Thứ Tư, 22 tháng 4, 2020

Dọc đường văn nghệ của tôi 2

Dọc đường văn nghệ của tôi 2
PHẦN 12 - Ở QUẢNG NGÃI
Nói đến vùng đất có núi Ấn sông Trà, xứ mía đường khốn khó… bao đời. Nhưng là nơi sản sinh nhiều người tài hoa trong văn chương…Trong hồi ức này tôi nhớ Phan Nhự Thức, Hà Nguyên Thạch, Khắc Minh, Nguyễn Đăng Trình, Trần Thị Cổ Tích, Mai Bá Ấn… Họ như sóng ngầm trước thời gian và không gian. Họ đi qua bể dâu trần thế rất bi tráng.
Người thứ nhất là PHAN NHỰ THỨC.
Tôi chỉ quen anh vào thập niên 70. Song thập niên 60 tôi đã yêu thích bài thơ TÌNH BUỒN của anh:
Người qua nhà tôi mỗi ngày bốn bận
Nón che nghiêng nên chẳng thấy tôi buồn
Ngày bốn bận nhớ thương tôi đúng hẹn
Đứng đợi chờ nón trắng với tay thon
Mười ngón tay thon của người con gái
Mười đắn đo suy tính chuyện ân tình
Tôi nhìn thấy tay người chưa nhẫn cưới
Vẫn ngại ngùng khi trao gởi thư xanh
Tờ thư xanh ấy xanh xanh màu nước biển
Xanh như màu áo ấm của người yêu
Nằm trong sách vẫn thơm mùi ước hẹn
Ngát tình thơ vừa nhớ sáng thương chiều
Người vẫn thế áo học trò vẫn trắng
Guốc thời trang kiêu hãnh bốn mùa cao
Bàn chân thon e dè trên biển cát
Đêm chờn vờn tình ái rộn chiêm bao
Tôi cơm áo bây giờ xa sách vở
Tuổi phiêu bồng rơi rớt một mùa xuân
Thơ tình ái thôi bướm vàng cánh vỗ
Còn tâm hồn: một gốc rạ cô đơn
Phan Nhự Thức
Là một người đầy nhiệt huyết và trẻ trung thời ấy, anh đã cùng Khắc Minh khai sinh tạp chí Trước Mặt. Nơi quy tụ nhiều anh em văn nghệ. Và thổi một luồng gió mới ở Quảng Ngãi, khiến cho sinh hoạt văn hóa văn nghệ ở đây nổi bật một thời.
Sau năm 75, nói như thơ của Đynh Trầm Ca Vừa trôi vừa nở hoa, Phan Nhự Thức đã trôi vào tận SàiGòn. Những năm tháng ở đây đủ để anh sống, viết và chiêm nghiệm số phận mình. Ông hội đồng ngày xưa đã kiếm sống bằng cách bưng bê bún bò ở chợ Phạm Văn Hai. Sự thách thức của số phận khiến thơ anh càng phát tiết và tài hoa hơn. Đọc bài thơ anh ngay giữa chợ khi gặp lại, tôi đã rưng rưng:
CÕI TÌNH XUÂN
nhân danh thơ phục hồi ta và bạn
người bạn tình rong ruổi cõng trên lưng
theo vạt nắng đầu ngày vừa nguyên đán
em cựa mình da thịt bỗng vang lừng
bởi khắc khổ ta một đời khép kín
em co ro gío tạt cuối hiên buồn
những nhát cuốc, ngờ đâu, tay bịn rịn
đất bật lên từng đoá lệ trào tuôn
thôi hãy xếp khối tình sầu hữu hạn
hãy cùng ta tuý luý trận phong trần
đêm động phòng rượu tràn qua xứ bạn
một đường bay tình vút khỏi tay nâng
núm ngực hồng thở từng hơi thơm phức
buổi quay về hạnh ngộ cuối trời đêm
ta tóc bạc cũng nghe lòng hừng hực
trời còn xuân ta còn lửa tình, em
Phan Nhự Thức
Thời gian này Tôi, Hà Nguyên Thạch và một số bạn thường hay tới chỗ anh để động viên tinh thần. Cho dù 4 câu thơ mở đầu bài thơ Cõi Tình Xuân đã thay lời anh bật ra từ trái tim ăm ắp yêu thương:
nhân danh thơ phục hồi ta và bạn
người bạn tình rong ruổi cõng trên lưng
theo vạt nắng đầu ngày vừa nguyên đán
em cựa mình da thịt bỗng vang lừng (PNT)
Và câu thơ giàu hình tượng và sự tài tình khi phóng bút mà tôi từng thấm thía và xót xa:
”Người bạn tình rong ruổi cõng trên lưng”.
Thời gian cứ trôi và chẳng chờ đợi ai. Anh và bạn tình vẫn miệt mài lăn theo cơm áo. Tưởng anh qua khỏi khổ nạn. Có ngờ đâu Định Mệnh đã an bày. Anh bay vào thiên thu năm 1996 để lại người bạn tình chơ vơ. Đám tang anh bạn bè đi rất đông. Thôi yên giấc ngàn thu nhé anh Phan Nhự Thức.
HÀ NGUYÊN THẠCH VỚI TẬP THƠ CHÂN CẦU SÓNG VỖ
Nhà thơ Hà Nguyên Thạch tên thật Nguyễn văn Đồng sinh năm 1942 tại làng Phước Ninh Đà Nẵng. Cha ông là Nguyễn Văn Được, trưởng làng Phước Ninh. Sau khi tốt nghiệp trường trung học Phan Châu trinh, Hà Nguyên Thạch theo học trường đại học sư phạm Huế. Đầu những năm 60 khi còn là sinh viên, Hà Nguyên Thạch đã nổi tiếng vì có nhiều bài thơ đang ở tạp chí Bách Khoa SàiGòn và được bầu làm chủ biên tạp chí Nhận Thức của sinh viên Huế.
Sau khi ra trường về dạy tại trường nữ trung học Quảng Ngãi, Hà Nguyên Thạch đã cùng Phan Nhự Thức, Luân Hoán, Đinh Hoàng Sa, Nghiêu Đề đứng ra thực hiện tạp chí Trước Mặt và Tập Hợp. Trước ngày 30. 4. 75 ông giữ chức Phó Chánh Sở Giáo Dục Quảng Ngãi. Sau năm 75 Hà nguyên Thạch chuyển về SàiGòn và trải qua nhiều sóng gió. Vợ xuất ngoại, ông ở lại SG và kinh qua nhiều nghề: Chạy bàn ở quán cà phê của nhà thơ Huy Tưởng, bỏ mối kem đánh răng. Sau khi lập gia đình lần thứ 2, nhà thơ sống ở Vũng Tàu và dạy học cho một số trường tại SG.
Biết nhau trên báo chí nhưng mãi đến năm 1970 tôi mới gặp gỡ và thân tình với anh lúc Luân Hoán ra mắt tập thơ Về Trời ở Đà Nẵng. Tập thơ khiến mọi người chú ý là tập thơ Chân Cầu Sóng Vỗ xuất bản năm 1967. Bài thơ ấy dưới đây:
Hà Nguyên Thạch
CHÂN CẦU SÓNG VỖ
Khi màu áo gọi mấy chiều xuống thấp
Anh thả hồn trôi theo phố em qua
Mùa thu đi còn dáng dấp phai nhòa
Cây vẫn mãi ôm nỗi sầu rụng lá
Con đường thức giấc chiều em rộn rã
Bước chân chim tay vẫy tóc che hồn
Ngày mai ơi! phố nắng có mù sương
Màu má vẫn nồng thơm buồng ngực trẻ
Anh vẫn đi dù biết mình không thể
Chiều có lên đèn đêm chẳng còn nhau
Nước mắt nào trôi hết tuổi thương đau
Anh vẫn giữ giọt sương chiều trên tóc
Cây cúi xuống thương đường xuôi bóng dốc
Anh-một lần qua đó-đã yêu em
Sẽ một lần tay lỡ hái ưu phiền
Thôi đành để tóc mình bay với gió
Khi qua đó chân cầu reo bóng nhỏ
Lời thanh xuân dạt bọt nước quanh bờ
Phấn son nào che bóng tối đường xa
Nên anh mãi chờ em chiều cuối phố
Con nước ấy đã bao lần sóng vỗ
Chút tàn phai đậu xuống mép chân cầu
Chút sầu đau đọng lại giữa hồn nhau
Anh giữ lấy để mùa xuân xanh lá
Hà Nguyên Thạch
Và lục bát của anh rất điêu luyện khi được chuyển hóa từ trái tim lên khối óc:
NHẠC BIỂN
Nằm đây một bãi hoang sầu
Nghìn con sóng vỗ nát nhàu biển đêm
Một loài chim lạ bay lên
Bờ linh hồn nước đục lềnh tháng năm
Mắt nhìn khoảng tối mù tăm
Bàn tay dang mãi xa tầm ước mơ
Mệt nhoài bọt nước bơ vơ
Lên đênh từ buổi biển bờ cách chia
Ngày mai rồi ngày mai kia
Cát khô bãi chát còn gì nữa đâu
Hồn thơm mùi tóc có lau
Vọng trùng dương một điệu sầu mênh mang
Hà Nguyên Thạch
Cái đáng nhớ nhất là những ngày tháng anh bưng bê cà phê ở quán cà phê Huy Tưởng. Nơi gặp gỡ rất nhiều anh em văn nghệ. Điều này anh không lấy làm buồn bực. Thái độ nầy là cách sống bi tráng vậy. Nhưng rồi anh cũng có một kết cục có hậu: Lấy vợ 2 và sinh được một quý tử. Hiện ở Vũng Tàu anh vẫn chạy HonDa lên thành phố dạy học. Vui mừng cùng anh Hà Nguyên Thạch ạ.
NGUYỄN ĐĂNG TRÌNH, NHÀ THƠ THUẦN VIỆT
Tiếp tục bầu nhiệt huyết lớp đàn anh ở Quảng Ngãi là Nguyễn Đăng Trình. Nội cái tên không cũng đủ cho ta hình dung một gã bụi bặm, phong trần, ruổi rong bốn phương trời rồi… tuy dáng dấp thì rất thư sinh. Từ thập niên 60, lúc đang ở ghế nhà trường Trình đã có thơ đăng trên Bách Khoa, Văn, Khởi Hành …Đến thập niên 80 tôi mới quen biết. Và tất nhiên là thân tình ngay bởi những người làm thơ luôn có những linh cảm đặc biệt. Qua nhiều năm tháng ở SG, Nguyễn Đăng Trình có những lao đao cuộc sống song vẫn ngồn ngộn đam mê và chí cốt với văn hóa văn nghệ. Là một trong những chủ biên của tờ tạp chí Thời Văn. Nơi quy tụ nhiều người “ham học, ưa suy nghĩ, say mê sáng tạo” của cả nước. Đó là dòng chảy, là hợp lưu tinh túy thi ca, tinh chất văn chương giữa thời buổi người ta chạy theo kinh tế thị trường. Thật can đảm thay những người chủ trương Thời Văn. Tôi hớn hở cùng Trình đâu được 10 số thì Thời Văn cũng yểu mệnh. Tiếc hùi hụi vì tờ tạp chí rất đẹp từ hình thức tới nội dung. Thi hào Nguyễn Du phán không sai: Chữ Tài liền với chữ Tai một Vần. Ngay căn nhà Nguyễn Đăng Trình ở Bình Triệu cũng có tranh chấp tới mười mấy năm. Cuối cùng nhà thơ Nguyễn Đăng Trinh cũng phải “ Nhà ơi! Chào Mi” để trôi về Long Thành làm bạn với nương rẫy. Sống như một đạo sĩ ấn cư. Lâu lâu, lần mò lên 64 cà phê để gặp anh em văn nghệ cho đỡ buồn. Trình ơi! Thôi đành vậy. Nhưng thơ cậu như chất ngọc. Càng mài càng sáng. Thuần Việt, đó là nét rất riêng không lẫn vào đâu được. Chữ nghĩa, ngôn ngữ nhân gian thường tình ở đó mà cậu đã khéo léo dụng ngữ để trở thành lung linh, sắc sảo và hồn vía trong mỗi bài thơ.
NGUYỄN ĐĂNG TRÌNH
GẶP LẠI THÁNG GIÊNG
Có thể nào em chẳng chút xa lòng
Sau ngần ấy năm cách mặt
Đôi mắt kia hãy còn xanh ngăn ngắt
Màu lá non phơn phớt nắng giêng trong
Lòng rối lên từng chặp bâng khuâng
Khi ánh mắt đắm vào ánh mắt
Mùi hoa trái làm đêm thơm ngát
Làm tôi quên tuốt luốt mùi đời
Chuyến về này ngỡ chẳng còn ai
Nhận ra tôi sau bao mùa biệt xứ
Làng quê cũ nay đã là thị tứ
Riêng mỗi em chẳng khác chút xưa nào
Như vừa lăn ra khỏi chiêm bao
Nghe trái tim đang tầm xuân trong ngực
Tôi muốn bạt tai mình cho đỡ tức
Xưa quá ham chơi suýt mất cuộc tình
BẮN EM VỀ PHÍA NGHÌN TRÙNG
Chợt không còn sức để buồn
Chiều đưa em về Quảng Ngãi
Cái nắm tay thôi cũng ngại
Nói gì đến một nụ hôn
Từ ngày tôi em sông suối
Biển rừng thả vó rong chơi
Cuộc tình quanh năm mới rợi
Bốn mùa tôi chẳng cần phơi
Sài Gòn tháng giêng không mưa
Mà sao lạnh đầy phố xá
Đã say đâu mà muốn ngã
Ngây ngây người mắc phải bùa
Đoàn tàu tối nay dễ ghét
Không thơ như sáng em vào
Tiếng còi cứ như tiếng thét
Lạnh lùng lia một nhát dao!
Tôi buộc làm tên xạ thủ
Nát lòng khi phải giương cung
Mím môi thi hành phận sự
Bắn em về phía nghìn trùng…
NGỰA HOANG
ngựa hoang ruổi vó đăng trình
bụi hồng lãng đãng nhẹ tênh gánh đời
còn dài nửa cuộc rong chơi
quan san nghìn dặm một trời cỏ thơm
ngày sau vẹt gót bạc bờm
ngoảnh về tàu cũ ngoác mồm hí vang…
Nguyễn Đăng Trình
TRẦN THỊ CỔ TÍCH, Nhà THƠ NỮ CỦA XỨ NÚI ẤN SÔNG TRÀ
Nhắc đến Nguyễn Đăng Trình mà không nói tới Trần Thị Cổ Tích là một thiếu sót. Bởi họ là một cặp bài trùng, là môi với răng, là thuyền và biển. Bài trùng mà thiếu một là lẻ loi. Môi hở thì răng lạnh. Thuyền vắng bóng thì biển nhớ đầy… Trong thi ca họ chứa chan tương tác. Hãy đọc những lời dưới của Nguyễn Đăng Trình viết về cô ấy:
NĂM THÁNG ĐI QUA NHỮNG VU VƠ DỪNG LẠI
Những tưởng giữa thập niên 1970 làng văn nghệ miền Nam đã bùng vỡ một thế hệ nhà thơ trẻ có đủ tố chất và điều kiện để thành danh. Họ đã có “tác phẩm” đăng trên những trang thơ của các báo dành cho tuổi mới lớn thời bấy giờ khi mới chỉ là những cô cậu đệ lục đệ ngũ... (bằng tài năng thực sự chứ không phải phần lớn nhờ vào công nghệ lăng xê ồn ào đến lố bịch như những năm sau đó...). Năng khiếu và lòng đam mê đã chắp cánh cho họ bay cao và bay xa trên vòm trời thi ca bảy sắc cầu vồng. Trong số đó, tôi thấy có Trần Thị Cổ Tích.
Thật đáng tiếc khi cuộc chiến dừng bước phiêu lưu cũng là lúc biết bao nụ mầm thi ca tàn rụi khi lá chưa kịp xanh! Tôi tin nếu hành trình suôn sẻ thì con đường thi ca của Trần Thị Cổ Tích hẳn đã rẽ qua nhiều khúc quanh phiêu lưu khác. Nhưng tôi không dám chắc đã êm ả hoặc gập ghềnh, du dương hoặc cuồng nộ, bi quan hay lạc quan, thăng hoa hoặc tán sắc... Trần Thị Cổ Tích vĩnh viễn đã mất đi cái cơ hội bứt phá cần thiết!
Mãi đến những năm gần đây tôi mới gặp lại thơ Trần Thị Cổ Tích. Không quá cũ mà cũng không quá mới. Không rụt rè mà cũng không táo bạo. Không kìm nén mà cũng không ồn ào... Nhưng thâm trầm mà thao thiết, thầm lặng mà day dứt... miên man!
Có lần Trần Thị Cổ Tích nói vui: “Mình muốn bỏ thơ mà thơ không chịu bỏ mình! Cũng chỉ vì Năm tháng đi qua những vu vơ dừng lại. "
Ra là thế!...
Nguyễn Đăng Trình
Chính xác như NĐT nói về Trần Thị Cổ tích. Trước 75 thơ cô đã xuất hiện trên các trang báo tuổi mới lớn ở SG, khi còn ở cấp trung học. Thơ và cái tên rất... cổ tích khiến tôi nhớ lâu dù chưa tận mặt bao giờ. Và những năm tháng gần đây cô lại xuất hiện trên các trang wed và FB. Đặc biệt là ở trang HX bạn bè và bạn đọc rất quý mến cô qua thơ và tính cách. Giờ đây cô sâu đằm và chín chắn hơn. Tư tưởng và ngôn ngữ được thanh lọc đầy trí tuệ. Tôi còn quý cô ở chỗ: Tuy sinh sống ở Quảng Ngãi nhưng gốc Huế. Thâm trầm, kín đáo, tư cách, khiêm cung… Tôi thích những bài thơ sau:
LỜI DÀNH CHO MỘT NGƯỜI
em không thể vô tình
trước một tia nhìn ấm áp
một câu nói sẻ chia
một nâng đỡ nhẹ nhàng
giữa lúc đời lao đao gãy gập
trái tim em
ngoài tình yêu cha mẹ
chồng con
thầy cô
bè bạn...
vẫn còn một chỗ cho anh
không phải trong góc khuất
không phải trong bóng đêm
không phải chỗ yếu mềm
bởi đã đặt vào tim
thì nơi nào
cũng là nơi trang trọng nhất...
KỊP
đã dặn nhau
đừng đưa tiễn
tàu còn năm phút rời ga
sao cứ đăm đăm về một phía
cửa toa số 9
không anh
tàu còn bốn phút
gió lùa cửa toa số 9
thời gian căng dài khắc khoải
vội chi tàu ơi!
còn ba phút
lao vào
mớ tóc lòa xòa
đôi mắt kiếm tìm
thảng thốt
nắng ga trưa dìu dịu mơ màng
vẫn còn kịp mỉm cười
vẫn còn kịp bắt tay
vẫn còn kịp cài nụ hôn lên tóc
và kịp thấy
trong đáy mắt nhau
những giọt lệ vẫy vùng...
TÌNH TÔI CÓ NHỮNG NGÀY NHƯ THẾ
từng vòng bánh xe lăn nhanh
cuốn tròn nỗi nhớ
cuốn người tôi yêu trôi xa...
hoàng hôn vật vã
tím ngắt công viên lạnh khô ghế đá
buồn bốc hơi nhân ảnh mịt mờ
mây lang thang lang thang
tình tôi lang thang lang thang
thành phố tan hoang
chút tình yêu mỏi muộn
trang thơ còn sót lại
bên kia dốc đời
sao còn nhiều bất trắc
sao còn đầy gian nan
bạn bè ơi! người thân ơi!
có hiểu?
công viên chiều nay mình tôi khóc điếng
gió lộng bời bời
nước mắt rơi cỏ xanh cỏ xám
nước mắt rơi hoa nở hoa tàn
gió lộng bời bời
tim tôi lăn từng vòng
theo bánh xe xa...
tuôn trào nhớ
quặn thắt đau
se lòng thương người ấy
oằn lưng vác nỗi ngậm ngùi
đi về phía xa...
xa!...
NGÀY CỦA MỘT ĐỜI
* Riêng tặng anh NĐT
nhân sinh nhật 9. 8
ngỡ chỉ còn những buổi chiều
lầm lũi ven sông
níu mây tím về
chôn sâu đáy mắt
rời rã một ngày
ngỡ chỉ còn những tối
thui thủi qua những phố mòn
những ngôi nhà cửa khóa
sương bạc một màu
run rẩy đêm
ngỡ chỉ còn những sớm mai
không thấy bình minh
chỉ những lá vàng chao đảo trước sân
chia nỗi niềm tàn héo

nhưng có một ngày
nơi quán cà phê ven hồ
em nhặt được trái tim anh
trăn trở trên tay em
trái tim đầy vết chém
sao vẫn nồng ấm tươi xanh
vẫn rộn ràng nhịp đập
vẫn phập phồng lời yêu thương sóng dội
mây tím không về nữa
những cánh cửa mở toang
bình minh hồn nhiên dịu dàng
âu yếm sương mai
ngày của một đời
đã mở...
VÀ TÔI HIỂU…
cái gã ba lơn ngày ấy
giờ ra chơi nào cũng gọi tên tôi
để rồi nhận lại
cái nguýt dài
rất chảnh
dòng đời bon nhanh
mỗi người một cảnh
gã lại gọi ngày gọi đêm
gọi mưa gọi nắng
gọi khi đời bầm dập
gọi khi lòng đớn đau
gọi lâu đến thế mà tôi không nghe
đến khi nghe rồi sao tôi không hiểu
trời đất ơi!
gã dấu tình yêu ở đâu kỹ thế
ba mấy năm rồi vẫn trong trẻo tinh khôi
chiều nay gã lại gọi tên tôi
giữa những dòng thơ
và tôi hiểu...
Trần Thị Cổ Tích
Hình 1: Phan Nhự Thức chủ biên 
tờ tạp chí TRƯỚC MẶT
Hình 2: Chân Dung 
nhà thơ Hà Nguyên Thạch
Hình 3: Nguyễn Đăng Trình 
chủ biên tạp chí Thời Văn
Hình 4: Chân dung 
nhà thơ Trần Thị Cổ Tích
PHẦN 13 - Ở QUY NHƠN
Đất Quy Nhơn từ lâu xứng danh là Đất Võ Trời Văn. Nơi sản sinh rất nhiều bậc tài hoa về thi ca và văn chương. Sau những tiền bối nổi danh như Xuân Diệu, Huy Cận, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Yến Lan. Quách Tấn… là hàng hàng lớp lớp đi sau vô số kể. Rất tiếc là tôi không có duyên hội ngộ với ACE văn nghệ sĩ Quy Nhơn nhiều nên chỉ cảm nhận vài người tôi quen biết như Nguyễn Mộng Giác, Lê Văn Ngăn, Trương Văn Dân, Vũ Đình Huy. Phạm Ngọc Dao, Nguyễn Kim Tiến, Nguyễn Tiết, Lâm Cẩm Ái…
HÀN MẶC TỬ, NỖI ĐAU XÉ LÒNG
Từ khi bước chân vào bậc trung học tôi đã mê thơ Hàn Mặc Tử. Một giọng thơ xé lòng của đất Quy Nhơn. Một tiếng chuông hồn vang vọng của kiếp người mà bất cứ ai nghe cũng trắc ẩn. Thơ và cuộc đời của ông thì biết bao người viết. Ai cũng đọc và cảm nhận. Tiếc là căn bệnh hiểm nghèo đã mang ông về trời lúc còn quá trẻ và lúc bút lực đang như sóng lừng. Bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Đây Thôn Vỹ Dạ. Và bản nhạc hay viết về ông là Hàn Mặc Tử của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Mỗi khi nghe bản nhạc này là tôi nổi gai ốc. Có lẽ nhạc sĩ đã cảm ông đến độ sáng tác một ca khúc hay như thế. Trái tim đến cùng trái tim là một ảm ảnh khôn nguôi. Lòng gặp lòng dù tuổi tác và thế hệ cách xa. Vì thế, dù ông cô độc gặm nhắm căn bệnh thời bấy giờ nhưng vẫn có những Nàng Thơ đồng cảm và yêu ông da diết. Tôi không nhắc lại đây vì mấy mươi năm qua ai cũng biết. Tôi yêu quý ông và cứ ngỡ đã gặp ông ở đất Quy Nhơn. Đau đáu nỗi niềm này cho đến năm 2008 và 2015 tôi mới có dịp về lạy thi sĩ và đứng trầm ngâm rất lâu trước mộ ông trên Đồi Thi Nhân. Nơi an nghỉ của ông chưa có thi sĩ nào được như thế. Âu cũng là sự đãi ngộ xứng đáng của Thượng Đế và cuộc đời dành cho ông. Thật thích thú khi đọc được những câu chữ viết về ông và nhạc sĩ Trần Thiện Thanh:
“Viết về ca khúc “Hàn Mặc Tử” của Trần Thiện Thanh.
Bài hát Hàn Mặc Tử đã được nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác vào năm 1965. Đây là một trong những ca khúc rất thành công của ông, khi kể về cuộc đời tình ái sự nghiệp của một thiên tài trong thi ca Việt Nam, là thi sĩ Hàn Mặc Tử (1912-1940).
Bài hát bắt đầu bằng các câu thơ của HMT, được ngâm lên cho đoạn dạo đầu (prélude):
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò”
Sau đó thì tác giả chuyển qua điệu nhạc Bolero:
“Đường lên dốc đá, nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa
LẦU ÔNG HOÀNG đó, thuở nao chân HÀN MẶC TỬ đã qua.
Ánh trăng treo nghiêng nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng
Tiếng chim kêu đau thương như nức nở dưới trời sương
Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người
Tìm về giữa đêm buồn…
“Đường lên dốc đá, nhớ xưa hai người đã một lần đến
Tình yêu vừa chớm, xót xa cho chàng cuộc sống phế nhân
Tiếc thay cho thân trai, một nửa đời chưa qua hết
Trách thay cho tơ duyên, chưa thắm nồng đã vội tan
Hồn ngất ngư điên cuồng cho trời đất cũng tang thương
Mà khổ đau niềm riêng…"

Bài hát “Hàn Mặc Tử” này đã trở nên thật nổi tiếng ở Việt Nam kể từ lúc được ca sĩ Trúc Mai trình bày ở Đại nhạc hội tại rạp hát Thanh Bình, Sài Gòn vào năm 1965. Sau đó bài hát này được phổ biến rộng rãi khắp mọi nơi cho đến tận ngày hôm nay. Đi đâu cũng nghe người ta hát “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho…” từ nhà hàng, quán cà-phê, bến xe đò, bến phà, các xe bán hàng rong khắp hang cùng ngõ hẻm. Ca sĩ Trúc Mai đã bắt đầu đi hát từ năm 1959. Cô là một trong bốn ngôi sao của phòng trà Hòa Bình, gồm Bạch Yến, Bích Chiêu (chị của Khánh Hà), Thùy Nhiên và Trúc Mai. Giọng hát của cô rất ngọt ngào, đầm ấm. Cô diễn tả bài hát thật nhẹ nhàng, thoải mái như ru nhè nhẹ vào tai người nghe. Nhờ vậy mà Trúc Mai đã tiếp tục sự nghiệp ca hát của cô trong hơn ba mươi năm. Sau một thời gian dài vắng bóng, cô đã tái ngộ khán giả khắp nơi ở chương trình Paris By Night 78 “Đường Xưa” khi song ca với Phương Hồng Quế trong liên khúc “Giọt lệ đài trang”. Đến với chương trình Asia 50 để tưởng niệm Nhật Trường, ca sĩ Trúc Mai sẽ kể lại các kỷ niệm vui buồn của cô trong những năm trình diễn bài hát Hàn Mặc Tử này. Nhưng hôm nay cô không hát lại ca khúc này, mà để cho giọng ca trẻ Y Phụng ngợi ca Hàn Mặc Tử. Trước đây cũng có vài ca sĩ ở hải ngoại đã hát bài “Hàn Mặc Tử” này. Trong đó có cô ca sĩ mang hai dòng máu Việt - Mỹ là Thúy Hằng đã hát bài này đúng 6. 41 phút trong CD “Thúy Hằng 3: Tình Thiên Thu” do Mây Productions sản xuất năm 1998.
Cuộc đời ngắn ngũi 28 năm của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã được không biết bao nhiêu người nhắc đến. Từ những bài báo, tiểu thuyết, cải lương, thoại kịch, phim truyện và hiện nay ở các đài truyền hình bên Việt Nam cũng đang cho trình chiếu một bộ phim truyện vài chục tập về cuộc đời Hàn Mặc Tử. Ông đúng là một thiên tài bất hạnh trong làng thi ca Việt Nam.
Tên thật của ông là Nguyễn Trọng Trí, sanh tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Trị vào ngày 22 tháng 9 năm 1912, trong một gia đình theo đạo Công giáo. Vóc mình ốm yếu, tính tình ông hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Thân phụ ông làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở. Vì vậy, Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Pellerin Huế (1926). Năm 1930 thì Hàn Mặc Tử thôi học vào Quy Nhơn sống với mẫu thân và năm 1932 thì ông xin được việc làm ở sở Đạc Điền tại đó. Trong thời gian này ông có yêu một thiếu nữ tên là Hoàng Cúc ở gần nhà, nhưng mộng ước không thành. Người yêu theo chồng ra Huế sống. Buồn tình, năm 1935 HMT xin thôi việc vào Sài Gòn viết báo. Từ nhỏ Hàn Mặc Tử đã làm thơ đăng báo khắp nơi và ký các bút hiệu như Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mạc Tử (người ở sau tấm rèm lạnh: hàn là lạnh, mạc là bức rèm) và cuối cùng là Hàn Mặc Tử (anh chàng với bút mực: hàn là cây viết, mặc là mực).
Rất nhiều người vẫn thắc mắc là Hàn Mặc Tử có tất cả bao nhiêu người yêu chính thức?
Có người từng nói rằng “thi nhân muôn đời luôn luôn là giống đa tình”, nên Hàn Mặc Tử cũng có rất nhiều người yêu và cũng có rất nhiều độc giả yêu thơ của chàng, viết thư làm quen. Trong số đó có Mộng Cầm (tức Huỳnh Thị Nghệ) là một thiếu nữ xinh đẹp từ Quảng Ngải vào và trọ học ở nhà người cậu nơi tỉnh Phan Thiết. Sau nhiều lần trao đổi thơ từ, thì họ cùng hẹn nhau để gặp mặt. Cuối tuần, Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn đi Phan Thiết bằng xe lửa để tìm thăm Mộng Cầm. Họ đã dạo chơi khắp các thắng cảnh của Phan Thiết, trong đó có “Lầu Ông Hoàng”. Trần Thiện Thanh đã viết: “Lầu Ông Hoàng đó, thuở nao chân HMT đã qua". Ai đã ở tỉnh Phan Thiết thì chắc cũng đã có lần nghe nhắc đến Lầu Ông Hoàng. Đó là một dinh thự to lớn, nguy nga tráng lệ, xung quanh có vườn tược, cây cảnh rất xinh đẹp và nằm trên một ngọn đồi nhìn ra biển xanh. Lâu đài này do một ông hoàng (công tước) người Pháp tên là De Montpensier mua khu đất này và xây cất lên vào năm 1911 để làm nơi nghỉ hè, vui chơi cho gia đình ông. Năm 1917 thì một doanh nhân Pháp mua lại để làm khách sạn cho du khách thuê. (Trong thời chiến tranh sau này, khu Lầu Ông Hoàng này đã bị bom đạn phá hũy hoàn toàn, nay chỉ còn cái nền cao mà thôi). Thuở xa xưa đó, những cặp tình nhân thường hẹn hò nhau đến khu vực này để ngắm cảnh và tâm tình với nhau nơi các băng ghế đá xung quanh vườn, nhứt là trong những đêm trăng sáng. Qua Mộng Cầm, HMT làm quen với cậu của nàng là Thi sĩ Bích Khê (1916-1946) và hai chàng thi sĩ này trở nên thân nhau như tri kỷ. Cuối tuần nào HMT cũng tới ở trọ nhà Bích Khê và hẹn gặp Mộng Cầm (Mộng Cầm ở trọ nhà một người cậu khác). Thời gian đó, không rõ vì lý do gì mà HMT bị bịnh phong cùi (leprosy), hai vành tai ửng đỏ, ngứa ngái khắp nơi. Tuy vẫn thơ từ qua lại, nhưng Mộng Cầm lãng tránh dần thi sĩ, ít khi hò hẹn với nhau. Hàn Mặc Tử âm thầm tìm thầy chạy chữa thuốc men, bịnh tình cũng thuyên giảm dần dần, và thi sĩ vẫn tiếp tục làm thơ, viết báo ở Sài Gòn.
Nhưng qua năm 1938, căn bịnh quái ác này trở nên nặng hơn, nên thi sĩ bèn quay về Quy Nhơn thuê một căn nhà nhỏ trên đồi, sống biệt lập cách xa thành phố, tuyệt giao với tất cả bạn bè. Hàng ngày có một tiểu đồng về nhà mẹ của HMT gần đó lãnh cơm nước, thuốc men đem đến cho chàng. Trần Thiện Thanh đã viết:
"HÀN MẶC TỬ xuôi về quê cũ dấu thân nơi nhà hoang,
MỘNG CẦM hỡi thôi đừng thương tiếc tủi cho nhau mà thôi,
Tình đã lỡ xin một câu hứa kiếp sau ta trọn đôi,
Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi”.
Từ khi phát bịnh, cơ thể đau nhức đến phát điên, nhứt là vào những đêm trăng sáng. Hàn Mặc Tử lại càng làm thơ hay hơn, như những câu thơ mà Trần Thiện Thanh đã phổ nhạc:
“Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò
Bao giờ đậu trạng, vinh quy đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ
Không, không, không! Tôi chẳng bán hòn trăng
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt là anh dại quá
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang?”
Có đêm ông nằm mơ thấy Đức Mẹ hiện về, nên ông đã viết bài “Thánh nữ Đồng Trinh” để tạ ơn:
“Maria! Linh hồn con ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến…
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương…
Sẽ ngây ngất bởi chưng thơ đầy ứ
Nguồn Thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu Bi... ”
Trong lúc cô đơn, tuyệt vọng chán chường, thi sĩ lại nhận được tin Mộng Cầm đi lấy chồng, nên HMT lại càng đau khổ hơn:
“Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng?”
Trần Thiện Thanh đã viết lời ca:
“Tìm vào cô đơn, đất Quy nhơn gầy đón chân chàng đến.
Người xưa nào biết chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa,
Chốn hoang liêu tiêu sơ HÀN
âm thầm nghe trăng vỡ”.
Hình như cái bịnh phong cùi này thường làm cho Hàn Mặc Tử đau đớn nhiều hơn trong những đêm có trăng. Thi sĩ đã thức trọn đêm để làm thơ:
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi…
Có lúc thi sĩ Bích Khê ghé thăm, thấy HMT buồn, nên giới thiệu chàng làm quen với người chị của BK là Lê Thị Ngọc Sương (tức là dì ruột của Mộng Cầm) để hai người thơ từ qua lại. HMT đã làm liền một bài thơ sau khi nhìn vào tấm ảnh của Ngọc Sương:
“Ta đề chữ NGỌC trên tàu chuối
SƯƠNG ở cung thiềm nhỏ chẳng thôi
Tình ta khuấy mãi không thành khối
Nư giận đòi phen cắn phải môi”
Đây chỉ là một mối tình đơn phương, vì Ngọc Sương không hề yêu HMT nhưng cô cũng khiến thi sĩ sáng tác được nhiều bài thơ hay. Lúc đó lại có nữ thi sĩ Mai Đình (tên thật Lê Thị Mai) yêu HMT tha thiết, tình nguyện đến ở bên chàng săn sóc, lo thuốc men. Nhưng thi sĩ đã từ chối và chỉ tiếp chuyện với cô được vài lần. Tuy vậy HMT cũng đã làm những bài thơ trong đó có câu:
“Đây MAI ĐÌNH tiên nữ ở Vu Sơn
Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt…
Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay
Ta là người uống muôn hận sầu cay
Nàng là mật của muôn tuần trăng mật…”
Thơ từ qua lại với Mai Đình trong hai năm (1938-1939) rồi HMT tuyệt giao. Có lúc tưởng như bớt bịnh, bạn bè đến thăm, lại mang thơ độc giả ái mộ cho HMT xem (1940). Trong đó có một nữ sinh trung học tên Thương Thương đã làm cho HMT cảm động, và thi sĩ lại tìm được tình yêu trong mộng, như:
“Sầu lên cho tới ngàn khơi
Ai lau ráo lệ cho lời nói ra
chiều nay tàn tạ hồn hoa
nhớ THƯƠNG THƯƠNG
quá, xót xa tâm bào…”
Gần cuối năm 1940, căn bịnh của HMT trở nên nặng hơn. Gia đình đành phải đưa ông vào nhà thương phung cùi Quy Hòa, cách Quy Nhơn 5 cây số, nơi có các dì phước người Pháp săn sóc cho bịnh nhân. Lúc này thi sĩ đã bớt điên loạn và dần dần chấp nhận cái chết gần kề. Ông đã mơ ước:
“Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm!”
Ông luôn luôn nhớ đến Phan Thiết, nhớ đến Mộng Cầm và những kỷ niệm thời hoa bướm ngày xưa. Thi sĩ đã viết những câu thơ dưới đây như những lời trăn trối sau cùng trong đớn đau tuyệt vọng:
"Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng
Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng
Lầu Ông-Hoàng, người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương tha thiết
Ôi! Trời ơi! là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mảnh sao rơi
Ta đến nơi: nàng ấy vắng lâu rồi!
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ!
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi tung thơ lên tận cung Hằng
Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết.
Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết!
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư!”
Rời túp lều hoang không đầy hai tháng, thì Hàn Mặc Tử yếu dần và tạ thế tại nhà thương Quy Hòa, ngày 11 tháng 11 năm 1940. Được tin ông mất, các tờ báo trên khắp nước đã viết bài, đăng tin, ra số đặc biệt tưởng niệm thi sĩ tài hoa nhưng bất hạnh này. Bạn bè, người yêu, độc giả khắp nơi đều thương tiếc, nhưng không một ai đến đưa đám tang thi sĩ HMT. Trần Thiện Thanh đã kết thúc bài hát Hàn Mặc Tử bằng:
“Xót thương thân bơ vơ cho đến một buổi chiều kia
Trời đất như quay cuồng khi hồn phách vút lên cao
MẶC TỬ nay còn đâu!
Trăng vàng ngọc trăng ân tình chưa phỉ
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng!...”
Khi sáng tác ca khúc “Hàn Mặc Tử” này cách đây đúng 40 năm (1965-2005), có lẽ nhạc sĩ Trần Thiện Thanh không ngờ rằng sau này cuộc đời ông cũng có nhiều điểm giống như thi sĩ tài hoa bạc mệnh này. Nơi tỉnh nhà Phan Thiết, từ nhỏ Trần Thiện Thanh đã cùng bạn bè dạo chơi ở những nơi mà ngày xưa thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm từng in dấu. Nên ông đã viết: “Đường lên dốc đá, nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa, Lầu ông Hoàng đó, thuở nao chân HMT đã qua”.
Vào Sài Gòn lập nghiệp, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã mang theo ông những kỷ niệm này và sáng tác nên “Hàn Mặc Tử”. Trong khoảng thời gian bắt đầu ca hát và viết nhạc từ năm 1958 cho đến năm 1975, ca sĩ Nhật Trường - Trần Thiện Thanh đã cống hiến cho đời những lời ca tiếng nhạc thật tuyệt vời. Tên tuổi và danh vọng của ông đã sáng rực lên khắp mọi nơi. Đã có không biết bao nhiêu thiếu nữ, khán giả ở mọi lứa tuổi yêu nhạc và yêu thương ông tha thiết. Nhưng kể từ sau năm 1975, thì sự nghiệp của ông dần dần đi xuống, kể cả khi ra hải ngoại, những sáng tác mới của ông cũng không còn xuất sắc được như ngày xưa. Cuối cùng thì ông lại mắc phải một chứng bịnh nan y là ung thư phổi. Những tháng ngày cuối cùng của ông thật là cô đơn, hiu quạnh. Đâu còn thấy lại “ánh đèn sân khấu”, đâu còn thấy lại những khán giả thân thương, những bạn bè xưa, người yêu cũ. Ngay cả bà mẹ già 82 tuổi và cô em gái Như Thủy trong ban Tứ ca Nhật Trường ngày xưa, những đứa con, đứa cháu của ông vẫn còn ở bên Việt Nam nghìn trùng xa cách. Những tuần lễ sau cùng, khi đã tuyệt vọng, ông không chịu nằm trong bịnh viện mà muốn trở về nằm nghỉ nơi nhà riêng. Bên cạnh ông trong giờ hấp hối chỉ có người vợ sau là ca sĩ Mỹ Lan và đứa con trai út mới vừa 3 tuổi, tên là Trần Thiện Anh Chí. Ông đã ra đi trong âm thầm lặng lẽ sau mấy tháng chịu nhiều đau đớn, dày vò vì căn bịnh quái ác này. Cho đến ngày 13-5-2005 thì “trời đất như quay cuồng, khi hồn phách vút lên cao”. Trần Thiện Thanh đã thực sự vĩnh biệt chúng ta khi vừa đúng 62 tuổi đời, là cái tuổi vẫn còn rất trẻ trên đất tạm dung Hoa Kỳ“.
Trước mộ ông trên Đồi Thi Nhân tôi đã viết bài thơ như một nén hương lòng của tôi thành kính ông:
THƠ TRẦN DZẠ LỮ
TRƯỚC MỘ HÀN THI SĨ
Xin chào thi sĩ họ Hàn
Tài hoa bạc mệnh hàng hàng tiếc thương
Xưa rưng rức nỗi vô thường
Thân gầy, tình xót, tôi mường tượng ông…
Quy Nhơn, Ghềnh Ráng nao lòng
Ôm trăng để nỗi nhớ cong lên trời
Chỉ thơ cứu rỗi người thôi
Thương câu hát cũ trên đồi thi nhân.
Bây giờ chỗ ông yên nằm
Cao cao gió lộng, nắng hồng soi gương
Dốc Mộng Cầm ngạt ngào hương
Tiễn ông chắc tới thiên đường từ khuya…
Ngưỡng mộ ông, để ra về
Mênh mang trời đất, sao nghe chạnh lòng…
Một mai cát bụi xoay vòng
Chỗ nằm biết có còn không hở Trời?
Trần Dzạ Lữ
NGUYỄN MỘNG GIÁC, MỘT NGƯỜI ANH MÀ TÔI LUÔN KÍNH TRỌNG
Đọc và biết anh Nguyễn Mộng Giác từ năm 1971 trên các tạp chí SG như Bách Khoa, Văn, Văn học, Khởi Hành… từ năm 1971. Rất quý nhân cách và tài năng của anh. Mãi đến năm 1973 anh chuyển từ Quy Nhơn vào SaiGon tôi mới được gặp anh. Sự gặp gỡ của anh em văn nghệ nó lạ lùng lắm. Dễ thương lắm như đã thân tình từ lâu lắm. Anh thường hẹn tôi uống cà phê. Mỗi lần như thế là trao đổi với nhau về tình hình văn nghệ và đời sống. Được biết từ thập niên 70, Hoàng Ngọc Tuấn (tác giả Cô Bé Treo Mùng thường trú trong nhà anh và anh rất thương, xem như em ruột). Người thứ 2 là tôi. Hễ có gì cần giúp đỡ là anh không từ nan. Tôi nhớ mãi là sau 75, ai cũng khốn khó. Nhà anh ở Thị Nghè mở một cơ sở sản xuất mì sợi. Vậy là anh có chi chúng tôi nhờ nấy cho qua ngày đoạn tháng. Chị Chi, vợ anh là một người vợ tuyệt vời và rất hiểu anh em văn nghệ. Chị cũng không tiếc một thứ gì mà anh em cần. Những kỷ niệm ở Thị Nghè thật khó quên. Tôi tin nơi suối vàng bạn tôi Hoàng Ngọc Tuấn cũng thế, không quên anh. Trước tình thế khó khăn và biết lo cho vợ, anh Giác đã ngừng sáng tác cho đến năm 1977 mới cầm bút trở lại với tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ đến năm 1981 mới hoàn thành tác phẩm.
Năm 1982 anh định cư ở Nam California.
Năm 1995 anh có về thăm quê nhà. Tôi có gặp và anh đã động viên tôi in thơ vì viết trên mấy chục năm chưa có tập thơ nào. Anh đã góp một phần tài chánh để tôi in tập thơ đầu tay Hát Dạo Bên Trời gần cuối năm đó. Tôi biết ơn anh.
Năm 2004 Nguyễn Mộng Giác bị ung thư gan. Sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh quái ác anh đã qua đời năm 2012. Anh mất đi là một tổn thất lớn với chị Chi mà không thể nào bù đắp được.
Nói về anh Nguyễn Mộng Giác cũng cần nhắc lại chị Chi. Tên chị là Nguyễn Khoa Diệu Chi. Cũng thuộc hàng trâm anh. Chị học trường Đồng Khánh Huế. Năm 1963 thầy Giác về dạy trường Đồng Khánh, phải duyên cô gái Huế thùy mị đoan trang và họ đã thành vợ chồng. Năm 1965 anh Giác được điều về Quy Nhơn làm hiệu trưởng trường Cường Để. Chị Chi theo chồng về xứ Nẫu. Xin sơ lược mấy dòng tiểu sử một người anh mà tôi luôn yêu mến, kính trọng. Một người từ tâm như thế, nơi cõi vĩnh hằng tôi tin anh luôn mỉm cười…
Tiểu sử Nhà Văn NGUYỄN MỘNG GIÁC
Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1940 tại thôn Xuân Hòa, xã Bình Phú, quận Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định, miền Trung Việt Nam.
Thời kháng chiến chống Pháp 1946 đến 1954, ông học tiểu học và trung học tại vùng kháng chiến. Sau Hiệp định Genève 1954, ông tiếp tục học tại trường Cường Để (Quy Nhơn), trường Võ Tánh (Nha Trang), rồi học năm chót của bậc trung học tại trường Chu Văn An (Sài Gòn).
Sau khi học một năm ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông ra Huế học Đại học Sư phạm ban Việt Hán. Năm 1963, ông tốt nghiệp thủ khoa, khóa Nguyễn Du. Ngay năm ấy, ông được điều đến giảng dạy tại trường Đồng Khánh ở Huế. Năm 1965, đổi ông vào Quy Nhơn làm Hiệu trưởng trường Cường Để.
Năm 1973, thăng ông làm Chánh sở Học chánh tỉnh Bình Định. Năm 1974, chuyển ông vào Sài Gòn làm chuyên viên nghiên cứu giáo dục Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa cho đến 1975.
Về sự nghiệp văn chương, ông bắt đầu viết văn từ năm 1971 [1], đã cộng tác với các tạp chí: Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức. Năm 1974, truyện dài Đường một chiều của ông được giải thưởng Văn Bút Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng hòa [2].
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, việc sáng tác của ông tạm gián đoạn. Đến năm 1977, ông cầm bút trở lại, và bắt đầu viết bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ, và hoàn thành vào năm 1981.
Tháng 11 năm 1982, ông đến Hoa Kỳ, định cư tại Nam California [3], rồi cộng tác với các báo: Đồng Nai, Việt Nam Tự Do, Người Việt, Văn, Văn Học Nghệ thuật ở nước ngoài.
Từ năm 1986, ông làm Chủ bút tạp chí Văn Học ở California, Hoa Kỳ. Đến tháng 8 năm 2004, ông phải ngưng công việc làm báo vì phát hiện mình bị ung thư gan [2].
Sau nhiều năm dài chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, ông đã qua đời lúc 22 giờ 15 phút ngày 2 tháng 7 năm 2012 (ngày giờ địa phương ở California, tức sáng ngày 3 tháng 7 năm 2012 giờ Việt Nam) tại tư gia ở thành phố Westminster (Orange County, California, Hoa Kỳ), thọ 72 tuổi.
LÊ VĂN NGĂN, NHÀ THƠ LƯU LẠC QUÊ NGƯỜI
Tôi và Lê Văn Ngăn biết và quen nhau khi còn ở Huế. Khi tôi lưu lạc thì được biết anh vào Quy Nhơn bám trụ quê người. Vì cách xa tôi ít được biết về đời sống của anh. Chỉ thích và tìm đọc thơ anh. Đó là những bài thơ phát tiết cùng lúc giữa trái tim và trí tuệ. Những năm sau này nghe anh rất buồn và thường đạp xe đạp một mình uống cà phê hay vài ly bia ở vỉa hè thành phố Quy Nhơn. Anh lâm trọng bệnh và mất năm 2015. Sau khi anh mất bạn bè đã chung lo in cho anh một tập thơ có tên: THƠ LÊ VĂN NGĂN NXB Thuận Hóa - Huế. Trước đó anh đã có xuất bản tập thơ đáng nhớ: VIẾT DƯỚI BÓNG QUÊ NHÀ NXB Hội Nhà Văn năm 2000. Tôi thích những bài thơ này của anh cùng quan niệm: Giải thưởng của người làm văn nghệ chính là sự chia sẻ niềm rung cảm với mọi người. (LVN)
TRĂNG KHUYẾT
Quê hương đã cho anh một vầng trăng khuyết
treo trên nền trời một đêm thời ấu thơ
Đêm ấy, dầu đã cạn trong đáy đèn, căn nhà chìm vào bóng tối
Đêm ấy, với chút ánh sáng của vầng trăng ban đầu
anh đã nhìn thấy lại khuôn mặt những người sinh đẻ ra mình
Quê hương đã cho anh một vầng trăng khuyết
Từ đấy cho đến bây giờ, dù lưu lạc nơi đâu
trăng vẫn ở cùng anh như người bạn đường chung thủy
Trăng vẫn ở cùng anh khi người tình đã rời bỏ anh trong cảnh nghèo nàn
khi bạn bè thân mỗi người mỗi ngả
Trong chốn lao tù của quân xâm lược năm nào, anh nhìn ra
vẫn thấy trăng ẩn mình bên những vòng thép gai vấy máu
Quà tặng của quê hương
chẳng bao giờ mất
chẳng bao giờ hoen ố
Mai sau, khi anh rời lòng mẹ để nằm vào lòng đất lòng mẹ thứ hai
anh biết vầng trăng xưa vẫn lặng lẽ trên đầu.
Ngôn ngữ
Một mình dưới mái nhà ở phương Nam, anh học ngôn ngữ con người
người cùng quê hương
người của các xứ sở xa xôi khác.
Anh muốn biết một nhịp cầu đang nối dần qua các ranh giới
Anh muốn biết những vết thương cần được chữa lành
Anh muốn biết chất liệu hạnh phúc không phải là ảo ảnh
Anh muốn biết tất cả cảnh tượng này
sẽ được người khác viết và nói ra sao
Anh còn muốn biết thêm tâm hồn người, nhưng ngoài hiên nhà
nắng cuối đời sắp tắt
Ngôn ngữ của đồng loại, dù chưa hiểu hết, cũng phải đành xếp lại
để lắng nghe tiếng ai bắt đầu gọi từ phía cuộc hành trình
Mai sau, rồi sẽ có người đến dưới mái nhà cũ
sẽ ngồi vào chiếc ghế anh đã ngồi
sẽ làm những việc anh từng làm
Như thể giữa người sống và người chết
vẫn không ngừng một sợi dây nối kết.
NHÌN THẤY TRONG HOA
Rời cố hương, tôi đã đi qua nhiều chặng đường
vẫn còn mang theo hình bóng những ngày sắp mùa xuân năm nào
Những ngày ấy
hoa nở thắm tươi trong mưa phùn và gió rét
hoa mỉm cười với những đời người rủi ro những đời người may mắn
Như thể hoa
là tâm hồn của quê nhà độ lượng.
Quán trọ dọc đường những đêm khuya
tôi có lúc được ngồi lặng yên bên hoa tươi thắm
Trong hoa
tôi nhìn thấy những đau thương cũ đang mờ xa
những cánh cửa mở ra niềm hy vọng
Một danh nhân của quê hương tôi đã nói thay niềm hy vọng:
Ai ai cũng có cơm no áo ấm
Ai ai cũng được học hành
Trong hoa
tôi nhìn thấy những bàn tay người trồng hoa lấm bùn đất
nhìn thấy những người bình thường tạo ra những vẻ đẹp khác thường.
Trong hoa
tôi nhìn thấy một mùa xuân sẽ ra đi và kế tiếp những mùa xuân khác
Dưới đôi mắt âu yếm của quê hương
tôi ngồi cộng lại tất cả mùa xuân đã đi qua cuộc đời
để nhìn thấy một mùa xuân không thể phai tàn.
Rời cố hương, tôi đã đi qua nhiều chặng đường
vẫn còn mang theo hình bóng những ngày sắp mùa xuân năm nào
Những ngày ấy
hoa nở thắm tươi trong mưa phùn và gió rét
hoa mỉm cười với những đời người rủi ro những đời người may mắn
Như thể hoa
là tâm hồn của quê nhà độ lượng.
Quán trọ dọc đường những đêm khuya
tôi có lúc được ngồi lặng yên bên hoa tươi thắm
Trong hoa
tôi nhìn thấy những đau thương cũ đang mờ xa
những cánh cửa mở ra niềm hy vọng
Một danh nhân của quê hương tôi đã nói thay niềm hy vọng:
Ai ai cũng có cơm no áo ấm
Ai ai cũng được học hành
Trong hoa
tôi nhìn thấy những bàn tay người trồng hoa lấm bùn đất
nhìn thấy những người bình thường tạo ra những vẻ đẹp khác thường.
Trong hoa
tôi nhìn thấy một mùa xuân sẽ ra đi và kế tiếp những mùa xuân khác
Dưới đôi mắt âu yếm của quê hương
tôi ngồi cộng lại tất cả mùa xuân đã đi qua cuộc đời
để nhìn thấy một mùa xuân không thể phai tàn.
BÊN HỒ THỦY NGỮ
Gió đưa tình ta sang xa nhau
thời xuân thu gió thổi ngang đầu
quyến luyến mùi hương anh mang áo dạ
bóng đổ tường nghiêng một ngọn đèn dầu
mắt thẳm nghìn khơi không đổi hướng
rèm thiên thu còn hỏi trong tim
bước đi dưới rừng dương liễu dậy
sóng biển bừng lên sóng biển chìm
anh lại lui về thành thị cũ
soi mắt em trong tấm gương mờ
ngó qua mái ngói mây trời đục
biết đến đêm này khuya có mưa
vang hưởng từ khi em cười nói
là quanh đời tiếp tiếp truyền đi
lãng du đưa đẩy chân dừng lại
nỗi vui thầm mấy lá biệt ly
ngồi ở thành tây hồ thủy ngữ
chân thuyền quyên ơi anh lát gạch hồng
bông sen tàn bông sen còn lá
tình anh rồi nước trải giòng sông
đêm có khi anh nằm nghiêng mặt
nghe bến chờ thoáng điệu hành vân
tưởng người quân tử chưa thành vận
gảy độc huyền ca gọi tình nhân
tù và vang thúc hồn xe ngựa
tiếng chân anh lẫn tiếng cổ thành
ôi giấc hoàng thu càng nặng nợ
dù xa người yếm trắng thủy thanh
Lê Văn Ngăn
Bây giờ anh về Trời. Lời hẹn của tôi về Quy Nhơn thăm anh để cùng đi dạo quanh bờ biển một một đêm trăng tròn không bao giờ thành hiện thực. Thôi cứ là mơ nhé anh Lê Văn Ngăn. Anh yên nghỉ nhưng thơ anh vẫn lung linh trong lòng người đọc.
VŨ ĐÌNH HUY, HUẾ LẠC TRỜI XA
Chỉ mới biết và gặp nhau ở SG sau này nhưng với vẻ trầm ngâm và cũng rất phiêu bồng của Huy đã khiến tôi chú ý và thích. Nhất những bài viết và thơ của Huy nhiều trăn trở. Tôi thích những bài thơ cô đọng ngăn ngắn của Huy dù rất kiệm lời nhưng ý sâu, điệu vần thuần thục. Đọc những bài dưới đây là thấy tôi không ngôn ngoa:
THƠ VŨ ĐÌNH HUY
BẠI TƯỚNG CA
Dịch Thủy hề… hồng nhan tấu khúc
Chiều lạnh dần sương khói ra khơi
Áo lụa bay mối sầu vạn cổ
Bảo kiếm treo giấc mộng nửa vời
Em tiễn ta hai tay nâng chén
Ta cạn ly xót phận má hồng
Thôi em về ta xin ngoảnh mặt
Cho mai này khép mắt hư không
Vũ Đình Huy
Hoặc bài:
DOANH DOANH MUỘI
Em ở đâu
hở Doanh Doanh muội
Khúc Tiêu Cầm
em thả về đâu
Cánh nhạn trôi
se chiều quan tái
Kiếm Độc cô
buông dưới thành sầu
Em về chưa
lao xao rừng trúc
Lãng tử say
dẫm nát Ta bà
Chủ quán đâu
lấy thêm chén nữa
Ta rót mời
tình dẫu đã xa.
Vũ Đình Huy
Và bài:
LỤC BÁT NOEL
Đêm nay
Thiên Chúa giáng trần
Tội lỗi
em cứ nghiêng phần
cho anh
Bao nhiêu
chát khế chua chanh
Em giấu đi nhé
lòng lành đêm nay
Xưa Chúa
thập tự lối này
Nên anh nằng nặng
đọa đày trên vai
Thiên tài
sánh bước thiên tai
Trên cao
chắc Chúa thở dài…
bâng khuâng
Dương trần
rộn tiếng chuông ngân
Ái da…
áo trắng thiên thần
n... g… o… a... n… ghê.
Vũ Đình Huy
Huế lạc xứ người nên Huy luôn đi về Quy Nhơn - SàiGòn như chong chóng. Thỉnh thoảng gặp nhau ở cà phê 64 hay SàiGòn Phố “tám“ chuyện đời chuyện thi ca để rũ bỏ bớt bụi phong trần và nợ áo cơm mỗi ngày mỗi trả…
NGUYỄN TIẾT, NHÀ THƠ GIẤU NỖI NIỀM SAU NỤ CƯỜI
Đọc và biết Nguyễn Tiết, nhà thơ nữ ở Quy Nhơn và cũng vài lần gặp nhau ở SG. Một người hiền hậu và có nụ cười rất “bồ tát”. Song cô em gái này không giấu được tôi: Đằng sau nụ cười là mang mang nỗi niềm mà cô khéo che đậy. Thảng hoặc cô thả vào thơ ca bằng trái tim và cảm xúc. Mỗi đời người có một số phận khi Thượng Đế trao vào tay mà không thể khước từ. Hạnh Phúc và Khổ Đau. Nếu tôi không lầm thì Tiết ít oi hạnh phúc mà mà bước qua cuộc trần ai nhiều muộn phiền. Nhưng có hề chi Nguyễn Tiết hỉ? Đã có thơ cứu rỗi cho mình. Tôi thích những dòng thơ lục bát này. Trong đắng có ngọt. Trong cay có mùi thơm của trầm quế. Trong hoàng hôn chất chứa bình minh:
THƠ LỤC BÁT NGUYỄN TIẾT
NGHIÊNG VAI
Nghiêng vai rớt gánh đời tình
Chỏng chơ từng mảnh đổ kềnh hợp tan
Lăn long lóc cái phũ phàng
Chỉ thương cái nụ tình tang khóc cười!
GIỌT NGÂU
Thu rưng rức mấy giọt ngâu
Giọt rơi lấp lánh giọt sầu trăm năm
Giọt rơi đáy giếng mù tăm
Giọt nào rơi giữa mắt đăm đắm tìm …
Theo tôi, lục bát là thế mạnh của Nguyễn Tiết. Vì vậy, ta hãy đăm đắm theo dòng:
NGUYỄN THỊ TIẾT
NHỮNG ĐOẢN KHÚC BẤT CHỢT

1.
Từ em vướng cái điệu đàng
Vân vê lọn tóc, liếc ngang đuôi mày
Từ em chạm một bàn tay
Lần theo nỗi nhớ dắt ngày vào đêm
2.
Bói duyên em mở bàn tay
Đoán xem tình đạo loay hoay thế nào
À tâm, trí đạo rõ sao
Hình như rối rắm đường vào tim anh.
3.
Chiều buông mấy sợi muộn vàng
Em gom nhặt vội về đan võng tình
Bấc lùa sợi mỏng rung rinh
Làm sao giữ được tình mình không rơi!
4.
Em vừa ướt một cơn mê
Mới hay cái lạnh dầm dề dưới mưa
Em vừa mua món chợ trưa
Mới hay cái kết đong đưa đùa tình
Gió bay tà áo hớ hênh
Mới hay cái nghĩa nhân tình uốn quanh.
Nguyễn Tiết
Tuy nhiên ở thể thơ khác, tôi cũng bắt gặp và đồng cảm với bài thơ:
MƯA QUY NHƠN
Mưa ở Quy Nhơn, đêm trống vắng
Một mình thầm đếm giọt mưa rơi
Mưa không lạnh sao đời se lạnh
Nhớ anh nhiều lòng bỗng chơi vơi
Phố buồn Quy Nhơn em chiếc bóng
Lang thang tìm lại dấu chân xưa
Hàng dương đó anh đâu chẳng thấy
Ngút ngàn xa gặp lại… biết bao giờ?
Tình yêu em gởi trọn về anh
Bao khao khát cơn mưa vừa trút
Giữa cuộc đời đêm mơ ngày thực
Ta cần nhau như nắng gặp mưa rào
Nơi ấy trời mưa có lạnh không
Có nhớ đến em phút chạnh lòng
Cơm áo dòng đời anh quay quắt
Nơi này vẫn có một người trông!
Nguyễn Tiết
Thơ đã vận vào người và theo mình như một nghiệp dĩ. Cô đơn là thuộc tính của thi nhân. Tôi biết Nguyễn Tiết hiểu rõ điều này. Nhưng tôi cũng rất mong là đi qua trần thế hết nửa đời người, điều kỳ diệu sẽ xuất hiện với nàng thơ xứ đất võ trời văn. Mong lắm thay!.
Hình 1: Thi sĩ Hàn Mặc Tử
Hình 2: Chân dung nhà văn Nguyễn Mộng Giác
Hình 3: Chân dung nhà thơ Lê Văn Ngăn
Hình 4: Nhà thơ Vũ Đình Huy và...
Hình 5: Nhà Thơ Nguyễn Tiết
PHẦN 14 - Ở QUY NHƠN
TRƯƠNG VĂN DÂN, NHÀ VĂN GIÀU TÂM CẢM
Khi từ Ý về Việt Nam năm 2010 Trương Văn Dân có tìm thăm tôi. Được biết Dân là người xứ Nẫu qua Ý du học về Hóa và Công Nghệ. Tốt nghiệp lấy bằng tiến sĩ và lấy vợ Ý. Chị Elena cũng là tiến sĩ ngôn ngữ, văn chương và đang nghiên cứu về văn hóa Việt Nam. Tôi được cái hân hạnh là Dân đưa tôi xem trước bản thảo tiểu thuyết BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA vừa hoàn tất và mong góp ý. Bản thảo như một ma lực, có sức hút kỳ lạ. Tôi đọc liền tại nơi đang làm việc. Tôi xúc động và nói với Dân: ”Rất OK. Một tiểu thuyết luận đề đương đại. Bạn chỉ cần chỉnh sửa một vài chỗ để chỉn chu hơn thôi. Có lẽ bạn nên gặp và đưa bản thảo cho nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đọc và góp ý cho chắc cú.” Một năm sau 2011, tiểu thuyết BTNDM ra mắt bạn đọc có bài giới thiệu của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Rồi sau đó nhiều người đọc và cảm thụ cuốn tiểu thuyết này trên báo chí và trên mạng. Tôi vui cùng Dân và tôi nghĩ sự thành công đó là bước ngoặt để bạn tiếp tục những trang viết sau “bùng nổ” và sâu lắng hơn nữa. Đọc lại cuốn tiểu thuyết in đẹp, còn thơm mùi giấy tôi chạnh lòng và thương cảm nhân vật Gấm, trăn trở, dằn vặt với số phận và tình yêu. Cuối cùng nàng giã từ trần thế mang theo một tình yêu vĩnh cữu xuống tuyền đài… Tiểu thuyết khiến tôi nhớ “Uyên Ương Gãy Cánh” của K. GiBran. Cảm xúc bay bổng và tôi đã cảm tác bài thơ:
Trần Dzạ Lữ
(Cảm đề tiểu thuyết Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa của nhà văn Trương Văn Dân)
BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA
Em che trời không nổi
Nhưng che anh vồi vội
Trong tình yêu thật thà…
Bao nhiêu tháng ngày qua
Đời cho em cay đắng
Bệnh tật và thiết tha
Nuôi tình anh để sống!
Và em không để sổng
Bóng hình anh, anh ơi
Định Mệnh đã an bài
Dù yêu trong nước mắt…
Bàn tay nhỏ sắp mất
Địa đàng ngái ngút xa
Nhưng tim em vẫn muốn
Cùng tim anh giao hòa…
Một khắc thôi cũng đủ
Địa chấn tình bừng lên
Cho nhau đi, anh nhé
Uống từng giọt cường toan!
Phút cuối em gọi chàng
Như là thiên thu gọi
Người tình yêu dấu hỡi
Đừng bỏ em nghe anh!
Bàn tay nhỏ thanh thanh
Che trời mưa không nổi
Nhưng lại rất hồi hổi
Khi nắm bàn tay anh…
Trần Dzạ Lữ
Trương Văn Dân và Elena là một cặp trời sinh thật ngộ. Cô dâu Ý về VN làm vợ. Chịu khó chịu thương học hỏi phong tục tập quán của quê chồng. Nghe kể chị Elena đã từng tắm cho mẹ chồng một cách rất chăm chút yêu thương như mẹ sinh ra mình vậy. Tôi vô cùng ngưỡng mộ. Hành động này khiến tôi nhớ đến mấy câu thơ của Xuân Quỳnh:
Mẹ là mẹ sinh ra anh
Bây giờ là mẹ chúng mình đấy thôi.
Thỉnh thoảng tôi cũng gặp gỡ hai bạn ấy ở những cuộc hội ngộ của tạp chí Quán Văn do anh Nguyên Minh chủ biên. Trương Văn Dân có khi trầm tư nhưng chị Elena lúc nào cũng tươi mươi với nụ cười đôn hậu và thân thiện. .
Bàn Tay NHỎ DƯỚI Mưa của Trương Văn Dân là tiểu thuyết đương đại khiến giới phê bình và bạn đọc rất quan tâm. Tôi trích dẫn dưới đây là một bài viết hay của một bạn đọc ở Nha Trang:
BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA
ĐỒNG CẢM, TRÂN TRỌNG VÀ YÊU THƯƠNG
LÊ THỊ THANH XUÂN

Ngày đang khép lại. Trăng treo ngoài cửa sổ, chiếu sáng cả một vùng quê hoang vu, đẹp lạ. Và cũng là lúc tôi đọc xong một tiểu thuyết. Gấp sách lại, hơi chút suy tư. Phải chăng tác giả đã nói hộ mình? Thấp thoáng một phần đời của tôi? Nghĩ cũng lạ, có phải là duyên? Tôi đến với tiểu thuyết này rất tình cờ. Hôm đó đang lang thang trên phây, thoáng thấy tường nhà bạn có treo stt giới thiệu sách, tôi tò mò đọc thấy là lạ, rồi đọc luôn vài đoạn trích, sao mà thích quá. Sau đó inbox tìm kiếm. Chẳng thấy đâu. Chưa bỏ cuộc, hôm sau tôi tức tốc vượt mười tám cây số lục lọi trong các nhà sách vẫn không có. Hôm sau nữa, lại cầu may. Vui mừng vì ở nhà sách Phương Nam chỉ còn mỗi một quyển BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA của nhà văn Trương Văn Dân.
Cầm trên tay quyển tiểu thuyết mà mình đã cố công tìm kiếm. Đọc xong lại muốn đọc lại. Nói thật, ban đầu tôi định bụng gấp sách, cảm giác bực bội chiếm lấy tôi. Thật ra tôi cũng như bao phụ nữ khác, khao khát yêu và được yêu nhưng tuyệt nhiên không bi lụy. Ở đây điều tôi muốn nói, nhân vật Gấm lúc đầu hiện lên trong tôi sao mà khó chịu quá. Cứ quanh quẩn điệp khúc "anh ơi, anh à". Theo tôi, Gấm quá ngưỡng mộ và thần tượng "anh" hết cỡ. Nào là "Anh ơi, anh đến bất ngờ và cao lớn quá". Tâng bốc. Còn nữa "Anh làm em hạnh phúc và xáo trộn tâm tư biết bao" Vân vân và vân vân. Đọc đến đây, tôi bỏ sách xuống và đứng dậy với tiếng thở dài. Lát sau ngẫm lại, những đoạn trích hay lắm cơ mà. Vả lại, không phải tự nhiên BTNDM lại được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhà phê bình văn học quan tâm và viết bài nhận định. Một tác phẩm ít được giới thiệu trên báo còn tác giả cũng không phải là người nổi tiếng, thế mà đến nay có gần 30 bài cảm nhận, giới thiệu và nhận định.
Thế là tôi lại cầm sách. Đọc và đọc, từ trang này sang trang khác, chợt nhận ra thân phận khổ đau của người phụ nữ càng hiện ra rõ nét. Nhà văn Trương Văn Dân với trái tim nhân hậu. Ông đã xây dựng nhân vật Gấm, tuy đã hai lần thất bại trong hôn nhân nhưng cuối cùng vẫn có được một tình yêu thật đẹp: “Chúng tôi yêu nhau như hai dòng suối hòa lẫn vào nhau, biến thành một dòng sông êm đềm có chung dòng chảy.” (374). Thiết nghĩ, đến hai lần đổ vỡ, ắt hẳn phải gánh chịu hệ lụy mà thời gian không thể nào xóa trôi và nỗi đau dù muốn dù không cũng hằn sâu vào tâm thức. Bởi vậy, ai đã từng trải qua làm sao đủ lòng tin, đủ can đảm lại tìm kiếm hạnh phúc lứa đôi? Thậm chí có ước ao được vài phút bình an, hạnh phúc cũng còn chưa dám! Còn nàng… ngay cả lúc bệnh tật vẫn được anh quý mến, trân trọng và yêu thương: "Cả hai cùng im lặng, nhìn sâu trong mắt nhau. Gương mặt đẹp như ngọc của nàng phảng phất bóng mây của quá khứ khổ đau và cô độc". Được người mình yêu thấy mình “đẹp như ngọc” khi nằm trên giường bệnh là điều ít thấy. Nên có lẽ vì thế mà nàng trân trọng và yêu thương anh đến nỗi “em có thể chết cho anh sống“ (374) thì tuy có thể hơi cường điệu nhưng với một người tình như vậy cũng là xứng đáng. Mấy ai có thể thích ở bên cạnh mình trong lúc bệnh, tóc tai rối bù, quần áo nhăn nheo, không trang điểm, thậm chí ở thời khắc nằm hôn mê và sắp giã từ trần thế vẫn được anh trân trọng: "… hình ảnh làm tôi xúc động nhất là lúc Gấm trở mình, hai bàn tay vòng lại trên tấm drap trắng, những ngón tay dài và thon thả, chỉ đủ mảnh dẻ để vuốt ve những người nàng yêu dấu và quá yếu đuối để giữ chặt những gì nàng xứng đáng có được sau nhiều phen phấn đấu. Nàng sắp bị truất quyền sống. Và hưởng hạnh phúc." Và hạnh phúc dâng tràn trong cuộc ái ân cuối cùng của hai người mà nàng đã dâng hiến thật si mê và mãnh liệt "Bất giác Gấm vươn tay, choàng lên cổ tôi rồi vít chặt vai tôi kéo xuống giường, ép chặt bộ ngực nóng hổi vào người tôi, lần tìm làn môi của tôi để trút lên nụ hôn thẳm sâu đến ngạt thở. Tôi cảm nhận toàn thân Gấm nóng hực như một lò than. Tưởng sốt, định hỏi thì Gấm bịt miệng tôi, nói khẽ: "Không sao, em khỏe. Người em nóng vì cháy bỏng tình yêu." Và giây phút họ có nhau và cũng là phút họ sắp mất nhau, bùng lên dữ dội "Tôi mơn man xoa bóp từng vùng da thịt nóng hổi của nàng đang căng mọng bởi sự va chạm của hai thân xác, ôm nhau lăn lộn trên giường, như điên như dại, hôn nhau mà như cắn vào bất cứ phần nào trên da thịt. Gấm áp mũi vào má tôi hít hít. "Em run quá. Ôm em đi!" Tôi ôm chầm lấy nàng. Siết mạnh. Người chúng tôi ẩm ướt như vừa tắm, chỉ vừa chặm, chưa lau. Mùi mồ hôi mang đầy nữ tính hòa lẫn với mùi nam tính xông vào khứu giác, tác dụng như một thùng dầu lửa đổ vào đống than hồng. Ngọn lửa phựt lên, réo rít. Sức nóng làm cả hai mê lịm đi... rồi cùng mở bung hết ngọn nguồn cảm xúc.” “… Trong phút giao hòa ấy, chúng tôi tưởng như chỉ còn lại một hình hài duy nhất. Hai xác thân từ tiền kiếp bị chia lìa giờ hòa làm một, xác thịt quay cuồng trong bão tố, nạp nguồn nhiên liệu từ ngọn lửa tràn đầy của khát vọng…” (395) “Thể chất, nội thân ngoại vật, âm dương đều hòa hợp." Tình yêu họ như ngọn đuốc bùng lên, sáng rực…
Đọc lại những đoạn ấy tôi mới hiểu được tình yêu mà cô ta dành cho người đàn ông cả đời mình khao khát…“anh đến, chẳng những chỉ lối mà còn nắm tay tôi dắt lên cõi thiên đường, đóng lại cánh cửa thông ra địa ngục”. Cô ngưỡng mộ và thần tượng anh cũng phải vì thời gian quen nhau, anh đã giúp cô nâng cao kiến thức, được anh yêu thương, chiều chuộng, đồng cảm và tôn trọng… Một điều rất hiếm thấy trong các tác phẩm văn học hay trong suy nghĩ của người đàn ông Việt Nam. Hãy nghe anh nói về tình yêu và sự trân trọng của anh dành cho nàng. “Nhờ có em mà anh biết tình yêu chân thành này là có thật.” Hay cảm xúc khi nhìn nàng quằn quại: “nhìn nỗi đau của Gấm tôi còn đau đớn hơn nỗi đau của chính mình” (376) và sau khi nàng chết anh cô đơn, lạc lõng “kinh hãi, nghĩ đến con thuyền neo bến mà không còn kẻ sang sông” (408) rồi mất cả lẽ sống “tôi sẽ sống cho ai và để làm gì? (390). Vũ trụ trước mắt anh khi Gấm mất: “Thế giới bừng lên rồi chìm trong màn đêm đen kịt, chỉ có một tia sáng duy nhất là từ trái tim tôi cháy bùng như ngọn đuốc, bay vút lên trời, quán chiếu vũ trụ này trong một nỗi đau vô cùng, vô tận”.
Ông đã lên tiếng đấu tranh bênh vực phụ nữ chúng tôi. Và chúng tôi, những người phụ nữ luôn bị thiệt thòi, phải chịu rất nhiều áp lực từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, chỉ biết hy sinh và hy sinh. Thế mà, nhỡ người phụ nữ mắc phải sai lầm, lập tức hứng chịu cơn bão dư luận xã hội o ép không chừng tìm đến cái chết để buông xuôi tất cả.
Xã hội áp đặt phụ nữ chúng tôi bao điều thua thiệt, và ban cho chúng tôi viên thuốc độc, an thần, đắng ngắt nhưng được bọc đường: đức hy sinh! Mà ở đâu có người hy sinh là có kẻ lợi dụng…
Vâng, là phụ nữ tôi xin vòng tay cám ơn nhà văn Trương văn Dân, phải chăng ông xây dựng nhân vật Gấm là muốn ban cho những người phụ nữ dang dở, bất hạnh một ân huệ được sống hạnh phúc trong hoàn cảnh vô cùng bi đát. “Nếu sự hòa hợp về giới tính và tâm hồn…là đỉnh điểm của những gì mà con người có thể nhận được trong cuộc tồn sinh” (trang 12) thì ông đã ban phát cho người đàn bà tên Gấm ấy có được trong suốt thời gian bên người đàn ông cuối cùng của đời mình. Để nhắm mắt ra đi trong một sự ly biệt thật tuyệt vời. Hỏi mấy ai trong đời được sống hạnh phúc và chết bình an? Sau khi tận hiến cả si mê lẫn yêu thương cho người mình yêu nàng thanh thản đoạn tuyệt cuộc đời sóng gió và bi lụy của mình. Đó là cái chết quá xứng đáng cho một tình yêu như vậy.
Một cái chết tuyệt đẹp và xưa nay chưa từng có!
Trong tiểu thuyết BTNDM bi kịch của đời Gấm theo tôi cũng chính là bi kịch của phận người, nằm trong bi kịch của đất nước, của hệ quả chiến tranh và sự lôi cuốn vào một thế giới tàn ác cùng những lệ lụy và mặt trái của toàn cầu hóa. Ô nhiễm nước, không khí, thức ăn nhiễm độc, tâm hồn con người bệnh hoạn vì lòng tham. Mà lòng tham “hiện đại” lại được phương tiện tối tân nhân lên gấp nhiều lần sức mạnh hủy diệt để tạo nên một thế giới mà “không phải quỷ dữ quyến rũ con người làm điều ác mà chính quỷ mới là kẻ bị loài người dẫn dắt vào tội lỗi” (379) vì con người chỉ quan tâm đến các kỹ năng để phát triển lòng tham... Trái tim nhân ái rách nát của nàng không thể sống tiếp trong thế giới đen đúa ấy.
Viết lên những hàng chữ này tôi chỉ muốn ghi lại cảm nhận của một người đọc, một người yêu văn chương, muốn chia sẻ với những bạn đã đọc và giới thiệu đến những người sẽ đọc. Tôi không có tham vọng “phê bình” mà chỉ muốn bày tỏ sự đồng cảm với tác giả về quan niệm sống trong tác phẩm. Dĩ nhiên trong tiểu thuyết BTNDM tác giả còn đề cập đến nhiều điều mà có lẽ một độc giả bình thường như tôi chưa nắm bắt được.
Tuy nhiên với cảm nhận chủ quan của tôi thì BTNDM là một tiểu thuyết hay. Trương Văn Dân là một nhà văn có trái tim nhân hậu. Và những trang viết đầy tính nhân văn của ông đã để lại trong tôi rất nhiều cảm xúc và ấn tượng.
Nha Trang 7-2016
Lê thị Thanh Xuân
Không chỉ viết mà anh còn dịch cùng với chị Elena nhiều bài rất “thoát” và sâu sắc nữa. Tôi tin cặp đôi này vẫn tiếp tục cuộc hành trình không không mệt mỏi, không biên giới của văn chương. Đam mê chính là ngọn lửa tuyệt vời nhất của mỗi một đời người khi đã hướng tới Chân Thiện Mỹ.
NGUYỄN KIM TIẾN, NGƯỜI EM ĐÁNG QUÝ CỦA XỨ NẪU
Tôi quen biết Nguyễn Kim Tiến thật tình cờ và như một sự gắn kết giữa 2 tâm hồn thơ ca. Số là Thư Quán Bản Thảo số 32 ra số đặc biệt giới thiệu tập thơ đầu tay của tôi: HÁT DẠO BÊN TRỜI với những bài viết trang trọng của những người có danh tiếng viết về thơ và đời tôi. Tiến đọc được và thích bài thơ “Ở Chợ” của tôi nên cảm tác ngay bài thơ “Chợ Đời” nhưng chẳng biết tôi ở đâu để liên lạc. Một thời gian dài sau đó Tiến dò la và biết tôi quen Khê Kinh Kha. Thế là cô ấy nhờ KKK chuyển giúp e-mail đến tôi. Nhận E-mail tôi đọc mà rưng rưng. Hạnh phúc của người viết chính là sự đồng cảm này đây:
Kính gởi nhà thơ Trần Dzạ Lữ,
Rất tình cờ và cũng là lần đầu tiên đọc thơ của ông trong tạp chí Thư Quán Bản Thảo tập 32 tháng 8 năm 2008. Qua những bài viết về ông của nhiều tác giả, và qua những bài thơ được trích ra từ tập thơ” Hát Dạo Bên Trời” của ông, nhất là bài thơ “Ở Chợ”, Tiến đã rất xúc động và cảm tác bài thơ” Chợ đời”. Tiến muốn tặng ông như là một chia xẻ với thơ ông. Hy vọng là ông không lấy làm phiền lòng. Tiến không biết địa chỉ của ông, nên Tiến không gởi trực tiếp đến ông được. Tiến xin phép nhờ ông Kinh Kha chuyển đến ông.
Mong ông có những ngày vui và an lành.
Nguyễn Tthị Kim Tiến
Chợ Đời
(Tặng TDL)
Ông ở chợ
Em đây cũng ở chợ
Chợ nơi em
Có giống chợ nơi ông
Cũng dập dìu kẻ ngược người xuôi
Cũng hau háu mắt la mày lét
Cũng bon chen vấ t vã sớm hôm
Cũng lọc lừa trên dưới khác chi
Ông ở chợ
Em đây cũng ở chợ
Chợ quê cha
Hay chợ quê con
Cũng đói rách xác xơ chợ nghĩa
Cũng hàm oan miệng lưỡi không xương
Cũng trăm ngã cù bơ cù bất
Cũng khó khăn sống kiếp làm người
Ông ở chợ đời
Em ở chợ trần gian
Trần truồng chợ thịt với da
Sao manh áo vá hoài không kín
Sao mảnh hồn vá mãi vẫn đau
Ông ở chợ nào
Cho em ở với
Chợ sớm hôm
Chợ chiều tà
Chợ chữ nghĩa
Chợ tiền
Chợ bạc
Sao chợ nào cũng giống như nhau
KTN
Ngày 10 tháng 9 năm 2008
(Cảm tác từ bài thơ” Ở chợ” của Trần Dzạ Lữ)
Khi đọc E-mail, bạn tôi đến chơi và nhìn thấy nói: Chết rồi! ”Ông ở chợ nào cho em ở với.” Nàng mết ! Tôi trả lời: Đừng có mà tàm xàm ! Đây là thơ. Là một tâm hồn ở với một tâm hồn trong cõi thơ ca…Còn đời thật không có đâu! Tôi còn nói thêm với bạn ấy: Tui có cô bạn gái làm thơ. Chỉ một chấm li ti cảm xúc cô ấy đã thi vị hóa và thăng hoa thành một đại dương tình cảm… Nếu cứ tin là thật thì “húp cháo rùa” mà thôi. Chỉ những tay khờ khạo nhưng háu gái mới bị nàng cho “đi tàu bay giấy“ qua cửa chat.
Từ đây e-mail qua lại và chúng tôi thân nhau như anh em ruột thịt. Mọi vui buồn cuộc sống đều được thẳng thắng chia sẻ với nhau không chút ngại ngần. Cuộc đời của Tiến không mấy êm ả đâu. Nhỏ chỉ ham đọc sách và học hành. Không hề biết tuổi dậy thì của mình ra sao. Lớn lên đỗ đạt và thành cô giáo một thời gian ngắn rồi lại vượt biển giữa bao nguy nan rập rình… Cái may mắn cuối cùng là làm việc cho một công ty ở Mỹ. Có chồng và con cái hạnh phúc (chồng Tiến là đồng hương với tôi, có lần 2 vợ chồng về Việt Nam, chồng Tiến đã để Tiến và tôi cà phê nói chuyện tự nhiên rồi bạn đi nơi khác. Cho dù tôi là người nghiêm túc, với người khác không được vậy đâu. Lộc, chồng Tiến thật hiểu biết và tế nhị làm sao!). Chúng tôi trò chuyện với nhau rất tâm đắc nhưng có khi cũng dễ phật lòng bởi ý tưởng phá cách lục bát của cô. Song tranh luận rồi thôi. Tình anh em vẫn bền vững. Tiến có về Việt Nam mấy lần. Lần nào Tiến cũng gặp tôi để cà phê và trò chuyện. Khi nghe cô kể về thời “không tuổi dậy thì của mình” tôi xúc động và đã thành thơ:
THƠ TRẦN DZẠ LỮ
GỬI MỘT NGƯỜI KHÔNG TUỔI DẬY THÌ
Nghe nói em không tuổi dậy thì
Một thời lửa đạn phải xa quê
Lao lên thành phố sầu ngơ ngác
Cơm áo ăn mòn thân Quý Phi…
Tôi cũng như em - có khác gì
Một thời nhiễu loạn phải ra đi
Vẹt gót giang hồ, thân tứ chiến
Quê nhà hun hút bóng sơn khê!
Đêm đêm nằm mộng người tri kỷ
Chỉ thấy sương khuya trắng mái đầu
Gõ nón cầm canh, đời nhợt nhạt
Mơ hồ ngựa hí chốn thương đau
Thôi cứ xem như người chiến quốc
Trở về quên hết chuyện binh đao
Rót rượu mời em người xuân nữ
Cạn chén tương phùng đến… kiếp sau!
Trần Dzạ Lữ
Thơ Nguyễn Kim Tiến
ĐIỆU BUỒN SANG SÔNG
Em treo trên sợi nhớ
Một tiếng lòng đã cũ
Em treo trên sợi buồn
Một khúc nhạc mến thương
Em tan chảy vào thơ
Một chiều thu sương khói
Em thành con ếch nhỏ
Rớt trong lòng giếng sâu
Em treo ngược cành cây
Một cọng buồn đã uá
Em treo phiá trái - sầu
Một nhánh lá rong rêu
Em thả hồn mênh mông
Một đêm buồn tiễn biệt
Em thành con sáo nhỏ
Hót điệu buồn sang sông
Nguyễn Kim Tiến
23 tháng 9 năm 2013
Hằng Nga Ơi! Anh Làm Cuội Trăm Năm
Tặng chị Yến và anh THT
Từng giọt mồ hôi em miệt mài nhỏ xuống
Khi em tập ngồi
tập đứng
tập đi
Anh muốn hứng, tưới vào trái tim anh khô héo
Từng cái trở mình em quằn quoại rên la
Anh cúi mặt nhìn xuống lòng ngực mình rỉ máu
Từng ngón tay anh mân mê nửa thân em tê dại
Anh lặng người, con dốc đời ơi!
Từng lời cầu xin một phép lạ nào rơi
Trên cánh tay em
Trên ngón chân em
Để khi em ngồi
Để khi em đứng
Để khi em đi

Em không phải nhăn mày nhíu mặt
Em không phải nuốt ngược vào trong
Giọt nước mắt thương em
Giọt nước mắt thương anh
Em ơi em!
Mỗi sáng anh nhìn em
Đang giấc ngủ say
Anh thấy vầng dương
Chiếu thẳng vào trái tim em
Rọi sâu vào trái tim anh
Sưởi ấm đôi ta
Lửa của sự sống
Lửa của niềm tin
Lửa của tình yêu thương
Đang cuồn cuồn chảy
Như nham thạch từ lòng đất nóng
Từng giọt cà phê đen nhỏ xuống
Giọt đắng giọt nồng anh uống cạn dùm em
Đêm anh thức nghe em nằm trăn trở
Đêm anh nằm nghe hơi thở em buông
Đêm thật dài con trăng đà xuống thấp
Hằng Nga ơi! Anh làm Cuội trăm năm
Nguyễn Kim Tiến
11 tháng 9 năm 2013
Không chỉ làm thơ Tiến còn viết truyện ngắn và tạp văn. Viết như một nhu cầu giải tỏa chứ cô không màng danh lợi. Thích bài viết sau đây khi cô bị tai nạn có người bạn viết thư tay an ủi, động viên:
Cảm Ơn Đời
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta có thêm ngày nữa để yêu thương”
Tôi đã từng nghe hai câu thơ này, nghe như một lời cảm tạ ơn đời, cảm tạ ơn trên. Nghe như một mừng rỡ khi mở mắt ra vẫn còn nhìn thấy ánh sáng xuyên qua rèm cửa, nhảy múa cùng với những cơn gió đầu ngày đang vờn trên lá, đang giỡn trên cây. Nghe như những lời thánh ca ngợi khen Thiên chúa đang cứu rỗi đời người. Nghe như những lời Phật dạy, hãy sống ở giây phút hiện tại, đi biết là đi, đứng biết là đứng, thở biết là thở, ăn biết là ăn… Nghe như những tiếng ríu rít của những chú chim đang trao cho nhau những lời chúc mừng vẫn còn thêm ngày nữa để tự do thoả thích bay nhảy trong bầu trời nắng ấm!
Tôi đã từng mượn những dòng chữ này để viết cho bạn bè như một lời nhắn nhủ, một xẻ chia cảm tạ đất trời. Tôi đã từng lập đi lập lại từng chữ từng lời khi bỗng dưng thấy mình may mắn. Nhưng thật sự mới đây, tôi mới thấm thía hơn hai câu thơ này. Tôi để ý mỗi sớm mai hơn, tôi nhìn bình minh ở cuối chân trời một màu đỏ ối trải dài như lụa, rực rỡ sắc màu như những bức tranh với những gam màu nóng bỏng mong đợi một ngày mới rạng ngời hơn. Những hàng cây trơ trụi lá, khẳng khiu, đen đuá không ngờ lại là những chấm phá làm bức tranh yêu kiều lãng đãng hơn. Và tôi nghe như lời thì thầm nhắc nhở, để mỗi sớm mai thức dậy, nắng trong tôi là những nốt nhạc bay bỗng trong không gian nhưng lại chìm lắng trong hồn với những nốt nhạc trầm buồn, man mác, dịu êm.
Và đặc biệt, mới đây tôi nhận được lá thư thật dài, viết tay của bạn PMH gửi lên từ LA, cuối thư bạn cũng mượn hai câu này để nhắn nhủ với tôi. Cả hai đã nhiều năm tháng không liên lạc với nhau, sao bất ngờ lại có cùng những cảm nhận như nhau trong lúc này. Thật là một bất ngờ kỳ diệu!
H viết “Hãy vui lên T. ơi, chỉ là một chút tai nạn để mình thấy quý cuộc đời hơn và thấm thía hơn câu:
Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta có thêm ngày nữa để yêu thương
Đọc xong, nước mắt chạy quanh. Một người bạn đã nhiều năm không gặp, bỗng nhiên chữ nghĩa được viết thành hàng trên hai trang giấy gửi đến tôi vào những ngày tôi hụt hẩng lao đao. Đặc biệt là lá thư đã được viết tay. Ôi! cầm bì thư, mân mê từng góc cạnh, bên trái là tên người gửi, bên phải là con tem đã được đóng dấu và ở giữa là địa chỉ người nhận. Một cảm nhận thật ngọt ngào tràn ngập, êm ái làm mềm trái tim tôi.
Lần này, tôi vui mừng sung sướng mở ra đọc ngay. Bỗng nhiên chiều nay, tôi đã không có cái hững hờ thường ngày khi nhận được thư, những lá thư chỉ toàn là thư quảng cáo và thư đòi nợ. Ôi! những dòng chữ viết tay đã lâu lắm rồi tôi mới có dịp đọc. Đã lâu lắm rồi! Lâu lắm rồi!
Thế là tôi say sưa đọc, đọc đi - đọc lại, ngắm nghía từng con chữ. Có chỗ thẳng hàng; có chỗ lên - chỗ xuống; chỗ cao - chỗ thấp. Đôi khi phải đoán mới hiểu, vậy mà sao nó lại cuốn hút tôi vô cùng. Có phải vì hai trang giấy? Hai trang giấy! Đến những hai trang chằng chịt chữ nghĩa mà bạn đã chịu khó viết trong thời buổi ai cũng gõ trên bàn phím hay vì hai câu thơ trên cho tôi nhận thấy rằng bạn đang cảm nhận được nỗi lòng của tôi! Và hai trang giấy nhoà đi vì những giọt nước mắt!
Đã ba mươi năm xa nhà, đã nhiều năm gõ chữ nghĩa trên bàn phiếm, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn còn cảm giác sung sướng khi nhận được thư viết tay từ ông phát thư hay những lúc tôi trải lòng trên những trang giấy gửi đến người thân. Có lúc tôi nắn nót, có lúc tôi lười biếng thả lỏng ngón tay, chữ còn chữ mất, có lúc chữ nghĩa tôi như những cánh bướm vờn quanh, rồi ngồi đọc đi đọc lại, rồi gấp đôi, gấp ba cẩn thận bỏ vào phong bì, dùng lưỡi thấm ướt dán con tem lên phiá góc phải. Vị mặn mặn của keo thấm vào đầu lưỡi quen quen mang quá khứ về. Một cảm giác thích thú dịu dàng len lõi trong tôi. Cầm bì thư trên tay, đi một vòng ra thùng thư, nhìn trời, nhìn đất, hít thở không khí trong lành trong những ngày đẹp trời, bỏ cái thư vào thùng và tưởng tượng! Tưởng tượng người thân của mình, niềm vui sẽ long lánh trong đôi mắt và nụ cười rạng rỡ trên môi, khi nhận được thơ mình. Không biết là tôi có tưởng tượng quá không? Nhưng có hề gì? Tôi là người vui sướng trước tiên mà!
Khi tôi đang viết những dòng chữ này thì lá thư ấy đang ở trước mặt tôi, bên cạnh tôi. Từng dòng chữ nhắc lại những kỷ niệm một thời yêu dấu, từng dòng chữ an ủi vỗ về, từng dòng chữ động viên chứa đựng một tình bạn tưởng đã quên lãng sau nhiều năm tháng. Bất ngờ và thú vị biết bao khi bạn viết “H mong mọi sự tốt đẹp cho T. cũng như đã tốt đẹp với H. ” Cái mốc xích là ở hàng chữ này đây! Khi ta đã bước qua thác ghềnh và con dốc ấy, ta sẽ cảm thông hơn, sẽ biết nỗi lo âu và sợ hãi như thế nào. Ta sẽ nhìn thấy đôi mắt buồn và nghe từng tiếng nấc lặng câm dù ta ở cách xa đến hàng ngàn dặm. Một lá thư đã đến đúng lúc làm ấm trái tim tôi. Và tôi luôn tin rằng khi chúng ta yêu thương nhau thật lòng, trái tim chúng ta hướng về nhau thì mọi rào cản sẽ lùi xa. Hãy tin thế nhé!
Có lần tôi đọc được một đoạn văn, tác giả ví hành trình cuộc đời của mỗi chúng ta như hành trình của con tàu ghé lại nhiều ga. Có kẻ lên, có kẻ xuống, có kẻ ngồi cùng toa mà không gần kề, có kẻ ngồi gần kề, sát bên, rồi đến ga tới họ lại xuống, có kẻ cùng đi với ta đến trạm chót đường tàu, có kẻ lên ở toa khác và…
Tôi thích ví von này, vì lẽ nếu vì một lý do nào đấy, người thân, bạn bè bỏ tôi mà đi, tôi sẽ nhận lấy sự chia xa này thật bình yên không trách người, trách mình mà chỉ muốn cảm ơn là họ đã đến với tôi ở một đoạn đời như con tàu cuộc đời tôi có kẻ lên người xuống. Ngồi gần tôi, sát bên tôi hay cách xa tôi. Nhưng tôi biết cuối cùng rồi tôi cũng có thể chỉ một mình ở trạm chót con tàu cuộc đời, một mình đứng giữa đất trời, ngơ ngác nhìn lui!
Nguyễn Kim Tiến
Sau vụ tai nạn cô em gái xứ Nẫu xuống tinh thần. Vừa đi làm vừa lo gia đình nên Tiến ít viết hơn. Thỉnh thoảng mới có mail và bài viết của cô. Nhưng tôi vẫn tin mọi chuyện sẽ qua đi. Tâm hồn cô an nhiên lại và vẫn dành thời gian cho thơ, tạp văn và truyện ngắn như đã từng.
PHẠM NGỌC DAO, ADMIN CỦA TRANG VĂN NGHỆ NỮ TRUNG HỌC QUY NHƠN
Là một người có trình độ và say mê văn nghệ, Phạm Ngọc Dao làm Admin cho trang Nữ trung học Quy Nhơn quy tụ được nhiều cây bút của ACE Quy Nhơn và những người yêu thơ văn. Do quen Nguyễn Kim Tiến nên Tiến “khều tôi” vào trang này cho vui. Và tôi đã gửi đến 200 bài vừa thơ vừa tạp văn. Có một chỗ để giao lưu như thế cũng thích. Cô admin vừa đẹp vừa thông minh lại rất dịu dàng nên trang văn nghệ ngày một sáng sủa và hấp dẫn hơn. Tuy bận gia đình và công việc của công sở nhưng Dao rất cần mẫn và tỉ mỹ lo cho trang nhà. Thêm vào đó, Nguyễn Kim Tiến cũng là một “trợ thủ” đắc lực. Hai cô ở hai đầu mỗi đất nước vẫn hằng đêm trao đổi với nhau để lên bài làm sao cho ưng ý. Cô admin này cũng đã về Vn mấy lần. Lần nào Dao cũng họp mặt ACE văn nghệ ở SG là cộng tác viên của trang Nữ Trung Học Quy Nhơn. Và tôi cũng đã gặp gỡ người em xứ Nẫu sống ở bên Canada lạnh lẽo ấy bằng xương bằng thịt. Cô vừa đẹp vừa hiền hậu. Là một người mẹ mẫu mực. Một người vợ đảm đang. Điều đặc biệt là Dao luôn giữ mái tóc dài như suối đen tuyền chảy ngang lưng. Đó chính là sự duyên dáng muôn đời của người phụ nữ Việt Nam. Luôn bận rộn vậy nhưng cô vẫn viết như sự nuôi dưỡng tâm hồn. Cho nên bao nhiêu năm rồi nụ cười của cô luôn tươi mới như người không bao giờ có tuổi. Xin giới thiệu bài viết và thơ của Phạm Ngọc Dao:
THƠ PHẠM NGỌC DAO
SAO KHÔNG LÀ
Sao anh không là rừng
Cho chồi em tách vỏ
Sao anh không là núi
Để em mãi hoang sơ
Không là rạ rơm khô
Cho tình tròn nụ nấm
Không mênh mang sợi khói
Cho môi ửng hương trầm
Sao không là dòng sông
Xuôi tóc về bến mộng
Sao không là cánh gió
Ru xuống tình mênh mông
Sao không là bóng trăng
Sao không là vạt nắng
Sao không là cát trắng
Ngã vào lòng trăm năm
Và sao không là anh
Cho lòng thôi mong ngóng.
Phạm Ngọc Dao
MÙA
Mùa thơm như cổ tích
Có đôi chân đi guốc mộc
Bước qua chiếc cầu vồng Về xứ thơ
Mùa xanh như lá mới
Có em ôm tim hồng đợi nắng
Rắc lân tinh lên tấm thảm mặt trời
Nở đóa yêu thương
Mùa trong veo hổ phách
Vầng trăng dậy thì thướt tha
Mong manh lay nhành thiếu nữ
Những bước hoa
Mùa trần gian bao la
Mắc chiếc võng xanh
Giữa vuờn thời gian ngàn ý mộng
Thắp trong hồn những ngọn nến long lanh
Phạm Ngọc Dao
PHẠM NGỌC DAO
GIẾNG XƯA

Tạp bút
Những ngày thơ ấu, tôi sống ở Diêu Trì - một thị trấn nhỏ bên dòng Hà Thanh. Trong ký ức ấu thơ, quê tôi là ngôi nhà từ đường trang nghiêm có những tấm liễn treo hai bên vách bằng gỗ đen mun. Bàn thờ tổ tiên lúc nào cũng hương khói, có hai con hạc bằng đồng đen đứng lặng thinh bên hình ảnh của ông bà phủ sau những mảnh nhiễu điều thẳng thớm. Không khí nhà từ đường yên lặng lắm nên ít khi tôi dám vào đây một mình. Gần gũi hơn, quê nhà gắn liền với Bà Cố tôi - tóc bạc trắng, khuôn mặt hiền từ, giọng nói nhẹ như ru với thật nhiều chuyện cổ tích, thỉnh thoảng Bà tôi chen vào vài câu chuyện ma, cọp thật sống động - cọp Khánh Hòa ma Bình Thuận - hồi đó mỗi lần nghe đến hai địa danh này tôi hồi tưởng chuyện Bà kể mà sợ xanh người - Quê tôi cũng là khu vườn có cái bình phong cũ kỹ phủ đầy rêu bên dưới là cái hồ nhỏ trồng sen nơi tôi thường vớt nước hồ đổ lên những là sen rồi đùa với những hạt nước tròn trĩnh chay lăn tăn trên lá, là lũy tre xanh mát bao quanh và cái giếng xây bằng đá ong ở cuối vườn.
Những ngày hạ nóng, tôi thường xin Ngoại cho tham gia phơi lúa. Sáng sớm khi mặt trời vừa lên, lúa được mang từ những bồ lúa trong nhà đổ đầy ra sân và được ban thành những mảng hình chữ nhật ngăn nắp, gọn ghẽ như những bàn cờ, những hạt lúa óng vàng nằm yên bình chờ nắng lên để đến chiều khi nắng tắt lại được hốt vào nằm lại trong lẫm lúa. Tham gia vài ba chuyến chuyển lúa vào lẫm bằng chiếc gùi nhỏ trên vai là mồ hôi mồ kê nhễ nhại, vui nhất là sau đó chạy ra cái giếng mát rượi cuối vườn, thòng cái gầu làm bằng gáo dừa nhỏ xíu vừa với sức tôi, xách lên một dòng nước mát ruợi, ngụm nước ngọt ngào trên đầu lưỡi, tan dần trong cổ hoà cùng niềm vui tuổi thơ đầy ắp trong lòng.
Vào mùa đông khu vườn nhà tôi ủ rũ trong những cơn mưa dầm. Gió rét mướt lùa qua những tàu lá chuối đẫm ướt, và con nít thì chỉ đi loanh quanh trong nhà, nhìn trời mưa mà mong ngày ráo tạnh. Có năm nước lụt dâng cao, tôi nhớ mình ngồi trên tấm phản kê thật cao trong nhà, bên cạnh là một lò than hồng - có phủ một lớp tro bên trên - để sưởi ấm. Thuở nhỏ tôi bi dị ứng, cứ đến mùa đông ướt dầm lạnh lẽo là tôi nổi "mề đai" đầy mình, đó là lý do vào mùa lụt cái lò than cứ kè kè bên tôi. Nhưng mà lo lắng chuyện dị ứng, khó thở làm chi, ngược lại tôi ngồi bó gối nhìn nước lụt lo lắng cho cái giếng ngập nước đục trong vườn, lo cho mấy con gà con mới nở không có hột tấm để ăn, gà mẹ không kịp ủ ấm sẽ bị chết cóng, lo cho cái hồ sen với những lá sen xanh mượt chắc đã ngập trong bùn...
Sau khi nước rút là những ngày chờ đợi đến thắt trái tim con, chờ đến khi khu vườn khô ráo để được bay nhảy bày lại trò chơi, rồi kiên nhẫn chờ cái giếng nước hiền hoà trong trẻo lại. Khi lên năm, ba mẹ tôi đưa tôi xuống Quy Nhơn đi học, tôi xa quê, xa khu vườn lắm trò chơi có cái giếng mát thân yêu. Năm tháng ở Quy Nhơn tôi thường nôn nao mong chờ những dịp cúng giỗ Ông Bà để được theo về Diêu Trì. Mười cây số giữa Quy Nhơn và Diêu Trì lúc ấy đối với tôi sao mà vời vợi. Ngồi trên xe lam kiên nhẫn đợi đến ngã ba Phú Tài là lòng vỡ oà, cuống quít niềm vui. Việc đầu tiên là cầm bó nhang theo Ngoại đi dọc theo những con đường đất nhỏ đến thăm mộ ông bà, rồi háo hức tìm lai bạn bè chơi thuở trước để cùng vùng vẫy, nô đùa trong dòng Hà Thanh mát rượi và không quên thăm cái giếng trong vắt ở cuối vườn. Thả vội chiếc gầu rộn rã khuấy động để được nghe như tiếng nước xôn xao cười đón tôi về, rồi nghiêng đầu vào lòng giếng hét lên lời chào để âm vang xao động hình bóng của chính mình sóng sánh mừng vui trong mắt giếng êm đềm sâu thẳm.
Một ngày mùa xuân, theo chiếc xe lam đầu ngày về thăm quê, bàng hoàng nhìn khu vườn thân yêu úa vàng, cháy xém. Những cây ăn trái trong vườn đứng tiêu đìều xác xơ. Cả rặng tre chung quanh vườn thường ngày tươi xanh mạnh mẽ đến chừng ấy, gìờ đây cũng bơ phờ, trụi lá. Mặt đất hừng hực nóng trong mùi xăng dầu nồng nặc. Một ống dẫn dầu đặt dọc theo quốc lộ 19 chạy ngang trước nhà bị ai đó tháo van lấy dầu rồi không khóa kín lại được như cũ, dầu rỉ rả chảy ngày này sang ngày khác, âm thầm thấm vào lòng đất hủy hoại những mầm cây, mạch sống trên đường đi. Khu vườn thân yêu giờ hoang tàn, cỏ cây đứng lặng héo úa, vắng hẳn tiếng côn trùng thường ngày rả rích! Dầu luân lưu trong lòng đất theo mạch nước ngầm đổ vào giếng, dòng nước ngọt ngào trong vắt giờ đây ố vàng, trong mắt giếng dầu đóng váng đục ngầu lặng lờ đến tang thương! Tôi đau xót nhìn mảnh vườn thân yêu bi hủy diệt mà không biết phải làm gì. Không biết bao nhiêu lần thả gầu vào lòng giếng vớt hoài vớt mãi những cáu dầu loang trên mặt giếng để lại thấy một vết dầu khác lập tức tràn đến như một dòng cuồng lưu âm thầm, chết chóc!
Suốt một thời gian dài tôi thẫn thờ thương tiếc cái giếng thân yêu và cây cỏ chung quanh. May sao qua vài mùa mưa nắng, mảnh đất hiền hòa trở lại, khu vườn lại trổ lá xanh tươi và giếng nước cuối vườn lại ngọt ngào, trong thăm thẳm.
Năm tháng trôi qua, biết bao lần tôi theo Ngoại ngồi xe lam về Diêu Trì thăm giếng mang theo niềm vui háo hức gặp lại, giếng với tôi cơ hồ gắn bó như hai người bạn thiết - hai người bạn trong yên lặng - Giếng nhìn mái tóc bum bê của tôi dài dần, dài dần. Giếng lắng nghe tiếng hét chào trẻ con ngày xưa trở thành tiếng thầm thì thiếu nữ, giếng hiền hòa nghe tôi chuyện vãn, giếng kiên nhẫn, thinh lặng sẻ chia những vui buồn của tuổi mới lớn. Cơ hồ giếng như êm đềm trìu mến nhìn tôi mỗi khi gặp lại và trong mắt giếng tôi nhìn thấy bầu trời trong xanh vời vời, khi đêm về là những vì sao sáng ngời, tráng lệ thoang thoảng hương đêm lẫn trong hương nước ngọt ngào bát ngát.
Rồi vụt xa ngút ngàn, tôi lưu lạc. Dòng đời ngược xuôi, đã thật lâu rồi tôi không về thăm quê, thăm giếng nước thân yêu cuối vườn. Cô bé con ngày xưa giờ tóc đã phai mầu, mảnh vườn cũ đã đổi thay, giếng xưa đã không còn nhưng trong tận cùng thương nhớ, sao tôi vẫn ray rức nghĩ rằng ở nơi quê nhà xa xăm đó giếng vẫn mõi mòn đợi mong
Phạm Ngọc Dao
Hình 1: Trương văn Dân
Hình 2: Nguyễn Kim Tiến 
(mặc áo đen) và Phạm Ngọc Dao
PHẦN 15 - Ở QUY NHƠN
NGUYỄN DIỆU TÂM, NGƯỜI CON GÁI TÀI HOA, GỐC HUẾ, HỌC NỮ TRUNG HỌC QUY NHƠN. HỌC ĐẠI HỌC VÀ SINH SỐNG Ở SÀIGÒN
Nhắc đến Nguyễn Kim Tiến, Phạm Ngọc Dao mà không nhắc nhớ Nguyễn Diệu Tâm là một thiếu sót trong hồi ức này của tôi trên dọc đường văn nghệ. Quen biết cô em gái có chiếc răng khễnh khi tôi sinh hoạt ở trang Sinh Hoạt Nữ Trung Học Quy Nhơn cũng đã hơn 10 năm. Rất tình thân vậy mà cũng có lúc như mặt trăng, mặt trời cách trở. Nhưng thời gian và không gian không thể cắt chia tình bạn. Gốc Huế, Tâm vào học trường nữ trung học Quy Nhơn. Những năm tháng này cô đã manh nha tài hoa và càng lúc càng lộ rõ qua thơ, văn, họa và những bài viết thâm trầm sâu sắc trên các trang wed. Đọc và quý cái chân tình thiết tha văn nghệ cũng như sự cẩn trọng trong văn chương của cô. Ngoài đời, sau khi rời Quy Nhơn cô vào SG sinh sống và là một giám đốc trẻ, năng động của một công ty sơn mài ở Bình Dương. Cô tổ chức nhiều sự kiện và giới thiệu nghề sơn mài truyền thống trong nước và ra nước ngoài. Luôn bận rộn thế mà cô vẫn dành thời gian viết lách và gặp gỡ ACE văn nghệ. Tròm trèm 10 lần anh em chúng tôi gặp gỡ. Khi Nguyễn Kim Tiến từ Mỹ về. Lúc Phạm Ngọc Dao ở Canada sang. Làm văn nghệ mà thiếu chất lãng mạn và lửa trái tim thì khó mà lung linh cảm xúc... Có đôi lần Tâm, N. TV và tôi hẹn gặp ở cà phê Đông Hồ. Khung cảnh nơi đây thoáng mát càng khiến cà phê thêm ngon. Mấy anh em ngoài chuyện “tám” tình hình sinh hoạt văn nghệ còn bỏ ra hằng giờ để chỉ ngắm những chú sóc nâu chạy nhảy trên các cành cây cao dưới ánh nắng ban mai chan hòa. Sự lãng mạn của những người viết lách là thế. Chỉ cần một phút giây xuất thần là tâm cảnh và tâm linh con người được phơi bày không cần giấu giếm. Có lúc tắc tị hàng tháng trời không bẻ ra nửa chữ như tâm trạng của thi sĩ Hồ Dzếnh: ”Phút linh cầu mãi không về/ Phân vân giấy trắng chưa nề mực đen” của thời tiền chiến. Còn bây giờ nếu xơ cứng cảm xúc thì gõ vào bàn phím như gõ vào hư không và computer lặng lẽ căm căm như kẻ bị phụ tình… Thân tình thế mà tôi chẳng bao giờ hé môi hỏi về đời tư của Tâm vì tôn trọng bạn bè dù có lúc thấy cô chơi vơi một mình.  Đời người có ai tránh khỏi ưu tư, xót xa về một kỷ niệm, một vết lăn trầm nào đó được che đậy trong một góc khuất của tâm hồn, phải không Tâm? Song tôi tin vào bản lĩnh và thi ca cứu rỗi con người nên chắc chắn Nguyễn Diệu Tâm vẫn ung dung tiếp tục cuộc hành trình đi tìm CÁI ĐẸP VĨNH CỮU của sáng tạo… Tôi luôn đọc bài viết và đồng cảm cùng cô em gái với sự sẻ chia chân tình:
NGUYỄN DIỆU TÂM
TIỂU THƯ

Đoản Văn
Buổi sáng cuối tuần, còn đang ngái ngủ, tôi nhận được tin nhắn của Rod, một trong những người khách hàng lâu năm: "Tôi vừa đến Việt Nam. Đây là số di động mới của tôi. Hãy liên lạc với tôi qua số này.  Rất mong được gặp cô lúc 10 g sáng ở Highland Coffee, phía sau Opera House".
Vẫn như bao nhiêu lần trước mỗi khi Rod qua Việt Nam, thường là vài lần hoặc ít nhất cũng một lần mỗi năm, lần nào qua đến thành phố ông ta cũng liên lạc với tôi ngay lúc vừa đến nơi và hẹn đi ăn trưa. Là một khách hàng từ Canada lâu năm nhất của tôi, quen biết nhau đã lâu, làm ăn với nhau cũng đã lâu, nhưng lạ một điều là tôi cảm thấy mình luôn cảnh giác với ông ta. Khác rất nhiều với những khách hàng khác, Rod luôn có những thái độ đối xử bất nhất với những người có quan hệ với ông ta trong công việc, khi thì thân thiện, tốt bụng hòa nhã rộng rãi và không kém phần từ bi, khi thì lạnh lùng hiểm ác, keo kiệt bủn xỉn. Nhiều lần thấy ông mặc cả tiền xe với người tài xế taxi, hoặc buộc nhà hàng phải trả lại tiền thừa chưa đến 700 đồng, tôi cảm thấy xấu hổ. Ông luôn giải thích: Với tôi, mọi chuyện phải rõ ràng. Tôi không muốn bị ai lừa mình, dù chỉ một xu!
Tôi gặp ông khoảng 10 năm trước, lúc ông đến Việt Nam lần đầu tiên tìm nguồn hàng mua bán. Tôi cũng giới thiệu cho ông một số nhà cung cấp, trong đó có Tuân, chủ một nhà in. Ông rất quý Tuân.  Khi nghe tin Tuân mất đột ngột vì tai nạn, ông đã khóc lúc đọc những dòng email tôi gửi báo tin. Lần qua Việt Nam vài tháng sau, ông rủ tôi đi thăm mộ Tuân, cách xa thành phố chừng 30 km. Ông đưa tay phủi những chiếc lá khô rơi trên mộ Tuân, rồi đứng lặng người rất lâu. Trên đường về ông nói với tôi: - Làm ơn tìm cho tôi một người săn sóc mộ Tuân. Tôi sẽ trả tiền để người ấy ngày nào cũng ra đây quét dọn cho mộ Tuân sạch sẽ và chăm sóc những bông hoa.
Ông thuê Hoàng, một người phiên dịch tiếng Anh để giúp ông trong công việc rồi cùng người này đi khắp miền Trung và Bắc tìm nguồn hàng, từ cà phê, trà, gỗ, sắt thép gì cũng làm. Hoàng kể: "Ông ta thật là siêng năng và dẻo dai, với thân hình đồ sộ hàng trăm ký lô thế kia, ông đi rất nhiều, hang cùng ngõ hẹp đều tìm đến, leo lên những ngọn đồi cao miền Bắc thoăn thoắt để mua trà, cà phê, tôi còn chạy theo không lại, chỉ sợ ông ấy to béo quá, có thể bị đứt mạch máu thì khổ!"
Tôi đến Highland trễ khoảng nửa tiếng vì trên đường kẹt xe do mưa quá lớn. Rod ngồi bàn phía ngoài, gần hàng rào gỗ sơn màu trắng có những chậu hoa màu đỏ.
Tôi gọi một miếng bánh Tiramisu và một tách trà nóng. Vẫn như bao giờ, Rod nói hơi nhiều về chuyện gia đình, chuyện kinh doanh, chuyện thời sự quốc tế... và tôi chỉ việc ngồi nghe. Quán cà phê càng lúc càng đông khách vì trời lại bắt đầu đổ mưa. Lại một cơn bão về.
- Cô còn nhớ con bé "Tiểu thư" chứ?
Đang im lặng nhìn ra ngoài trời đang mưa, tôi giật mình quay lại.
- Có, tôi nhớ.
- Tôi có hẹn với cô bé trưa nay.
- Sao lần trước tôi nghe ông kể cô bé đã đi Mỹ rồi mà?
- Phải, cô bé ấy được một đôi vợ chồng Mỹ nhận làm con nuôi và bảo lãnh đi cách đây 8 năm.
- Thời gian qua nhanh thật! Vậy bây giờ vì sao "Tiểu thư" lại đang ở Sài Gòn?
- Trước đây, mùa hè nào nó cũng về Việt Nam mà không đi đâu nơi khác dù cha mẹ nuôi sẵn lòng cho nó đi holiday ở nhiều nơi. Khi vừa hoàn tất trung học, nó xin cha mẹ nuôi cho về Việt Nam học tiếp chương trình đại học. Họ đồng ý.
- Thật là lạ! Tại sao cô bé không học đại học bên Mỹ cho có tương lai hơn?
- Vấn đề là cô bé không thể rời xa gia đình.  Nó là một đứa con gái tốt, rất thương yêu gia đình của mình.
Mưa càng lúc càng lớn, vì ngồi ngay ở phía ngoài nên mưa tạt vào phía bàn chúng tôi. Rod bảo tôi dời chỗ vào bên trong, nơi có cửa kín và không ai hút thuốc lá nhưng tôi vẫn thích ngồi bên ngoài.  Những quán cà phê ngay trung tâm thành phố bây giờ thường có khoảng sân cho khách ngồi nhìn ngắm phố phường, người, xe qua lại vui mắt. Tôi nhìn ra đường, bên phải là khách sạn Caravelle, bên trái là khách sạn Park Hyatt, Continental và con đường chạy qua Nhà hát lớn thành phố là đường Catinat thời Pháp thuộc, mang tên đường Tự Do trước năm 1975 và bây giờ là Đồng Khởi. Vào thời kỳ nào thì con đường này cũng là một trong những con đường "vàng" của thành phố.
Vào thời khách du lịch đổ vào Việt Nam từ những năm 80, vì con đường này là một trong những trung tâm của những cửa tiệm, khách sạn, nhà hàng sang trọng nhất nên lúc nào du khách cũng đông. Du khách càng đông thì những dịch vụ mua bán càng nhiều, không chỉ trong tiệm mà còn tràn ngập đường phố. Một trong những dịch vụ mua bán đường phố này là đội ngũ trẻ em bán báo, sách tiếng nước ngoài, bưu thiếp, bán vé số v.v...  cũng đông không kém. Để dễ tiếp cận khách nước ngoài, các em nói tiếng nước ngoài như gió, từ tiếng Anh, Pháp, Nhật, Hoa..., chỉ là những từ học lỏm đâu đó, nói riết rồi thành quen. Nhiều lần đi trên con đường này, tôi gặp những bé gái chừng 9, 10 tuổi, tay ôm cả chồng sách báo. Tôi hay xót lòng nên thường dừng lại mua chút ít gì đó để giúp đỡ. Hỏi về hoàn cảnh thì đa số kể: "Con đi bán hàng nuôi em con!" Hỏi cha mẹ đâu, cháu bảo "Cha mẹ con chết hết rồi!"... Có lúc thì là một bà cụ ngồi bên góc đường với chiếc nón lá rách để ngửa. Cho tiền, hỏi con cái cụ đâu. Bà trả lời: Tui có 3 đứa con trai. Vì con dâu bất nhơn quá không chịu nuôi nên thôi, ra đường kiếm ăn! Có lần một người khách đi cùng tôi nghe tôi kể đã xua tay: Không chắc đó đã là sự thật đâu!
"Tiểu thư" cũng ở trong đội quân trẻ em đường phố đó. Cũng hoàn cảnh tương tự như các em khác. Cha sớm say chiều xỉn, lại còn nghiện ma túy. Mẹ bệnh hoạn quanh năm suốt tháng, phần thiếu ăn nên người xanh xao vàng vọt. "Tiểu thư" là chị lớn của đàn em 3 đứa con trai cũng theo chị mạnh đứa nào bán thứ đó. Cuối ngày về các em nộp tiền cho cha. Cha quăng cho vợ con vài đồng lẻ, còn lại ông trút vào rượu và ma túy. 
Rod gặp "Tiểu thư" trên con đường đó. Còn tôi biết đến cô bé khi Rod viết E-mail nhờ tôi tìm hộ một trường tiểu học nội trú của các ma soeur, và Hoàng thay mặt ông làm người giám hộ cho con bé.  Ông từng nói với tôi: "Đó là một đứa bé thông minh, tôi sẽ giúp đỡ cho nó học hành tử tế. Học chữ và học đàn piano".
Vài tháng sau gặp lại Hoàng, cậu ta nói: "Ông Rod nuôi con bé ấy chỉ uổng công! Nó trốn học hoài. Nó quen cuộc sống tự do ngoài đường phố rồi, là một đứa bé bụi đời, giờ ông ta bắt nó phải nhốt mình trong những bức tường và biến nó thành cô tiểu thư nhà giàu, học hành tử tế, đàn piano, làm sao mà được! Trời, "Tiểu thư đường phố"!
Cái tên "Tiểu thư" bắt đầu được chúng tôi gọi từ đó. Có gì đó thật chua xót khi tôi cũng nghĩ như vậy. Tôi từng nói với Rod: Tôi thật lo là ông sẽ uổng công. Con bé như một cánh chim tự do, nay ông nhốt nó vào lồng son, rồi nó sẽ vỗ cánh bay đi thôi. Còn người cha như thế, chỉ suốt đời làm khổ gia đình. 
Nhưng Rod thì cho là nhà trường quản lý không tốt và Hoàng đã làm vai trò giám hộ không hết lòng. Ông nói với tôi: - Khổ cho Tiểu thư là nếu nó phải đi học như vậy thì ai là người kiếm tiền nuôi lão cha già nghiện ngập và bà mẹ bệnh hoạn cùng đám em nheo nhóc đó! Con bé mới 12 tuổi! Nhưng nếu tôi phải giúp cho gia đình nó để nó yên tâm học hành thì không thể được! Tôi không thể bỏ tiền ra để nuôi một tên nghiện!
Giờ đây tôi xúc động vì câu chuyện này. Tôi thấy ân hận vì mình đã có những lúc thoáng qua nghĩ không tốt về Rod, về suy nghĩ và hành động của "Tiểu thư". Tôi cứ tưởng ngày con bé được cha mẹ nuôi giàu có lãnh qua Mỹ, sẽ trở thành một cô tiểu thư thật sự, sẽ được học hành tử tế, rồi tuổi thơ cơ cực sẽ qua, rồi cô sẽ lập gia đình với một chàng trai nào đó, và cùng lắm cô sẽ về thăm gia đình lúc đã có công ăn việc làm ổn định, có tiền đủ để giúp đỡ gia đình.  Nhưng không, một cô gái 20 tuổi, rời nước Mỹ và cuộc sống giàu sang của một tiểu thư thật sự để trở về nhà chỉ vì cái gia đình tội nghiệp của mình vẫn còn sống trong cảnh lang thang đầu đường xó chợ. Khi thấy cha mình đêm đêm ngủ ở gầm cầu, nay ở chợ Ông Lãnh, mai chợ Cầu Muối, những con đường Sài Gòn ngày nay càng phát triển thì cầu càng nhiều. Còn mẹ cô từng tha đứa em út ra miền Bắc kiếm ăn, 2 đứa em trai nhỏ còn lại thì đi nhặt ve chai, đói khát là chuyện thường ngày. Bên kia bờ đại dương, "Tiểu thư" ứa nước mắt hàng đêm, tâm nguyện của cô bé là sẽ có một ngày về Việt Nam gom gia đình lại thành một. Chỉ sợ nếu để muộn màng thì không bao giờ cô còn có thể gặp lại gia đình mình nữa. Và vì thế, con chim nhỏ tự do lại thêm một lần nữa, bay ra khỏi chiếc lồng son.
Rod nhìn đồng hồ chỉ 12 g trưa. Ông nhấn phím từ chiếc Black Berry nhắn tin. Rồi đưa điện thoại cho tôi đọc những dòng “Tiểu thư” viết trả lời: "Dad, ở chỗ con trời đang mưa lớn". - "Cô bé đang ở đâu"? Tôi hỏi. Rod trả lời: - "Tôi không biết. Nhưng tôi bảo con hãy đi bằng taxi đến đây. Ta sẽ trả tiền xe". Tôi nhìn Rod lúc đó đang chăm chú vào điện thoại nhưng toát lên một vẻ thật trìu mến. Khuôn mặt với bộ râu quai nón rậm rạp lùm xùm và cặp kính tròn trễ xuống mũi trông ông giống như ông già Nô-en. Ông có vẻ hạnh phúc vì chữ DAD. Tôi lại nhớ có lần ông kể cho tôi nghe chuyện đời ông 40 năm về trước: “Lúc đó vợ chồng tôi rất nghèo, tôi phải may nệm ghế sa lông bằng tay. Nhưng chúng tôi rất hạnh phúc. Và rồi hạnh phúc đã không còn khi vợ tôi mất vì bệnh ung thư. Một thời gian dài tôi sống trong đau khổ vì mất mát quá lớn. 20 năm sau tôi gặp Christy. Bà ấy có 2 con gái riêng. Người chồng quá ích kỷ và tàn nhẫn nên bà ly dị. Khi tôi đến với bà ấy, tôi đã xem 2 đứa con gái của bà như con của mình. Tôi không có con. Và tôi thèm được làm cha".
- Bây giờ “Tiểu thư” làm gì?
- Con bé đi học đại học, chuyên ngành Quản trị Kinh doanh tại một trường Đại học Quốc tế ở Sài Gòn.
- Tiền đâu để đóng học phí? Trời đất, đắt lắm ông à! Tôi kêu lên.
- Cha mẹ nuôi cho tiền học. Buổi tối nó đi làm thêm kiếm tiền lo cho gia đình. Nó thuê một căn hộ chung cư nhỏ, gom cha mẹ và các em lại.  Một đứa con gái mới 20 tuổi đầu mà lo cho cả gia đình như vậy thật là một gánh nặng quá sức. Nó là một thiên thần!
Khoảng vài giây sau, Rod ngoắc gọi tính tiền rồi đứng dậy:
- Thôi tôi phải đi đây. Tôi sẽ gặp Tiểu Thư ở bên kia đường.
Tôi cũng đứng dậy: - Cảm ơn ông đã kể cho tôi nghe câu chuyện này. Tôi thật sự rất cảm động!
Mưa nhỏ hạt dần nhưng khi bước ra đường vẫn bị ướt. Tôi mượn ở quán cà phê cây dù để đưa Rod đi qua đường rồi ông đi dọc theo con phố dưới những mái che. Tôi định nói với ông cho tôi gặp cô bé xem bây giờ con bé ra sao, nhưng rồi lại thôi. Cũng hơn 8 năm rồi tôi không gặp từ buổi tiệc bên hồ trong ngôi biệt thự Rod thuê ở khu Thảo Điền, Thủ Đức. Đêm hôm đó nhân dịp mẹ và Christy, vợ ông qua Việt Nam dịp Giáng sinh, Rod đã tổ chức party và mời nhiều bạn bè đến, có cả người nước ngoài và Việt Nam. Ông còn nói với tôi: Có lẽ chưa bao giờ mẹ con nhà "Tiểu thư" được tham dự buổi tiệc như thế này. Tôi muốn họ được biết đến tiệc Giáng sinh ít nhất là một lần trong đời. Lúc đó con bé chừng 12 tuổi, gầy nhom, nhỏ xíu, tôi chỉ còn nhớ mang máng nó có đôi mắt linh hoạt, ngồi cùng người mẹ gầy gò và 3 đứa em trai nhỏ khá quậy phá đêm hôm đó.
Khi quay trở về quán cà phê, trời vẫn còn mưa. Tôi đứng chờ cho mưa tạnh hẳn. Những bông hoa màu đỏ bên hàng rào gỗ sơn trắng trở nên tươi tắn hơn trong mưa. Tôi nghĩ đến cô bé Tiểu Thư, cuộc đời còn dài lắm. Em chỉ mới 20 tuổi. Rồi em sẽ làm gì, sẽ là ai trong ngày mai? Em sẽ tiếp tục sống ở đất nước này để đùm bọc cho gia đình em suốt đời hay khi họ tự ổn định cuộc sống được rồi em sẽ ra đi? Tôi có hỏi Rod câu này nhưng ông cũng lắc đầu: - Tôi không biết rồi cha mẹ con bé có khác hơn không chứ bây giờ họ vẫn sống hoàn toàn dựa vào nó. Nó tạo cho mẹ một tủ nhỏ bán thuốc lá trong khu chung cư nhưng hình như bà ta cũng chẳng làm được gì. Còn người cha, thật vô phương! Tôi cũng không biết phải khuyên nó như thế nào khi đã khuyên nó cách tốt nhất có thể, nhưng con bé vẫn lặng thinh làm theo ý mình. Chỉ mong rồi đây cuộc đời con bé sẽ sáng sủa hơn và gia đình nó hiểu được đứa con gái bé bỏng này đã thương yêu họ và hy sinh như thế nào.
Tôi vẫn chưa gặp lại Tiểu Thư, nhưng tôi đã hình dung ra em, một thiên thần có đôi cánh bé nhỏ.
Ngoài trời, mưa vẫn rơi...
Tháng 10, 2013
NGUYỄN DIỆU TÂM

Tranh của họa sĩ Ou Chujian CN
Đoản Văn là thế. Còn Tâm làm thơ cũng nhiều. Chỉ trích 3 bài tiêu biểu của cô
THƠ NGUYỄN DIỆU TÂM
BẢO TÀNG TÌNH YÊU

(Tặng anh Trần Dzạ Lữ)
Có bao giờ em tin
Rằng anh sẽ xây một bảo tàng?
Anh sẽ chia bảo tàng ra làm nhiều khu vực
Như Picasso, có “thời kỳ xanh”, “thời kỳ hồng”
Anh sẽ có “thời kỳ trắng”, “tím”, "hồng", “nâu”…
Thời kỳ áo trắng, cho em
Là thuở ngây thơ em hồn nhiên nhảy dây, u quạ
Khi trăng còn ngậm sữa
Thời kỳ áo tím, cho em
Là tuổi dậy thì như đóa hoa vừa hé nở trong vườn nắng sớm
Thoảng hương thơm khiến lũ ong bướm rộn ràng
Cho anh thành kẻ dại khờ nhất thế gian
Thời kỳ áo hồng, cho em
Khi chia tay anh rồi bước sang ngang
Và thời kỳ áo nâu, bây giờ
Là một thời để nhớ…
Những kỷ vật anh chưng bày trong bảo tàng
Là lá thư tình hoen mực
Chất chứa tình anh mênh mông,
Là đôi guốc mộc em mang từng gõ trên hè phố
Đóng đinh một đời anh!
Là chiếc nón lá che nghiêng thời đi học
Che đôi mắt biếc, tím cả hồn!
Là chiếc khăn thêu ố màu thời gian
Là chiếc võng em nằm anh ru tình
Là đóa hoa anh hái trộm tặng em thuở ban đầu
Là những giận, hờn, trách móc
Là những chiếc hôn làm lành
Là trái tim anh…
bất tử…
Bảo tàng sẽ luôn mở cửa
Đón khách phương xa
Không chỉ những người yêu cũ có thể lui tới
Nhìn lại kỷ vật xưa
Mà còn có thể cho bạn bè, người quen
Tìm thấy một chút gì của ngày cũ
Và cho những người trẻ tuổi đang yêu nhau
Biết được tình yêu của anh dành cho em
… như thế đó!
Và anh sẽ là
Người quản thủ bảo tàng tình yêu
Siêng năng quét dọn mỗi ngày
Mở cửa sổ cho nắng trời vào buổi sáng
Cho trăng sao ghé vào ban đêm
Thắp thêm những ngọn nến vàng nhung nhớ
Đợi chờ em trở lại...
Những kỷ niệm đẹp và cũng thật vui. Bài thơ này được nhạc sĩ Ngô Tín phổ nhạc và đài truyền hình VTV3 có quay một video rất dễ thương: https://www.youtube.com/watch?v=zdLkkhR-tLs#t=27
Đây là bài thơ mà Nguyễn Diệu Tâm viết tặng tôi khi mang ý tưởng muốn xây dựng một Bảo Tàng Tình Yêu cho TDL ở trang Nữ Trung Học Quy Nhơn. Một kỷ niệm thật đáng nhớ.
Ngô Tín nhắc tôi gọi cho anh Trần Dzạ Lữ, cái "nhân" của nhóm Bảo tàng Tình yêu vì bài thơ này tôi viết tặng nhà thơ tình có nhiều kỷ vật tình yêu nhất trong trang nhà Nữ trung học - nhiều đến nỗi chỉ xây bảo tàng mới... đủ chứa.
Những kỷ vật anh chưng bày trong bảo tàng
Là lá thư tình hoen mực
Chất chứa tình anh mênh mông,
Là đôi guốc mộc em mang từng gõ trên hè phố
Đóng đinh một đời anh!
Là chiếc nón lá che nghiêng thời đi học
Che đôi mắt biếc, tím cả hồn!
Là chiếc khăn thêu ố màu thời gian
Là chiếc võng em nằm anh ru tình
Là đóa hoa anh hái trộm tặng em thuở ban đầu
Là những giận, hờn, trách móc
Là những chiếc hôn làm lành
Là trái tim anh...

bất tử... (NDT)
Tôi trích một đoạn trong bài viết của Nguyễn Diệu Tâm.
Và những bài thơ Tâm viết giàu cảm xúc và đầy hình tượng:
NGUYỄN DIỆU TÂM
HOA ĐÀO NĂM CŨ

Năm xưa anh tặng em,
Một nhành đào tươi thắm.
Em trồng trong vườn bên
Cửa sổ phía em nằm.
Anh bảo: em nhớ chăm,
Cây trồng cần có nước.
Nước con gái rửa mặt,
Tưới cây sẽ tốt tươi.
Mùa xuân khi hoa nở,
Là lúc anh sẽ về.
Bâng khuâng lòng em hỏi,
Mấy xuân, sẽ chờ nhau?
Năm tháng trôi qua mau,
Cây đào nay đã lớn,
Bao nhiêu xuân đã về,
Mà người chưa trở lại?
Cô gái ngày đôi mươi,
Nay tóc đã bạc mầu.
Nhành hoa đào năm cũ,
Vẫn chờ người thuở xưa...
NDT (Viết cho một người đã ra đi mãi mãi)
NGUYỄN DIỆU TÂM
ÁO BAY THEO GIÓ MẤT RỒI

"Yêu nhau cởi áo cho nhau,
Về nhà mẹ hỏi. . .
Qua cầu gió bay"! (*)
Áo bay theo gió mất rồi,
Làm sao tìm lại,
Một người đã xa...
Trăng rằm soi bóng hộ ta,
Nhờ con chim biển
Bay qua hỏi người,
Có ai thấy áo tôi bay?
Tim tôi trong chiếc túi đầy
Tình thơ!
Hẹn nhau năm ấy đến giờ,
Golden Gate vẫn đợi chờ...
Người đi.
NDT (San Francisco, 9-2015)
LÂM CẨM ÁI, ÂM THẦM NHƯ SUỐI SÔNG TRÔI CÙNG THƠ
Là cây bút nữ của trang HX và xứ Nẫu mà tôi quý mến sau Tiết Nguyễn. Cô sống và viết rất âm thầm như suối, sông trôi cùng thơ. Gặp nhau vài lần. Tính tôi ít thích tìm hiểu đời tư nên chỉ trao đổi với nhau chút ít tình hình và đời sống ACE văn nghệ Quy Nhơn. Tuy không nói ra nhưng tôi hiểu cô cũng như Nguyễn Tiết ít thích nói về mình. Cho dù khiêm cung đến mấy thơ cô cũng đã thay lời muốn nói:
THƠ LÂM CẨM ÁI
VÔ NGÔN
Như một vết chim di
người qua không lưu dấu
tôi bảo tôi thầm lặng
để nhặt đời đôi khi
đôi khi tôi nhặt được
một khúc buồn đang trôi
lá ngoài sân sám hối
khóc nhớ hoài cố nhân
đôi khi tôi nhặt được
một khúc mưa rã rời
bên đời tôi đứng đợi
bóng một người đi qua
đôi khi tôi nhặt được
trên môi kẻ đan tình
mấy lời như tấm lưới
vương bốn mùa nhân sinh
Như giọt sương trên cỏ
hơ hãi câu ru tình
mộng phù vân chín đỏ
tiếng thở dài linh đinh
giọt sương rơi trong đêm
làm sao mà lóng lánh
thôi cứ nằm chỗ lạnh
cuối địa đàng vắng tanh
hồ tịnh tâm chan rãi
giọt sương tan vô thường
trong niềm đau rơm rạ
có trông chờ kiếp mai?!
nếu mộng về hồi sinh
nằm trong lòng sương khói
có bao điều muốn nói
xin hãy là vô ngôn.
LÂM CẨM ÁI
RONG CHƠI
Đôi khi ta thấy mình
Như một giọt sương tan
Trôi trong chiều vô hạn
Rồi cuốn vào hư không
Đôi khi ta thấy mình
Đang như trong cơn mộng
Trên môi nở nụ hồng
Hôn nhẹ vào đêm thâu
Đôi khi ta thấy mình
Về sông trăng tắm gội
Giữa mênh mông núi đồi
Áo rũ vàng mây trôi
Đôi khi ta thấy mình
Trên cỗ xe chạy quanh
Như cây đàn ngân lạnh
Những tiếng phù du âm
Soi nghiêng trời mặt nước
Soi bóng chẳng thấy hình
Hay ta lại với mình
Cùng về chốn thinh không
Lâm Cẩm Ái

LẮNG NGHE
Lắng nghe
Sỏi đá đang buồn
Rêu xanh chưa phủ
Đã mòn tháng năm
Lắng nghe
Khoảng lặng tình tôi
Ngày chưa nắng ấm
Đông về lạnh câm
Lắng nghe
Chiều xuống thật gần
Từng con phố nhỏ
Chìm dần trong sương
Đừng đi qua phố vội vàng
Hãy chầm chậm bước...
Nghe vang trong hồn
Nghe chiều lộng tiếng hoàng hôn
Nghe mùa đông đến thì thầm trong mưa
Lắng nghe
Sông núi thở dài
Vì ai...
Dâu bể sớm phai nhạc mờ
Buâng khuâng tự hỏi bao giờ
Thuyền trăng cặp bến
Lòng tôi cắm sào
Cho đêm nay đắm
Một thuyền đầy sao!
Lâm Cẩm Ái
NGUYÊN HẠ - LÊ NGUYỄN, NHÂN VẬT ĐỘC ĐÁO CỦA CỰU NỮ SINH TRUNG HỌC QUY NHƠN
Tôi quen Nguyên Hạ Lê Nguyễn từ năm 2010 khi vào trang wed HX. Là nữ sinh trung học Quy Nhơn rồi trở thành cô giáo. Sau năm 75 qua định cư ở Atlanta. Một người nghiên túc nhưng không thiếu chất lãng mạn. Tâm trạng cô ở xứ người là nỗi xót xa của một kẻ lưu đày và luôn nhớ về quê hương, nhất là xứ Nẫu-nơi chôn nhau cắt rún của cô. Đọc nhiều truyện ngắn của cô ta có thể thấu cảm nỗi lòng ấy. Và tôi vẫn thích nhất bài viết của cô về thi sĩ Nguyên Sa: "HÃY BIẾN CUỘC ĐỜI THÀNH NHỮNG TỐI TÂN HÔN" tràn trề cảm xúc khi đắm đuối vào thi ca của tác giả: Áo Nàng vàng tôi về yêu hoa cúc/ Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường/ Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu thương/ Anh thêm mức cho vừa màu áo tím (NS). Tiếc là bài viết quá dài nên tôi không thể đưa lên được. Vậy ai thích, xin xem tập thơ truyện của tác giả Nguyên Hạ Lê Nguyễn: BÊN DÒNG SÔNG TUỔI NHỎ. Nhà xuất bản Thanh Niên năm 2010. Thay vào đây là bài Sân Ga Tiễn Biệt.
NGUYÊN HẠ - LÊ NGUYỄN
SÂN GA TIỄN BIỆT

Cái cảm giác đón đưa những người thân về những chuyến đi xa luôn là nỗi nhớ trong lòng mỗi người, khi mỗi lần gợi nhớ cho ta một cảm xúc lâng lâng khi mỗi lần nhắc đến. Cảm xúc luôn dâng tràn trong tôi ngay từ những ngày còn bé dại… Sân ga và những con tàu đến và đi trong dĩ vãng…
Sân ga nơi quê nhà của thành phố nơi tôi lớn lên đã cho tôi bao kỷ niệm của những ngày xưa…
Những ngày tuổi nhỏ được theo mẹ đón đưa những người bà con tận phương xa về thăm nhà vào những ngày giỗ lớn trong họ tộc, hay những đám cưới gả trong họ hàng. Tôi luôn theo chân mẹ tham gia… và cũng từng đỏ hoe đôi mắt khi mọi người nói câu giã biệt…Đứa bé trong tôi ngày ấy cũng biết khóc theo khi thấy cảnh tạ từ...
Những niềm vui hớn hở lúc chờ dưới sân ga khi con tàu vào sân ga, cái cảm giác tươi vui của đứa bé chạy theo mọi người hóng chuyện, cười góp cùng mọi người… liếc mắt nhìn những quà cáp của người về từ xa… và chờ mong một chút quà được phân chia của người mới đến sẻ chia cho đàn trẻ, niềm vui thật bé nhỏ nhưng đượm nỗi hân hoan của một lần đón đưa… hay tiễn biệt. Chút vui sao của những ngày bé dại… Những đón đưa… và tiếng hú của những con tàu luôn gợi nhớ trong tôi về những ngày xa xưa ấy.
Cũng tại sân ga này của những ngày bắt đầu tuổi mới lớn, cùng bạn bè rời thành phố đi ứng thí ở những trường xa nhà… Mẹ tôi cũng đưa tôi ra sân ga, với những bịn rịn và những dặn dò khi đưa tiễn, dù cũng chỉ năm ba ngày.
Cũng chỉ là một lần xa nhà ngắn ngày nhưng sao mắt mẹ và mắt tôi vẫn đượm buồn và khi con tàu bắt đầu hú lên những tiếng còi giục giã…tôi vẫn nhìn thấy mắt mẹ đỏ hoe, mắt tôi đượm buồn cuống quít.
Rồi năm tháng đi qua… sân ga và những con tàu luôn là nỗi nhớ dậy lên trong suốt cuộc đời tôi của những lần trở về thăm nhà… Khi tôi trưởng thành và đi lấy chồng xa… niềm nhớ nhung mong đợi trong tôi lớn dần theo năm tháng.
Vẫn nhớ hoài những lần đưa con về nhà thăm mẹ vào những ngày cuối năm… Sân ga luôn là nỗi háo hức, một sự mong chờ dõi mắt, khi con tàu giảm tốc độ khi tiến vào sân ga… nỗi vui mừng òa vỡ trong tôi, qua mắt nhìn dò kiếm những người thân… cố chen nhau ra khỏi toa tàu …và được ôm mẹ ngọt ngào trong vòng tay ấm…: Mẹ ơi, con đã trở về…. Kia rồi, mẹ tôi, chị tôi, em tôi, và những đứa cháu nhỏ… hình ảnh của tôi ngày xưa… hình ảnh gợi nhớ một thời bé dại… luôn là sự háo hức trong tôi trong những lần trở về thăm mái nhà xưa mà tôi luôn nhớ về trong suốt cuộc đời xuôi ngược, tháng năm trôi trong sự xa cách mỏi mòn nỗi nhớ nhà.
Bây giờ… những lần trở về thăm nhà của tôi không tính bằng đơn vị tháng của mỗi năm mà là từng bao nhiêu năm của từng thập kỷ.
Từ lúc mẹ tôi lên chuyến tàu đêm rời thành phố Quy nhơn vào Saigon tiễn gia đình tôi lên sân bay quốc tế TSN… đông đúc những người đưa tiễn, với quần là áo lượt và hoạt náo những thanh âm, lần ấy tôi đã đi một chuyến thật xa… hết nửa vòng trái đất. Buổi tiễn đưa lớn nhất trong cuộc đời mà tôi còn nhớ mãi… thay đổi cả vận số một đời tôi… Đứa bé nhà quê theo mẹ trên sân ga ngày nào… Thiếu nữ tỉnh lẻ ngày nào dắt díu đám con thơ về thăm mẹ vào những ngày giáp tết…
… Và bây giờ… Một người già vọng nhớ quê xưa, một lữ khách xa nhà… trở lại với quê hương…
Ngày ấy mẹ tôi đáp chuyến tàu nhanh vào Saigon đưa tiễn chúng tôi rời đất nước ra đi, nhưng… lần ấy mẹ tôi lại không ra sân bay đưa tiễn chúng tôi, người chỉ vào với chúng tôi trước một tuần, nấu cho chúng tôi những món ăn ngon mà các con và tôi ưa thích, chuẩn bị vật dụng và vài món cho các con tôi mang theo bằng tất cả tấm lòng của mẹ… Rồi mẹ tôi nấp sau cánh cửa lúc cả nhà tôi lên xe.
Trên sân bay với đông nghịt những người đưa tiễn, nhưng tôi vẫn thấy thiêu thiếu hình bóng thân thương của mẹ.
Tôi dõi tìm lần cuối trước khi bước vào phòng kính mà người ta gọi là “phòng cách ly” … khi đã bước vào đây là tất cả sẽ xa lìa mọi sinh hoạt bên ngoài và xa cách muôn trùng khi phi cơ cất cánh… Giã biệt đất nước, giã từ quê hương, giã từ những người thân và giã từ hình ảnh thân thương của mẹ tôi.
Có lẽ giây phút này mẹ tôi đang ngồi một mình trong căn nhà nhỏ, với những giọt nước mắt nhỏ thầm xuống bàn tay run vì nhớ thương con cháu, khóc thầm trong niềm vui và nỗi buồn xa cách cho một lần biệt ly mà không đưa tiễn….
Những lần tôi trở vể thăm quê nhà không có bóng dáng mẹ tôi đón đưa hay tiễn biệt vì tuổi già và bệnh tật…
Những lần sau nữa của những chuyến về thăm quê… khi mẹ đã không còn, một mất mát lớn nhất trong cuộc đời và tất cả những gì thuộc về người chỉ còn là kỷ niệm.
Niềm vui và nỗi háo hức trong tôi không như xưa với nỗi chờ mong mỏi mắt... khi trở về nhà không còn thấy bóng mẹ… mà chỉ còn thẫn thờ thắp mấy tuần nhang và viếng mẹ với những cánh hoa vô hồn nơi nghĩa trang Ghềnh Ráng.
Sân ga và những con tàu chợt đến chợt đi… như những thay đổi của những lần trở lại, vẫn thoáng buồn và không mang cho tôi những xúc cảm ấm nồng… chỉ là sự bàng hoàng khi con tàu vào bến với những con đường mới mở, những bảng hiệu mới sơn và những bạn bè xưa cũ không còn, và nhất là những người thân yêu nhất của tôi cũng đã lìa xa...
Bao năm qua… Khi bước chân tôi trở về hay ra đi… không còn nhìn thấy hai con mắt đỏ, và những giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống của mắt mẹ thân yêu…
Bây giờ nơi chốn này đã là quê hương thứ hai mà tôi đã nhận… Sân ga ngày xưa được thay thế bằng sân bay lớn rộng, những con đường lái xe vào sân bay muôn trùng và rộng thênh thang, chỉ cần ra khỏi một lane là đi ra một con phố xa lạ không quen… không gần
gũi như sân ga ngày ấy.
Tôi cũng đã từng bao lần tiễn đưa người thân trên sân bay này và bây giờ cũng trở thành quen thuộc như sân ga ngày xưa của quê tôi…
Những lần tiễn đưa ở đây, tôi cố tìm ở những người đến đây đưa tiễn nhau… Chưa mấy khi tôi nhìn thấy những giọt nước mắt khi chia tay, chưa mấy lần tôi nhìn thấy đôi con mắt đỏ…
Những con người khác màu da và chủng tộc có trên sân bay này, họ luôn vội vàng và nhanh nhẹn, những bước chân dài hối hả, những vòng tay ôm mạnh mẽ và những nụ hôn bình yên khi gặp gỡ cũng như lúc chia xa… ở đó tôi không thấy biểu hiện những xúc cảm như của những con người đằm thắm quê tôi, vẫn từng cho nhau những giọt nước mắt khi chia xa…và nỗi hân hoan tột cùng trong niềm vui hội ngộ.
Thời gian này… cứ hai, ba tuần… tôi lại ra sân bay đón anh… rồi mấy ngày sau lại đưa anh ra sân bay trở về nơi anh ở…
Chúng tôi cũng chỉ tiễn nhau như những người dân bản xứ...
Tôi ngừng xe cặp mé hành lang sân bay, xe chậm ngừng rồi anh bước xuống, hôn giã từ rồi vẫy tay nhau… tiễn biệt, hẹn lại một lần sau, không đỏ hoe con mắt ướt, không lau vội chéo khăn vuông… Bánh xe lăn… đưa tôi một mình thả hồn vào những sắp xếp của công việc tiếp nối… sân bay và những lần đón đưa tiễn biệt… chỉ còn lại trong tôi chút nhớ nhung nhẹ nhàng…
Rồi những lần đón bước chân anh trở lại.  thành phố cũ thăm tôi. Tôi không ngừng xe trước sân bay chờ anh… lãng mạn hơn… và để được nhìn thấy mọi người mừng vui khi hội ngộ… Họ trao nhau những nụ hôn, họ ôm nhau thắm thiết…
Tôi lái xe đến sớm, đậu vào một chỗ thật bình yên và an toàn, đếm những bước chân thật thong thả vào lối ra của hành khách xuống máy bay… hòa vào đám đông chờ người thân trở lại….
Tôi lục tìm trong ký ức cái ảo giác của những lần chờ đón của ngày xưa nơi sân ga cũ…
Cảm giác ấy thật khác xưa… Anh đến kia rồi… hòa vào đám người bước vội trên sân bay, luôn với nụ cười rạng rỡ và tròn trịa trên môi anh và cả môi tôi… bó hoa luôn trên tay để tặng tôi… và vòng tay ôm mạnh mẽ...
Tuyệt nhiên không chứa chan giọt lệ hay con mắt ướt dõi buồn khi đưa tiễn…
Sân ga của ngày xưa và sân bay của buổi bây giờ…
Những đón đưa… tiễn biệt… trong cuộc đời… cũng vẫn là những kỷ niệm khó quên
Luôn còn mãi trong tâm hồn tôi… sân ga và những lần tiễn biệt.
NHLN
Atlanta June 10th. 2012
Thơ NGUYÊN HẠ LÊ NGUYỄN
LÁ SẦU
Bàn tay
mười ngón tiêu hao
Bờ môi
mặn đắng nuốt vào nỗi đau
Làm sao
níu kéo đời nhau
Hồn hoang
chín nửa - lá sầu xanh xao…
Bàn chân
mười ngón lao đao
Bướcđi
xiêu đổ lần về cõi mê
Bao giờ
thân xác tìm về
Cõi mê
mục nát - tiêu hao lá sầu…
NHLN
Nguyên Hạ Lê Nguyễn là một người trực tính dù lãng mạn trong thơ ca nhưng ngoài đời cô rất nghiêm túc. Khi biết tôi quen một người mà cô biết rõ lai lịch đã nói với tôi: “Anh nên chấm dứt quan hệ với người ấy vì em biết rõ tính tình. Nếu cần em sẽ về SG cưới vợ cho anh” Qua tìm hiểu tôi biết lời khuyên của cô là chân tình. Và tôi đã cảm ơn. Hai năm sau: 2012 lúc cô về ra mắt người chồng sau, NHLN đã gặp tôi và bạn bè SG. Khi sắp tàn tiệc cô đã vịn vai tôi thì thầm: ”Em thấy anh làm thơ cho nhiều người. Vậy sao chẳng thấy bài nào cho em? Tôi trả lời: ”Tại anh chưa có cảm xúc. Khi nào có anh sẽ viết” Sau đó chia tay để cô về thăm cố hương Quy Nhơn trước khi qua lại Atlanta.
Ba năm sau, tức là 2014. Một buổi chiều mưa nơi căn nhà nhỏ một mình. Đốt điếu thuốc cuối cùng của gói Con Mèo còn bao thuốc và tờ giấy bạc. Phút linh lại về và tôi đã viết lên đó bài thơ: Thơ Tình Viết Trên Bao Thuốc Lá. Dù chỉ là bạn văn nghệ, là anh em chưa có một lần nào yêu thương nhưng bài thơ là một lời cảm ơn ngườ đã quý mến mình. Sau đó tôi có gửi bài thơ cho NHLN qua E-mail. Cô rất cảm động. Thi ca là thế. Chỉ một chút bụi nhỏ cũng hóa nên hòn núi lớn. Và bài thơ đã có mặt trong tập thơ thứ 3 của tôi:Thơ Tình Viết Trên Bao Thuốc Lá xuất bản năm 2014:
THƠ TRẦN DZẠ LỮ
THƠ TÌNH VIẾT TRÊN BAO THUỐC LÁ
Anh viết bài thơ trên bao thuốc lá
Lời muộn mằn khi biết... thương em
Rất nhiều năm cố tình làm khách lạ
Sợ nói ra... hai đứa sẽ buồn!
Thà cứ như là bể là rừng
Để nỗi nhớ liêu xiêu hai đầu cách trở
Có nhiều đêm khi trời trở gió
Anh lặng thầm gọi khẽ tên em...
Khi biết yêu em, anh lại không gần
Bởi cuộc đời đã chia ngăn đôi lứa
Em lớ quớ mang vầng trăng đi mất
Có nghĩa là... em không thuộc về anh!
Anh quẩn quanh với mớ thơ tình
Để tận khuya đấm ngực mình tự hỏi:
- Sao không chờ anh? Sao em quá vội?
Thả nỗi sầu Kim trọng xuống tim anh!
Kiều đã đi với giấc mộng lành
Anh nuốt vội miếng Xuân nơi cố xứ
Thôi em nhỉ! Tình thơ này nghiêng ngửa
Thì sá gì cơm áo kiếp phù sinh...
Trần Dzạ Lữ
Mấy năm rồi tôi không còn liên lạc được với Nguyên Hạ Lê Nguyễn dù có mấy lần Email. Không biết cuộc sống cô thế nào? Người chồng sau tôi đã gặp cũng hiền lành. Biết hạnh phúc cô dài lâu? Nói cho cùng thì người đàn bà Việt Nam lúc nào cũng cam chịu và thiệt thòi… Thời bây giờ họ càng khổ hơn nữa vì vừa đi làm kiếm sống, vừa nội trợ và chu đáo việc nhà. Hạnh phúc thật là mỏng manh giữa cuộc vô thường thế gian. Dù cho thế nào tôi cũng cầu mong người em gái ấy (NHLN) vượt qua được giông bão cuộc đời để thắp nến bình yên, soi gương chính mình cuối chót…
Trần Dzạ Lữ

Hình 1: Nguyễn Diệu Tâm
Hình 2 : Lâm Cẩm Ái
Hình 3 : Nguyên Hạ Lê Nguyễn
PHẦN 16 - Ở QUY NHƠN
CẶP ĐÔI BỬU CHÂU-KIM ĐỨC
Quen với cặp đôi Bửu Châu - Kim Đức tôi thật tình quý mến bởi hai người này sống thật tình, không màu mè… Họ viết bài cũng như tính cách ấy của họ. Điều kiến tôi xúc động là năm 2013, khi vợ tôi mất, hai em đã lăn lội từ Quy Nhơn vào thành phố SG để chia buồn và thắp cho vợ tôi một nén nhang.Chỉ thế mà tôi nhớ mãi dù sống cách xa nhưng tôi cũng luôn nhắc mình là khi có điều kiện về Quy Nhơn, trước nhất là phải tìm thăm cặp đôi này. Tình cảm con người với nhau luôn là điều quý báu và luôn bền vững trước thời gian. Đức và Châu hiện đang điều hành một cơ sở in ấn ở Quy Nhơn. Tôi thật mừng vì hai em đã làm cái công việc mình yêu thích và đam mê. Cuộc đời này không dễ dàng được như thế. Khi vào đời, có lúc con người ta phải chấp nhận làm công việc ngoài ý muốn. Tuy bận rộn công việc nhưng Kim Đức luôn dành thời gian để viết. Tôi thích những bài viết chân tình và sâu sắc của cô cho bạn bè:
KIM ĐỨC
THÙY HẠNH - NGÀY VỀ QUY NHƠN 
Thím Thùy Hạnh về Quy Nhơn giữa tiết trời giao mùa, nhưng khí hậu ngày càng biến đổi nên phố biển vẫn còn hanh hao cái nắng nóng của những ngày cuối hạ. Mới 7h30 sáng nghe điện thoại của Thím, tôi thật bất ngờ, giọng nói nhỏ nhẹ, dịu dàng và rất dễ thương mà mình chưa kịp nhận ra là ai: “Thùy Hạnh đây, thím Lệnh đây, cháu có khỏe không?”. Tôi và Bửu Châu chạy ngay ra quán café Tuấn ở đầu đường Diên Hồng, chủ quán café này là em ruột của Thím.
Chiều hôm ấy, nhóm HX gặp mặt Thím tại quán bánh bèo “Bà Xê” ở khu sinh thái Bàu Sen. Gió chiều nay nhè nhẹ, thỉnh thoảng cơn gió nhẹ vờn tung mái tóc. Chị Quốc Tuyên chụp cho Thím và chúng tôi mấy pô hình quanh hồ để làm kỷ niệm. Chụp hình xong, Thím chọn hướng ngồi nhìn ra phía núi Bà Hỏa. Thím cứ trầm trồ: “Quy nhơn bây giờ đẹp hơn nhiều hả cháu? Hồi kia mình nhìn thấy núi có vẻ như xa lắm, khó mà chạm tới, còn bây giờ núi như gần lại”. Rồi thím cười: ” Núi thì ngàn năm vẫn đứng yên một chỗ, chỉ có mưa gió qua thời gian làm thay đổi dáng hình, nhưng thành phố phát triển và mở rộng nên dãy núi cứ như gần lại, mà sao thím thấy đẹp quá hả cháu? Quy nhơn bây giờ đổi thay nhiều lắm!”. Rồi Thím cứ nhìn hoài ra dãy núi Bà Hỏa, có lẽ trong lòng Thím cũng dâng lên một nỗi nhớ về ký ức xa xăm. Chủ quán mang ra một mâm bánh bèo nóng hổi, chúng tôi vừa ăn vừa nhớ lại hương vị bánh bèo thời thơ ấu, chén bánh bèo ngày ấy vừa dày, vừa to, xoáy sâu ở giữa, đậm chất quê mùa, chân chất của người dân xứ Nẫu và được ăn bằng cái dao tre chứ không phải bằng muổng như bây giờ. Thím nói về Quy nhơn thèm ăn bánh bèo, bánh hỏi, bánh gói…toàn là những chất bột nên thím lên 1,9 kg, nay mai về Sài gòn ăn kiêng trở lại. Chúng tôi nhìn qua nhìn lại, từng chồng chén bánh bèo chất cao ngất ngưởng, những tiếng cười sảng khoái, hồn nhiên… thỉnh thoảng có cơn gió thổi ngược như cùng với chúng tôi đang ngược dòng về vùng trời yêu thương ngày cũ.
Mấy ngày sau Thím rủ chúng tôi đi Tây sơn lên thăm vợ chồng Thỏ Con (Thỏ Con gọi thím bằng mợ). Ngày hôm đó trời chuyển mình, hình như có đợt áp thấp nhiệt đới, nhưng tôi vẫn cảm nhận trời đang chuyển mùa. Vẫn biết Qui nhơn không bao giờ có mùa thu, nhưng cứ đến tháng 7 âm lịch, tôi lại có cái cảm giác mùa thu khe khẽ về. Chiều nay trên chuyến xe đưa Thím, cô Tuyết Đào và nhóm nữ HX chúng tôi (Quốc Tuyên, Thu Thủy, Nguyễn Tiết, Anh Phương và tôi) lên Tây sơn. Nhìn ra bầu trời, những đám mây như sương khói đang trôi bồng bềnh, lơ lửng, mây đẹp quá nên phóng viên Quốc Tuyên bấm máy lia lịa. Màu xanh của bầu trời chưa kịp hòa quyện với màu vàng của ánh nắng chiều thì từng đám mây trắng xóa bỗng từ từ chuyển sang màu xám giăng kín một góc trời. Hôm đó trời nhiều mây và đẹp lắm! ngồi trong xe nhìn qua ô cửa kính, từng đám mây trắng, xám, có đám màu vàng nhạt, lúc chụm lại, lúc tan ra tạo thành những hình thù kỳ lạ, đẹp mắt. Tôi khèo tay chị Thu Thủy:” Chị Thủy nhìn kìa, chị có thấy không, đám mây đằng kia trộn lẫn hai màu xám, trắng, trông giống như thác nước đang chảy qua những bậc thang cấp núi đá, hùng vĩ đến lạ lùng”.
Xe dừng lại trước quán café JinJin khoảng 4h30 chiều, trời bắt đầu sầm lại. Vợ chồng Thỏ Con vui mừng đón khách. Sau bữa tiệc nhẹ bánh hỏi, thịt heo quay, nem chua do nhà cô Tuyết Đào mang lên chiêu đãi, đặc biệt là bánh hỏi Phú Phong, Thỏ con mua ở lò nào mà ngon lắm. Ăn xong, chúng tôi quây quần uống nước, tráng miệng bằng món bánh nếp nhưn mè, đặc sản dân dã của quê hương Tây sơn. Lúc này ngoài trời mưa nặng hạt, anh Trần Viết Dũng mang cây ghi ta ra đệm cho Thu Thủy hát. Tiếng hát Thu Thủy làm cho không khí trở nên lắng đọng. Sau đó chúng tôi ngồi lắng nghe thím “Tình tự mùa xuân”, giọng hát đầy cảm xúc của Thím bàng bạc một góc quán café JinJin, làm cho không gian trở nên trầm lắng, tôi mơ màng thả hồn mình theo tiếng hát của thím:
“Em, lại đây với anh
Ngồi đây với anh
Trong cuộc đời này
Bên đàn chim hót ca
Này em có nghe
Mùa xuân đang mờ toang trong mắt người tình… mênh mang…”
Hồn tôi vẫn còn lãng đãng bởi ca từ và giai điệu trong bản nhạc “Tự tình mùa xuân” của Từ Công Phụng khi Thím đã dứt tiếng hát, chúng tôi vỗ tay, Thím đỡ lấy cây đàn ghi ta ôm sát vào người và mỉm cười hiền hậu. Tôi say sưa ngắm nhìn thím, có lẽ đó là khoảnh khắc mà thím thấy mình thật hạnh phúc, thật bình yên khi được ngồi “tình tự” với bạn bè, với ngưòi thân, với những trái tim biết rung cảm và hình như… thím cũng đang tình tự với chính mình.
Cũng tối hôm đó làm tôi nhớ hoài một câu chuyện tình thật đẹp và rất vui mà Thím kể cho chúng tôi nghe. Thím kể về một người đàn ông 52 tuổi, góa vợ yêu đắm đuối một phụ nữ 65 tuổi, hơn anh một giáp. Mặc dù anh ta được bạn bè và họ hàng giới thiệu cho hai người, một cô gái 30 tuổi chưa từng có chồng và một phụ nữ 45 tuổi. Cả hai người phụ nữ này đều thích anh và rất muốn làm vợ anh, nhưng anh chỉ yêu người phụ nữ 65 tuổi mà tình cờ anh gặp trong một đám giỗ. Tôi mắc cười nhất là Thím kể đến đoạn: ”trong đám giỗ, anh gắp một miếng thịt bỏ vào chén cô ta, cô ta đã đưa vào miệng nhưng rồi lại kín đáo nhả bỏ ra ngoài, anh nhìn cô và hỏi: Cứng hả em?. Anh nói bằng giọng âu yếm, quan tâm nhiều đến cô làm những người họ hàng ngồi trong bàn ăn tỏ ra tức giận anh và ghét cô ta. Một người cô họ sau này kể lại bằng một giọng tức giận: “Tao tức nó quá! lúc đó sao tao muốn rút cái cây củi đang cháy trong bếp bổ vào đầu nó quá”. Thím Thùy Hạnh kể chuyện rất có duyên, giọng nói mềm mại, chậm rãi, kể chuyện mạch lạc, pha một chút dí dỏm, tươi vui. Tôi để ý trong từng câu chuyện Thím kể, bao giờ cũng bộc lộ nhân sinh quan của mình hoặc một thông điệp nào đó mà Thím muốn gởi đến người nghe.
Gần 8 giờ tối, chia tay vợ chồng Thỏ con về lại Quy nhơn, ngồi trên xe chúng tôi nhắc lại câu chuyện Thím vừa kể, bỗng cô Tuyết Đào lên tiếng: “Sao mà tui thấy nôn nao quá chừng, còn tới hai năm nữa ….”. Cả nhóm chúng tôi cười thật to, thật hồn nhiên như quên hết những muộn phiền trong cuộc đời này.
Thím lại hẹn chúng tôi hôm sau gặp nhau tại nhà hàng cổ Anh Nhật Gia Viên lần nữa để tạm biệt. Thím cũng vẫn thích những món ăn dân dã như bánh xèo, bánh bèo, bánh gói… nhưng mọi thứ bây giờ đã khác, chỉ còn là chút hương vị ngày xưa để mà hoài niệm. Tối hôm đó ngồi bên nhau vui lắm! chúng tôi cùng nhặt nhạnh những kỷ niệm đẹp từ trong ký ức để kể cho nhau nghe, hoài niệm về những món ăn và trò chơi gắn chặt với ký ức tuổi thơ, nhớ về một thời hoa mộng với những nhớ nhung, đợi chờ của lứa tuổi hồn nhiên trong sáng, kể cho nhau nghe về một cuộc tình dẫu cho đến bây giờ có người trọn vẹn, cùng nắm tay nhau đi đến cuối đường đời hay có người đã nửa đường tan vỡ, nhắc về những kỷ niệm còn lưu giữ trong ký ức đời mình để rồi tất cả chúng tôi cảm thấy hạnh phúc khi còn được ngồi lại gần bên nhau để chia sẻ, để cười vui như thế này. Thím còn kể thêm câu chuyện về một anh chàng hiền lành, đẹp trai nhưng không làm rung động được trái tim cô gái mà anh rất yêu. Thím nói có nhiều mẫu người đàn ông đẹp, hiền lành nhưng ở họ không có gì để cuốn hút phụ nữ, rồi thím ví dụ như củ khoai lang, ăn thì rất ngon nhưng không ăn được nhiều vì nó cứ ngan ngán làm sao ấy, có lẽ thím muốn nói đến sự diệu kỳ của tình yêu và chữ hai duyên nợ của một kiếp người.
Tiếng cười vang lên rộn rả như gắn kết tình cảm chúng tôi hơn và thím tạm biệt chúng tôi, tạm biệt Quy nhơn thân yêu với đầy ắp kỷ niệm buồn vui để vô lại Sài gòn.
Cám ơn Thím Thùy Hạnh đã cho Kim Đức và bạn bè nhóm HX những ngày thật hạnh phúc, thật vui vẻ.
Yêu thương này mãi mãi Thím nhé, vì:
“Đi hoài chẳng đến thì thôi
Trở về bến cũ ta ngồi xem trăng
Tìm hoài rồi cũng mù tăm
Thà như mây trắng lặng câm muôn đời
Mai xưa hạt bụi bên trời
Về trong vô định gọi lời đồng thanh“
(Thơ Biển tình - Lê Công Dzũng)
Ngoài bài viết này, cô còn nhiều bài nhận định sâu sắc về các tác giả. Đặc biệt tôi yêu thích bài viết của Kim Đức về tác phẩm Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa của nhà văn Trương Văn Dân.
Với sự say mê văn chương vô bờ bến… Tôi hy vọng cặp đôi Kim Đức - Bửu Châu sẽ còn tiếp tục con đường đã chọn bền bỉ và thủy chung.
NGÔ THANH VÂN, CÔ EM GÁI DỄ THƯƠNG
Quen biết em gái Ngô Thanh Vân trên trang web NTHQN. Qua giao tiếp và cmt các bài viết tôi thấy NTV hết sức dễ thương. Học Nữ Trung Học Quy Nhơn rồi về Biên Hòa sinh sống và dạy học. Dù bận rộn với công việc làm vợ, làm mẹ của một gia đình rất hạnh phúc, em vẫn dành thời gian cho kỷ niệm bạn bè và sáng tác. Người em thân cận nhất có lẽ là Nguyễn Diệu Tâm. Tuy sống cách xa nhưng tôi, em và Tâm cũng có vài lần ngồi cà phê với nhau để nói về chuyện đời. Chuyện văn nghệ. Có lần thấy tôi đăng bài thơ rất tâm trạng. Vân đã làm một bài thơ cảm như là sự chia sẻ chân tình của một cô em gái với ông anh làm thơ của mình. Bài thơ của Ngô Thanh Vân đăng trên trang web Nữ Trung Học Quy Nhơn có tên là:
NGÔ THANH VÂN
MAI MỐI

Thương anh cặm cụi vá hoài
Xỏ bao nhiêu chỉ cho dài đường kim
Vá ngày thôi, vá chi đêm
Vá mưa vá nắng còn thêm vá tình?
Thương anh vá mãi đời mình'
Khuya chong đèn, lại vá hình bóng ai
Xóm em có cô thợ may
Giỏi giang chăm chỉ, tính hay thương người
Khách đến chỉ toàn nữ thôi
Mãi lo làm đẹp cho đời, lỡ duyên!
Hay em làm mai cho anh
Nhờ cô vá giúp cho lành... tả tơi?
Ngô Thanh Vân
(Cảm tác bài thơ của Trần Dzạ Lữ)
Và bài thơ khác:
Ngô Thanh Vân
TRỞ LẠI HUẾ
Đâu rồi nón lá ngày xưa
Em về nghiêng giữa phố trưa tan trường
Đâu rồi sợi nhớ sợi thương
Xôn xao gọi nắng bên đường... xôn xao?
Trở lại tìm trong chiêm bao
Đường quen đây, dấu chân nào em xưa?
Ngô Thanh Vân
Thêm một đoản văn:
BÀI THƠ CŨ
Ngày Nhà Giáo Việt Nam năm nay rơi vào chủ nhật nên trường tôi tổ chức lễ trước một ngày. Một buổi sáng đầy hoa cùng những lời chúc của học trò và đồng nghiệp. Ba mươi tuổi nghề, ba mươi lần đón nhận ngày "lễ của thầy cô" (trước năm 1982 là ngày Quốc tế Hiến Chương các nhà giáo). Những bó hoa hồng tươi đỏ trên tay gợi nhớ lại cũng dịp này, khi tôi còn học năm cuối sư phạm và một bài thơ đã cũ đến hơn ba mươi năm.
Ngôi trường sư phạm của tôi nằm bên bờ Sông Hương thơ mộng, cách một đoạn ngắn là cầu Tràng Tiền bắt nhịp qua sông. Nhà tôi trọ học ở đường Bà Triệu, phía trước có vườn hoa trồng những khóm hồng. Nhà vắng người nên khoảng hiên rộng bên những khóm hoa là nơi tôi thường ngồi học bài, mơ mộng, nhớ nhà hay vẩn vơ nghĩ về ai đó...
Hồi ấy, đất nước còn rất khó khăn nên ngày 20/11 khá im ắng so với bây giờ. Không một bạn nào trong lớp biết tôi đã chuẩn bị một món quà tặng thầy hướng dẫn, thầy Đỗ Trinh Huệ. Đó là bài thơ tôi chép nắn nót vào nhật ký nộp cho thầy vài hôm trước, để thầy sẽ đọc được đúng vào ngày này (bắt đầu từ năm học thứ 2 chúng tôi đã "bị" viết nhật ký nộp lại mỗi tuần, như hồi lớp 8 với cô Mỹ Linh, bằng ngoại ngữ chúng tôi đang học). Bài thơ không có tựa, ngót nghét đầy 1 trang giấy:
Đóa hoa trong vườn sáng nay chưa nở kịp
Nhưng đã hé nụ hồng và một chút hương
Tờ lịch trên tường sáng nay ghi ngày 20/11
Ngày của học đường: Quốc tế Hiến chương...
Tôi chợt nhớ mình chỉ còn một năm này nữa
Còn được làm học trò ngước mắt nhìn lên
Để vẫn thấy như những ngày trung học
Những khoảng trời trên tấm bảng đen
Và ở đó từng ngày tôi đã lớn
Có những bàn tay cầm phấn giữ tin yêu
Và ở đó một ngày tôi sẽ đứng
Một chỗ hiền hòa khiêm tốn biết bao nhiêu
Cảm ơn Thầy mang óc tim vun bón
Cho khu vườn vươn rậm nhánh tư duy
Mơ một ngày quê hương vụt lớn
Rực nắng thanh bình trên ngõ rộng tương lai
Tôi muốn mang mùi hương trong tập vở
Gởi tặng thầy giờ lên lớp sáng nay
Như một chút lòng đơn sơ nho nhỏ
Mà trên đường ngại gió sớm cuốn bay
Đóa hoa trong vườn sáng nay chưa nở kịp. Nhưng đã có trong tôi những cảm xúc chân thành.
Kính tặng Thầy
Tôi đã nhận được một lời "phê" đỏ chói bên lề bài thơ: Grand merci!
Mấy chục năm rồi, có thể thầy đã quên đứa học trò cũ nhưng chắc thầy không quên đã nhận một món quà như thế.
Ra trường, tôi được phân công về Đồng Nai. Dù có nhiều điều không thuận lợi, tôi cũng đã trụ được với nghề cho đến ngày... sắp về hưu. Bạn bè tôi cùng vào nam thuở ấy, rất nhiều người đã không còn "gõ đầu trẻ" từ lâu. Thỉnh thoảng ký ức tôi cũng "tua" lại hình ảnh ngôi trường bên bờ sông Hương, khoảng sân có những khóm hồng và một bài thơ rất cũ.
Ngô Thanh Vân
20/11/2011
Cô giáo Ngô Thanh Vân có hai nơi để sống. Để đi về. Đó là SàiGòn và Biên Hòa. Lúc chộn rộn bạn bè thì SG. Lúc an nhiên tự tại thì BH, đúng không?
RẤT HUẾ. MỘT CÁI TÊN RẤT ẤN TƯỢNG
Biết Rất Huế khi vào một trang mạng của NTH.QN. Đọc những cmt của cô cho thơ tôi thật sâu sắc và cảm động vì trước nhất là tình đồng hương. Sau đó là cảm vì hình như cô luôn ở trong lối đi, đường về của hành trình thơ mình. Tôi chỉ biết đó là một người yêu thơ. Là cô giáo ở một vùng xa xôi của thị trấn miền Đông. Viết văn hay, nhất là mô tả và tự sự những tháng năm đã trải nghiệm xuân thì. Cũng biết cô thích phiêu vào Một Khoảng Trời Riêng cho tâm hồn mình bay bổng… lúc gặm nhấm nỗi buồn của chính mình với rừng xanh, núi thẳm… Một thời gian quen biết trên mạng ảo tôi và Rất Huế gặp nhau ở một quán cà phê. Trước đó cô cmt cho tôi là yêu quá bài thơ Răng Rứa.
RĂNG RỨA?
by Trần Dzạ Lữ
O đi thẳng - cò-o-ngón
Không về thăm lại quê xưa
Để tui... cổ dài trông ngóng
Nhớ hoài nhớ mãi chưa bưa?
O thương hay O giả vờ
Cho lòng người ni dậy sóng
Đêm đêm thức trắng làm thơ
Gửi trao một người trong mộng!
Huế miền chừ đang mở rộng
Mà răng chưa rộng tình O?
Đi chi xa lắc rứa nờ
Mười năm tui ngồi lẻ bóng...
O đi thẳng-cò-o-ngón
Tui tát gần hết nước sông
Tui đốt trăm ngàn điếu thuốc
Răng O vẫn lạnh như đồng?
Huế miền chừ đang vào xuân
Răng tui cứ mãi mùa đông?
Bên tê thẳng-cò-o-ngón
Bên ni cứ như trời trồng!
O ơi! O có về không
Tui như con ngựa bất kham
Chạy qua cánh đồng bất tận
Có O là gặp mùa xuân...
Trần Dzạ Lữ
Sau lần gặp đó thì tôi và cô không còn liên lạc nữa vì Sông trôi đời Sông. Suối chảy đời Suối. Khi chia tay Rất Huế nói với tôi: Em chỉ cần một khoảng trời riêng để lâu lâu trồi lên đó hít thở cho an tịnh tâm hồn. Cũng lần gặp gỡ đó tôi đã viết:
Một Khoảng Trời Riêng
Trần Dzạ Lữ
Lần giở trang đời, đôi khi một sát-na nào đó mình lại mặc khải, thị hiện những tình yêu thương vô bờ, những nhớ nhung vô tận và những gửi trao, tận hiến rất tình cờ trong đau đáu đắm say. Long và nàng đã là như thế. E-mail của nàng viết: Không thể giải thích được điều kỳ lạ ni anh, trong trăm ngàn tên người trên một website em lại Enter ngay tên và bài thơ anh viết. Dán mắt vào đọc rồi đăm đắm khôn nguôi về bài thơ. Tên anh thì em đã biết. Nhưng con người thì mịt mùng sương khói biết nơi mô? Em biết làm răng liên lạc với anh đây nì? Em mail cho cô bạn thân nhờ kiếm tìm anh vì cô thường trực trên trang web nọ. Bạn ấy hứa sẽ tìm mail của anh. Em đợi chờ, bồn chồn, thấp thỏm... Mấy ngày sau bạn ấy bảo khó tìm quá. Thế là em cơ hồ thất vọng. Nhưng lại mấy ngày sau nữa bạn gửi tin nhắn là có mail của anh ấy rồi.Thế là em mừng... hết lớn! Nhận mail bạn gửi, em liền thư điện cho anh. Em tìm anh...
Đọc mail của người ở Thị Trấn Miền Đông thật tình Long sửng sốt, bàng hoàng. Ừ, một gã lãng du muộn phiền như Long mà cũng có người tìm sao? Chắc là Định Mệnh đưa đường dẫn lối chi đây! Những E-mail liền kề sau đó nàng nói: Em cần có một khoảng trời riêng... Long cũng vậy. Long cũng cần có một khoảng trời riêng... để hít thở và sống. Sống chứ không thể tồn tại mà không được sống. Nàng kể về thời gian trôi giạt của mình từ Huế vào Quy Nhơn rồi trôi, trôi như lục bình trôi qua một huyện kinh tế mới của Thị Trấn Miền Đông. Năm ấy mới 17 tuổi, tóc dài áo trắng nửa chừng cấp 3 lại phải lưng lửng đi đến huyện X xa xôi. Một câu hỏi thật lớn trước mắt: Như ri thì sẽ ra răng hè.
Đầu tiên là lao động, cuốc cày... Nhưng cuối cùng nàng vẫn níu được thiên đường tuổi thơ khi trở thành cô giáo dạy văn: Đó niềm mơ ước lớn nhất đời em. Để được như thế nàng phải tự vượt lên chính mình giữa bao gian khổ trùng vây. Rồi nàng hỏi Long: Làm răng anh đi xuyên qua được tầng tầng khổ đau như rứa? E-mail Long viết cho nàng: Thì anh cũng như em thôi, phải tự vượt lên chính mình qua lắm bến bờ chông gai tưởng chừng như không thể vượt qua được. Nàng Kiều của cụ Nguyễn Du chỉ 15 năm lưu lạc, còn anh số thời gian lưu lạc đã nhân đôi. Thời gian ấy, có khi mình chính là khách lạ của mình và chẳng bao giờ dám cầm chiếc gương soi... Bây chừ đất khách gặp nhau mình phải tạ ơn Trời em hí!
Những e-mail, tin nhắn đại loại như vậy cứ nối tiếp đi về giữa hai đầu thương nhớ. Long cứ ngỡ sự quen biết dấu ái này có từ trong tiền kiếp đi ra kiếp này và đôi đời đã quấn quýt như loài sam biển, như tình rắn trên non, như nghĩa kình ngư chốn biển khơi nồng nàn say đắm, không một phút giây nào buông rời nhau. Một E-mail nàng đã thú nhận: Anh ơi, trong rất nhiều bài thơ anh gửi tặng, có một câu thôi đã làm xiêu đổ trái tim em... Anh biết câu gì không? Để anh 60 phút trả lời em đó hí! Trong tích tắc Long đã trả lời không do dự: Không bao giờ anh đánh cắp hạnh phúc của em đâu... Nàng ngạc nhiên: Răng mà anh thông minh dữ rứa hè? Em thương đứt ruột vì câu nớ, rất độ lượng, bao dung... Chính điều này khiến em yêu anh nhiều hơn.
Điều kỳ diệu của trái tim như bài thơ anh viết thì không thể giải thích nổi. Nàng lại nói với Long: Em nghe người ta nói đàn ông yêu bằng mắt. Còn anh thì răng? - Yêu bằng tim! - Thiệt không rứa? - Thiệt mà: Suốt đời anh là gã tình si. Đem trái tim tặng cho người nhan sắc... Nàng nói: - Nhưng mà em mô có nhan sắc anh nờ? - Nhưng em có thứ nhan sắc tâm hồn là đủ làm anh nghiêng ngửa... Nàng lại vặn hỏi: - Thiệt không rứa anh? - Anh nhắc
lại một lần nữa em nì: Anh yêu bằng trái tim. - Vậy là em yên tâm. Anh có biết là em đã bơi trong thơ anh để qua biển tình yêu không? - Anh hiểu điều này..
Thời buồi này, người ta quen biết nhau trên mạng chỉ cần 3 ngày là họ khám phá nhau ngay. Vậy mà Long với nàng lại khác. E-mail đến 3 tháng trời mới hẹn hò nhau ở một quán café vùng ngọai ô thành phố. Trước ngày hẹn Long nôn nao, thấp thỏm suốt đêm không tài nào chợp mắt. Long hình dung, mường tượng nàng sẽ như sương khói bay về. Như liêu trai chợt đến với lời dạ, thưa rất đỗi đáng yêu của một người con gái Huế nền nếp, đoan trang...
Điểm hẹn là quán 75.
Mười giờ sáng nàng đến và Long thì đã chờ trước đó ba mươi phút.
- Anh chờ em lâu không hí?
- Cũng vừa ba mươi phút. Răng không đi xe buýt mà lại đi xe ôm em hè?
- Em rất nôn nóng gặp anh nên đi xe ôm cho mau.
- Tội hí!
Long đưa nàng vào quán. Đây là quán café nằm khuất sau con hẽm nhỏ. Nơi lý tưởng cho những cặp tình nhân hẹn hò bởi không khí thật dễ chịu, vắng lặng. Nhạc thì văng vẳng những điệu buồn của Chopin...
Sau những đổi trao cần thiết về nhau là khoảng lặng tưởng như nghe hết nhịp đập của đôi tim rất ân cần, tha thiết...
Bất chợt nàng nói:
- Anh ngâm thơ cho em nghe đi. Bài chi mà anh thì thầm với ai đó lúc nửa khuya tề! Bài thơ buồn quá.
- Ừ anh ngâm đây nì.
Long ngâm cho nàng nghe bài thơ Bài thơ viết lúc nửa đêm.
- Ui chao buồn và rất tâm trạng anh hí. Người yêu cũ đi lấy chồng hả.?
- Không đi lấy chồng mà sang ngang!
- Anh này...
Long nói:
- Anh hôn em hí!
Không đợi nàng trả lời Long đã hôn lên tóc, mắt nàng.
- Khiếp! Răng anh liều rứa?
- Nung nấu tình 3 tháng chỉ được một một nụ hôn mà liều chi hè?
- Ghét!
Buổi sáng rồi cũng chóng vánh qua đi. Buổi hẹn hò cũng lụi tàn rồi. Nhưng những đốm lửa yêu thương vẫn cứ âm ỉ cháy trong vùng sâu thẳm nhất của tâm hồn. Nơi chỗ hai người vừa trang trải tình yêu cho nhau như còn phảng phất mùi thơm của hương hoa dấu ái. Nàng trở lại Thị Trấn Miền Đông với bổn phận và những công việc đời thường của một cô giáo. Còn Long cũng trở về nơi chốn cũ: Công việc làm người đốt thời gian...
Buổi sáng bay đi rồi như những cơn mưa phùn... nhưng ghi đậm dấu son của kỷ niệm đẹp trong đời. Ngày mai, dù cuộc sống có quay cuồng theo chiều hướng nào đi chăng nữa Long và nàng cũng cần có một khỏang trời riêng để hít thở và mơ mộng... thiên đường! Bất chợt nhớ đến một câu của nhạc sĩ tài hoa TCS:... ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau... Cần. Rất cần có nhau phải không người yêu thương?
Trần Dzạ Lữ
(Tháng 4 năm 2011)
Bây giờ ngồi nhớ lại, chính tôi cũng không hiểu tôi sao mà có thể viết được những câu chữ dễ thương như rứa. Nếu bảo tôi viết lại tôi cũng không thế tiếp tục cái khoảnh khắc đẹp nao lòng như thế. Và bây giờ tôi chỉ có thể tìm đọc lại truyện ngắn của nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn - bạn tôi đã qua đời: HÌNH NHƯ LÀ TÌNH YÊU
Dù cuộc sống có ra sao. Đường đời có thế nào tôi cũng luôn cầu mong cho Rất Huế luôn bình an và hạnh phúc.
Trần Dzạ Lữ
PHẦN 17 - Ở SÀIGÒN
Thời gian mấy năm ở SàiGòn trước 75 tôi quen biết và thân tình với một số chủ nhiệm, thư ký tòa soạn các tạp chí văn chương như Văn, Thời Nay, Văn Học, Bách Khoa, Khởi Hành… Người đầu tiên tôi muốn nhắc đến là anh Trần Phong Giao.
TRẦN PHONG GIAO, MỘT DỊCH GIẢ, MỘT THƯ KÝ TÒA SOẠN ĐÁNG NỂ MẶT
Trước tiên mời bạn đọc tìm hiểu tiểu sử của Ông:
Trần Phong Giao sinh tại Nam Định. Năm 1954, ông di cư vào Nam. Năm 1960 đến năm 1963, ông làm thư ký toà soạn báo Tin sách do Trung tâm Văn Bút Việt Nam chủ trương. Thời gian này, ông cũng bắt đầu dịch một số tác phẩm văn chương, triết học của các nhà văn nổi tiếng thế giới, như Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Paul Gallico.
Cuối năm 1963, ông làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn (số đầu tiên là số xuân Giáp Thìn, 1964) tại Sài Gòn do Nguyễn Đình Vượng làm chủ nhiệm.
Năm 1971, ông thôi làm ở tạp chí Văn, lập nhà xuất bản Giao Điểm và xuất bản tạp chí Giao Điểm, nhưng chỉ được ít số thì đình bản. Sau đó, ông có thực hiện một vài giai phẩm khác nữa (trong đó có tờ Chính Văn với nhà văn Nguyễn Mạnh Côn), nhưng không thành công. Cuối cùng ông trở lại công việc dịch sách và làm quản thủ thư viện Đại Học Cửu Long cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bên cạnh các công việc trên, đầu năm 1975, ông còn giữ mục Giải đáp thắc mắc Văn học trên tờ Thời tập của nhà văn Viên Linh.
Sau một thời gian lâm bệnh (ung thư đại tràng), ông mất ngày 13 tháng 4 năm 2005 tại nhà riêng ở quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 73 tuổi. Sau đó, thi hài ông được hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.
Tác phẩm:
Tác phẩm của Trần Phong Giao có:
Sáng tác:
• Ngồi lại bên cầu (tập truyện)
• Nửa đêm thức giấc (tiểu thuyết)
Dịch:
• Lưu đày và quê nhà (L'exil et le royaume) tuyển truyện của Albert Camus.
• Guồng máy (L'engrenage) dịch tác phẩm kịch của Jean-Paul Sartre.
• Sứ mệnh văn nghệ (Discours de Suède), diễn văn đọc tại lễ nhận giải Nobel Văn chương của Albert Camus.
• Sự đã rồi (Les jeux sont faits) của Jean-Paul Sartre. Trần Phong Giao dịch chung với Nguyễn Xuân Hoàng.
• Không một nấm mồ (Morts sans sépulture) của Jean-Paul Sartre.
• Con chim trốn tuyết (Snow goose), truyện của Paul Gallico. Trần Phong Giao dịch chung với Hoàng Ưng.
• Kinh nghiệm đời văn của Erskine Caldwell. Trần Phong Giao dịch chung với Nhã Điển (Nhà xuất bản Văn Hóa, 2009).
• Trần Phong Giao và những người viết trẻ
• Tủ sách của Trần Phong Giao
• Trần Phong Giao, người gác cổng văn học, tạp chí Văn. Bài của nhà văn Du Tử Lê
• Mộ hoài độc ẩm (thơ Trần Phong Giao)
Nhắc đến anh tôi không khỏi bồi hồi xúc động với chữ DUYÊN đến với bns Văn khi anh là thư ký tòa soạn của một tập san văn chương uy tín trước năm 1975 ở SàiGòn. Hồi ấy, ngoài một số người đã thành danh thì những người trẻ chúng tôi có bài được đăng trên Văn là một điều hãnh diện vô cùng dù tôi đã có thơ đăng ở các tạp chí từ 1965 như Thời Nay, Văn Học, Khởi Hành, Bách Khoa… lúc đang học lớp đệ lục trường Nguyễn Tri Phương (Huế). Đầu năm 1967 tôi quyết tâm gửi bài cho Văn. Cả mấy chục bài nằm ở mục bài nhận được. Ấm ức không chịu nổi, tôi đổi bút hiệu Trần Yên Hồ. Thế là bài THƠ NGỒI Ở SƠN CA của tôi được chọn đăng:
Hiên tôi khói động lên rồi/ Ngoài mưa xe chạy trong ngồi co ro/ Mai đi tình ngỡ chưa bù/ Lần tay tính chuyện ở tù thế gian.
Khỏi nói là tôi vui cỡ nào vì đây là bài thơ đầu tiên được đăng ở Văn. Tôi báo với anh Trần Phong Giao: Trần Yên Hồ chính là Trần Dzạ Lữ đấy. Anh nói: Tôi biết. Thơ cậu đã chín… Đây chính là lời động viên, là đòn bẩy để sau đó thơ tôi xuất hiện nhiều trên bns Văn. Đăng thơ hồi ấy không có nhuận bút nhưng thích vì người chủ trương rất trân trọng trong cách nhận bài cũng như khi chọn đăng bài. Là cậu học trò trung học nên tôi muốn mua thêm Văn để tặng bạn bè phải xin cha. Cha tôi đã trố mắt khi thấy bút hiệu của tôi xuất hiện trên tập san văn chương: Ham Học. Ham đọc. Ưa suy nghĩ…Cha tôi đem tạp chí Văn đi khoe với cụ Thượng (chức Thượng Thư) trong làng. Cụ khen là cháu nhỏ mà có tài thế. Từ đó, không cần xin, cha tôi cũng nhắc tôi mua Văn mỗi nửa tháng cho ông đọc.
Và ông thầy dạy văn của tôi phải chào thua thằng học trò khi hai thầy trò cùng gửi bài nhưng Văn chỉ đăng thơ của tôi. Hồi ấy ở Huế nhưng tôi cứ mơ được thấy SG vì ở đó tụ hội nhiều tài hoa văn chương mà tôi ngưỡng mộ: Vũ khắc Khoan, Võ Phiến, Mai Thảo, Trần Dạ Từ, Mai Trung Tĩnh, Tô Thùy Yên, Vũ Hạnh, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Dương Nghiễm Mậu, Hoàng Trúc Ly, Đinh Hùng, Nguyễn Đình Toàn, Viên Linh, Bùi Giáng,  Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Nhật Tiến….Mãi đến năm 1973 khi tôi vào học trường SQ Thủ Đức mới có dịp gặp các bậc đàn anh văn nghệ. Cảm động nhất là anh Trần Phong Giao tiếp tôi rất thân tình như người nhà vậy. Cứ cách 2 tuần tôi lại về nhà anh dưới chân cầu Kiệu để hàn huyên và ngủ lại. Nhà chật nhưng tấm lòng của anh chị thì vô cùng rộng lớn… Có cái gác suốt phía trên dành cho tôi. Chị Giao rất nhân hậu, rất quý anh em bè bạn của chồng. Năm 1971 thôi làm tạp chí Văn, anh Giao làm tờ Giao Điểm. Vẫn không quên tôi khi viết thư tay về Đà Nẵng nhắn tôi gửi bài. Tôi yêu cách đãi ngộ ấy mà sau năm 1975, tôi, anh Giao cũng như một số anh chị em văn nghệ sĩ vấp vào hoàn cảnh khốn khó, vẫn vươn vai mà sống. Tôi buôn bán vất vả ngoài chợ nhưng có gì cũng đem biếu anh chị. Và anh chị cũng chia sẻ với tôi những gì mình có. Cuộc sống mỗi ngày một khó khăn hơn nên sau đó anh chuyển nhà đi và tôi không còn gặp được anh chị nữa từ năm 2000. Thỉnh thoảng anh có thư cho tôi biết tin nhưng giấu địa chỉ. Tôi nhận được một thư sau cùng khi anh lâm bệnh trong đó có bài thơ: MỘ HOÀI ĐỘC ẨM. Tôi đọc mà xót xa cho phận người. Nhất là những người cầm viết chân chính luôn là vì sao cô độc. Khi trở về cát bụi vẫn một mình. Không còn được chung đôi với người bạn đời chung thủy. Vẫn độc ẩm:
THƠ TRẦN PHONG GIAO
MỘ HOÀI ĐỘC ẨM
Ly này ta rót mời ta
Chưa uống đã thấy xót xa phận mình
Mới ngày nào tóc còn xanh
Mà nay đã bạc, đã giềnh, đã thưa
Rót thêm ly nữa, mời ai?
Chìa tay mời bạn cõi ngoài vân du
Cỏ xanh đất mát ngàn thu
Trong hơi gió thoảng ai ru hồn người
Chiều cuối năm lá vàng rơi
Ly này ta rót mời người áo xanh
Lòng mưa ngâu, nắng hong hanh
Vàng rêu mái lá, buồn tênh mây trời
Ly này em của ta ơi!
Gươm quăng hố thẳm ta mời ta sao?
Ngựa hồng tung vó trời cao
Áo sồng xưa đã giũ vào hư không…
Lưng trời giọt đại hồng chung
Quyện theo tiếng mõ mịt mùng quạnh hiu
Vô ngôn chiều ngẩn ngơ chiều
Vật vờ trôi giạt con diều đứt dây
Ly này uống nữa thì say
Trốn tà huân cánh én bay về nhà
Một mình ta uống cùng ta
Mộ hoài độc ẩm xót xa phận mình
Mới ngày nào tóc con xanh.
Trần Phong Giao
(Bài thơ anh gửi tôi được đánh máy cẩn thận, rõ từng nét từng chữ)
Lời thơ là một báo hiệu trước Hoàng Hạc Bay Xa. Anh mất, tôi không được tin báo để tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ ngàn thu. Hôm nay, viết những dòng này như nén nhang tâm tưởng đến anh và một lời chia buồn sâu sắc đến chị Giao và mấy cháu. Một thư ký tòa soạn rất công tâm và giỏi giang. Một dịch giả tài hoa. Một thi sĩ ký thác câu chữ và tim óc của mình hết cả ruột gan. Một trải lòng tuyệt đẹp vào cõi thi ca. Dù nơi đâu hình bóng anh vẫn không bao giờ phai nhòa trong tôi.
Trần Dzạ Lữ

Hình 1: Trần Phong Giao, 
thư ký tòa soạn VĂN
Hình 2: Bài thơ Cuộc Về của Trần Dzạ Lữ đăng trong 
Văn số 172 năm 1971 chủ đề: Những Cây Bút Trẻ
Hình 3: Thư tay của 
Trần Phong Giao gửi Trần Dzạ Lữ
PHẦN 18 - Ở SÀIGÒN
LÊ NGỘ CHÂU. CHỦ NHIỆM TẠP CHÍ BÁCH KHOA
Trước khi nói về sự gặp gỡ và giao tình của tôi và ông Lê Ngộ Châu tôi trích lại bài viết của anh Đặng Tiến, nhà phê bình văn học:
Người điều hành tạp chí Bách Khoa
Nhà báo Lê Ngộ Châu, người điều hành tạp chí Bách Khoa vừa qua đời ngày 24.9 tại Thành phố HCM. Nhân dịp này, Đặng Tiến nhắc lại vai trò của ông và của tờ tạp chí có nhiều đóng góp lớn lao cho đời sống văn hóa miền Nam trước 1975
Lê Ngộ Châu, 160 Phan đình Phùng
Đặng Tiến
Nhà báo Lê Ngộ Châu, điều hành tạp chí Bách Khoa tại Sài Gòn trước 1975, đã qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 9 năm 2006 vừa qua, thọ 83 tuổi.
Ít người biết đến tên Lê Ngộ Châu vì ông không viết sách, viết báo, chỉ âm thần phụ trách tòa soạn tạp chí Bách Khoa trong non hai mươi năm. Nhưng đa số những người làm văn học tại Miền Nam trước đây đều biết và quý mến, thậm chí chịu ơn ông dẫn dắt. Muốn hiểu tình cảm sâu đậm đó, phải biết Bách Khoa không những là tạp chí có đời sống lâu dài nhất (1957-1975), mà còn có những đóng góp lớn lao cho đời sống văn hóa Miền Nam thời đó.
Nhà văn Võ Phiến là người hợp tác chặt chẽ với Bách Khoa suốt thời gian này, đã nhận định chính xác:
«Bảo tờ Bách Khoa thành công là không phải chỉ nghĩ đến cái tuổi thọ của nó mà thôi. Tuổi thọ dắt theo một số ưu điểm khác. Người ta nhận thấy Bách Khoa qui tụ được đông đảo cây bút thuộc nhiều thế hệ kế tiếp nhau; nó phản ảnh các chuyển biến của văn học qua nhiều giai đoạn; nó lưu lại một khối lượng bài vở lớn lao và giá trị, một kho tài liệu cho việc tìm hiểu cuộc sống của Miền Nam trên nhiều phương diện : kinh tế, văn hóa, chính trị v.v… Trên Bách Khoa không phải chỉ có thơ văn, mà có cả những khảo luận về văn học, sử học, ngữ học, triết học, tôn giáo, hội họa, âm nhạc…; như thế không những trên Bách Khoa có những tìm tòi về nguồn gốc dân tộc, về các vấn đề của văn học cổ điển nước nhà chẳng hạn, mà còn liên tiếp có những giới thiệu các trào lưu tư tưởng Âu Tây mới nhất lúc bấy giờ: tiểu thuyết mới, hiện tượng học, cơ cấu luận v.v…
Cũng như tờ Văn, Bách Khoa là một tạp chí dung hòa rộng rãi mọi khuynh hướng.
Không có chủ trương «văn nghệ cách mạng» cũng không chủ trương «vượt thời gian», nó đăng bài của các lão thi sĩ tiền bối Đông Hồ, Quách Tấn, Vũ Hoàng Chương, lẫn truyện của Thanh Tâm Tuyền, Trùng Dương… Về mặt chính trị, sức dung hòa của nó khiến có lần Nguyên Sa nói đùa: Bách Khoa là một vùng xôi đậu. Nó đón nhận cả Nguyễn văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Vũ Hạnh, lẫn Võ Phiến, Vũ Bảo…» (Văn học Miền Nam, Tổng Quan, 2000, tr. 239).
Nguyên Sa dùng chữ «xôi đậu» không nhất thiết là nói đùa. Ở một nơi khác, ông có viết «Bách Khoa với đời sống lâu dài không bị xếp vào hàng ngũ báo nhà nước» (Bách Khoa, số kỷ niệm 14 năm, 15-1-1971). Lời này bổ sung cho lời kia, và nói lên một sự thật kỳ lạ: Bách Khoa, nguyên ủy là của hội Văn Hóa Bình Dân, một hội đoàn trực thuộc văn phòng chính trị của Ngô Đình Nhu, do Huỳnh văn Lang chủ trì; hội này cai quản những trường Bách Khoa Bình Dân, do đó có tên báo Bách Khoa, còn gọi là Bách Khoa Bình Dân.
Huỳnh văn Lang là bí thư Liên Kỳ Nam Bắc Việt Nam của đảng Cần Lao mà Ngô Đình Nhu làm tổng bí thư. Năm đầu, 1957, ông Lang điều khiển tờ báo, viết bài về kinh tế khi Phạm ngọc Thảo viết về quân sự, chính trị; 1958 ông Lang đi tu nghiệp ở Mỹ, giao Bách Khoa cho Lê Ngộ Châu điều hành ; năm 1963 ông Lang bị bắt vì tội kinh tài cho chế độ Diệm, thì Lê Ngộ Châu tiếp tục nhiệm vụ, anh em thường gọi là Lê Châu. Nhưng báo vẫn đứng tên Huỳnh văn Lang cho đến tháng 2-1965, báo phải đổi tư cách pháp nhân, lấy tên Bách Khoa Thời Đại, do Lê Ngộ Châu đứng tên chủ nhiệm, và đến tháng 1-1970, lấy lại tên Bách Khoa.
Với gốc gác như vậy mà Bách Khoa được xem như là báo «xôi đậu», không bị xếp vào hàng ngũ «báo nhà nước» như Nguyên Sa ghi lại, và đóng góp lớn lao với đời sống văn hóa như Võ Phiến nhận định, là nhờ công lèo lái của Lê Châu.
Nguyên Sa trong bài báo đã dẫn, đã mô tả một buổi họp tòa soạn, tại Ngân Hàng Quốc Gia, khoảng 1957: «bàn cãi về tờ Bách Khoa đã diễn ra sôi nổi. Lê Châu mặt trắng ngồi lặng lẽ, ít nói, hiền hòa. Thỉnh thoảng anh cất lời, toàn những lời nhẹ nhàng, vừa phải, nghiêm túc, không gây sóng gió nào». Đúng là hình ảnh Lê Châu. Về mặt ứng xử hằng ngày, thì Vũ Hạnh có lần tập Kiều: «ở ăn thì nết cũng hay, ra điều ràng buộc thì tay cũng già». Đúng là Lê Châu.
Nhờ đức tính kín đáo, hòa nhã, Lê Châu đã tập hợp không những trên mặt báo nhiều khuôn mặt khác biệt, thậm chí trái ngược về hoàn cảnh, tính tình lẫn chính kiến, mà còn quy nạp được nhiều bè bạn đến từ những chân trời khác nhau, trong đời sống cụ thể hằng ngày.
Khi được tin Lê Châu mất, tôi có điện thư cho nhà văn Trần Hoài Thư, anh trả lời là đã được Lữ Quỳnh điện thoại thông báo: cả hai cùng lò Bách Khoa. Anh kể: mình là quân nhân, từ Cao Nguyên về Sài Gòn, hẹn với người yêu, vốn là độc giả hâm mộ, từ Lục Tỉnh lên, tại tòa soạn Bách Khoa, 160 Phan đình Phùng. Sau đó hai người thành vợ thành chồng. Trụ sở Bách Khoa là nơi hẹn và là hộp thư; chuyện Trần Hoài Thư, lúc ấy dường như còn ký Trần Qúy Sách, là chuyện tình chính đáng, còn những quan hệ linh tinh, bay bướm của các nhà văn, nam và nữ, thì hằng hà sa số. Nhưng Lê Châu không bao giờ kể.
Bây giờ thì anh vĩnh viễn im lặng.
Với nhiều bạn bè, dù là thân thuộc, Lê Châu vẫn là niềm bí ẩn lớn lao giữa cơn gió bụi của thời đại.
Đặng Tiến
Orleans, 27/9/2006
Như bài viết của anh Đặng Tiến, Ông Lê Ngộ Châu đã quy tụ được nhiều cây bút tài hoa thời ấy nhờ tính tình hòa nhã, vui vẻ và nhất là rất quý trọng hai chữ NHÂN VĂN. Tôi cũng là một cộng tác viên thường xuyên từ năm 67. Nhưng cũng phải đến năm 1973 tôi mới đặt chân đến tòa soạn tạp chí BÁCH KHOA. Tòa soạn ở 160 Phan Đình phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu). Nơi đây được gặp ông bà Lê Ngộ Châu trong niềm vui nhân ái. Ông rất điềm đạm. Bà Châu thì dịu dàng nhân hậu. Nơi đây, tôi cũng gặp cây bút trẻ tài hoa thời ấy là Vô Ưu (Ngô Thị Kim Cúc) và ông Châu cũng có con mắt xanh nên rất ưu ái nhà văn nữ nầy. Đặc biệt là tôi đã gặp cả hai anh Võ Phiến và Vũ Hạnh. Hai nhà văn tuy có chính kiến khác nhau nhưng khi ngồi lại ở đây thấy họ rất chan hòa. Điều nầy cho thấy văn chương đã xóa nhòa khoảng cách, biên giới… Tòa soạn Bách Khoa cũng là chiếc cầu nối để nhà văn lãng tử Trần Hoài Thư nên vợ nên chồng với chị Yến ở tận Tây Đô. Tuổi thọ của tạp chí Bách Khoa rất dài (1957-1975). Tiếc là sau 75 phải đình bản. Thỉnh thoảng tôi có đến thăm ông bà khi Vô Ưu gặp và nhắc tôi: Hãy đến 160 Phan Đình Phùng. Và rồi ông Lê Ngộ Châu cũng về Trời… Một người sống trải lòng như thế tôi luôn cầu mong ông bên kia cõi vĩnh hằng thường lạc…
Trần Dzạ Lữ
Hình 1: Lê Ngộ Châu, 
chủ nhiệm tạp chí Bách Khoa
Hình 2: Thơ Trần Dzạ Lữ
PHẦN 19 - Ở SÀIGÒN
PHAN KIM THỊNH, CHỦ BÚT TẠP CHÍ VĂN HỌC
Viết về chủ nhiệm tạp chí Bách Khoa tôi lại nhớ đến anh Phan Kim Thịnh - người chủ trương tạp chí Văn Học. Tạp chí này đầu tiên là dành đất cho Sinh Viên Học Sinh SàiGòn như một bài viết của Trần Hoài Thư mà tôi xin trích 2 đoạn như sau:
“Văn Học được ra đời do một số người trẻ nhập cuộc. Họ là những học sinh, sinh viên của các trường Trung học, Đại học trên toàn quốc, và một số đang du học tại ngoại quốc nhưng đã cùng nhau chung một lý tưởng thực hiện một tờ tạp chí nghiên cứu và phê bình về văn hóa và chính trị để làm diễn đàn chung cho những thanh niên tự do tại Miền Nam.
Số đầu tiên phát hành vào tháng 11- 1962 trong thời Đệ nhất Cộng Hòa, và số cuối cùng là số Mùa Xuân 75, kéo dài được 13 năm - số tuổi xem như rất thọ so với các tạp chí văn học miền nam khác, ngoại trừ chỉ sau tạp chí Bách Khoa. Từ số 1 đến số 72 (1-5-67), khổ báo khổ lớn (15×25 cm). Từ số 73 đến số cuối cùng khổ giấy loại nhỏ (14×20 cm).
Hai năm đầu, báo được phát hành mỗt tháng một kỳ, sau đó, báo đổi thành bán nguyệt san, phát hành mỗi nửa tháng một kỳ (kể từ số 21).
Chủ nhiệm đứng tên là Phan Kim Thịnh, nhưng chủ bút thì thay đổi ba lần. Hai năm đầu (1961-1963), chủ bút là Dương Kiền, sau đó chủ bút là Phan Kim Thịnh. Tiếp đến vào năm 1966 là Nguyễn Đình Toàn (từ số 63 ngày 1-9-66 đến số 69 ngày 15-11-66). Sau đó vai trò chủ bút lại được giao lại cho Phan Kim Thịnh.
Hai năm đầu (từ số 1 đến số 20), tạp chí nhắm vào thành phần thanh niên sinh viên như tiêu đề trên bìa của tạp chí: Nguyệt san văn hóa xã hội nghệ thuật. Diễn đàn sinh viên Việt Nam tự do. Mỗi số báo đều có mục liên quan đến sinh viên như Sinh Hoạt Sinh Viên do Trần văn Ngô, Phương Khanh, Hà Thanh phụ trách… Cọng thêm vào những bài viết liên quan đến những vấn đề của sinh viên như “vài tâm trạng nghịch thường của thanh niên trước những giá trị xã hội (Dương Nhất Nhân - số 1), Sinh Viên và trí thức lảnh đạo (Quan điểm, số 2), Chính sách sinh viên (Quan điểm, số 3), cái nhìn của người sinh viên (Nguyễn Vũ, số 4),. Dân chủ hóa nền đại học (Quan điểm, số 5), Chỉ huy hay hướng dẫn (Quan điểm, số 6) hay mỗi số có mục Vấn Đề của chúng ta ví dụ: Bài trả lời ông Nguyễn Đăng Thục, Khoa trưởng đãi học văn khoa SG của Văn Học (số 4), Nhân các kỳ thi: Đặt lại vấn đề nguyên tắc (số 6) v.v…
Sau số 20, tiêu đề Diễn đàn sinh viên Việt Nam tự do được lấy ra, và nội dung Văn học có tinh cách khai phóng hơn, ảnh hưởng nhiều bởi thời sự. Sau 1965 chiến cuộc càng lúc càng leo thang, những người cọng tác viên trẻ phải vào quân ngũ, hay xa Saigon, để lại một khoảng trống lớn cho Văn Học. Cọng vào sắc luật 007 đã khiến chủ trương của Văn Học từ một tờ báo chính trị văn học đổi sang một tờ báo thuần túy văn học kể từ năm 1968…”
Và:
“Ngày từ số 3, ta thấy những nhà văn như Võ Phiến, Dương Nghiễm Mâu. Vũ Bằng, Nhật Tiến, Nguyễn thị Vinh, Linh Bảo, Nguyễn Đình Toàn, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ, Đinh Hùng, Thanh Lãng, Nguyên Sa bắt đầu có mặt trên Văn Học cọng thêm vào lực lượng chủ chốt của Văn Học như Viêm Đẩu, Nguyễn Hữu Dung, Thế Viên, Hoàng Vũ. Lê Đôn Khoan, Vương trân Nam, Dương Cự, Dương Kiền, Vương Thanh, Nguyễn Đông Ngạc, Trần Triệu Luật, Lôi Tam… Một tên tuổi cọng tác rất tích cực và thường xuyên ngay từ số đầu chuyên về lĩnh vực dịch thuật cũng như lãnh vực nghiên cứu văn học là Bác sĩ Hoàng văn Đức, tức Hoàng Vũ Đức Vân.
Kể từ năm 1964 trở đi, độc giả thấy sự góp mặt tích cực của những cây bút trẻ miền Trung hay những người mới cọng tác với VH lần đầu. Số lượng này càng lúc càng đông đảo: Luân Hoán, Cao Thoại Châu, Thành Tôn, Hoàng Lộc, Chu Tân, Trần Dzạ Lữ, Đynh Hoàng Sa, Trần Quang Long, Phan Duy Nhân, Nguyễn Nho Nhượng, Sâm Thương, Hà Nguyên Thạch, Nguyễn văn Bổn (Tần Hoài Dạ Vũ), Lê Đình Phạm Phú, Thái Ngọc San, Phan Nhự Thức, Võ Quê, Khắc Minh, Trần Hoài Thư, Lê Nghiêm Vũ, Trần Hữu Nghiễm…”
Thực hiện được một tạp chí văn nghệ, văn học kéo dài tới 13 năm (1962-1975) như thế là một kỳ công, đáng nể. Trước tiên là vợ chồng anh Phan Kim Thịnh sau đó là Dương Kiền, Nguyễn Đình Toàn. Tôi có duyên với Văn Học từ khi còn mài đũng quần ở ghế nhà trường. Hồi ấy chỉ liên lạc với báo qua Bưu Điện. Gửi bài thơ đầu tiên là tôi được đăng ngay. Số Văn Học ấy để ở nhà chị tôi đã thất lạc. Tôi chỉ nhớ mấy câu:
Đời một lần năng rưng/ Rồi hoàng hôn bằn bặt/ Tôi một lần yêu em/ Rồi xa nhau mãi mãi… (1964). Năm 1965 tôi đăng bài thơ trên Văn Học khiến bạn đọc giật mình:
NHỚ NHẤT LINH
Người đi theo bóng thiên thu
Bỏ đây năm tháng sa mù nhân gian
Nhớ thương chim khóc trên ngàn
Nước ngơ đất ngẩn trời mang mang sầu
Trần Dzạ Lữ
Bài này đăng trên Văn Học số 41 năm 1965. Cũng vì mê Tự Lực Văn Đoàn và mê bài thơ này mà nhà văn Trần Hữu Ngư đã đi tìm tôi đến gần 50 năm mới gặp (2017)… Tôi vô cùng cảm động và thân thiết như từ kiếp nào. (nghe anh THN kể thì anh thích bài thơ này hồi còn học trung học ở Bình Tuy và có biết bài thơ của tôi được được SVHS SàiGòn viết lên “băng rôn” khi tưởng niệm nhà văn Nhất Linh).
Đăng thơ từ 1964 cho đến năm 1973 tôi mới có dịp diện kiến anh chị Phan Kim Thịnh ở làng Báo Chí Thủ Đức. Lúc ấy cũng gặp và quen biết nhà thơ Du Tử Lê khi bước chân vào SàiGòn. Giữa năm 1974 tôi bị thương ra loại 2 chờ giải ngũ. Đây là dịp tôi có điều kiện gặp gỡ anh chị em văn nghệ SG. Lúc này tôi và nhà thơ Lê Vĩnh Thọ phụ giúp anh chị Phan Kim Thịnh tờ Văn Học. Chính lúc này tôi mới thấy chị Phương Khanh (vợ anh Phan Kim Thịnh) là một người đàn bà giỏi giang lạ, vừa chăm sóc tờ báo cùng chồng vừa là nội tướng tuyệt vời. Suốt đời lang bạt kỳ hồ, đây là những ngày tháng tôi được ăn ngon nhất do chính bàn tay chị nấu.
Thời gian này, phụ giúp anh Phan Kim Thịnh ra số chủ đề về miền Trung. Trong đó tôi có bài viết giới thiệu 2 cây bút trẻ tài hoa và cá tính là Vô Ưu và Quyên Ca. Báo in nửa chừng thì có ngày 30. 4. 75… Thế là hết! Tiếc thay!
Tan đàn xẻ nghé. Tôi phải làm thợ đụng. Đụng đâu làm đó để kiếm sống. Chủ nhiệm tờ Văn Học cũng có hơn gì tôi. Vẫn phải xoay chuyển để mưu sinh. Mỗi người một số phận phải cưu mang nên sự gặp gỡ là điều hiếm hoi. Năm 1990, nhờ đổi mới mà tôi cũng có thi hứng trở lại và cũng được biết anh Phan Kim Thịnh (người có nhiều tư liệu) để viết bài cho nhiều tờ báo, kiếm sống… Hiện nay, anh ấy dù tuổi cao nhưng đam mê viết lách vẫn như một dòng chảy không ngơi nghỉ. Chị Phương Khanh đã qua đời, tôi cũng không được biết để tiễn đưa chị đến nơi an nghỉ cuối cùng… Thôi đành kính mến trong lòng vậy. Lòng tôi vui khi thấy chủ bút Văn Học Phan Kim Thịnh giờ này còn ngồi trước computer.
Trần Dzạ Lữ
PHẦN 20 - Ở SÀIGÒN
ÔNG KHAI TRÍ với TUYỂN THƠ TÌNH VIỆT NAM và THẾ GIỚI
Cầm cuốn thơ Tình Việt Nam và Thế Giới do Ông Khai Trí sưu tầm, tuyển chọn dày cộm trên tay với lời giới thiệu của nhà xuất bản Thanh Niên như sau:
Tuyển tập thơ tình Việt nam và Thế giới chọn lọc được nhà xuất bản Thanh Niên cho ra mắt bạn đọc trong dịp này cũng nằm trong xu hướng “xã hội hóa”. Tác giả cuốn sách, người có công sưu tầm, tuyển chọn trên 1.000 bài thơ tình của hơn 500 tác giả trong và ngoài nước mà bạn đọc đang có trong tay là ông Nguyễn Hùng Trương, năm nay đã ngoài tuổi 70, nguyên là người sáng lập và là chủ nhà sách KHAI TRÍ nổi tiếng từ thập niên 50 đến tận năm 1975 ở SàiGòn trước đây, nay là thành phố Hồ Chí Minh. Gần trọn cuộc đời mình, ”Ông Khai Trí” - như nhiều người vẫn gọi - đã để tâm sức vào việc in ấn, xuất bản sách và Nhà sách KHAI TRÍ thực sự là một nhà sách lớn và uy tín nhất Miền Nam thời đó…
Lời giới thiệu của Nhà Xuất Bản Thanh Niên quả chính xác bởi vì thế hệ chúng tôi - thập niên 60 - hầu hết đều mê đọc sách và được nghe chuyện kể về Ông Khai Trí như một huyền thoại. Hiếm thấy một ấu thơ nào như ông đã nhịn đói đi học, dành tiền ăn sáng để mua sách. Và đam mê ấy được ông nung nấu từng ngày cho tới lúc hiện thực: Nhà Sách Khai Trí ở đường Lê Lợi SG. Hồi còn học trung học Nguyễn Tri Phương Huế tôi cũng đã từng mơ một ngày bước đến trung tâm văn hóa ấy. Mãi đến năm 1973, lúc hành phương nam tôi mới có dịp. Hôm ấy bước chân đến đó vì mê sách và phần nữa là muốn chiêm ngưỡng con người của huyền thoại. Nhưng tiếc thay, chủ nhà sách Khai Trí không hiện diện ở đó. Tôi ra về mà ngẩn ngơ…
Cơ ngơi đồ sộ ấy sau năm 75 đã không còn. Vật đổi sao dời và ông cũng “thăm thẳm chiều trôi”. Đến năm 1995 là thời kỳ đổi mới, ông lại hồi sinh đam mê của mình. Lúc ấy tôi quen cô HTTH là một người cũng đam mê sách đã là trợ thủ đắc lực cho ông Khai Trí. Ngày đêm cùng nhau suy nghĩ để vực dậy văn hóa nhân tâm. Nhưng ai cũng có một thời lên đỉnh mà thôi… Dịp này, nhờ quen cô H mà tôi được diện kiến ông Khai Trí. Một con người giản dị. Có nụ cười đôn hậu. Ăn nói nhỏ nhẹ và chân tình. Nhìn ông tôi lại tiếc một thời vàng son. Nghe đâu ông cũng có con nhưng chẳng có ai theo nghiệp của ông cả. Điều tôi tâm đắc nhất là ông dành thời gian sưu tầm và tuyển chọn thơ để năm 1998 in và phát hành tuyển thơ Tình Việt Nam và Thế giới dù tôi biết tuyển thơ vẫn còn thiếu những người tài hoa và không như ý bạn đọc. Nhưng vì tấm lòng của ông với sách, văn hóa và thi ca nên tôi giới thiệu như một nén tâm hương tưởng nhớ ông trong hồi ức này. Ông KHAI TRÍ mất ngày 11.3.2005. Vì tuyển thơ dày và nhiều tác giả nên tôi lật ra một số bài tình cờ để giới thiệu với Anh chị em FB:

FÉLIX ARVERS (1806-1850) Nhà Thơ Pháp
TÌNH TUYỆT VỌNG
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay
Hỡi ơi, người đó, ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân?
Dẫu ta đi trọn đường trần
Chuyện riêng dễ dám một lần hé môi?
Dù người ngọc nói, hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình
Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong
Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng
”Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?“
Sonnet d’ Arvers - Khái Hưng dịch
BÙI GIÁNG
ÁO XANH

Lên mù sương, xuống mù sương
Bước xa bờ cỏ xa đường thương yêu
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Thì xin cứ để bóng chiều bay qua
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh.
QUANG DŨNG
ĐÔI BỜ

Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi chớm heo về một sớm mai?
Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự
Bên này em có nhớ bên kia?
Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến
Quạnh vắng chiều sông lạnh bến Tề
Khói thuốc khơi dòng xanh lối xưa
Đêm đêm sông đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ
Xa lắc rồi em người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
NGUYÊN SA
CẦN THIẾT
Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa
Những lúc em cười trong đêm khuya
Lấy ai nhìn những đường răng em trắng
Đôi mắt sáng là hành tinh lóng lánh
Lúc sương mù ai thở để sương tan
Ai cầm tay cho đỏ má em hồng
Ai thở nhẹ cho mây vào trong tóc…
Không có anh lỡ một mai em khóc
Ánh thu buồn trong mắt sẽ hao đi
Tóc sẽ dài thêm mái tóc buồn thơ
Không có anh thì ai ve vuốt
Không có anh lấy ai cười trong mắt
Ai ngồi nghe em nói chuyện thu phong
Ai cầm tay mà dắt mùa xuân
Nghe đường máu run từng cành lộc biếc
Không có anh lỡ ngày mai em chết
Thượng đế hỏi anh sao tóc em buồn
Sao tay gầy, sao đôi mắt héo hon
Anh sẽ phải cúi đầu đi về địa ngục…
MINH ĐỨC HOÀI TRINH
KIẾP NÀO CÓ YÊU NHAU

Anh đừng nhìn em nữa
Hoa xanh đã phai rồi
Còn nhìn chi em nữa
Xót lòng nhau mà thôi
Người đã quên ta rồi
Quên ta rồi hẳn chứ
Trăng mùa thu gãy đôi
Chim nào bay về xứ
Chim ơi có gặp người
Nhắn giùm ta vẫn nhớ
Hoa đời phai sắc tươi
Đêm gối sầu nức nở
Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận ngàn sau
Tình xanh không lo sợ
Lệ nhòa trên gối trắng
Anh đâu, anh đâu rồi
Rượu yêu nồng cay đắng
Sao cạn mình em thôi?
XUÂN QUỲNH
THƠ TÌNH CUỐI MÙA THU

Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu vào hoa cúc
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt lá
Hơi lạnh qua bàn tay
Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa bão gió
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ
Thời gian như là gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại…
- Kìa bao người yêu mới
Đi qua cùng heo may
QUANG HUY
NỖI NIỀM THỊ NỞ

Người ta cứ bảo dở hơi
Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi
Dở hơi, nào dở hơi gì
Váy em xắn lệch nhiều khi cũng tình
Làng này khối kẻ sợ anh
Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay
Sợ anh chửi đổng suốt ngày
Chỉ mình em biết anh say rất hiền
Anh không nhà cửa, bạc tiền
Không ưa luồn cúi, không yên phận nghèo
Cái tên thơ mộng Chí Phèo
Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao

Quần anh ống thấp, ống cao
Làm em hồn vía nao nao đêm ngày
Khen cho con Tạo khéo tay
Nồi này thì úp vung này chứ sao!
Đêm nay trời ở rất cao
Sương thì đẩm quá, trăng sao lại nhòa
Người ta… mặc kệ người ta
Chỉ em rất thật đàn bà với anh
Thôi rồi, đắt lắm tiết trinh
Hồn em nhập bát cháo hành nghìn năm
TRẦN DZẠ LỮ
TÔN NỮ CÓ CHỜ TA?

Xưa em buồn trong Nội
Mắt ướt mấy cửa thành
Chiều chiều ra hong tóc
Thấp thoáng mộng ngày xanh
Ta, thường hay lui tới
Dưới đường mưa âm thầm
Vì yêu đời Tôn Nữ
Mong em, cháy nỗi lòng…
Khi biết ta hàn sĩ
Giấu nỗi sầu trăm năm
Em che tình mái rộng
Ru nhau vào đời ngoan!
Yêu nhau như chim uyên
Đắm như ván trong thuyền
Dẫu búa rìu dư luận
Bủa vây ta và em
Những con đường thề thốt
Lá thấp mùa sương quen
Dấu chân tình ta dẫm
Tuyệt vời phải không em?
Nhưng rồi tới một ngày
Ta khăn gói ra đi
Mộng tàn trong đáy cốc
Khôn xiết nỗi biệt ly…
Bỏ em sầu trong Nội
Bỏ lại một đoạn lòng
Ta đi làm lữ khách
Viễn xứ hề long đong!
Ta, đứa lạc trong sương
Mù thêm đời cô đơn
Ta đâu màng khanh tướng
Sao nát hồn Uyên Ương…
TDL

Hình 1: Tuyển tập THƠ TÌNH VIỆT NAM 
THẾ GIỚI CHỌN LỌC
Hình 2: Ông KHAI TRÍ (Nguyễn Hùng Trương) mặc áo đen
PHẦN 21 - Ở ĐÀ LẠT
Nói đến Đà Lạt là nói đến một thành phố cao nguyên của xứ sở ngàn hoa. Là vùng đất thơ mộng đến lạ kỳ. Con người thì sống chậm và ẩn mình trong không khí se se lạnh nên không thiếu chất lãng mạn, trữ tình… Tôi mê Đà Lạt khi nhìn thiên nhiên và con người ở đây. Càng bị mê hoặc hơn khi nghe những ca khúc viết về Đà lạt của những nhạc sĩ tài hoa như Hoàng Nguyên (Ai Lên Xứ Hoa Đào) Minh Kỳ - Lê Dinh (Đà Lạt Hoàng Hôn), Trăng Mờ Bên Suối (Lê Mộng Nguyên)... 
Đà lạt cũng là nơi sản sinh nhiều văn nghệ sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ. Chỉ tiếc là tôi không có duyên kỳ ngộ nhiều nên chỉ viết một ít người tôi đã từng quen biết trong hồi ức này. Xin bạn đọc thông cảm.
NT, GIỜ EM NƠI ĐÂU?
Tôi cũng “cuồng điên vì nhớ” trong những ngày chộn rộn 75 khi nhận những lá thư liên tục của NT từ Đà Lạt bay về SàiGòn: Anh ơi! Anh ơi! Bây giờ anh ở đâu? Nơi nào đó có nhớ em không? Riêng em thì mỗi sáng thức giấc trong sương lạnh, em đều pha một ly cà phê cứt chồn đợi anh. Đợi anh… Nàng là người ái mộ tôi trên tuần báo Khởi Hành, Thời Tập dù chưa gặp mặt nhưng qua liên lạc thư từ thì “Hình Như Là Tình Yêu” theo cách của nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn. Những ngày này tôi cũng “hàng thần lơ láo phận mình ra sao? “song khó mà quên được tâm tư nàng viết qua thư. Quay quắt và chờ đợi thôi. May thay năm 1982 có người quen lên Đà Lạt. Thế là tôi gửi thư tay nhờ trao đến NT ở địa chỉ… Nửa tháng. Một tháng. Rồi hai tháng không thấy thư hồi âm. Rồi người tôi quen cũng lặn mất tăm. Sao vậy nhỉ? Năm 1983 tôi quyết định lên Đà lạt tìm Nàng. Sau gần một ngày qua bao làng mạc, núi đồi… đến Đà Lạt tôi đã rưng rưng muốn khóc… Nghe đâu người Làng Vân Thê - quê Mạ tôi - lên đây lập nghiệp nhiều lắm. Nhưng việc đầu tiên là tôi đi tìm Nàng ở đường C. Quanh quất, hỏi han thì tôi cũng đã đứng trước ngôi nhà gỗ dễ thương đáo để: Cho tôi gặp NT. Một cô gái cao to chừng 1m7 bước ra: Dạ. NT đây. Tôi sửng sờ vì cứ nghĩ là một cô bé nho nhỏ, mềm mại như chữ cô viết trong thư. Tôi là TDL, TVD đây! - Xin lỗi anh cho xem chứng minh thư. Tôi hỏi: Răng rứa em? Vì trước đây có người mạo nhận là TDL. Lúc này thì tôi hiểu ra vấn đề rồi. Móc chứng minh thư cho nàng xem. Sau cái gật đầu NT mời tôi vào nhà. Thế là bao nhiêu chuyện xưa, nay chúng tôi hàn huyên không dứt. Nàng nói: Lần đó em cũng mời anh ta uống cà phê. Nhưng khi chia tay anh ta có hành động không như em nghĩ và không xứng đáng tư cách một TDL, nhà thơ em quý trọng. Em đã tặng cho anh ta một cái tát… Tôi nói: Hèn gì tránh anh luôn... Suốt 3, 4 tiếng đồng hồ NT dẫn tôi ngồi cà phê Tùng đã rồi đi dạo quanh đồi Cù. Đi bên nhau lặng lẽ để có thể nghe từng nhịp đập của con tim mình. Tôi hút thuốc. NT quẹt diêm mồi… Hình ảnh này như một bài thơ hay chưa viết ra. Gặp nàng khi tôi đã có gia đình nên chia tay nàng là câu: Em hãy lấy chồng và hạnh phúc. Bút tích của nàng qua thư từ tôi còn giữ là một kỷ niệm đẹp… Qua bao năm tháng dâu bể, giờ này tôi hỏi NT em ở đâu là hỏi để mà hỏi vậy thôi. Chứ mênh mang sương khói cuộc tình rồi cũng bay đi. Dù nơi đâu, thế nào tôi cũng cầu mong cho NT luôn an vui, hạnh phúc. Có một điều tôi là lạ: Là cô giáo dạy TDTT cao to mà lại ẩn chứa thơ, nhạc, văn chương trong một tâm hồn nhạy cảm, trữ tình có phải là miên viễn? Hay rồi cũng phôi pha?
Chia tay nàng tôi còn tìm bà con của tôi nữa. Sáng hôm sau đang cà phê ở chợ Đà Lạt thì gặp một người trông lãng tử ngối kế bên. Đó là Nguyễn Tấn Cứ. Cứ rủ tôi về ở lại nhà vì nhà chỉ có Cứ và bà mẹ.
NGUYỄN TẤN CỨ (CỨ NGUYỄN) ÁO GIANG HỒ CỨ KHOÁC MÀ ĐI
Duyên gặp gỡ với Cứ trong một thời gian ngắn nhưng lại trở nên thân tình khi Cứ đưa tôi về gặp Mẹ của Cứ. Không giàu có về vật chất song lại giàu có tâm hồn và tình thương, Bà xem tôi như con vậy. Nhờ có Cứ mà sau đó tôi gặp thêm được một số người bà con của mình và anh em văn nghệ nữa ở Đà Lạt như nhà thơ Nguyễn Dương Quang, nhạc sĩ Phan Bá Chức, họa sĩ Nguyễn Sông Ba…
Những ngày ở Đà Lạt tôi được nghe thơ của Cứ và đi lang thang để tìm kiếm cảm xúc. Đây là Thiên Đàng của nghệ sĩ, nói không ngoa chút nào. Thành thử Khánh Ly và Trịnh Công Sơn cất cao tiếng hát liêu trai, ma mị… Họa sĩ Đinh Cường căng bố để ném những gam màu cuộc sống con người, thiếu nữ và thiên nhiên vào cõi miên man của hội họa. Lê Uyên và Phương đã ôm đàn hát tình ca khôn dứt…Thi ca miền xứ lạnh tôi đã đọc của Cứ Nguyễn:
THƠ NGUYỄN TẤN CỨ
NHÀ THỜ TRÊN ĐỈNH ĐỒI
Đêm. với hàng triệu vì sao
Cô đơn như tháp chuông gió hú
một mình em và lời nguyện cầu
bình an cho sớm mai
bình an cho ngày mới
Sẽ không còn những ngày buồn thảm
những cuộc thiên di không ngày không tháng
không còn những căn nhà lang thang không kỉ niệm
những cuộc ra đi... không bao giờ trở lại
EM lãng du như một kiếp... giang hồ
Sẽ bắt đầu bằng những giọt nước mắt
Xót thương cho những ngày đã qua
Hân hoan cho những ngày sắp tới
Hãy quên đi... những lời cầu nguyện
rằng mời hôm qua thôi - em đã nguyện cầu
em cô đơn như tháp chuông
trên ngọn đồi kia - ngôi nhà thờ đơn độc
chỉ có lời kinh đêm - chỉ có lời kinh mưa
rằng ngày mai rồi sẽ đến
rằng em có ra đi - rồi em sẽ quay về
có một ngôi nhà thờ - trên đồi cao
và cũng có một căn nhà trên tầng cao
ở nơi ấy có Chúa của em - một mình khổ nạn
Chúa đóng đinh cho Hạnh phúc của con người
Anh sẽ cầu nguyện cho em vui - em mãi mãi tươi cười
cầu cho những giọt nước mắt sẽ lăn dài trong phúc hạnh
sẽ không còn có anh - trong tháp chuông kia ngân tiếng
trên ngọn đồi kia - ngôi nhà thờ thao thức
chỉ có mình anh thôi - chờ đợi đức tin về.
Nguyễn Tấn Cứ
Những Buổi Chiều Cuối Năm
Vẫn cố um lên những bếp lửa
Dù đã quá tro tàn
Vẫn cố lên xanh những liếp cải
Dù đã quá hẹp thửa vườn
Vẫn chen rồ lên cỏ lau bén ngọt
Cứa vào hồn tôi tan tác
Trên những nỗi buồn của mảnh đất hoang
Vẫn ngẫn ngơ như một lữ khách không nhà
Vẫn chết ngất như tuổi thơ đã mất
Tâm hồn tôi như khói chiều xưa cũ
Vẫn rưng rưng khi chạm tới tháng năm tàn
Tôi vẫn thương tôi
Dù đã quá những buổi chiều
Sự khủng khiếp của những buổi chiều phố chợ
Những con chó hoang chạy quanh
Những sạp hàng hiu quạnh
Những khói hương bay
Quanh quẩn những hiên nhà
Có về không con nước sông Trà
Đã mệt mỏi lắm
Ôi cuộc đời trôi mỏi mệt
Lang thang mãi cứ ngỡ đời mình bạc phận
Có ngờ đâu chiều vẫn cuối năm… vàng
Nguyễn Tấn Cứ
Và thơ lục bát:
ĐÃ LÀ EM XƯA 
Chu môi em thổi cái vèo
Mối tình ta đã vốn nghèo hai năm
Nhíu mày em liếc lạnh căm
Hai tay che mắt lâm thâm mưa phùn
Em mua chi một nỗi buồn
Bây giờ bán đứt không cần đến tôi
Không cần em mới cong môi
Tôi hôn một cái cho… trôi nỗi buồn.
THÔI
Thôi người bụi ở sau lưng
Thôi môi mắt ấy rưng rưng thị thành
Thôi em đừng cố treo mành
Đừng khuynh nhất tiếu đừng hành hạ tôi...
Nguyễn Tấn Cứ
Cứ tưởng anh chàng này quẩn quanh với xứ sương mù, ai ngờ Cứ lại khoác áo giang hồ lên vai và Hành Phương Nam như thi sĩ Nguyễn Bính ngày nào. Vậy là SàiGòn có thêm một cư dân bởi đây là nơi đất lành chim đậu. Ai nỡ khước từ một người làm thơ phải không Cứ Nguyễn?
NGUYỄN DƯƠNG QUANG, NHÀ THƠ NHÂN HẬU
Cũng nhờ Cứ mà tôi quen biết anh Nguyễn Dương Quang. Đây là nhà thơ rất nhân hậu và căn nhà anh là nơi giao tiếp tất cả anh chị em văn nghệ mỗi khi bước chân lên xứ ngàn hoa. Chỉ gặp anh chị một lần mà tôi nhớ mãi. Sau này cũng có vài lần lên Đà Lat nhưng đi tour nên chẳng kịp ghé thăm. Vẫn hy vọng một ngày nào đó một mình ghé lên thăm nhà thơ. Cuộc sống nhân hậu nhưng anh không ngớt trăn trở, tư duy về phận người. Những bài thơ sau là một minh chứng:
ĐIỀU RẤT KHÓ
Sống trong cuộc sống, điều rất khó
sống ngoài cuộc sống, điều rất khó
chết trong cuộc sống, điều rất khó
chết ngoài cuộc sống, điều rất khó
Lừa dối với người, điều rất khó
lừa dối chính mình, điều rất khó
thành thật với người, điều rất khó
thành thật với mình, điều rất khó
Giương một cánh cung, điều rất khó
bảo ta anh hùng, điều rất khó
nói ta hèn kém, điều rất khó
nghe một lời kinh, điều rất khó
Thốt một lời yêu, điều rất khó
thản nhiên vô tình, điều rất khó
ngày ngày líu lo, điều rất khó
nằm im giấu mỏ, điều rất khó
Đi trước thời gian, điều rất khó
đi ngược thời gian, điều rất khó
chỉ biết có mình, điều rất khó
không biết có mình, điều rất khó
Biết điều rất khó, điều rất khó
làm điều rất khó, điều rất khó
không làm điều khó, điều rất khó
điều rất khó, hừ! điều rất khó
Nguyễn Dương Quang
BIỂN TRONG KÝ ỨC KẺ DU CƯ
Kẻ du cư đã gác đời mình trên đỉnh núi
nhưng trong anh vẫn là dòng máu mặn biển xa
buổi chiều lặng yên trên đồi cỏ mượt
nhìn trời xanh anh ngỡ biển quê nhà
Quê nhà anh xưa trải dài trên cát
cát ngủ cùng anh từ trên chiếc võng nôi con
anh lớn lên dưới bóng dừa che chở
trong từng chiếc vỏ ốc khô đều ẩn giấu linh hồn
Anh đã sống và yêu bên biển
ôi! người anh yêu và biển anh yêu
rất xinh đẹp, lúc dịu hiền, khi giông bão
nên đời anh hạnh phúc nép thương đau
Có lúc một mình anh bên gành vắng,
khi cùng ai cuối bãi đợi bình minh
anh cô đơn, biển bao la cô đơn kinh khiếp
anh yêu, yêu đã đầy chưa biển tình?
Những đêm mùa hè anh nằm gối tay trên cát
biển ru anh vào những giấc mơ,
biển nói cùng anh về tình yêu thương, lòng tàn bạo
về những nỗi âm u sâu thẳm khôn dò
Biển đã thấm vào anh tình yêu, nỗi đau và niềm yên ủi
anh ra đi, lạc vào cõi sương mù
anh vẫn mơ ngày cuối cùng trở về chốn cũ
mãi mãi là con sóng nhỏ biển thiên thu.
Nguyễn Dương Quang
EM Ạ! CHÚNG TA VÀ NỖI CÔ ĐƠN
gửi...
Hình như con người không thể thấy
được hết nỗi cô đơn của mình
dù khi em viết những dòng thơ tình
đã tự xé lòng đau đến vậy
Bài thơ em khúc nhạc buồn chơi vơi
con chim hít cô kêu trong chiều hiu hắt
ta, cùng nỗi mênh mang một hồn gió giạt
mưa xanh, nắng bạc rũ bên trời
Có khi ta thầm hỏi lòng da diết
tại sao mình không thể thiếu cô đơn?
muốn thành trăng tự tròn, khuyết rồi tan
đọng thành mây rồi trôi… trôi biền biệt
Khi tha thẩn trên đồi cao hay bên bờ biển vắng
lòng ta biêng biếc cõi tình quên
làm sóng hát cùng con thuyền trống
làm gió đùa cùng đám lá đầu non
Em ạ! làm sao chúng ta san sẻ được nỗi buồn?
mỗi người riêng một trái tim chưa khép
vậy xin ấp yêu đóa hoa lòng thật đẹp
là Cô Đơn! chất ngất cô đơn.
Nguyễn Dương Quang
Hình 1: NT chụp hình Trần Dzạ Lữ năm 1983 
và chữ ghi trên tấm ảnh là của Nàng
Hình 2: Nhà thơ Nguyễn Tấn Cứ (Cứ Nguyễn)
Hình 3: Nhà thơ Nguyễn Dương Quang
PHẦN 22
NHÀ VĂN SƠN NAM, ÔNG VUA ĐI BỘ
Tôi quen biết ông từ thập niên 80. Lúc ấy địa chỉ 81 Trần Quốc Thảo quận 3 TP.HCM là nơi “quần anh hội” của giới văn nghệ thời còn bao cấp: Bia hơi là chính. Văn nghệ sĩ chân chính cũng có mà văn nghê sĩ tự phong không thiếu. Vui cũng uống. Buồn cũng uống. Bia vào, lời ra. Có khi la hét. Chửi bới và phang nhau nữa. Nhưng địa chỉ này chính xác là một thời để nhớ... Ngoài bạn bè văn nghệ thì hai ông già khiến tôi nhớ nhất:Nhà Văn Sơn Nam và nhạc sĩ Châu Kỳ (ham nhậu đến nỗi để quên và mất đến 7 chiếc xe đạp Phượng Hoàng).
Ông Sơn Nam thì cuốc bộ từ quận Bình Thạnh lên tới quận 3 uống vài ly bia hơi rồi lại đi bộ trở về. Tính ông trầm trầm, ít nói nhưng rất dễ gần gũi. Bởi dễ tính (luôn như TCS: Thôi kệ!) nên có tay văn nghệ “đánh đồng” ông ngang hàng với gã (dù tuổi gã đáng con, đáng cháu ông). Khi đọc bài viết trên báo tôi rất bất bình bởi văn chương phải có trên, có dưới. Có trước, có sau chứ không thể gom vào một nùi. Tác giả Hương Rừng Cà Mau có hai điều đam mê mà tôi thích và cần tập theo ông là Thú Đi Bộ (nhờ đi bộ mà ông dẻo dai) và Đọc Sách ở Thư Viện (Sách chính là nơi ghi dấu tri thức của nhân loại). Từ hai đam mê này và tính cần mẫn mà ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm gía trị (đặc biệt viết về vùng đất Nam Bộ) như:
Chuyện xưa tình cũ (1958)
Tìm hiểu đất Hậu Giang (nghiên cứu, 1959)
Hương rừng Cà Mau (1962)
Chim quyên xuống đất (1963)
Hình bóng cũ (1964)
Vạch một chân trời (1968)
Gốc cây - Cục đá & Ngôi sao (1969)
Lịch sử khẩn hoang miền Nam
Đình miếu & lễ hội dân gian miền Nam
Danh thắng Miền Nam
Theo chân người tình & một mảnh tình riêng
Từ U Minh đến Cần Thơ - Ở chiến khu 9 - 20 năm giữa lòng đô thị - Bình An
Tìm hiểu đất Hậu Giang & lịch sử đất An Giang
Xóm Bàu Láng
Mùa len trâu
Tiểu sử
Nhà văn Sơn Nam tên khai sinh là Phạm Minh Tài (sinh 11 tháng 12 năm 1926 - mất ngày 13 tháng 08 năm 2008). Ông được gọi yêu là Ông già Ba Tri vì thường hay cuốc bộ.
Ông sinh tại Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, trước khi mất sinh sống tại Sài Gòn. Ông học tại Cần Thơ, rồi tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau Hiệp định Genève 1954, ông trở lại Sài Gòn tham gia viết sách, báo. Nhà văn Sơn Nam đã viết nên nhiều tác phẩm dấu ấn, ông được nhiều người gọi yêu là “ông già Nam Bộ”, “ông già Ba Tri”, “pho từ điển sống về miền Nam” hay là “nhà Nam Bộ học.” (trích tiểu sử)
Riêng tôi tập truyện Hương Rừng Cà Mau là tập truyện đậm dấu ấn nhất. Trong đó có truyện Mùa Len Trâu đã chuyển thế thành phim: Mùa len trâu là bộ phim đầu tay của đạo diễn Việt kiều Nguyễn Võ Nghiêm Minh được khởi quay tháng 9 năm 2003.
Bộ phim có kinh phí khoảng hơn 1 triệu USD, với sự tham gia của ba hãng: Hãng phim Giải Phóng Việt Nam, 3B Productions Pháp và Novak Prod Bỉ. Bộ phim được trình chiếu ở Pháp với tên Gardien de buffles và ở Mỹ với tên Buffalo boy.
Chuyện phim dựa trên tác phẩm Mùa len trâu trong tập truyện Hương rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam, kể về cuộc sống của những người nông dânmiền Nam đầu thế kỷ 20. Mỗi khi mùa mưa về, nước tràn ngập mọi nơi, có những người làm nghề "len trâu", đưa trâu đi tìm cỏ để sống qua mùa lũ.
MÙA LEN TRÂU
Nước tràn bờ sông Hậu chảy qua. Nước trên trời tuôn xuống. Gió biển triền miên thổi lộng về. Từ Sáng đến chiều, mặt trời biến dạng sau lớp mưa: ánh nắng pha loãng đều đều không làm chóa mắt kẻ ưu tư đang ngồi hút thuốc mà ngắm mấy lượn sóng chạy dài tiếp lưng trời. Núi Ba Thê bên này, núi Cấm trước mặt, hòn Sóc, hòn Đất bên kia bình thường xem hùng vĩ, thơ mộng thì nay trở thành lè tè, bé bỏng trong cảnh bao la trời nước.
Chú Tư Đinh lại vấn điếu thuốc thứ nhì, mỉm cười khi thấy từ chân trời một cơn mưa to hơn sắp kéo đến.
– Ừ! Mưa hoài đi. Ông trời năm nay biết điệu, thuận mùa, thuận tiết…
Thiếm Tư như phản đối ý chồng:
– Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc nhà mà ở. Ba cái lu, ba cái hũ trôi lểnh nghểnh trong nhà rồi, ba nó chưa hay sao? Gạo hết, tiền hết.
– Mình đừng trách trời. Hồi nào tới giờ, trời cứ vậy hoài, hết mùa hạn thì phải tới mùa nước lụt chớ.
Chú Tư muốn giải nghĩa sự lạc quan của mình dài dòng hơn để thiếm Tư nghe. “Đàn bà giỏi tài chú ý lặt vặt chuyện bếp núc. Nhìn ra đồng thì họ chỉ thấy những chuyện trên mặt nước, hơi đâu mà cãi”. Nghĩ vậy, chú im lặng, vấn thêm điếu thuốc nữa. Giờ này, dưới đáy nước, sát mặt ruộng, mớ đất cày mềm nhũn, trở mình trắng phau. Gió thổi mạnh, trôi nhà trôi cửa nhưng lúa một tấc; thân lúa đuối sức cố nằm dài trên mặt nước vừa hấp hối ngột thở là nhánh non nứt ra trong nháy mắt để chào đón cuộc sống.
Sau hè nhà, nước dậy đùng đùng, sóng gợn từng lượn lớn, vỗ lát chát vào vách. Chú Tư bước nhè nhẹ trên sàn tay vịn mái nhà, tay che mắt rồi cau mày; thằng Nhi đứa con trai của chú đang cưỡi trâu về.
Đôi trâu bước lên nền chuồng trâu lúc trước, tuy đã đắp cao thêm gần một thước vậy mà nước leo lên lé đé.
Chú Tư chờ thằng Nhi vào nhà. Nó cổi cái áo ướt mem quăng trên sân:
– Xung quanh đây hết cỏ rồi. Làm sao bây giờ hả ba? Trâu đói nữa, con mắt nó đổ ghèn hoài.
Chú nói:
– Bên giồng cát Sóc Xoài… Mày có qua tới đó không?
– Có. Mà hết cỏ rồi. Mấy lõm cỏ sau chùa không đủ cho trâu bò ở đó ăn, đâu có dư tới mình. Trâu mình ốm nhiều. Từ Đây tới nước giựt còn trên ba tháng nữa, làm sao chịu nổi?
– Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu mình họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Má mày ngăn cản. Bây giờ tới nước này rồi…
Thiếm Tư trầm ngâm suy nghĩ, nhìn đôi trâu đã mòn sức, be sườn lòi rõ rệt từng hàng như vòng cung. Để ở nhà, trâu chết đói; giao cho thiên hạ len đi thì làm sao bảo đảm được? Trâu của trăm chủ khác nhau gom lại chung một bầy, tha hồ lấn hiếp, chém lộn bầy trâu gần bốn trăm con mà chỉ có năm sáu người chăn giữ.
Đường dài thăm thẳm, lội nước băng rừng, rủi khi bịnh hoạn thì trâu đành bỏ mạng nơi xứ lạ quê người. Thật là tấn thối lưỡng nan! Đôi trâu nhà đứng khúm núm đó, trên nền chuồng, như hai pho tượng bằng đồng đen dựng lên mặt nước. Thiếm nói:
– Ba nó tính sao thì tính. Tôi rối trí quá rồi.
Chú Tư chép miệng:
– Không nên cãi mạng trời. Muốn cãi cũng không được. Không lẽ họ giết trâu mình? Trăm con, chết chừng đôi ba con là nhiều. Muốn vững bụng hơn, mình cho thằng Nhi theo coi chừng.
Thằng Nhi há miệng ngạc nhiên không dè mùa nước năm nay nó lại được đi du lịch bất ngờ như vầy. Chú Tư hỏi:
– Muốn đi không mậy? Chặng đầu, họ mới len trâu tới chân núi Ba Thê, mình đuổi theo nhập bầy còn kịp, đây qua đó chừng nửa ngày đường. Lấy cái nóp mới của tao mà đem theo. Dọc đường muỗi mòng, mưa gió nhớ đi theo sát hai con trâu của mình, đừng ham chơi lêu lổng. Nói với tằn khao (đầu nậu, cai thầu) rằng mình chịu đóng cho y mười giạ lúa tiền công len trâu, mùa này.
Mưa cứ mưa trút xuống. Gió cứ dậy sóng lên. Từ lúc thằng Nhi dẫn trâu đi, nhà cửa lần lần trở nên vắng lạnh. Thiếm Tư cằn nhằn:
– Giao sanh mạnh hai con trâu cho họ, ba nó chưa vừa bụng sao? Lại còn bày đặt cho thằng Nhi đi theo! Rủi bề gì…
Chú Tư nói:
– Má nó khéo lo thì thôi! Trâu hễ tới số thì dẫu cầm ở nhà nó cũng không sống. Tôi buồn lắm. Trâu giúp mình tạo ra hột lúa; bù lại, mình không kiếm đủ cỏ cho nó ăn no. Như vậy là mình bất nhân. Còn thằng Nhi… dịp này để nó học nghề với người ta.
Thiếm Tư hơi giận:
– Nghề gì? Nghề chăn trâu mà cũng học nữa à? Tôi không ham cái nghề đó.
– Má nó nói giỡn sao chớ! Chăn trâu còn khó hơn diều binh khiển tướng. Đời xưa, nhiều người nhờ lúc nhỏ chăn trâu mà tới lớn được làm vua. Con nít chăn trâu ca hát nghe bậy bạ nhưng nhiều khi linh nghiệm như sấm truyền, đoán trúng những chuyện quốc sự. Tôi nhớ coi… Trong truyện Phong Thần gì đó nhắc cái tích ông Nịnh Thích ngồi trên lưng trâu, gõ sừng mà hát công kích vua đời… Liệt Quốc Đông Châu! Vua giựt mình, mời ông Nịnh Thích về làm quân sư. Nghe đâu lúc về hưu trí, ông Nịnh Thích lại cữi trâu mà du sơn ngoạn thủy. Như, tiều, canh, mục là bốn điều quan trọng mà.
Thiếm Tư vẫn chưa nguôi cơn buồn:
– Ba nó nói chuyện đời xưa. Chăn trâu theo kiểu ở xứ mình có khác, tối ngày đeo đuôi trâu mà lặn hụp dưới nước, ăn không no, ngủ không yên…
– Nhưng mà học khôn nhiều chuyện. Mà nó hồi nào tới giờ chưa từng tới núi Ba Thê, vậy mà bây giờ thằng Nhi nó rành đó! Cảnh núi non thanh lịch, tâu ăn cỏ ngẩng đầu coi mây bay lui tới; ngứa lưng thì trâu cọ mình vô cột của đền vua chùa mà gãi sốn sột. Má nó biết không? Ở núi Ba Thê, trâu len ăn cỏ trên đền vua đời xưa… Vua chùa mất hết, trâu đời đời kiếp kiếp còn đứng dửng dưng trên mặt đất này hoài!
Thiếm Tư bực bội:
– Đói, không đủ cỏ ăn mà cũng sang trọng. Thôi ông ơi! Đừng nói nữa.
– Hết cỏ thì qua chỗ khác, má nó đừng lo. Từ Ba Thê cả bầy trâu len qua miệt Bảy Núi. Oai vệ lắm kìa! Voi đi một lần đôi ba chục con là cùng, cọp đi hai ba con là nhiều; cảnh đó ở miệt rừng ai cũng thấy. Đằng này, trâu lội nước năm ba trăm con, đen đầu, đặc nước. Kiếm bạc trăm là dễ chớ muốn thấy được cảnh đó không phải dễ, giống như hồi thiên hạ sơ khai, càn khôn hỗn độn… Mấy ông thầy chùa, bà vãi ẩn mình trong cốc trên núi, chán cảnh trần tục vậy mà họ còn bước ra ngóng mắt theo bầy trâu len dữ dội…
Càng nhắc tới, chú Tư càng thích chí, thiếm Tư trái lại ngồi buốn xo, không tin nơi lời chồng, cho rằng đó là kiểu an ủi gượng của kẻ túng cùng. Chú Tư lại vấn thuốc, hỏi vợ:
– Má nó ngủ hay thức? Nãy giờ có nghe không? Sao không ừ hử gì ráo, hay là ngủ rồi…
– Tôi nằm nghe đây mà. Nghe bằng lỗ tai chớ nghe bằng miệng sao mà phải ừ hử từng chập?
Chú Tư lại nói tiếp:
– Ở Bảy Núi thanh khiết hơn ở Ba Thê. Trâu ăn toàn cỏ lạ hoa thơm; lắm thứ cỏ phảng phất mùi gì giống như vị thuốc Bắc. Ban đêm, muỗi mòng cũng ít, tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh gõ mõ thì nhiều… Mặc dầu ăn cỏ ở dưới chân núi, trâu cũng được phong làm chúa sơn lâm. Cọp beo trên núi quì xuống mà đầu hàng chớ không dám xáp lại.
Bên kia sàn nhà, thiếm Tư bắt đầu thở nhẹ rồi ngáy pho pho. Chú Tư mỉm cười, không chút hờn giận. “Vợ mình chán không thèm nghe nữa vì nãy giờ mình nói toàn những chuyện vui tươi, sung sướng, giấu giếm những nỗi cực nhọc trong nghề chăn trâu. Nhưng cần gì? Cốt ý là mình nhắc lại cuộc đời len trâu của mình hồi thuở con nhỏ cho riêng mình nghe mà thôi”. Chú lại vấn thuốc hút. Bên ngoài trời vẫn mưa, sóng nước vẫn chạy ùa tới đập vào vách nhà. Khói thuốc phun mờ mờ, bay thoảng lên cao. Chân trời lại hiện ra, lúa nằm dài xanh rờn, nhấp nhô trên ngọn sóng. Và… Đằng xa kia là Bảy Núi, nơi mà giờ này thằng Nhi và hai con trâu của chú đang tung hoành, sắp lội nước hằng mươi cây số để vượt ra mé biển đến vùng rừng tràm miệt Linh Quỳnh.
Rừng tràm xanh đậm, rọi xuống mặt nước đỏ ngầu, rung rinh. Nhứt là về đêm khi trăng chiếu, đom đóm bay về đậu khắp nhánh tràm như họp chợ phiên! Hồi thuở nhỏ, chú đến đó nhiều lần. Cảnh ấy bây giờ thay đổi vì nhà nước đã đào thêm con kinh Xáng Rạch Giá – Hà Tiên và đắp xong con lộ đá. Trâu vượt qua lộ xe hoặc ngủ tạm trên lộ cho tới sáng. Lội dưới nước lâu ngày, móng trâu trở nên mềm, đứng trên đá, trâu đau chân. Chú Tư bỗng hình dung trước mặt một cảnh tượng oai hùng, khi mặt trời vừa lố dạng, đàn trâu phải rút vào rừng tìm nơi ăn nằm. Nhà nước đắp lộ xe nào phải để cho trâu đứng, phá hoại… Trâu chạy ầm ầm. Không mấy chút, tràm gãy rôm rốp ngã liệt xuống, lõm rừng trở thành một cái đầm rộng lớn. Người len trâu tạm nghỉ ngơi vài ngày. Mấy “tay riều” đốn củi gần đó tụ họp lại làm quen, đánh bài cào, uống rượu, đốt lửa lên bàn chuyện tiếu lâm. Lắm khi họ sắp đặt công việc đi ăn cướp, ăn cướp kẻ khác và ăn cướp lẫn nhau. Mấy tay len trâu giựt tiền của tay riều; mấy tay riều xúm nhau giựt trâu của mấy tay len. Rừng lại đẫm máu… Trong cuộc xô xát dao búa đó, sanh mạng của con người như con kiến, hà huống chi đứa trẻ bé bỏng như thằng Nhi, con trai chú!
Chú Tư giựt mình, e ngại.
Trong giấc mơ, có lẽ thiếm Tư không tưởng tượng được tới cảnh chém giết rùng rợn đó. Thiếm nói lảm nhảm rồi lại trở mình, ngáy khò khò.
Tháng mười, nước giựt xuống. Đến cuối tháng, mặt ruộng lộ ra, cỏ non nhú mọc xanh tươi đến tận chân trời. Mưa dứt sớm. Núi non lại trở nên hùng vĩ. Suốt mùa, lúa nương theo nước mà vươn lên đến bốn năm thước; bây giờ lúa nằm rạp xuống đất, chồng chất cao ngùn ngụt. Cái sàn nhà của chú Tư cũng hạ xuống. Cuộc sống trở lại bình thường.
Đêm ấy, quá canh ba, có tiếng kêu vang dội:
– Ba ơi ba! Má ơi má! Trâu mình nè…
Chú Tư, thiếm Tư mừng quýnh, tốc mùng chạy ra: Thằng Nhi về đó, coi dị hợm hơn mọi ngày, máng trên vai một đống gì cao nghệu. Chú Tư xanh mặt. Nó thảy đống ấy xuống đất:
– Đ. m. chết hết một con. Đem cặp sừng bộ da của nó về nè! Nặng gần chết. Đ. m. không lẽ bỏ luôn.
Thiếm Tư mếu máo, mừng vì gặp được con, buồn vì mất hết phân nửa gia sản:
– Mô Phật. Mạnh giỏi hả con? Trời ơi! Con đi theo coi chừng mà làm sao nó chết? Dọc đường con có đau ốm gì không… Con, Con…
Chú Tư im lặng, buồn buồn. Mừng con, tiếc của là một lẽ. Nhưng còn lẽ khác đáng lo ngại hơn… Hồi nào tới giờ, thằng Nhi ăn nói đàng hoàng mà chuyến về này, trong câu nói hồi nãy, nó pha vô hai lần chửi thề mà nó không hay.
Thiếm Tư nhìn cặp sừng và bộ da trâu mà rơi nước mắt:
– Thôi! Lần này lần chót. Năm tới bán con trâu còn lại, không làm ruộng nữa. Đất nước gì kỳ cục quá, cái xứ này…
Chú Tư nghiêm mặt:
– Nói bậy nữa đi. Đất của mình, nước của mình mà bà dám nguyền rủa hả? Hồi nào cúng vái, bà nói bà phục ông bà đất nước lắm mà…
Thiếm Tư đi ra sân lo đốt lửa để un trâu. Chú Tư cũng đến vuốt ve con trâu còn lại rồi trở vô thấy thằng Nhi đang chụp gói thuốc rê trên bàn; nó mở ra, xé giấy vấn hút phì phà một cách tự nhiên, ngon lành.
– Ghiền rồi hả mậy? Chú hỏi.
– Hai ba bữa rày, hút có mấy điếu. Ở rừng, họ hút kịch liệt lắm kìa… ba.
Chú Tư đem chai rượu đế ra, rót vào chén. Chú thấy thằng Nhi hít mũi lia lịa.
– Nhậu thì nhậu một chút cho ấm đi! Cỡ này mày sanh nhiều tật lạ.
Rồi chú day ra sân mỉm cười:
– Bà nó ơi! Coi thằng con của bà nè! Nó giống hệt tôi hồi nhỏ quá chừng.
Thiếm Tư chạy vào, không hiểu rõ đầu đuôi. Thiếm lau nước mắt rồi nấu cơm cho thằng Nhi ăn, dọn mùng cho nó ngủ… Chú Tư thức mãi tới khuya, thỉnh thoảng hé mùng dòm thằng Nhi. Mùng rộng rãi nhưng nó vẫn co rút như hồi nằm trong nóp chật hẹp. Tay và bụng của nó xăm đầy những chữ nho, chữ quốc ngữ. Không cần đọc kỹ, chú đoán đó là “ngũ hồ tứ hải giai huynh đệ” hoặc “ái tình vạn tuế” mà một tay hảo hớn nào đã xăm cho nó.
– Mình không lỗ lã gì đâu! Chú Tư lẩm bẩm một mình.
Chuyến đi len trâu này, đứa con của chú mhiễm nhiều tật xấu nhưng nó khôn lớn hơn, nghe thấy được nhiều việc mà ở nhà chú không nghe thấy. Chú ra sân. Dưới ánh trăng suông, con trâu Pháo bước tung tăng, nhịp móng xuống lớp phù sa mát rượi, đứng trên mặt đất hôm nay mà sao thấy hơi khác lạ hơn mặt đất hôm nao, cũng ở chốn này. Nó hinh hỉnh lỗ mũi như cố phân biệt mùi thơm của cỏ núi hoa rừng với mùi thơm của mùi lúa sạ đang độ chín.
Sơn Nam
Giọng văn ông thủng thỉnh, thong thả như tính cách của người Nam bộ nhưng cũng thâm trầm, da diết khôn nguôi. Lúc này, qua Bình Thạnh, về 81 Trần Quốc Thảo tôi lại nhớ ông... Ông mất đã 10 năm. Nhà văn đã an nhiên rời cõi tạm để về nơi vĩnh hằng...
Trần Dzạ Lữ
TÔ LANG (TÔ KIỀU NGÂN),
TIẾNG SÁO TRÚC LÀM MÊ HOẶC LÒNG NGƯỜI
Tô Kiều Ngân tên thật là Lê Mộng Ngân, sinh năm 1926 tại Huế. Từ nhỏ ông đã sớm tỏ ra có chất nghệ sĩ, thường trốn học, đi chơi đó đây với cây sáo trúc không mấy khi rời tay.
Năm 1946 ông tham gia kháng chiến chống Pháp, phục vụ ban kịch của Vệ quốc đoàn khu IV từ Huế ra Thanh Hóa. Được một thời gian, ông xin tình nguyện chiến đấu tại mặt trận đèo Hải Vân, sau đó bị Pháp bắt năm 1948. Ba tháng sau bà được thả. Từ đó, Tô Kiều Ngân bắt đầu hoạt động văn nghệ. Tác phẩm đầu tiên của ông là kịch thơ Ngã ba đường do ban kịch Sông Ô trình diễn trên sân khấu Huế.
Năm 1950 ông gia nhập quân đội Quốc gia Việt Nam. Ba năm sau bà đưa gia đình vào miền Nam. Tại đây ông lần lượt viết cho các báo Đời Mới, Người Sống Mới, đồng thời cũng cộng tác với một vài tờ báo xuất bản tại Hà Nội như Hồ Gươm, Giác Ngộ…
Năm 1955 ông cùng Đinh Hùng, Thanh Nam, Hồ Điệp, Hoàng Oanh... thành lập ban thi văn Tao Đàn trên đài phát thanh Sài Gòn. Sau đó ông lại cùng Thanh Nam chủ trương tuần báo Thẩm mỹ, rồi cộng tác với Sáng Tạo, Văn Nghệ Tiền Phong, Tiểu Thuyết Tuần San, Văn Nghệ Chiến Sĩ... Những năm cuối đời ông vẫn viết truyện ngắn, viết sách biên khảo, cộng tác với một số tạp chí trong nước.
Tô Kiều Ngân mất ngày 20/10/2012 tại nhà riêng, quận Bình Thạnh. (trích tiểu sử)
Từ thập niên 60 dù đang mài đũng quần ở ghế nhà trường Nguyễn Tri Phương Huế tôi đã mê hai ông thi sĩ Đinh Hùng và Tô Kiều Ngân trong ban sáng lập Thi Văn Tao Đàn trên đài phát thanh SàiGòn. Một giọng Bắc. Một giọng Huế. Hồi ấy, đêm đêm tôi theo dõi chương trình này và có gửi bài cộng tác với mấy bút hiệu khác nhau. Giọng nói của thi sĩ Đinh Hùng (người Hà Đông) trầm ấm cuốn hút người nghe bao nhiêu thì giọng ngâm thơ của Tô Kiều Ngân như mật rót vào tai bấy nhiêu. Không những uống hết lời của hai ông mà tôi còn ghiền các giọng ngâm thơ khác nữa như Hoàng Thư, Quách Đàm, Hoàng Oanh... Đặc biệt Tô Kiều Ngân còn là tiếng sáo làm mê hoặc lòng người: Réo rắt. U Uẩn lạ thường như một người đã nhận định:
Tiếng sáo của những cảm xúc
Thật ra Tô Kiều Ngân hoạt động trong nhiều lãnh vực, làm báo, viết văn (tác phẩm đầu tay của anh là tập truyện ngắn “Người đi qua lô cốt”, làm thơ, ngâm thơ, bài sáo anh thổi ở Tao Đàn do chính anh sáng tác và đã xuất bản. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là tiếng sáo Tao Đàn. Bây giờ người ta nhớ đến tài năng tuyệt vời của anh vì tiếng sáo đó và giọng ngâm thơ mang âm điệu Huế hơn tất cả những thứ khác. Nếu so sánh với tiếng sáo của Nguyễn Đình Nghĩa, theo nhận xét của tôi, mỗi người có một cái hay riêng. Tiếng sáo của Tô Kiều Ngân cất lên theo cảm xúc từ bài thơ của tác giả và phong cách của người ngâm thơ nên bay bổng và dễ làm rung động lòng người hơn. Tiếng sáo của Nguyễn Đình Nghĩa hay về bài bản. Nếu anh thổi một bài như Thiên Thai, rất điêu luyện. Nhưng nhiều thính giả vẫn nhớ họ Tô hơn (Phan Anh Dũng Mê nhà thơ gốc Huế là thế. Song, suối trôi đời suối. Sông chảy đời sông...
Mãi đến thập niên 80 tôi mới được diện kiến anh ở 81 Trần Quốc Thảo khi “tha phương ngộ cố tri“ bằng những ly bia hơi và tâm sự về chuyện đời, chuyện thi ca. Anh ít nói nhưng khi nói ra lời lẽ chân tình bằng chất giọng thỏ thẻ của một người Huế chính gốc. Gặp anh tôi mới vỡ ra anh chính là ông già vợ của nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan. Anh sống và viết nhiều thể loại. Nhưng điều làm nên tên tuổi anh vẫn là giọng ngâm thơ, tiếng sáo trúc và thi ca. Hai bài thơ tôi yêu thích nhất, đó là 2 bài:
Giọng Huế
Tác giả: Tô Kiều Ngân
Ngắt một chút mây trên lăng Tự Đức
Thả vào mắt em thêm một dáng u hoài
Đôi mắt ấy vốn đã buồn thăm thẳm
Thêm mây vào e tan nát lòng ta.
Anh quỳ xuống hôn lên đôi mắt đó
Bỗng dưng sao thương nhớ Huế lạ lùng
Chắc tại em ngồi bên anh thỏ thẻ
Tiếng quê hương sao động đến vô cùng
"Hẹn chi rứa, răng chừ, em sợ lắm"
Mạ ngày xưa cũng từng nói như em
Anh mất mạ càng thương em tha thiết
Như từng thương câu hát Huế êm đềm
Cảm ơn em đã cho anh nhìn lại
Giòng sông Hương trên bến cảng Sài gòn
Nước như ngọc in bóng thuyền lấp lánh
Mái chèo khua vương nhẹ nhánh rong non
Nếu lại được em ru bằng giọng Huế
Được vỗ về như mạ hát ngày xưa
Câu mái đẩy chứa chan lời dịu ngọt
Chết cũng đành, không nuối tiếc chi mô...
Tô Kiều Ngân
NHỚ HUẾ
Anh nhìn em như nhìn thấy quê mình
Ôi xứ Huế thân yêu chừ xa khuất
Nghe em ngâm những âm thanh trong vắt
Anh hình dung thấy bóng
Một con thuyền
Một giải sương mờ
Một khóm trúc nghiêng nghiêng…
Những kỷ niệm ngày xa xưa bừng dậy
Âm thanh ấy thoát từ câu mái đẩy
Tiếng “hò… ơ...” nghe đứt ruột, buồn sao
Biết mấy đau thương, cũng biết mấy ngọt ngào
Lưu luyến ngàn đời
Như không muốn dứt
Giàn mướp vàng con ong bay hút mật
Trưa thiu thiu chày giã gạo buồn tênh
Giọng hò ru em rười rượi cất lên
Em đã ngủ sao chị còn ru mãi
“À… a… ời. .
Hai tay cầm bốn tao nôi
Tao thẳng, tao dùi, tao nhớ, tao thương”
Có phải trưa nay chị nhớ người thương
Nên mượn cớ ru em để ru lòng mình thương nhớ
Có phải ngàn năm thương thương, nhớ nhớ
Khiến tiếng đàn bầu thêm xé ruột bào gan
Tiếng Nam Ai rung tận đáy tâm hồn
Tiếng sáo Huế dài thêm thổn thức
Và tiếng em ngâm lơi lơi, dìu dặt
Chở buồn về vây phủ kín hồn anh
Bọn chúng mình bỏ Huế tha phương
Những thổ ngữ lâu ngày quên lững mất
Bỗng hôm nay em ngâm lên như nhắc
Ôi vui sao giọng Huế của quê mình
Tưởng như mình đang đừng ở Bao Vinh
Đang thơ thẩn bên bờ sông Gia Hội
Vỹ dạ, Kim Luông, Nam Giao, Đất mới…
Nghe thân yêu biết mấy tiếng quê ta
Nhớ giọng hò, điệu hát lời ca
Nhớ hường thầu đâu ngát đường Giao Thủy
Nhớ mái chèo khua bên bờ thôn Vỹ
Nhớ bánh bèo, cơm hến, nhớ chè sen
Nhớ phấn thông vàng rụng lối đi quen
Hột móc, hột muồng, trái sim, trái vả
Nhớ hồ Tịnh tâm thơm sen chiều hạ
Nhớ quít Hương Cần, nhớ cốm Hai lu
Nhớ bờ tre vọng mãi tiếng chim cu…
Ngâm nữa đi em bài thơ giọng Huế
Chúng ta sẽ đưa nhau về thăm quê mẹ
Bằng con thuyền êm ái của thanh âm
Ngâm nữa đi em, ngâm nữa đi em.
Cho vợi nhớ thương thầm…

Tô Kiều Ngân
Anh ít làm thơ. Vậy mà thơ anh cũng được các nhạc sĩ nổi tiếng chắp cánh như Hoàng Nguyên (Tiếng Chuông Linh Mụ - HN - TKN) Trầm Tử Thiêng (Những Con Đường Trắng TTT-TKN)
Trong những lần tâm sự anh Tô Kiều Ngân nói với tôi” Chỉ có những đứa con Huế đi xa mới thương yêu Huế như thế nào” Tôi rất đồng tinh với anh. Cái đau của kẻ tha hương là “rất thương Huế mà phải đành xa Huế” Tôi cũng hiểu ”Những kẻ không ra khỏi làng làm sao thấy được thế giới bên ngoài để nhìn lại?” Tuy không mỗi ngày một gặp và chả nhiều kỷ niệm với anh. Nhưng có một kỷ niệm tôi không bao giờ quên:
Số là năm 1995 tôi in tập thơ đầu tay HÁT DẠO BÊN TRỜI sau khi được báo chí nhắc đến và nhà thơ Hồ Thi Ca đã trực tiếp mời đến thu âm ở đài Tiếng Nói Nhân Dân TP Hồ Chí Minh thì anh Tô Kiều Ngân và Bảo Cường có mỹ ý là tổ chức một đêm thơ cho tôi. Không phụ lòng hai anh, tôi đã đồng ý. Địa điểm tổ chức là công viên Bạch Tùng Diệp ở quận 1 (nơi thường diễn ra ca nhạc, giới thiệu thơ. Sau nhiều lần liên hệ xin giấy phép, liên hệ tổ chức của hai anh tất bật. Đêm thơ cũng đã diễn ra. Đêm ấy bạn bè đến dự rất đông. Chỉ còn 15 phút nữa là chương trình bắt đầu thì xảy ra sự cố cúp điện. và tôi cũng như bạn bè bàng hoàng, hỏi ra mới biết hai công ty văn hóa đang đấu đá nhau. Họ đấu đá ngay lúc đêm thơ của tôi sắp diễn. Thế là tất cả tiu nghĩu ra về. Riêng tôi thì “quê độ” không còn biết nói gì hơn nữa. Dù sao, tôi cũng cảm ơn tấm lòng của hai anh Tô Kiều Ngân, Bảo Cường và bạn bè tôi. Từ đó trở đi có người gợi ý tổ chức đêm thơ cho tôi như ở nhà văn Hóa Lao Động TP và các nơi khác tôi đều lắc đầu. Đúng là một lần không chín. Chín lần không nên. Tốt nhất là lui vào bóng tối. Nếu là nghiệp dĩ thì viết và viết. Chỉ có tác phẩm, thời gian và công chúng mới là người phán xét cuối cùng...
Nhà thơ Tô Kiều Ngân mất đã 6 năm rồi. Nhưng với tôi, tiếng sáo trúc, giọng ngâm và thơ anh còn mãi nơi dương thế.
Trần Dzạ Lữ
MỆ KIM TUẤN
(GỌI MỆ VÌ LÀ HẬU DUỆ 5 ĐỜI TÙNG THIỆN VƯƠNG MIÊN THẨM)
Mỗi lần nghe ca khúc Anh Cho Em Mùa Xuân (Nguyễn Hiền - Kim Tuấn) và Những Bước Chân Âm Thầm (Y Vân và Kim Tuấn) hình ảnh mệ KT lại hiện ra trước mắt tôi mồn một. Một người mập mạp, hiền lành, ít nói. Thơ thì kiệm lời nhưng giàu hình tượng và cảm xúc. Biết nhau trên báo chí, mãi đến năm 1980 tôi mới quen anh. Lúc đó anh về ngành giáo dục quận 4. Tôi thì phụ trách thư viện Quận Tư. Thời gian này sinh hoạt văn nghệ ở quận 4 sôi nổi hẳn lên vì anh Ba Khanh (Nguyễn Khắc Vỹ, người làm tờ Tin Văn trước 75) đã mạnh dạn nhận về những văn nghệ sĩ cũ như Từ Kế Tường (phụ trách nhà Văn Hóa), Trần Áng Sơn (phụ trách văn phòng ban Văn Hóa Thông Tin Quận), Nguyễn Tôn Nhan (phụ trách Bảo Tàng) và một số người như Nguyễn Đạt, Phạm Kiều Tùng, Chu Vương Miện... Mệ Kim Tuấn thường giao lưu với anh chị em bên ban chúng tôi. Mỗi lần có chuyện gì bức xúc anh Kim Tuấn thường can ngăn và cũng dùng hai từ: Thôi Kệ! Anh cũng thường kể cho tôi nghe những chuyện ở trường dạy nghề anh phụ trách về những con người bất hạnh, thiếu may mắn trên đời này. Và anh luôn là người chia sẻ trước nhất bằng trái tim nhân văn của mình -trái tim của nhà thơ chân chính. Hai ca khúc phổ thơ tôi nói trên đã khiến tên tuổi anh bất tử. Trước khi chấm dứt trang viết này cũng cần nhắc lại tiểu sử và hai bài thơ ấy của anh.
Kim Tuấn tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Khuê, ông sinh năm 1938 tại Huế nhưng quê gốc ở Hà Tĩnh. Ông là hậu duệ 5 đời Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Là con trai duy nhất của gia đình. Thuở nhỏ sống cùng gia đình ở Phan Thiết. Lớn lên vào Sài Gòn học. Ông có tính cách hiền lành; ngoại hình mập mạp, da hơi ngăm đen, nụ cười híp mắt. Năm 20 tuổi cưới người vợ đầu là Hồ Thị Mộng Sương (em Hồ Đình Phương). Sau 1975 hai người ly dị, Mộng Sương sang Pháp, Kim Tuấn cưới người vợ thứ nhì là chị Minh Phương và có hai người con trai. [2]
Kim Tuấn làm thơ từ năm 13 tuổi. Bắt đầu có thơ đăng trên các tạp chí đầu thập niên 1960. Tập thơ đầu tiên xuất bản là tập Hoa Mười Phương. Ông từng có một thời gian nhập ngũ và làm thông dịch viên tiếng Anh cho Quân đoàn II tại Pleiku. Thời gian này ông còn là phóng viên chiến trường với ký danh Vĩnh Khuê. Sau thời gian làm việc ông thường về nhà phụ vợ bán thuốc tây tại nhà riêng - hiệu thuốc cùng tên Kim Tuấn trên đường Phan Bội Châu.
Năm 1977, ông về Thành phố Hồ Chí Minh làm hiệu trưởng Trường Anh văn và dạy nghề Thăng Long ở quận 4 - một ngôi trường do người Anh tài trợ dành cho trẻ em lang thang và dạy học ở đó cho đến cuối đời. Ngày 11/9/2003, sau khi tham dự một buổi văn nghệ phát quà Trung thu cho trẻ em nghèo tại trường, ông về nhà ăn bánh, uống trà, ngắm trăng với vợ con rồi đột ngột bị nhồi máu cơ tim và mất trên đường đưa đến bệnh viện.
THƠ KIM TUẤN
NỤ HOA VÀNG NGÀY XUÂN
Anh cho em mùa xuân
nụ hoa vàng mới nở
chiều đông nào nhung nhớ
đường lao xao lá đầy
chân bước mòn vỉa phố
mắt buồn vin ngọn cây
Anh cho em mùa xuân
mùa xuân này tất cả
lộc non vừa trẩy lá
thơ còn thương cõi đời
con chim mừng ríu rít
vui khói chiều chơi vơi
Đất mẹ gầy có lúa
đồng ta xanh mấy mùa
con trâu từ đồng cỏ
giục mõ về rộn khua
ngoài đê diều thẳng cánh
trong xóm vang chuông chùa
chiều in vào bóng núi
câu hát hò vẳng đưa
Tóc mẹ già mây bạc
trăng chờ trong liếp dừa
con sông dài mấy nhánh
cát trắng bờ quê xưa
Anh cho em mùa xuân
bàn tay thơm sữa ngọt
dải đất liền chim hót
người yêu nhau trọn đời
mái nhà ai mới lợp
trẻ đùa vui nơi nơi...
hết buồn mưa phố nhỏ
hẹn cho nhau cuộc đời
Khi hoa vàng sắp nở
trời sắp sang mùa xuân
anh cho em tất cả
tình yêu non nước này
bài thơ còn xao xuyến
nắng vàng trên ngọn cây...
(1961)
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ nhạc thành bài hát Anh cho em mùa xuân.
KIM TUẤN
KỶ NIỆM
Từng bước từng bước thầm
hoa vông rừng tuyết trắng
rặng thông già lặng câm
hai đứa nhiều hối tiếc
sương mù giăng mấy đồi
tay đan đầy kỷ niệm
mưa giữa mùa tháng năm
dật dờ cơn gió thổi
một tháng không trăng rằm
mây núi ôm trời thấp
giá rét về căm căm
cao nguyên mù đất đỏ
từng bước từng bước thầm
cúi đầu in dấu mỏi
tuổi trẻ buồn lặng câm
núi nghiêng đầu thủ thỉ
từng bước từng bước thầm
hoa vông rừng tuyết trắng
tuổi trẻ buồn lặng câm
víu hồn hoang cỏ dại
từng bước từng bước thầm...
Kim Tuấn
Pleiku 1961
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Y Vân phổ nhạc thành bài hát Những bước chân âm thầm.
Những thi phẩm đã xuất bản:
• Hoa mười phương (1959) ~ Trường Giang
• Ngàn thương (chung với Định Giang, Vương Đức Lệ, 1961)
• Dấu bụi hồng (1971) ~ Minh Đức
• Thơ Kim Tuấn 1962-1972 (1974) ~ Gìn Vàng Giữ Ngọc
• Thời của trái tim hồng (1990) ~ Nhà xuất bản Tổng hợp Sông Bé
• Tuổi phượng hồng (1991) ~ Nhà xuất bản Trẻ
• Tạ tình phương Nam (1994)
• Thơ Lý và thơ ngắn (2002) ~ Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. HCM.

Hình 1: Nhà Văn Sơn Nam
Hình 2: Nhà Thơ Tô Kiều Ngân
Hình 3: Nhà Thơ Kim Tuấn
SG tháng 4. 2020
Trần Dzạ Lữ
Theo http://www.art2all.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Dấu chấm thang – Chùm thơ của Trần Hương Giang 4 Tháng Sáu, 2023 Biết thương cuộc sống ta bà/ Đổi thay, tôi lại thiết tha yêu đời/ Dù ...