Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn

Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, 
Lưu Trọng Lư và Quách Tấn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 
1.1. Là một trong bốn mùa của năm, giữa mùa hạ nóng bức và mùa đông lạnh lẽo, mùa thu như một nhịp cầu, một sự giao thoa tuyệt vời mà tạo hóa đã ban tặng con người. Mùa thu là một mùa đẹp nhất trong năm, cảm nhận cái đẹp ấy nhà thơ Hồ ZDếnh đã từng có câu thơ “Trời không nắng cũng không mưa; Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung”. Cái mơ hồ mênh mông, cái se lạnh của gió thu, cái xào xạc của lá thu, cái huyền ảo của trăng thu như gieo vào lòng người biết bao nỗi buồn. Đó là nơi cảm xúc bắt đầu, là khoảng thời gian mà tất cả chúng ta muốn hòa mình vào với thiên nhiên, với đất trời. Mùa thu đã thực sự vực dậy trong tiềm thức chúng ta những kỷ niệm êm đềm của một thời tuổi trẻ. 
Trong thi ca, mùa thu đã đến với biết bao thi hào lỗi lạc và cũng không ít tác giả đã nổi danh, ghi đậm dấu ấn trong lòng công chúng nhờ những thi ngôn về cái mùa đầy yêu thương này. Có lẽ bởi sự quyến rũ đầy mê hoặc của mùa thu mà hình ảnh về mùa này, cảm hứng của mùa này đã xuất hiện phổ biến trong thi ca thế giới. Những thi văn tài lỗi lạc của thế giới văn chương Tây Phương thường được nhắc nhở đến nhiều nhất là Charles Beaudelaire, Paul Verlaine, Anatole France... đã sáng tác nhiều thi phẩm ca ngợi mùa thu diễm tuyệt. Chính những trường phái thi ca lãng mạn, tượng trưng vào cuối thế kỷ 19 ở Pháp đã tạo nên những ảnh hưởng sâu đậm, đối với các thi sĩ Việt Nam như trường hợp của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Huy Cận, Vũ Đình Liên... Điển hình như những mùa thu trong thi ca Pháp thế kỷ 19 với các tác phẩm Mùa thu của Lamactin, Thu ca của Baudelaire, Thu Khúc của Veclen. Hay trong Đường thi của Bạch Cư Dị, ta đã bắt gặp Tảo thu độc dạ, Thu sơ. Đồng thời trong thơ trung đại Việt Nam, mùa thu luôn là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của thi nhân: Đó là Thôn xá thu châm, Thu dạ lữ cảm, Thu dạ khách cảm, Thu nhật ngẫu thành của Nguyễn Trãi. Với đại thi hào Nguyễn Du có tác phẩm Thu chi, Thu dạ, Thu nhật ký hứng, Sơ thu cảm hứng. Ngô Thì Nhậm có Thu thu tứ tuyệt, Tống thu… 
Nói như thế để thấy được mùa thu đẹp biết bao nhiêu, quyến luyến và khêu gợi biết bao nhiêu. Người xưa đã có một quan niệm về mùa thu thật là tinh tế và sâu sắc: “Thu là thơ của đất trời, thơ là thu của lòng người”. Quả thật, khoảnh khắc mùa thu đã mang lại những cảm nhận, những rung động thật sâu lắng và đẹp đẽ trong lòng người. Có thể còn ai đó đang hoài nghi cách nhìn kỳ diệu ấy về mùa thu của người xưa. Nhưng nếu một lần đọc những bài thơ về mùa thu của các nhà thơ trong phong trào Thơ mới (1932-1945) thì chắc hẳn nỗi hoài nghi ấy sẽ tan biến. 
1.2. Như chúng ta đã biết, sự ra đời của Thơ mới đã làm thay đổi cả bộ mặt của thi đàn Việt Nam thời ấy, đến nỗi chưa đầy mười năm sau, tổng kết lại phong trào Thơ mới thì Hoài Thanh và Hoài Chân đã nhất quyết khẳng định: “Tôi quả quyết rằng trong lịch sự thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng nhu Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” [38.32] 
1.3. Đến với Thơ mới, trước hết người đọc đã cảm nhận được những âm hưởng đặc trưng rất mới mẻ vang lên từ chính tâm hồn xôn xao, rạo rực đầy thiết tha và khao khát của các thi nhân. Các nhà Thơ mới đã nhìn thiên nhiên, cảm nhận không khí của đất trời không phải bằng những công thức ước lệ như thơ ca thời trung đại. Họ đã nhìn thiên nhiên bằng chính đôi mắt của mình, rung động với cảnh sắc của đất trời bằng chính trái tim nghệ sĩ chân thành của họ. Bởi vậy mà thiên nhiên và cảnh vật đi vào trang thơ của các thi sĩ không còn những “tùng, cúc, trúc, mai, long, ly, quy, phượng”, “tứ linh, tứ quý”, những đề tài đã quá sáo mòn và quen thuộc trong thơ ca cổ điển . 
Các nhà Thơ mới đã trực tiếp rung động trước cảnh vật và con người bằng chính trái tim mình, lắng nghe nhịp thở của thiên nhiên bằng chính tâm hồn mình. Nhờ vậy mà cái khoảnh khắc tuyệt diệu của đất trời mùa thu đã đi vào tâm hồn họ với tất cả vẻ đẹp tinh khôi, tươi tắn, rất đỗi hồn nhiên và tràn đầy sức sống. Giữa thiên nhiên mùa thu vào tâm hồn các thi sĩ thời đại mới như có một sự giao hòa rất tự nhiên, thể hiện một sự sống. Giữa thiên nhiên mùa thu và tâm hồn các thi sĩ thời đại mới như có một sự giao hòa rất tự nhiên, thể hiện một sự tương thông khoáng đạt giữa đất trời và lòng người. Họ đã khám phá ra sự sống đầy xôn xao trong linh hồn của thiên nhiên và tạo vật. 
Đó là những cái cựa mình của nụ hoa sắp đến thì bung nở, là tiếng thì thầm của lá, là nỗi rạo của nhung phấn, là sự lung linh của những làn ánh sáng mùa thu, là sự hổn hển của nước mây, là sự run rẩy của chồi non, lộc biếc. Trong cái nhìn mới lạ trong các nhà Thơ mới, không gian và thởi gian mùa thu như cũng có một tâm hồn dạt dào sức sống. 
Mùa thu Việt Nam hàng ngàn năm qua đã là nguồn thi hứng lớn của thơ ca cổ điển, giờ đây như đã trở mình vươn dậy đến với các thi sĩ thời Thơ mới với dáng vẻ và sắc màu như một thiếu nữ ở độ tuổi xuân thì, đầy sức quyến rũ. Mùa thu quả thật đã tiếp tục khơi dậy những nguồn cảm xúc mới mẻ và dồi dào cho phong trào Thơ mới. Đến lượt mình, đọc phong trào Thơ mới, những bài thơ viết về mùa thu của các thi sĩ lại tiếp tục lay động sâu sắc lòng tôi. Nó thức dậy trong tôi những khao khát được sống với cảnh sắc với cảnh sắc trời thu. 
Chúng tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn sẽ góp phần đánh giá, cảm nhận một cách đầy đủ hơn, trọn vẹn hơn về cảm hứng trong thơ ca nói chung và Thơ mới nói riêng. Đây sẽ là một hành trang quý giá để tôi bước vào công việc nghiên cứu và giảng dạy sau này. 
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 
2.1. Mùa thu luôn là một hấp lực tuyệt vời với các nhà nghiên cứu và là một đề tài bất tận của thi ca. Đặc biệt, đến với Thơ mới lãng mạn các thi sĩ đã có những xúc cảm mới mẻ, làm nên những mùa thu mới trong tiến trình phát triển của thơ ca tiếng Việt viết về mùa thu, góp phần vào quá trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam. Thơ mới đã đánh dấu một cái mốc trong quá trình đưa thơ ca dân tộc hòa nhập với các trào lưu văn học hiện đại trên thế giới. Những năm gần đây, với sự đổi mới trong tư duy, nhiều giá trị văn hóa, văn học trong quá khứ được nhìn nhận, đánh giá lại, trong đó có Thơ mới. Nhiều nhà nghiên cứu đã nói đến cái mới của Thơ mới về thể thơ, về giọng điệu, ngôn ngữ, cảm xúc… Ở phương một diện nào đó, có thể xem phong trào Thơ mới là một trong những đỉnh cao của nền thơ ca Việt Nam, trong đó những bài thơ viết về mùa thu có một vị trí khá đặc biệt trong lòng người đọc. Ngắm kỹ hơn bốn mươi gương mặt thi nhân trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân, dường như thi sĩ nào cũng có một đôi lần để trái tim mình rung động trước cảnh sắc mùa thu. 
Trong thơ ca lãng mạn Việt Nam có Gió thu, Tiễn thu, Đêm thu (Tản Đà), Tiếng thu ( Lưu Trọng Lư), Thu, Thu rừng (Huy Cận), Thu (Chế Lan Viên), Cuối thu (Bích Khê), Buồn thu (Hàn Mặc Tử), Chiều thu (Nguyễn Bính), Đêm thu nghe tiếng quạ kêu, Một đêm mưa mùa thu, Thương thu, Cảm thu của Quách Tấn và Xuân Diệu có Thu, Ý thu, Đây mùa thu tới. 
2.2. Thế nhưng, nhìn lại những trang nghiên cứu, phê bình thơ ca viết về mùa thu trong phong trào Thơ mới lãng mạn Việt Nam, chúng tôi thấy chưa nhiều. Viết về phương diện này, các nhà nghiên cứu chưa có điều kiện đi sâu vào một giai đoạn cụ thể mà chỉ đề cập một cách đơn lẻ trong một số bài viết mang tính cảm nhận hoặc giới thiệu, phê bình. Chẳng hạn: Bài Thu của Lê Bảo và bài Đây mùa thu tới của Mã Giang Lân được in trong cuốn Thơ Xuân Diệu và những lời bình (2003), bài Đây mùa thu tới của Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Lai Thúy được in trong cuốn Xuân Diệu - một cái tôi khao khát nồng nàn (2006), bài Thơ Duyên của Nguyễn Văn Long và bài Nguyệt cầm của Lê Quang Hưng được in trong cuốn Xuân Diệu - một cái tôi khao khát nồng nàn (2006). Bài Xuân Diệu nói về Đây mùa thu tới của Hà Minh Đức (Ghi lại theo lời kể của Xuân Diệu ngày 18/10/1969) được in trong cuốn Xuân Diệu - thơ và đời (2008) Riêng một số tiểu luận nghiên cứu về thơ Lưu Trọng Lư và tập Tiếng Thu của ông: Mục từ Lưu Trọng Lư và Tiếng thu của Nguyễn Văn Long trong Từ điển văn học (1994), Lưu Trọng Lư và Tiếng thu của Ngô Văn Phú, Tiếng thu, thơ, nhạc của Lưu Trọng Lư của tác giả Đỗ Đức Hiếu. 
Đặc biệt là bài viết Cảm thu được in trong cuốn Quách Tấn qua cái nhìn phê bình văn học do Quách Giao sưu tầm và tuyển chọn. 
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy các bài viết, các tiểu luận về mùa thu đều mở ra các cách cảm thụ khác nhau. Song các ý kiến, các bài viết đưa ra đều thống nhất khẳng định mùa thu chính là tiếng lòng thổn thức của thi nhân nặng lòng yêu dấu trước cái khoảnh khắc kì diệu của thiên nhiên, đất trời. 
Nguyễn Huy Quát, Chu Thị Thúy Hằng có bài Cảm nhận về mùa thu trong văn học trung đại Việt Nam, đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3, (2008). Bài viết chỉ đề cập đến cảm nhận về mùa thu của một số tác giả trong giai đoạn văn học trung đại Việt Nam. 
2.3. Tất cả những bài nghiên cứu, chuyên luận đó không ít thì nhiều đều đề cập đến cách cảm nhận về mùa thu của một số tác giả trong phong trào Thơ mới (1932-1945). Tuy nhiên những bài nghiên cứu ấy chỉ mang tính chất gợi mở vấn đề mà họ chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu. Chúng tôi cho rằng vấn đề này cần phải được tập trung khai thác sâu trong một giai đoạn cụ thể, để thấy được cách cảm nhận khác nhau, sự cách tân trong nghệ thuật của từng nhà thơ trong phong trào Thơ mới. Luận văn sẽ tiếp tục tìm hiểu ở những khía cạnh mới, từ đó có thể xác định một vị trí trong văn học thật xứng đáng với những gì mà các nhà Thơ mới đã cống hiến cho nền thơ ca dân tộc. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
3.1. Đối tượng nghiên cứu: 
Với mục tiêu khoa học đã đề ra, luận văn này chỉ tập trung làm sáng rõ cách cảm nhận về mùa thu trong thơ ca đặc biệt ở ba nhà thơ trong phong trào Thơ mới giai đoạn (1932-1945). Đó là Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Quách Tấn và chúng tôi dừng lại ở việc tìm hiểu một số tác phẩm tiêu biểu nhất viết về mùa thu của từng tác giả. Riêng ở Lưu Trọng Lư, cảm xúc về mùa thu trong thơ ông được thể hiện ở một số bài, nhưng tiêu biều nhất, tập trung nhất vẫn là bài Tiếng thu. Do vậy trong luận văn này, bài Tiếng thu sẽ được nói đến và trích dẫn nhiều, dễ gây cảm giác lặp. Đó cũng là cái khó khăn về đối tượng nghiên cứu của đề tài này. 
3.2. Phạm vi nghiên cứu 
Để đạt được mục tiêu khoa học đã đặt ra, người viết cần phải khảo sát toàn bộ phong trào Thơ mới đề nhìn thấy rõ hơn đối tượng nghiên cứu của mình. Đồng thời, để giải quyết tốt đề tài, người viết cũng cần phải tham khảo một khối lượng lớn những bài thơ viết về mùa thu trong thơ ca dân tộc và nhân loại. Ngòai ra luận văn cũng cần phải tham khảo nhiều công trình lý luận về thơ để phục vụ cho quá trình nghiên cứu. 
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 
4.1. Mục đích nghiên cứu 
Qua việc khảo sát những bài thơ viết về mùa thu trong thơ ca luận văn nhằm nghiên cứu về Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn qua đó thấy được những đóng góp của các nhà thơ trong những trang viết về đề tài mùa thu.
4. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu 
4.2.1. Đưa ra một cái nhìn về chủ đề mùa thu trong Thơ mới nói chung và ba tác giả Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn nói riêng. 4.2.2. Đi sâu vào khảo sát, phân tích những bài thơ viết về mùa thu của ba nhà thơ trong phong trào Thơ mới để thấy được sự khác biệt so với thơ ca truyền thống. 
Cuối cùng rút ra kết luận để khẳng định lại những đóng góp của ba nhà thơ trong phong trào Thơ mới. 
5. Phương pháp nghiên cứu 
Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục tiêu của nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp khác nhau, trong đó có các phương pháp chính như: Phương pháp so sánh, đối chiếu. Được sử dụng để so sánh, đối chiếu giữa các nhà thơ trong phong trào Thơ mới, giữa phong trào Thơ mới với thơ ca truyền thống, nhằm làm nổi bật những đặc sắc của những tác phẩm viết về mùa thu ở ba nhà thơ trên Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được dùng để đi sâu phân tích những yếu tố độc đáo, mới lạ, như là những đóng góp quan trọng của các nhà Thơ mới, làm phong phú cho đề tài mùa thu của thơ ca. Phương pháp hệ thống và thống kê: Được dùng để thống kê phân loại nguồn tư liệu, phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài. 6. Cấu trúc và đóng góp của luận văn 
6.1. Đóng góp mới của luận văn 
Luận văn là công trình tìm hiểu Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn với cái nhìn tập trung và hệ thống. 
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo vận dụng cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy ngữ văn trong nhà trường. 
6.2. Cấu trúc của luận văn 
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương: 
Chương 1: Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam Chương 2: Cảm nhận về mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn 
Chương 3: Cách tân trong nghệ thuật. 
CHƯƠNG 1 
MÙA THU NGUỒN CẢM HỨNG LỚN CỦA THƠ CA VIỆT NAM 
1.1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật 
Mùa thu mùa của thi ca là mùa rất dễ khơi gợi những cảm xúc, những chắc ẩn trong lòng người, là khoảng thời gian mà chúng ta muốn hít căng vào lồng ngực những hương thơm dịu mát đang luồn lách trong kẽ lá, nhành cây để thấy mình cần thổ lộ, bộc bạch những tình cảm trắc ẩn. Phải chăng đây là lúc những giai điệu đẹp đẽ của mùa thu muốn nhảy nhót lên cùng những xúc cảm của lòng người. Mùa thu người ta thấy mình trở về với chính mình, trở về với những cảm xúc thật nhất, đẹp nhất. Chính vì vậy song song với những bức tranh về mùa thu là những ca khúc, những giai điệu tuyệt vời về mùa thu. Đó là những nốt nhạc đầu tiên trầm buồn, xa vắng mênh mông như tiếng thở của gió. Những giai điệu ấy, như đưa bước chân chúng ta lặng lẽ tìm về với một niềm hoài niệm xưa. “Mùa thu chết”; “Mùa thu cho em”, “Không còn mùa thu”; “Tiếng thu” hay “Thu quyến rũ”; “Suối Mơ”… đều là những tuyệt phẩm viết về mùa thu mà khi được cất lên, giai điệu của chúng có thể khiến bao thế hệ người nghe phải vỡ òa cảm xúc. 
Hầu hết các nhạc sĩ Việt Nam đều có ít nhiều nhạc phẩm viết về mùa thu. Cố nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác nhiều nhạc phẩm có giá trị và phổ nhạc bài thơ của thi hào Guillaume Apollinaire Mùa thu chết, do thi sĩ Bùi Giáng dịch sang Việt ngữ: 
“… Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo 
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi 
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo 
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi 
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo 
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em 
Vẫn chờ em, vẫn chờ em, vẫn chờ Vẫn chờ… đợi em”. 
(Mùa thu chết - Phạm Duy). 
Mùa Thu Chết - Sáng tác: Phạm Duy | Giang Hồng Ngọc
Nhạc phẩm là nỗi day dứt nói lên những thương nhớ khôn nguôi của một mùa thu tàn úa, những ai oán, tiếc thương của người tình vẫn chờ đợi sự trở lại của mùa thu yêu thương cho nhau. 
Hơn hai mươi năm chiến tranh Việt Nam khốc liệt, trong gió chiều ảm đạm, đìu hiu, và những chiếc khăn tang của những ngưởi thiếu phụ với nước mắt mùa thu: 
“Nước mắt mùa thu khóc ai trong chiều 
Hàng cây trút lá, nghĩa trang đìu hiu 
Từng chiếc, từng chiếc lệ khô vàng héo 
Buồn thương từng kiếp nằm trong mộ héo tên người đời quên 
Nước mắt mùa thu khóc than triền miên 
Nước mắt mùa thu khóc than đêm dài 
Mùa thu chơi vơi tiếng mưa buồn rơi”. 
(Mùa thu chết - Phạm Duy). 
Nước mắt đã rơi khi mùa thu về trong buổi chiều thu buồn bã, cảnh vật nơi đây dường như tan tác cõi lòng. Quả thật, bản nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy đã vang lên những nốt nhạc thấm đẫm nỗi buồn và nước mắt trong buổi chiều mùa thu đìu hiu và cô quạnh. 
Tình cảm dành cho mùa thu được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên thể hiện vừa lãng mạn, lại vừa kín đáo nhưng vẫn có sự nồng nàn trong các tình khúc của mình. 
“... Anh có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ 
Anh có nghe nai vàng hát khúc yêu đương 
Và anh có nghe khi mùa thu tới 
Mang ái ân, mang tình yêu tới 
Anh có nghe hồn thu nói mình yêu nhau nhé... 
(Mùa thu cho em - Ngô Thụy Miên) 
Khi mùa hè với cái nắng gay gắt qua đi, mùa thu đến đem theo những cơn gió heo may dịu dàng, những con đường tràn ngập lá vàng rơi và cả khúc yêu thương của những trái tim “vương màu xanh mới”. Đó chính là lời nhắn nhủ mà nhạc sĩ Ngô Thụy Miên gửi gắm trong ca khúc Mùa thu cho em. Lời ca bay bổng, giai điệu ngọt ngào mang âm hưởng những năm 1970 mỗi khi vang lên như khẽ nhắc nhở người nghe rằng mùa thu đã sang rồi. Cô gái trong bài hát đã nhờ vẻ đẹp “má hồng”, “môi em thơm nồng” của mùa thu để bày tỏ tình yêu của mình một cách ý nhị. Khi thiên nhiên, đất trời thay áo mới, con người cũng khoác lên mình một tâm hồn mới, đầy ắp yêu thương và hy vọng. 
Nhắc tới mùa thu, hầu như ai cũng hình dung ra sắc vàng. Đó là màu của những chiếc lá rơi bên thềm, của ánh trăng khuya và cũng là màu vàng tê tái của những ký ức tươi đẹp đã qua, chìm khuất tận nơi chân trời. 
“... Không còn mùa thu, trăng rơi bên thềm 
Không còn lời ru, mơ trên môi mềm 
Em thơ, như mùa xuân đầu, nối dài đêm sâu 
Anh làm mùa thu, cho em mơ màng...” 
Không còn mùa thu (nhạc sĩ Việt Anh) 
Ngoài vẻ đẹp quyến rũ làm xao xuyến lòng người, mùa thu với những lời ru, ánh trăng thề, những con đường hiu quạnh còn đem lại cảm giác buồn man mác. Đó là sự hoài niệm về những gì đã qua, về mối tình cũ đã chìm trong quá khứ. Mùa thu đến và đi quá đột ngột, cũng giống như chuyện tình dang dở của cô gái trong ca khúc Không còn mùa thu, để lại bao nuối tiếc và thương nhớ. Những ký ức về cuộc tình cũ cứ hiện về trong tâm trí của cô gái ấy mỗi độ thu sang. 
Có một mùa “Thu quyến rũ” đã được Đoàn Chuẩn - Từ Linh cảm nhận thế này 
“… Anh mong chờ mùa thu 
Dìu thế nhân vào chốn thiên thai 
Và cánh chim ngập ngừng không muốn bay 
Mùa thu quyến rũ anh rồi…” 
Thu quyến rũ (Đoàn Chuẩn - Từ Linh) 
Ca khúc góp mặt từ năm 1950 nhưng cho đến nay, những câu hát ngập tràn cảm xúc của Thu quyến rũ vẫn khiến bao thế hệ người yêu nhạc Việt Nam đắm chìm vào một không gian lãng mạn, ngả mình trên câu hát khi mỗi độ thu về. Vẻ đẹp của đất trời khi “ngả màu xanh lơ”, khi đàn bướm vui đùa trên những bông hồng, khi “mây bay về nơi cuối trời” đã khiến người nhạc sĩ “tức cảnh sinh tình”. Thu trở nên quyến rũ và đẹp hơn bao giờ hết qua lời kể của một chàng lãng tử si tình đã “trót yêu” tà áo xanh rực rỡ mà mùa thu tự khoác lên mình. 
Là người nổi tiếng với tính cách phong lưu, hào hoa và ông đã đem cái “chất” ấy vào trong các tác phẩm của mình. Đoàn Chuẩn sáng tác không nhiều nhưng mỗi bài hát của ông lại gắn với một giai thoại khác nhau và chủ yếu là về mùa thu vì “đó là mùa của tình yêu”. Mùa thu còn đưa chúng ta vào thế giới của mộng, của mơ, của thương của nhớ, làm rung động lòng người, như gợi một niềm luyến tiếc, xa xôi. Mùa thu đã đưa tên tuổi của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939 - 2001) gắn với nhạc khúc Nhìn những mùa thu đi với nỗi lòng chia tay, nuối tiếc: 
“Nhìn những mùa thu đi 
Em nghe sầu lên trong nắng 
Và lá rụng ngoài song 
Nghe tiếng mình vào quên lãng 
Nghe tháng ngày chết trong thu vàng” 
(Nhìn những mùa thu đi - Trịnh Công Sơn) 
Chúng ta bắt gặp mùa thu lãng mạn bay bổng trong âm nhạc của Văn Cao. Bước vào âm nhạc Việt Nam với ca khúc Suối mơ lúc 16 tuổi, Văn Cao đã nhanh chóng đưa mùa thu gắn liền với những giấc mơ, khát vọng thuộc về tâm hồn và sự sáng tạo của con người: “Suối mơ bên rừng thu vắng, 
dòng nước trôi lững lơ ngoài nắng, 
ngày chưa đi sao gió vương,
bờ xanh ngắt bóng đồi cây thùy dương”. 
(Suối mơ - Văn Cao) 
Đó là tâm trạng cô đơn trong đêm mùa thu. Nghe mùa thu đang rơi theo lá vàng, để rồi từ đó ông dâng tặng đời những mùa thu chan chứa khát vọng tình người: 
“Suối mơ! 
Nghe rừng heo hút 
Dòng êm đưa lá khô già trút 
Còn như lưu hương yêu dấu 
Với suối xưa trời nơi đâu 
Từng hẹn mùa xưa càng xây nhà bên suối 
Nghe suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát 
Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi”. 
(Suối mơ - Văn Cao) 
Mỗi khi thưởng thức nhạc phẩm của Văn Cao, nghe hơi thở Đường thi lẩn khuất trong từng lời ca. Mùa thu của Văn Cao thật mơ màng và huyền diệu. Qua âm nhạc của Văn Cao, chúng ta thấy mùa thu luôn làm xao xuyến trái tim người nghe bởi tiếng lòng tha thiết, cùng những ca từ rất sâu lắng với những giai điệu mượt mà. Đồng thời lắng nghe tiếng thu bằng âm nhạc của Văn Cao, chúng ta có thể cảm nhận được trong những ca từ tiếng Việt được thăng hoa. Với mùa thu, âm nhạc của Văn Cao là một dòng chảy riêng trong nền âm nhạc Việt Nam, dòng chảy ấy luôn hướng về thiên nhiên và con người. Trên con đường nghệ thuật của Văn Cao, mùa thu luôn là nguồn cảm hứng kỳ diệu nhất, là đối tượng thẩm mỹ tuyệt vời nhất để ông sáng tác lên những giai điệu bất hủ. 
Đặc biệt thi phẩm Tiếng thu của Lưu Trọng Lư đã cho chúng ta thấy một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ người cô phụ Việt Nam trông ngóng kẻ chinh phu trở về từ một chiến địa xa xôi. Đó là hình ảnh đáng khâm phục của bao người phụ nữ Việt Nam trong suốt dòng lịch sử của dân tộc. Thi phẩm Tiếng thu được nhạc sĩ Lê Thương phổ nhạc, với nhịp chậm 4/4, hợp âm Pha trưởng: 
“Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức 
Em không nghe rạo rực 
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ 
Em không nghe rừng thu 
Lá thu kêu xào xạc 
Con nai vàng ngơ ngác 
Đạp trên lá vàng khô“. 
(Tiếng thu - Lưu Trọng Lư) 
Một mùa thu thôi nhưng vô số những cách nhìn, những cảm nhận thật tươi mới, tinh tế và đặc sắc đã ghi vào lòng người những âm hưởng vô cùng đẹp đẽ của mùa thu. Với những âm thanh và nhạc điệu thật mền mại và uyển chuyển, các nhạc sĩ đã tạo nên những bản nhạc mùa thu du dương và tràn đầy xúc cảm. Những bản nhạc ấy luôn đi cùng thời gian và năm tháng. Đó là những bản tình ca bất hủ về mùa thu. 
1. 2. Mùa thu trong thi ca 
Một chút gió heo may đã lành lạnh hắt hiu đủ cho lòng chúng ta chùng xuống với chiếc lá rơi nhẹ trên mặt hồ tĩnh lặng như gương. Dẫu không nhìn thấy đâu đây “Một chiếc lá ngô đồng vừa rơi, mọi người đã nhìn thấy mùa thu trở về” (Ngô đồng nhất diệp lục. Thiên hạ cộng tri thu). Chỉ thấy sương khói xây thành cũng đủ cho lòng nhau se sắt đón thu sang. Đã hơn hàng tỷ năm từ khi có sự hiện hữu trái đất này trong vũ trụ mênh mông, mùa thu đã ra đi và trở lại biết bao nhiêu tỉ lần theo chu kỳ tuần hoàn của tạo hóa. Mùa thu, cái thời tiết lãng mạn trữ tình của thiên nhiên đã trở thành đề tài tuyệt diệu vô tận trong kho tàng văn chương nghệ thuật của nhân loại. Nó đã tạo nên bao nhiêu thi hào, thi bá lỗi lạc Đông Tây kim cổ. Không có một nhà khảo cứu văn học thế giới nào, tổng hợp cho hết được những áng văn chương toàn bích ca ngợi mùa thu. Vì hầu như trong tất cả những thi sĩ của mỗi đất nước khi mới bắt đầu yêu thơ và chọn con đường sáng tạo thi ca như một nghiệp dĩ cao quý, đều xác quyết không thể nào từ chối hấp lực tuyệt vời đầy xúc động nghệ thuật của mùa thu.
Hàng ngàn năm trước, khi địa vị của dòng thơ Đường đánh giá là tuyệt đỉnh của nền văn học Trung Hoa, dòng thơ ấy đã khai mờ từ thời sơ Đường dưới thời Vua Cao Tổ năm Vũ Đức Nguyên Niên, đến thời kỳ Văn Đường dưới thời vua Chiêu Tuyên Đế, kéo dài lịch sử Đường thi lên đến cả ngàn năm. Tuy nhiên những bài thơ ca ngợi mùa thu của Lý Bạch, Vương Duy, Thôi Hiệu, Đỗ Phủ... cho đến bây giờ chúng ta có dịp đọc lại vẫn cảm nhận được cái thâm hậu, kỳ tuyệt biết dường nào. Mùa thu là mùa mà các thi nhân đi tìm những vần thơ để sáng tác lên những tuyệt phẩm bất hủ nghìn năm. 
Nhiều thi tài lỗi lạc của thế giới văn chương Tây phương thường được nhắc tới như: Charles Beaudelaire, Paul Verlaine, Anatole France… đã sáng tác nhiều thi phẩm ca ngợi mùa thu diễm tuyệt. Chính những trường phái thi ca lãng mạn, tượng trưng vào cuối thế kỷ 19 ở Pháp, đã tạo nên những âm hưởng sâu đậm đối với các thi sĩ Việt Nam như: Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Huy Cận…[47,1] 
Mùa thu thời tiết lãng mạn trữ tình của thiên nhiên đã trở thành đề tài tuyệt diệu và vô tận trong kho tàng văn chương nghệ thuật của nhân loại. Có lẽ không mùa nào trong năm lãng mạn như mùa thu. Từ lâu mùa thu đã gắn liền với thi ca, hầu như trong tất cả những thi sĩ của mỗi dân tộc, khi mới bắt đầu yêu thơ và chọn con đường sáng tạo thi ca, họ đều không thể từ chối sự hấp dẫn tuyệt vời đầy xúc động của mùa thu. Ở Việt Nam, mùa thu mang đến những cảnh thật mơ màng, quyến rũ. Trong thiên nhiên mùa thu vừa là nguồn cảm hứng, vừa là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của thi nhân. Bước vào thiên nhiên xưa, là bước vào một thiên nhiên tĩnh lặng, yên bình và thanh vắng trở thành vẻ đẹp của thiên nhiên trong nghệ thuật cổ điển. Đêm thu, trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời, hàng phong bên sông, ngọn lửa thuyền chài hắt hiu, nửa khuya tiếng chuông chùa ngân nga làm rung động sóng nước, Trương Kế đã viết nên bài thơ để đời: 
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên 
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên 
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự 
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền 
(Phong Kiều Dạ Bạc) 
Nếu vị tiên thơ đã để lại cho đời những vần thơ bay bổng, lãng mạn thì vị thánh thơ lại mang duyên nợ với đời qua những trang thơ ai oán, day dứt triền miên về những cảnh đời đau khổ, bất hạnh. Đỗ Phủ thường đặt nỗi niềm vào khung cảnh thiên nhiên cao rộng. 
Lác đác rừng phong hạt móc sa 
Ngàn năm hiu hắt khí thu lòa 
Một cảnh rừng mùa thu lạnh lẽo, trắng xóa, bạt ngàn những tuyết và chỉ toàn là tuyết làm lòng người thêm hiu quạnh. Bao đau đớn, bi thương, bất hạnh dồn vào cuối cuộc đời của Đỗ Phủ làm tiếng thơ ông sầu thảm và bi lụy như vậy. Cảnh mùa thu ở đây có vẻ hoành tráng, dữ dội, đúng với phong cách trầm uất và bi tráng của Đỗ Phủ. Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ 
Cô chu nhất hệ cố viên tâm 
Cảnh thu trong thơ xưa có khi được miêu tả qua một số câu thơ trong bài tứ tuyệt, bát cú đường luật. Nhưng cũng có khi cả bài thơ lại hướng về tả cảnh mùa thu hoàn chỉnh. Nói về đề tài “vịnh thu” trong thơ trung đại Việt Nam, cũng nghĩa là tìm hiểu quá trình phát triển của nó qua nhiều thế kỷ. Ban đầu, các nhà thơ cổ điển Việt Nam “vịnh thu” đã đi theo khuôn mòn sử dụng những hình ảnh có sẵn trong nguồn thơ Trung Quốc và mang tính ước lệ, tượng trưng. Các nhà thơ trung đại thường “vịnh thu” ở trạng thái tĩnh và buồn lặng lẽ. Nhà thơ, nhà phê bình Xuân Diệu có lời khen bài Mùa thu của Ngô Chi Lan, một nữ sĩ dưới thời Lê Thánh Tông. Xuân Diệu cho rằng bài thơ của bà là “một bước tiến của thơ, lời văn ở đây trong sáng, liền, thoải mái, không gợi và không có nhạc điệu” [2.15]. Bài thơ nôm có nhan đề Mùa thu đã thể hiện rõ chủ ý của Ngô Chi Lan, nhà thơ đã dành trọn cho việc tả cảnh thu: 
“Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ 
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa 
Giếng ngọc, sen tàn, bông hết thắm 
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa”. 
(Hồng Đức Quốc âm thi tập) 
Qua thế kỷ 16-18, các nhà thơ trung đại Việt Nam ít sử dụng những hình ảnh mang tính công thức, ước lệ khi, không đi theo khuôn mòn khi tả cảnh thu. Nguyễn Du tả cảnh trời thu qua sự phản chiếu của cái long lanh đáy nước in trời: 
“Long lanh đáy nước in trời 
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” 
(Truyện Kiều) 
Một bầu trời thu xanh trong và một mặt nước thu cũng trong veo đã tạo nên một bức tranh tuyệt vời đến vậy. Từ láy “long lanh” đặt lên đầu câu càng tạo nên vẻ hấp dẫn cảnh trời thu, nước thu và âm hưởng mùa thu.
Với cảnh thu man mác thơ mộng, sương khói giăng khắp núi đồi đã thoáng hiện ra não nề trong Đoạn trường tân thanh của đại thi hào Nguyễn Du: 
“Người lên ngựa, kẻ chia bào 
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” 
(Truyện Kiều) 
Những câu thơ thu chia biệt trong Truyện Kiều đã xé nửa vầng trăng. “Thu” không những để thưởng ngắm, đồng thời còn ký thác tấm lòng của tác giả. Đúng là mùa thu đã gợi nhắc buồn mơ trong xa cách nhớ nhung, tạo nên những biến thái nhạy cảm của tâm hồn thi nhân bởi mùa thu. Mùa thu giữ lại bóng trăng mơ màng, giữ lá vàng cùng sương biếc. Bao trùm lên tất cả là màu vàng xôn xao của lá, của gió, của trăng, của thời gian đã trôi, hòa lẫn vào trong cõi lòng đơn chiếc. Mùa thu là mùa chuyển giao những động thái về tạo hóa, nó tạo nên sự mơ hồ giữa trong xanh mùa hạ chưa qua và hiu hiu cái rét của mùa đông đang chờ. 
Một trong hai đại biểu xuất sắc cuối cùng của nền văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Khuyến (1835-1909) được coi là bậc quán quân về thơ tả cảnh mùa thu. Bản nhạc của mùa thu đã đưa nhà thơ Yên Đổ về với tâm trạng cô đơn, buồn lắng, u uất hòa nhập với trời thu tĩnh vắng. Chùm thơ thu ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ấm của ông được đánh giá là tam tuyệt của thơ thu Việt Nam. Đằng sau cảnh thu tĩnh lặng là nỗi niềm tâm sự thầm kín của thi nhân. Với ba bài thơ thu nổi tiếng thì những ưu điểm trong bút pháp miêu tả của ông sáng rỡ lên như một dấu son tươi mới. Với tài năng của mình, Nguyễn Khuyến đã đưa thơ Việt Nam tiến lên một bước mới, đặc biệt là đến với hiện thực, cụ thể là sinh động hơn trong bút pháp miêu tả. Thiên nhiên làng quê trong thơ Yên Đổ đến với độc giả bằng tất cả vẻ đẹp giản dị, thanh sơ. Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, luôn tỏa ra thứ ánh sáng làm êm dịu trong trẻo và say đắm lòng người. Thiên nhiên bao la của những ngày thu muộn, có ao nước trong veo lóng lánh bóng trăng, có đom đóm lập lòe ngõ tối, đã tạo nên ba bức tranh đặc sắc về cảnh thu Việt Nam ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. 
Trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18 đến hết thế kỷ 19, Nguyễn Lộc nhận định: “Nói về thiên nhiên trong văn học cổ có rất nhiều, tả cái đẹp của thiên nhiên mùa thu trong văn học cổ có rất nhiều, tả cái đẹp của thiên nhiên mùa thu trong văn học cổ rất hay. Nhưng trước Nguyễn Khuyến, chưa bao giờ có một thiên nhiên nào đậm đà phong vị của đất nước, quê hương đến thế” [29.57].
Xuân Diệu cũng đã từng nhận xét: “Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm, mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh” [2.34]. 
Đến với Tam Nguyên Yên Đổ, mùa thu là mùa của gió heo may, của trời xanh trăng sáng, là mùa lá rụng, là mùa côn trùng sinh sản, đêm tối đóm lập lòe đầy vườn. Quả thật, phải là người đã sống và hòa mình thật sự với cảnh vật đồng quê Việt Nam như Nguyễn Khuyến, mới có thể rung động tất cả các nét đặc thù của mùa thu, để dồn vào ba bài thơ tiêu biểu cho mùa thu Việt Nam là bài thơ Thu điếu được viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú đường luật. Cảnh thu được miêu tả hầu hết tám câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện trực tiếp ở hai câu cuối bài. Đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng ra trước mắt một bức tranh thủy mặc, khung cảnh thu được gói vào trong một không gian hẹp, đó là “chiếc ao thu” nhỏ bé, xinh xắn, chiếc thuyền câu cũng bé tẻo teo. Nguyễn Khuyến dường như hóa thân thành một nhà quay phim tài ba bậc nhất. Tầm nhìn của ông bao quát cả không gian mùa thu: 
“Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo 
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo 
Sóng biếc theo làn hơi gợi tí 
Lá vàng trước ngõ khẽ đưa vèo” 
(Thu điếu) 
Tác giả khắc họa thành công bức tranh mùa thu mang nét đặc trưng của mùa thu vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ. Cảnh thu đẹp hài hòa, vừa trong vừa tĩnh, vừa gần gũi vừa quen thuộc, mộc mạc, dân dã hồn hậu, dễ đi vào lòng người, vừa sinh động lại đượm buồn. Cả khung cảnh ấy làm phông duy nhất cho một chiếc lá thu vàng rơi trước gió. Chữ “vèo” tả dáng thanh mảnh của chiếc lá mùa thu bay. Tuy nhỏ bé nhưng dường như nó có sức thu cả đất trời vào mình. Bức tranh thu điếu xuất hiện nhiều gam màu lạnh: độ xanh trong của nước, độ xanh biếc của sóng, độ xanh ngắt của trời. Cái lạnh của cảnh, của ao thu, trời thu thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính cái lạnh từ tâm hồn nhà thơ lan tỏa ra cảnh vật? có người cho rằng câu thơ Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo có phần không hợp lý: lá vàng khẽ đưa trước gió không thể có độ “vèo” khi bay. thực ra điều đó có vẻ không hợp lý ấy lại rất lô gíc, rất thống nhất tâm trạng. Từ “vèo” chính là sự thể hiện tâm sự thời thế của nhà thơ, một tâm sự đau buồn trước hiện tình đất nước đầy đau thương. Thời thế thay đổi quá nhanh, non sông mất vào tay giặc mà mình không làm được gì để giúp đời, cứu nước. Hình ảnh ao thu như đưa ta về với mùa thu đích thực của đồng bằng Bắc Bộ, một ao thu “trong veo”, “lạnh lẽo”, một mặt nước sóng “gợn tí” tưởng chừng như phẳng lặng, mang đến cho con người một cảm giác tĩnh tại, bình yên vô cùng. Giữa mặt ao thu phẳng lặng là một chiếc thuyền câu bé nhỏ gợi lên một cảm giác lạc lõng, vô định của con người. Khi nhắc đến mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ, người ta có thể liên tưởng ngay đến ao thu. Dường như chất thu thấm đượm trong hình ảnh ao thu. Ngước mắt lên nhìn là bầu trời xanh ngắt, rộng lớn, cao vời vợi: 
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt 
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” 
(Thu Điếu) 
“Ngõ trúc” là hình ảnh rất đặc trưng cho cảnh làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đọc câu thơ, ta như lạc vào một không gian vắng lặng, bình yên của mùa thu Bắc Bộ với một ngõ trúc vắng vẻ, quanh co. Nhà thơ không những cảm nhận được vẻ quạnh quẽ của đêm thu mà còn như đo được độ sâu của đêm. Quả thật không thể có được hình ảnh thơ thuần việt tuyệt đối ấy nếu không có một tình yêu quê hương đằm thắm đến vô cùng. Trước thời cuộc đảo điên, vận nước đen tối, một ông quan thanh liêm đã về vườn, liệu có thể làm được gì cho dân cho nước? Nhà thơ muốn gửi gắm tâm sự của mình vào cảnh thu để bớt đi nỗi buồn vì bất lực. Song thiên nhiên làng quê mộc mạc, thân thiết ấy lại càng làm cho ông cảm thấy day dứt về trách nhiệm của bản thân. Khát vọng phục vụ quê hương không thành, cũng giống như việc câu cá không được, ông chưa đủ kiên nhẫn để ngồi chờ vì không còn cách nào khác giải tỏa niềm u uất của mình. Nỗi trống vắng khôn cùng khiến nhà thơ nghe được tiếng cá đớp mồi thật nhỏ, đó là âm thanh duy nhất trong khung cảnh thu tĩnh lặng: 
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được 
Cá đâu đớp động dưới chân bèo” 
(Thu Điếu - Nguyễn Khuyến) 
Một tư thế “tựa gối ôm cần”, một sự đợi chờ “ lâu chẳng được”, một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe “cá đớp”. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu, đó là một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao. 
Cũng như mạch cảm xúc ấy, Nguyễn Khuyến đã đưa cái thần của cảnh thu Việt Nam vào bài Thu vịnh:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao 
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu 
Nước biếc trông như tầng khói phủ 
Song thưa để mặc bóng trăng vào” 
(Thu vịnh) 
Cái thanh thoát nhẹ nhõm, cái cao vời vợi của không gian được gói gọn trong bầu trời thu xanh ngắt. Điểm nhấn trên bầu trời ấy là “cần trúc”. “Cần trúc” còn non trông yếu ớt, khi có làn gió hiu hiu thổi nhẹ, giống như chiếc cần câu nghiêng bóng xuống mặt ao, đu đưa trước gió. Không gian mùa thu như chìm lẫn trong màn sương mờ ảo của buổi chiều. Hình ảnh mùa thu pha thêm màu “nước biếc” với khói phủ nhạt nhòa. Cảnh vật ở đây thật tĩnh lặng:  
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái 
Một tiếng trên không ngỗng nước nào 
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút 
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” 
(Thu vịnh) 
Chùm hoa xuất hiện trong Thu vịnh, đưa hương thơm ngạt ngào từ quá khứ bay đến hiện tại bằng trí tưởng tượng của chính nhà thơ. Tiếng ngỗng vọng tưởng kêu vang trong bầu trời như bứt tâm hồn nhà thơ về với thực tại.
Âm thanh ấy vang xa sao mà xa lạ thế, bởi đó đâu phải là ngỗng quê hương. Nỗi đau của người dân mất nước, càng thấm thía hơn trong đêm thu vắng vẻ. Nguyễn Khuyến bộc lộ lòng mình, ông thấy thẹn thùng với Đào Tiềm, thi sĩ nổi tiếng ở Trung Quốc đã sớm từ quan về ở ẩn trước cuộc đời ô trọc. Cái thẹn trong lời kết ở Thu vịnh càng khiến nhân cách của Nguyễn Khuyến thêm sang đẹp. Đứng trước thiên nhiên kỳ diệu ấy, tâm hồn con người như được soi bằng thứ ánh sáng tinh khiết để nhân cách được bộc lộ dễ dàng hơn. 
Đến với Thu ẩm, chúng ta cũng không thấy những hình ảnh ước lệ, sang trọng mà thay vào đó là sự thanh sơ và giản dị với: 
“Năm gian nhà có thấp le te 
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lèo 
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt 
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe” 
(Thu ẩm)
Hình ảnh “gian nhà” vừa là tả thực, vừa khái quát tầm vóc của một làng quê ở vùng đồng chiêm trũng. Từ láy “le te” đã khắc họa hình dáng của ngôi nhà cỏ trong không gian, nó là nơi thu hút, hội tụ sự ấm áp của đời sống nông thôn đất Việt. Không gian mùa thu với bầu trời cao rộng, những gian nhà cỏ thấp như những chiếc nấm. “Thấp le te”, gợi lên cảm giác đơn sơ, nhỏ bé, “ngõ tối” và “đêm sâu” là cảnh bình thường nhưng lại có ánh lửa đom đóm, “lập lòe” làm cho “ngõ tối” và “đêm sâu” lúc tối, lúc sáng. Chữ “lập lòe” vừa gợi độ sinh động của ánh lửa đóm chớp nháy trong đêm vắng. Không gian mùa thu như chìm vào trong làn khói nhẹ chập chờn. Bắt gặp hình ảnh con đom đóm nhỏ bé trong thơ Nguyễn Khuyến, chúng ta lại thấy tràn ngập tâm hồn thứ ánh sáng của đồng nội. Tuy yếu ớt, nhưng có thể làm sáng tâm hồn con người: 
“Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” 
Qua chùm thơ thu của mình, Nguyễn Khuyến đã tài tình thâu tóm đươc cái hồn thu của làng quê Việt Nam trong các bài thơ thu. Cách cảm nhận mùa thu của Nguyễn Khuyến là cái thu của đất trời, của không gian, của làng quê đất nước. Nó mang nỗi buồn chung của vũ trụ, của thời đại, của cả một lớp ngưởi như ông. Nó mang nỗi buồn nhưng là cái buồn ẩn chứa trong thiên nhiên, trong vũ trụ, không phải la cái buồn được bộc lộ trực tiếp của cá nhân. Ta yêu biết bao cái thanh cao trong trẻo, dịu êm và không khí tĩnh lặng, thanh bình của mùa thu Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến. Cảm hứng về mùa thu đã đi vào trong thơ ca Việt Nam thật bình dị, thanh sơ và thấm đẫm tâm trạng. 
1.3. Các nhà thơ trong phong trào Thơ mới 
Tiếp nối mùa thu của thơ ca dân tộc, các nhà Thơ mới đã có những đóng góp quan trọng trên đề tài này. Cũng giống với mùa thu xưa, với bầu trời xanh thắm, nắng vàng, trăng thanh, sương khói phủ… Đến với Thơ mới, mùa thu không chỉ là thi liệu mà còn được nhìn dưới góc độ phân tích tâm lý tinh vi, được cảm nhận như sự hòa nhập vào thiên nhiên tràn trề thanh khí. Các nhà Thơ mới đã miêu tả thiên nhiên với cảm hứng hiện đại. Không chỉ là hình ảnh và cảm xúc, các nhà Thơ mới đặc biệt chú ý đến sự cảm nhận trực tiếp của các giác quan. Quan sát lắng nghe rất cụ thể và tinh vi, cùng với những liên tưởng, mộng tưởng đã góp phần tạo cho những bài thơ viết về thiên nhiên vừa chân thực, vừa thơ mộng, vừa lãng mạn. Mùa thu đã trở thành nguồn cảm hứng của các nhà Thơ mới, trong tâm tư riêng của mỗi người, đều mang nỗi niềm riêng của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử… 
Xuân Diệu có những khám phá tinh vi về thị giác trong Đây mùa thu tới. Lưu Trọng Lư lắng nghe tinh tế từ cá xào xạc của lá thu đến tiếng lòng thổn thức của tình thu ở người thiếu phụ qua bài Tiếng thu. Huy Cận với chất thu man mác trong nhiều bài và lặng buồn với Thu rừng. Chế Lan Viên buồn đến nao lòng mỗi độ thu về. 
Chùm thơ về mùa thu trong phong trào Thơ mới như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, Thu của Chế Lan Viên là những bài hay vào loại bậc nhất trong Thơ mới. Mùa thu thường được gắn liển với thơ ca, Xuân Diệu đã nhiều lần rung động với mùa thu Đây mùa thu tới, Ý thơ, Thơ duyên…
Trước tiên ở giai đoạn tiếp giáp với Thơ mới, chúng ta có thi sĩ Tản Đà, nhà phê bình nghiên cứu văn học Hoài Thanh đã nhận định: “Tiên sinh đã cùng chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát ly ra ngoài cái tù túng, cái khô khan của khuôn sáo” [38,11]. Thi sĩ Tản Đà (1888-1939) miên man “giấc mộng con” và cảm thu với nỗi ngạm ngùi, thơ thẩn Tản Đà chịu ảnh hưởng của Nho giáo, có những lúc ông đi tìm cái đẹp trong thầm lặng quý phái: 
“Trận gió mùa thu phong rụng lá vàng 
Lá rơi hàng xóm lá bay sang 
Vàng bay mấy lá năm già nữa 
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng 
Trận gió thu phong rụng hồng 
Lá bay tường bắc lá sang đông 
Hồng bay mấy lá năm hồng kết 
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không” 
(Gió thu) 
Tản Đà diễn tả tài tình từ “lá vàng bay” đến “vàng bay mấy lá”, tạo nên mùa thu trong nỗi buồn xa vắng với cảnh biệt ly lá rơi lác đác. Tình yêu của Tản Đà tuy nhẹ nhàng nhưng không kém phần đậm đà tha thiết: 
“Lá thu rơi rụng đầu ghềnh 
Sóng thu đưa lá bao ngành biệt ly” 
(Cảm thu, tiễn thu) 
Mỗi độ thu sang, thi sĩ Tản Đà mang tâm trạng man mác buồn, trước những rơi rụng biến đổi, mai một của thiên nhiên và cuộc đời: 
“Từ vào thu đến nay 
Sương thu lạnh 
Trăng thu bạch 
Khói thu xây thành 
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh 
Sương thu đưa lá bao ngành biệt ly” 
(Cảm thu, tiễn thu) 
Tương Phố thì khóc thu: 
“Trời thu ảm đạm một màu 
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em” 
(Giọt lệ thu) 
Sầu thu nặng, lệ thu đầy, 
Vi lau san sát, hơi may lạnh lùng, 
Ngổn ngang trăm mối bên lòng, 
Ai đem thu cảnh họa cùng thu tâm… 
(Giọt lệ thu) 
Giọt lệ thu mở đầu cho lối thơ thê lương, ảo não. Người buồn nên nhìn cảnh vật đâu cũng buồn, cũng nhuốm màu tê tái, trời thu ảm đạm, gió thu hiu hắt, sầu thu nặng, lệ thu đầy. Lòng người ngổn ngang trăm mối. 
Chàng đi, đi chẳng trở về, 
Thu về, thiếp những tê mê dạ sầu! 
(Khóc thu hận) 
Người nhớ người, người nhớ cảnh, lòng sầu ảm đạm day dứt không nguôi... Đến với Hàn Mặc Tử (1912-1940), định mệnh tàn khốc đã làm ông đau khổ vì căn bệnh nan y không thể chữa lành. Nên thơ của ông như những tiếng cười đau xót thì thầm: 
“Ấp ứng không ra được nửa lời 
Tình thu bi thiết lắm thi ơi! 
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt 
Hiu hắt heo may thoáng lại rồi 
Nằm gắng đã không thành mộng được 
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi 
Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt 
Cảnh sắp về đây mắt lệ rơi”. 
(Buồn thu) 
Thật là những lời thơ sầu não và đầy tình tứ, ai có thể tưởng tượng rằng Hàn Mặc Tử chính là một nhà Tây học. Câu thơ thứ hai vang lên thật thảm thiết, tê tái cõi lòng. Mùa thu đến với thi nhân trong âm thầm kín đáo, mang một chút buồn man mác. 
Ngồi ở bến đò vào một chiều thu nhạt nắng, trông theo ngọn gió thổi qua rừng, làm rơi rụng những chiếc lá mùa thu, lá mùa thu, gợi cho viễn khách một nỗi buồn bâng quơ. Bỗng đâu đây văng vẳng lời ca réo rắt nghe rụng rời cõi lòng ai, nhất là cõi lòng của viễn khách lỡ chuyến đò ngang vào một buổi chiều thu:  
“Mùa thu đến chậm như chưa đến 
Lá vội rơi theo lá vội vàng 
Sương đã dâng lên chiều lắng xuống 
Bến đò đã tắt chuyến sang ngang”. 
(Chiều thu) 
Mùa thu đã đến, nhưng dưới con mắt của thi sĩ làng quê Nguyễn Bính, mùa thu đến thật chậm như chưa hề đến. Trong buổi chiều thu ấy, với những làn gió heo may, với ánh nắng đã mờ nhạt, đứng trước bến đò thu, nhà thơ không khỏi nao lòng. Chiếc lá rơi vội để kịp hòa mình vào với mùa thu, sương dâng lên như một làn khói mỏng bao trùm cả không gian, lắng chiều lặng lẽ ra đi nhường chỗ cho sương dần xâm chiếm… Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ làm cho lòng người sầu lên chơi vơi. 
Thăm thẳm trời xanh lộng đáy hồ, 
Mùi hoa thiên lý thỏang chiều thu. 
Con cò bay lả trong câu hát, 
Giấc trẻ say dài nhịp võng ru. 
Lá thấp cành cao gió đuổi nhau, 
Góc vườn rụng vội chiếc mo cau. 
Trái na mở mắt, nhìn ngơ ngác 
Đàn kiến trường chinh tự thủa nào. 
Lúa trổ đòng tơ, ngậm cốm non, 
Lá dài vươn sắc lưỡi gươm con. 
Tiếng chim mách lẻo cây hồng chín, 
Điểm hạt da trời những chấm son. 
(Chiều thu) 
Lòng người thật hào phóng, chỉ mới một vài khoảnh khắc, vài tín hiệu báo thu về đã thả cả hồn mình chìm đắm trong cảnh sắc mùa thu. Không yêu mến bằng cả trái tim nồng cháy thì làm sao nhà thơ lại rung cảm được sâu sắc đến thế? Mùa thu ấy là mùi hoa thiên lý lan tỏa đâu đây, hương hoa phả trong không gian, gió mùa thu đuổi giỡn nhau trong vườn, chiếc mo cau rụng xuống phụ họa thêm cho buổi chiều thu huyền diệu. Trái na mở mắt nhìn ngơ ngác, sao mùa thu đẹp quá! Huyền diệu quá! Ngoài đồng lúa đang trổ đòng ngậm cốm non. Ai đã từng thưởng thức thứ cốm của làng quê Bắc Bộ hẳn không thể nào quên món quà của cốm non mà đất trời đã ban tặng. Thu mênh mông khắp không gian là thế, thu lảng bảng khắp núi rừng là thế. Với nhà thơ Huy Cận, chỉ cần một cơn gió thoáng, chỉ cần một đám mây trôi, một buổi chiều lá rụng, với nắng vàng hiu hắt cũng đủ gieo vào lòng thi nhân nỗi buồn tỉ tê, não nề: 
Mây bay lũng thấy giăng màn âm u 
Nai cao gót lẫn trong mù 
Xuống rừng néo thuộc nhìn thu mới về 
Sắc trời trôi dạt dưới khe 
Chim bay, lá rụng cành nghe lạnh lùng 
Sầu thu lên vút, song song 
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu 
Non xanh ngây cả buổi chiều 
Nhân gian em cũng tiêu điều dưới kia”. 
(Thu rừng) 
Ở tác phẩm Thu của Chế Lan Viên, nhà thơ đã bày tỏ sự tiếc nuối với sự sống bị lụi tàn khi thu sang. Nhà thơ không nén được sự buồn giận trước cánh hoa tàn, lá rụng. Chế Lan Viên vẽ lên những cảnh điêu tàn, niềm luyến tiếc đến một thửa vàng son, oanh liệt ngày xưa. Nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú, tuy nhiên những chi tiết nhà thơ diễn tả thật giản dị, đơn sơ nhưng không đánh mất nét thơ mộng. Nhà thơ vừa miêu tả, vừa bộc lộ cảm xúc trước cảnh thu: “Chao ôi! thu đã đến rồi sao? 
Thu trước vừa qua mới độ nào 
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ 
Nắng hồng choáng ấp dãy bàng cao” 
(Thu) 
Trong một năm, nhà thơ ưa nhất là mùa thu, mùa thu qua được một ngày Chế Lan Viên đã nhớ: 
“Ô hay, tôi lại nhớ thu rồi 
Mùa thu rớm máu rơi từng chút 
Trong lá bang thu đỏ ngập trời 
Đường về thu trước xa lắm lắm 
Mà kẻ đi về chỉ một tôi”. 
(Thu) 
Nỗi mong nhớ ở đây đã thành thực, nỗi mong nhớ ấy còn to lớn lạ lùng. Nhà thơ ưa mùa thu, ghét mùa xuân. Trong khi thu đến, Chế Lan Viên lại muốn: 
“Ai đâu trở lại mùa thu trước 
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng? 
Với cả hoa tươi muôn cánh rã 
Về đây đem chắn nẻo xuân sang”. 
(Xuân) 
Nhận xét về khổ thơ này, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân viết: “ý muốn ngông cuồng, ngộ nghĩnh? Đã đành. Trong cái ngộ nghĩnh, cái ngông cuồng ấy tôi còn thấy một sức mạnh phi thường. Chắn một luồng gió, chắn một dòng sông, chắn những đợt sóng hung hăng ngòai biển cả, nhưng mà chắn nẻo xuân sang! Sao người lại có thể nghĩ được như thế?” [38.225]. Chế Lan Viên có lúc thích làm thông để "chống chọi với trời đông nghiêm khắc", với "triệu tấn mây buồn áp bức"... Có lúc phải làm thông gồng mình lên "nhọn hoắt", "vững vàng xanh", nhưng rồi có lúc được làm lau "buông thả phó mình cho gió thu vàng xạc xào xao xác", được buông "vũ khí" mà cất "tiếng hát mông mênh", làm người mà được thế tưởng không tệ... 
Có lúc anh thích làm cây thông chống chọi 
với trời đông nghiêm khắc 
Triệu tấn mây buồn áp bức trên đầu thông nhọn hoắt 
Vững vàng xanh. 
Có lúc anh thích làm cây lau buông thả phó mình 
Cho gió thu vàng xạc xào xao xác 
Cây lau không vũ khí, mà chỉ có mơ hồ tiếng hát Mông mênh. 
(Có lúc) 
Tại sao Chế Lan Viên lại ghét mùa xuân mà mãi mong nhớ mùa thu? Khác với nhiều nhà Thơ mới, mùa xuân hay mùa thu trong thơ Chế Lan Viên không phải là chuyện cảnh thiên nhiên, không chỉ là sự vận động của thời tiết làm vui hay cho buồn lòng người.
Mà hình tượng mùa thu trong thơ Chế Lan Viên mang ý nghĩa triết lý về thời gian, về một thái độ sống. Đó là câu chuyện về hiện tại và quá khứ, về hướng vọng và niềm tin đắm đuối của một tâm hồn: 
“Đường về thu trước xa lăm lắm 
Mà kẻ đi về chi một tôi” 
(Thu) 
Trong Điêu tàn, mùa thu là biểu tượng của dĩ vãng xa xăm. Thật lạ khi Chế Lan Viên một mình trở về trên con đường thời gian xa mờ tít tắp. Và càng lạ hơn khi quá khứ mà nhà thơ không nguôi tìm về, đâu chỉ có vàng son mà phần lớn là hoang tàn, đổ nát. Nếu các nhà thơ lãng mạn cùng thời tìm ở mùa thu những gam màu dịu nhẹ, những nỗi buồn hắt hiu, sâu lắng thì Chế Lan Viên tìm thấy ở mùa thu sự tàn tạ, chán nản não nề. Mặc dù là như thế, nhưng Chế Lan Viên vẫn thích mùa thu, bởi chính sự tàn lụi ấy mang dấu tích một thời xưa oai linh hùng vĩ. Lúc này thi sĩ Chế Lan Viên trở thành một con người cô độc, luôn tìm kiếm hình bóng rực rỡ trong những gì đang rụng, đang “tan tác đổ”. Chế Lan Viên đã bày tỏ tiếc nuối với sự sống bị lụi tàn khi thu sang. Nhà thơ không nén được sự buồn giận trước cảnh hoa tàn, lá rụng: 
“Thu đến đây! Chừ, mới nói rằng 
Chừ đây buồn giận biết sao ngăn? 
Tìm cho những cánh hoa đang rụng 
Tôi kiếm trong hoa chút sắc tàn! 
Tìm cho những nét thơ xanh cũ 
Trong những tờ thơ lá võ vàng…” 
(Thu) 
Luôn sống trong hoài niệm nên gặp mùa thu này mà nhà thơ cứ nhớ về mùa thu trước, giữa hiện tại mà nhà thơ cứ đắm mình vào quá khứ.
Với tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến, nhớ nhung và hoài niệm, khi mùa thu qua đi, Tế Hanh đã bộc lộ cảm xúc của mình qua hình ảnh tượng trưng của gió, của mây, của nắng: 
“Mùa thu đã đi qua còn gửi lại 
Một ít vàng trong nắng, trong cây 
Một ít buồn trong gió trong gió, trong mây 
Một ít vui trên môi người thiếu nữ”. 
(Bài thơ tình ở Hàng Châu) 
Tế Hanh đã tinh tế rút lấy cái thần, cái hồn của thiên nhiên để bộc lộ cảm xúc đa dạng, bộc lộ sự phong phú của trái tim mình. Đồng thời nhà thơ gửi lại vào thiên nhiên cả cuộc sống, tâm hồn mình, khiến cho cảnh vật không chỉ có hình sắc mà còn chất chứa bao tiếng nói. Vốn là người yêu cái đẹp, suốt cuộc đời Tế Hanh luôn đi tìm và chắt chiu cái đẹp, từ vẻ đẹp thanh cao đến vẻ đẹp bình dị của cuộc đời, của thiên nhiên. Sức sống bền bỉ của tâm hồn thơ ông ẩn đằng sau những vần thơ miêu tả thiên nhiên. Tế Hanh thật tinh tế khi ông chớp lấy những khoảnh khắc gặp gỡ giữa tâm tình của mình với cái đẹp trong sự luân chuyển của thiên nhiên, tạo vật và để thiên nhiên “nói” giúp tâm tình người. 
Khi mùa thu chia xa, nhà thơ cảm nhận được cái buồn vắng, nhớ thương bởi sự ly cách: 
“Em đi trăng sắp độ ròn 
Mùa thu quá nửa, lá giòn khua cây 
Tiễn em trong cảnh thu này 
Lòng ta muôn tiếng, sao đầy lặng im”. 
(Mùa thu tiễn em) 
Không gian ở đây là không gian tĩnh, vũ trụ như ngưng lại trong phút giây chia ly của đôi lứa. Nỗi lòng của nhà thơ hòa quyện vào với vẻ đẹp quyến rũ của mùa thu. 
Mùa thu dường như có mặt trong thơ của Lưu Trọng Lư ở những thời điểm có ý nghĩa cho tình yêu đôi lứa. Những hỉnh ảnh đẹp như vầng trăng thu trong Tình điên đã chứng kiến biết bao vui buồn của chàng trai và cô gái: 
“Hôm ấy trăng thu rụng dưới cầu 
Em cười em nói suốt canh thâu 
Yêu nhau những tưởng yêu nhau mãi 
Tình đến muôn năm chửa bạc đầu”. 
(Tình điên) 
Thơ Lưu Trọng Lư là những bản nhạc mờ ảo trên nền những bức tranh cũng mờ ảo. Những bản nhạc chìm sâu trong sương mờ, Tiếng thu vẫn ngâm, vẫn ca hát trong trái tim người người. Tiếng thu cũng là tiếng thầm thì, kín đáo, đi vào thế giới bên trong và lắng sâu trong tâm trạng. Lưu Trọng Lư đã nhạy cảm và đồng cảm khi lắng nghe âm thanh của mùa thu. Khi những ngày nắng hạ vừa tắt lửa, những cơn gió heo may thổi về, thiên nhiên đã ở vào buổi giao mùa. Các nhà thơ mới đều tinh tế và sớm cảm nhận những âm thanh thầm thì: 
“Thu đến, nơi động tiếng huyền” 
(Thơ duyên) 
Như có sự giao cảm trong không gian và thời gian, trong không khí của mùa thu và cao hơn cả, thiết tha hơn cả là trong Tiếng thu: Tiếng thu chính là cái hồn của rừng quê, của trời đất và cái hồn hậu chất phác của chú nai vàng. Đó là tấm lòng của nhà thơ đang chờ đợi một bạn đường, rủ mình theo những lối cỏ, dẫn đến miền đất hứa, với bao điều tốt đẹp mà mình hằng ước mơ, khao khát. Dưới con mắt đa tình của nhà thơ, gió cũng biết “đau”, một nỗi đau thương quằn quại trong tâm hồn. Đọc những câu thơ trên tôi tưởng như bất lực, không biết viết sao trước ý thơ của thi nhân. 
Bằng những cảm hứng lãng mạn, các nhà Thơ mới đã họa lên trong thơ mình những bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và đường nét độc đáo. Mùa thu trở thànnh nguồn cảm hứng của các nhà Thơ mới trong tâm tư riêng cuả mỗi người, nhưng nó đều mang nỗi niềm riêng của nhiều thế hệ. Với những tác phẩm viết về mùa thu của các nhà Thơ mới, chúng ta thấy rõ một cái tôi trữ tình thành thật với những cảm xúc, trạng thái của mình. Ở đó, con người sống cho mình, cho tình cảm của riêng mình, chứ không còn là tiếng nói của thời đại hay giai cấp. Sự thành thật trong trạng thái cảm xúc của các nhà Thơ mới đã đem đến cho thơ một cách thức biểu hiện mới, tự do hơn, thoáng đãng hơn và tinh tế hơn. 
CHƯƠNG 2 
CẢM NHẬN VỀ MÙA THU TRONG THƠ XUÂN DIỆU, LƯU TRỌNG LƯ VÀ QUÁCH TẤN 
2.1- Mùa thu trong thơ Xuân Diệu 
Xuân Diệu (1916 - 1985) là một tài năng lớn, ông là kết tinh của hai miền quê, hai dòng máu. Đó là dòng máu của người xứ Nghệ miệt mài siêng năng và dòng máu của người mẹ, xứ dừa Bình Định thơ mộng. 
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã nhận xét về Xuân Diệu: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết” [38.117]. Một năm sau, trong nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan cũng nhận xét: “Người ta thấy thơ Xuân Diệu đằm thắm, nồng nàn nhất trong các nhà thơ mới”. Đúng vậy, Xuân Diệu xuất hiện trong Thơ mới với tất cả lòng say mê yêu cuộc sống, khát khao giao cảm với đời. Ở nhà thơ là sự nhạy cảm trước những bước đi của thời gian, một tâm hồn cảm nhận hết sức tinh tế. Đồng thời là cách bộc lộ cảm xúc mới mẻ chưa từng có trong thơ ca đương thời. Xuân Diệu cũng hay viết về mùa xuân, mạch thơ tuy đã bộc lộ được tình cảm trẻ trung sôi nổi của nhà thơ nhưng kém phần cô đọng và tài hoa như những thi phẩm viết về mùa thu. Điều đó phải chăng khi Xuân Diệu trở về mạch trữ tình truyền thống thì hồn thơ Xuân Diệu cũng đằm thắm hơn và phải chăng ông cũng muốn đa dạng hóa thơ mình bằng cách sáng tạo thêm một mạch trầm cảm xúc. Hơn nữa, một tài năng thơ dù hiện đại và mới mẻ đến đâu cũng không hề cắt đứt hoặc đối lập hoàn toàn với quá khứ thơ ca dân tộc, cùng những đặc điểm chung trong tư duy nghệ thuật của thời đại mà nhà thơ đang sống. Với những nốt nhạc trẩm bổng của giai điệu trữ tình về mùa thu, với những phát triển sáng tạo trong cách dùng từ ngữ, hình ảnh thơ, cách bộc lộ cảm xúc rất mới mẻ. Mùa thu trong thơ Xuân Diệu có một vẻ đẹp rất riêng, một vẻ đẹp trong sự sầu muộn, vẻ đẹp ẩn chứa sâu kín nhưng rất nên thơ. 
Đây mùa thu tới cũng vẫn sử dụng những thi liệu cổ truyền của dòng thơ ca cổ điển, vẫn những “liễu, lệ, vàng, hoa, sương, gió, mây, chim…” đã xây dựng lên dòng thơ Đường thi. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy thì Đây mùa thu tới, đã được hoán cái trong một chùm quan hệ mới. Không phải là “xi măng sắt thép” để tạo nên khung chịu lực của ngôi nhà thơ hiện đại, mà chúng tồn tại trong toàn kiến trúc như những kỷ niệm, một thứ “trí nhớ thể loại” theo cách mới của M.Ba-khơ-tin, chiếc dây nối cánh diều thơ với mạch trong thơ Đường, thơ Tống. Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu miêu tả hình ảnh của một rặng liễu buồn đang đứng chịu tang: 
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang 
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn” 
(Đây mùa thu tới) 
Từ láy “đìu hiu” gợi lên dáng liễu hơi hao gầy đi, dáng đứng buồn lặng lẽ, có một một cái gì đó như mơ màng, phảng phất. “Liễu” ở đây được gợi tả như một người thiếu nữ có tâm hồn. Khi thu sang không gian bao trùm lên là làn gió mùa thu, làn gió mang lạnh về khiến lòng người xao xuyến, bâng khuâng… Câu thơ gợi hình ảnh mái tóc của người thiếu nữ, một mái tóc dài thướt tha. Mùa thu hóa thành một thục nữ mỹ miều, thướt tha và u buồn, đẹp một vẻ đẹp lãng mạn, cao sang. Nàng thu của Xuân Diệu đang nhón gót hài trên đường biên của phút giao mùa từ hạ sang thu bằng rặng liễu ven hồ. Những câu thơ buồn của Đây mùa thu tới gợi lên một tâm trạng buồn đến tang tóc. Buồn vì cái lạnh len lỏi đâu đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì cảnh sắc mùa thu hợp với tâm trạng buồn của tác giả. Đúng như thơ đã từng nói “Xuân người ta vì ấm mà cần tình. Thu người ta vì lạnh sắp đến mà rất cần đôi, cho nên không gian đầy những nỗi nhớ nhung, những linh hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau và lòng tôi nghe tất cả du dương của thứ vô tuyến điện ấy” [10,23]. 
Xuân Diệu, một nhà thơ của tình yêu, ông đã đi trọn con đường “lạ hóa” [38,40] thơ theo cách của ông. Mỗi sự vật hiện tượng thiên nhiên trong thơ ông đều toát lên một chất người mạnh mẽ. Chúng ta ngỡ rằng, với một con người khao khát sống, khao khát yêu mãnh liệt và cuồng nhiệt như thế sẽ không hợp với đề tài mùa thu, một đề tài thường chỉ thích hợp với hồn thơ cổ điển với những vần thơ lắng đọng suy tư. Vậy mà khi bước vào thế giới của Đây mùa thu tới thì chúng ta mới chợt nhận ra rằng, Xuân Diệu là người có cái nhìn tinh tế và gợi cảm nhất trước những bước đi của thời gian mùa thu, ông đã khoác lên mùa thu những sắc màu, những cảm xúc mới, âm hưởng thơ xưa nhưng hơi thở hôm nay. 
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang” 
(Đây mùa thu tới) 
Tín hiệu mùa thu trong thơ xưa thường là lá ngô đồng: 
“Ngô đồng nhất diệp lục 
Thiên hạ cộng tri thu” 
Đó là một tín hiệu đẹp và sang trọng nhưng đã trở nên cũ mòn, sáo rỗng. Với tư cách “là nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” dùng rặng liễu để báo thu sang. “Liễu” cũng là một thi liệu trong thi ca cổ điển nhưng có vốn tượng trưng cho vẻ đẹp duyên dáng mền mại của người thiếu nữ. 
Buổi chiều thu trong thơ Xuân Diệu không còn cái buồn hiu hắt quạnh quẽ, đậm chất cổ điển nữa mà nó ẩn chứ đầy chất lãng mạn của những tâm hồn đang yêu. Buổi chiều mùa thu mà đầy xôn xao, mùa thu trong thơ Xuân Diệu mà ta tưởng như mùa xuân, cái gì cũng có đôi, có cặp. Với nhà thơ, thu là tiếng “hoa rơi”, là tiếng “gió vỡ”, là bóng tối trên cành cây, là nhịp mùa đi, là gió thầm, mây lặng trong sự mơ hồ của tiếng chim: 
“Những chút hồn buồn trong lá rụng 
Bị ai nhàu tưởng dưới ánh trăng 
Bông hoa dứt cánh rơi không tiếng 
Chắc rằng gió cũng đau thương chứ 
Gió vỡ ngoài kia, ai có nghe…?” 
(Ý thu) 
Tâm trạng buồn của Xuân Diệu là nỗi buồn thế hệ, không tìm được lối ra trong cuộc đời cũ, tác giả tìm đến những hình ảnh thiên nhiên có tính tương đồng để biểu hiện cảm xúc. Thật ra nỗi buồn man mác là cảm hứng truyền thống trong thơ ca trung đại Việt Nam, nhưng cảnh thu trong thơ Xuân Diệu có cái mới, cái riêng của nó. Đó là chất trẻ trung tươi mới được phát hiện qua con mắt vẻ đẹp “xanh non” của tác giả, là sức sống của tuổi trẻ và tình yêu. Mùa thu có nhiều vẻ đẹp, màu sắc khác nhau và Xuân Diệu đã mở rộng sự tiếp nhận và cảm xúc của mình trước vẻ đẹp, màu sắc của mùa thu: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới 
Với áo mơ phai dệt lá vàng”. 
(Đây mùa thu tới) 
Một tiếng kêu thầm như reo vui khi cảm nhận mùa thu đang đến. Câu thơ có hai tiết tấu “mùa thu tới” trùng điệp và gây ấn tượng mạnh. Trong thơ ca cổ, chúng ta đã bắt gặp hình ảnh chiếc lá vàng trong thơ Nguyến Khuyến: 
“Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” 
(Thu điếu) 
Chúng ta lại một lần bắt gặp hình ảnh “gió vàng” trong thơ Nguyễn Gia Thiều: 
“Trải vách quế gió vàng hiu hắt” 
Bích Khê với màu vàng chan chứa sắc thu: 
“Ô hay! buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông” 
(Tỳ bà) 
Cùng viết về mùa thu, nhưng Đây mùa thu tới là một thế giới hiu hắt, lạnh lẽo, trong đó có sự phân lìa, tàn rụng thì Thơ duyên lại mở ra một thế giới thiên nhiên trong sáng, ấm áp, thế giới của vạn vật giao duyên, thế giới của cặp đôi. Trong Thơ duyên chúng ta một lần nữa bắt gặp một buổi chiều thu thật đẹp và thơ mộng: 
Chiều mộng hòa thơ trên nhành duyên 
Cây me ríu rít cặp chim chuyền 
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá 
Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền”. 
(Thơ duyên)
Cái đặc biệt trong bức tranh chiều thu này chính là ở sự nhịp nhàng, hòa điệu của cảnh vật thiên nhiên. Khi ta ngắm nhìn bầu trời thu qua vòm lá của cây, màu xanh của da trời chuyển sang màu xanh ngọc, vừa dịu mát, vừa nên thơ. Mùa thu ở đây không có lá vàng, lá úa, không thấy sự tàn phai mà ta thấy không gian của mùa xanh, không gian của sự sống. 
Trong bức tranh thu, xuất hiện tiếng “nhạc huyền”, là nhạc của dòng cảm xúc, nốt nhạc của tâm hồn khi đắm mình trong cảm xúc để lắng nghe tận trong thẳm sâu của lòng mình, tiếng của những âm thanh đan xen vào nhau cũng như tiếng lòng của thi nhân. Qủa thật đó là một không gian tràn đầy sức sống, một không gian níu kéo lòng người. 
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu 
Lả lả cành hoang nắng trở chiều” 
(Thơ duyên) 
Toàn bộ cái “thần” của câu thơ là ở những cặp từ láy “nhỏ nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả”. Những từ láy miêu tả đường nét, dáng điệu mền mại của cảnh vật, tạo nên nhạc điệu êm dịu. Hình ảnh “con đường”, làn gió và hàng cây tạo nên vẻ đẹp thấm thía của bức tranh thu khi lắng nghe những giao lưu bí ẩn trong trời đất. Không gian “con đường” với làn gió nhẹ “xiêu xiêu” vuốt ve, chỉ đủ sức làm cho hàng cây “xiêu xiêu”, lướt nhẹ mềm mại theo chiều gió, mất vẻ an bằng xiêu xiêu theo chiều gió. Đó là không gian thơ mộng và trữ tình, ở Xuân Diệu mùa thu hòa mùa thu bừng lên sức sống tươi xanh của m ùa xuân. Có thể nói đây là những câu thơ hay vào loại bậc nhất của thơ ca hiện đại Việt Nam. Thơ Xuân Diệu đã chứng tỏ khả năng kỳ diệu của tiếng Việt trong việc tạo nên những hình tượng ngôn ngữ tuyệt đẹp và diễn tả những sắc thái thật tinh tế của cảm xúc. 
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét về Xuân Diệu: “Cái lối làm duyên rất có duyên… Cái vẻ đài các rất hiền lành” [38.119]. Đúng vậy, Thu chính là sợi tơ lòng của Xuân Diệu, sợi tơ ấy luôn nhạy bén trước sự biến động của thiên nhiên, của đất trời, nó còn rung lên những nhịp điệu khác thường không thấy ở bất kỳ đâu trước đó. Đó là một bức tranh thu vào lúc ngày đang tàn và đêm đang dần đến. Ta bắt gặp ở cái lạnh đầy duyên cớ của thiên nhiên cùng với cái lạnh bâng khuâng man mác của lòng người. Một khung cửi, một khuê phòng đang hiện dần ra với giọt sương, cây cỏ: 
“Nõn nà sương mọc quanh thềm đậu 
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì” 
(Thu) 
Câu thơ khiến ta liên tưởng đến những gì yếu điệu, ngọc ngà, trắng trong tinh khiết như một cánh hoa đang gặp cơn gió làn thoáng qua. Đồng thời là một khoảng thời gian mơ hồ “nắng nhỏ”, đó là sắc nắng nhạt nhòa thật côi cút. Cảm giác hụt hững ấy là do buổi “chiều lỡ thì”. Với biện pháp nhên hóa “chiều lỡ thì”, đã khơi dậy một nỗi niềm trắc ẩn xót. Câu thơ gợi lên một không gian chiều lơ lửng, một không gian chiều tràn đầy tâm trạng. Phải chăng, qua vẻ đẹp của thiên nhiên, Xuân Diệu muốn tưởng đến một cô gái đã qua cái độ trăng tròn, đang dần phai hương sắc. 
Xuân Diệu đã nhân hóa thiên nhiên bởi nhà thơ nghe được màu sắc, nhìn được âm thanh, nhất là những gì rơi rụng, héo tàn: 
“Hư vô bóng khói trên đầu lạnh 
Cành biếc run run chân ý nhi 
Hây hây thục nữ mắt như thuyền 
Gió thu, hoa cúc vàng lưng giậu”. 
(Thu) 
Hình ảnh “ý nhi”, “bức gấm”, “thục nữ”, “cúc vàng lưng giậu”, sắc áo trạng nguyên” đều hết sức tiêu biểu cho phong vị mùa thu trong thơ cổ. Ở Xuân Diệu là sự hòa điệu giữa nỗi buồn man mác của mùa thu với tâm trạng buồn của một nhà thơ lãng mạn. Xuân Diệu đã hóa thân vào thiên nhiên để cùng với cỏ cây hoa lá cảm nhận sự thay đổi của tiết trời vào mùa giao chuyển. 
Dường như ở cô “thục nữ mắt như thuyền” đang chìm đắm vào một giấc mơ hoa. Nếu coi thiên nhiên là một đối tượng khai thác không thể thiếu cho quá trình tìm kiếm nguồn tư tưởng, so sánh và ấn tượng của tư duy thơ thì có thể nói rằng, Xuân Diệu đặc biệt tài tình về mặt này. Ông đã ban phát cho thiên nhiên sự rung động, cảm giác của mình và ngược lại từ thiên nhiên, ông đã tạo nên vô vàn những liên tưởng độc đáo và thú vị. Từ những cái rất mơ hồ của “gió thầm”, “mây lặng”, “mưa trưa”, “chiều tà”… trong bài Chiều, chỉ bằng những đường dây tơ nhân tạo trong không gian, nhà thơ giúp chúng ta mường tượng ra được cảnh yên tĩnh vô cùng của một buổi chiều thu: 
“Không gian như có dây tơ 
Bước đi sẽ dứt động hờ sẽ tiêu 
Êm êm chiều ngấn ngơ chiều 
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn”. 
(Chiều) 
Không gian như có sự tương giao. Với Xuân Diệu, hình ảnh mùa thu hiện lên không chỉ ở những gì có thể nhìn thấy, nghe thấy, còn ở những liên tưởng gián tiếp chỉ có thể cảm nhận được mà thôi. Ở Xuân Diệu, cái buồn đã liên kết thành những luồng xao động trong tâm hồn nhà thơ. Đúng là “vạn vật nức xuân tâm” bỗng dưng muốn phát tiếng [41,17] 
“Lá hồng rơi lặng ngõ thôn 
Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương”. 
(Chiều) 
Chính vì vậy, lòng ông luôn thấp thỏm lo âu trước cuộc đời xuân sắc đang vào độ tàn phai. Bằng tình cảm say xưa và sự chấp nhận thẩm mĩ tinh tế. Xuân Diệu đã phát hiện thêm nhiều vẻ đẹp khác nhau của mùa thu mà trước đó chưa ai nhìn thấy được: 
“Nghe chừng gió nhớ qua sông 
Em bên lau lách, thuyền không vắng bờ”. 
(Chiều) 
Hay: 
“Bông hoa dứt cánh không lên tiếng 
Dưới gốc nào đâu thấy xác ve 
Thế mà ve đã tắt theo hè”. 
(Ý thu) 
Nỗi buồn ấy đã tràn ngập trong tâm tưởng nhà thơ, bởi chính nhà thơ cũng có nỗi niềm ”buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn”. Xuân Diệu đã dưa chúng ta vào một thế giới của buồn chán, mênh mông và tuyệt vọng: 
"Tôi là con nai bị chiều giăng lưới 
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”. 
(Khi chiều giăng lưới) 
Nhà thơ đã thực sự cô đơn như con nai bị “chiều giăng lưới”, biết đi đâu về đâu? Đứng sầu tư cho đến khi bóng tối chìm ngập cả không gian. Khi thời gian trôi qua, Xuân Diệu mới ngỡ ngàng, ngơ ngẩn nhìn trạng thái của sự vệt đang ngả dần sang thu: 
“Hơn một loài hoa đã rụng cành 
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”. 
(Đây mùa thu tới) 
Quả thật, có ai quan sát được như nhà thơ? Chỉ có tâm hồn yêu thương mới dạt dào xúc cảm và quan tâm đến sự sống, mới có thể viết lên những vần thơ như vậy. Cảnh sắc đầu tiên mà mùa thu xâm chiếm là rặng liễu. Dường như cảnh sắc lan dần ra những khu vườn, những rặng núi, những dòng sông, những tầng trời và cuối cùng nó xâm chiếm vài lòng người. Mùa thu tới, sắc lá phai nhạt đi, hoa rơi rụng, cành lá gầy guộc đi, dáng núi nhạt nhòa hơn, sông vắng vẻ, không gian u uất và lạnh lẽo. Tuy nhiên dù cho có là buồn đi chăng nữa thì đây cũng là nỗi buồn thi sĩ: 
"Hôm nay trời nhẹ lên cao 
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn".
Không gian bao trùm câu thơ là hoa mùa thu. Sắc thu ở đây là sắc vàng, sắc đỏ, sắc của sự tàn phai. Khi thu tới, không gian bao trùm là cái lạnh của mùa thu, nó làm cho cây hao gầy đi một chút và màu xanh của nó bị sắc vàng, sắc đỏ, nó “rũa” dần đi. Tác giả chọn từ “rũa” thật hay, cái đặc sắc của câu thơ là màu đỏ không diễn ra một cách nhanh chóng mà nó mất dần, ta chỉ cảm thấy chứ không nhìn thấy được. Qua câu thơ, chúng ta cảm nhận được bước chân mùa thu đang dần tới. Không phải chỉ cảm thấy bằng thị giác mà còn bằng xúc giác. Cuộc chuyển mùa nhập vào trong gió lạnh, lan tỏa trong sương giá. Cuộc chuyển mùa bỗng trở lên hữu ý, hữu tình, hoa, lá, liễu bỗng trở nên ngoa ngoắt, đỏng đảnh... một cách... rất thu. 
“Những luồng run rẩy rung rinh lá” 
(Đây mùa thu tới) 
Xuân Diệu là người đem đến cho thơ ca Việt Nam nhiều cái mới nhất“. Những cái mới đáng chú ý ở Xuân Diệu là “Những nguồn hứng và ý tưởng rất mới“. Và ông cho rằng còn phải chú ý nhữngchữ, những câu, những điệu trong những bài thơ ấy để hiểu lấy “cái nhạc điệu mới nữa“ (18, tr.715, 716). 
Ở Xuân Diệu, sự chú ý đặc biệt đến nhạc tính của câu thơ là ảnh hưởng quan niệm của trường phía thơ tượng trưng Pháp, nhưng cũng có nguồn gốc từ trong những cách sáng tạo và thưởng thức thơ cổ điển phương Đông nữa. Chính vì vậy, cảm xúc của nhà thơ vẫn hướng vào khung cảnh chiều thu. 
Không gian ở đây là gió và cái lạnh, cái lạnh ấy đã thấm đượm vào thân cây rồi chạy khắp thân cây, từ ngọn, búp, lá, đến từng tế bào của cây mà mắt thường không nhìn thấy. Nhà thơ đã gợi trong ta cái rùng mình thấm lạnh và cả nỗi sợ hãi của những chiếc lá dáng yếu ớt, cái rùng mình thấm lạnh và cả nỗi sợ hãi của những chiếc lá sắp phải lìa cành trước những cơn gió cuối thu. Với hình ảnh này, Xuân Diệu đã mang lại cho nền thơ ca một cách diễn đạt hay và mới mẻ. Mùa thu đến, những cơn gió lạnh đầu mùa làm cho cỏ cây run rẩy. Cách sử dụng những điệp từ và láy âm góp phần tạo hiệu quả cho câu thơ với người đọc. Trong thơ ca cổ cũng có những câu thơ có nghệ thuật láy ý, láy âm: 
“Dưới trăng quyên đã gọi hè 
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” 
(Truyện Kiều) 
Theo Xuân Diệu điều quan trọng không chỉ là sự láy âm mà còn ở luồng cảm xúc mới của thi nhân, nó khác với nguồn cảm xúc của các nhà thơ cổ điển. Ở giữa vườn cây còn xum xuê lá, ta bắt gặp: “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh” 
(Đây mùa thu tới) 
Mới chớm thu nên chỉ thấy “đôi nhánh khô gầy, gió lạnh về đã làm run rẩy, rung rinh” những chiếc lá. Không gian mùa thu ở đây đã truyền rung động sang người đọc một chút lạnh khi gió thu về. Câu thơ có kết cấu độc đáo, dường như chữ nào trong câu thơ cũng gợi vẻ khô gầy và héo tàn của cành cây: “nhánh gầy, khô xương, mỏng manh”. Với hình ảnh so sánh, nhân hóa đã gợi lên dáng lẻ loi, cô đơn giữa đất trời, từng nhánh khô gầy khẳng khiu như chạm khắc lên bầu trời cô đơn dưới mắt buồn của thi nhân. Tác giả mở rộng tẩm quan sát đến những cảnh vệt ở nơi xa: 
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ 
Non xa khởi sự nhạt sương mờ”. 
(Đây mùa thu tới) 
Không gian thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu cũng là ánh sáng, nhưng trăng là “nàng trăng”, chúng ta thấy nó gần gũi và ấm áp hơn. “Trăng” trong thơ Xuân Diệu là hình ảnh của con người thiếu nữ trẻ trung, xinh tươi, dịu dàng, thơ mộng. Xuân Diệu không tả trăng thu vành vạch giữa trời, cũng không tả trăng thu đã tàn, mà là trăng thu “mới khởi sự” vừa mới nhô lên khỏi đỉnh núi. Xuân Diệu gọi đó là “nàng trăng”, là trăng thượng tuần của mùa thu. Với cách gọi đó, Xuân Diệu đã bộc lộ trực tiếp cảm xúc, mà nhà thơ trung đại chưa từng có “Trăng” qua cách gọi không phải là vô tri nữa mà là người thiếu nữ, trăng cũng có “hồn người”. Văn học trung đại chưa bao giờ có cách gọi như vậy. Nếu “trăng” ở trên được nhân hóa thành người thiếu nữ, thì “ngẩn ngơ” là từ chỉ tâm trạng, “trăng ngẩn ngơ”ngạc nhiên trước vẻ đẹp của trời thu, “ngẩn ngơ” còn gợi hình ảnh người thiều nữ đang lẻ loi. Không gian thiên nhiên trong mùa thu thật đẹp, không biết từ bao giờ nó đã đi vào lòng người qua hình ảnh “liễu”, đặc biệt là hình tượng ánh trăng, là chuẩn mực của vẻ đẹp. Mùa thu được cảm nhận bằng tất cả thính giác và thị giác: 
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió” 
(Đây mùa thu tới) 
Xuân Diệu, nhà thơ của tình yêu, từng viết rất hay về cái lạnh của mùa thu “Trời muốn lạnh nên người ta cần nhau hơn, và người nào có một thân, thì cần một người khác. Xuân, người ta cần ấm mà cần tình. Thu, người ta vì lạnh sắp đến mà cẩn đôi. Cho nên không gian đầy những lời nhớ nhung, những linh hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau” (Trường ca) [10.23]. Nhà thơ cô đơn nên thấy đất trời quạnh quẽ và xa mờ. 
Mùa thu mới tới mà đất trời như quạnh quẽ và xa mờ hơn. “đã nghe rét mướt”, chúng ta không chỉ thấy sự nhạy cảm đi trước thời gian của Xuân Diệu mà còn thấy buồn và một chút bâng khuâng. Thơ Xuân Diệu bao giờ cũng thổi vào cảnh vật một linh hồn và hóa thân cho nó để mang một tâm trạng của con người. Câu thơ thật giản dị, tự nhiên cách miêu tả rất nghệ thuật. Chưa bước vào hẳn mùa đông mà ở đây thỉnh thoảng những cơn gió mang theo cái rét trở về như luồn đi trong không gian. Xuân Diệu sử dụng động từ “luồn” thật gợi hình gợi cảm, nghệ thuật nhân hóa biến cái rét thành một con người tinh nghịch, tách gió rét ra làm hai, biến nó thành một nhân vật biết hành động, điều đó khiến cho câu thơ trở nên sinh động.
Cái rét chưa hẳn đã lộ mặt, mà nó luồn vào, nó cho ẩn thân ở trong gió. Xuân Diệu đã mang lại cho Thơ mới cách diễn đạt hết sức mới mẻ. Cái rét sau khi tác động đến hoa lá, cành, trăng, sương, gió, nó đã tác động đến con người: 
“Đã vắng người sang những chuyến đò”
 (Đây mùa thu tới) 
Trong bài thơ của Nguyễn Trãi viết về mưa rét ở một chuyến đò: 
“Dã kính hoang lương, hành khách thiểu 
Cô chu trấn nhật các sa miên” 
(Đường ngoài nội hoang vắng ít người qua lại 
Chiếc thuyền lẻ loi gác mình trên bãi cát ngủ suốt ngày) 
(Trại đầu xuân độ) 
Đó là không gian thật hiu hắt và vắng vẻ, không gian ấy gợi một cảm giác quạnh vắng, đìu hiu sông nước. Cảnh thu đã tàn rồi, mùa thu đã dần nhường bước cho tiết trời mùa đông len qua làm tê lạnh lòng người. Nhưng phải chăng thơ thiên nhiên nào mà chẳng mở rộng tâm hồn mình ra ngoại giới và lắng nghe những âm vang của thế giới ngoại cảnh vào chính lòng mình. Tâm hồn nhạy cảm của thi nhân đã đón nhận được trong cái không gian, thời gian của buổi chiều thu thơ mộng, những nỗi niềm giao cảm, những tình ý vấn vương, hòa nhịp với những rung động của lòng người: 
“Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn 
Lần đầu rung động nỗi thương yêu” 
(Thơ duyên) 
“Lòng ta nghe ý bạn” là một tình cảm được diễn đạt ngầm, là sự cảm thông giữa hai tâm hồn. Đây là cái rung động của thủa ban đầu, có một vẻ êm dịu và mơ màng, trong sáng.Trong không gian, thời gian thơ mộng như thế, sự hợp duyên giữa từng cặp hình ảnh của thiên nhiên đã xui khiến lòng người tìm đến với lòng người. Bản nhạc của thiên nhiên cũng chìm lắng đi, để bước chân của anh và của em trở thành đối tượng quan sát chính: 
“Em bước điềm nhiên không vướng chân 
Anh đi lững đững chẳng theo gần 
Vô tâm nhưng giữa bài thơ dịu 
Anh với em như một cặp vần”. 
(Thơ duyên) 
Khổ thơ mở ra một khoảng không gian bằng lặng và rộng rãi. Giữa “bài thơ dịu” của cảnh chiều thu, trên con đường chiều thu thơ mộng, hai người đang dạo những bước chân điềm nhiên kia, vẫn có một mối tương giao thầm kín, tạo bên sự hòa nhịp sóng đôi “như một cặp vần” của bài thơ đẹp. Với bước chân lãng đãng, phiêu du thi nhân đã đưa chúng ta trở về với buổi chiều thu êm ru như “một bài thơ dịu”, mà “anh với em như một cặp vần”. Chiều xuống dần, mọi vật càng chuyển động gấp gáp, thi nhân thì lắng nghe những rung động của lòng mình: 
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp 
Con cò trên ruộng cảnh phân vân 
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh 
Hoa lạnh, chiều thưa sương xuống dần”. 
(Thơ duyên) 
Cảnh chiều thu chuyển dần theo thời gian, đó là thời khắc của hoàng hôn. Một làn mây biếc, một cánh cò trên ruộng lúa đều thấm lạnh những bông hoa trong cái nắng nhạt của lúc chiều muộn. Đó là những hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ điển phương Đông. Bốn câu thơ gợi lên âm hưởng của đường thi. Trạng thái “phân vân” của cánh cò cũng như cái “gấp gáp” của làn mây biếc là một nét tâm trạng rất riêng biệt, điển hình của Thơ mới mà chúng ta chưa gặp trong thơ cổ. Trong thơ cổ, dù buồn vui hay đau đớn thì con người trữ tình vẫn giữ cách biểu hiện trẩm tĩnh, ung dung và thường lặng lẽ, những tâm trạng mang tính “phi thời gian” của con người đã hòa nhập với cái vô tận của vũ trụ và vĩnh hằng của thời gian. Nhưng phải đến Thơ mới, mới có tâm trạng bâng khuâng như thơ Huy Cận, hay cái rùng mình, run rẩy trong thơ Xuân Diệu. Cái “phân vân” của cánh cò, cái “gấp gấp” vội vã của làn mây là biểu hiện của cái “tôi” ý thức rõ rệt về thời gain va sự hữu hạn của con ngườ, của đời người. Đó là sự tương giao của cảnh vật trong khung cảnh hoàng hôn, cái gấp gấp của làn mây với dáng phân vân, lưỡng lự của cánh cò trên ruộng, cái rộng dài của không gian qua những cánh chim dang rộng và chiều sâu của buổi chiền qua cái lạnh của sương thu thấm vào những cánh hoa. 
Thơ duyên bài thơ duy nhất không buồn trong bài thơ về mùa thu của Xuân Diệu. Đó là những rung động xôn xao, những xúc cảm tinh tế đón nhận những biến thái tinh vi, mơ hồ của sự sống trong thiên nhiên tạo vật và lòng người trong lúc giao mùa vào thu. “Thơ duyên” thể hiện sự cảm nhận độc đáo, tinh tế của Xuân Diệu về mùa thu. Sự cảm nhận này cũng đã được Xuân Diệu thể hiện trong một bài văn xuôi đặc sắc ở tập Trường Ca: “Với lòng tôi, trời đâu chỉ có hai mùa : xuân với thu hai mùa có bình minh… Hè sang thu là bao nhiêu khoái trá cho giác quan; được rời bỏ lứa chói chang mà vào trong nước hiền hòa mát mẻ… Sự sống trong mùa, xuân tưng bừng ra ngoài, thì giữa mùa thu, sự sống lại tiềm tiềm lặn vào bên trong, sắp sẵn lò sưởi ở giữa ngực… 
Thu không phải là mùa sầu. Ấy chính kà mùa yêu, mùa yêu nhau bằng linh hồn, mùa những linh hồn yêu mến nhau... Xuân, người ta vì ấm mà cần tình. Thu người ta vì lạnh sắp đến mà cũng cần đôi” [10.23] 
Đó là khung cảnh chiều thu đầy thơ mộng mà cảnh vật hòa điệu nhịp nhàng, đã khơi dậy trong lòng người niềm khát khao, giao cảm thầm kín mà mạnh mẽ, gắn bó những tâm hồn đơn chiếc: 
“Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy 
Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. 
(Thơ duyên) 
Cảnh sắc thiên nhiên ở đây có khả năng đánh thức dậy trong tâm linh con người những kỷ niệm, những khát khao thầm kín để con người được sống đầy đủ và sâu sắc hơn với mọi cảm giác, cảm xúc và khár vọng của mình. Đó là tiếng ca vui của một tâm hồn “lần đầu rung động nỗi thương yêu” đang đắm say trong hạnh phúc. 
Thơ duyên đã ru ta vào một không khí vô cùng trong trẻo và êm ái, vào một buổi chiều thu ngân nga bao tiếng huyền hòa duyên cùng lòng yêu cuộc sống, cùng những rung động tinh vi cùa thi sĩ Xuân Diệu. Tác giả Thi nhân Việt Nam thật tinh tế khi nhận xét rằng: “sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra đềy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi” và khẳng định “đây mới là Xuân Diệu” [11.63]. Có những rung động tinh vi ấy, bởi nhà thơ luôn nhìn đời bằng đôi mắt ngở ngàng và cảm nhận thiên nhiên bằng cả tâm hồn, bằng cả cơ thể vô cùng nhạy bén. Nghe đàn dưới trăng thu, có lẽ chỉ Xuân Diệu mới thấy: 
“Lung linh sáng bỗng rùng mình” 
(Nguyệt cầm) 
Và nhà thơ cảm nhận: 
“Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ người 
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi 
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận 
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người!”. 
(Nguyệt cầm) 
Chỉ có thể viết nên những dòng thơ như thế khi nhà thơ thực sự sống trong thế giới của mọi sự u huyềnn, khi không chỉ có một trái tim mà còn có cả một linh hồn. Âm thanh của nguyệt cầm, cái lạnh mát rợn của làn da… cái lạnh sắc cuộn trong lòng. Từ “long lanh” chì màu sắc, lại được sử dụng tái tạo thanh âm. Dường như nổi tiếng đàn đều trong vắt và đều lấp lánh, sóng sánh ánh trăng. Phải chăng tiếng sói vốn đã trong, đã ngân, dưới trăng thu sáng lạnh nên nó “long lanh”. Đó là không gian cao rộng, bát ngát âm thanh, trong suốt ánh sáng và ngưng đọng trong niềm cô tịch tuyệt đối. Sự hòa nhập giữa không gian trăng và không gian nhạc trong đêm thu lạnh ngắt đã tạo nên một thế giới sâu thăm thẳm với một linh hồn run rẩy. Nghe tiếng đàn dưới trăng thu, Xuân Diệu thấy: 
“Mây vắng, trời trong đêm thủy tinh 
Linh lung bóng sáng bỗng rung mình 
Vì nghe nương tử trong câu hát 
Đã chết đêm rằm theo nước xanh”. 
(Nguyệt cầm) 
Trong đêm thu lạnh ngắt với “một vầng trăng trong vắt lòng sông”, năm nào trên bến Tầm Dương từng nỉ non tiếng tì bà than tiếc cho một thân phận lỡ làng. Cung đàn kể chọn một cuộc đời tài hoa nhưng duyên phận hẩm hiu. Phải chăng người đang phổ mình vào cung đàn nguyệt đêm nay cũng mang tâm trạng ấy? Dường như cái lạnh nơi lạnh nơi không gian thu, nơi tiếng đàn đang ngấm vào tận sâu thẳm cõi lòng ngưởi. 
Xuân Diệu đã hòa nhập linh hồn vào trăng và nhạc, trong đêm thu, nhà thơ đã cảm nhận rõ nỗi cô đơn của cái tôi cá nhân. Nhân vật trữ tình trong Nguyệt cầm mang bóng dáng của một tầng lớp, một thời đại. Giữa con người cá nhân của thơ ca lãng mạn với thế giới thiên nhiên không chỉ trường sinh, tương thông mà tương phản: 
“Bốn bề ánh nhạc, biển pha lê 
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề 
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở 
Nghe sầu âm nhạc đến sao khuê”. 
(Nguyệt cầm) 
“Chiếc đảo hồn tôi”, xuất hiện như một ẩn dụ, nó thật nhỏ bé và cũng thật mạnh mẽ khi nỗi sầu buồn từ đó dâng đến tận Khuê. Không gian đêm thu trong suốt như pha lê, lung linh ánh nhạc đã giúp cho nỗi buồn ấy được ngưng kết và lên cao vời vợi. Một cái tôi hòa nhập cả linh hồn vào chiều sâu huyền bí của thế giới vũ trị nhưng vẫn cảm thấy cô đơn giữa cõi đời. 
Nghe tiếng đàn trên sông nước dưới đêm trăng thu là một thứ thơ cổ điển phương Đông mang màu sắc trang trọng. Xuân Diệu đã thổi vào Nguyệt cầm cái cảm giác tinh vi, nỗi buồn cô đơn buốt lạnh của một tâm hồn tiếp xúc với văn hóa hiện đại phương Tây. Nỗi buồn trong suốt, trang trọng ở Nguyệt cầm là kết quả của sự giao hòa giữa cổ điển và hiện đại, phương Đông và phương Tây. 
Xuân Diệu đắm say đấy, thiết tha yêu cuộc sống đấy nhưng lại rất băn khoăn. Nhà thơ đã náo nức đón chào mùa thu, nhưng rồi cảm giác vui mừng ấy cũng tan biến đi, khi thời gian làm bằng bước đếm vội vàng làm lòng người tê tái, khi còn lại đây chỉ là mùa đông băng giá thê lương với những cuộc chia ly, với con người như biết nói trước cảnh vật: 
“Mây vẫn từng không chom bay đi 
Khi trời u uất hận chia ly” 
(Đây mùa thu tới)
Cả một không gian bao la giờ này đã thấm đẫm nỗi buồn của lòng người, cảnh vật mùa thu mang nhiều hình ảnh của sự chia ly, cách xa, những cánh chim bay về những quê ấm áp. 
Với Xuân Diệu, lần đầu tiên trong thơ ca, con người trở thành trung tâm của vũ trụ, con người là chủ nhân của vũ trụ. Ở Xuân Diệu kết thúc nhân vật là người thiếu nữ: 
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói 
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”. 
(Đây mùa thu tới) 
Trong buổi chiều thu, người thiếu nữ thẫn thờ tựa cửa với đôi mắt xa xăm buồn, như đắm mình trong buổi chiều thu mơ màng. Đó là câu hỏi tu từ không lời đáp, là kết thúc bỏ ngỏ để cho người đọc tự cảm nhận và tự suy nghĩ. Đôi mắt xa xăm ấy của người thiếu nữ chứa trong đó là những ánh hào quang của hy vọng, của mộng mơ và của tình yêu đôi lứa. môy trong những bước tiến vượt bậc của Xuân Diệu chính là chỗ xác định con người là chủ thể của vũ trụ, con người là mẫu mực của cái đẹp, là sinh thể đẹp nhất của trái đất ở trên trần gian này. Ngược lại, văn học trung đại không bao giờ bộc lộ ước muốn của mình như thế này. Đó là những nốt nhạc xao xuyến, đang hướng ra cuộc đời để đón nhận tình yêu của cuộc đời, sưởi ấm trái tim mình. Qua đó chúng ta thấy nhân vật trong mùa thu của Xuân Diệu là con người đang hi vọng, đang mộng mơ. 
Đó là tâm trạng của những lớp người chưa xác định được hướng đi. Trong niềm băn khoăn ấy, lời thơ ấy vẫn sống mãi, vẫn thiết tha và rạo rực, có buồn chăng cũng chỉ là nhà thơ của chúng ta mang tâm trạng cô đơn và bất lực trước cuộc đời. Xuân Diệu đã đem lại một cách cảm thụ mới mẻ, chịu ảnh hưởng của phương Tây trong cách nhìn mùa thu, cá thể hóa tâm trạng vào cái riêng tư đến mức gần như tuyệt đối. 
Về mặt thời gian, Xuân Diệu sống với thi ca, tạo nên một bầu trời thu đầy phong sắc, chứa chan cảm xúc với cảnh và người. Nhưng điều để Xuân Diệu tự khẳng định mình và để cho thơ ông không lẫn với bất kỳ nhà thơ nào khác, Xuân Diệu cũng đem thiên nhiên vào trong thơ mình, nhưng trong thơ ông không đơn thuần là thiên nhiên hồn nhiên cảu đất trời. Mà Xuân Diệu đã đổi mới cách nhìn, cách cảm nhận về thiên nhiên. Ông đã thổi hồn mình vào thiên nhiên mùa thu tạo nên sức sống làm tràn đầy sức sống của con người. Đồng thời Xuân Diệu lấy vẻ đẹp của con người để so sánh với vẻ đẹp cảu thiên nhiên. Đến với Xuân Diệu, chúng ta bắt gặp một cái tôi đam mê mãnh liệt với thiên nhiên và với cuộc sống. Trong các nhà Thơ mới, Xuân Diệu là người diễn tả sự đam mê nổi trộ nhất. Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu hay tả mùa thu và trong thơ ông mùa thu luôn ngập tràn ánh sáng, ríu rít thanh âm. Đồng thời là tâm trạng cô đơn với một bầu tâm sự mà nhà thơ đã gửi gắm qua những tác phẩm của mình. 
Qua những tác phẩm về mùa thu trong thơ Xuân Diệu, chúng ta thấy rõ sự cách tân trong cách dùng từ, kết hợp từ.
Vì vậy lời thơ của Xuân Diệu vừa diễn tả đầy đủ mọi cung bậc tình cảm phong phú, phức tạp của cái tôi cá nhân luôn hấp dẫn, gần gũi với tâm hồn người Việt Nam. Trên con đường hình thành và phát triển Thơ mới lãng mạn Việt Nam, Xuân Diệu chiếm một vị trí hết sức nổi bật. Với những tác phẩm về mùa thu, Xuân Diệu đã đánh dấu giai đoạn rực rỡ nhất của trào lưu thơ ca lãng mạn (1932-1945) 
2.2. Mùa thu trong thơ Lưu Trọng Lư 
Lưu Trọng Lư (1912 -1991) là một nghệ sĩ đa tài. Ông làm thơ, viết tiểu thuyết, ký sự, hồi ký văn học, kịch nói, kịch thơ, tranh luận văn học… Ở lĩnh vực nào, ông cũng có những đóng góp đáng quý, để lại trong lòng bạn đọc nhiều dấu ấn khó phai mờ. Trong văn nghiệp của ông, thơ là kết tinh đặc sắc nhát và là đóng góp nổi bật nhất. Nói đến thơ hiện đại Việt Nam, người yêu thơ không thể không nhắc đến Lưu Trọng Lư, một trong những người có ông đầu trong cuộc đấu tranh cho sự chiến thắng của Thơ mới. Người thi sĩ tài hoa, tác giả của tập Tiếng thu bất hủ, từng làm thổn thức trái tim bao thế hệ công chúng. Thành thật và tài hoa, nhạy cảm và tinh tế về âm thanh, nhạc điệu, Lưu Trọng Lư đã tạo được tâm hồn riêng, góp một tiếng thơ độc đáo giàu sức cuốn hút cho phong trài Thơ mới. 
Đã có bao nhiêu nhà thơ xưa nay tìm cảm hứng ở mùa thu, và chúng ta nghĩ rằng sẽ không có gì để nói thêm. Nhưng đến lượt mình, Lưu Trọng Lư vẫn tìm được cách diện tả độc đáo, đầy ấn tượng. Cách mạng tháng Tám thành công, đã khơi dậy và thức tinh những khát kháo chân chính trong tâm hồn thi sĩ Lưu Trọng Lư. Tập thơ Tiếng thu (1939) là tập thơ đầu tay và cũng là những thanh âm huyền diệu nhất, lôi cuốn và có sức ngân vang nhất của đời thơ Lưu Trọng Lư. Tập thơ đã khẳng định tài thơ xuất sắc của Lưu Trọng Lư, góp phần vào sự chiến thắng của Thơ mới đối với thơ cũ. 
Trong tập Tiếng thu, “mộng” có thể coi là một nét phong cách đặc trưng của Lưu Trọng Lư. Phong cách đó đã tạo nên trong Tiếng thu một hồn thơ đắm say, mơ màng. Với những giấc mộng đẹp, với những âm điệu du dương, trong tập Tiếng thu dù nhiều bài thơ không trực tiếp nói đến mùa thu nhưng cái bảng lảng, mơ hổ của hơi thu vẫn lan tỏa dịu dàng. Nó ngập tràn lòng ta, không lấn át mà nhẹ nhàng, xuyến thấm. Vũ Ngọc Phan đã lí giải: “Đã sống nhiều trong cuộc đời tư tưởng, thì đầu mùa đông hay mùa xuân, mùa thu hay mùa hạ, ai là người không có những buổi “chiếu thu”, những buổi chiều mà cái buồn vơ vẩn nó đến van lơn, cám dỗ, những vuổi mà tiếng thu reo vang, vừa nhẹ vừa chìm” [10.34]. Lắng nghe Tiếng thu bằng cả tâm hồn ta sẽ được cùng thi sĩ phiêu du vào cõi mộng, để cùng thi nhân cảm nhận cái “thổn thức, rạo rực” của lòng người, cái “xôn xao” của vạn vật khi đất trời thu. Muốn thâm nhập vào cõi ấy ta “đừng nói to, bước nặng” hãy “lấy hồn ta để hiểu hồn người” [38.294]. 
Với Xuân Diệu tiếng thu là “Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”, “huyền” ở đây là đàn, cây đàn vô hình cà thế giới tiếng đàn hư ảo ấy phải là mùa thu, bởi đó là thứ âm thanh huyền diệu được tếu lên từ lòng vạn vật. 
Người Việt Nam yêu Thơ mới, có lẽ không ai là không ám ảnh bởi Tiếng thu, không ai không yêu Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Nhưng Tiếng thu nói gì, nói như thế nào, có lẽ có rất nhiều cách giải đáp. Chúng ta yêu thơ Đường với giá trị hội họa, ta nhìn thấy ở đó một bức tranh phương Đông thuần túy, một bức tranh trong cõi mộng với những đường nét mơ hồ như phủ trong một màn sương. Chúng ta yêu thơ lãnh mạn bởi âm nhạc, chính là đặc trưng nổi bật, là nhịp mạnh của Thơ mới. Trong đó Tiếng thu của Lưu Trọng Lư chính là nét nhạc cơ bản, hài hòa giữa cảnh thu và rừng thu, giữa cảnh bên ngoài và những xao động bên trong, hài hòa giữa cái thổn thức, rạo rực, ngơ ngác, đó là sự hài hòa giữa đôi trái tim chung tiết tấu của một đôi bạn tình thu. 
Song Tiếng thu của Lưu Trọng Lư không chỉ là âm thanh riêng rẽ nào, cũng không phải là tập trung giản đơn của nỗi thổn thức trong đất trời, nỗi rạo rực trong lòng người và tiếng xào xạc của rừng già. Tiếng thu là một điệu huyền, một hòa ca vừa mơ hồ, vừa hiển hiện nỗi xôn xao ngấm ngầm trong lòng tạo vật đang hòa điệu với nỗi xôn xao của hồn thi nhân. Lưu Trọng Lư là một thi sĩ đa tình và mơ mộng, Ông say sưa tả những cái đẹp của con người và cua tạo vật, tấm lòng ông lúc nào cũng thổn thức, cũng mơ màng. Tập Tiếng thu là những lời buồn thảm, những lời réo rắt làm xáo động tâm hồn người ta, như những tiếng của mùa thu. Tiếng thu nó gieo nhè nhẹ, chìm sâu trong tâm hồn ta những lúc thê lương hay buồn dịu, nó âm thầm và nỉ non khi mới đến cõi lòng ta, nó mơn man đến muôn vật mà gây lên một cảnh đìu hiu, mạnh mẽ.
Trong Tiếng thu, yếu tố nhạc và họa có vai trò quan trọng. Cả bài thơ được tổ chức bằng ba câu hỏi: 
“Em không nghe mùa thu? 
Em không nghe rạo rực? 
Em không nghe rừng thu?” 
(Tiếng thu) 
Nhà nghiên cứu Văn Tâm đã khảo sát văn bản đầu tiên và cho biết: “Chín dòng thơ liền mạch, không chia khổ, chỉ có ba chữ “em” đứng đầu dòng viết hoa và cuối mỗi câu hỏi có một dấu hỏi. Nó chứng tỏ ba câu hỏi ở đây là trọn vẹn được ngắt ra, tồ chức thành dòng thơ” [27.21]. Cái đặc biệt của bài thơ này là câu hỏi được đạt bằng từ phủ định: 
“Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức? 
Em không nghe rạo rực 
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ? 
Em không nghe rừng thu 
Lá thu kêu xào xạc 
Con nai vàng ngơ ngác 
Đạp trên lá vàng khô?”. 
(Tiếng thu) 
Bài thơ được tạo bằng ba câu hỏi dồn dập, tha thiết, ba câu hỏi cùng một hình thức, hợp lại thành một câu hỏi lớn. Tiếng thu là tiếng buồn, tiếng nhiều, bởi nỗi buồn ở đây không được chia sẻ. Cụm từ “em không nghe” lặp lại ba lần nhấn mạnh một tiếng lòng lẻ loi. “Thổn thức, rạo rực” là những trạng thái nội tâm thầm kín mà người ta chỉ có thể nghe được bằng chính tâm hồn mình. 
Trong Thơ mới, các thi nhân đã biến không gian sơn thủy, cỏ hoa hữu tình trong thơ cổ, thành một không gian rời rạc, hững hờ, lạnh lẽo, họ đã biến cái không gian chắc nịch, vốn là nơi quy về của các hồn thơ cổ, thành một mật. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư gợi niềm rạo rực, gợi tiếng “kêu” của bao lớp lá lìa cành. Tiếng thu chính là tiếng buồn của cái tôi thức tỉnh nhưng không được chia sẻ. Tiếng thu đã làm cho Lưu Trọng Lư mơ mộng mà hỏi bạn tâm tình: 
“Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức”. 
(Tiếng thu) 
Bài thơ mở đầu bằng tiếng gọi nhẹ nhàng, “em” là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai. Đó là tiêng gọi thật mơ hồ, tất cả đều rạo rực, ngơ ngác về tiếng thổn thức của mùa thu dưới ánh trăng mờ. Ngọn thu phong ấy đưa về làn mây bạc với một điều mơ mộng của tuổi xanh, làm cho người thanh niên dầu có cái buồn vơ vẩn, nhưng vẫn chứa chan trong lòng biết bao tình yêu đằm thắm: 
“Mây trắng bay đầy trước ngõ tre 
Buồn xưa theo với gió thu về 
Vài chàng trai trẻ sầu biêng biếc 
Mộng nở trong lòng, sắc đỏ heo”. 
(Mây trắng) 
Tiếng thu là nỗi buồn mênh mông, bao la hơn, sâu lắng hơn về một đất nuớc mênh mang, tươi đẹp. Vũ Ngọc Phan đã từng nhận xét: “Thơ Lưu Trọng Lư là tất cả tấm lòng thổn thức của con người mơ mộng, lúc nào cũng nặng lòng yêu dấu” [18.38]. Đúng vậy Tiếng thu là nỗi buồn mênh mông, bao la hơn, sâu lắng hơn về một đất nước mênh mang tươi đẹp. 
Không quan sát mùa thu bằng thị giác mà lắng nghe bằng thính giác, hơn thế nữa là lắng nghe bằng chính lòng mình, để cảm nhận trạng thái của mùa thu. Với vẻ rạo rực mơ hồ, với nỗi nhớ người chồng ra trận, với âm vang rất khẽ khàng, dẫm chân lên lá khô của toàn bộ đời thơ Lưu Trọng Lư. Trong Tiếng thu Thi sĩ đã lắng nghe bằng chính tâm hồn mình, bằng tiếng lòng thổn thức của người cô phụ trong những đêm trăng rạo rực: 
“Em không nghe rạo rực 
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ” 
Không gian mùa thu có trăng mờ, để cho người thiếu phụ thổn thức nhớ thương, có rừng chiều rải rác lá vàng khô. Thời gian trong Tiếng thu là thời gian rừng nắng, thời gian của quá khứ vọng về. Sau tiếng thổn thức của cô phụ là tiếng kêu đau xót của nhà thơ, đồng cảm với nỗi thiếu vắng, hụt hẫng của người cô phụ đơn côi. Ở đây, tiếng nói nhân ái được cất lên từ hiện thực cuộc sống đớn đau chứ không phải từ cõi mộng. Mùa thu là mùa của tình yêu và thương nhớ. Không phải là một đêm trăng sáng tỏ, mà dưới ánh trăng mờ, cái mờ, bàng bạc của không gian phù hợp với tâm trạng nhớ thương. Và nỗi nhớ sâu xa nhất vẫn thuộc về tình yêu lứa đôi, tình vợ chồng. Hình ảnh “chinh phu”, “trong lòng người cô phụ”, tuy mang tình cảm xa xôi, xưa cũ nhưng lại phù hợp với khung cảnh mùa thu. Cảnh vật mùa thu bao giờ cũng mở ra với hiện tại và không khép lại với quá khứ nên cảm xúc và hình ảnh thơ rất linh hoạt với thời gian. Tiếp theo là câu hỏi tu từ thật gợi cảm: 
“Em không nghe rừng thu 
Lá thu kêu xào xạc 
Con nai vàng ngơ ngác 
Đạp trên lá vàng khô”. 
(Tiếng thu) 
Bức tranh đẹp về mùa thu có màu sắc và nhiều âm thanh xao động. Màu vàng là tượng trưng cho mùa thu đã đến trong thơ Nguyễn Khuyến: 
“Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”. 
(Thu điếu) 
Và sắc vàng đã quy tụ trong thơ Lưu Trọng Lư, bóng nai vàng trên rừng thu xào xạc lá vàng khô. Cái đẹp của mùa thu khơi gợi những cảm xúc thầm kín của những tâm hồn đa cảm. 
Tiếng thu còn là tiếng thơ của nỗi cảm thương, nhân ái, thấm đượm nghĩa tình. Lặng lẽ trong hồi ức kỷ niệm xa xăm, những lần gặp gỡ, những cảm nhận từ hư vô tưởng tượng, thế mà đầy sức lay động. Sau những vần thơ đó, ta cảm thấy như vang vọng đâu đây tiếng khóc của Tố Như cho những thân phận bạc mệnh và tiếng kêu đau đớn đầy chiêm nghiệm: 
“Đau đớn thay phận đàn bà 
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” 
(Nguyễn Du) 
Và cũng xuất phát từ tình cảm ấy, thơ Lưu Trọng Lư còn là biểu hiện của một tấm lòng gắn bó với đất nước, gắn bó với dân tộc. Lưu Trọng Lư mải miết say mê nghệ thuật, đến mức lúc nào cũng như người trong mộng và có lúc đã buông thả, đắm chìm trong những thú vui. Nhưng sống trong cảnh đất nước đau thương, tới phương nào nhà thơ cũng chỉ gặp nỗi đau khổ của con người, chưa bao giờ nhà thơ quên thân phận nô lệ của mình. Khi nói về xuất xứ bài thơ Tiếng thu, Lưu Trọng Lư tâm sự: “Khi cha tôi không làm “quan” nữa vể ở quê nhà, trong phòng ông có một bức tranh vẽ con nai rất đẹp. Thời thế lúc này thật nhiễu nhương. Nhân dân thì đói khổ. Chúng bắt phu, bắt lính. Ôi con nai vàng hiền lành trong tranh của cha tôi, hàng ngày hiện ra trước mắt tôi mà sao đáng thương làm vậy! Bài Tiếng thu ra đời nói lên cái buồn của đất nước. Cái ngơ ngác của con nai chính là vẻ hiền lành xứ sở… Do đó mà có hình bóng của kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ. Và cái hình ảnh con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô đâu phải là hình ảnh không có ẩn ý. Nó là sự hứa hẹn, là một sự báo hiệu điều gì đó sẽ xảy ra” [18.249] Đọc Tiếng thu, người đọc cảm được hồn thu xứ sở quay về hiền hậu, chất phác của chú nai vàng. Đó là nỗi lòng kín đáo của một hồn thơ có trách nhiệm, nhưng hồn thơ đó còn mơ màng, ngơ ngác, chờ đợi một người bạn đường tốt để cùng đi tới một vùng trờii thanh bình, hạnh phúc. 
Tiếng thu còn là tiếng vang vọng của nỗi cô đơn, bơ vơ của con người một thời không phương hướng trong cảnh nước mất, nhà tan. Vì thế mà, hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” không chỉ là biểu hiện tập trung hồn thơ của Lưu Trọng Lư mà còn là biểu tượng của cả một xứ sở, cả một dân tộc. Đó là Lưu Trọng Lư mà còn là biểu tượng của cả một xứ sở, cả một dân tộc. Đó là một xứ sở đẹp tươi và thơ mộng. Một dân tộc hiền lành và yên bình như vậy mà phải gánh chịu bao tai họa của các thế lực bạo tàn. Phải chăng, vì lẽ đó mà thi phẩm này có một vị trí đặc biệt trong thơ ca lãng mạn.
Nếu Nhớ rừng của Thế Lữ là lòng nhớ nước thương quê và mang hào khí của một tráng sĩ lâm vào cảnh bất lực trước thực tại, một mãnh hổ lẽ ra phải ngự trị chốn rừng xanh nhưng lại bị giam cầm trong cũi sắt thì Tiếng thu là tiếng buồn mênh mông hơn, bao la hơn, sâu lắng hơn về một đất nước đẹp tươi, con người nhân hậu, hồn nhiên mà chưa biết làm thế nào để giữ được vẻ đẹp đó. 
Cảm xúc trong Tiếng thu mang dấu ấn sâu sắc của con người mơ mộng, đa tình Lưu Trọng Lư: 
“Em không nghe rừng thu 
Lá thu kêu xào xạc 
Con nai vàng ngơ ngác 
Đạp trên lá vàng khô”. 
(Tiếng thu) 
Cùng với nó là nỗi thổn thức của tạo vật, nỗi rạo rực của lòng người đã cộng hưởng thành nỗi xôn xao mênh mang đang rung trong lòng trời đất. Và như thế Lưu Trọng Lư đã thâu tóm được cái “xôn xao” của cả một thời đại thơ thầm kín. Trạng thái tinh thần đó, người ta chỉ có thể nghe được bằng chính tâm hồn mình. Giữa đêm thu vàng, thi sĩ đã lắng nghe, đã cảm nhận những xao động của đất trời được tấu lên từ lòng người và vạn vật. Nhà thơ như nghe được tiếng dội của chính hồn mình giữa trời đất mênh mang. Từ đó điệp khúc “Em không nghe?...”, vang lên như một lời mời gọi sự sẻ chia của cái tôi thi sĩ. Nó trở thành một cung đàn da diết ám ảnh hồn người. Nếu thiếu đi sự tinh tế, sâu lắng và một cảm quan nhạy bén, thi sĩ sẽ không bao giờ nắm bắt được thanh âm huyền diệu ấy. 
Với khả năng diễn tả một cách tinh vi những cảm xúc mơ màng, bàng bạc lan thấm vào ngõ ngách tâm hồn, nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn lan tỏa mênh mông theo dòng gian thời gian. Những cảm xúc mơ màng đó vừa lan tỏa, vừa ngưng đọng trong thế giới mộng ảo của Tiếng thu: “Nó gieo nhè nhẹ, chìm chìm trong tâm hồn ta những lúc thê lương hay buồn dịu. Nó âm thầm và nỉ non khi mới đến cõi lòng ta, vang vang rồi mơn man đến muôn vật, mà gây lên một cảnh đìu hiu lặng lẽ, nó là những tiếng trong suốt ngân nga như tiếng sếu lưng trời sắp vào đông” và “tuy nó phát khới tự mùa thu, nhưng nó đã vang bên tai loài người từ muôn đời”. [34.673] 
Lưu Trọng Lư đã nắm bắt được sự sống đầy bí ẩn, đầy xôn xao trong lòng thiên nhiên, trong lòng tạo vật với những biến thái tinh vi, một thế giời vừa mơ hồ, vừa hiển hiện, đó là thế giới của sự huyền diệu. Đó là tiếng thổn thức, rạo rực của đất trời và lòng người, tiếng xào xạc cảu lá, tiếng ngân dài của ánh trăng, tiếng đạp chân trên lá khô của chú nai vàng ngơ ngác… Tất cả là sự cộng âm, đồng vọng của hồn người thi sĩ với những trạng thái huyền hồ, bí ẩn của lòng người. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là sự cộng hưởng hài hòa, xuyên thấm, hòa nhập vào với nhau giữa âm thanh của lòng người và âm thanh của tạo hóa. Và cả những xôn xao tận đáy sâu tâm hồn thi nhân. Từ xưa đến nay, có lẽ Lưu Trọng Lư là người đầu tiên và cũng là người duy nhất nghe được “tiếng” của “trăng mờ”; 
Em không nghe mùa thu 
“Dưới trăng mờ thổn thức”.
(Tiếng thu) 
Chính sự “thổn thức” của “ánh trăng” ấy đã tạo nên một không gian hư ảo huyền diệu bao phủ khắp đất trời mùa thu. Không chỉ dừng lại ở đó, thi nhân còn thấy sự “rạo rực” của “hình ảnh kẻ chinh phu” trong “lòng người cô phụ”. Với trạng thái tinh thần đó, người ta chỉ có thể nghe bằng chính tâm hồn mình, phải lắng nghe đời bằng cả thính giác và tâm giác mới thấy được tự thân cuộc sống đang vận động thế nào. 
Tiếng lá thu kêu “xào xạc” gợi âm thanh trầm và huyền bí của rừng già. “Chỉ với một tín hiệu duy nhất là “xào xạc” âm thanh của rừng thực sự đã là sứ giả của vương quốc thu huyền bí, là phát ngôn chính thức và hàm súc của tiếng thu” [18.29] 
Tóm lại trong Thơ mới, Tiếng thu đã tạo dựng một thế giới nghệ thuật riêng, in đậm dấu ấn của hồn thơ và phong cách của Lưu Trọng Lư. Màu sắc, đường nét của khung cảnh thiên nhiên cho đến con người trong Tiếng thu đều khá mơ hồ, không xác định trong không gian và thời gian hiện thực, mà bàng bạc trong màn sương mờ ảo của mộng tưởng, của kỷ niệm. 
Qua đó chúng ta thấy rằng Tiếng thu của Lưu Trọng Lư tuy chịu ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn Pháp, nhưng vẫn mang dáng dấp của thơ ca truyền thống. Tiếng thu chính là niềm khát khao một chân trời mới, tự do, phóng khoáng, rộng mở với ước muốn thoát khỏi hoàn cảnh gò bó, tù túng của xã hội Việt Nam đương thời. Tiếng thu không chỉ là tiếng lòng của bạn đọc một thời mà nó sẽ sống mãi trong tâm hồm bao thế hệ bằng những rung động tinh tế và mơ màng đầy chất thơ. Cùng với những tên tuổi như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính... và các thi sĩ tài hoa khác, tên tuổi Lưu Trọng Lư đã đi vào lịch sử thơ ca Việt nam và Tiếng thu của ông mãi là tiếng gọi của mùa thu, tiếng vọng của hồn thu. 
2.3. Mùa thu trong thơ Quách Tấn 
Thi sĩ Quách Tấn (1910-1992) hiệu Trường Xuyên, sinh tại huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Ông là người đại diện cuối cùng của trường phái thơ cổ điển Việt Nam. Mặc dù Bình Định là nơi chôn nhau, cắt rốn, nhưng chính Nha Trang, miền đất thùy dương cát trắng, mới là nơi cưu mang thi sĩ hơn nửa cuộc đời. 
Quách Tấn là một nghệ sĩ đặc biệt nhất trong các thi sĩ Việt Nam về lối gợi tả thiên nhiên. Đồng thời thơ của ông là sự kết hợp giữa cái giản dị hồn nhiên của ca dao Việt Nam và những rung cảm thiết tha của Thơ mới. Ở thơ Quách Tấn là sự hòa hợp trọn vẹn giữa thơ cũ và thơ mới. Nguồn cảm hứng của thi sĩ Quách Tấn rất quen thuộc, đó là tấm lòng của ông với thiên nhiên. Tấm lòng ấy là tình và cảnh bên trong hòa hợp với những phản ánh qua cảnh sắc bên ngoài. Ông dành cho mùa thu một thứ tình cảm rất đặc biệt, ông có tới hơn một trăm bài thơ viết về mùa thu. Mỗi bài thơ thể hiện một dáng vẻ, một tâm tình đối với từng người, từng cảnh vật cũng như đối với non sông, đất nước. Mùa thu là mùa gợi bao nỗi nhớ và hoài niệm thân thương, luyến tiếc...
Đến với Quách Tấn, chúng ta đến với những cảm xúc mới, những ý lạ, nồng nàn cảm xúc khiến người đọc phải rung động, bồi hồi theo nỗi lòng cô đơn của tác giả. Quách Tấn, người đã đem cả tài năng và tâm hồn của mình để viết lên những tác phẩm tràn đầy tình yêu thiên nhiên tha thiết và những nỗi niềm ưu tư về một thời đại. Với trái tim tràn đầy xúc cảm của thi nhân, chúng ta đã bắt gặp rất nhiều từ thu trong các bài thơ: hồn thu, lòng thu, tâm thu, mưa thu, hương tàn thu, đêm thu, hồ thu, bờ thu, sông thu, mây thu, hoa thu, bến thu… 
Trong những tập thơ đã xuất bản, tập Mùa cổ điển chính là đỉnh cao nghệ thuật của ông. Ở Mùa cổ điển, mỗi bài thơ đều chất chứa ưu tư, ẩn dấu một nỗi buồn sâu xa. Đặc biệt ở tập thơ, thiên nhiên, cảnh vật và tâm trạng con người được thể hiện rõ trong không gian mùa thu. Đêm thu nghe quạ kêu được in trong tập Mùa cổ điển, bài thơ đã được dịch và đăng ở thi đàn Pari (Pháp), bài thơ này Quách Tấn đã dùng rất nhiều điển tích, điển cố: “Ô y hạng, bến Phong Kiều, sông Xích Bích”… 
Trong đêm thu, màu đen của bóng quạ lẫn vào bóng đêm, chỉ còn lại tiếng kêu rộn ràng trôi theo dòng liên tưởng, hết điển này đến điển khác nối nhau đưa thi sĩ vào sâu trong cõi mộng. Vậy đâu là mộng, đâu là thực? Đó là tiếng quạ kêu trong đêm mùa thu tĩnh lặng, với âm thanh vang vọng ngân xa. Những điển cố, điển tích được dùng trong bài thơ Đêm thu nghe quạ kêu không chỉ dừng lại 68 ở một bến bờ sự tích, sự cố nào mà trôi theo dòng liên tưởng, cảm xúc, cảm giác của dòng sông tâm linh. Hình tượng thơ đi từ không gian đêm đen có quạ đen lẫn vào đêm thâu: 
“Từ Ô y hạng rủ rê sang 
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng”. 
(Đêm thu nghe quạ kêu) 
Đến không gian mờ ảo: 
“Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng 
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng”. 
(Đêm thu nghe quạ kêu) 
Đồng thời, câu thơ còn là ảo, độc đáo của bút pháp thi sĩ Quách Tấn trong việc dùng điển tích cũ theo mạch cảm xúc. Điều đặc biệt ở đây là cách dùng điển tích của thi sĩ Quách Tấn khác với cổ thi. Đặc điểm của nó là ít mượn nghĩa của điển, ít hướng về nghĩa của tích, mà nhà thơ dùng điển chỉ để gợi cảm giác và liên tưởng, có tác dụng tạo phong vị cổ điển, song không hề cổ mà nó vẫn mới và sinh động. Nếu như bao trùm bài Đêm thu nghe quạ kêu là bóng quạ và tiếng kêu của quạ trong cảnh sắc của mùa thu thì trong Cảnh thu chính là tiếng lòng của người chinh phu. Đó là tiếng thơ, tiếng lòng cảm thông cho tình cảm của người ở lại cũng như tâm tình người chinh phụ nương rèm liễu đợi chờ, đành nuốt lệ để khỏi bận lòng người ra đi: 
“Gầy úa rừng sương đeo giọt sầu 
Đây lòng ta đó một trời thu 
Gió vàng cợt sóng sông chau mặt 
Mây trắng vờn cây núi bạc đầu 
Dìu dặt tiếng ve còn vẳng đấy 
Vội vàng cánh nhạn rũ về đâu? 
Hỡi người chinh phụ nương rèm liễu 
Sùi sụt chi thêm bận vó câu”. 
(Cảm thu - Mùa cổ điển) 
Bài thơ còn cho chúng ta thấy hoàn cảnh bế tắc của tác giả, sống trong xã hội thực dân phong kiến, thi nhân muốn vươn mình để tìm một chân trời mới. Thu chính là nơi ký thác sự bế tắc của tâm hồn người thi sĩ. 
Với tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết, với sự cảm nhận hết sức tinh tế, thi nhân đang lắng nghe từng bước đi của tạo vật. Thu đang về trên hiên đầy hoa lài và bông mướp: 
“Hiên thu tỉnh giấc canh tàn 
Lài sân nở trắng mướp giàn bông xanh 
Hiu hiu gió những buông mành 
Thương người du tử nặng tình cố hương.” 
(Tỉnh giấc - Giàn hoa lý) 
Mùa thu về đã đánh thức cả không gian, đánh thức những nụ hoa lài bung nở trắng xóa. Tất cả đều bất chợt tỉnh giấc khi những cơn gió của mùa thu tràn về. Cùng với sự cảm nhận của thiên nhiên, thi nhân còn có sự cảm nhận sâu sắc về tình người, thi nhân thương người du tử đang trải lòng mình với cố hương. 
Dưới đôi mắt tinh tế của thi nhân, trong không gian mùa thu, cảnh vật hiện lên đẹp như trong mơ, bao trùm lên không gian ấy là bông hoa thu nở trắng bờ. Dường như cảnh vật nơi đây thật lung linh, huyền ảo: 
“Ao muống hoa thu nở trắng bờ 
Lay màn sương sớm bướm lơ thơ 
Tay chèo buông nhẹ lòng thôn nữ 
Sóng gợn làn hương run bóng mơ.” 
(Mộng Ngân Sơn) 
Trong màn sương sớm mờ ảo, bướm đang lơ thơ bay trên những bông hoa muống đã nở trắng bờ. Những cô thôn nữ đang buông nhẹ tay chèo khiến cho khung cảnh đang trở nên tĩnh lặng. Cảnh vật nơi đây thật thanh thoát, nhẹ nhàng, nó như đưa người đọc vào trong giấc mộng. Quả thật phải là người có tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết, thi nhân mới viết lên được những câu thơ như vậy. 
Trên con đường rừng vắng vẻ, trải vàng những lá hồng mai, với tiếng ve ngân lên da diết. Dường như tất cả cảnh vật đã nói lên nỗi lòng của nhà thơ, đó là niềm bâng khuâng, là nỗi nhớ quê hương da diết: 
“Khắp nẻo hồng mai lá trải vàng 
Đàn ve dắng dỏi đón thu sang 
Lòng ơi chớ đêm trăng lạnh 
Giấc mộng da hương bướm phũ phàng” 
(Thu sang - Đọng bóng chiều) 
“Giấc mộng gia hương” mà hoa với đầy bướm lung linh thật lạc điệu, thật ngơ ngác. Thi nhân mang theo giấc mộng tha hương thật tái tê cõi lòng. Những cánh bướm lung linh kia lại càng trở nên lạc điệu và ngơ ngác. Trên bầu trời, ánh trăng thì lạnh mà lòng không bù lắp được cho trăng quê, câu thơ vang lên nhịp đập của bướm, thể hiện trong các phụ âm m,n: “mộng gia hương, bướm phũ phàng”. Trước khung cảnh thiên nhiên như vậy, nhà thơ đã cất lên tiếng kêu: “chớ để đêm trăng lạnh”. 
Bên cạnh đó, cảnh thu còn được phác thảo thành bức tranh thủy mặc rất nhẹ nhàng: 
“Tìm hoa cánh bướm xuyên rừng 
Hiu hiu bụi phấn thơm lừng gió thu 
Gió lồng hương trắng bến lau 
Bóng chiều theo bóng thuyền câu vào bờ”. 
(Theo tìm - Trăng hoàng hôn) 
Những cánh bướm đang chăm chỉ đi tìm nhụy hoa để hút mật. Buổi chiều thu với hiu hiu bụi phấn, với hương trắng bến lau, dường như tất cả cảnh vật thiên nhiên cùng bóng chiều đang biến chuyển cùng bóng thuyền câu mà vào bờ. Cảnh vật nơi đây thật nhẹ nhàng và êm ái, nó như đưa tâm hồn thi nhân trở về thế giới của sự tĩnh lặng, thế giới của thanh tịnh.
Trong một buổi trưa nắng vàng rực rỡ, hoa thu đang tưng bừng nở, hoa thu còn thơm ánh nắng của buổi trưa vàng, khiến cho lòng người vấn vương để rồi muôn nghìn xuân qua còn in bóng trong lòng giếng thẳm: 
“Trưa vàng thơm ánh nắng 
Trên màu hoa nở thu 
In sâu lòng giếng thẳm 
Mươn nghìn xuân thâm u”. 
(Giọt trăng) 
Thi nhân còn nghe được mùi thơm của ánh nắng, quả thật phải là người có khứu giác tinh tế, nhà thơ mới cảm nhận được điều đó. Cái giếng thâm u đã chứa bao mùa xuân qua đi, mùa thu còn có dòng sông, hồ nước, có bóng trời, có cánh bướm và hàng dương giọt nắng: 
“Đôi bờ thu ngâm biếc 
Thăm thẳm bóng trời xưa 
Cánh bướm bờ hương động 
Hàng dương giọt nắng chiều”. 
(Giọt nắng) 
Tất cả đều là cảnh thiên nhiên, song lại ngập tràn tình yêu bởi vì: “Đôi bờ thu ngâm biếc”. 
(Giọt nắng) 
“Thu ngậm biếc, là thu của tình yêu, thu mang sắc màu tình yêu. Cánh bướm bờ hương động ở đây là cảnh vừa thực, vừa ảo, ở đây mộng và thực đan xen, hòa quyện vào nhau gợi lên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Cánh bướm chính là cảnh thực, còn bờ hương ở đây chỉ là tưởng tượng, là trong mơ. 
Đôi bờ thu còn là đôi mắt của giai nhân, vì vậy cảnh vật trong mùa thu có nước hồ xanh biếc chính là cảnh thực. Nó trong trẻo như câu thơ của thi nhân Yên Đổ trong bài Thu điếu: 
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo 
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo 
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí 
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”. 
(Thu điếu) 
“Giọt nắng” ở đây thật trong trẻo, nó chứa chan hạnh phúc sinh động và đầy sức sống của tình yêu, giống như những giọt nắng trong bài Một buổi trưa mùa thu. 
Thi nhân đã diễn tả thâm thúy cái dịu dàng, trong suốt của vườn thu, của hồ thu, nhạc thu và tình thu: 
“Gió tự đâu về? thổi đến mô? 
Mấy cành sao rụng bóng hoa nô 
Đây vài giọt nhẹ rơi mưa lá, 
Đó một màu im trải nắng hồ 
Tóc vướng hơi hương vườn thúy liễu 
Lòng nương tiếng địch bến vi lô 
Trưa bồng lai khẽ rung rinh biếc 
Nghiêng cả hồn thu xuống lững lờ”. 
(Một buổi trưa mùa thu - Mùa cổ điển) 
Cảnh vật mùa thu thật mơ mộng, thi nhân đang chìm đắm vào khung cảnh mùa thu tuyệt đẹp ấy. dường như ánh nắng của buổi trưa chưa kịp làm tan những giọt sương đang lung linh trên những chiếc lá. Những cây liễu đang trải dài những mái tóc thướt tha, nó như đang nghiêng mình xuống bờ hồ.Tất cả đang tạo nên hồn thu lững lờ. Quả thật cảnh vật ở đây thật đắm say lòng người. 
Đặc biệt, thi nhân đã tả bước đi của thời gian trên vết thương của cành cây, cánh nhạn lạc đàn dừng chân nghỉ, gió mưa khắc sâu dần trên những chiếc móng. 
“Rừng thu sống sót một cành xuân 
Nhạn lạc đàn qua tạm nghỉ chân 
Móng nhọn vô tình in dấu vết 
Gió mưa ngày một khắc sâu dần”. 
(Sống sót - Đọng bóng chiều) 
Chúng ta thấy rằng thi nhân phải có một con mắt tinh anh mới nhận xét được như thế. Dấu chân chim đó cũng là vết thương tâm của bao mùa thu đi qua trái tim cùa thi nhân. 
Thi nhân còn đưa chúng ta đến với một mùa thu huyền ảo, đến với những ánh đèn lung linh: 
“Thoảng tiếng chuông chùa vọng 
Bóng đèn khuya rung rinh 
Nao nao lòng giếng quạnh 
Hơi thu tràn hư linh”. 
(Thâm u - Mộng Ngân Sơn) 
Dường như hơi thu đã tràn khắp không gian, thi nhân lắng nghe văng vẳng đâu đây có tiếng chuông chùa vọng lại. 
Trong không gian thu lạnh, cảnh vật dường như cũng lạnh lẽo, héo tàn: 
“Thu lạnh mướp tàn hoa 
Vườn không ong bướm hoa 
Song khuya ngồi xếp sách 
Sương óng giọt trăng tà". 
(Giọt trăng) 
Cái lạnh của mùa thu đến làm cho cánh hoa mướp tàn phai, bướm tìm hoa ở vườn không, mà màu vàng của hoa mướp đã không còn. Cảnh vật thật buồn bã, thi nhân tưởng tượng nước mắt ứa như sương “sương óng giọt trăng tà”. 
Bên cạnh không gian thu lạnh là không gian thu muộn với hiên trưa nắng ấm và không khí thật thanh bình, thật an nhàn: 
“Nắng vàng sưởi ấm hiên trưa 
Võng gai kẽo kẹt nằm đưa tuổi già" 
(Thu muộn) 
Mây ngàn vọng tiếng chim ca 
Dẫu trong thu muộn vẫn là xuân xanh”. 
(Trăng hoàng hôn)
Còn gì tuyệt vời hơn khi buổi trưa nắng ấm, thi nhân đang tưởng tượng đang nằm trên chiếc võng đung đưa, chiếc võng đã đưa thi nhân chìm trong giấc mộng với ngàn tiếng chim ca. Dù tuổi đã già, nhưng đối với thi nhân nó vẫn mãi mãi là xuân xanh. Không gian mùa thu ấy như đưa chúng ta trở về với niềm tin và hy vọng của một thời tuổi trẻ. Chính vì vậy, thi nhân đã khẳng định rằng, dù là thu muộn nhưng vẫn mãi là xuân xanh. 
Trong không gian mùa thu, không thể thiếu được ánh trăng, từ lâu trăng đã trở thành một người bạn tri âm, tri kỷ của thi nhân. Dưới con mắt của thi nhân, trăng thu nơi xứ lạ thật mông lung, xao xuyến: “Bến lạ thu bay lá rợp đường 
Khôn tìm giấc mộng ẩn canh sương 
Tờ thơ gió lật trăng bên gối 
Giếng ngọt vườn quê gợi nhớ thương”. 
(Đọng bóng chiều) 
Thu đến dường như lá thu bay rợp đường giữa canh sương, cảnh vật, đã đưa bước chân phiêu lưu của thi nhân trở về với “giếng ngọt vườn quê” về lại với những gì gần gụi,thân thương nhất. Nỗi nhớ ấy còn được thể hiện qua tiếng chuông chùa cạnh bến sông: 
“Từng giọt châu rơi mắt mẹ hiền 
Mừng con lưu lạc trở đoàn viên 
Neo thu bến tạnh bờ sương sóng 
In bóng chùa xa trăng nửa hiên”. 
(Đọng bóng chiều) 
Mùa thu bao giờ cũng là mùa của sự ly biệt, và ánh trăng ở đây cũng chỉ còn là nửa hiên. Cuộc đoàn viên ấy còn gặp trở ngại, còn bến tạnh mà sao bây giờ vẫn còn sương sóng, để cho giọt lệ mẹ già vẫn còn rơi theo tiếng chuông khuya. 
Thi nhân càng ngắm trăng, càng uống rượu, lại càng nhớ nhung, điều đó không làm vơi đi nỗi sầu nhớ quê hương của mình. Mặc dù lúc này thi nhân đang nằm trong bệnh viện: 
“Đơn chiếc tình quê trúc rũ thềm 
Thu về nâng gót cánh hương đêm 
Xanh tràn bóng viện mây ngân hán 
Lạnh ngấm lòng men gió nguyệt thềm”. 
(Thu bên thềm độc ẩm) 
Là người hòa đồng mật thiết với thiên nhiên và mỗi cảnh sắc của thiên nhiên biến thành một trạng thái của tâm hồn nghệ sĩ. Điều đó thể hiện rõ trong bài thơ Đối cảnh, in trong tập Đọng bóng chiều: “Sân hoa phơi phới mưa hoàng cúc 
Thuyền có hiu hiu gió Bích đầm 
Nâng chén hương pha trà độc ẩm 
Lặng nhìn thu cảnh ửng thu tâm”. 
(Đối cảnh) 
Cảnh trong thơ là cảnh thực, mùa thu hoa cúc nở vàng trong mưa, do đó có tên “mưa hoàng cúc”. Vào mỗi buổi chiều trong gió thu nhè nhẹ, những chiếc thuyền con chở cỏ cho ngựa đang nối tiếp nhau đi vào đầm cập bến chợ Nha Trang. Trong buổi chiều nên thơ ấy, thuyền đi dưới mưa thu như cảnh trong bức tranh thủy mặc. Khung cảnh thiên nhiên nên thơ quá, gợi cho thi nhân những tình cảm thật êm đềm. Qua bài thơ, ta có thể nhận thấy rằng thi sĩ có những rung cảm rất chân thật, nhà thơ đã hòa chung thu cảnh với thu tâm, để cất lên những câu thơ tuyệt bút. Những cảnh thu đầy cảm xúc đã làm ửng lên nét thu tâm của thi nhân, khi thi nhân thốt lên: 
“Khi buồn tựa cửa trông ngàn biếc 
Mây ráng chiều thu ngọn gió đưa”
(Đối cảnh) 
Lúc này thu cảnh và thu tâm của thi nhân đã thực sự hòa quyện làm một. Thi nhân đem tình cảm của mình gửi vào cảnh vật và dùng cảnh để nói lên tình thì thi nhân đã gửi cho đời một tâm sự: 
“Đời người ngày một phấn hương 
Đời ta ngày một gió sương một nhiều 
Ao thu lai láng dáng chiều 
Lửng lơ nhuộm thắm cánh diều lưng mây”. 
(Đời ta - Giàn hoa lý) 
Bao mùa thu qua đi, để lại trong lòng thi nhân từng đợt lá rơi, hết sương rơi rồi trăng tàn, thi nhân phải tìm đến gió và hương để làm khuây khỏa tâm hồn mình: 
“Xưa tiễn thu đi chiếc lá hồng 
Nay thu về với bóng trăng trong 
Sương qua hoa biết tình thu trượng 
Mượn gió đưa hương ấp ủ lòng”. 
(Tình thu - Đọng bóng chiều) 
Và tấm lòng của thi nhân được diễn tả như giọt sương rơi rụng trên lan can: 
“Lặng lẽ cây sương trở gió ngàn 
Trăng tà đôi giọt rụng lan can 
Chùa xa riêng cảm đêm thu quạnh 
Vần kệ ngân đưa giấc mộng tàn”. 
(Giao cảm - Đọng bóng chiều) 
Tình thu còn man mác và lan tràn như hoa cúc giữa sương đêm: “Giếng cúc đôi nhành thu nhậm hương 
Đôi nhành trăng nở mộng đêm sương 
Giò đây bến lạ người năm ngoái 
Lặng lẽ thuyền quê chở nhớ thương”. 
(Giếng cúc - Đọng chiều buồn) 
Thật ra tình cảm mà thi nhân dành cho mùa thu thật tha thiết, dường như con thuyền không sao trở hết được thứ tình cảm thiêng liêng ấy. Trong không gian thu, chỉ có thiên nhiên và ánh trăng, thi nhân còn miêu tả cả côn trùng giữa mùa thu: 
“Mây chiều thu mong manh 
Nước hồ thu long lanh 
Chung lòng sen nở trắng 
Con chàng hiu lưng xanh”. 
(Mộng Ngân Sơn) 
Đó là bức tranh thủy mạc của người họa sĩ, đó là sự dịu dàng thanh thoát của thiên nhiên. Trong buổi chiều thu mong manh, những đóa sen đang đua nhau nở trắng giữa hồ thu trong xanh. Với tâm hồn thanh thoát như trời thu, con chàng hiu xám xịt đang ngồi ung dung trong lòng sen trắng. 
Đó còn là hình ảnh cánh quạ đang bay rộn ràng trong buổi chiều thu tàn, nỗi buồn như xâm chiếm cả không gian: 
“Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng 
Sầu vương lau lách lạnh thềm hoang 
Tro tàn thư viện duyên ngao ngán 
Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng”. 
(Tiếng vàng khô) 
Tác giả đã mượn hình ảnh, âm thanh con quạ để diễn tả nỗi buồn mênh mông, trước cái hoang tàn của cung đình sụp đổ với thời gian. Trong buổi chiều thu mênh mông, thi nhân còn bắt gặp những con chuồn chuồn đang nhởn nhơ bay: 
“Nắng nhạt ánh sương mờ 
Chuồn chuồn bay nhởn nhơ 
Chung đoàn con bướm trắng 
Trời lạnh cánh bơ vơ”. 
(Mộng Ngân Sơn) 
Những con vật giữa khung cảnh thiên nhiên qua con mắt của nhà thơ, cũng chỉ lả một biến thái của tâm tình tác giả. Thi nhân lấy hình ảnh của chuồn chuồn nhởn nhơ bay cùng đàn bướm trắng đang bơ vơ giữa buổi chiều thu nắng nhạt để nói lên tâm trạng, nói lên nỗi lòng ưu tư của mình trước cảnh phồn hoa đô hội. Chúng ta càng đồng tình với Fenelon mà ca ngợi Quách Tấn: “Thi nhân đã trao linh hồn và tâm tính cho vạn vật. Trong thơ của ông, vạn vật đều có tình cảm, vạn vật đều trao tình cảm cho bạn, thậm chí cây cỏ cũng làm cho bạn động lòng” [20.108]. 
Qua những tác phẩm viết về mùa thu được trích trong một số tập thơ tiêu biểu: Mùa cổ điển, Một tấm lòng, Đọng bóng chiều, Mộng Ngân Sơn, Giọt trăng, ở mỗi tác phẩm Quách Tấn đều thể hiện một ý vị, một vẻ đẹp riêng rất thâm thúy và nồng nàn. Mỗi khi thưởng thức những tác phẩm ấy, tâm hồn chúng ta lại trào lên nỗi nhớ thương man mác về quá khứ, về tình người, về tình yêu quê hương đất nước. Đúng như nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Quách Tấn đã tìm được những lời thơ rung cảm chúng ta một cách thấm thía. Người đã thoát hẳn cái lối chơi chữ nó vẫn là môn sở trường của nhiều người trong làng thơ cũ” [38.34]. Sự rạo rực của “hình ảnh kẻ chinh phụ, trong lòng người cô phụ”. Tại sao hình ảnh kẻ chinh phụ lại rạo rực, điều này chỉ có những tâm hồn như Lưu Trọng Lư mới cảm nhận được.
CHƯƠNG 3 
NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT 
3.1. Cái tôi trữ tình 
Thơ là tiếng lòng, là khoảnh khắc thăng hoa nên cái tôi trữ tình dần dần nhường bước cho cái tôi bản ngã xuất hiện. Thơ trữ tình là sự thể hiện trực tiếp những tâm trạng, những cảm xúc và suy tư của cái tôi trước thế giới và con người bằng những hình thức của nghệ thuật ngôn từ. Nếu như trong đời sống, mọi hành vi của con người đều là kết quả của sự định hướng chi phối của cái tôi, thì trong nghệ thuật, tác phẩm với tư cách là sản phẩm của hoạt động sáng tạo tinh thần cũng là kết quả của cái tôi nghệ sĩ. Do đặc thù từng loại hình nghệ thuật mà cái tôi nghệ sĩ này bộc lộ trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong tác phẩm tự sự, cái tôi được bộc lộ gián tiếp qua những hình tượng khách quan. Ngược lại, trong tác phẩm trữ tình nó bộc lộ một cách trực tiếp. Cái tôi trữ tình là một giá trị cụ thể của cái tôi nghệ thuật trong thơ. 
Cái tôi trữ tình là biểu hiện cao nhất của cá tính sáng tạo trong thơ trữ tình. Nó mang trong mình bản chất xã hội tâm lý, bản chất tự ý thức.
Đồng thời, cái tôi ấy luôn có nhu cầu tự biểu hiện. Đó là sự bộc lộ chính mình xuất phát từ nhu cầu tự ý thức về giá trị, về sự tồn tại, về quyền sống của cái tôi gắn với nhu cầu xã hội. Từ đó dẫn đến ý thức về sự đồng cảm, được hiểu, tìm sự đồng vọng trong trái tim người khác. Bởi “Thơ là điệu tâm hồn tìm đến những tâm hồn đồng điệu” (Tố Hữu). 
Một yếu tố không thể thiếu trong thơ là hình tượng cái tôi trữ tình, nó bộc lộ bản sắc, tâm hồn tiềm năng sáng tạo và khả năng đồng hóa hiện thực của mỗi nhà thơ. Mỗi nhà thơ lớn đều có cái tôi trữ tình độc đáo, đa dạng và phong phú, in đậm những dấu ấn riêng và làm nên bản sắc đa dạng trong từng nền thơ các dân tộc. Và hình tượng cái tôi trữ tình này chỉ hình thành khi nhà thơ có một quan niệm nghệ thuật độc đáo, một cái nhìn riêng về cuộc đời. 
Trong luận văn này, người viết nghiên cứu hình tượng cái tôi ở cấp độ nhà thơ trong những sáng tác tiêu biểu. Với cấp độ này, hình tượng cái tôi là một kiểu nhân vật đặc biệt trong tác phẩm văn học. Tuy nhiên, nó không hoàn toàn đồng nhất với con người tác giả mà hình tượng cái tôi là kết quả của sự điển hình hóa nghệ thuật. ở đó con người cá nhân nhà thơ đã nghe thấy mình, cảm thấy mình ở trong người khác, với người khác và cho người khác. 
Trong thơ cổ điển, chưa có quan niệm con người cá nhân, mà con người chỉ được xem như một phần trong vạn vật nhất thể của vũ trụ. Con người xuất hiện trong thơ chủ yếu trong tư thế đó. Con người chưa có cái tôi cá thể, mà chìm lẫn vào vũ trụ. Đây đó ta gặp một lữ khách thấp thoáng trên đường, hoặc một ai đó đang tựa gối ôm cần nơi ao thu lạnh lẽo: 
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được” 
(Thu điếu - Nguyễn Khuyến) 
Con người luôn tương thông với vạn vật, đôi khi cũng ước ao trở thành vạn vật: 
“Kiếp sau xin chớ làm người 
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo” 
(Cây thông - Nguyễn Công Trứ) 
Đến với thơ ca lãng mạn, ý thức về con người cá nhân phát triển hơn bao giờ hết. con người trở thành trung tâm của vũ trụ, trở thành chủ đề của vũ trụ. Trong thơ trung đại, con người lẫn vào hoa cỏ, núi non, con người là một phần bé nhỏ trong thực thể vũ trụ rộng mênh mông. Đến với Thơ mới, chúng ta bắt gặp sự phong phú, phức tạp của thế giới tâm hồn thi nhân, khi họ chân thành, cởi mở lòng mình. Cái tôi trữ tình cá nhân đã xưng danh và biểu hiện mình một cách trực tiếp đầy tự tin qua đại từ “tôi” và tư ý thức mình dưới hình thức cởi mở, mang tính chất tự thú, tự ngắm và tự nghiệm. Nó đề cao trạng thái và địa vị cái tôi cá nhân: 
“Ta là Một, là Riêng, là thứ Nhất 
Khôn có chi bè bạn nổi củng ta”. 
(Hy Mã Lạp Sơn - Xuân Diệu) 
Hay: 
“Và đêm nay lòng tôi lạnh lẽo 
Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ”. 
(Thở than - Xuân Diệu) 
Cái tôi trữ tình cá thể là trung tâm cảm hứng giãi bày, thổ lộ, tự biểu hiện mình một cách trực tiếp bằng trạng thái thể chất giao hòa nhuần nhụy giữa con người và ngoại vật. Có thể nói thơ ca lãng mạn chính là cuốn nhật ký tràn đầy cảm xúc của tâm hồn người. Hình tượng cái tôi trữ tình trong Thơ mới là tiếng nói của những cảm xúc mới trước một thời đại mới. Các nhà thơ mới đến với thế giới lung linh kỳ ảo để khẳng định cái tôi tự do, cái tôi được thực sự là mình trong thời đại mới. Nếu Xuân Diệu đam mê say đắm trong cảnh sắc thiên nhiên, trong khu vườn tình ái thì Lưu Trọng Lư coi tình yêu, hạnh phúc chỉ là một chùm nguyện, một chùm mơ, dệt lên cho mình một cõi mộng hư ảo, mờ sương khói. Thơ Lưu Trọng Lư là cả tấm lòng thổn thức của con người mơ mộng lúc nào cũng nặng lòng yêu dấu. Đến với Quách Tấn, chúng ta lại đến với sự cân đối trong cảnh và tình. 
Cái tôi trong Quách Tấn chính là tiếng tơ lòng, là tâm tình riêng chân thực và cảm động của thi sĩ muốn gửi gấm tấm lòng mình vào thiên cổ, ký thác nỗi niềm tâm sự của chính tác già. Cái tôi trong thơ ông với tư cách là con người cá nhân bộc lộ cảm xúc từ đáy lòng mình: “Gầy úa rừng sương đeo giọt sầu 
Đây lòng ta đó một trời thu” 
(Cảm thu) 
Câu thơ thể hiện khát vọng nhớ thương da diết của chủ thể trữ tình. Trong văn chương lãng mạn nói chung, sầu và buồn được coi là nguồn cảm hứng lớn. Bởi ngay từ khi sinh ra, các nhà thơ mới đã nhận thấy mình như: “Con nai vàng bị chiều đánh lưới. Chẳng biết đi đầu đứng sầu bóng tối” (Xuân Diệu) 
Có lẽ vì thế mà Thơ mới vừa cất tiếng chào đời đã buồn từ ngay trong bản chất. Và cái sầu ấy đã trở thành lý tưởng thẩm mĩ của các nhà thơ lãng mạn. Nếu cái buồn của Xuân Diệu là sự trống trải, cô đơn đến hiu hắt khi thời gian không ngừng lại, tình yêu chẳng đợi chờ thì nỗi buồn trong thơ Lưu Trọng Lư chỉ là nỗi sầu mộng, vấn vương, tê tái: 
“Chim không hạ cánh 
Lá rụng không buồn bay 
Những chiều thu, em không buồn tựa cửa” 
(Lòng cô phụ - Lưu Trọng Lư) 
Có lẽ là cái sầu nhẹ nhàng, vấn vương, tê tái của Lưu Trọng Lư là cái chớm sầu của Thơ mới. 
Hình tượng cái tôi trữ tình trong Thơ mới là cái tôi trữ tình tinh tế, nhạy cảm với khả năng nắm bắt những khoảnh khắc, tâm trạng, những cảm xúc mơ màng không xác định, những biến thái tinh vi của con người và tạo vật. Bằng sự tinh tế và nhạy cảm, Xuân Diệu không chỉ nghe được: 
“Rét mướt luồn trong gió” 
(Đây mùa thu tới) 
Hay: 
Cành biếc run run chân ý nhi” 
(Thu - Xuân Diệu) 
Mà còn thấy cả: 
“Con cò trên ruộng cánh phân vân” 
(Thơ duyên - Xuân Diệu) 
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh nhận xét rằng so với cánh cò của Vương Bột thì cánh cò của Xuân Diệu: “có sự cách biệt của hơn một nghìn năm và hai thế giới” [38.118]. Đúng như vậy, đó là hai thế giới, một thế giới lặng lẽ bình an và một thế giới luôn gấp gáp, vội vàng. Trong buổi chiều thu bát ngát, mây trôi lững lờ, thi sĩ Quách Tấn thấy được trạng thái co ro của cánh cò: 
“Co ro thân cò lép 
Bến lạnh đứng rình mồi 
Bát ngát dòng thu nguyện 
Mây chiều lững lờ trôi. 
Nắng chiều thu trở lạnh 
Buồn vương ngọn heo may 
Lặng lẽ hồ in bóng 
Con cò đơn chiếc bay”. 
(Mộng Ngân Sơn) 
Hình ảnh thân cò co ro nơi bến lạnh kiếm tìm mồi thật xúc động lòng người biết bao, chiều thu đã trở lạnh mà cò vẫn một thân một mình lặn lội đi kiếm mồi. Phải là người yêu thiên nhiên và cảnh vật tha thiết lắm, thi nhân mới có được những phát hiện tinh tế đến như vậy. Từ xưa đến nay, có lẽ Lưu Trọng Lư là người đầu tiên và cũng là người duy nhất nghe được tiếng trăng mờ. Không chỉ nghe được tiếng trăng mờ mà thi nhân còn nghe được cả tiếng thổn thức: “Tiếng trăng mờ thổn thức” 
(Tiếng thu) 
Chính sự thổn thức của ánh trăng ấy đã tạo nên không gian hư ảo huyền diệu như có như không, bao phủ khắp mùa thu. Không chỉ dừng lại ở đó, thi nhân còn thấy được sự rạo ó thể cảm nhận được. Tóm lại sự phát triển của cái tôi trữ tình ở các nhà thơ mới đã diễn ra trên từng cung bậc, từng trạng thái với nhiề u khía cạnh, bình diện khác nhau. Sự vận động ấy góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền thơ ca Việt Nam. 
3.2 Không gian và thời gian nghệ thuật 
3.2.1 Ánh trăng thu và gió thu 
Không gian nghệ thuật là môi trường hoạt động của hình tượng, là hình thức bên trong của hình tượng thể hiện tính chỉnh thể của nó. Không gian nghệ thuật không đồng nhất với không gian hiện thực vốn tồn tại khách quan, mà trở thành một ký hiệu đặc biệt để giới thiệu những phạm trù ngoài không gian. Không gian nghệ thuật có thể là không gian thiên nhiên hay không gian sinh hoạt, không gian này lưôn gắn liền với tâm lý, tình cảm, ước mơ, khát vọng của con người. không gian nghệ thuật gắn với sự cảm nhận về không gian nên mang tính khách quan, ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng. 
“Không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hiện tượng nghệ thuật” [12.49].
Không phải đến khi văn học viết hình thành và phát triển, chúng ta mới có không gian nghệ thuật mà ngay từ xưa, con người trong ca dao đã có một không gian nghệ thuật riêng gắn với cây đa, bến nước, sân đình… Đó là khoảng không gian hết sức gần gũi, quen thuộc và không kém phần thơ mộng. 
Trong thơ ca trung đại, không gian lại mang dáng vẻ trầm u, nhàn dật vắng vẻ. Đó là không gian vũ trụ vô tận, vô cùng mà trần thế chỉ là một phần rất nhỏ. Ở đó có núi cao, suối vắng, mây ngàn, cánh hạc… Trong khung cảnh rộng lớn ấy, con người chỉ là một chấm nhỏ đơn độc, chìm trong suy tư. Tuy rằng, không gian thơ đã được mở rộng, nhưng ngòi bút của thời kỳ trung đại vẫn chưa thoát khỏi lối ước lệ, tượng trưng. Đó là sản phẩm của ý thức hệ phong kiến, các tác giả sáng tác theo một quy ước chung, ít có sự phá vỡ thi pháp. Khi phong trào Thơ mới ra đời, ý thức về cái tôi trong bản thân mỗi nhà thơ trỗi dậy thì tất cả đã đổi khác. Mỗi nhà thơ với sự mong muốn, bộc lộ chân thật nhất cái tôi trữ tình của mình, với khát vọng vận động, vượt thoát khỏi những ước lệ, tượng trưng để chuyển dịch đến một không gian mới. Không gian mới ấy bao gồm cả không gian nội tâm và không gian ngoại cảnh. Tất cả đều thoáng, rộng, tự do, đầy hương vị và đa sắc màu. Họ đã biến không gian sơn thủy, có hoa hữu tình trong thơ cổ thành một không gian rời rạc, hững hờ, lạnh lẽo. Biến mỗi cá nhân thành một vũ trụ riêng tư đầy bí mật, biến cái không gian mang ẩn ý thanh cao thành không gian trần thế gần gũi. Rõ ràng không gian nghệ thuật là phương diện rất quan trọng của tư duy nghệ thuật, đánh dấu trình độ chiếm lĩnh thế giới của nhà thơ. 
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy không gian trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Quách Tấn có ánh trăng thu, gió thu, xuất hiện khá nhiều. Đó thực sự trở thành tính hiệu, ẩn ý nghệ thuật cùa thi nhân. Xem xét những tín hiệu ấy, tuy chưa hoàn toàn nói lên được tất cả nhưng cũng phần nào mô phỏng được chiều kích của không gian thơ trong Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn.
Trăng không phải là một không gian lúc nào cũng có hình hài cụ thể, nhưng nó lại lan tỏa và xuyên thấm vào tất cả mọi cảnh vật, với ánh sáng bao trùm ở diện rộng đã tạo nên một không gian mơ hồ, mộng ảo. Hình tượng ánh trăng vừa thể hiện không gian thiên nhiên thơ mộng, đồng thời là nơi gửi gắm những nỗi niềm ưu tư của thi nhân trước một thời đại. theo khảo sát của chúng tôi, trăng xuất hiện khá nhiều trong tất cả những tác phẩm của ba nhà thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn. 
Trước tiên, “trăng” trong thơ Xuân Diệu tượng trưng cho vẻ đẹp bất tận của thiên nhiên: 
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió 
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây 
Để linh hồn ràng buộc với muôn dây 
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến”. 
(Cảm xúc) 
Ở Xuân Diệu, lòng ham sống được bộc lộ một cách tha thiết, cuồng nhiệt. Thi nhân ước được “ru với gió”, được “mơ theo trăng”, được “vơ vẩn cùng mây”, được “ràng buộc với muôn dây”, được “chia sẻ với trăm tình yêu mến”… “Trăng” trong thơ Xuân Diệu còn là “nàng trăng” thu thơ mộng: 
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ”. 
(Đây mùa thu tới) 
“Nàng trăng” thật gần gũi và ấm áp biết bao, có lẽ cách gọi này chỉ có ở Xuân Diệu. “Trăng” ở đây không phải là ánh trăng vô tri nữa, mà qua cách gọi của thi nhân, trăng lại “ngẩn ngơ”. “Trăng” chính là hình ảnh của người thiếu nữ trẻ trung, xinh tươi, dịu dàng và thơ mộng. 
Ở Nguyệt cầm thi nhân mở ra một không gian rất đặc trưng cho thế giới tĩnh mịch, băng giá. Hình tượng thế giới này gắn với đêm trăng và “trăng”, trong thơ ông dường như không nhạt, không mờ mà lúc nào cũng “tròn đầy”, “rạng tỏ”: 
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh 
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”. 
(Nguyệt cầm) 
Phải chăng, trăng ấy cũng phản ánh một âm hồn không bao giờ thích nhợt nhạt, bằng phẳng?
Ánh nguyệt sáng lạnh càng soi tỏ tường tận hơn nỗi lạnh buốt, trống trãi trong cõi lòng cô đơn. Sự tương phản này đã tạo nên không gian trăng “buồn tuyệt diệu” trong thơ Xuân Diệu. Bởi: 
“Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá” (Trăng) 
Có lúc trăng ngà sáng lạnh, buông khắp không gian vô cùng, vô tận. Cả thế giới vũ trụ lặng lẽ, trống vắng một cách tuyệt đối trong ánh trăng trong suốt: 
“Khắp biển trời xanh, chẳng bến trời 
Mắt nhìn thêm rợn ánh khơi vơi 
Trăng ngà lặng lẽ như buông tuyết 
Trong suốt không gian tĩnh mịch đời”. 
(Buồn trăng) 
Không gian trăng bát ngát này càng mênh mang thương nhớ, trở nên lung linh bởi đang ngưng đọng tiếng đàn. Không gian trăng cũng là không gian nhạc, sự hòa quyện giữa tiếng đàn và ánh trăng qua tâm hồn thi nhân thật huyền nhiệm.
“Trăng” trong thơ Lư Trọng Lư là vầng trăng thu huyền ảo, trăng của thế giới mộng, mang dấu ấn tâm trạng của thi sĩ. “Trăng” trong thơ ông không còn là trăng của mây trời, sông nước, trăng của tự nhiên nữa mà là trăng của lòng người, của tình người, trăng đã bị nội tâm hóa sâu sắc, nó mang theo những xao động của tâm hồn thi nhân. Không gian sông nước ngập tràn ánh trăng chính là sự cụ thể hóa, hình tượng hóa một khoảnh khắc tâm trạng nào đó nơi hồn thi sĩ. Không gian của ánh trăng không chỉ là không gian của sầu, của buồn mà đôi khi, nó lại là không gian tạo sự mờ ảo, thực hư, lung linh cho một đêm xuân tình lãng mạn: 
“Trăng nội vẫn mơ màng 
Trên những vòng tóc rối” 
(Còn chi nữa) 
“Trăng” trong thơ Lưu Trọng Lư hình như rất ít khi sáng rõ, mà lúc nào cũng mờ mờ ảo ảo, như một lớp sương mù bao phủ tạo nên một vùng không gian rộng mà như có chút gì cô đơn, quạnh quẽ: “Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức?” 
(Tiếng thu) 
Ánh trăng “mờ thổn thức” đã đưa thi sĩ trôi về miền mộng ảo xa xôi. Quách Tấn, qua ánh trăng thi nhân thể hiện tấm lòng tha thiết nhớ thương quê nhà: 
“Ba ngả sông mờ trăng nửa gương 
Đôi bờ trúc lả gió muôn phương 
Rau dòng suối ngọt bên kia núi 
Khẽ động lòng thu… cỏ lấp đường” 
(Đọng bóng chiều) 
Qua không gian ánh trăng, thi sĩ gửi gắm được nhiều tâm sự, càm xúc khác nhau. Dưới cái nhìn đa tình của thi nhân, ánh trăng đang lung linh, mơ màng rọi chiếu xuống lòng sông: 
“Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng” 
(Đêm qua nghe quạ kêu) 
Trong hệ thống thi liệu của các nhà Thơ mới, hệ thống ước lệ, tương trưng của thơ cổ điển không được tôn thờ nữa. Các nhà Thơ mới đã sáng tạo ra hệ thống thi liệu mới theo cái nhìn chủ quan của mình. Trong thơ cổ điển, “gió“ chỉ là gió, còn ở Xuân Diệu, gió có bao nhiêu là sắc thái, đó là những “cơn gió xinh, cơn gió biếc, cơn gió thì thầm”… của sự sống tươi nguyên: 
“Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc” 
(Vội vàng) 
Đó còn là: 
“Những luồng run rẩy rung rinh lá” 
(Đây mùa thu tới) 
Những cơn gió lạnh của mùa thu chợt đổ về làm cho những cành cây “run rẩy”. Trong thơ của Xuân Diệu, cũng có những ngọn gió vô hình của thiên nhiên mà cũng có những ngọn gió hữu hình của cảm xúc: 
“Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu 
Lả lả cành hoang nắng trở chiều" 
(Thơ duyên) 
Đó không còn là những làn gió của thiên nhiên, đất trời nữa mà đã trở thành những ngọn gió của lòng người trước cảnh sắc của một buổi chiều thu. Ở Lưu Trọng Lư, cùng với ánh trăng mờ bao phủ tạo nên một không khí thực hư, mộng ảo là những cơn gió nhẹ lại tạo nên những âm thanh thật mơ màng và quyến rũ: 
“Lá thu rơi xào xạc” 
(Tiếng thu) 
Quách Tấn vẫn được các nhà phê bình xem là thi sĩ nặng lòng với thi ca cổ điển. Thơ Quách Tấn quả thật có rất nhiều bài vẫn mang dáng dấp của Đường thi, Tống thi. Nhưng riêng những bài thơ viết về mùa thu thì hơi thơ cổ điển vẫn không lấn át được cách cảm nhận, cách nhìn rất cá nhân và đầy sức sáng tạo của thi sĩ trước gió, trăng thu: 
“Gió rũ canh đi ngàn liễu khóc 
Sông đùa lạnh tới bóng trăng run 
Thuyền ai tiếng hát bên kia vắng 
Ghé lại cho nhau gửi chút buồn”. 
(Bên sông) 
“Gió rủ canh”,”ngàn liễu khóc”, rồi “sông đùa”, rồi lại “bóng trăng run”, những hình ảnh ấy dường như chưa bao giờ có mặt trong thơ ca cổ điển. Tất cả đều rất thực, rất sống động, tươi rói sự sống, gió trăng dường như đang run, đang khóc trước sông nước của một đêm thu. Phải cảm nhận mùa thu bằng chính đôi mắt và trái tim của mình một cách thật sâu lắng mới viết được những câu thơ như vậy. 3.2.2. Thời gian chảy trôi đem đến sự tàn phai, rơi rụng 
Cùng với không gian, thời gian nghê thuật cũng là một hình thức tồn tại của tác phẩm. Nó thể hiện cách cảm nhận thời gian của thi nhân, cách nhìn bước đi thời gian của nghệ sĩ. Lịch sử văn học đã cho thấy có nhiều cách chiếm lĩnh thời gian khác nhau. Trong văn học trung đại, thời gian được nhìn nhận trong tính chu kỳ, trong sự tuần hoàn vĩnh cửu và nó mang tính ước lệ, tượng trưng. 
Thời gian được nói đến thường là những khoảng thời gian dài nghìn năm, trăm năm. Ngược lại, thời gian trong Thơ mới luôn trôi chảy, vận động không ngừng, không chờ, không đợi và không thể đảo ngược. 
Phong trào Thơ mới ra đời và phát triển trong bối cảnh lịch sử thời đại mới. Cùng với sự thay đổi cái nhìn về thế giới và con người, các nhà Thơ mới cũng có sự thay đổi cách cảm nhận về thời gian: 
“Màu thời gian không xanh 
Màu thòi gian tím ngắt 
Hương thời gian không nồng 
Hương thời gian thanh thanh”. 
(Màu thời gian - Đoàn Phú Tứ) 
Với các nhà Thơ mới, thời gian không chỉ là bốn mùa xuân, hạ, thu, động, hoặc năm tháng, phút, giây… mà thời gian hiện lên còn bằng cả màu sắc, hương sắc, thanh sắc. Ở Thơ mới đã có sự chuyển hóa tuần hoàn giữa thời gian và không gian mang lại một cảm thức không gian. Nhưng về cơ bản các nhà Thơ mới vẫn cảm nhận thời gian bằng cách đo đếm nó chính xác đến từng phút giây, thậm chí một phần tư giây: 
“Nàng hãy vui đi dẫu một ngày 
Dẫu phần ba phút, góc tư giây 
Dẫu trong thoáng mắt nhìn như chớp” 
(Cầu nguyện - Nguyễn Bính) 
Thời gian gắn liền với những biến thái trong tâm trạng nhân vật trữ tình. Phương thức tổ chức thời gian trong thơ hết sức mới mẻ và phong phú. Trât tự thời gian nhiều khi bị xáo trộn, có sự giao thoa giữa các mảng thời gian quá khứ và hiện tại… Trong thơ Lưu Trọng Lư, bước đi của thời gian như được hóa thân, hiện hình lên trong niềm thổn thức nhớ thương người chinh phu trong lòng người cô phụ: 
“Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức 
Em không nghe rạo rực 
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ?” 
(Tiếng thu) 
Thời gian trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là thời gian không đảo ngược. nó không bao giờ quay lại, bởi thế mà cùng với bước đi của thời gian nỗi lòng của người cô phụ càng thổn thức, rạo rực, mơ về người chinh phu. 
Với Xuân Diệu, bước đi của thời gian mùa thu lại được cảm nhận một cách thật tinh tế, độc đáo. Thi sĩ đã nhìn thời gian mùa thu trong từng hạt diệp lục của sắc thu từ màu xanh đang dần chuyển sang màu đỏ để trở thành sắc lá vàng rơi rụng xuống khu vườn: 
“Hơn một loài hoa đã rụng cành 
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh” 
(Đây mùa thu tới - Xuân Diệu) 
Tóm lại với cách xây dựng thời gian mang tính chất đan cài, đồng hiện, các nhà Thơ mới đã nói được chân thực nhất, sâu sắc nhất nỗi niềm tha thiết của lòng mình trước cảnh sắc mùa thu. 
3.3. Đổi mới về thể thơ, nhạc điệu, ngôn ngữ 
3.3.1. Thể thơ 
Với xu hướng đề cao những giá trị cũ, các nhà Thơ mới đã xây dựng một nền thơ mới trên cơ sở truyền thống thơ ca dân tộc, nhưng với tinh thần đổi mới, phá vỡ những trói buộc của thơ cũ, để hồn thơ được bộc lộ một cách tự do, phóng khoáng theo điệu tự nhiên. Cũng như các nhà Thơ mới, Lưu Trọng Lư đã phá vỡ khuôn khổ thi luật thơ cũ để đem lại cho Tiếng thu một nhịp đập mới, hòa điệu với nhịp sống của thời đại. Trong thơ cổ, thể ngũ ngôn thường mỗi khổ 4 dòng và gieo vần chân, đơn vị câu và đơn vị dòng thường trùng khít. Đến với Lưu Trọng Lư, khuôn khổ đó đã bị phá vỡ. 
Bài thơ “Tiếng thu” là bài thơ tiêu biểu cho sự cách tân của thể thơ này. Trong bài thơ, để gợi lên nỗi buồn man mác, thi sĩ đã khéo ngắt ý thơ, xếp gọn chúng vào những câu thơ năm chữ liên tiếp theo kiểu nghi vấn phù hợp với sự lặp láy ý của đoạn thơ, tạo cho bài thơ một cấu trúc nội tại đặc sắc, nhịp thơ được láy lại như nhịp của tâm hồn, tưởng như Lưu Trọng Lư đang trải hồn mình trên những trang thơ. “Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức 
Em không nghe rạo rực 
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ 
Em không nghe mùa thu 
Lá thu kêu xào xạc 
Con nai vàng ngơ ngác 
Đạp trên lá vàng khô”. 
(Tiếng thu) 
Cách gieo vần trong tiếng thu không theo một quy luật nào cả, đó là sự kết hợp hài hòa vần bằng và trắc để tạo nên một bản nhạc du dương, mơ màng, êm dịu và đầy xao xuyến. 
Nhạc điệu trong thơ Quách Tấn rất linh hoạt, không bị gò bó, áp đặt theo một quy luật nào cả. Theo thơ xưa, trong câu thơ thất ngôn, nhịp điệu được ngắt theo nhịp 2/2/3 hoặc 4/3 không thay đổi. nhưng câu thơ thất ngôn trong Mùa cổ điển của Quách Tấn, nhịp điệu được ngắt linh hoạt hơn, đó là nhịp 3/4: 
“Đây lòng ta, đó một trời thu” 
(Cảm thu) 
Ở Xuân Diệu, chủ yếu là các thể có số câu đều đặn, ít bài có số câu dài ngắn khác nhau. Nêu ở thể thất ngôn cổ điển bị ràng buộc bởi những niêm luật chặt chẽ, thì ở Xuân Diệu lại rất tự do. Bài thất ngôn cổ điển có những giới hạn về số câu thì ở Xuân Diệu có thể là 4 câu, 8 câu. Cách diễn đạt cũng không bị ràng buộc vào đề, thực, luận, kết như trong thơ xưa. Tuy nhiên dấu ấn của thể thất ngôn cổ điển vẫn còn hằn lên thể 7 tiếng của Xuân Diệu: 
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang 
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng 
Đây mùa thu tới, mùa thu tới 
Với áo mơ phai dệt lá vàng” 
(Đây mùa thu tới) 
Cách ngắt nhịp trong thơ 7 tiếng của Xuân Diệu rất gần với cách ngắt nhịp của thể thất ngôn cổ điển. Thơ 7 tiếng của Xuân Diệu có cách ngắt nhịp rất đa dạng: có nhịp 4/3; nhịp 2/5; nhịp 5/2. Nhưng nhịp phổ biến chiếm tỷ lệ lớn nhất là nhịp 4/3. Qua phân tích trên cho thấy, thể 7 tiếng của Xuân Diệu vừa rất mới mẻ, lại cũng vừa mang dáng dấp của nhịp thơ cổ điển nhưng hơi thở lại hoàn toàn mới mẻ. 
Tóm lại khuynh hướng cách tân của Xuân Diệu về thể loại rất mới mẻ, bên cạnh đó là nhà thơ cũng giữ được những nét rất truyền thống của dân tộc. Cho nên chúng ta nhận thấy Xuân Diệu rất mới mà cũng rất truyền thống. 
3.3.2. Nhạc điệu thơ 
Thơ là lâu đài của những âm thanh vang vọng mà yếu tố đầu tiên tạo nên sức ngân vang của lâu đài kì diệu đó là nhạc điệu. Theo Từ điển thuật ngữ văn học nhạc điệu là “Cấu tạo ngữ âm của lời văn nghệ thuật… yếu tố hình thái vật chất tạo nên nhạc điệu là điệu âm, điệu vần với các hình thức đa dạng của chúng: bằng, trắc, nhịp điệu, niêm, đối, vần, yếu tố tượng thanh, ngữ điệu. Cái làm nên hồn của nhạc điệu là sự liên tưởng của các tổ chức âm thanh với các cảm giác âm nhạc (nhạy cảm) trong lòng người” [12.199]. 
Đối với Thơ mới, câu thơ được giải phóng, do vậy nhạc tính đã trở thành một đặc điểm quan trọng. Các nhà Thơ mới đã rất dụng công đưa nhạc vào thơ, nhạc làm nền cho thơ, nhạc hòa âm phối nhịp làm nên giọng điệu thơ, ý thơ đi trong nhạc. Đọc thơ họ, ta bắt gặp những âm vang da diết, những thanh âm trùng điệp ngân rung, những kiểu gieo vần, ngắt nhịp, những lựa chọn trong việc sử dụng nguyên âm và phụ âm vang… làm cho nhiều bài thơ cứ ngân lên một đoản khúc giao hưởng về mùa thu. 
"Ta biết người buồn chiều hôm trước 
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt 
Một chị hai chị cũng như sen 
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót. 
Ta biết người buồn sáng hôm nay: 
Trời chưa mùa thu tươi lắm thay, 
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc 
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…"
(Tống biệt hành - Thâm Tâm) 
Trong thơ ca cổ điển thường bị gò bó bởi những niêm luật, đối… nên tính nhạc của thơ cổ điển rất hạn chế.
Về phương diện này, mỗi nhà thơ trong phong trào Thơ mới đều tạo ra một nhạc điệu riêng. Nó trở thành điệu tâm hồn riêng của các thi sĩ. Có được điều đó là khả năng kết hợp giữa vần và nhịp, khả năng nắm bắt được sự hòa điệu giữa âm thanh và ngoại giới, với âm điêu của lòng người. Trong Mộng Ngân Sơn của Quách Tấn, nhạc điệu thơ vang lên thật trầm buồn, nhớ thương: 
“Chiều động nhánh mồ côi 
Nhìn chim sâu đút mồi 
Nhớ thương tràn gió lạnh 
Làng cũ bóng mây trôi” 
(Nhánh chiều) 
Ở bài Mộng Ngân Sơn, nhạc điệu bài thơ vang lên thật lạ và thật hay: 
“Nước ngậm trời long lanh 
Con cào cào áo xanh 
Bờ cao búng chân nhảy 
Mây chiều thu rung rinh” 
(Mộng Ngân Sơn) 
Cách tạo nhịp của bài thơ thật nhẹ nhàng, thanh thoát và cũng thật êm ái, du dương, thể hiện một tình yêu thiên nhiên rộng mở của thi nhân. 
Với Xuân Diệu, một thi sĩ lúc nào cũng khát khao giao cảm với đời, nhạc điệu trong lời thơ của ông thường ngân vang một cách thiết tha, say đắm. Nó thể hiện một âm hồn lúc nào cũng nồng nàn, cũng tha thiết với con người và cuộc sống. Khả năng tạo nhạc đặc sắc nhất trong thơ Xuân Diệu còn nằm ở sự gieo 99 vần. Nhiều câu thơ của ông do cách dùng từ láy và nghệ thuật gieo vần đã làm cho câu thơ tràn đầy nhạc tính: 
“Chiều mộng hòa thơ trên nhành duyên 
Cây me ríu rít cặp chim chuyền 
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá 
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”
(Thơ duyên) 
Xét về thanh điệu, Xuân Diệu dùng vần bằng nhiều hơn vần trắc, nhà thơ đã sử dụng các biện pháp lặp từ, lặp câu, tạo nên tính trùng điệp của nhạc thơ: 
“Đây mùa thu tới, mùa thu tới 
Với áo mơ phai dệt lá vàng” 
(Đây mùa thu tới) 
Xuân Diệu đã sử dụng rộng rãi các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ… để tăng cường nhạc tính cho lời thơ. Ẩn dụ trong thơ Xuân Diệu bộc lộ qua nhiều hình thức khác nhau như nhân hóa, tượng trưng, định ngữ, trạng ngữ… Trong đó nhân hóa, tượng trưng được nhà thơ sử dụng rất thành công: 
“Chắc rằng gió cũng đau thương chớ 
Gió vỡ ngoài kia thu có nghe” 
(Ý thu) 
Tóm lại những ẩn dụ và nhân hóa trong thơ Xuân Diệu đã làm cho tư duy cảm giác về cảnh sắc mùa thu của nhà thơ trở nên phong phú và đa dạng hơn. 
Nhạc điệu trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư được tạo bởi sự kết hợp hài hòa giữa vần và nhịp. Trong Tiếng thu, âm điệu được ký thác vào một cấu trúc ngôn từ chứa chan nhạc tính. Bài thơ là một chỉnh thể nhuần nhuyễn và chặt chẽ 100 với sự hòa điệu tự nhiên và hài hòa giữa vần và nhịp. Tiếng thu hiệp vần bằng cả hai hệ thống vần, bằng và trắc (mùa thu, trăng mờ, chinh phu, rừng thu, vàng khô) vần bằng, và (thổn thức, rạo rực, xào xạc, ngơ ngác) vần trắc. Hệ thống âm vần ấy, tạo thành hai chuỗi âm thanh hòa quyên vào nhau, đem lại cho bài thơ một giai điệu mơ màng, quyến rũ. Trong giai điệu đó vần bằng chiếm ưu thế (32/45 âm tiết), lại có những câu thơ hoàn toàn được viết bởi vần bằng: 
“Em không nghe mùa thu” 
(Tiếng thu) 
Cái nền bằng êm đềm trầm mặc ấy, dường như mang trong mình cà một bầu không khí bàng hạc, huyền ảo kết hợp với nhịp ngân rung đều đều đã tỏa ra trong cõi thu mênh mông của thi phẩm Tiếng thu. Nhưng điều độc đáo của bản nhạc thu ấy không nằm ở vần bằng mà nằm ở âm trắc. Âm trắc đã tạo nên âm thanh trầm bổng bởi các từ láy thổn thức, ngơ ngác, rạo rực, xào xạc. Về bản chất, các từ mang vần trắc đó như đã có phần phá vỡ đi cái không khí bằng lặng, mơ màng bởi các vần bằng. Nó tạo ra một âm hưởng động, làm bừng dậy cả tâm trạng xao xuyến, rạo rực, thổn thức trong lòng thi nhân. Sự kết hợp hài hòa giữa vần bằng và trắc xuyên suốt bài thơ đã làm cho Tiếng thu của Lưu Trọng Lư trở thành một bản nhạc tuyệt diệu về mùa thu cú ngân vang mãi trong lòng người đọc. 
Tiếng thu đem lại cho nhạc điệu trong thơ Lưu Trọng Lư một khả năng biến đổi dồi dào, gợi cảm vô cùng, vô tận: “Thơ Lưu Trọng Lư hầu như chỉ là những bản nhạc thuần túy, những bản nhạc mờ ảo trên nền những bức tranh cũng mờ ảo, những bản nhạc chìm sâu vào sương mơ”. (Đỗ Đức Hiểu). 
Tóm lại Thơ mới là thơ của những tiết tấu âm vang, của những con chữ biết hát ca và trò chuyện, đó là thơ của sắc màu và âm thanh rộn rã.
3.3.3. Ngôn ngữ thơ
Ai có thể vẽ được bức tranh như thế này: 
"Long lanh đáy nước in trời 
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng" 
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Thơ là tinh hoa tối cao của ngôn từ [4.5]. Lấy ngôn từ làm chất liệu thi ca, các thi nhân có ưu thế đặc biệt trong việc thể hiện những cái mơ hồ, mong manh nhất mà các loại hình nghệ thuật khác dường như bất lực. Mỗi một hệ thống từ ngữ có một thế giới tinh thần riêng của nó. 
Nét đặc sắc ở Xuân Diệu là ông đã đưa vào lời thơ mình một hệ thống từ vựng mới và cách sử dụng từ rất mới. Đó là hệ thống từ vựng mang đầy tính cá thể hóa, chứ không còn nặng về ước lệ như thơ cổ điển. Thậm chí ông đưa cả cách diễn đạt câu văn Pháp vào lời thơ của mình. Những cách nói định lượng về những cái trừu tượng vốn không có trong tiếng việt, bây giờ xuất hiện tong thơ Xuân Diệu rất nhiều: 
“Hơn một loài hoa đã rụng cành 
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh” 
(Đây mùa thu tới) 
Hệ thống ngôn từ với cách sử dụng mới mẻ đã khiến cho những câu thơ của Xuân Diệu trở nên đầy ấn tượng. Nếu trong âm nhạc, âm hình làm cơ sở, làm chỗ dựa cho toàn bản nhạc, thì ngôn ngữ thơ tạo thế đứng cho toàn bài thơ. Bằng ngôn ngữ, ngay mở đầu Vội vàng, Xuân Diệu đã thúc giục: 
Tôi muốn tắt nắng đi 
Cho màu đừng nhạt mất 
Tôi muốn buộc gió lại 
Cho hương đừng bay đi… 
(Vội vàng) 
Trong lời thơ của thơ cổ điển nói chung rất nhiều điển tích, điển cố với quan niệm cho rằng càng nhiều điển thì càng uyên thâm, càng hay. Quách Tấn đã sử dụng điển tích cũ theo mạch cảm xúc, cảm giác vận động theo sự mở ra hướng về cuộc sống của tâm hồn trong thời đại mới: 
“Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng 
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng” 
(Đêm thu nghe quạ kêu - Quách Tấn) 
Ngôn ngữ trong thơ Quách Tấn hàm súc và có sức gợi cảm mạnh, thể hiện ở cách dùng điển rất riêng. Đó là nét mới sáng tạo, độc đáo của bút pháp thi sĩ trong viêc dùng điển cố, điển tích. 
Trái lại trong lời thơ Xuân Diệu, hệ thống điển tích, điển cố này rất ít. Tuy ít, song những điển cố nào được sử dụng đều được Xuân Diệu dùng rất sáng tạo, chứng tỏ ông hiểu điển cố đó nhưng lại không làm theo lối mòn của thơ xưa. 
Nếu Xuân Diệu tiếp nhận thế giới bằng cả làn da, thớ thịt với những ham muốn vô biên, thông qua một hệ thống diễn tả từ ngữ một cách quyết liệt và táo bạo thì Lưu Trọng Lư cảm nhận thế giới bằng tất cả những rung động thẳm sâu nhất của tâm hồn mình. Trong Tiếng thu ta dễ dàng nhận thấy, thơ Lưu Trọng Lư ít khi sử dụng động từ với tính chất là một hành động trữ tình biểu đạt cảm xúc, tâm trạng mà thường bắt gặp những từ diễn đạt những cảm xúc mong manh, tinh tế, đậm sắc thái cảm xúc: 
“Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức 
Em không nghe rạo rực 
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ” 
(Tiếng thu) 
Những từ giàu sắc thái, cảm xúc “thổn thức, rạo rực”, đã tâm trạng hóa Tiếng thu, làm cho thế giới nghệ thuật ấy trở thành thế giới của nỗi niềm xa vắng, mênh mông. 
Là một nhà thơ xuất hiện trong buổi đầu của phong trào Thơ mới, nên trong hệ thống ngôn từ mà Lưu Trọng Lư sử dụng có một cái gì đó vừa xưa cũ lại vừa mới mẻ. Bên cạnh đó, chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống, đặc biệt là thơ ca Tản Đà, thơ Lưu Trọng Lư có vẻ xưa cũ và còn đây đó có tính ước lệ, đặc biệt sự xuất hiện của những đại từ nhân xưng được đặt trong trường từ ngữ mang ý vị cổ xưa: “chinh phu:,”cô phụ”, tạo nên một không khí xa xưa với những cuộc tình thơ mộng. Điều đáng nói là lớp từ cổ có tính ước lệ ấy không mang tính tập cổ sáo mòn. Trái lại nó đem lại cho Tiếng thu một không gian đặc biệt, không gian mộng, cho hồn người, thơ mặc sức phiêu du trong dòng chảy bất tận. Không chỉ mang vẻ đẹp lãng mạn cổ xưa mà Tiếng thu còn mang hơi thở của thời đại mới. Có được sức sống ấy là bởi Lưu trọng Lư đã không ngừng trẻ hóa ngôn ngữ dân tộc. Trong thơ xưa, các nhân vật trữ tình thường xưng: “ta, thiếp”… Ở Thế Lữ là “cô em”. Đến Lưu Trọng Lư tuy vẫn tồn tại cách xưng hô, song trong Tiếng thu là “em”. Cách xưng hô ấy nghe gần gũi, trẻ trung, nồng ấm và hiện đại hơn. Trong thơ của mình, Lưu Trọng Lư không dừng lại ở việc sử dụng hệ thống từ ngữ hiện đại mà ông còn có khả năng sáng tạo những từ mới, làm phong phú hơn cho từ vựng của thi ca Việt Nam. 
Tóm lại, có thể nói về mặt ngôn ngữ, lời thơ và câu thơ của ba nhà thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn đều có những cách tân quan trọng, những cách tân ấy đều rất mới mẻ và thể hiện cao độ về sự hiện đại hóa thơ Việt Nam.
KẾT LUẬN 
Mùa thu vốn là một nguồn cảm hứng bất tận trong lịch sử thơ ca nhân loại. Cảm hứng về mùa thu cũng đã trở thành một nguồn thi hứng dồi dào của thơ ca Việt Nam hàng ngàn năm nay. Cái khoảnh khắc diệu kỳ, tuyệt vời ấy của thiên nhiên, đất trời mùa thu đã góp phần làm phong phú và sâu sắc cho nhiều tác phẩm âm nhạc và thi ca Việt Nam. Đến lượt mình, các nhà Thơ mới lãng mạn giai đoạn (1932-1945) lại có thêm những đóng góp mới vào dòng chảy của thời gian mùa thu trong truyền thống thơ ca dân tộc. Với cách nhìn, cách cảm nhận khá mới mẻ và độc đáo về mùa thu, phong trào Thơ mới đã góp phần đưa lại những sắc màu tươi mới, đa dạng về hình ảnh mùa thu trong thơ ca. 
Đóng góp quan trọng nhất của các nhà Thơ mới cho đề tài mùa thu, trước hết được thể hiện ở sự đổi mới về cách nhìn, cách cảm nhận, cách rung động về mùa thu. Khác hẳn với thơ ca thời trung đại, những thi sĩ của phong trào Thơ mới đã thoát ra khỏi những cái nhìn mùa thu mang tính ước lệ, sáo mòn, khuôn phép đã trở thành công thức rất đỗi thân quen. Các hình ảnh quen thuộc như “lá ngô đồng rụng, lá vàng rơi, sen tàn cúc nở, gió thu hiu hắt, long lanh đáy nước in trời”… một thời gian dài đã ngự trị phổ biến trong thơ ca cổ điển, giờ đấy hiếm thấy có mặt trong phong trào Thơ mới. Thay vào đó, các nhà thơ thời đại mới như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Quách Tấn đã trực tiếp nhìn mùa thu bằng thị giác, nghe thu bằng thính giác, cảm sắc thu bằng xúc giác của chính con người mình. Hơn thế nữa, họ còn lắng nghe mùa thu bằng cả hồn mình. Bởi thế, các thi sĩ mới thấy mùa thu rạo rực, thu bâng khuâng, thu xao xuyến, để rồi thăng hoa thành những câu thơ tuyệt bút: 
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá 
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền” 
(Đây mùa thu tới - Xuân Diệu) 
Mùa thu đi vào Thơ mới không chỉ là thu của thiên nhiên, đất trời mà còn là thu của lòng người, thu của nỗi niềm bâng khuâng. Khoảnh khắc mùa thu hiện lên trong Thơ mới, có khi mong manh hư ảo như “Ánh trăng mờ thổn thức”, có khi lại xạc xào lá rụng dưới bàn chân của chú nai vàng ngơ ngác (Lưu Trọng Lư).
Tín hiệu mùa thu có lúc được hiện hình thành suối tóc buồn, thành lệ liễu của người thiếu nữ, có khi lại thê lương, tang tóc như: 
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang 
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” 
(Đây mùa thu tới - Xuân Diệu) 
Thậm chí nó thấm vào tận cả linh hồn mà thi sĩ đã cảm nhận được như “rét mướt luồn trong gió” (Xuân Diệu). Tôi rất yêu thích và ấn tượng thật sâu sắc như một nỗi ám ảnh khôn nguôi với hai câu thơ viết về mùa thu của thi sĩ Quách Tấn: 
“Gió rủ canh đi ngàn liễu khóc 
Sông đùa lạnh tới bóng trăng run” 
(Bên sông đưa khách) 
Thật là kỳ tài, diệu bút, câu thơ thật là mới dường như chưa bao giờ xuất hiện trong thơ ca Việt Nam trước đó. Cảm nhận mùa thu như thế là hoàn toàn mới mẻ và cũng thật sâu sắc. Các nhà Thơ mới thật xứng đáng là những người đã làm nên một cuộc cách mạng rất ngoạn mục về đề tài mùa thu trong lịch sừ thơ ca Tiếng Việt. 
Mùa thu đến với tâm hồn các nghệ sĩ trong phong trào Thơ mới cũng chính là mùa nở rộ của thơ ca hiện đại Việt Nam. Bởi cái khoảnh khắc tuyệt mỹ này của đất trời tràn đầy sức quyến rũ. Nó như thổi sự sống vào tâm hồn các thi nhân, để rồi gợi nhớ, gợi thương, gợi vui, gợi buồn, làm thức dậy cả một chân trời khao khát trong lòng người nghệ sĩ. Do vậy, mà từ hàng ngàn năm nay, thơ ca viết về mùa thu đã trở thành một dòng chảy liên tục chưa bao giờ ngừng nghỉ. Với các nhà Thơ mới (1932-1945), dường như thi sĩ nào cũng có một đôi câu, một đôi bài viết về mùa thu. Trong khuôn khổ hạn hẹp của một luận văn, người viết đã chọn ba bài thơ khá tiêu biểu để nghiên cứu đề tài này, nhằm khẳng định những đóng góp mới mẻ của họ vào kho tàng truyền thống của thơ ca viết về mùa thu. Nếu có dịp, chúng tôi sẽ trở lại đề tài này một cách sâu rộng và hoàn thiện hơn. 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1. Nguyễn Duy Bình (1983), Dạy văn dạy cái hay cái đẹp, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
2. Xuân Diệu (2000), Bình luận các nhà thơ cổ Việt Nam, Nxb Trẻ. 
3. Phan Huy Dũng (2009), Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thôngmột góc nhìn, một cách đọc, Nxb Giáo dục, Hà Nội 
4. Lê Tiến Dũng ( 1996), Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn (1932-1945), Luận án tiến sĩ ngữ văn. 
5. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, Nxb văn học. 6. Phan Cự Đệ (1982), Phong trào Thơ mới (1932-1945), Nxb KHXH
7. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục. 
8. Hà Minh Đức (2002), Một thời đại trong thi ca, Nxb ĐHQG Hà Nội 9. Quách Giao (sưu tầm và tuyển chọn, 1994), Quách Tấn qua cái nhìn phê bình văn học, Nxb Trẻ TP HCM. 
10. Bích Hà (tuyển chọn và giới thiệu, 2006), Xuân Diệu một cái tôi khao khát nồng nàn, Nxb Hội nhà văn. 
11. Lê Bá Hán, Lê Quang Hưng, Chu Văn Sơn (1998), Tinh hoa Thơ mới thẩm bình và suy ngẫm, Nxb Giáo dục. 
12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1998), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục. 
13. Nguyễn Thái Hòa(2004), Vấn đề đọc hiểu và dạy đọc hiểu, Nxb Thông tin Khoa học Sư phạm Hà Nội. 
14. Nguyễn Trọng Hoàn (2006), Một số ý kiến về đọc hiểu văn bản Ngữ văn ở trường phổ thông, Tạp chí Giáo dục, (143). 
15. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Đọc - hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
16. Hoàng Đức Huy (2009), Bản đồ tư duy - Đổi mới dạy học, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 
17. Lê Quan Hưng (1997), Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu, Luận án tiến sĩ khoa học Ngữ văn. 
18. Mai Hương (sưu tầm và biên soạn, 2000), Thơ Lưu Trọng Lư và những lời bình, Nxb Văn hóa thông tin. 
19. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy văn ở trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
20. Trần Thị Phong Hương, Thích Phước An, Trúc Như (2007), Quách Tấn thiên nhiên và quê hương, Nxb Hội nhà văn. 
21. Nguyễn Hoành Khung (chủ biên), Nguyễn Đăng Mạnh, Đinh Thu Hương biên soạn (1994), Thơ Việt Nam (1930-1945), Nxb Văn học. 
22. Lê Đình Kỵ (1998), Thơ mới những bước thăng trầm, Nxb TP HCM. 
23. Phan Trọng Luận (chủ biên, 2004), Phương pháp dạy học văn (Quyển 1), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
24. Phan Trọng Luận (chủ biên, 2004), Phương pháp dạy học văn (Quyển 2), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
25. Lưu Trọng Lư (1992), Tiếng thu, Nxb Hội nhà văn, hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TP HCM. 
26. Phương Lựu (chủ biên, 2000), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. 
27. Nguyễn Văn Long (sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu), 1987, tuyển tập Lưu Trọng Lư, Nxb Văn học. 
28. Nguyễn Văn Long (1999), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục. 29. Nguyễn Lộc (2005),Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18 đến hết thế kỷ19, Nxb Giáo dục. 
30. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật nhà văn, Nxb Giáo dục. 
31. Nguyễn Xuân Nam (2001), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường: Chế Lan Viên, Huy Cận, Nxb Giáo dục. 
32. Lữ Huy Nguyên (sưu tầm và tuyển chọn, 2008), Xuân diệu thơ và đời, Nxb Văn học. 
33. Vũ Ngọc Phan (phê bình văn học, 1989), Nhà văn hiện đại tập 2, Nxb Khoa học xã hội. 
34. Nguyễn Đức Quyền(2000), Bình giảng bình luận văn học, Nxb Giáo dục. 
35. Chu Văn Sơn (2003), Ba đỉnh cao thơ mới (Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử), Nxb Giáo dục. 
36. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục. 
37. Trần Đình Sử (2002), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại, Nxb Văn hóa thông tin. 38. Hoài Thanh, Hoài Chân (1998), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin. 
39. Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư (đồng chủ biên,(1999), Văn chương và hành động, Nxb Hội nhà văn. 
40. Lưu Khánh Thơ (tuyển chọn, 2000), Xuân Diệu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 
41. Tuấn Thành, Anh Vũ (2005), Nguyễn Khuyến tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học. 
42. Quách Tấn (2003), Hồi ký Quách Tấn, Nxb Hội nhà văn. 
43. Quách Tấn ( 2006), Quách Tấn tuyển tập thơ, Nxb Hội nhà văn. 
44. Nguyễn Quốc Túy (1994), Thơ mới bình minh thơ Việt Nam hiện đại, NXb Văn học. 
45. Trần Thị Mỹ Tân (2004), Báo cáo khoa học, Hình tượng cái tôi trữ tình trong tập thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Đại học sư phạm Hà Nội. 
46. Nhiều tác giả, Thơ Xuân Diệu và những lời bình (2003), Nxb Văn hóa thông tin.
NGUYỄN THỊ HUYỀN
Theo http://lib.sgu.edu.vn:84/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Dấu chấm thang – Chùm thơ của Trần Hương Giang 4 Tháng Sáu, 2023 Biết thương cuộc sống ta bà/ Đổi thay, tôi lại thiết tha yêu đời/ Dù ...