy lâu nay tôi không ngâm thơ. Và quả thế, gần mười năm nay, tôi không có bài thơ nào hết, thơ bằng chữ gì cũng không có.
"Trước kia dầu tôi không có tên tuổi trong làng thơ như ông Nguyễn Khắc Hiếu, ông Trần Tuấn Khải, song ít ra trong một năm tôi cũng có được năm bảy bài, hoặc bằng chữ hán, hoặc bằng chữ nôm. Mà năm bảy bài của tôi, không phải nói phách, đều là năm bảy bài nghe được. Vậy mà gần mười năm nay mót lắm chỉ được một vài bài mà thôi, thì kể như là không có".
Mà Phan Khôi bảo ông không làm chẳng phải vì ông không muốn, không thèm làm mà thực là ông "mót" làm lắm mà làm không được. Ông đưa ra các lý do khiến ông không làm nổi bài thơ nào: "Xin thú thực với mấy ông thợ thơ. Không có không phải là tại tôi không muốn làm hay không thèm làm, nhưng tại tôi làm không được!
"Lâu nay, mỗi khi có hứng, tôi toan giở ra ngâm vịnh, thì cái hồn thơ của tôi như nó lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô cho án trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư? thì cụ Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực tôi làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói, lại nói ra được nữa, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi.
"Cái ý nào họ chưa nói mình muốn nói ra, thì lại bị những niêm, những vận, những luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ hoài, thật đã dễ tức".
Mà bởi tức như vậy, cho nên Phan Khôi chửi thơ cũ là giả dối, là đáng bỉ. Các bạn nên chú ý đến chữ "bỉ" mà Phan Khôi dùng để nói về thơ cũ: "Đại phàm thơ là để tả cảnh tả tình, mà hoặc tình hoặc cảnh cũng phải quý cho chơn. Lối thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất ngôn, tuyệt cú hay luật thể thì nó bị câu thúc quá. Mà dầu có phóng theo ra lối thất cổ...cũng vẫn còn bị câu thúc. Hễ bị câu thúc thì nó mất cái chơn đi, không mất hết, cũng mất già nửa phần.
"Tôi nhìn thấy trong thơ ta có một điều đáng bỉ, là bài nào cũng như bài nấy. Cứ rủ nhau khen hay thì nó là hay, chớ nếu lột tận xương ra mà xem thì chẳng biết cái hay ở đâu"
Nếu chỉ có thế thôi thì chẳng có gì là đặc biệt. Trịnh Đình Rư mà có lẽ cả Phạm Quỳnh nữa cũng đã chê trách thơ cũ gay gắt rồi.
Cái mới đặc biệt, có thể coi như quái gở nữa là khác đối với học giả đương thời là ở chỗ ông bày ra một lối thơ mới mà ông chưa biết gọi tên là gì.
"Bởi vậy tôi rắp toan bày ra một lối thơ mới. Vì nó chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên là lối gì được, song có thể cử cái đại ý của lối thơ mới này ra, là: đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu, có vận mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết".
Sau khi giới thiệu sơ lược như vậy về thơ mới của ông, Phan Khôi đã trình làng một bài thơ mới, bài Tình Già.
Tuy là một bài thơ mới đầu tiên, bài Tình Già của Phan Khôi đã táo bạo hơn cả những thơ mới ra đời sau đấy xét cả về cách gieo vần, cách đặt điệu, cách dùng tiếng vv... Câu thơ của Phan Khôi dài lượt thượt, câu ngắn nhất cũng trên mười chữ, câu dài nhất có tới mười sáu mười bảy chữ... Luật bằng trắc đã bị phá vỡ hoàn toàn, cho nên câu thơ của Phan Khôi còn gần văn xuôi hơn cả các thơ tự do ngày nay.
Sau khi trình làng thơ rất "hỗn loạn" của ông, Phan Khôi phải thanh minh rằng chẳng phải bởi lập dị hiếu sự mà ông làm như vậy, nhưng bởi ông thấy trên miếng đất thơ cũ ông đã mất chỗ đứng cho nên ông phải đi tìm đất mới. Ông chẳng dám tin rằng bài thơ của ông sẽ thành công vì mươi năm trước đã có người làm như vậy mà đã thất bại nhưng nói tiên tri rằng có người sẽ làm như ông mà sẽ thành công: "Chẳng phải là tôi hiếu sự, nhưng vì tôi hết chỗ ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm đất mới; mà miếng đất tôi kiếm được đó chẳng biết có ở được không, nên mới đem ra mà trình chánh giữa làng thơ.
"Chẳng phải tôi là người thứ nhất làm ra việc này. Hơn mười năm trước ở Hà Nội cũng đã có một vị thanh niên làm việc ấy mà bị thất bại. Tôi dại gì lại đi theo cái dấu xe đã úp? Nhưng tôi tin rằng cái lối thơ của ta đã hết chỗ hay rồi, dường như một chỗ đế đô mà cái vượng khí đã tiêu trầm rồi ta phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm chắc việc đề xướng của tôi đây sẽ thất bại lần nữa, nhưng tôi tin rằng sau này có người làm như tôi mà thành công".
Lưu Trọng Lư hưởng ứng thơ mới
Gương Phan Khôi có người soi ngay và lời tiên tri của ông đã ứng nghiệm (tôi tin rằng sau này có người làm như tôi mà thành công) đó là trường hợp của Lưu Trọng Lư.
Lưu Trọng Lư đã gửi cho Phan Khôi một bức thư đính kèm hai ba bài thơ mới được Phụ Nữ Tân Văn đăng số 153 đầu tháng 6 năm 1932, tài liệu mà sau này báo Phong Hoá cho đăng vào số Xuân, tức Phong Hoá số 31 ra ngày 25 Janvier 1933.
Trong bức thư này trước tiên Lưu Trọng Lư như có ý trách Phan Khôi đã đánh trống bỏ dùi trong lúc thi ca Việt Nam đang ở trong thời kỳ ngấp ngoải vì thi đàn lúc nhúc toàn tụi thị nhân rỗng tuếch; rồi ông mô tả thế nào là một "chân thi nhân"; sau đó ông hô hào canh tân thi ca nếu cần phóng túng buông lung thì cứ phóng túng buông lung đừng do dự ngần ngại; sau cùng ông khuyên người ta tin vào tương lai của thi ca lúc này mờ tối bấp bênh:
"Phan Tiên Sinh,
"Cách đây đã lâu, Tiên Sinh đã có đưa trình chính giữa làng thơ một lối thơ mới. Tôi đọc bài rồi tôi cứ đợi mãi đợi mãi mà sau tiên sinh không thấy có ai nối gót theo mà chính tiên sinh hình như cũng không muốn giở dói việc ấy nữa. Thế là thôi. Cái "của mới" ấy có lẽ chưa thích hợp với đời này. Mấy muôn độc giả đã yên trí như vậy, mà hẳn Tiên Sinh cũng từng chau mặt giậm chân mà nói rằng: Thôi, không ai ưa thì ta xếp nó lại đã, đợi khi khác ta lại mang ra". Thưa Tiên Sinh, đợi khi khác, khi nào nữa. Thi ca ta ngày nay đang lúc ngấp ngoải, không còn có lấy một chút sinh khí. Nếu không xoay phương cứu chữa gấp, thì ôi thôi, còn chi là tính mạng của thi ca?? Đừng có nói láy lắt như vậy tiên sinh ạ! Nếu tiên sinh cứ giữ mãi cái thái độ tiêu cực ấy thì bọn thi nhân "rỗng tuếch" kia còn cứ ca đi hát lại những câu sáo hủ nghìn xưa mà không thấy nở ra được những bậc thi nhân chân chính.
"Hẳn tiên sinh cũng hiểu rằng, những bậc chân thi nhân không bao giờ lại chịu đứng trong cái "lãnh thổ" hẹp hòi ngột ngạt, mà có thể đưa tâm hồn người ta lên tận mây xanh phảng phất trên những sự nôm na, phàm tục, vật chất hàng ngày.
Những nhà chân thi nhân, thà là chỉ rung động (vibrer) trong mình mình chứ không chịu xuất phát ra ngoài, mà để cho những cái niêm luật khắc khổ, làm đẹt mất cái hồn thơ lai láng mênh mông. Người ta thường khen Anatole France Tiên sinh trọn đời giữ được cái cốt cách thuần túy của thi nhân, chính là vì lẽ đó. Trong thi giới ta dễ thường được mấy người như thế? Phần nhiều nhà thi nhân cần phải xuất phát ra ngoài để cho nỗi lòng được nhẹ nhàng, hể hả.
"Nếu cứ phải uốn nắn theo khuôn khổ chật hẹp, như hiện tình thi ca nước nhà, thì họ phải thất vọng biết dường nào! Vậy ta còn ngần ngừ gì nữa, mà không mở rộng cái "lãnh thổ" kia ra, để mặc sức cho họ đem những cái thiên tài phú bẩm ra mà đua bơi vùng vẫy. Làm vậy, hoặc giả có kẻ hoài nghi mà bảo rằng: "Phóng túng buông lung quá rồi thành ra lộn xộn, mất cả nề thơ". Trong cái lúc quá độ, ắt phải như thế, có buông lung, có phóng túng mới có thể phát triển hết những cái rất hay, rất quí, rất đẹp trong mình, tuy có nhiều lộn xộn, nhưng một ngày kia thành thục rồi, sẽ trở vào trong những cái nguyên tắc lề lối, rộng rãi hơn, tự do hơn.
"Dám khuyên tiên sinh nên mạnh dạn một lần nữa mà tiến lên đường.
"Cái lối thơ mới của chúng ta là đương ở vào thời kỳ phôi thai, thời kỳ tập luyện, nghiên cứu. Không biết rồi đây nó đi được đến chỗ thành công, hay là nửa đường bị đánh đổ! Đó là sự bí mật của lịch sử văn hóa mai sau! Dầu thế nào đi nữa nó cũng có giá trị là giúp cho sự tự do phát triển của thi ca, đưa thi ca đến một chỗ cao xa rộng lớn, nó như thúc giục, như khiêu khích, như kêu gọi nhà thi nhân ra làm một cuộc canh tân dầu có thất bại, thất bại vì lòng mong ước quá cao, thì nó cũng đã hiến cho ta một cái công lớn: nó chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc đương triền miên trong cõi "chết".
Trong lúc ban đầu mà đã mong có những tay "Thầy thợ" chơn chính (véritables maitres) thật là không thể nào được. Nhưng trái lại, nếu có ai xem thường những người sáng kiến ra cái lối "thơ mới" kia, tưởng e rằng cũng đắc tội với tiền đồ văn học nước nhà lắm vậy". (Phụ Nữ Tân Văn số 153, tháng 6-1932).
Đồng thời với việc Lưu Trọng Lư làm công việc khen ngợi, hối thúc Phan Khôi bên Phụ Nữ Tân Văn, thì trên An Nam tạp chí số 39, ra ngày 30-4-1932, Vân Bằng, trong bài "Tôi thất vọng vì Phan Khôi", nhân trách Phan Khôi thất lễ với Nguyễn Tiến Lãng, đã mô tả Phan Khôi như là con người ưa lập dị, việc gì cũng muốn làm khác người. Vân Bằng đã có những mỉa mai sau đây về Phan Khôi  tác giả một lối thơ mới. "Vừa đây, ông lại ra công "sáng chế" ra một lối thơ "tân thời" tự do, đặc biệt, không cần niêm luật, tự ý vắn dài làm cho nhiều người "hoài cổ" phải ngậm ngùi thương tiếc. Tám vế "luật đường" có lẽ vì sự phát minh lối thơ mới này mà phải mai một đi chăng?
"Đó, cái công trình vĩ đại của ông Phan Khôi  đối với quốc văn là thế, cho nên văn tài ông được nhiều người bái phục, như ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng "bạn Phan Khôi" của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi là "Alphonse Daudet của Việt Nam" (Vân Bằng, An Nam tạp chí số 39, 30-4-1932).
Như vậy, có lẽ Vân Bằng là người đầu tiên chống lại nhà thơ mới Phan Khôi. Có điều là những điều nói mỉa mai của Vân Bằng về Phan Khôi chẳng dè lại hóa thành lời tiên tri. Quả thực là tám vế luật đường sẽ vì sự phát minh của Phan Khôi  mà bị mai một, và quả thực Phan Khôi  đã làm một công trình vĩ đại.
Nhưng ở ngay buổi đầu này, hình như những người nghĩ như Vân Bằng có lẽ đông hơn nhưng những người lên tiếng như Vân Bằng chưa có đông mà ngược lại những người làm công việc như  Lưu Trọng Lư có lẽ đông đảo hơn. Phong Hóa ngay từ số 14, ra ngày 22 tháng 9 năm 1932, đã lên tiếng kịch liệt đả kích thơ cũ và hô hào bênh vực thơ mới. Bài hô hào đó được trích nhắc lại trong Phong Hóa số xuân 1933, tức số 31, 24 tháng giêng năm 1933 với lời mở thế này: "Trong số báo 14, Phong Hóa đã bàn về những chỗ không hay, không hay vì bị bó buộc vào trong khuôn sáo của thơ đường luật". Tác giả bài ấy kết luận rằng "bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt, đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng. Nay bản báo nhận được bức thư của cô Liên Hương đề gửi cho ông Phan Khôi, nói về lối thơ điệu mới của ông, ý tưởng có nhiều chỗ giống với ý tưởng bản báo" (Phonh Hoá số 31, trang 16).
Lưu Trọng Lư đã từng gửi bài đăng ở Phụ Nữ Tân Văn số 153, vào tháng 6 năm 1932, rồi lại gửi đăng ở Phong Hoá số 31 ra ngày 24 tháng 1 năm 1933 vẫn chưa lấy làm thoả mãn nên tháng 5 năm 1933, khi cho xuất bản tập tiểu thuyết đầu tay, Người Sơn Nhân, ông còn cho đính kèm ở phần hai một bài đả kích thơ cũ ca ngợi thơ mới. Đó là bài "Một cuộc cải cách về thi ca".
Bài "Một cuộc cải cách về thi ca" này còn được kèm theo 14 bài thơ mới. Xét về nội dung bài "Một cuộc cải cách về thi ca" này, ta không thấy có gì mới mẻ hơn bức thư đã gửi cho Phan Khôi gần một năm về trước. Có điều là ở bức thư trước kia, Lưu Trọng Lư phàn nàn là chưa có ai hưởng ứng, còn ở đây Lưu Trọng Lư ghi nhận là trên văn đàn đã có khuynh hướng, tức đã có phong trào thơ mới:
"Gần đây trên trường văn học nước nhà thấy nảy ra một cái khuynh hướng mới lạ, mệnh danh là thơ lối mới, muốn cởi trói thi ca ra khỏi cái niêm luật khắc khổ. Biểu hiệu cho cái khuynh hướng ấy, đáng kể nhất có ông Nguyễn Thế Lữ ở báo Phong Hóa và cô Nguyễn Thị Kiêm ở Phụ Nữ Tân Văn. Cả hai coi bộ sốt sắng lắm. Nhưng cái "thi trào" ấy còn nóng mãi hay là sẽ nguội dần, đó là sự bí mật của lịch sử văn học tương lai ta không thể đoán trước được" (Người Sơn Nhân).
Sau khi nhận định như vậy về sự phôi thai của thơ mới, Lưu Trọng Lư tấn công thơ cũ, chửi thơ cũ, nhất là cái thứ thơ cũ được chế tạo rất giả hiệu đang bày biện ở các cửa hàng. Nó là thứ thơ chẳng thơ tí nào: "Một hôm tôi vào một rạp hát nọ tôi không biết là người ta diễn vở tuồng gì, nhưng khi tôi vào là nhằm khi một chú hề đương pha trò trên sân khấu. Chú bông lơn thế nào mà thiên hạ cười như lười ươi nắc nẻ mà tôi thì...khóc không được. Tôi tiu nghỉu ra đi, vẫn nghe tiếng cười vỡ rạp.
"Cái tiếng cười của rạp hát nọ đã chết rồi, vì nó lạt lẽo, vô duyên quá. Ai bảo thi ca nước nhà với tiếng cười ấy chẳng cùng chung một số phận. Ta thử tìm trong những cái vườn thơ của ta có gì là hoa thơm cỏ lạ đâu nào? Trong những bài thơ xuất bản trên các báo ngày nay, dưới ký cái biệt hiệu mỹ miều đó, rặt là những câu trần ngôn sáo ngữ, đúc đi luyện lại từ xưa đến nay, không thêm bớt, không sứt mẻ. Các tay thợ kia chỉ chuyên một mặt từ chương âm vận: lựa chữ cho kêu, tìm điển cho lạ, đem cái áo văn chương hoa hòe sặc sỡ mà mặc cho những cái tình cảm yếu đuối, những cái tư tưởng tầm thường.
"Cả một đám thanh niên rỗng tuếch, mềm nhũn, ươn hèn đều tấp tểnh tập thói rung đùi, nặn câu, cũng khóc thời khóc thế, khóc gió khóc giăng...Họ ca đi ca lại mà không thấy chán, những cái mà một Cống Quỳnh hay một cô Xuân Hương đã quên nhãng. Họ gây lên một cái phong trào làm thơ rất náo nhiệt, tưởng họ đưa được tâm hồn người ta lên phảng phất, tiêu diêu trên sự nôm na chật hẹp hàng ngày, nào hay chỉ tổ làm cho người ta thêm long tai điếc óc" (Một cuộc cải cách về thi ca, Người Sơn Nhân).
Một đoạn như đoạn trích trên đây cho ta thấy Lưu Trọng Lư đã đi xa hơn Phan Khôi. Phan Khôi mới chỉ chê thơ cũ xưa kia và thú nhận chính ông bất lực không làm nổi thứ thơ ấy nữa. Chứ Lưu Trọng Lư chẳng những chửi thơ cũ mà chửi tùm lum tất cả các người đang làm thơ cũ lúc ấy. Phải chăng vì vậy mà gây nên phản ứng mãnh liệt trong làng thơ cũ như các bạn thấy sau này.
Sau cùng Lưu Trọng Lư đã bộc lộ tâm tình của thế hệ trẻ đang khao khát cái gì mới mẻ, đang say sưa chờ đón những thay đổi, đến nỗi ông dã ví người "thanh niên Việt Nam ngày nay đương bơ vơ đi tìm người thi nhân của mình, như người con đi tìm mẹ". (Người Sơn Nhân):
"Ai cũng biết người thanh niên Việt Nam ngày nay đã chán nản về những sự chính trị ồn ào mà vô hiệu, đã thất vọng về những cái mộng tưởng mỹ miều mà giả dối. Người thanh niên Nam Việt ngày nay chỉ ao ước có một điều, một điều mà thiết tha hơn trăm nghìn điều khác là được có một nhà thi nhân hiểu thấu mình mà yên ủi mình, một bậc thiên tài lỗi lạc đi vào tận tâm hồn của mình, đến những chỗ cùng sâu, mà vạch những cái kín nhiệm uất ức, rồi đưa phả vào những cái âm điệu du dương cho mình được nhẹ nhàng thư thả. Một việc khó khăn như vậy, tưởng các người Tùng, Tuy ngồi đếm câu, chọn chữ mà làm được ư?
"Người thanh niên Nam Việt ngày nay đau đớn về những cái đau đớn mà nhà thi nhân Nam Việt chỉ ngồi ca hát những nỗi khổ buồn xưa. Còn gì chán bằng bắt ta buồn mãi cái buồn réo rắt, u uất của người cung nữ đời Tần? Còn gì khổ bằng bắt ta sầu mãi cái sầu dằng dặc, âm thầm của nàng chinh phụ?"
"Người thanh niên Nam Việt ngày nay đương bơ vơ đi tìm người thi nhân của mình, như con đi tìm mẹ. Có ai thấy cái tình cảm thảm thiết ấy không?" (Người Sơn Nhân).
Lưu Trọng Lư xuất bản "Người Sơn Nhân" vào khoảng tháng 5 năm 1933. Cuộc chiến giữa thơ cũ và thơ mới bùng ra dữ dội từ đấy. Hoài Thanh và Hoài Chân, trong bài tựa "Một thời đại trong thi ca", đã phác họa lịch sử thi ca trong vòng mười năm 1932 đến 1942, nhất là đã ghi nhận cuộc chiến bùng ra giữa thơ cũ và thơ mới.
Các phe bênh thơ cũ
Sau đây là phe phái bênh thơ cũ:
"Aout 1933, một tuần sau cuộc diễn thuyết thứ nhất của cô Nguyễn Thị Kiêm, ông Tân Việt, bỉnh bút báo Công Luận, bênh vực thơ cũ tại diễn đàn hội Khuyến học Saigon. Octobre 1933: Văn học tạp chí, Hànội, chê các nhà thơ mới không biết cân nhắc chữ dùng.
"Novembre-décembre 1934: Tản Đà nói chuyện thơ mới, thơ cũ trên Tiểu thuyết thứ bảy.
"Décembre 1934: Trên Văn học tạp chí ông Hoàng Duy Từ phản đối bài diễn thuyết của ông Lưu Trọng Lư tại nhà học hội Qui Nhơn.
"9 Janvier 1935: Ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết tại hội Khuyến học Saigon.
"6 Janvier 1935: Ông Nguyễn Văn Hanh lại diễn thuyết tại hội Khuyến học Saigon cùng hôm với cô Nguyễn Thị Kiêm (diễn thuyết tranh luận).
"Avril 1935: Hai ông Tường Vân và Phi Vân xuất bản tập thơ cũ "Những bông hoa trái mùa" ở Vinh.
"Juin 1935: Ông Tùng Lâm Lê Cương Phụng công kích thơ mới trên Văn học tuần san, Saigon.
"Avril 1936: Ông Thái Phỉ công kích thơ mới trên báo Tin Văn Hànội.
"Aout 1937: Ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết ở hội Quảng Trị Huế.
"Juin 1941: Ông Huỳnh Thúc Kháng, sau nhiều lần chỉ trích và mạt sát, nói quả quyết rằng thơ mới đã đến ngày mạt vận" (Hoài Thanh, Thi Nhân Việt Nam, trang 22).
Các phe bênh thơ mới
Về phía các nhà bênh thơ mới, Hoài Thanh ghi: "Từ hai tháng trước, hôm 26 Juillet 1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn hội Khuyến học Saigon hết sức tán dương thơ mới. Hội Khuyến học Saigon thành lập đến bấy giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như thế.
"Nối gót cô Nguyễn Thị Kiêm, còn nhiều diễn giả cũng theo một mục đích: dành lấy phần thắng cho thơ mới.
"Juin 1934: Ông Lưu Trọng Lư diễn thuyết tại nhà Học hội Qui Nhơn.
"Janvier 1935: Ông Đỗ Đình Vượng diễn thuyết tại hội Trí Tri Hànội.
"Janvier 1935: Cô Nguyễn Thị Kiêm lại diễn thuyết tại hội Khuyến học Saigon để tranh luận với ông Nguyễn Văn Hanh.
"Novembre 1935: Ông Vũ Đình Liên diễn thuyết tại hội Trí Tri Nam Định.
"Février 1936: Ông Trương Tửu diễn thuyết về thơ Bạch Nga tại hội Khai Trí Tiến Đức Hànội". (Thi Nhân Việt Nam trang 19).
Cứ kể bằng ấy mà thôi thì đã thấy Vụ án Thi ca đã là rầm rộ, gay go, sôi nổi lắm. Rất tiếc rằng hầu hết các bài diễn văn đôi bên bài bác nhau mà Hoài Thanh Hoài Chân nhắc đến trong bài "Một thời đại trong thi ca", hiện lúc này tôi không có trong tay. Tôi mong các bạn sẽ bồi bổ vào bằng việc đi tìm ở các thư viện ở tỉnh, ở các thư viện tư gia.
Nhưng dù thiếu chưa tìm ra các tài liệu mà Hoài Thanh nhắc tới, nhưng một tài liệu tôi hiện có trong tay đã thấy nhiều rồi và càng chứng tỏ chưa có một vấn đề nào, ngoài vấn đề truyện Kiều, đã được văn giới sốt sắng tham gia góp ý kiến hay quyết liệt bênh vực cho bằng vấn đề thơ Mới thơ Cũ.
A- Mặt trận bênh thơ mới (1)
Phong Hóa bênh Thơ Mới
Tôi nghĩ gọi phe bênh thơ mới đả kích thơ cũ là một mặt trận cũng không là quá đáng: chính bọn họ khai chiến, ngay cả lúc bên mà họ cho là địch không có ai ra ứng chiến. Thực vậy, lai rai từ lâu trước với Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trịnh Đình Rư và ngay cả chính Phan Khôi, nhưng đến năm 1932 lại cũng chính cái ông Phan Khôi lai rai lúc đầu đã ra tay làm cách mạng. Bỏ ngoài phần lớn các tài liệu mà Hoài Thanh và Hoài Chân đã trưng ra ở đầu cuốn Thi Nhân Việt Nam của các ông vì chưa tìm ra, tôi xin phép trình bày với các bạn theo tài liệu những sách vở báo chí mà tôi có trong tay. Tôi mong các bạn hợp tác với tôi để bổ túc vào sau. Vậy cũng theo chỗ tôi biết hiện nay thì, tuy báo Phụ Nữ Tân Văn đã là nơi xuất phát trận tuyến do Phan Khôi chỉ huy, nhưng tham gia thật sự vào trận mạc lúc ban đầu này lại không phải Phụ Nữ Tân Văn mà là tuần báo Phong Hóa của Tự Lực Văn Đoàn.
Ngay từ số 14, ra ngày 22-9-1932, Phong Hóa, như các bạn đã thấy ở trên, đã có lời chửi thơ cũ và hô hào theo thơ mới: "Bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt, đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng".
Thực ra, đòi cho thơ phải mới về tinh thần tức mới ý tưởng thì đã có nhiều người nói từ lâu rồi, nhưng mới về văn thể thì chỉ có từ Phan Khôi (Phụ Nữ Tân Văn số 122, 10-3-1932).
Tiếp sang Phong Hoá số 15 ngày 29-9-1932 nối bài "Sầu thảm nhiều rồi", Việt Sinh chẳng những chửi thơ cũ mà chửi tất cả văn chương theo lối cũ là chỉ biết khóc, khóc một giọng rên ư ử từ ngàn xưa: "Xã hội ta xưa nay vốn là một xã hội tiêu điều nhạt nhẽo. Hơn một nghìn năm chịu đè nén dưới đạo Khổng đứng đắn nghiêm trang, hiểu lầm chăng, nên chỉ khuôn con người ta vào vòng lễ phép chật hẹp vô cùng.
"Nói không dám nói mạnh, cười không dám cười to, cái gì cũng như bó buộc, cằn cỗi già sói...
"Văn thơ của ta gần đây thực như khóc như đầm đìa huyết lệ. Một chữ là một giọt nước mắt để ngậm ngùi cho "Đạm Thủy với Tố Tâm", xót thương cho "Lê Ảnh với Mộng Hà"...Ta hãy nghe ông Trần Tuấn Khải an ủi lòng người "Anh ơi! anh ngồi xuống đây, anh xơi chén rượu này, anh nằm ngủ, anh ngủ cho say...kiếp trần thong thả ngày là tiên!". Ấy thế mà chưa ai ngủ, chỉ riêng Trần Tuấn Khải đó "phận kém duyên hèn" này mới tự mình ru ngủ lấy mình đến nay ông thật ngủ yên rồi mà ngọn bút quan hoài hẳn từ nay ráo mực. Ông Đặng Trần Phất cũng đã yên giấc ngàn năm không bao giờ dậy nữa...
"Mà nào đã hết cái "thái sầu muôn kiếp không tan được" của bà Tương Phố, cái "tân sầu" khóc ve kêu hoa soan rụng của ông Nguyễn Tiến Lãng đã làm rơi biết bao nước mắt" (Phong Hóa số 15, 29-9-32).
Rồi cũng trên Phong Hóa số 15 ấy, nơi bài "Quốc văn nó đi như sao?" với một giọng châm biếm tác giả khi thì nhái văn Tản Đà, khi thì nhái văn Hoàng Tích Chu, đã viết một lối văn bông đùa để chửi khéo tất cả các nhà thơ cũ: "Cho đến ngày nay thì biết bao nhiêu văn nhân thi sĩ toàn loạt trứ danh nào Hiếu Nguyễn Khắc, nào Bi Hoàng Tăng, nào Quỳnh Phạm, nào Dư Lê, nào Việt An họ Nguyễn, nào Tuấn Khải họ Trần kể có vài muôn, nhớ tên sao viết vậy (Phỏng theo lối văn Đức Trần Hưng Đạo)...số văn sĩ nhiêu phong như thế thì đáng lý ra quốc văn được bành trướng một cách cấp tốc lắm mới phải! hà cố các áng văn tuyệt tác về vận văn, về tản văn vẫn hạn hữu? Vì cứ tầm quan sát của bỉ nhân thì chỉ về vận văn mấy tập Kim Vân Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán ngâm khúc,còn dáng đăng lục luận đề, chứ về tản văn thì thực tịnh vô nhất quyển" (Phỏng theo văn Phạm Quỳnh)...
"Thiếu ý sáng kiến, lối văn mới ta không có một. Thành thử không ai có "Xịch tin" riêng. Ta viết bá láp: lăng nhăng. Hoặc ta theo người xưa: lòng thòng. Còn ý tưởng? Càng tệ càng cũ không mấy khi dám bước ra ngoài lũy tre trí thức nước Lỗ (Khổng Mạnh) và nước Sở (Lão Tử).
" Quốc văn muốn giàu. Phải có nhiều lối, nhiều lối mớiLối cũ nào không hợp thời: ta phích!
"Lại phải có tư tưởng mới!
"Mới lên!
"Nào chúng ta nhúng tay vào làm việc" (Phỏng theo lối văn Hoàng Tích Chu)
Từ đó, hầu như chẳng có số báo nào mà Phong Hóa không dành dăm ba bài để chửi bới, trêu chọc tất cả các nhà văn, nhà thơ cũ. Nhưng mũi dùi hình như chĩa thẳng vào lãnh tụ của thơ cũ là Tản Đà.
Phong Hóa, số 28, 30-12-1932, nơi bài "Họa nguyên vận", đã mô tả Tản Đà là anh say rượu:
"Anh lên giọng rượu khuyên Phong Hóa 
Sặc sụa hơi men khó ngửi quá 
Đã dạy bao lần tai chẳng nghe 
Hẳn còn nhiều phen mồm bị khóa! 
Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu! 
Lưỡi ngắn thì nên co lại nhá! 
Phong Hóa mà không hóa nổi anh, 
Túy nhân quả thực là nan hóa "
Chẳng phải vô tình mà Phong Hóa đánh các nhà thơ cũ: nó nằm trong chính sách văn học của Tự Lực Văn Đoàn mà chính sách của hội nhà văn này là theo mới. Dĩ nhiên, Thơ Mới phải được Tự Lực Văn Đoàn tích cực bênh vực. Như tôi đã nói gián tiếp ở phần trên, nơi bài "Lối Thơ Mới (P.H. số 31, tức số Xuân 1933), trong khi cho đăng bức thư Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới, Phong Hóa đã nhắc lại lập trường của họ đối với thơ mới, lập trường mà họ đã bày tỏ từ số 14 ra ngày 22-9-1932: "Trong số 14, Phong Hóa đã bàn về những chỗ không hay, không hay vì bị bó buộc vào trong khuôn sáo của lối thơ Đường luật...Nay bản báo nhận được bức thư của cô Liên Hương để gửi cho ông Phan Khôi, nói về lối thơ điệu mới của ông, "ý tưởng có nhiều chỗ giống với ý tưởng của bản báo. Vậy bản báo vui lòng đăng lên mục văn học và sẽ lục đăng các bài thơ mới của các bạn thi nhân" (Phong Hóa số 31, 25-1-1933).
Thế là từ đây, ngoài việc viết bài chửi thơ cũ, bênh thơ mới, Phong Hóa còn chú trọng nhất đến việc đăng tải "thơ mới của các bạn thi nhân" như họ vừa hứa.
Việt Sinh chê thơ cũ
Thực vậy, cùng ở nơi số 31, tức số Xuân này, Việt Sinh và Nhất Linh đã chế giễu các ông làm thơ cũ:
Việt Sinh chế Nguyễn Tiến Lãng làm thơ sáo, đánh cắp văn mà không biết: "Trong bài nhớ Tết năm ngoái "ở sách" Xem tết", ông Lãng hồn thơ lai láng, cảm vì xuân nên "vụt nghĩ" ra hai câu thơ:
Bức tranh vân cẩu treo rồi xóa
Gánh nợ tang bồng trả lại vay!
"Vì ông Lãng "Vụt nghĩ" nhanh quá, nên ông quên không nhớ đến hai câu thơ Vịnh nhà hát San nhiên năm xưa:
"Bức tranh vân cẩu treo rồi cuốn
"Một cuộc tang thương xóa lại bày!
"Nếu chúng ta không nhầm thì hai câu dưới cũng hơi hơi giống hai câu trên. Mà nếu chúng ta không nhầm thì cái "Vụt nghĩ ra" của ông Lãng nó "cũng lâu lâu thì phải".
Sau Nguyễn Tiến Lãng thì đến Trần Tuấn Khải là một nhà thơ lừng danh ở thế hệ trước, cũng bị Việt Sinh chửi là nhai lại cái cũ rích thành ra đạo văn:
"Trong "Sách chơi xuân" của Nam Ký, ông Á Nam vì Xuân làm bài thơ rất hay, rất mới:
"Một đời được mấy gang tay,
Một năm được mấy mươi ngày là xuân
Gặp xuân ta phải chơi xuân
Kẻo mai hạ tới thì xuân không chờ!"
"Hay tuyệt! Câu đầu, cả ý lẫn chữ là câu sáo cũ. 
"Câu thứ hai cũng hay như câu thứ nhất. 
"Câu thứ ba cũng hay như câu thứ hai. 
"Còn câu thứ tư không hay thì là của ông Á Nam".
Còn Nhất Linh thì chế diễu thơ của Phương Lang: "Vậy tôi chỉ nói đến bài thơ của ông Phương Lang và xin chép lại bài thơ ấy ra đây lần nữa:
Mặt bẩn sao chưa lau?
Con ra lấy cái thau
Đổ nước mang khăn mặt
Mau!

"Thơ như thế sao gọi là thơ được. Đó chỉ là mấy câu sai con mà có vần. Bài sai đầy tớ của Ôn Như Hầu cũng chỉ là mấy câu sai đầy tớ mà có vần và đúng khuôn phép niêm luật. Nó cũng như thơ con cóc mà thôi...
"Nhất Linh lại xin bắt chước ông Phương Lang  làm bài thơ như thế nữa:
LẠC QUAN
Trông vào nồi, cơm hết.
May còn miếng cháy ròn
Ăn với cá kho mặn,
Ngon!
MỪNG KHỎI BỆNH
Tay tôi mụn ghẻ đầy
May sao gặp thuốc hay
Bôi được một tuần lễ
Khỏi ngay!
"Chắc ông Công Luận phục hai bài thơ này lắm, vì theo ý ông tôi đã tránh được những tiếng cao nhã (mots nobles) mà toàn dùng cái giọng thông thường (langage vulgaire) đi thẳng một hơi trôi chảy vô cùng" (P.H. số 31).
Tứ Ly chế diễu Tản Đà
Sang số 34, 17-2-1933, Tứ Ly lại diễu Tản Đà trở lại: "Ông Hiếu với thầy Nhan Hồi. Trước kia Tứ Ly ví ông Hiếu với anh Tề Ngã. Nhưng nghĩ cho kỹ, có lẽ ông Hiếu giống thầy Nhan Hồi. Thầy Nhan Hồi đeo bầu, ông Hiếu cũng đeo bầu. Bầu Thầy Nhan Hồi đựng nước. Bầu ông Hiếu cũng đựng nước. Nước trong bầu Thầy Nhan Hồi không có men. Nước ông Hiếu lại có men. Cũng vì thế, ông Hiếu giống thầy Nhan".
Nếu Tứ Ly viết văn xuôi nhạo Tản Đà thì Vân Dương làm thơ, mà là thơ mới chửi xỏ Tản Đà, tuy không có gọi tên tuổi Tản Đà:
"Ngày xuân ngồi ngắm hoa thuỷ tiên 
Lòng thơ bỗng thấy sôi nổi lên 
Bắt chước thi nhân ngồi bóp trán 
Cố vịnh một bài "đứng ngoài hiên". 
Ngoài hiên đứng chờ người bạn quen 
Chờ mãi khống thấy dạ ưu phiền 
Mây bay, gió thổi, lá bàng rụng 
Thi nhân bất nguyện càng buồn thêm 
Không thấy bạn quen, ôi ! một thú 
Thà vào trong nhà đắp chăn ngủ 
Nghĩ vậy vừa toan quay lưng vào 
Bỗng thấy một người nắm cái hũ, 
Người đó ung dung đi lại gần 
Cất giọng lè nhè "Kìa Dương quân, 
Ngày tết sao không say túy lúy 
Tội gì đứng đấy, rét cực thân". 
Chưa kịp trả lời, khách lại nói: 
"Người trần ai cũng có tội lỗi 
Nên ngày hăm ba cúng ông Táo 
Để ngài lập bô cho ít tội. 
Chẳng biết ông có cúng gì không? 
Riêng tôi chẳng dám để ngài giận 
Một cái tầu bay, nghìn tờ công, 
Gọi chút "vi thiền" dâng ngài nhận 
Thế giới có lắm sự khốn nạn 
Tôi đều liệt vào tờ cáo trạng 
Đốt, nhờ ông Táo đem lên trời 
Để Đức Ngọc Hoàng coi, xét đoán 
Này, đứa ngông cuồng, ưa theo mới 
Đứa đem quốc tuý, riễu trên báo 
Bọn gái đua nhau, mở, lập hội 
Tôi đều liệt vào trong tờ cáo 
Phải chăng lời tôi nói là đúng 
Bác có cùng tôi cùng một bụng 
Thôi, nói lâu rồi, tôi xin về, 
Về nhà còn phải sửa cỗ cúng..." 
Khách khom lưng chào, ung dung đi, 
Tôi nhịn không được, bật cười khì 
Khách ngoái cổ lại, trợn mắt quát: 
- Ô hay Bác này giống người gì!"
Tứ Ly chế thơ cũ trong vở kịch "Tuồng cổ tân thời"
Chẳng những viết văn xuôi chửi Tản Đà, làm thơ diễu Tản Đà, Phong Hóa còn soạn kịch bêu xấu thi sĩ Núi Tản Sông Đà. Tứ Ly soạn vở tuồng lấy tên là "Tuồng cổ tân thời  đăng liên tiếp trên năm số Phong Hóa, tức các số 38 (17-3-1933), số 39 (26-3-1933), số 40 (31-3-19363), số 41 (7-4-1933), số 42 (14-4-1933).
Trong vở "Tuồng cổ tân thời" này, các nhà văn nhà thơ cũ được trình bày như là tập hợp nhau uống máu ăn thề lập sào huyệt để đánh cướp và thanh toán bọn Phong Hóa Tự Lực Văn Đoàn. Chủ trại là Hoàng Tăng Bí, tham mưu là Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Văn Vĩnh, lâu la là các ông Nguyễn Tiến Lãng, Dương Bá Trạc, Nguyễn Công Tiễu, Trịng Đình Rư, Lê Công Đắc vv... Còn bên địch là cả tụi Phong Hoá, nhất là Tứ Ly, Việt Sinh, Nhất Linh, Nhát dao cạo... Cuộc tranh hùng được trình bầy cực gay cấn, sôi nổi, tàn nhẫn nhưng cũng cực là trò hề, buồn cười, tố cáo cái ngây ngô, nhiều khi ngu xuẩn của phe cũ.
Cuộc giao phong của phe cũ tuy nói thì hăng lắm mà vào việc chưa gì đã mỗi anh chạy tháo thân, kết cục bị Phong Hoá đánh tan tành. Sự tan tành của đảng bí mật trong Tuồng cổ tân thời là sự tan tành của lớp văn sĩ, thi sĩ cũ trước sức đi lên của bọn văn sĩ thi sĩ mới vậy. Thực thế, Tứ Ly đã đặt vào miệng của các nhân vật cũ những lời lẽ ngây ngô, và để vào người họ những cử động điên khùng, khiếp nhược. Tôi chỉ trích cho các bạn nghe một vài đoạn Tứ Ly đặt vào miệng Tản Đà, vị tướng soái của làng thơ cũ. Đây Tản Đà hét nhạc:
"Tản Đà thi sĩ, Khắc Hiếu nãi danh, làm tham mưu lạm dự chút quyền, chỉ một việc rượu chàn quí tị, thơ sẵn có khối tình bé tí, văn thời nào mộng lớn, mộng con, rượu càng say ngâm giọng càng ròn, tiếng ngông đã vang trời dậy đất.
"Ngâm:
Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười

"TÁN: Rứa mà chừ, có tin chủ trại triệu đến trướng tiền việc dữ lành chưa rõ căn nguyên, mau tới đó cho tường hắc bạch.
"Cười nói: Kha kha! hay chủ trại nhớ tên lính cũ, phố hàng Bông bán đủ hạng văn, mà bây giờ cho uống cho ăn, để cho được say lăn lóc (Tham mưu Hiếu cầm hũ ra)...
"Hữu tham mưu Hiếu rót rượu uống.
"TÁN: Say chuyếnh choáng non xanh còn chẳng thấy, thời mưu cao kế diệt biết đâu tìm, hay bây giờ bọn ta hoá ra chim, theo giấc mộng bay về nơi tiên cảnh, hay bây giờ ta đem rượu cúc rủ quân thù đặng chén say sưa, bao giờ cho say đứ say đừ, khi ấy sẽ ra tay trừ khứ!
"(Nói đến đây, hữu tham mưu tuý luý, gục xuống bàn không còn biết gì nữa) (Hồi thứ thứ nhất số 38 17-3-1933).
Sang đến hồi thứ hai (Phong Hoá số 40, 31-3-1933), Tứ Ly cho Tản Đà ra nghênh chiến với bọn Phong Hoá :" Trong thành Phong Hoá vẫn có tiếng cười đáp lại : Ha ha ! (Tả tham mưu Hiếu a bạch :- Thét -): Bớ a!
"Phong Hoá! Phong Hoá! Bọn ngươi thực là láo quá, ta đây còn chẳng xá kể chi, ta say sưa nào có hại cái gì, mà chẳng để tuỳ ta sở thích. Ta đây giống Lưu Linh thủa trước, đích thực là Lý Bạch đời nay, trừ bọn mi, ta quyết ra tay, đem thành quách thu vào trong hũ.
"(Hát khách):
Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tham mưu Hiếu mở hũ ra say lảo đảo)
"TÁN: Cái thành, cái quách nó ngả, nó...với giềng, hỡi đồ mách qué.
"NGÂM:
Văn minh Đông Á trời thu sạch
Này lúc luân thường đảo ngược ru? " (Hồi thứ hai).
Cũng lại Tứ Ly trong mục "Từ nhỏ đến lớn" (P.H. số 56, 21-7-1933), đã lấy số tử vi cho nhà thơ Tản Đà một cách rất ư là "xỏ lá" nói theo tiếng Phan Khôi:
"Số ông Nguyễn Khắc Hiếu
"Lấy văn chương mà suy xét thì ông ấm Hiếu đáng lẽ cũng được văn khúc, văn xương như ông cử Trạc, nhưng xét đến đường công danh thì không có thể được: hoặc giả văn xương phùng hình cho nên lao lực linh đinh, chịu làm ông ấm suốt đời chăng? Nếu thế thì di hận biết thủa nào nguôi.
"Nhưng ông được sao tham lang thủ mệnh, nên lòng hận của ông không lâu. Vì có câu rằng:
"Tham lam tính bẩm thung dung,
Say miền gái đẹp rượu nồng mùi ngon.
"Gái đẹp thì không có, hay có cũng không được biết, chứ rượu nồng thì hẳn ông không còn chối vào đâu được!
"Nhưng thế cũng chưa đủ: ông còn là người cả lo, ông lại còn là một nhà thi sĩ. Nếu vậy thì mệnh ông còn phải có các sao bạch hổ, tang môn quan phù điếu kháchhoặc chính vị hoặc phụ chiếu. Vì rằng:
"Hổ tang chẳng việc mà lo.
"Quan phù điếu khách hay phô rộng nhời.
Rồi cũng nơi Phong Hoá số 56, 21-7-1933, Tú Mỡ đã làm bài văn tế viếng báo An Nam tạp chí của Tản Đà vừa chết một cách, theo tiếng nói của Phan Khôi, vừa xỏ lá vừa ba que.
Đây các bạn thử đọc bài văn tế đó. Thật là tàn tệ.
"Ngày 12 tháng năm dư năm Quý dậu:
"Ngu hữu là Phong Hóa tuần báo đứng trước linh vị An Nam tạp chí, hậm hực mà than rằng:
- Đỉnh non Tản mây đen mù mịt, quấn băng tang lặng lẽ âu sầu (1),
- Giải sông Đà nước xám lờ đờ, cuộn giòng lệ rền rĩ buồn bã (2).
- Than như không mà khóc cũng như không,
- Im cũng giở mà nói ra cũng giở.
- Nhớ bạn xưa:
- Giấy trắng mực đen,
- Nhà không tiếng cả,
- Dượng tiểu nghiệp văn chương đất Bắc, kế sinh nhai khen đã cố công thay!
- Lấy đại danh tạp chí nước Nam, tuyên chủ nghĩa thực đà to truyện quá!
- Duy trì đạo đức, dương Đông kích Tây.
- Bồi bổ văn minh, dung Âu, hợp Á.
"Nhồi độc giả năm pho kinh cổ, nhai lại chi, hồ, giả, dã, rõ cơ quan tiến thủ giật lùi, 
"Ru quốc dân hay hũ thơ sầu, mơ màng tiên, cuội, trời, răng, khiến niên thiếu liên miên bả lả. 
"Ố kim Nệ cổ, đã từng phen nắm đuôi ngựa Phan Khôi. Ghét cợt, chê cười, còn nhớ trận vuốt râu hùm Phong Hóa. 
" Dằng dai như đỉa đói, chết đi sống lại bao lần, 
"Siêu bạt tựa vịt trời, nay đó mai đây mấy thủa. 
"Hơn bẩy, tám năm lăn lóc, khi Hà-thành, khi Nam-định ngoẻm trăm ấy, veo nghìn khác, than ôi, thua vẫn hoàn thua ; 
"Non ba mươi tháng vật vờ, hết Hàng lọng đến Hàng khoai, thay dạng nọ, đổi hình kia, ngán nỗi khá không thấy khá. 
"Vẻ vang thay nghìn rưởi số in, 
"Hân hạnh lắm được một trăm độc giả. 
"Cứ tưởng tạm ngơi ít bữa, lấy đà dưỡng sức, cho qua thời kinh tế lung lay. 
"Nào hay đánh giấc nghìn thu, bặt tiếng im hơi, chẳng thoát nạn lý tài trắc trở. 
"Hay là ngán trần tục, viết văn không kẻ hiểu, luống uổng công phu. 
"Cho nên thăng thiên đường, tái bản để Trời xem cho cao phẩm giá.
"Than ôi!
"Cùng làng ngôn luận, tân cựu đôi đường,
Nửa kiếp kinh doanh, âm dương hai ngả,
Bâng khuâng luống xót xa lòng,
Tưởng nhớ thêm ngao ngán dạ,
Vừa độ nào ta đây bạn đó, 

điều phải chăng còn rũa bút luận bàn,
Mà bây giờ kẻ khuất người còn, 

thơ chua chát biết cùng ai xướng hoạ.
Thôi ! chẳng may mỏng phận ngắn đời,
Song nay đã yên mồ đẹp mả.
Ngu hữu gọi là lễ mọn vi thiềng :
Rượu lậu một bầu, trứng tươi hai quả ;
Mực nướng vài con, sò huyết một tá,
Bạn có khôn thiêng,
Xin về chứng quả.
Thượng hưởng.
TÚ MỠ

Tứ Ly chế thơ cũ trong hài kịch "Hội nghị Văn học"
Trong một hài kịch, một hồi một cảnh, tiêu đề là "Hội Nghị văn học", diễn viên gồm có các ông Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, Phạm Lê Bổng, Phan Khôi, Nguyễn Công Tiểu, Lê Dư, Tùng Vân, tay hài hước Tứ Ly lại một lần nữa đưa các nhà học giả ra làm trò cười. Mà nhân vật được chọn làm hề số một vẫn là vị nguyên soái của làng thơ cũ, thi sĩ Tản Đà:
"Ông Nguyễn Khắc Hiếu (ngồi một xó, mặt đỏ gay, từ nẫy, chốc lát lại thò tay vào bọc lấy bầu hồ lô ra nốc, loạng choạng đứng dậy): Thưa các ngài, Viện ta là Hàn lâm viện về... (giọng rượu) văn chương, không phải về khoa học, ông tú Khôi lý luận xằng xì! (lau trán). Văn chương là...là... (lưỡi líu dần) mâm gỏi... là... rượu. Cổ nhân có câu "hỏa nhập thi xuất", tưởng anh em ta nên uống rượu cho nhiều, rồi làm việc mới có ích cho nước.
"Nhát dao cạo: Cho rượu...
"Ông Hiếu: -..Tôi nói gì rồi nhỉ...(cố nghĩ) À phải...nên nhắm rượu...(rút hũ rượu ra) mời các ngài, văn chương là... thịt chim (say quá ông ngã gục xuống hũ rượu ngủ...) "
Như vậy, các bạn thấy, buổi đầu này, Phong Hoá xem ra chưa bày tỏ lập trường minh bạch về thơ mới, thơ cũ mà thường chỉ làm hai công việc : một là đem ra chế diễu các nhà thơ cũ, nhất là vị lãnh tụ thơ cũ là Tản Đà được mô tả như là anh chàng hề điên điên khùng khùng; hai là trịnh trọng cho đăng vào chỗ đích đáng trên hầu hết các số báo những bài thơ mới của Tú Mỡ, của Thế Lữ, của Nhất Linh, của Tứ Ly, của Huy Thông v.v...
Nhưng vào khoảng cuối năm 1933 sang đầu năm 1934, thì Phong Hóa đi hẳn vào con đường bênh vực, biện hộ cho thơ mới, phê bình ca ngợi thơ mới. Nhị Linh trên Phong Hóa số 67 (6-10-1933) đã lên tiếng chống báo Văn Học tạp chí để bênh thơ mới trong bài điểm báo:
"Một cuốn tạp chí văn học ngoài Bắc nơi nổi tiếng là đất văn vật - mà luôn mấy kỳ nay toàn rút bài của báo khác làm xã thuyết, thì cái giá trị của báo ấy cũng đáng ngờ lắm. Dẫu sao Văn Học tạp chí đã lấy những ý tưởng của báo khác làm ý tưởng của mình, chịu những ý tưởng ấy là đúng, là hay mà nêu lên trang đầu thì ta cũng cứ bình phẩm bài xã thuyết kia như là của Văn Học tạp chí.
"Tác giả TR, GI bắt đầu:
"Thường thường các tay thợ thơ ta bây giờ hay có cái khẩu khí : thơ cốt sao tứ cho cao, lời cho mạnh là được rồi, chứ hơi nào mà ngồi đẽo từng chữ."
"Biết bao ý tưởng mâu thuẫn trong một câu nhập đề.
"1. Dù ở Tây phương hay ở Đông phương, trong làng thơ bao giờ cũng có hai hạng: một hạng là thi sĩ (poète), hai là thợ thơ (versificateur). Các thi sĩ thì trước hết cốt tứ cho cao, lời mạnh rồi mới nghĩ tới văn thể. Còn hạng thợ thơ thời chỉ hì hục ngồi gọt đẽo đục, chạm từng câu, từng chữ như người thợ mộc hay người thợ khắc đục chạm gỗ...
"2. Người đẽo từng chữ là công việc một thi gia tầm thường. Đây có lẽ tác giả muốn nói cân nhắc cẩn thận từng chữ. Song muốn có lời mạnh mà không chịu lựa từng chữ đích đáng thì mạnh sao được . Muốn tả một sự hùng vĩ mà không chọn những chữ có ý nghĩa, có âm điệu hùng vĩ thì tả sao nổi.
"Ta coi đó đủ biết tác giả viết chỉ để viết chứ không có nghĩ ngợi gì."
Nhất Linh công kích thơ cũ
Cũng Nhất Linh, tức Nhị Linh, nơi Phong Hoá số 69, 20-10-1933, đã đi xa hơn bài công kích trên đây mà làm công việc so sánh thơ mới với thơ cũ : thơ cũ chỉ cần chọn tiếng, chọn chữ cho thật đối, đọc cho kêu, còn thơ mới cần chọn chữ cho hợp ý. Nhất Linh cho rằng xét chung, về điểm này, thơ mới hơn hẳn thơ cũ. Ông viết bài "Sự cân nhắc chữ trong thơ cũ và thơ mới".
"Trong mục "Cuộc điểm báo" số Trung Thu, Nhị Linh có nói đến bài xã thuyết của Văn Học tạp chí, mục đích chỉ để công kích bọn thi sĩ mới, cho bọn này có tứ cao lời mạnh, nhưng không biết cân nhắc chữ dùng.
"Văn Học tạp chí, một tờ báo văn học mà như không muốn khuyến khích các trào lưu mới về văn học, vì chân thành thủ cựu hay vì không có tài theo kịp bọn mới, nên mới tìm cách dìm bọn này đi. Có biết đâu là làm như thế mà tự mình dìm mình.
"Đây tôi không muốn bàn xem thơ cũ hay thơ mới hơn, nên làm thơ cũ hay nên làm thơ mới.
"Tôi chỉ xin nói ngược lại ông TR, GI ở Văn Học: các nhà làm thơ mới cũng chọn chữ như các nhà làm thơ cũ. Nhà làm thơ cũ cân nhắc từng chữ, cốt ý để câu văn được chỉnh, đọc lên nghe cho kêu, có những chữ đối chọi một cách thần tình, khéo léo.
"Nhà làm thơ mới cân nhắc từng chữ để đo đắn xem chữ nào diễn được cái cảm của mình, tả được cái ý của mình đúng hơn hết,xem phải cần đến chữ nào, câu thơ mới có cái điệu khả dĩ diễn được sự rung động của linh hồn mình một cách rõ rệt hơn.
"Đó, hai bên cùng chọn chữ cả: khác nhau chỉ ở mục đích của sự kén chọn ấy.
"Xin lấy mấy câu thơ cũ nổi tiếng là những câu tuyệt tác làm thí dụ:
Hai bàn tay trắng làm nên thế, 
Một tấm lòng son ở với đời,... 
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, 
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
"Cái hay của mấy câu thơ cũ này không phải ở ý nghĩa mà ở những chữ: hai một, trắng son, thế đời, nhớ thương, nước nhà, lòng miệng, cái con, quốc gia đối với nhau chan chát, hay ở chữ quốc (là con cuốc) vận lên chữ nước; chữ gia (con gia gia) vận lên với chữ nhà mà chữ nhà lại đối rất chỉnh với chữ nước. Kể về cách xếp chữ thì thật là một công trình tuyệt sảo. Nhưng tiếc thay vì quá thiên về cách xếp cho tài tình nên quên mất cái hồn của câu thơ.
"Trái lại nếu lấy câu thơ mới như:
"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, 
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan...; 
Mau! bay, trèo mau! đừng lần nữa! 
Phải cao, cao nữa, xa, xa nữa... 
Ái ân, bờ cỏ ôm chân trúc... 
Rặng lau già xao xác tiếng reo khô..., 
...Như khuyên van, như dìu dặt, 
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may

"Ta sẽ thấy nhà làm thơ mới chọn chữ một cách khác hẳn.
"Chữ vàng không cần phải đối với chữ bạc, mà cốt tả cho thật đúng cái mầu của một đêm trăng trong rừng. Những chữ ái ân, ôm, để tả sự dịu dàng sự âu yếm của cỏ cây, những chữ hắt hiu, hơi gió heo may phần nhiều bắt đầu bằng chữ h để tả đúng được tiếng sáo.
"Vẫn biết rằng trong thơ cũ cũng có chữ dùng đúng chỗ, diễn đúng ý, và trong thơ mới cũng nhiều câu chỉ kêu mà không có hồn, song nói về toàn thể, thì khác nhau như trên.
Một bên chỉ cốt cân nhắc để tìm những chữ nào đối chọi nhau, cho ý là phụ, một bên cố cân nhắc để tìm những chữ nào hợp điệu thơ, diễn đúng ý."
Nguyễn Tường Bách công kích thơ cũ
Cũng như Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách, trong bài "Thơ mới" (P.H. số 97, 11-5-1934) tuy có công kích một ít thơ mới lố lăng, thơ thẩn, nhưng đã cực tán thơ mới, cho thơ mới chẳng những không lo bị tiêu ma, trái lại đã xây dựng được cơ sở rất vững chắc mà còn cho thơ mới về hầu hết các phương diện đã hơn hẳn thơ cũ: thành thực hơn, mạnh mẽ hơn, hợp tình hợp cảnh hơn:
"Thơ mới đã bị nhiều người công kích, cho là chỉ mới ở ngoài vỏ, còn bề trong vẫn cũ rích, và khó đọc khó nhớ vì không có âm điệu âm luật gì cả.
"Lẽ tự nhiên là trong bao nhiêu bài thơ mới thế nào cũng có bài chỉ nhặt nhạnh những ý tưởng sáo nhét vào một hình thể mới. Nhưng đấy chỉ là một số ít. Ta có thể mang nhiều bài ra làm chứng rằng thơ mới bây giờ đã xứng đáng với tên gọi.
"Thơ cũ chưa bao giờ tả được như thơ mới,những cảnh vui buồn, âm thầm hay lộng lẫy, những nỗi yêu thương, nhớ tiếc hay lo sợ, những tính tình trong lòng người, cao hơn nữa, những sự huyền bí nhiệm mầu của đời người và của vũ trụ. Những bài thơ của ông Thế Lữ, đã tỏ ra rằng thơ mới đã vượt qua những khuôn sáo chật hẹp của thi văn cũ mà đi vào một con đường khác rộng rãi, tốt đẹp hơn nhiều.
"Nhưng thơ mới bị công kích nhất là về phần hình thức. Vì nhiều người làm thơ không biết đặt câu cho có điệu, thành ra bài thơ chỉ là những câu nói thường có vần thơ. Như thế, không thể gọi là thơ được. Ta thử nghe mấy câu sau này:
(Trích trong Nhật Tân)
Như những hạt lệ của người bạn lẻ loi,
Khóc chồng trong lúc đêm khuya lòng sôi
(Trong Bạn Trẻ)
...Anh khen cái nhăn mặt của Tây Thi
Anh quên cơn cau mày của gái quê
Anh để ông dật khách là cao phẩm
Anh quên bác thợ cày bùn lấm...
(Trong Phụ Nữ Thời Đàm)
...Vừa rao vừa lạy mãi mới có người mua
Tiền chưa kịp trả xe chạy vù...
"Đọc lên nó lủng củng, chúc chắc, lại có vẻ ngớ ngẩn, tuy rằng ý tưởng cũng mới.
"Thơ mới hay thơ cũ cũng cần phải có điệu, chỉ khác là làm thơ mới phải tìm lấy điệu chứ không theo khuôn mẫu sẵn. Như thế tìm được điệu cũng khó, nhất là khi dùng câu không có hạn chữ.
"Dùng những câu tám hay chín chữ để đặt điệu hơn cả, tuỳ ý mình muốn dùng vần liền (rimes plates) hay vần cách (rimes croisées). Trong một câu lại phải biết đặt những chỗ nghỉ (coupes, césures) cho điệu lên xuống.
Mấy câu thơ của Thế Lữ để làm mẫu:
VẦN LIỀN:
Trời xanh dịu, sợi mây hồng vơ vẩn
Trên bờ sông, cô em đương thơ thẩn
Đứng lặng nhìn, mặt nước chiếc thuyền trôi.
Với ánh chiều thu, bầm tím chân trời...
Chính vì, hồn thu vi vút ban chiều
Đã nhắc cho cô, thấy lòng cô yêu
VẦN CÁCH (BÀI HOÀI XUÂN):
Tiếng ve ran, trong bóng cây râm mát
Giọng chim khuyên, ca ánh sáng mặt trời
Gió nồng reo trên hồ sen rào rạt
Mùa Xuân còn, hết? Khách đa tình ơi!
Tiếng vi vút như khuyên van như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may.
"Đọc những câu thơ trên đủ biết rằng thơ mới đã có điệu cũng ngâm được, du dương, êm ái không khác gì thơ cũ. Mà âm điệu lại có thể thay đổi theo những cảnh, những tính tình êm đềm hay dữ dội trong bài thơ. Trong bài "Con Hổ" của Thế Lữ có những câu rất mạnh mẽ:
... Ta sống mãi trong tình thương, nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa,
Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng!...
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan,
"Những ý tưởng ấy, nếu diễn ra bằng thể thất ngôn hay là lục bát sẽ thấy yếu ớt ngay.
"Hai bài thơ cũ chỉ khác nhau về ý tưởng, nhưng bài thơ mới vừa khác nhau ở tinh thần lại vừa ở hình thức nữa.
"Người ta đã có thể làm một bài "thơ mới" nhưng ý tưởng cũ hay một bài "thơ cũ", nhưng ý tưởng mới (xem bài: Lời than thở của nàng Mỹ thuật, Tiếng sáo Thiên thai của Thế Lữ):
"Tuy theo luật thơ cũ, nhưng chỗ nghỉ và chỗ xuống câu khác hẳn trong thơ cũ:
Em thấy chàng yêu mới nhớ ra
Tên em là Đẹp, bạn em là
Bao nhiêu cảnh tượng muôn hình sắc
Ánh sáng, non sông, mây, cỏ, hoa...
Trời cao xanh ngắt ! Ơ kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng lai .
"Nhưng hay hơn cả là đạt diễn những tư tưởng mới vào một hình thể mới.
"Thơ mới chắc sẽ đưa văn nghệ nước ta trên con đường tương lai rực rỡ, vì hiện nay đã sản xuất được nhiều tác phẩm có giá trị!"
Tứ Ly tính sổ văn học để ca ngợi thơ mới
Tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn đã là theo mới, mới trăm phần trăm, thì dĩ nhiên Phong Hoá phải ủng hộ thơ mới triệt để và phải coi đó là một bổn phận nữa là khác. Thực vậy, Phong Hoá đã tranh đấu cho Thơ Mới và sau hơn hai năm tranh đấu cho thơ mới, Phong Hoá đã tự kể công lao mình. Đây lời Tứ Ly tính sổ văn học năm 1934 đã có mấy lời về thơ mới như sau, đăng Phong Hoá số 134, 30-1-1935, nơi bài "Thơ mới và quần áo mới".
"Về phương diện văn chương và mỹ thuật, thì trong năm vừa qua, Phong Hoá gây nên hai phong trào mới: phong trào kiểu áo mới và phong trào thơ mới.
"Thơ mới bắt đầu có từ bài "Tình già" của ông Phan Khôi. Nhưng vì thiếu người bênh vực có can đảm, thiếu thi sĩ mới có kiên chí, nên độ ấy không ai ngó tới nó nữa. Đến nay, thơ mới nghiễm nhiên chiếm một địa vị quan trọng trong làng văn: thi sĩ làm thơ mới rất nhiều, tương lai của thơ mới rất là rực rỡ. Tuy vậy, các nhà thi sĩ lối xưa vẫn nhất định rằng chỉ có thơ làm theo lối xưa là thơ, còn mới không phải là thơ, tuy nó vẫn là thơ.
"Phong trào mặt áo tân thời cũng bồng bột lên như phong trào thơ mới. Kẻ công kích, người khuyến khích. Những áo tân thời kể cũng đã làm tốn mực, giấy cho các nhà văn. Dẫu sao, có thay đổi mới có tiến bộ. Mỹ thuật bắt họ phải ăn vận mỗi người mỗi khác, nhưng nền luân lý chặt chẽ của Tống nho lại bắt họ phải ăn vận giống nhau: để lệch một bên ngôi cũng đã là phạm một tội nặng, huống hồ lại đổi cả kiểu một cái quần! Tội thật đáng đầy chung thân...Đến bây giờ chính những bà những cô lên giọng đạo đức ấy vội vàng đi cạo răng, đi may áo mới...Ý chừng họ lấy làm sung sướng được chung thân...chung thân với áo quần kiểu mới.
"Mong rằng sau hai thứ mới này còn có nhiều thứ khác cần phải mới mà năm trước chưa phải lúc có thể thực hiện được."
Ngộ Không phê bình Nguyễn Văn Hanh
Đàng khác hình như từ trước tới nay Tự Lực Văn Đoàn có chửi thơ cũ, cũng chửi bâng quơ, chửi trống không vậy, chứ chưa có ra mặt bắt bẻ đích danh ai bằng những bài tranh luận. Nhưng từ đầu năm 1935, thì Tự Lực Văn Đoàn đã tiến thêm một bước. Ngộ Không đã ra mặt bắt bẻ Nguyễn Văn Hanh từng điểm một bài diễn thuyết mà ông này đọc ngày 9 tháng 1 năm 1935 tại hội quán S.A.M.I.P.I.C., Saigon.
Ông Nguyễn Văn Hanh đưa ra năm lý do để bảo thơ cũ hay hơn thơ mới. Trước khi vào việc bác bỏ năm cái lý của ông Hanh và đưa ra năm cái lý là thơ mới hay hơn thơ cũ, Tứ Ly đã dùng cái ngón châm biếm để vẽ ra một Nguyễn Văn hanh dốt đặc mà lại kênh kiệu muốn học làm sang. Các bạn nhận thấy tất cả sự cay cú của Tứ Ly nơi bài "Một cuộc diễn thuyết ở Saigon: Vấn đề Thơ Mới...và Thơ Cũ (P.H. số 135, 8-2-1935).
"Tối thứ tư, 9 janvier vừa rồi, tại hội quán S.A.M.I.P.I.C. đường Galliéni, ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết về thơ cũ và thơ mới bằng tiếng Nam, người ta tới đông lắm, vì hai năm nay mới lại có diễn thuyết bằng tiếng Nam. Thấy báo "Tân Văn" giới thiệu ông Hanh là một nhà giáo "có học vấn" và đã từng có " thịnh danh trong văn giới" nên Ngộ Không tất tả chạy tới S.A.M.I.P.I.C. thì thấy quả nhiên là ông Hanh "có học vấn": ông tỏ cho bà con cái học vấn của ông bằng những tiếng Pháp chen luôn luôn vào bài diễn thuyết tiếng Nam, tuy rằng những tiếng Nam ông dùng, bà con đều hiểu cả.
"Nhưng ông không cần, cứ mỗi tiếng Nam ông lại dịch ra bằng một tiếng Pháp, ngộ nhỡ người Nam không ai hiểu tiếng Nam chăng. Chu đáo lắm vậy!
"Ông nói: "Một bài thơ là một cõi thế giới, "univers"... "thơ không nên coi là một món chơi phiếm "bagatelle"... " thuyết nghệ thuật vì nghệ thuật "l'art pour l'art"...trụy lạc; "dégénéré"...những tay thợ "les artistes" (tuy artiste không phải là tay thợ, nhưng có hề gì cái đó)... "những cái hay ở ngoài và những cái hay ở trong, beauté extérieure et beauté intérieure"... "tiếng ta là tiếng độc âm, "monosyllabique" còn tiếng Pháp là tiếng liên âm, "polysyllabique", chữ tây không có dấu, "accents"... " thơ ta không nên làm "enjambement" ... vân vân.
"Mỗi lúc ông đọc nhầm, ông vội chữa ngay bằng một tiếng "à, bạc đồng!" rất cứng cỏi. Có lúc ông đọc một câu rất dài bằng tiếng Nam, rồi tiếp ngay một câu rất dài bằng tiếng Pháp: "c'est le langage..." làm cho ai nấy giật mình tưởng ông sẽ tiện mồm diễn phăng ngay bằng tiếng Pháp thời nguy to.
"Nhưng may sao ông hãm phanh kịp, nên ai nấy mới hoàn hồn. Ông bảo đó là câu văn của một thi sĩ người Anh. Nhưng ông đọc bằng tiếng Pháp? giá ông đọc luôn bằng tiếng Ăng lê có phải càng tỏ cái học vấn của ông một cách hùng hồn không. Ông còn có chỗ hở, tuy rằng ông đã có  thịnh văn trong văn giới" theo lời báo Tân Văn...
"Chưa xét đến nội dung bài diễn văn, cứ nghe ông nói đã thấy vui tai, vì tiếng Pháp, tiếng Nam chen lẫn, thật là: "nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau". Đến nỗi người ta có thể nói là ông Hanh diễn thuyết bằng tiếng Pháp, chen lẫn tiếng Nam cũng được.
"Người ta chỉ tiếc rằng có một vài chữ (rất hiếm) ông không dịch ra tiếng Pháp như chữ " tôi " chẳng hạn. Giá ông cứ dịch là " moa " có phải lý thú bao nhiêu: "Hôm nay moa nói chuyện về thơ với các toa, moa lấy làm bố cu hân hạnh honoré, vân vân et coetera".
"...Nhưng ông vẫn chê thơ mới. Lạ nhất là ông đọc mấy bài thơ cũ, thất ngôn, ông nhất định bảo đó là thơ mới, rồi ông nói: "Tôi không thấy mới ở chỗ nào". Thế thì còn ai cãi được nữa. Ông lại có cái nhã nhặn đọc mấy câu thơ của cô Nguyễn Thị Kiêm, vừa đọc, vừa nhìn vào tận mặt cô Kiêm ngồi trước mặt ông, rồi ông cười một cách ranh mãnh mà hỏi cô Kiêm: "Thơ của cô như thế thì mới ở chỗ nào, mà hay ở chỗ nào?". Ông nghiễm nhiên đóng vai ông giáo "chuy" học trò của mình, ông lấy thế làm khoái trí lắm. Tuy vậy, ông còn chưa cho là nhã nhặn lắm, ông còn muốn nhã nhặn hơn nữa kia, ông nói một cách tinh quái: "Của cô dài lắm, đây là tôi bỏ đầu, bỏ đuôi, chỉ lấy quãng giữa thôi"...và "cô còn cứng đấy, tuy thơ của cô có chữ "xìu dégonflée". Chắc hẳn tối hôm ấy, ông về ngủ ngon giấc lắm vì đã rất nhã nhặn với thính giả, và tự cho mình là hóm hỉnh hơn người, tuy cô Kiêm có cự cho ông mấy câu làm ông lúng túng một lúc lâu và chối bay chối biến: "Không, không, tôi có công kích cô đâu, tôi, tôi...tôi có mạt sát cô đâu!"
"CÁI ĐINH VÀ... CÁI ROI"
"Nhưng lúng túng nhất là khi ông đánh rơi một cái đinh ! Vâng, ông đánh rơi một cái đinh, loay hoay mãi không tìm thấy. Thính giả cũng có mấy ông đứng dậy quanh co tìm hộ ông hồi lâu mà không thấy. Ông tìm đinh để đóng hai bức tranh lên bảng đen, hai bức tranh dùng để cắt nghĩa thế nào là loi de symétrie (A) và loi d'alternance (B):
"Ông nhổ lên, cắm xuống trong nửa giờ đồng hồ không treo xong hai bức tranh, rồi ông lúng túng mãi với cái đinh đánh rơi.
Mất mười phút đồng hồ mới xong cuộc tìm đinh đóng tranh. Xong hai tay nắm chặt một cây gậy tre, ông chỉ lên hình A bảo đó là symétrie, lên hình B bảo đó là alternance. Ông kết luận hình B đẹp hơn hình A, vì ông có một người bạn "học mathématiques supérieures" bảo ông như vậy. Xem chừng thính giả không tin mấy, ông tức mình hỏi phăng ngay ông Hồ Văn Lái họa sĩ, ngồi ngay đó: "Ông Hồ Văn Lái là nhà mỹ thuật hẳn ông đồng ý với tôi rằng hình B đẹp hơn A? " Ông Lái gật đầu thế là ông Hanh đắc chí lắm, vênh mặt lên nói với thính giả, rồi bỉu môi mà leo lên diễn đàn.
"Thính giả ngơ ngác nhìn nhau có ý hỏi: hai bức tranh đó có liên hệ gì với thơ? hay có bao hàm ý nghĩa gì sâu xa? Nhưng chẳng ai hiểu hết.
"Sau mới vỡ lẽ là ông định cắt nghĩa cái hay của luật Bằng Trắc của thơ Đường.
"Nếu bằng bằng bằng bằng bằng ...thì không hay, nếu trắc trắc trắc trắc trắc...cũng không hay phải BBTTTBB thì mới hay. À ra thế! Chỉ có thế thôi mà ông phải cầm lăm lăm cái gậy tre ở tay gõ mãi lên bảng đen như nhà giáo dạy học, làm cho thính giả cứ tưởng mình là học trò, mà nơm nớp sợ cái roi vô tình của ông. Nhất là cô Kiêm. Biết đâu lúc cáu tiết, ông lại không nện cho vài roi, theo thói quen của nhà nghề.
"Cái roi của ông từ đấy không rời tay ông ra. Khi ông lên ghế ngồi, vẫn để cái roi trên bàn, và luôn tay mân mê đến nó một cách khoái lắm.
"Đồng hồ đánh mười tiếng mà ông không cho học trò ra chơi, à quên, ông không cho thính giả về ngủ!
Ông Hanh bênh thơ cũ một cách rõ rệt, tuy ông nói là "Không nghịch với thơ mới". Cứ kể ông đã có công trình vất vả chép đầy hai cái bảng đen hai bên, nào những bài thơ cũ của Yên Đổ, nào những TTBBBTTB, BBTTTBB,BBTTBBT, TTBBTTB...
"Trước hết ông đậy kín bằng mấy tờ giấy nhật trình, sau mới long trọng bóc ra để giảng nghĩa cho thính giả, ông thích chí lắm, hình như đã cho chúng ta biết một cái kỳ quan.
"Tóm tắt đại ý của ông, ông cho thơ cũ là hay, vì có những đặt điểm sau này:
"1.- Câu trước câu sau đối chọi nhau, đọc câu trên cố ý đợi chữ đối ở câu dưới, khi đọc đến chữ mình đương đợi thì sướng lắm. Cũng như trông thấy một cái tai, rồi lại trông thấy một cái tai nữa thì sướng lắm. Vả khi trông thấy một cái mũi, có lẽ nếu thấy một cái mũi thứ hai ở sau gáy thì chắc cũng sướng lắm. Chắc ông Hanh này thích cửa sổ giả (fausses fenêtres) như ông Pascal đã nói.
"2.- Thơ cũ có những lối yết hậu, chiết hạ...mà thơ mới không thể có được. Những câu thơ tuyệt cú mà ông thích là:
"Ước gì ta được mà ta để...
"Ta để đem về để nữa ta... "
"Ông thích nhất là những chỗ có chấm lửng (...) hóm lắm!
"3.- Thơ cũ có lề lối, có khuôn khổ. Còn thơ mới chẳng có lề lối, khuôn khổ gì cả thì hay làm sao được. Vậy con chim phải ở trong lồng mới đẹp, nếu bay lượn không trung thì còn có lề lối gì nữa, đẹp sao được.
"4.- Thơ cũ theo luật bằng trắc, nên mới có âm hưởng nhịp nhàng, chứ thơ mới có theo luật nào đâu, ai muốn viết sao thì viết. Nói đến âm hưởng, ông đọc câu thơ của cụ Nguyễn Du :
" Tiếng mau rập rập như trời đổ mưa ". Cụ Nguyễn Du có nghe thấy cái âm hưởng của hai chữ " rập rập " cũng phải đến bực tức mà gắt :
"- Đọc láo đến thế thì thôi!
"5.- Lẽ thứ năm ông yêu thơ cũ...vì...vì lẽ gì không biết. Ông liền hỏi thính giả: "Những bài thơ cũ còn sống đến giờ là vì lẽ gì? Nếu không hay sao còn sống mãi đến tận bây giờ? Rồi ông đứng dậy, không kịp để thính giả hỏi lại ông: "thế cái búi tóc của đàn ông nếu không hay ho, sao còn lủng lẳng mãi tới bây giờ trên đầu Lý Toét? Vậy nó hay vì cái gì?.
"ÔNG HANH CŨNG LÀ THI SĨ"
"Không những ông là thi sĩ, mà ông lại là thi sĩ của phái thơ mới nữa mới kỳ. Nói đáng tội, ông có làm hai câu thơ mới thật, song làm để chế riễu thơ mới. Nhân công kích cái lối câu trên rớt xuống câu dưới (enjambement) ông liền đọc hai câu thơ của ông làm và viết sẵn trong bảng đen:
"Tôi đi đầu trần. Vì tôi không
"Biết trên đầu có ai "
"Rồi ông chế nhạo lối rớt chữ của thơ mới. Kỳ thực, ông không hiểu "njambement" là gì cả. Và hai câu thơ của ông, ngớ ngẩn đã đành là ngớ ngẩn, mà chẳng chế giễu được ai hết. Nhất là ông thích rung đùi lúc ngâm thơ, nên ông lại càng là thi sĩ nữa. Ông có hứa sẽ nói tại sao khi ngâm thơ lại rung đùi, nhưng trước khi kết luận, ông tự hỏi:"Tại sao rung đùi?" Rồi chính ông cũng không biết tại sao cả, nên ông lại thôi không cắt nghĩa cho ai biết nữa.
"CÁCH LẬP NGÔN CỦA ÔNG HANH"
"Ông chê thơ mới mà ông chỉ đọc những câu ngớ ngẩn của những thi sĩ lơ mơ. Mà ông bênh thơ cũ, ông lại đọc những câu thơ vô nghĩa của Thượng tân Thị, và đôi câu đối viếng ông toàn quyền Pasquier cũng của Thượng tân Thị. Thành thử ông cũng không che chở cho thơ cũ được tí nào.
"Một điều nhầm to của ông là ông tưởng lầm rằng người ta thích làm thơ, là vì không có lề lối bắt buộc, nên dễ làm. Ông khoái chí lắm, kêu lớn lên, làm ai nấy đương lim dim ngủ đều giật mình tỉnh dậy: "À, tôi biết rồi, làm thơ cũ có khuôn khổ, lề lối, nên khó, còn thơ mới không có lề lối dễ làm, nên họ thích làm thơ mới...
"NHƯNG ÔNG HANH LẠI LÀ TRI KỶ CỦA PHONG HOÁ"
"Và nhất là tri kỷ của Tú Mỡ và Lê Ta (Tất nhiên là ông không đội trời chung với Thế Lữ). Ông đọc đến tên báo Phong Hoá luôn, hân hạnh cho báo Phong Hoá lắm thay mà cũng ân hận cho Thế Lữ lắm thay vì ông thích văn của Lê Ta, đọc thơ của Tú Mỡ, chứ không hề nói đến Thế Lữ.
"Ông yêu Tú Mỡ, vì Tú Mỡ làm thơ...lối cũ, như bài "Văn sách bà nghị khuyên ông nghị". Ông đọc trọn bài cho thính giả. Ông yêu Lê Ta vì...Lê Ta công kích thơ mới của Nguyễn Vỹ, ông đọc từng đoạn văn rất dài của Lê Ta, lấy làm yêu mến lắm. Nhưng ông yêu ông nhất, vì ông đã công kích thơ mới, lối thơ yêu của Phong Hóa.
"Thành thử đối với ông, P.H. không biết nên cám ơn hay nên trách. Cứ kể trong cuộc diễn thuyết này, ông nói đến P.H. rất nhiều và giới thiệu Tú Mỡ với thính giả, cũng là tri kỷ lắm vậy.
"CÒN CÔ KIÊM?"
"Cô Nguyễn Thị Kiêm bất bình vì ông Hanh đã mạt sát cô, và đã trái ý cô về vấn đề "mới cũ", nên cô đứng dậy nói với thính giả sẽ tiếp câu chuyện ấy bằng một bài diễn thuyết tối thứ tư sau (16-1) cũng ở S.A.M.I.P.I.C.
"Chắc hẳn tối hôm đó, ta sẽ được xem cô Kiêm mắng lại ông Hanh như ông Hanh đã mắng cô ngày hôm nay, chắc là kịch liệt lắm.
"Rồi ông Hanh lại diễn thuyết cốt để mắng lại cô Kiêm, rồi cứ như thế mãi cho đến ngày nào cả hai người hoá đá có lẽ cũng vẫn còn mắng nhau. "
Ngộ Không tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Sau khi thuật lại cuộc diễn thuyết của Nguyễn Văn Hanh công kích thơ mới và công kích đích danh cô Nguyễn Thị Kiêm, Phong Hóa có loan báo là cô Nguyễn Thị Kiêm sẽ có bài trả lời vào tuần sau. Cô Kiêm đã giữ lời hứa. Ta sẽ nói đến bài diễn thuyết của cô Kiêm khi nói đến Phụ Nữ tân văn với vấn đề thơ mới. Đây ta chỉ thuật lại bầu không khí rất hài hước của buổi nói truyện của cô Kiêm do Ngộ Không, đặc phái viên của Phong Hoá tường thuật. Theo lời Ngộ Không thuật như các bạn sẽ đọc sau dây, thì hôm cô Kiêm nói truyện, Nguyễn Văn Hanh đã huy động lâu la đến để yểm trợ ông ta hầu phá rối cuộc nói chuyện của cô Kiêm. Đây là một tài liệu rất đặc thù, nó tố cáo sự hăng say của hai phe cũ mới, coi như là một cuộc ganh đua canh bạc chứ không phải chỉ là một cuộc thảo luận về thơ là cái gì mông lung mơ mộng. Bài của Ngộ Không thật linh động và hài hước hết chỗ nói, nó cho ta thấy thương cô Kiêm, thương thơ mới và khinh ông Hanh làm trò "mất dạy" và mất cảm tình với thơ cũ.
"Đúng như tối hậu ngôn của cô Kiêm quả nhiên tối thứ tư 16-1, hội quán Samipic biến thành một chiến trường rất náo nhiệt, hay nói cho đúng hơn, diễn đàn ở Samipic hôm đó đã thành ra một lôi đài thí võ. Người đi nghe thì ít, người đi coi rất đông, mà người trợ chiến lại đông hơn hết. Chưa đến 9 giờ, trong gian phòng ẩm thấp dưới nhà hầm của hội Samipic đã đông chặt những người, không còn chỗ nào lách chân, mà những cái mũi của thính giả ngơ ngác không biết đặt đâu để thở được một chút không khí. Không khí trong hầm lúc đó nồng những hơi người và đầy những sát khí.
"Cuộc tranh đấu bắt đầu. Cô Kiêm, sau mấy lời giới thiệu của bác sĩ Trần Văn Đôn, lên diễn đàn. Cô đứng trước bàn trong 10 phút đồng hồ, mà chưa nói gì được.
"Ngay hàng ghế thứ nhất, ông Nguyễn Văn Hanh ngồi lăm le chỉ chực vọt lên diễn đàn tuy không phải là phiên ông diễn thuyết. Tay xách một cái cặp da, đựng những giấy má gì không biết, làm cho mấy người chưa trả xong tiền nhà, tiền điện, cứ giật mình thon thót. Mấy ông bạn ngồi cạnh ông và xun xoe khắp mấy góc phòng đều mắm môi mắm lợi, xắn tay áo, để cố ý trấn tĩnh và cũng để nạt cô Kiêm nữa.
"Cô Kiêm biết mình dại, không sớm đề phòng thuê một ít người...trợ lực... Nhưng đã chót lên đến thì thôi cũng phải nói qua loa cho xong truyện. Thành ra cô bênh vực thơ mới không được hùng hồn lắm, và công kích ông Hanh cũng rất là nhè nhẹ.
"Ngay bên cạnh chỗ tôi ngồi, có một ông to béo, ý chừng là phe đảng ông Hanh. Mỗi lần cô Kiêm đọc một câu thơ mới của Thế Lữ, hay của Tường Bách hay của một thi sĩ nào ở báo Phong Hoá, thì ông rún vai bỉu ra một cái môi rất dài và "ứ ừ" một tiếng dài gần bằng cái môi ấy. Tiếng ứ ừ của ông ta được những cái mồm đồng đảng họa theo làm cho cô Kiêm xịu hẳn nét mặt lại và ông Hanh thì nở phồng hai lỗ mũi vốn nó cũng không nhỏ gì cho lắm. Cái ông to béo, có lúc nóng nảy dạng hai cái đùi u những thịt ra, như người đứng tấn một bài võ tầu làm cho mình suýt nữa bắn xuống đất, vì...thiếu chỗ ngồi, tôi chỉ được ghé một mẩu ghế của ông và một mẩu ghế nữa của ông bạn nhỏ người. Cũng may ông ta chỉ đứng vậy thôi chứ không đi bài võ tầu nào, nên không đến nỗi thành án mạng.
"Cái không khí lúc bấy giờ không phải là không khí một phòng diễn thuyết mà rõ là không khí một đài thí võ. Trong khi cô Kiêm khua môi trên võ đàn, như nàng Sử Cẩm Bình (trong truyện Anh hùng náo) múa võ trên lôi đài, thì ở dưới bọn đi xem, phe đảng ông Hanh cũng xắn áo, xắn quần, mắm môi mắm lợi như chư anh hùng, phe đảng của Lý Quảng.
"Cái không khí ấy đè nén một cách nặng nề, mãi cho đến khi cô Kiêm nói xong. Cô vừa đứng dậy thì ông Hanh lấy hơi vọt lên ...lôi đài.
"Xưa nay ông giáo Hanh trước mặt học trò vẫn phải giữ dè lời nói, thì tội gì hôm đó được dịp nói nhảm lại không nói. Người ta phải tuỳ từng lúc mà lịch sự, chứ lúc nào cũng lịch sự, cũng nhã nhặn thì còn có nghĩa lý gì. Vì thế, nên ông Hanh hôm đó quyết trút hết những cái lịch sự, nhã nhặn để lộ hẳn chân tướng trên diễn đàn một lần nữa, để tỏ cho bà con biết rằng nếu con em ít giáo dục thì về sau ăn nói như vậy.
"Ông Hanh leo lên diễn đàn, hỏi thính giả:
- Anh em chị em có muốn cho tôi nói không?
" Những tay trợ chiến của ông đều trả lời:
"Có, có
"Tức thì ông Hanh toét một cái miệng rất tình và rất rộng, cười mà trả lời cô Kiêm một cách đắc chí lắm. Ông gọi cô Kiêm là " Nữ thi sĩ " rồi ông quay lại thính giả cười một cách ranh mãnh...Những người trợ chiến lại vỗ tay và cười rất hùng hổ.
"Ông Hanh nói: "Tôi, Nguyễn Văn Hanh, cô, Nguyễn Thị Kiêm, hay là cô, Nguyễn Thị Kiêm, và tôi  Nguyễn Văn Hanh lật lại theo lối tây... "Rồi ông ra hiệu cả hai tay, cười một cách khoái lắm. Trong đám thính giả, có bao nhiêu con nít láu lỉnh, đều cười rộ lên. Những người đang ngáp hay đang cãi nhau cũng giật mình quay lại rồi cười theo và vỗ tay theo.
"Ông Hanh nói tiếp: "Tôi với cô cùng đi trên một con đường tối tăm, mà cô không biết. Ông định nói: Ông không phản đối thơ mới và đồng ý với cô Kiêm. Nhưng ông có một lối nói bóng bẩy mà xuyên tạc làm vui lòng một số đông thính giả.
"Ông lại nói: Cô đẩy một cái cửa đã mở rồi "vous enfoncez une porte ouverte. Một số đông lại cười rộ vì họ tưởng rằng cô Kiêm đến đẩy cửa nhà ông Hanh. Nhưng ông Hanh chỉ định nói là cô Kiêm phản đối ông vô ích, vì ông có công kích thơ mới đâu. Phải, ông không công kích thơ mới ông chỉ chê thơ mới thôi. Nhưng ông không dám nói là: "Tôi, Nguyễn Văn Hanh chê thơ mới" ông chỉ chê thôi, mà ông không nói là chê. Nhưng ông Hanh lại được mãn nguyện quá sức mong, là vì không một mình cô Kiêm "mắc cỡ" mà tất cả bao nhiêu nữ thính giả đều mắc cỡ, vì những lời lẽ, những dáng điệu của ông. Thực là kết quả mỹ mãn không ngờ.
"Ông nói với cô Kiêm: "Cô bảo cô không xìu (dégonflée) thế là cô còn cứng, vậy tôi xin xìu trước". Rồi ông lại toét miệng ra cười và lom khom bước xuống ghế ngồi.
"Thế là ông lại được hoan hô một lần nữa.
"Có mấy bà ngồi hàng ghế đầu nhấp nhỏm đứng dậy mắng cho ông mấy câu, nhưng thấy vây cánh ông lớn quá, và nhất là cái quả đấm của ông nắm chặt quá, nên lại ngậm ngùi mà ngồi im. Có một bà, trái hẳn lại, vỗ tay dữ hơn mọi người để khen ông Hanh ; mọi người trông lại thì bà...bà Nguyễn Văn Hanh.
"Bỗng một ông nữa vọt lên diễn đàn. Thôi nguy to rồi, cô Kiêm lại phải một phen run sợ. Nhưng may sao, ông này tuy đem một cái mũi rất lớn lên diễn đàn cũng không đáng sợ bằng ông Hanh. Ông ôn tồn nói một hồi, không ai hiểu ông nói gì, chỉ thấy ông quanh quẩn mắng hết ông Hanh, lại cự đến cô Kiêm cho là hai bên đều vô lý hết, rồi ông lại cự cả ông, vì ông cũng vô lý nốt.
"Ông Hanh ngứa tiết lại nhẩy lên lôi đài. Hai ông giở tài ngọn lưỡi trước mặt cô Kiêm, làm cho cô Kiêm hậm hực muốn khóc ; cô muốn chui xuống đất, nhưng hiềm đất rắn quá, cô lại muốn bay lên trời, thì cái hầm lại thấp quá. Cô Kiêm cầu cứu ông huyện Tri, nhưng ông huyện Tri không động đậy; cô cầu cứu ông Phan Văn Hùm, nhưng vẫn thấy ông Phan Văn Hùm nét mặt thản nhiên, lạnh lùng làm cho cô cuống quít ở giữa cái mồm rộng của ông Hanh và cái mũi lớn của ông nọ.
"Ông đốc tờ Đôn lúc bấy giờ vẻ mặt hớn hở lắm. Ông chắc lẩm: thế nào chẳng có anh vỡ đầu, sát trán, dập sọ, gẫy xương. Nếu không cũng có một vài ba thính giả hoảng sợ mà ngất đi chăng.
"Nhưng bà con thấy quang cảnh nguy ngập, xô nhau mà chạy trốn làm cho người ngao ngán nhất là ông đốc tờ Đôn".
Thạch Lam tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Cùng một buổi diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm mà Phong Hoá có tới bốn bài tường thuật. Sau bài tường thuật của Ngộ Không tôi còn kể thêm ba bài tường thuật của Thạch Lam, của Lê Ta và của Ngym. Tất cả chúng đều cho ta thấy thính giả say mê tới vấn đề, đến chen chúc nhau thừa sống thiếu chết. Đây mấy lời mở đầu bài tường thuật của Thạch Lam:
"Đến cuộc diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm ở quán hội K.T.T.Đ.
"Người đến nghe và đến xem chắc hẳn là đông lắm. Vì một cái lẽ rất giản dị, diễn giả là một người con gái. Một cô con gái diễn thuyết tất có nhiều cô con gái đến nghe, những cô tân thiếu nữ ở Hà thành, áo tha thướt và nhiều màu tóc mượt và đen nhánh.
"Người ta đến đây cũng như một cuộc vui chơi. Trong một sự hỗn độn, bao giờ cũng lắm cái bất ngờ, lắm cái may rủi.
"Buổi tối hôm ấy không một ai nghe rõ được câu gì. Người ta chỉ thấy cô Kiêm chốc chốc lại đưa khăn tay lên lau mồ hôi trên trán, thấy đôi môi mấp máy. Thành thử không phải như bà Lê Dư diễn thuyết cho bà ấy nghe ở hội Trí Tri. Cô Kiêm dẫu có muốn nghe lời mình nói cũng không nghe thấy gì".
Lê Ta tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Và đây đến lượt Lê Ta tuờng thuật:
"Công chúng mỗi lúc một đông thêm. Tiếng ồn ào mỗi lúc một lớn. Trên kia cô Kiêm vẫn nói. Dưới này họ lục đục chen nhau, cãi nhau về chỗ ngồi. Một ông to béo luôn tay run người này ấn người kia để bênh vực cái đồng hồ đeo tay của ông.
"Giữa lúc mồ hôi dang đua nhau làm ướt áo mọi người, thì bỗng cái quạt điện bừng chạy.
"Một ông dẫm lên chân một cô ngồi cạnh để tỏ ý bất mãn, rồi đứng lên diễn thuyết với hai người đằng sau xô lên.
"Dần dần, cả những người ngồi đầu đều đứng lên, rồi muốn cho cao hơn, họ đứng cả lên ghế.
"Một vài ông cố sức mở một đường "huyết đạo" xông vào gần chỗ tôi, phàn nàn rằng mình vẫn mộ tiếng diễn thuyết mà không được nghe lấy một tiếng nào. Các ông đứng lau mồ hôi một lúc trèo mám lên một cái ghế nghiển cổ trông. Lúc thấy được mặt diễn giả các ông sung sướng chen ra tỏ ý mãn nguyện lắm.
"Cái nóng bức trong hội quán cùng với sự náo động cứ tăng mãi lên, đến lúc những cánh quạt vì lòng nguyện vọng nhiệt liệt của công chúng lại bắt đầu quay, mà trật tự vẫn không giữ được...Những người ở dưới muốn nghe rõ lần lượt rủ nhau lên gác muốn mát lại rủ nhau xuống. Cứ thế mãi không thôi".
Nguym tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Sau cùng là lời thường thuật của một người ký tên là Ngym, chẳng biết là ai:
"Thính giả, cả hai giống, có đến bảy tám trăm đầu.
"Các bà các cô đến đông. Phần nhiều không được trắng như mọi khi, ý chừng nóng quá mồ hôi ra trôi cả phấn.
"Nhưng vì đến sau, phải đứng cả. Có độ hơn 400 ghế thì các ông râu mày ngồi mất đến ngoài ba trăm rưỡi ghế. Ông huyện Trị thân sinh ra cô Kiêm, đứng lên xin các ông râu mày nhường chỗ cho các bà quần thoa "íu đúi". Cái gì chứ cái ấy thì cố nhiên là thính giả phái khỏe không chịu nghe viện lẽ rằng họ không lẳng (nếu tôi có thể dịch chữ "galant" là lẳng được).
"Muốn cho thính giả lẳng lặng mà nghe, các tổ chức viên dùng "suỵt". Sau có người "chừng cũng thạo về khoa học", nghĩ ra được một kế rất điệu là đi mượn cái chuông. Anh hàng kẹo hay anh hàng dầu nào cho mượn cái chuông ấy, chắc cũng được biệt đãi.
Lê Ta phê bình tập thơ "Những bông hoa trái mùa"
Sau đấy Lê Ta, nhân đọc một tập cũ "Những Bông Hoa trái mùa" của hai ông Tường Vân và Phi Vân làm ra để thách đố, đua vai với thơ mới. Lê Ta đã phân tích tập thơ của hai ông và trích những câu văn vừa sáo, vừa rỗng, vừa đạo văn, vừa ngây ngô để minh chứng thơ cũ mà các ông ca ngợi đã hết sinh khí rồi. Thực bài trả lời của Lê Ta là cay độc, khiến cho làng thơ cũ phải một phen bể mặt. Đây bài phê bình "Những Bông Hoa trái mùa" của Lê Ta (P.H. số 148, 10-5-1935).
"Sau khi góp sức chế tạo ra được ngót ba mươi trang thơ (Những bông hoa trái mùa) hai nhà văn Tường Vân và Phi Vân "một ngày tốt đẹp kia", đem in thành sách. In sách để tỏ cho thiên hạ biết hai ông cũng có triết lý về cuộc đời, mà hai ông coi như một buổi hát:
Còn lạ lùng chi cái thói đời.
Trăm năm cũng một lớp tuồng thôi
(Cuộc Đời)
"Để trách trăng, trách gió, trách người bạn gái, khóc ý trung nhân và để than cái nỗi đời xoay chuyển mãi, "dặm liễu" đã mòn chân "ngựa ký" mà "đường mây" chưa thẳng cánh "chim đồng" cho nên "anh hùng" còn thẹn mặt trần ai, luống lo tưởng đến "nợ kiếm cung" (!) chưa biết đến bao giờ trả được.
"Tác giả thực là người có tâm huyết, có khí khái, có tình cảm và có những giọng cụ đồ cổ bất đắc chí ngồi cạy ghét móng tay mà giận đời không biết đến mình.
"Bởi thế, cái mới là cái đáng thù, cả sự chân thực cũng vậy. Đứng trên núi cao trông cảnh giang sơn dưới ánh trăng vằng vặc, các ông ngẫm, các ông cảm động bằng đôi mắt và trái tim của bà Huyện Thanh Quan:
Tuế nguyệt thành xưa trơ lớp đá,
Tang thương ngõ cũ nhạt làm meo.
(Trên núi Thiên nhẫn)
"Các ông tả cái sắc đẹp của giai nhân trên thuyền bằng văn Cung oán:
Cá dưới nước ra chiều lảng bảng,
Hoa trên giòng ra dáng lênh đênh.
Hoa kia ngơ ngẩn với tình,
Cô kia ngơ ngẩn như hình ai nghe.
(Trên mặt hồ tây)
"Các ông phục cái khí phách của bà Triệu Ẩu bằng lời của một nhà làm thơ cũ, tôi quên mất tên, nhưng vẫn nhớ kỹ cái nghệ thuật giở hơi và kiểu cách :
Dãi nắng dầm mưa đôi má phấn,
Xông tên đột pháo một đầu voi
(Triệu Ẩu)
"Các ông khen âm điệu thơ cũ thánh thót âm thầm như tiếng đàn năm cung. Không ai cãi hai ông, nhưng tiếc rằng khi nghĩ đến đàn, các ông lại nghĩ đến tính tình của người khác, các ông lại xúc động bằng tâm hồn của người khác vì trong lòng các ông không có một thi cảm riêng nào.
"Thi sĩ Nguyễn Du tả tiếng đàn như thế này:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như nước suối mới sa nửa vời;
Tiếng êm như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sậm sập như trời đổ mưa.
"Các ông liền lấy những ý trên lập lại. Các ông cũng viết:
Trong như tiếng hạc mới bay qua,
Đục tựa lưng vời nước suối pha,
Êm ái tiếng khoan như gió thoảng,
Tiếng mau sầm sập lại mưa sa.
"Cái tài của các ông là cái tài xào nấu lại những món ăn cũ. Các ông lấy lời văn, ý tưởng, tình cảm của người khác làm của mình. Trong văn thơ các ông đầy rẫy những cành tuyết, mai, thông, liễu, ở những chỗ sông Tân, vườn Thuý, chơi sông đêm trăng các ông bắt chước người ta nhớ câu thơ Xích bích, ngắm nước hồ Tây các ông cũng chỉ nghĩ đến cảnh Bắc quân xô xát với truyện con trâu vàng. Các ông đi sau cổ nhân để lượm nhặt những rơm rác ấy là "Những bông hoa trái mùa".
"Các ông đem bó hoa không đáng gọi hoa kia dùng làm thứ khí giới để công kích lối thơ chân thực dồi dào, phóng khoáng mà người ta thường gọi là thơ mới.
"Là vì các ông không làm được thơ mới.
"Các ông không phải là người biết tìm cái đẹp mới mẻ, biết tả đúng tâm sự mình trước cảnh vật, cái cảm hứng của các ông không thể ra ngoài khuôn sáo, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã mấy nghìn lần người ta nhắc đến, nghe quen tai quá, chẳng khác gì những lời chúc tụng của bọn người hát "súc sắc súc sẻ" đầu năm.
"Các ông trách lối thơ bây giờ không theo niêm luật cũ, vì các ông không biết rằng thơ bao giờ cũng phải có luật. Không phải cái luật hẹp hòi hạn câu chọn chữ là một lối rất tiện cho những người khúm núm thi thố cái tiểu xảo của mình. Nhưng thơ phải có thứ luật cao siêu hơn, thiêng liêng hơn: mình biểu lộ cảm tưởng, tâm trạng mình một cách êm ái, tha thiết hay hùng tráng du dương theo cái bản lĩnh riêng mình, không bao giờ chịu theo tư tưởng, tình cảm của người khác. Như thế thì trái với thứ biệt tài của hai ông lắm, nên hai ông không bằng lòng.
"Các ông chỉ ưa và chỉ tìm được những lời văn hoa sẵn có để tra vào cái khuôn khổ sẵn có. Khi tiễn đưa, tất nhiên phải dùng đến những chữ : chuốc chén qua nhà với duổi dong dặm kỳ; khi vinh hoa tất nhiên phải chắp nhặt những tiếng : sắc nước hương trời. Mà cuộc đời bao giờ cũng là một tấn tuồng cũng như lúc mặt trời về chiều, bao giờ cũng là ác, là chênh chếch, giọt sương dùng để chỉ nước mắt, là ngô vàng rụng để tả mùa thu. Các ông cũng không quên những chữ cảnh biếc, biển quế, bụi hồng, mắt xanh, không quên những câu:
Lơ thơ dăm cụm lục chen hồng,
Thượng uyển là đây có phải không?
Hương ngự (!) ngạt ngào đôi khóm cúc,
Nhạc thiều (!) reo rắt mấy cành thông (trang 15)
"Để tả những cảnh...trong vườn bách thú (!). Nghĩa là những câu thơ có thể tả được bất cứ cảnh vườn nào, mà tả cảnh vườn nào cũng rỗng, cũng sáo, cũng không có nghĩa lý chi hết.
"Ấy thế mà các ông đi công kích bọn làm thơ lối mới; các ông lấy những giọng oanh liệt để mắng họ:
Lạy bác xin đừng nói đến thi,
Nghĩa thi chưa hiểu hãy im đi.
"Và gọi họ là bọn mù:
Chẳng khác anh mù lại nói mơ,
Chẳng qua một bọn dốt làm thơ...
"Vâng, họ dốt vô cùng, dốt vì không biết theo kinh điển, vì không biết nhai lại những lời cổ nhân mà các ông quý trọng, vì không biết để cho cái khuôn khổ buồn cười của thơ (bát cú) kìm kéo, thắt buộc tính tình, cảm hứng của họ.
"Vâng, họ dốt và mù lắm, họ không thể sáng như hai ông Tường Vân và Phi Vân được, mà như thế, theo ý tôi, thì thực là may cho quốc văn.
"Vì quốc văn cần phải tiến. Quốc văn không phải thứ trò chơi dí dỏm ở trong ấy có những luật lệ bày ra để một ít người thợ khéo chắp nhặt cái tiểu sảo nọ để ghép vào cái tiểu sảo kia. Thơ văn của ta bây giờ mới biết theo khuynh hướng mới cũng đã quá chậm rồi, không cần phải có những bọn văn sĩ như hai ông Tường Vân và Phi Vân với cô Bích Ngọc ngăn cản lại.
"Nói đến cô Bích Ngọc, người đề tựa cho quyển "Những bông hoa trái mùa" tôi lại tưởng tượng đến một bậc nữ lưu đoan trang, trầm mặc. Tôi còn tưởng tượng lên thêm một bực nữa, tuy không được vừa ý cô nhưng tôi cũng cứ mạn phép cô tôi nói: tôi tưởng tượng ra một bậc nữ lang... bà già.
"Bởi vì những ý tưởng của cô cũng đã già như cái cây cổ thụ.
"Cô cũng đồng lòng với hai nhà thi sĩ của cô ham mến cái cổ, coi lối thơ luật cũ rích như những bông hoa thơm, cô lại viết một bài thơ tám câu, có ý cho chúng tôi thấy thí dụ. Cái cụm hoa thơm là bài thơ quý hoá ấy cũng có đủ những biền ngẫu: nhị vàng đi dôi với cành thắm, lòng bướm với kiếp hoa, dậu cúc với cành hồng, nghĩa là những chữ sáo đi đôi với những chữ sáo.
"Cô thực là người biết yêu trọng quốc hồn, quốc tuý. Nhất thiết cái gì là mới, là lạ, cô đều ghét cay, ghét đắng lấy lẽ rằng cái mới lạ ấy không phải là của nhà. Câu phong dao :
Ta về ta tắm ao ta,
"Có lẽ là câu châm ngôn của cô. Cô thiết tha khuyên người ta chê bỏ và tự mình chê bỏ "ao ngoài", để về tắm "ao nhà" dù ao nhà ấy đầy những bùn, những vẩn.
"Tôi buồn rằng người "thục nữ" có duyên đến thế lại kém vệ sinh.
A- Mặt trận bênh thơ mới (2)
Phong Hoá của Tự Lực Văn Đoàn bênh thơ mới mà bênh rất găng, rất tận tình nhưng không đồng ý cho rằng hễ cái gì không phải thơ cũ đều là thơ mới cả. Buổi đầu các ông chưa tỏ thái độ gì với các loại thơ rất dở mà người ta tôn xưng nó là thơ mới. Nhưng từ giữa năm 1935 - có lẽ lúc này thơ mới đã có cơ sở rồi - thì các ông lên tiếng loại bỏ những thơ mà theo ý các ông, không đáng là thơ mới hay cho dù có là thơ mới, thì cũng là thơ mới hạng bét, rất dở chẳng kém gì thơ cũ.
Nhị Linh công kích nhà thơ mới Đỗ Đình Vượng
Ngày 18-1-1935, Phong Hoá số 133, Nhị Linh công kích và phê bình Đỗ ĐìnhVượng bằng một giọng mát mẻ. Ông Vượng diễn thuyết ca ngợi thơ mới, nhung Nhị Linh phàn nàn rằng giá ông đừng đi nghe ông Vượng thì còn biết thơ là gì, và thơ mới ra sao, chứ "lúc tôi ra về không còn hiểu thơ và thơ mới là cái quái gì nữa, tuy diễn giả đã chịu khó tra cứu, khảo sát, lục lọi trong đủ các sách cổ, kim, tây, tầu, An nam, nào của Boileau, nào của Hồ Thích, nào của Nguyễn Du, nào của các thi sĩ cổ điển, lãng mạn".
Ngày 25-3-1935, P.H. số 142 Thạch Lam viết bài "Thơ mới" để công kích một số đông các tờ báo có đăng thơ mới, các sách có xuất bản thơ mới. Theo Thạch Lam, thơ bọn họ chẳng cũ mà cũng chẳng mới. Các bài thơ đó có năm đặc tính sau đây:
"- Cái đặc tính thứ nhất - và cũng lạ lùng nhất - là những bài đó không phải là thơ.
" - Cái đặc tính thứ hai là không có vần.
" - Cái đặc tính thứ ba là đọc lên nghe sang sảng như những mãnh sắt vụn người ta để trong bao gai mà xóc lên.
" - Cái đặc tính thứ tư là không có nghĩa lý gì hết.
" - Còn cái đặc tính thứ năm nữa, cái đặc tính này không phải của thơ, mà của người viết ra những thơ đó, cái đặc tính ấy là ...xuẩn.
"Nếu ta có cái đặc tính cốt yếu ấy, và nếu thơ ta có đủ bốn cái đặc tính như trên thì ta thành ra một người làm thơ mới.
"Thơ mới trong một vài tờ báo chẳng hạn".
Thạch Lam chửi thơ mới của Phan Văn Kỳ
Cũng Thạch Lam, ngày 3-5-1935, (P.H. số 147) đã chửi thơ mới của ông Phạm Văn Kỳ. Thạch Lam ví điệu thơ của ông Kỳ như đám cháy nhà.
"Đấy là một cảnh thương tâm lắm; những "khổ chủ" thấy thần hỏa đến thiêu nhà khóc vang như ri. Còn những tiếng "hì hục" của vạn người không tên đó, có lẽ là tiếng của những người đến chữa cháy...
Của vạn người không hạnh phúc,
Đợi chết dưới hầm than,
Của vạn người đang nhui nhúc
Tù tội của thời gian...
"Kể không có hạnh phúc thì những người bị cháy nhà không có hạnh phúc thật! Nhất là họ bị đốt cháy trong những cái nhà như những cái "hầm than" nữa.
Rồi câu thơ ngươi, thi sĩ,
Sẽ bọc những tiếng than,
Góp thành một tiếng rền rĩ,
Kêu động cả không gian.
Một tiếng mạnh như tiếng sấm
Đớp lửa và động mưa,
Phát hoả từ trong rừng rậm,
Lặn đến thành phố xưa...
"Cái tiếng mạnh như sấm đó là tiếng tre nứa nổ đấy. Ta thấy nhà thi sĩ nói đến thành phố: Ô hay, thế thì xe cứu hoả, vòi rồng tưới nước đâu? A, đây rồi! Thi sĩ thật là người cẩn thận:
Đố ai ngăn được tiếng ấy,
Nó tràn với sông xanh.
Đố ai trừ được tiếng dậy
Của sức mạnh liên thanh.

"Nghĩa là cái vòi rồng của thành phố không đủ. Phải cần đến tiếng của nhà thi sĩ:
Rồi tiếng của người thi sĩ
Khi sấm hết rền vang
Sẽ đọng lại thành tiếng nỉ
Non...như của khúc đờn.
Rồi chung quanh ngươi, cả chủng
Tộc...đều mở xiềng gông
Rồi Nàng Thơ của ngươi cũng
Yêu ngươi một cách nồng...
Thế là thơ hết và cháy cũng hết.
"Chỉ còn lại tro tàn, lửa bụi, một đống than lủng củng những vôi, những gạch, những mảnh tre, mảnh nứa, lá gồi...
"Thơ của thi sĩ Phạm Văn Kỳ âu cũng thế. Âm điệu thì réo rắt như tiếng tre nổ, tiếng vách sụp, tiếng nhà cháy.
"Còn vần thơ thì lủng ca lủng củng như một đống than đầy vôi, những gạch, những tre, mảnh nứa, lá gồi...
"Mà đọc xong bài thơ "Ngươi, thi sĩ" của ông ta, ta có cái cảm giác thoát được một việc nguy nan như khổ chủ thoát tai nạn cháy nhà."
Lê Ta phê bình thơ mới của Đức Văn
Đến Lê Ta ông đã bênh thơ mới bao nhiêu thì ông lại chửi người làm thơ mới bấy nhiêu. Phải chăng bọn làm thơ mới này không thuộc phe Phong Hoá? Không dám quyết, nhưng người ta có thể ngờ rằng thế.
Ngày 14-12-1934 (P.H. số 128), Lê Ta phê bình để chê bai cuốn Mơ Màng của Đức Văn là thứ thơ "văn kêu và rỗng là món sở thích của những nhà văn mới mà chẳng biết mình nói gì, "khinh miệt tập "Tình em" của Nhuệ Thuỷ có cái "biệt tài là thơ văn ông viết bằng những câu văn và ý tưởng người khác".
Lê Ta phê bình thơ mới của Nguyễn Vỹ
Về thơ của Nguyễn Vỹ, Lê Ta có hai bài phê bình một bài đăng Phong Hoá số 127 (7-12-1934), và một bài đăng số 129 (28-12-1934).
Ở bài thứ nhất, Lê Ta nhắc lại lời phê bình của Nhất Linh về Nguyễn Vỹ,và nhân đấy chửi mát Nguyễn Vỹ:
"Nhà "thi sĩ" Nguyễn Vỹ, tác giả tập thơ đầu là một nhà có nhiều tài, tình cảm nhiều, mà lòng tự ái lại nhiều hơn. Cho nên khi ông ra mắt quốc dân, mắt đầy lệ, cây bút cầm tay, ông không muốn cho ai khinh ông cả. Ấy thế mà Nhất Linh lại bảo tập thơ đầu của người tên là đuôi kia không có ruột! Muốn khỏi mất lòng "thi sĩ" tôi phải nói chữa hộ Nhất Linh: thơ ông Vỹ có ruột đó chứ, chả tin cứ giở cuốn sách của ông ra mà xem: Chỉ tiếc cái ruột ấy đặc quá, mà khốn một nỗi là người ta lại không biết nó đựng những cái gì!"
Sang đến bài thứ hai, Lê Ta phũ phàng với Nguyễn Vỹ hơn, đã ví thơ Nguyễn Vỹ như thơ của con sen, thơ của vú già:
"Ông Nguyễn Vỹ là một nhà học rộng. Bàn về thơ ca, ông đã cho chúng ta biết nhiều điều mới lạ: ông hiểu rõ hết được các âm điệu thơ, khuôn phép thơ, mỹ thuật của thơ, tuy ông không hiểu thơ là cái gì, và tuy ông thấy mình là thi sĩ.
"Ông lại khéo nói nữa. Khéo nói lắm, khéo nói quá! Ông bênh vực ông một cách rất có duyên, rất chu đáo, mà ông phản đối ông lại chu đáo gấp đôi. "Tập thơ đầu" của ông là một tập thơ có khuynh hướng về cải cách, nhưng người làm "Tập thơ đầu" lại sợ cải cách, hay cải cách bằng lối riêng của ông. Ông bỏ cái gông cùm biền ngẫu với phép hạn chế phá, thừa, luận, kết của luật thơ Tàu, để mang cái gông cùm mới của luật thơ Tây.
"Thơ của ông Vỹ thiếu cái chi chi kia, chứ "chân" (pieds) thì đủ lắm. Xin đọc thử ít câu sau này:
Những cặp mắt xinh đẹp, mà ta thấy thoáng qua
Ban ngày, lúc ta thủng thỉnh đi trên đường phố
Bây giờ một mình ta trằn trọc trong đêm tối
(Lối thơ 10 chân)
Hai bàn chân linh thiêng ấy, những ngày rằm và ngày hội
Tôi đã được nhìn rất cảm động những trẻ mồ côi nhỏ
Những bà già và những cô thiếu nữ xinh đẹp, ngây thơ
Hôn hít hai bàn chân Thánh hoặc lấy tay vuốt ve, sờ
Hay là với khăn mùi soa, vạt áo, miếng nhung, miếng vóc
Mà họ áp hôn vào môi, hoặc đưa lên đầu tóc
(Lối thơ 12 chân)
"Soi đến kính hiển vi cũng không thấy thiếu một chân nào. Thơ ông quả thực không phải thơ quê. Nhưng quả thực là ngô nghê.
"Đem so sánh thơ ông Vỹ với hai bài thơ "Đồng Hồ" của tôi ông không bằng lòng là phải, vì nó không đủ chân, nhưng giá đem so sánh với bài "Son nê" sau này của cô N.T.G. thì hẳn ông ưng ý lắm:
TẶNG VÚ GIÀ CỦA TA
Hỡi vú già của ta ơi; Hỡi vú già của ta ơi! 
Vú đến ở hầu nhà ta, may mắn ấy thực bởi trời. 
Vú tuy người chẳng xinh tươi, mà lại cũng không còn trẻ 
Nhưng rất chắc chắn, vững vàng, và vừa nhanh và vừa khỏe. 
Gọi thì dạ, bảo thì vâng chưa hề phải mắng một lời. 
Suốt từ sáng sớm đến chiều, chỉ làm lụng chẳng rong chơi 
Nào việc bếp nước nấu ăn, nào giặt quần áo, nào chẻ 
củi, nào quét dọn nhà cửa, hết việc lớn đến việc bé.
Tôi lấy hết can đảm để đọc đi đọc lại, lúc thì nhẩm thẩm, lúc thì cất giọng ngâm nga, mà buồn thay cho tôi, tôi nghe nó vẫn làm sao ấy.
"Nhưng đối với tác giả thì nó có nhiều thi vị lắm, nó có một thứ thi vị ngầm, cũng như người đàn bà xấu số ở trong phong dao có duyên thầm vì được chồng yêu quý:
Lỗ mũi em tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o;
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
"Ông Vỹ có quyền yêu thơ của ông lắm.
"Am hiểu âm luật, biết nói đến những chữ trật tự, quy tắc, biết chê sự hỗn độn, hồ đồ, lại biết ghét những cái ngớ ngẩn ngây ngô, mà viết ra những thơ như trên kia, thì viết làm gì? ".
Ngày 12-1-1935 (P.H. số 132), Lê Ta, trong bài " Cuộc điểm...mấy Nàng Thơ", đã gọi thơ của Từ Bộ Hứa là "một đứa con xam xám: Vậy mẫu thân của nó hẳn là một nàng tây đen"; bảo "Nàng thơ của Nguyễn Vỹ không hay nói tiếng Việt Nam, người cay nghiệt chặt chẽ từng dòng, từng chữ, nên đứa con của nàng không thiếu một chân, một tay nào hết. Nhưng nó phải cái ngẩn ngơ cũng như nàng";
Về thơ Đức Văn, Lê Ta viết:
"Ông Đức Văn thì vớ phải con mẹ quê mùa, dở hơi, sống sượng. Chị chàng này chỉ biết có thơ văn như hạng Phạm Công, Cúc Hoa ở miệng bọn hát xẩm. Cũng có khi tâm hồn xúc động, "nàng" cất thứ giọng lệnh vỡ của người nhà quê vùng bể mà ngâm rằng:
Tách nòng hờ hững mấy nòng
Nửa hương nuống để nạnh nùng bấy nâu
"Bởi vì nàng vừa ngớ ngẩn lại vừa ngọng."
Về thơ của Nhuệ Thuỷ, thì Lê Ta viết:
"Ông Nhuệ Thuỷ thì kết duyên với một chị có họ gần với nàng Đông Thi. Nghĩa là một người xấu và hay bắt chước vẻ đẹp của Tây Thi. Thấy Tây Thi nhăn thì nàng cũng nhăn. Nhưng Tây Thi nhăn thì thêm duyên, mà nàng nhăn thì người ta chết khiếp".
Còn nàng thơ của Lan Sơn thì ôi thôi mỉa mai làm sao!
"Nàng thơ của ông Lan Sơn là một người hay vòi. Tôi thấy lúc nào nàng ta cũng lẽo đẽo đi lải nhải theo sau thi sĩ, tay cầm cái mùi soa ướt đẫm, mặt thì mếu xếch mếu xác. Chẳng biết có bị thi sĩ bạt tai cho cái nào không".
Đến nàng thơ của Huy Thông thì theo Lê Ta nó thuộc vào loại "tăng gia sản xuất":
"Nàng thơ của Huy Thông là một nàng thơ có nhiều tình cảm, nhiều tư tưởng hay. Nàng lại là người "mắn" ta sẽ thấy nàng sinh sản được đông đàn. Vậy nàng có thể tự an ủi nàng rằng hỏng đứa này, còn đứa khác.
Nói thế không phải có ý bảo tập "yêu đương" - đứa con đầu lòng của nàng thơ Huy Thông là một tập thơ dở cả. Những ý tưởng mạnh mẽ, những tình tứ không thường, những hình sắc lộng lẫy hay dịu dàng với những vẻ đẹp trong trẻo, ngây thơ, mong manh, tôi thấy đầy dẫy trong tập sách trên một trăm trang giấy tốt.
"Người thiếu niên thi sĩ của tôi biết cảm xúc vì cái vẻ hùng vĩ, mênh mông của bể cả, biết mong gửi lại tiếng lòng "thì thầm lời nước mây kiều diễm" theo tiếng sóng, biết cùng tiếng sóng ca ngợi "lòng kiêu căng không bờ bến với "nỗi buồn gớm ghê, niềm ngao ngán của một trái tim đau đớn bởi điên cuồng".
"Huy Thông biết ghi cái vẻ mơ hồ của:
"Ngàn liễu nơi xa trong sương hồng chìm đắm ".
"Biết thổi khúc tiêu êm ái để buồn ca những lời tự tình của người tiêu bất tử thiết tha khuyên nhủ chàng mục đồng.
Những nỗi niềm âu yếm, nồng nàn và lòng yêu đương đằm thắm của một trái tim sớm đắm đuối vì tình, ông Huy Thông biết đem thả vào tiếng rộng rãi của gió trên bể bạc và thu vào trong vỏ hến nhỏ để người yêu nghe.
"Nhưng bao cái hay cái đẹp kia, tiếc thay chỉ là những hạt trai lóng lánh lẫn vào trong đống đá sỏi sù sì. Nếu ví thơ ông là bát chè thì người ăn chè là chúng ta đến thành móm hết".
Nhưng cách đấy năm tháng, tức đến 24-5-1935, nơi Phong Hoá số 150, Lê Ta lại có một bài phê bình thơ mới của Huy Thông. Lần này, tuy có còn chê mát Huy Thông, nhưng Lê Ta đã dành nhiều chân tình cho Huy Thông. Phải chăng Huy Thông đã cộng tác với Phong Hoá. Đây lời Lê Ta :
"Gớm! Làm gì mà ầm ĩ lên thế nhỉ? Truyện tình tự là truyện kín đáo mới phải chứ, là những truyện một người yêu nói cho một người yêu nghe.
"Nói ở phòng riêng, bên bờ nước, ở nơi âm u, nơi tăm tối hay trong ánh trăng khuya.
"Nói bằng cái giọng nỉ non, êm ấm, dịu dàng hay khê nặc, hay khàn khàn như ống bơ rỉ, hay nặng nề như tiếng vịt đực, hay ồm ộp như tiếng ễnh ương...
"Nhưng mà người ta nói nhỏ.
"Nói nhỏ để cho những lời ở cái miệng đa tình lọt được vào cái tai đa tình,
"Thế thôi! Chứ người ta không gào tướng lên cho bất cứ hòn đá nào với bất kỳ một "nhân vật" nào cũng nghe thấy được.
"Ông bạn Suối Đào của tôi lại không nghĩ thế.
"Bởi ông là suối. Là suối, nên ông róc rách, kể lại hết cả các tiếng cây, tiếng gió, điều hay truyện dở, và thiên tình sử rất đáng cảm động của cô Tần Ngọc với ông Huy Thông. Ông Huy Thông, "nhà thi sĩ đã bao nhiêu người biết tiếng và mến tài... ", ông Huy Thông mới 17 tuổi đã đổ tú tài triết học. Có lẽ từ xưa đến nay chưa từng thấy ai thông minh đến bực ấy", ông Huy Thông là một nhà đẹp trai và "có vẻ một nhà thông thái với trán rộng và mái tóc bờm sơm".
"Đó là lời trong bức thư cô Tần Ngọc mà cái suối bép xép kia một hôm đã nghe thấy. Rồi bây giờ đi học lại cho chúng ta cùng nghe (Trong Văn Học tạp chí đổi mới số 1).
"Suối Đào lại cho chúng ta nghe những lời tha thiết hơn, chân thật hơn trong những bức tình thư nồng nàn của một vị nữ lang mới mẻ vô cùng - là cô Tần Ngọc - Cô yêu ông Huy Thông lắm. Cô muốn gặp ông Huy Thông sau buổi chiếu bóng ở Palace lắm. Cô muốn cho ông Huy Thông không "lọ" lắm. Cô cũng muốn cho ông Huy Thông " làm mấy bài thơ đăng ở báo Phong Hoá để tặng "cô lắm...Trời! Biết bao nhiêu lời cảm động, làm tê tái lòng ông Huy Thông đẹp trai lắm của tôi!
"Cả một truyện tình của một tài tử với một giai nhân. Một truyện tình riêng, nghĩa là chẳng có ích gì cho ai hết thảy.
"Vậy mà Suối Đào kể lại tường tận, rất chu đáo, rất có duyên nữa. Người thóc mách đến thế là cùng.
"Có lẽ là vì Suối Đào quá yêu Huy Thông nên không hề biết gì là giữ gìn, là dè dặt nữa. Ông này quá yêu ông nọ và muốn quảng cáo cho sự đẹp trai và sự... "đa tình" của tác giả tập "Yêu đương". Có biết đâu rằng truyện thóc mách của Suối Đào sẽ làm cho ông Huy Thông và cô Tần Ngọc không bằng lòng.
"Tôi biết ông Huy Thông là người rất khiêm tốn không bao giờ ưa người ta nói đến tài của ông lắm, hay có ai nói thì không bao giờ ông đem khoe ai...Ông Huy Thông phải đâu là người chuộng sự phô trương trên mặt báo. Không, người thi sĩ của tôi ưa ca trong lầu vắng, và chỉ muốn để cho thiên hạ thấy có khúc nhạc réo rắt của mình thôi.
"Cô Tần Ngọc cũng vậy. Cô không muốn cho ai biết truyện riêng của cô. Tình yêu đối với cô là thứ tình kín đáo, mầu nhiệm. Cô yêu ông Huy Thông vì Huy Thông "đẹp trai có tài" chứ có phải vì để được người ta làm thơ tặng cô trên báo đâu. Khi cô xúi ông Huy Thông rằng: "Số Phong Hoá sau thế nào cũng có một bài thơ tặng tôi (cô Tần Ngọc) đấy" có phải là vì hiếu danh đâu? Đó chỉ là một tấm tình yêu thiết tha, chân thực, nồng nàn và kín đáo...nhất là kín đáo.
"Ông Suối Đào thực không biết ý tứ một chút nào hết. Những điều kín đáo như thế mà đem nói toạc cả ra!
"Làm như ông Huy Thông cũng muốn đem việc riêng của ông ra công bố.
"Làm như ông Huy Thông đã thấy mình bất tử và thấy thiên tình sử kia đáng lưu lại hậu thế.
"Làm như ông Huy Thông mong mỏi cho người ta ca tụng cái tài thi sĩ, cái tài học, cái đẹp như thần tiên...
"Ông Huy Thông của tôi đọc bài của Suối Đào chắc bây giờ đang nổi giận".
Cuộc cách mạng về thơ đã bùng ra ở Phụ Nữ Tân Văn với bài "Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ" ngày 10-3-1932, Phụ Nữ Tân Văn số 122.
Sau đó im bặt cho đến số 153 ra vào tháng 6 năm 1932, Lưu Trọng Lư, dưới tên giả cô Liên Hương, mới lên tiếng hưởng ứng Phan Khôi. Rồi hình như viên đá thứ hai của cô Liên Hương ấy cũng không gây được tiếng động nào trên cái hồ văn học Phụ Nữ. Tờ báo đầu tiên hưởng ứng nồng nhiệt là Phong Hoá của Tự Lực Văn Đoàn, chứ không phải báo Phụ Nữ Tân Văn của Phan Khôi, vì suốt năm 1932 Phụ Nữ Tân Văn không có một bài nào đề cập thêm về vấn đề thơ mới. Chưa hiểu nửa năm đầu 1933 thế nào, vì các thư viện mà tôi tra cứu thì thiếu những số từ Janvier 1933 đến Juin 1933.
An Điểm phê bình thơ mới trên Phụ Nữ Tân Văn
Nhưng từ Juillet 1933, thì trên Phụ Nữ Tân Văn thấy có nhiều bài đề cập đến thơ mới.
Ngày 6-7-1933 (P.N.T.V. số 207) An Điễm, viết bài "Lối thơ mới". Theo An Điễm thì trên Phụ Nữ Tân Văn đã có phong trào thơ mới rồi và nó đã ảnh hưởng mạnh đến văn giới cả trong và ngoài Phụ Nữ Tân Văn :
"Thiệt, "lối thơ mới" là một cái khuynh hướng đương phát triển trong văn giới Annam.
"Không những là thơ lối "Manh Manh" đăng ở P.N.T.V. được nhiều độc giả hiểu ý nghĩa, tình tứ, mà hoan nghênh ; và nhiều thiếu niên thi sĩ bắt đầu bỏ thiên kiến mà sấn bước vào con đường mới lạ, đặt cảm tình tư tưởng vào khuôn mới, khác hẳn phạm vi Đường thi.
"Hình như nhiều giới thi sĩ khác ở ngoài cơ quan PNTV cũng hưởng ứng mà dạn dĩ đặt cho thi cảm của mình vào khuôn mới, khác nào thi nhau mà thách sự mai mỉa của hủ tục ".
Sau đó, An Điễm tuyên bố P.N.T.V. muốn giữ vai trò lãnh đạo phong trào thơ mới:
"Phụ Nữ Tân Văn muốn làm một cơ quan tiền quân cho nên trong sự sửa đổi khuôn khổ của thơ ta, cũng như trong mọi vấn đề kinh tế xã hội, thoát ra ngoài thiên kiến, mà dạn dĩ gọi bạn làm thơ đi vào con đường mới, con đường mới hợp với sự sanh tồn mới.
"Khuynh hướng trong vài giới thi sĩ xứ ta đã thay đổi, thế là bạn làm thơ không phải lãnh đạm đối với kẻ thanh niên thi sĩ của báo Phụ Nữ Tân Văn.
"Ước gì các bạn sẽ tiến mau cho đến ngày đánh vỡ được thành trì giam hãm làm sỉ hổ tình tứ của nhà mỹ thuật là luật nhà Đường; "hồn thơ" trong xứ ta sẽ có cơ tới gần cái thiệt tế hơn" .
Thạch Lam phê bình thơ mới của Hồ Văn Hảo
Ngày 20-7-1933, P.N.T.V. số 208, Thạch Lam, trong bài "Lối thơ mới" đã giới thiệu bài thơ "Con nhà thất nghiệp" của Hồ Văn Hảo:
"Thanh niên thi sĩ Hồ Văn Hảo ra mắt bạn đọc báo lần này là lần thứ hai. Hai lần thách sự mỉa mai của hủ tục, sự áp chế của kỷ luật nhà Đường; hai lần tỏ ra một sự tiến bộ lớn.
"Lần đầu trong "P.N." kỳ số 205, ra ngày 22 Juin vừa rồi thi sĩ Hồ "Tự tình với trăng"...
"Hôm nay xem bài thơ sau này, các bạn sẽ có dịp cùng chúng tôi nhận một sự tiến bộ lớn".
CON NHÀ THẤT NGHIỆP
"Ngọn đèn leo lét,
Xác xơ một nóc nhà tranh;
Trên chiếu tan tành,
Một trẻ thơ nằm im, xanh mét...
Ngoài, trời mưa xào xạt;
Gió tạt
Vào, vách thưa
Mấy hạt mưa
Mảnh mùng tơi tan tác...
Lạnh lùng đứa bé
"Cựa mình, cất tiếng ho rang,
Người mẹ vội vàng
Vuốt ve rằng: "nín đi con nhé!
Cha con gần về tới,
Con ôi,
Nín đi nào!"
Dạ như bầu,
Miệng cười, hàng lệ xối
Cánh cửa tre từ từ mở...
Một luồng gió lạnh chen vô.
Đèn vụt tắt; tối mò...
Ai đó?
Ai? Mình về đây...
Chút nữa đã bị còng;
Mới chun vào, họ la: ăn trộm!
Nếu chân không chạy sớm,
Mặt vợ con còn thấy chi mong!...
Thôi! bây giờ tiền đâu mua thuốc
Cho con; chết nỗi đi Trời!
Túng quá mới ra nghề nhơ nhuốc.
Chắc mai đây nhịn đói lắm, mình ơi!
Hồi làm cu li,

Đến mua, tiệm còn bán chịu;
Nay sở đã đuổi ra, thì
Một đồng điếu
Họ cũng bảo: đi!...
Âm thầm, vợ đốt đèn dầu
Ra chiều buồn bã.
Chồng quên lạnh dạ.
Ngồi thở ra, chắt lưỡi lắc đầu...
Ngoài, vẫn mưa xào xạc
Trong, đứa bé ho rang...
Ngọn đèn tàn
Hết dầu nên lu lạt..."
Đó là một trong những bài thơ mới của khoảng giữa năm 1933 nghĩa là một năm sau bài Tình Già (10-3-1932).
Cô Nguyễn Thị Kiêm bênh thơ mới
Thơ mới tuy phát xuất từ Nam Kỳ với Phan Khôi, là người Trung, nhưng dư luận học giới Nam kỳ lúc ấy cũng phân tán lắm. Nguyễn Văn Hanh phản đối chống thơ mới bao nhiêu thì cô Nguyễn Thị Kiêm, bút hiệu Nguyễn Thị Manh Manh sốt sắng bênh vực thơ mới bấy nhiêu. Ngày 26 Juillet 1933, cô  Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết bênh vực thơ mới tại hội Khuyến học Saigon. Theo Phụ Nữ Tân Văn số 211 ra ngày 10-8-1933, số đăng bài diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm thì cô Kiêm nói truyện lâu trong tiếng rưỡi đồng hồ "mà vì ứng khẩu mà diễn" cho nên báo Phụ Nữ Tân Văn chỉ thuật lại được những đoạn cốt yếu.
Vì bài diễn thuyết này gây xúc động mạnh trong thi giới miền Nam, nên ta cần biết qua về bài diễn văn này. Đây các bạn nghe cô Nguyễn Thị Kiêm nói truyện về thơ mới:
"Trước khi nói về vấn đề thơ mới tôi xin thử giải thơ là gì. Thơ là một danh từ để chỉ chung các vận văn. Làm thơ là gì? Làm thơ tức là lựa một vận văn trong các thứ vận văn, hay là đặt ra một vận văn để phô tả tánh tình, ý tưởng của mình, những quan niệm của mình đối với sự đời, với vũ trụ, những cảnh vật, những hiện tượng của sự sống.
"Thi sĩ An nam hồi nào tới bây giờ thường dùng ba lối thơ : thơ Đường luật; lục bát; song thất lục bát. Không kể thơ Đường luật, là thơ của người Tàu, ta chỉ có hai lối thơ sau, còn bao nhiêu lối khác chỉ cho chung về điệu ca (như hát sẩm, hát nhà trò vân vân...). Phần nhiều thơ Đường luật là thơ tả tình cảm về thân thế của tác giả, còn thơ lục bát và song thất lục bát thì hay thiên về lối tả cảnh, thuật truyện (Style narratif).
"Thơ Đường luật là một lối thơ rất bó buộc về từng câu từng chữ, chặt chịa về luật bình trắc, về phép đối câu, đối chữ. Vì khuôn khổ luật phép phiền phức nên người làm thơ Đường luật phải ở trong một phạm vi eo hẹp lúng túng, hễ cảm hứng ra bài nào thì câu văn như nhái lại mấy trăm bài khác; còn ý tưởng thì dường như đã có nhiều người "phát minh" ra trước rồi. Bằng muốn bỏ hết mấy "sáo cũ", diễn những tư tưởng mới mẻ thì không trúng khuôn khổ. Ta có thể nói rằng thơ Đường luật không dùng được nữa, vì bao nhiêu cái đề hay, bao nhiêu cái ý tưởng sâu, đều đã có một hạng thi sĩ tài đời xưa, phô tả hết rồi, người sau đây vì cái vòng niêm luật ấy, phải lập lại câu cũ ý xưa mà thôi, thành ra lời văn không thích hạp với sự đời bây giờ mà ý tưởng thì không tả ra hết được.
"Hai lối sau, lục bát và song thất lục bát thì giản dị hơn : cách đặt câu định vần cũng không cần phải đối, phải hạn câu. Tuy vậy, về nội dung của nó, ý tưởng ít bị khép hơn thơ Đường luật, song cái hình thức cũng còn ép ta phải lập những sáo cũ.
"Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị "đẹt" mất thì rất cần phải có một lối thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối xưa nên gọi là thơ mới.
"Năm ngoái, trong báo Phụ Nữ Tân Văn, ông Phan Khôi "trình trong làng thơ" một lối thơ mới, nhưng ông cũng kể rằng, mười năm trước, có một thiếu niên thi sĩ ở Hà Nội có sáng kiến này đầu nhứt. Chưa thấy được bài thơ mới đầu nhứt, tôi chỉ đọc bài thơ "Tình già" của ông Phan Khôi.
"Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa, dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở vv..."
"Bài thơ này ít người thích. Người ta cho nó là dài lắm và không có nguyên tắc. Thật, về hình thức thì bài
"Tình già" không được gọn, nhưng về nội dung, tình tứ giãi ra một cách rõ ràng, dễ hiểu mà thật thà. Chỉ đọc qua là nghe khác hẳn lối thơ xưa, có vẻ thiết thực và cảm hoá được người đọc. Chính ông Khôi đã nói đó là một lối thơ làm thử (un essai) cốt đem tình tứ có thật trong tâm hồn mình mà tỏ ra bằng những câu thơ có vận chớ chẳng buộc niêm luật, hạn câu chi hết."
"Sau ông Phan Khôi chẳng bao lâu, báo Phụ Nữ Tãn Văn có đăng bài hưởng ứng lối thơ mới của cô Liên Hương (Trung Kỳ) và một bài thơ mới của ông Lưu Trọng Lư sau đây:
TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI:
Lần bước tiếng gieo thầm, bóng ai kia lủi thủi?
Lẳng lặng với sương gieo im đìm cùng gió thổi,
Không tiếng, không tâm, không thưa không hỏi.
Không hát, không cười, không than, không tủi.
Lận đận với năm canh, bóng ai kia lủi thủi.
(P.N.T.V. số 211, 10-8-1933)
"Tôi chắc là bài "Trên đường đời" được nhiều người thích hơn bài "Tình già". Câu văn bài sau nghe thâm trầm, có nhịp có vần hơn, song nên để ý rằng ý nghĩa của bài này không rõ rệt hơn bài trước mà lại có hơi mờ ám. Nhưng phải biết rằng bài này rút trong một tiểu thuyết (Hai cái thời đại) chớ chẳng phải một bài thơ riêng, vậy muốn hiểu nghĩa của nó phải biết chuyện trong tiểu thuyết hay là hiểu sơ bài ấy nói về khúc nào trong tiểu thuyết. Theo ý tôi là người chưa đọc quyển tiểu thuyết kia, đọc bài "Trên đường đời", định phỏng rằng tác giả (ông Lưu Trọng Lư) muốn tả thân cô độc, đau khổ, của một người trên đường đời có khác nào một bóng người âm thầm đi một mình trong cái đêm tối. . . . . . .
"Bài "Trên đường đời" không gọi được là một bài vì nó vắn lắm, sau nầy khó làm mẫu để tỏ tư tưởng khác, chỉ kêu là một khúc trong một bài (une strophe). Bây giờ muốn làm ra một bài một điệu thì nên thêm một khúc nữa tương tự mẫu khúc trên rồi hai khúc sau chỉ có bốn câu hay ba câu tùy ý, như vậy hình thức điệu này rõ rệt, chắc chắn, có hơi giống điệu sonnet của thơ Pháp. (Đọc một sonnet Pháp). Đây là tôi bày một ý kiến cho các thi sĩ (une proposition) chớ không phải nói ông Lưu Trọng Lư bắt chước theo thơ Pháp mà các ngài hòng la lên:
"Bỏ thơ Tàu lại vớ thơ Tây!
"Sau bài "Trên đường đời" còn có một lối thơ mới. Tác giả Ký Thanh Tâm (không biết của ông hay là bà nào) gởi đăng báo P.N.T.V.
"Tôi thử đọc bài này, tựa là "Vắng khách thơ". Hình thức bài này chia rõ ra ba phần: phần đầu: Xuân năm ngoái, phần thứ nhì: ly biệt, phần thứ ba: Xuân năm nay: ý tưởng rõ rệt dễ hiểu. Nên để ý rằng bài nói về sự buồn (ly biệt, nhớ thương) mà câu văn lại gọn gàng, phe phẩy như nhảy nhót (style sautillant) vì tại câu văn vắn, chấm phết nhiều. Thành ra đọc bài " Vắng khách thơ " xong, người đọc sẽ la: "cái bài ngộ nghĩnh quá!" chớ không có cảm tưởng buồn. Đây, ta thấy rõ cái hình thức bài văn có quan hệ lớn đối với nội dung.
"Đó là ba bài thơ mới đầu hết mà ít có ai để ý tới. Bây giờ tôi sẽ bàn đến thơ mới sau này, của tôi và bạn hưởng ứng như Hồ Văn Hảo, Khắc Minh vân vân là bọn người làm đại náo trong làng thơ.
" Đầu năm ngoái, trong số báo mùa xuân của Phụ Nữ Tân Văn, có bài thơ mới đầu nhứt của tôi, tựa là "Viếng phòng vắng" (Đọc bài thơ) tả những tư tưởng của người khách, đến một phòng xưa, phòng của người bạn yêu đã quá cố. Bài này thấy rõ rệt 7 strophes, mỗi strophe giống nhau, strophe đầu và trong strophe chót hơi đồng chữ mà khác ý. Khúc đầu và khúc chót:
Gió lọt phòng không Gió lọt phòng không
Tạt hơi đông Tạt hơi đông
Lạnh như đồng. Lạnh như đồng.
Ngồi mơ tưởng... Ngồi mơ tưởng..
Ngày xưa phất phưởng Tình xưa phất phưởng
Dấy động tơ lòng Ấm dịu cõi lòng.
"Một khúc có 6 câu. Câu thứ 1 và 5, 6, thì mỗi câu có bốn chữ, câu 2, 3, 4 mỗi câu có 3 chữ. Vận thì câu 1, 2, 3, 6 ăn nhịp với nhau; 4, 5 vần với nhau. Khúc đầu là nhập đề liền, lại là cái giàn cảnh: Người khách đến viếng phòng vắng, ngồi trong phòng. Cửa phòng mở he hé, luồng gió lạnh tạt vào làm cho khách rúng động ; tưởng ngày xưa phất phưởng; lòng lại bồi hồi. Khúc thứ 2, 3, 4, 5, 6 tả những tư tưởng của khách. Do theo mấy tư tưởng ấy, ta có thể thấy cái phòng không.
Trải đã mấy trăng
Hỡi nhện giăng,
Với rêu lan,
Tấm vách cũ...
Từ khi người chủ
Một giấc lặng trang?
"Khúc chót là cái kết luận của mấy tư tưởng nọ, là cái tâm hồn (état d'âme) của người khách sau khi ôn truyện xưa nhớ người xưa...Tình xưa phất phưởng, ấm dịu cõi lòng.
"Sau bài này, tôi cũng theo điệu này mà viết một bài khác, tựa là "Thơ gửi cho em Vân" (đọc và cắt nghĩa bài sau...). Còn đây là là một điệu khác. Điệu này tôi có làm hai bài "Canh tàn" và "Mộng du" (đọc hai bài ấy). Tôi xin chép một bài ra đây để tiện chỉ cách đặt.
CANH TÀN
Em ơi, nghe lóng nghe
Gió đêm thoáng qua cửa,
Lụn tàn một góc lửa,
Lạnh ngắt chốn buồng the!. . 
Gió đêm thoáng qua cửa...
Não dạ, dế tỉ te.
Lạnh ngắt chốn buồng the.
Em ôi, khêu chút lữa,. . .
Não dạ, dế tỉ te.
Gió ru... " thiết chi nữa!"
Em ôi, khêu chút lữa,
Rồi lại ngồi đây nghe
Gió ru... " thiết chi nữa! "
Sụt sùi mấy cành tre...
Em ngồi đây có nghe.
Tơ lòng chị đứt nữa?...
Bài này có 4 khúc, mỗi khúc 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Khác là câu thứ 2 và 4 của khúc trước đem vô khúc kế làm ra câu thứ 1 và 3. Tôi ngụ ý đặt điệu này theo bài (... Soir) của thi sĩ Pháp Charles Baudelaire. (Đọc bài ấy) có mấy câu lập đi lập lại. Không phài là túng vận hay là chỉ để êm tai, mà thật là cái dụng ý để tả cái buồn, một cái ý tuởng đang vấn vít theo mãi.
"Trong một điệu khác, tôi cũng dùng lối lập đi lập lại câu văn, nhưng cái dụng ý lại khác và vấn đề bài cũng khác xa bài này. Ấy là bài "Hai cô thiếu nữ" (đọc bài ấy).
"Bài này cũng có nhiều khúc. Mỗi đoạn có 4 câu, câu 1 và 3 có 7 chữ, câu 2 và 4 có 8 chữ. Câu 1 và 9 là câu lập lại. Cái đề là "Hai cô thiếu nữ" thì bài này chỉ thuật chuyện hai cô thiếu nữ, tác giả không để mình vô trong đó, không nói cảm tưởng của mình, cũng không phê bình câu chuyện; để cho mặc ý người đọc phán đoán.
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng;
(Một cô ở chợ một cô ở đồng)
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng,
Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen.
"Mấy câu lập lại vừa là cái giây liên lạc (lien de transition) trong bài vừa là cái điệu riêng của bài. Có nhiều người cho rằng lập lại câu văn là đỡ kiếm vần và dễ làm lắm, kéo dài bao nhiêu cũng được, làm mấy chục bài như vậy cũng được. Tha hồ cho mấy ông cứ làm! Nhưng lập lại câu văn như trong bài "Canh tàn" và bài "Hai cô thiếu nữ" mà không khéo lập, cho ăn nhập với câu trên câu dưới, thì mấy câu lập đi lập lại sẽ làm "nghẹt" bài thơ, lui không lui, tới không tới, khác nào người dui là chàng "Vân Tiên cõng mẹ" vô không vô mà ra không ra. Tôi nói như vầy là có một bài thơ ngộ nghĩnh, giọng khôi hài, không biết tác giả là ai, hình như của Cổ Nguyệt Nguyên thì phải.
Vân Tiên cõng mẹ trở ra,
Đụng lấy cột nhà cõng mẹ trở vô.
Vân Tiên cõng mẹ trở vô,
Đụng lấy cột bồ cõng mẹ trở ra.
Vân Tiên cõng mẹ trở ra... vân vân..."
"Tôi cũng có dùng lối song thất lục bát, rồi xen một lối vận khác vào, để thành ra một lối thơ mới như trong bài "Sa đàn" (đọc và chỉ nguyên tắc bài ấy).
"Gần đây người mình có dịch văn Pháp nhiều lắm. Dịch ra bằng lối bát cú, tứ cú cũng có, lối lục bát, song thất lục bát cũng có. Song hai lối sau thường dùng hơn vì theo hình thức, dễ phô tả ý tưởng của tác giả hơn hai lối nọ. Dịch các thơ Tây bằng lối song thất lục bát tôi chẳng nóigì, đến như dịch mấy bài thơ của thi sĩ Pháp Paul Verlaine là một lối thơ đặc biệt quá mà dịch bằng lối lục bát thì không trúng ý tác giả. Ông Verlaine muốn cho thơ đặt làm sao mà đọc nghe như tiếng đờn. Thế nên ông có một lối văn riêng. Nhưng vậy, không phải thơ ấy không có nghĩa. Đọc nghe êm ái mà lại cho người "thấy" được thưởng thức được cảm giác khác.
"Tôi xin đọc hai bài thơ của ông, hai bài này có nhiều dịch giả (đọc bài La lune blanche và Chanson dautomne). Rồi bây giờ tôi đọc mấy dịch văn. Đây là bài "Khúc ca hay" (La bonne chanson hay là La lune blanche) của ông Phạm Đình Nguyên dịch "Khúc ca hay" theo lối lục bát, lời văn hay, ý tưởng trúng, nhưng lối lục bát khác với lối văn riêng của Verlaine quá thành ra không tả hết cái hay. Bây giờ tôi đọc bài "Vầng trăng bạc" của ông Đào Thanh Phước cũng dịch bài La lune blanche mà dịch bằng lối thơ mới. Tôi cũng xin đọc hai bài dịch "Chanson dautomne" của hai ông Đào Thanh Phước và Dương Quang, bằng một lối thơ mới, ý tưởng trúng mà câu văn dồi dào có lẽ đạt được ý muốn của tác giả. Nãy giờ tôi nói đến dịch văn tây là có ý tỏ rằng với lối thơ mới người ta sẽ dịch được nhiều bài hay.
"Trước khi dứt câu chuyện thơ mới, tôi xin bàn đến vài bài thơ mới của thi sĩ Hồ Văn Hảo. Tiếc rằng tôi không đủ thời giờ để nói đến các bạn hưởng ứng khác như Khắc Minh vân vân ... Bài thơ của Hồ Văn Hảo là " Tự tình với trăng " (đọc và chỉ nguyên tắc bài ấy) câu văn thật êm đềm mà rõ rệt, người xem bài này có thể vẽ ra một cảnh.
Màn trời ai vén,
Để chị Hằng mặt thẹn đỏ tươi tươi
Một nụ cười,
Ra chiều xẻn lẻn...
"Tiếc là ý tưởng bài này có hơi cũ, tác giả chê cõi đời là "bể khổ trầm luân" không thiết gì đến đời, muốn lên ở cung trăng cho êm tịnh.
"Nhưng bài sau thì lại khác hẳn. Ấy là bài "Con nhà thất nghiệp" mà người ta cho là chẳng phải thơ. Chỉ vì chẳng phải than thân trách phận, tả cảnh hoa tàn, nguyệt xế, suối chảy chim ngâm mà là một cảnh thiết thực, một cảnh khổ có thực trong đời: người thất nghiệp.
"Có lẽ trong thơ văn, người cu li ờ trần quần vẫn là một động vật không có gì lãng mạn chăng? Có lẽ cái bi kịch một người nghèo khổ phải đi ăn trộm "hụt", chúng ta hay được la "ăn trộm"! rồi anh chạy trốn, kịch ấy không có gì lạ, đáng để ý chăng? (đọc bài "Con nhà thất nghiệp" và phê bình).
"Kết luận tôi xin nhắc rằng chúng tôi chẳng hề nói mình đặt ra những "thơ mới" hoàn toàn xuất sắc bao giờ, chỉ mong rằng lối thơ mới được nhiều người để ý đến và nó có thể trở nên một lối thơ thông dụng để tả một cách thiết thực rõ ràng những thi cảm của các nhà thi sĩ hiện thời."
Phụ Nữ Tân Văn bênh thơ mới
Cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết ngày 26 Juillet 1933. Bài diễn thuyết của cô tuy mãi sau này mới đăng lên Phụ Nữ Tân Văn số 211 (10-8-1933) đoạn đầu và đoạn sau mãi đến số 213 (24-8-1933) mới đăng hết, bài diễn thuyết ấy đã được báo Phụ Nữ tường thuật ngay từ số 210 và liên tiếp các số sau.
Nơi số 210 (3-8-1933), nghĩa là một tuần sau khi cô Kiêm đọc diễn văn, bài xã thuyết của trang nhất tựa là "Đáp lại một cuộc bút chiến" tác giả ký Phụ Nữ Tân Văn đã cực tán dương cô Kiêm như là người đầu tiên dám can đảm dạn dĩ đi "hẳn vào con đường mới, không quản sự mỉa mai của nhiều người thủ cựu" (P.N.T.V. số 210):
"Cô Nguyễn Thị Kiêm đã diễn thuyết ở hội Khuyến học Saigon về lối thơ mới.
"Tất cả bạn độc giả có xem qua cuộc bút chiến to tát của vài tờ báo đối với thơ mới đăng ở Phụ Nữ Tân Văn sẽ nhận được ý nghĩa cuộc diễn thuyết này.
"Vài năm nay, đành rằng vẫn có nhiều người bảo phải bỏ những khuôn khổ cũ trong thi ca An nam, vì nó không còn thích hạp với tình tứ và tư tưởng của thi sĩ đời nay, là đời điển khí.
"Có người cũng đã bắt chước lối tây hay là tự ý bày ra lối mới để làm thử một hai bài thơ.
"Nhưng, thật ra, chưa có thi sĩ nào dạn dĩ bước hẳn vào con đường mới, không quản sự mai mỉa của "nhiều người thủ cựu".
"Không ai có thể cãi rằng cô Nguyễn thị Manh Manh đã đem thi cảm thật mà đặt vào khuôn khổ mới, tỏ ra là một tân nhân vật chịu ảnh hưởng trực tiếp của thơ Tây.
"Người nào chịu bỏ thiên kiến không kể những lời chế diễu quá dễ dàng của vài ông túng "câu chuyện hằng ngày"; người nào có huấn luyện về văn thơ, người nào chịu khó suy nghĩ trong khi đọc, tất nhận được thi cảm trong những bài thơ mới của cô Nguyễn, và đã tự hiểu rằng: tinh tứ mới cần diễn ra trong thơ mới ... 
"Cô Nguyễn đã tỏ ra quan niệm mới đối với thơ vần; cô lại là người có thi cảm cho nên sự sáng kiến của cô có ảnh hưởng và nhơn đó mà sinh bất tiện cho cô. Ta cứ xem cuộc bút chiến to lớn và phi thường về thơ lối mới thì đủ biết.
"Người thi sĩ của báo P.N.T.V. đối phó với sức phản động ra thể nào?
"Cô đã đăng dàn diễn thuyết để đáp lại những lời chỉ trích ; cô đã tỏ ra nghị lực phấn đấu một cách rõ rệt.
"Thái độ của bạn nữ lưu nầy sẽ có ảnh hưởng hay cho vận động phụ nữ; bạn đàn bà có thể tự phụ vì cô Nguyễn đã dạn dĩ phấn đấu như thế ! chúng tôi xin chị em lưu ý tới thái độ của bạn nữ biên tập chỉ là vì cơ vận động phụ nữ; chúng tôi nêu mục này ở mục xã thuyết là vì cái ảnh hưởng của nó đối với trào lưu phụ nữ, chớ không phải vì nhà diễn thuyết là bạn của chúng tôi đâu.
"Chị em đọc báo tất đã nhận chủ tâm của chúng tôi"...(Phụ Nữ Tân Văn số 210, 3-8-1933).
Các bạn nên ghi nhận kỹ lưỡng đoạn văn trên đây. Nó không phải của một nhà văn nào nhận định về cô Kiêm, về thơ mới, về cuộc tranh luận giữa thơ cũ thơ mới, mà nó là bài xã thuyết, bài lập trường của báo Phụ Nữ, tức là nó nằm ở trong chính sách, nằm trong đường lối của Phụ Nữ Tân Văn.
Huấn Minh ca ngợi thơ mới của cô Kiêm
Rồi cũng trong số 210 này, sau bài lập trường kể trên đây, còn có một bài tường thuật của Huấn Minh tựa là "Cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại hội Khuyến Học về LỐI THƠ MỚI". Đây là một bài tường thuật rất có ý nghĩa, bởi nó hợp với điều mà Ngộ Không đã tường thuật ở Phong Hoá nghĩa là nó tố cáo sự hăng say của văn giới đối với vấn đề. Trong bài tường thuật này Huấn Minh đã ghi nhận bảy điểm bằng bảy tựa đề in chữ to :
1. Tựa đề thứ nhất "Cuộc diễn thuyết về lối thơ mới". Huấn Minh ghi: "Một tuần lễ nay, đi đến đâu cũng nghe bàn bạc về "lối thơ mới" của cô Nguyễn Thị Manh Manh, và cuộc diễn thuyết về lối này.
Văn sĩ Tần Việt và nữ sĩ Tịnh Đế dùng lối trào phúng mà biên "nhàn đàm" và "câu chuyện hàng ngày để kích bác Nguyễn nữ sĩ, tự nhiên làm cho công chúng chú ý tới cuộc diễn thuyết của bạn chúng tôi.
"
Cuộc diễn thuyết này là một lời thanh minh; nó mở ra trong văn học xứ này một trương mới; nó có hai đặc sắc. Một lần đầu, ở xứ này có cuộc tranh biện kịch liệt về thơ, về khuôn khổ cũ và mới, lần này là lần thứ nhứt, một thiếu niên nữ sĩ đứng ở trước chỗ đông người làm án một bọn văn sĩ thủ cựu".
2. Tựa đề hai "Đông nhứt các buổi hội"Huấn Minh ghi: "Buổi diễn thuyết tối hôm thứ tư 26 Juillet vừa rồi được đông người nghe nhứt...
"Tân Việt và bọn của ông ngồi rải rác các nơi, tức là đại biểu cho sức phản động. Trong thi giới cũng như trong các phạm vi khác vẫn có lắm kẻ bảo thủ ".
Điều ghi nhận ông Tân Việt và bọn ông kéo nhau đi để phá cô Kiêm là điểm các bạn nên ghi chú.
3. Tựa đề ba "Thơ hăm dọa"Huấn Minh ghi: "Cô Nguyễn Thị Kiêm tới hội quán! Người trong hội trao lại cho cô một xấp dày những thơ hăm dọa".
Điều ghi chú này lại càng là một điểm độc đáo, tố cáo vấn đề gay go đến mức độ nào.
4. Tựa đề bốn "Từ hai mươi lăm năm nay!", Huấn Minh ghi: "8 giờ rưỡi ! ông hội trưởng hội Khuyến học, đốc tơ Trần Văn Đôn, đứng ra giới thiệu nữ diễn giả.
- "Hội Khuyến học có đã hai mươi lăm năm nay: lần này là lần thứ nhứt, một người phụ nữ đăng đàn! "
5. Tựa đề năm "Diễn giả nói một tiếng rưỡi đồng hồ", Huấn Minh ghi: "Cô Nguyễn nói về lối thơ mới. Cô bác những lời nghị luận vô giá trị của ông Tân Việt và cô Tịnh Đế, vân vân, bảo rằng những thơ cô cho đăng trên báo P.N.T.V. không niêm luật. Cô giải thích chữ thơ...
"Cô giải rõ ràng vì sao mà phải bỏ khuôn khổ cũ, không phải vì phạm vi 8 câu 56 chữ không thể giúp cho thi sĩ diễn tả cái thiệt tế ngày nay, bày rõ vấn đề sự sống, cho đến những lối cũ mà hơi rộng hơn là lối lục bát và song thất lục bát cũng không thể làm khuôn cho tình tứ mới được. -Lời quả quyết này quả đúng sự thật!"...
6. Tựa đề sáu "Thái độ của người phản đối", Huấn Minh ghi: "Tuy những nhà phản đối cô Nguyễn đã cao rao là sẽ xin đứng lên phản đối cô tại hội quán, mà họ vẫn ngồi im...Diễn được một tiếng đồng hồ thì chừng mươi người trong bọn phản đối ấy rút về êm. "
7. Tựa đề bảy: "Cảm giác", Huấn Minh ghi: "Trừ những kẻ tật đố, còn thì ai cũng nhận rằng buổi diễn thuyết hôm thứ tư rồi có ảnh hưởng tốt trong mọi đường.
"Dầu sao, lối thơ mới đã chiếm được quyền sống còn trong văn học An Nam.
"Hết thảy bạn nam nữ thấy cô Nguyễn nhận chơn trách cứ của mình và cổ động cho cuộc biến đổi trong thi giới như vậy. Có người đã gọi là một cuộc cách mạng trong làng thơ, - đều hưng khởi trong lòng.
"Văn sĩ An nam phần đông rất lãnh đạm với mọi sự biến đổi, nhờ cử động cương quyết của cô Nguyễn kích thích mà sẽ đổi thái độ của mình ". (P.N.T.V. số 210, 3-8-1933)
Chủ nhiệm Phụ Nữ Tân Văn ca ngợi thơ mới
Cũng trong P.N.T.V. số 210, sau bài của Huấn Minh, chính bà chủ nhiệm Nguyễn Đức Nhuận cũng có bài "Nghe cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết". Các bạn có thể ghi mấy dòng tiêu biểu hơn sau đây: "Một người thiếu nữ đứng trước gần ba trăm thính giả nam nữ mà giảng về thơ, văn chương, cắt nghĩa chức vụ của thơ là thế nào, thỉnh thoảng cầm mấy tờ để đọc những lời chỉ trích của bạn đồng nghiệp mà thái độ rất tự nhiên, rất vững vàng!
"Cái quang cảnh ấy làm cho lời nói của bác sĩ Trần thêm có ý nghĩa.
"Hội Khuyến học ra đời hai mươi lăm năm nay, mới có lần diễn thuyết này diễn giả là một người thiếu nữ! Một người thiếu nữ có tư tưởng, có văn tài. Một người thiếu nữ đã dám bảo rằng phải bỏ những khuôn khổ cũ của thơ ta, phải ngâm vịnh trong khuôn khổ mới!
"Một người thiếu nữ chống lại bao nhiêu nhà thủ cựu trong thi giới mà nói rằng cần phải tả sự thật đời nay trong khuôn khổ rộng hơn khuôn khổ Đường thi.
"Một người thiếu nữ dám ca tụng những thơ rất mới như là bài "Con nhà thất nghiệp" của thi sĩ Hồ Văn Hảo, làm cho bọn công kích thơ mới khó chịu phải kéo nhau ra về!
"Quang cảnh hay thay!
"Tôi ước ao các ngài phản đối lối thơ mới cứ tha hồ phản đối, nhưng giữ phép lịch sự đối với một nữ đồng nghiệp đã dạn dĩ đi vào con đường mới lạ....
"Nếu các ông chịu nhận như vậy rồi đem sự tranh luận về lối thơ mới lên trình độ cao, chớ không nói pha lửng về "bài thơ con cóc" một cách vô vị, thì các ông sẽ được người nghịch nể vì ".
Sau cùng, cũng ở P.N.T.V. số 210, còn có bài "Lối thơ mới" của Thanh Lan (ký tên T.L.) giới thiệu bài thơ "Tình thâm" của Hồ Văn Hảo. Thanh Lan nhận định cái gì ở xã hội ta cũng đang đổi mới. Mà theo tác giả, về sự đổi mới của văn vần, có người chỉ muốn đổi mới về nội dung còn giữ y nguyên hình thức cũ. Thanh Lan không chịu thế: "Những sự biến đổi kịch liệt trong xã hội An Nam về kinh tế và chính trị đã có vang bóng trong văn chương An Nam.
"Về văn xuôi, lối văn đối từng câu từng vế, luộm thuộm lòng thòng, dần dần thối bộ để nhường chỗ cho lối văn mới, hợp với đời mới này hơn.
"Về văn vần, tuy rằng thơ của các thi sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, Hồ Văn Hảo, Khắc Minh và các bạn khác nữa đăng ở Phụ Nữ Tân Văn vẫn còn đương bị chỉ trích dữ, nhưng số độc giả đã đổi thị hiếu mà cảm biết cái thi vị của lối này mỗi ngày mỗi đông.
"Kẻ bảo thủ thấy mỉnh có mòi thất bại, thì đổi chiến sách. Bấy giờ họ bảo rằng:
"Đã đành là thi sĩ phải diễn cái thiệt tế mới trong xã hội, nhưng can chi lại phải bỏ lối thơ Đường luật là lối thơ đã từng nhờ những bài thơ tuyệt bút của bao nhiêu thi sĩ đời xưa mà nổi danh? Can chi mà đổi cái hình thức? Chỉ vụ tất ở hình thức chẳng là nông nổi lắm ru? Chi bằng ta lo về nội dung, nghĩa là cứ diễn đạt tư tưởng và cảm tình mới trong khuôn khổ cũ.
"Tôi xin đáp ngay với người phản động :
- Hình thức và nội dung quan hệ cùng nhau mật thiết lắm.
"Cái áo đà không đủ tỏ là kẻ tu hành chân chính (lhabit ne fait pas le moine) ; nhưng mà cái áo đà (hình thức) cũng đã tỏ ra một cái tinh thần (nội dung) đặc biệt. Vì, quả nhiên, người mặc áo đà có tâm lý khác với người vận y phục thường. Dầu không phải là thầy tu chân chánh chăng nữa người vận áo đà vẫn không phải tâm lý như người thông thường.
"Nói thiết thực hơn về vấn đề thơ mới, thi sĩ nào có tình tứ mới mà chịu diễn đạt trong khuôn tám câu năm mươi sáu chữ, thì sẽ thấy kết quả nầy.
"Tình tứ thật của mình không thấy phát biểu ra được, mà chỉ thấy mình nói những lời mình không muốn nói. Cái khuôn khổ cũ giam mình trong một hoàn cảnh không thật".
Tác giả L.Đ ca ngợi thơ mới
Ngày 7 tháng 9 năm 1933 (P.N.T.V. số 215), một tác giả khác, ký tên L.Đ. đã viết bài "Nên bàn về lối thơ mới". Bài "Nên bàn về lối thơ mới" đã được báo Phụ Nữ Tân Văn giới thiệu như thế này:
"Bổn báo đăng bài sau này của ông L.Đ. để mở đường tranh luận về lối "thơ mới" trong tập báo này. Phụ Nữ Tân Văn không thể làm cơ quan cho đảng phái chính trị hay là văn học nào hết; trên tờ báo chúng tôi có thể đăng bài tả ra những khuynh hướng khác nhau để cho công chúng tranh biện rồi tự kết luận lấy". B.B.
Bài này, trước hết, thuật lại nền học của Việt Nam từ đầu, là một nền học lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Hoa cho nên các kỹ thuật làm thơ viết văn, nhất thiết đều bắt chước Tàu :
"Nước ta từ xưa đến nay vẫn là một nước có một nền văn hiến; song xét ra cho dùng văn cho đúng, văn hiến ấy phần nhiều chuyên chú vào các hạng nhà nho.
"Còn về mặt quốc âm vẫn còn kém sút nhiều lắm, kém sút về hình thức mà về phương diện tinh thần cũng quá eo nghèo.
"Ngày nay hán học đã sắp điêu tàn, e có ngày phải tuyệt diệt. Vậy thì cần nhứt là ta phải kiếm một lối học thuật mới để thay vào. Đó là lẽ cố nhiên ai ai cũng đều công nhận; nhưng trong nước hiện thời có hai nền văn học. Thứ nhất: Pháp văn; thứ nhì: Quốc văn. Pháp văn cần phải học đã đành rồi, song học để mà làm một cái lợi khí để hấp thụ lấy tinh thần Âu Mỹ hầu truyền bá trong dân gian, chớ không thể lấy đó mà thay cho Quốc văn được.
"Vậy thì điều cần thiết hơn hết là ta nên lấy quốc văn làm một môn học phổ thông. Dân ta là An Nam, lại học nói, học viết tiếng An Nam, há chẳng phải là một điều tiện lợi lắm ru. Thế mà từ xưa đến nay có mấy ai cho rằng tôi học quốc văn ở trường này...trường kia ra chăng? Hẳn là không! Ta định lấy Quốc văn là môn học phô thông, mà hồi nào đến giờ không có trường, không có cơ quan cho đúng dắn thì người thức giả phỏng ai lại chẳng đem lòng lo nghĩ .
"Người nho học thi ngồi chễnh chệ, run đùi, tấm tắt khen thầm văn ông Lý, ông Đỗ là hay. Còn hạng tân học khen Pháp văn, là cao thâm uyên bác, khen thơ ông Victor Hugo là khéo, khen văn ông Lamartine là não nuột thâm trầm. Nhhũng hạng có học thì tuỳ theo sở thích của mình mà ưa chuộng, không mấy ai chịu ngóng ngàng đến Quốc văn ; thành thử từ xưa đến nay, cái tình đối với Quốc văn thật là nguội lạnh lợt lạt. Vẫn biết rằng Quốc văn đã phát hiện từ hồi đời nào kia, cũng có người quan tâm đến, nhưng đó là phần ít. Nếu không có thì sao lại có cuốn Kim Vân Kiều, cuốn Tần Cung Oán, cuốn Chinh Phụ Ngâm, cuốn Lục Vân Tiên là mấy bộ văn chương kiệt tác như thế. Song xét cho kỹ thì các nhà văn sĩ hồi xưa làm ra những áng văn ấy vì một cơn ngẫu hứng, hoặc là đem tả lấy cái tâm sự của mình nó uẩn khúc trong lòng chớ chưa phải là vì vấn đề Quốc văn mới sản xuất ra mấy tập văn kia vậy.
"Các nhà nho kia hễ mỗi khi cảm hứng thì làm toàn là thơ bằng Hán văn, mấy ông cho rằng nôm na là mách qué. Bởi thế có mấy ai ngó ngàng đến vận mạng, đến tiền đồ Quốc văn làm chi. Có lẽ vì duyên cớ ấy mà làm cho lắm điều trở ngại về Quốc văn, sự tấn bộ về Quốc văn cũng phải dần dà chểnh mảng. Hiện nay chúng ta đã biết rằng Quốc văn là eo hẹp, nên chỉ lật đật tu bổ, trau dồi lại cho tốt; xây tường đắp móng cho nền Quốc văn được rực rỡ thêm nhiều. Kẻ lo tìm kiếm nhiều tiếng mới, người lại lo bày bố nhiều lối thơ. Nói tóm lại ai ai cũng đều lo sửa đổi "cái kho hương hỏa" của mình cho hoàn toàn thiện mỹ, hầu chẳng hổ rằng người nước ta là một giống dân hiếu học, văn chương nước ta chẳng kém chi người.
"Nay thử hỏi ý kiến bày ra "thơ mới" phát hiện vào thời kỳ nào?
"Người nước ta thuở xưa phần đông chuyên về hán học. Cứ theo sách cũ tra cứu ra thì nước ta biết chữ Hán tự đời Hồng Bàng, nghĩa là lúc ban sơ mới khai quốc thì trong nước ta đã có chữ Hán. Tiền nhân của chúng ta học hán văn tất phải dùng chữ, dặt câu theo Hán. Trở về sau, dần dần Hán mạt, cải Đường là lúc chữ Hán thịnh hành mới biến chế và phân ra nào là : ngũ ngôn cố thể, ngũ ngôn cận thể, ngũ ngôn bài luật, ngũ ngôn luật, ngũ ngôn tuyệt cú ; thất ngôn cổ thể, thất ngôn cận thể, thất ngôn luật, thất ngôn bài luật, thất ngôn tuyệt cú vv... song thể cách thơ từ cũng chưa phải là vào tình trạng quá gắt gao. Trở về sau, từ đời Trung Hưng trong nước ta sấp xuống chuyên dùng lối thơ thất ngôn luật, trong một bài thơ phải có câu: phá đề, nhập đề, thượng trạng, hạ trạng, thuợng luận, hạ luận, thượng kết, hạ kết, bó buộc bách xúc thái quá, xưa nay không có thế bao giờ.
"Về sau, các nhà nho nào là văn nhân thi sĩ, hễ mỗi cơn khiển hứng thì mượn lối đó mà làm, thét rồi đời này sang đời kia thành di truyền ra một tánh quen, nói trắng ra thành một "cái tật" là đúng hơn, không thế nào trừ bỏ dặng.
"Đến sau - không biết vào thời kỳ nào? - Hoặc giả vì lối thơ ấy câu đã ngắn, lại có hạn; phần niêm luật quá gắt gao, trang nghiêm, hiểm hóc, sao là "bình", sao là "trắc", lại còn "âm vận", hãm người làm thơ phải theo lấy đó. Thành thử cái ý kiến của mình không thể nào đem tả ra cho hết nội trong "năm mươi sáu" chữ ấy. Phải cân nhắc tỉ mỉ từng câu, từng chữ, thật là trong óc lúng túng, bực bội vô cùng những người làm thơ đều biết - vì thế mà ngòi bút không đặng một tí tự do, và câu văn cũng kém mất đôi phần linh hoạt.
"Thật vậy, có nhiều khi tôi tập làm thơ trên nầy, hễ bị "bí" một cái, xuất mồ hôi hột chẳng chơi! Cào tai, gãi cổ; chọn tiếng này, lựa tiếng kia mãi rồi trọn một ngày thơ đâu chẳng thấy, chỉ thấy trí óc nó dật dờ chóng mặt, mà dầu có đặng đi nữa đọc bài thơ nghe cũng "xẳng lè". Vì sao? Vì trong bài thơ có nhiều chữ tôi không muốn để mà buộc lòng tôi phải để. Trước sự bức bách của thể cách Tàu, chẳng phải bây giờ mới có người nghĩ ra thơ mới, mà đã có người nghĩ ra thơ mới từ thủa nào rồi kia: đó là hai thể lục bát và song thất lục bát.
"Thiết nghĩ, vì duyên cớ ấy mới có người phát minh ra hai lối thơ mới - ngày nay đã cũ rồi - chính là thơ lục bát, và song thất lục bát kia vậy. Ấy đó, vấn đề thơ mới này sanh ra trong óc tiền nhân ta lâu rồi; chớ không phải đến nay mới có chúng ta là trước nhứt. Song đó chẳng qua là mấy tay thi sĩ đại tài sáng kiến ra một lúc mà thôi. Trở về sau cái tình ấy tưởng đâu là phải tiêu diệt mất, vì người ta đối với nó một cách hờ hững lơ là; khác nào một luồng gió vừa thổi lai rai, một đốm lửa con con trong đống củi".
Lần thứ hai, văn sĩ ta, theo ông L.Đ., đã lại nghĩ ra thơ mới, đó là ông Trần Tuấn Khải với điệu "Anh khóa".
"Về thời kỳ gần đây thấy trong quyển "Duyên nợ phù sinh" của ông Á Nam Trần Tuấn Khải có một bài thơ mới tựa là: "Tiễn chân anh khoá xuống tàu".
Anh Khoá ơi em tiễn chân anh xuống tận bến tàu (1)
Đôi tay em đỡ lấy cái khăn giầu (trầu) em lấy đưa anh
"Ấy cái điệu thơ mới của ông Trần là như thế.
"Ông khéo sáng kiến dùng điệu thơ lục bát thêm tiếng thêm điệu vào thành ra bài thơ, không có hạn câu, hạn chữ, dễ đạt được ý tứ và phô bày ra rõ ràng tình tiết. Khi đọc lên lại nghe rất êm tai, dễ cảm hoá được lòng người, vì câu văn thật là não nùng uyển chuyển lắm.
Các nhà làm thơ mới sau ông Trần Tuấn Khải, cũng theo ông L.Đ., hình như cũng chỉ là theo đà tiến hoá chung mà gây thành phong trào rầm rộ hơn chứ không có gì là lạ lùng hay lập dị.
"Về sau phong trào "thơ mới" sôi nổi, không khác nào luồng gió lai rai kia hoá thành luồng giông lớn, đốm lửa con con kia bừng cháy. Lửa càng cao, giông càng lớn: bao nhiêu người tỉnh giấc đều đối với vấn đề thơ mới một cái tình cảm rất nồng nàn". Sau đấy, ông L.Đ. kể tên và khen một số nhà thơ mới như Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Hoàng Xuân Mộng, Nguyễn Thị Kiêm:
"Đến đây có lẽ là thời kỳ giải quyết. Nào là bài "Tình già" của ông Phan Khôi, "Trên đường đời" của ông Lưu Trọng Lư, "Trên con đường cũ" của ông Hoàng Xuân Mộng vân vân... Lại cô Nguyễn Thị Kiêm  là một nhà tân nữ lưu, sốt sắng đứng lên diễn thuyết tại nhà hội Khuyến học để bàn về lối thơ mới; thì thật là hay lắùm, tốt lắm.
"Tôi xin biểu đồng tình cùng cô, và tôi còn trông mong, khuyến khích sau này sẽ còn nhiều cô Nguyễn Thị Kiêm nữa.
"Tôi lấy làm tiếc không đặng lên mục kích và nghe mấy lời của cô phun châu nhả ngọc, song xem trong báo chương thì cũng đủ biết rằng lời của cô là chánh đáng.
"Một đoạn cô bình luận bài thơ "Tình già" của ông Phan Khôi có câu "Bài thơ này ít có người thích. Người ta cho nó là dài lắm và không có nguyên tắc. Thật, về hình thức thì bài Tình già  không được gọn... "Cô cho nó không có nguyên tắc và không được gọn tôi xin đồng ý cùng cô; còn cô bảo nó là "dài lắm" thì tôi cho rằng trái.
"Ý kiến phát minh ra thơ mới là để tránh lối thơ Đường vì câu nó quá ngắn không thể nào đạt hết ý. Đã cho đó là phiền phức, rấp toan kiếm một con đường mới mẻ rộng rãi, thênh thang để mặc sức ngòi bút vẫy vùng, tình tứ hoạt bát, mà cô còn câu nệ "dài lắm" tôi e trái chăng? Thế thì ta cứ theo lối cũ, cứ tám câu bảy chữ, hoặc 5 chữ 3 vần càng tốt hơn, hà tất phải bày ra lối mới?
"Mong rằng cô suy xét và biết giùm cho, vì chính cô cũng có nói: "Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị "đẹt" mất, thì rất cần phải có một lối thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối xưa nên gọi là thơ mới ".
Nhưng L.Đ. mong rằng thơ mới, tuy hình thức có tự do hơn thơ cũ, nhưng cũng phải đặt ra thể cách cho nó đàng hoàng, chứ không thể để cho ai nấy muốn tự do sao cũng được :
"Còn về nguyên tắc một bài thơ thì cần phải có: Những nhà phát minh thơ mới cũng nên biết rằng thơ mới là để cho ta đặng tự do; song cái tự do ấy có mực thước, có chuẩn bằng, có qui tắc. Lời thơ phải ở trong một cái phạm vi nhất định. Nếu kẻ làm thơ muốn vuợt ra ngoài lề lối ấy, thì tôi tưởng rằng bài thơ không phải là vận văn mà là "tản văn" là phải.
"Ngoài cái nguyên tắc ấy thơ lại phải có âm hưởng véo von. Khi đọc bài thơ nghe ra như khúc đờn êm ái: khi khoan, khi nhặt, lúc bổng, lúc trầm; người xem thơ tư tưởng rằng đứng vào cảnh ngày hè hoặc đêm thu, nghe dế ngâm ve hót.
Đó là kể sơ qua phương diện bề ngoài bài thơ lại phải có ý tứ sâu xa, lời lẽ hùng hồn, câu văn chánh đáng. Thơ có hồn mà không có xác thì chưa phải là thơ toàn; mà có xác lại không có hồn thì khác chi đoá hoa tươi không hương nhụy; chỉ đáng cho ta vất bỏ đi mà thôi!
"Tôi nói nghe ra hơi lạc đề, nhưng muốn luận cái đặc tính về hình thức, về tinh thần bài thơ ra thể nào, cùng cô Nguyễn nên mới dông dài như thế. Tưởng lại bà con cũng chẳng đem lòng cố chấp. Bây giờ tôi nói lại chánh đề "thơ mới!".
Sau đấy ông L.Đ. đề nghị đặt cho thơ mới một cái tên riêng, chứ chẳng nhẽ cứ gọi nó mãi là thơ mới sao cho tiện. Bây giờ là mới, chứ sau này, dăm bảy chục năm, một trăm năm, cũng cứ gọi là thơ mới thì không khỏi vô nghĩa.
"Thơ mới là gì? Đã có người nói đến rồi ! Kêu rằng "thơ mới" chỉ là một cái tên kêu đỡ, tạm một lúc vậy thôi. Về sau, trải qua năm nầy tháng kia lối "thơ mới" mà ta đang kêu đây cũng phải cũ. Chừng ấy không lẽ ta cứ gọi hoài "thơ mới". "Thơ mới" hay là ta cứ để tên đó, rồi dậm thêm như vầy: "Thơ mới mà xưa" chăng? Vậy thì mỗi lối "thơ mới" buộc phải có một cái tên riêng, để sau này khỏi lẫn lộn.
"Vấn đề đặt tên thơ mới là một vấn đề cần nên bàn đến và giải quyết ngay mỗi khi có một lối "thơ mới" xuất hiện. Song cũng không phải là dễ!
"Ít nữa phải có nhiều người hiệp ý kiến lại đặng công đồng ; kẻ đa người giảm bao giờ tột lẽ mới thôi. Làm như vậy một lối thơ đối với cái tên của nó mới xứng. Khi kêu đến "tên" nó thì người đọc có thể hiểu ngay tính cách riêng của nó ra sao? Tỷ như thơ "Lục bát" thì hiểu thơ ấy là thơ câu trên 6 chữ câu dưới 8 chữ; thơ "Song thất lục bát" thì tự hiểu rằng: hai câu 7 chữ, kế đó một câu 6 một câu 8...
"Thấy đó thì đủ biết sự đặt tên cho thơ mới tưởng cũng không phải là vô ích; nhưng hiện thời nó cũng lắm nỗi khó khăn, vì mỗi lối thơ mới còn phải để cho độc giả lựa chọn cho xác đáng rồi mới công nhận".
Nhưng bàn thì bàn chứ thực ra chính tác giả cũng không biết đề nghị được cái tên gì cho ổn, thành ra tác giả đành phó cho thời gian thôi:
"Bao giờ lối thơ đã đăng "nhập tịch" rồi, thì chừng đó cái tên của nó cũng có lẽ phải xuất hiện ra.
"Chính tôi đem hiến cho bà con một lối thơ mới, mà bài của tôi cũng là một lối thơ "vô danh". Suy nghĩ hoài, định cho nó một cái tên nhưng không biết tên chi?...
"Ấy mới biết "bày ra một lối thơ" có lẽ dễ hơ "đặt tên một lối thơ" nhiều lắm.
"Hiện thời phong trào "thơ mới" lôi cuốn bao nhiêu người có nhiệt huyết với quốc văn đều quan tâm chú ý đến rồi, sắp sửa làm cho cái lâu đài quốc văn cực đẹp thêm lên. Bản đồ (plan) đã vẽ, còn chờ có nhân công thì khởi cất ".
Tác giả L.Đ. chẳng phải phải là người đứng ngoài mà bàn suông. Ông bàn rồi ông cũng hăng hái góp công sức. Ông cũng đã làm một bài thơ mới để góp mặt với làng thơ mới :
"Thấy cái nhà ấy là một cái nhà chung, sau này chúng tôi sẽ trông mong nhờ cậy vào nó nhiều lắm nên không dám làm lơ. Đã biết bao nhiêu người lo tạo tác chúng tôi tuy rằng bất tài, không dám dương lên là "tay thợ" lên tường đấp móng dựng cột, ra kèo chúng tôi làm không nổi, song chẳng lẽ điềm nhiên ư? Hoặc là để chúng tôi tiếp phụ công vào ôm gạch, chở cát, trộn hồ tưởng cũng nên.
"Một ngày kia cái lầu cao, mát mẻ ấy gầy dựng hoàn thành rồi, chúng tôi bước đến ở mới là không thẹn và tự nghe trong mình vô cùng thơ thới vui vẻ lạ thường.
"Vì vậy chúng tôi cũng xin đem sau đây "Một lối thơ mới trình chính giữa làng thơ" để cho văn nhân, thi bá liệu lượng chấm giùm. Bài thơ ấy như vầy:
NHẮN AI
Ai chẳng bảo rằng duyên đôi ta là duyên đầm ấm? 
Rày đường xa muôn dặm, 

ai có biết vì đâu mà nên cuộc bể dâu? 
Kìa trời nước một màu, 

ai tỏ lời thề hẹn, 
giành giữ nguyền không vẹn? 
Đã lắm lúc đôi phen, 

nguyện đá vàng liêm tiết dẫu cuộc đời giải kiết... 
Quan san rày vĩnh biệt 

ngao ngán bấy tình trường lại xẻ gánh chia đường 
Nào! luân lý cang thường 

thử xem dường bao nã? 
Ôi ái tình nước lã! 
Danh dự xem bã giả 
vì thế lực kim tiền, 
nên lỗi ước phụ nguyền. 
Tất thành lại khuôn thiên, 

âu thả gièo giòng nước, 
thà phụ lời sau trước. 
Miễn sao là mình được phú quí 

với công danh thì thỏa nguyện bình sanh 
Ôi! duyên nợ mỏng manh, 

nhân tâm thường tráo chác
hỡi ơi người quá ác! 
Hồng nhan thường phận bạc, 

nàng biết thế hay chưa, 
cuộc đời lại nắng mưa. 
Nhắn ai khéo lọc lừa, 

tài tai thường đi cập mấy ai người khỏi gặp!?
Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới
Đến ngày 15-9-1933 (P.N.T.V. số 216) Lưu Trọng Lư lại cho đăng lại bài "Một cái khuynh hướng mới về thi ca", bài mà ông đã viết và cho in trong tập tiểu thuyết "Người sơn nhân" xuất bản vào tháng 5 năm 1933.
Nguyễn Thị Kiêm ca ngợi thơ mới
Ngày 14 tháng 12 năm 1933 (P.N.T.V. số 228), cô Nguyễn Thị Kiêm lại gửi một bức thư ngỏ, tựa đề là "Bức thư gửi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới ".
Chính bức thư là một bài thơ mới khá dài ký tên Nguyễn Thị Manh Manh, nhưng bài thơ này được giới thiệu bằng những dòng văn xuôi sau đây ký tên Nguyễn Thị Kiêm:
"Tờ phụ trương văn chương của Đuốc Nhà Nam ngày 3,4-12-33 vừa rồi, có một bài của ông Hoàng Tâm giở ra câu chuyện thơ mới, thơ cũ mà cãi nữa. Trong bài ông ấy có nói đến tôi, nói rằng tôi đã thất trận, đến đỗi phải gởi thơ mới đăng trong báo Phụ Nữ thời đàm ! ông Hoàng Tâm lầm đấy, Nguyễn Thị Kim ở Phụ Nữ thời đàm với Nguyễn Thị Kiêm viết cho Phụ Nữ Tân Văn là hai người, chớ không phải một: Đến chuyện ông cho tôi "rút cờ" lại là một việc sai nữa. Lâu nay trong báo Phụ Nữ Tân Văn không có đăng thơ mới chỉ vì không trống giấy mà thôi. Người ta vẫn gởi thơ mới đến cho chúng tôi nhiều lắm và chính tôi cũng có làm nhiều bài. Vì có nhiều vấn đề đáng quan tâm hơn là thơ nên chúng tôi hoãn lại chưa có dịp đăng lên báo. Nay ông có nhắc đến, sửa soạn ăn mừng cuộc thắng trận của ông, tôi xin soạn một bài thơ mới của tôi viết cách đây hai tháng nay đăng lên báo. Nếu ông có dư thì giờ và báo Đuốc Nhà Nam có thiếu bài, ông cứ cho tôi hay, tôi sẽ đưa mấy bài thơ mới để cho ông đăng lên báo Đuốc Nhà Nam và phê bình luôn thể".
Đây bài thơ, tức bức thư ngỏ mà Nguyễn Thị Kiêm gửi cho người ưa và người ghét thơ mới. Nó bộc lộ một tâm hồn thiếu nữ đất Lục Tỉnh, thẳng thắn, đột ngột, hăng say:
Phải tôi đấy, Manh Manh, mấy bạn à!
Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng "nột dạ"?
Phải, tôi đây Manh Manh, mấy ông à!
Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ?...
Bọn yêu tựu hỏi nhỏ: "E... chỉ sợ?
Tội nghiệp chớ! Người thì trẻ nên có hơi khờ"...
Bạn ghét xúm hét to: "Á! nó sợ!
Đáng khiếp chửa! Người thì đẹt mà muốn vát cờ"
Nghiêng mình thưa: "Hỡi các bạn quí yêu,
Gì mà sợ? Nghe tôi nói nhỏ: Manh chưa "xiều"
Khoanh tay gọi: "Hỡi các ông trớ trêu,
Khoan vinh mặt, đứng ngay cho tôi tỏ mấy điều
Thật, lâu nay tôi vắng đến "làng thơ"
Các bạn ơi, không phải phụ ai mà hởn hờ,
Ừ, lâu nay tôi không có làm thơ,
Các ông ơi, không phải sợ ai mà lu lờ.
Bị lôi cuốn trong chiến trường hoạt động.
Há được ngồi không mà sấp "mấy sợi tơ lòng".
Trước là hành động, thơ không mấy trọng,
Suốt đời nào để nghe quả tim con phập phòng!
Tuy vậy, giữa những lúc đi hăm hở,
Đôi khi tôi giựt mình nhớ đến khách làng thơ.
Ừ, mình nín thinh họ cho nhát dở!
Thôi, lấy "túi văn chương" vét một vài bài thơ.
Bấy lâu đành với tình cảm hởn hờ,
Bây giờ cần tới nó e hồn thơ không tới?
Nó chơi chớ có gì đâu mà chờ,
Đây một bức thơ, thơ mới! thơ mới! thơ mới!
...Rồi tôi thấy biết bao người rũ tới.
Vừa nghe hô thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh
Người ưa với kẻ ghét lối thơ mới,
Ưa đến nghe, ghét đến "bới" làm tôi tái xanh
...Rồi tôi nghe tiếng cười rộ lớn thêm,
Vớ được chuyện, họ cầm bút viết thôi kịch liệt!
Kẻ nghịch la: "ả đảo! chẳng để êm!"
Bạn thích gật đầu nói: "Cái lối thơ hay thiệt"
Kết luận chuyện mới gần thành chuyện cũ
Các bạn ơi, cãi với nhau thét đã nhàm rồi
Làng thơ, thơ cũ, thơ mới, có đủ:
Thơ xưa là đất cũ, thơ nay tỷ đất bồi;
Đất trước để yên, đất sau lo xới,
Đất mới thì ít khô khan hơn đất dụng rồi.
Rủ nhau khai phá, cất thêm sở mới,
Nếu thật tình mong cây thơm mọc nhánh đâm chồi.
Bây giờ tôi thử khuyên khách làng thơ:
Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở,
Ai ghét, ráng kiếm cái hay của thơ
Vậy, chê, khen, có giá trị hoa mới sẽ nở".

Thanh Lãng
Theo http://chimviet.free.fr/











Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lá bồ đề - Truyện ngắn của Lại Văn Long

Lá bồ đề - Truyện ngắn của Lại Văn Long Tháng 5/2012, sau 22 năm thụ án chung thân về tội giết người, hắn được đặc xá, trả tự do. Trước cơ...